HỌC VIỆN NGOẠI GIAO

Khoa CTQT&NG

Các vấn đề toàn cầu

Vấn đề:

Cạn kiệt nguồn nước

Giáo viên hướng dẫn: ThS. Trịnh Thị Thu Huyền

- 1 -

Mục lục

TỔNG QUAN....................................................................... 3

LỜI NÓI ĐẦU ...................................................................... 3

THỰC TRẠNG NGUỒN NƯỚC HIỆN NAY ......................... 3

NGUYÊN NHÂN CẠN KIỆT NGUỒN NƯỚC ....................... 5

TÁC ĐỘNG ĐỐI VỚI QUAN HỆ QUỐC TẾ ......................... 6

TRONG NƯỚC ........................................................................... 7 QUỐC TẾ ................................................................................... 9

GIẢI PHÁP CHO CẠN KIỆT NGUỒN NƯỚC .................... 11

BIỆN PHÁP KỸ THUẬT VÀ QUẢN LÝ ..................................... 11 BIỆN PHÁP THỊ TRƯỜNG ...................................................... 12 BIỆN PHÁP HỢP TÁC, THƯƠNG LƯỢNG ............................. 13 BIỆN PHÁP PHÁP LUẬT ......................................................... 14

NHỮNG KHÓ KHĂN TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ CẠN KIỆT NGUỒN NƯỚC TOÀN CẦU ............................ 14

KẾT LUẬN ......................................................................... 15

DANH MỤC THAM KHẢO ................................................. 15

- 2 -

Tổng quan

Từ những năm 1990 trở lại đây, cạn kiệt nguồn nước đã và đang là một trong các vấn

đề toàn cầu mà toàn nhân loại đang phải quan tâm. Vấn đền này nghe qua thì có vẻ đơn

giản nhưng hậu quả mà nó gây ra lại rất nghiêm trọng, bởi nó đe dọa tới sự sinh tồn và

phát triển của mỗi người chúng ta nói riêng và cả nhân loại nói chung. Chính vì vậy, việc

khắc phục những hậu quả của nó đang là một mục tiêu mới nổi trong việc hoạch định

chính sách của các quốc gia hiện nay. Điều đó nói lên rằng các nhà hoạch định chính sách

trước đây chưa chú ý nhiều đến vấn đề này, và họ cần phải có được cái nhìn tổng quát

nhất về vấn đề cạn kiệt nguồn nước trên phạm vi toàn cầu cũng như trong nước mình. Bài

nghiên cứu này nhằm mục đích cung cấp cho nguời đọc cái nhìn tổng quát, khoa học về

vấn đề cạn kiệt nguồn nước, cùng những ví dụ về những nơi cụ thể được coi là điểm nóng

về thiếu nước hiện nay trên thế giới, để người đọc tham khảo và cùng suy nghĩ về một

vấn nạn mang tính chất toàn cầu. Do thời gian làm việc, tập trung nhóm có hạn và còn

một số mặt hạn chế của nhóm thực hiện tiểu luận này, nhóm chúng em mong cô giáo chỉ

bảo thêm và các bạn cùng góp ý.

Lời nói đầu

Tài nguyên nước (ở đây là tài nguyên nước ngọt) là một vấn đề môi trường

sinh thái, vấn đề kinh tế, và quan trọng hơn đó là vấn đề xã hội và chính trị. Sau

khi chiến tranh lạnh kết thúc, cùng với việc tài nguyên nước toàn cầu ngày càng

thiếu nghiêm trọng, vấn đề này càng được cộng đồng quốc tế quan tâm. Để có

được cái nhìn chung và khái quát cho mọi người, đồng thời góp phần làm cho bài

tiểu luận có giá trị khoa học cao, nhóm chúng tôi thấy nên trình bày vấn đề này

theo những nội dung chính sau: thực trạng, nguyên nhân, tác động tới quan hệ

quốc tế, giải pháp và khó khăn khi thực hiện.

Thực trạng nguồn nước hiện nay

Nếu không có gì thay đổi, chỉ trong vòng một thế hệ nữa, nghĩa là từ khoảng năm

2030, trên phạm vi toàn thế giới sẽ trở nên khô hạn. Vấn đề quản lí nguồn nước, nước

ngọt trong lục địa sẽ là vấn đề chính quyết định sự phát triển kinh tế và xã hội. Sự lãng

phí nước, sự ô nhiễm cũng như sự căng thẳng về nước (water stress), dù cách này hay

- 3 -

cách khác cũng sẽ tác động đến tất cả các quốc gia trên thế giới, đặc biệt là những quốc

gia nghèo.

Trong bản báo cáo của Liên hợp quốc (LHQ) vừa được công bố mang tên “tương lai

2008”, có phần dự báo về những thách thức của loài người trong tương lai. Theo đó,

ngoài giá lương thực và năng lượng tăng cao, thì cùng với vấn đề thay đổi khí hậu, khan

hiếm nguồn nước cũng là một trong những thách thức vô cùng lớn đối với nhân loại trong

tương lai.

Theo số liệu thống kê của LHQ, hiện nay khoảng 20% dân số thế giới sống tại 30

quốc gia đang phải đối mặt với tình trạng thiếu nước sinh hoạt và con số này trong năm

2025 được dự báo sẽ lên tới 30%. Ngoài ra, có gần 50% dân số thế giới hiện không có hệ

thống nhà vệ sinh đạt tiêu chuẩn, do đó, hơn 1/3 dân số thế giới đang gặp phải các vấn đề

về sức khỏe liên quan tới nước.

Trong khi đó, số liệu của Viện Nước Quốc tế ở Stockholm (Thụy Điển -SIWI) cũng

cho thấy, mỗi ngày trên thế giới có tới 5.000 trẻ em tử vong vì bị tiêu chảy do điều kiện

vệ sinh không đảm bảo, không đủ nước cho sinh hoạt. Theo thống kê của Viện này,

lượng nước sinh hoạt trung bình dành cho người dân ở khu vực châu Á hiện nay chỉ đạt

khoảng 15-30% so với trong thập niên 50 của thế kỷ XX. Có nghĩa là viễn cảnh nước

ở khu vực châu Á đến năm 2025 rất đáng báo động, lượng nước sinh hoạt trung bình sẽ

giảm đến 70% so với năm 1950 và "nước sẽ là một trong những thách thức đau đầu nhất

đối với khu vực này".

Tại Trung Quốc, 200 sông suối và nhiều ao hồ ở khu vực quanh Thủ đô Bắc Kinh

đang dần cạn kiệt nước. Hơn 2/3 lượng nước thành phố đang sử dụng phải hút từ các

giếng sâu tới hơn 1.000m trở lên. Như vậy, Bắc Kinh có thể hết nước ngầm trong vòng 5-

10 năm tới.

Việt Nam hiện cũng thuộc số các quốc gia thiếu nước, với mức bình quân chỉ đạt

4.400 m3/người/năm (bao gồm cả nước mặt và nước ngầm), thấp hơn rất nhiều so với

mức bình quân của thế giới là 7.400 m3/người/năm.

Một số vùng như các sa mạc ở châu Phi, vùng Trung Đông, Ai Cập... cũng thiếu

nước trầm trọng, thậm chí đã diễn ra các cuộc xung đột về nước. Một nửa diện tích đất

canh tác của Ai Cập có nguy cơ bị chua mặn vì thiếu nước, bởi lẽ: mực nước của sông

- 4 -

Nile - "thần nước" của nền văn minh Ai Cập ngày nay đã tụt xuống 90 cm so với trước

đây.

Tại Châu Âu, cũng có tới 20 triệu người dân không được tiếp cận với các điều kiện

vệ sinh an toàn vì tình trạng thiếu nước. Hiện nay, Đức là quốc gia có giá nước sinh hoạt

đắt nhất thế giới, cao gấp 4 lần so với giá nước sinh hoạt tại Mỹ.

Ngay cả người dân ở Nam California (Mỹ), lần đầu tiên sau nhiều năm trong lịch sử

cũng phải đối mặt với chuyện tiết kiệm nước tối đa.

Bên cạnh đó, một vấn đề đạo lý cũng được đặt ra: đó là tình trạng bất bình đẳng giàu

nghèo trước nguồn nước. Hiện nay, một người sinh sống ở Bắc Mỹ bình quân sử dụng

400 lít nước mỗi ngày, một người ở châu Âu cũng dùng đến 200 lít/ngày.

Ngược lại, tại các nước nghèo đang phát triển, lượng nước bình quân sử dụng theo

đầu người chỉ vẻn vẹn khoảng 10 lít mỗi ngày.

Có thể thấy rằng nhân loại chúng ta sắp phải trải qua cuộc khủng hoảng trầm trọng

về nước. Nó ảnh hưởng tới lợi ích sống còn của nhiều dân tộc nhiều quốc gia, đặc biệt là

những nước nghèo thuộc thế giới thứ ba. Vì vậy mà chúng ta cần phải tìm hiểu nguyên

nhân gây ra tình trạng trên mà qua đó ta sẽ có thể tìm ra được giải pháp phù hợp ngăn

chặn thảm họa đó.

Nguyên nhân cạn kiệt nguồn nước

Nước là nguồn tài nguyên thiên nhiên quý hiếm và quan trọng nhất đang bị cạn kiệt.

Nguy cơ thiếu nước, đặc biệt là nước ngọt và sạch là một hiểm hoạ lớn cho sự sống còn

của loài người, cũng như toàn bộ trái đất. Có rất nhiều nguyên nhân gây ra vấn đề trên,

tuy nhiên, theo báo cáo của Liên Hợp Quốc có một số nguyên nhân chủ yếu sau:

Sự tăng trưởng dân số và kinh tế ở châu Á cũng như ở nhiều quốc gia đang phát

triển khác là một nhân tố quan trọng dẫn đến tình trạng khan hiếm nguồn nước. Theo ước

tính của LHQ, dân số thế giới năm 2050 sẽ đạt tới 9 tỷ người, như vậy nhu cầu sử dụng

nước sẽ tăng lên và việc tiếp cận với nguồn nước sạch ngày càng khó hơn.

Thêm vào đó là tốc độ đô thị hóa quá nhanh, tốc độ phát triển kinh tế cao và sự thay

đổi trong cách ăn uống của người dân bị đô thị hóa cũng là nguyên nhân gây ra cạn kiệt

nguồn nước. Phần lớn chất thải công nghiệp và sinh hoạt được thải ra các dòng nước,

cùng với việc sử dụng quá nhiều phân khoáng và thuốc trừ sâu của nông dân khiến cho

các tầng nước ngầm bị ô nhiễm, gây ra tình trạng khan hiếm nguồn nước.

- 5 -

Mặt khác, nhu cầu nước dùng cho nông nghiệp tăng cao, càng làm cạn kiệt nguồn

nước. Theo SIWI, hoạt động nông nghiệp của thế giới hiện sử dụng 70% lượng nước khai

thác, trong khi đó 60% lượng nước này bị sử dụng không hiệu quả. Trong khi đó tình

trạng và nhu cầu tưới tiêu của nông nghiệp lại không ngừng tăng lên cùng với sự phát

triển dân số. Ngay cả những nước có khí hậu ôn hòa như Pháp thì lượng nước dành cho

nông nghiệp cũng chiếm tới 30% tổng lượng nhu cầu. Tiêu thụ ở những thành phố lớn

cũng không ngừng tăng lên. Ở đó có một kẻ tiêu thụ mới nhưng cũng không kém phần

tham lam: du lịch. Tính trung bình, một khách du lịch trong một khách sạn hạng sang tiêu

thụ từ 500 đến 800l nước/ngày, gấp nhiều lần mức tiêu thụ của cư dân bản địa. Kèm theo

là các dịch vụ giải trí và vệ sinh. Một sân golf hằng năm tiêu thụ khoảng 10.000m3 nước

cho một ha, tương đương với một diện tích trồng trọt trong nông nghiệp. Thêm vào đó

thủy điện và công nghiệp cũng là những kẻ tiêu thụ nước với số lượng lớn. Cùng với đó

là những tác động xấu đến sinh thái và văn hóa – xã hội ở các khu vực nhà máy.

Rác thải gây ô nhiễm, khí hậu biến đổi và ô nhiễm môi trường từ nhiều nguồn khác

cũng khiến nguồn nước sạch khan hiếm dần. Có những dự báo cho rằng, khí hậu toàn cầu

ấm dần lên nên lưu lượng nước nhiều con sông ở châu Á và châu Phi có thể giảm từ 15-

50%. Hơn nữa, nước băng tan không bổ sung cho nguồn nước ngọt, mà thường chảy ra

biển thành nước mặn.

Tình hình trên càng trở nên trầm trọng hơn bởi việc quản lí tài nguyên nước đòi hỏi

phải có những cơ quan quản lí chuyên trách, có tính cách liên vùng và liên quốc gia. Vậy

mà hiện nay, đó lại chính là khâu còn thiếu. Hơn thế nữa, một chính sách tiết kiệm nước

bằng giá cả thông qua việc quy định một mức giá bao hàm tất cả mọi thứ chi phí về sử

dụng nước vẫn còn chưa được phổ biến. Càng ngày, người ta càng nhận thấy rằng không

thể có một giải pháp thực sự cho vấn đề nước nếu không có sự tham gia tài chính trực

tiếp của các đối tượng sử dụng.

Tác động đối với quan hệ quốc tế

Nước là một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến sự xung đột về lợi ich

giữa các quốc gia. Tại diễn đàn Thế giới lần thứ ba về nước họp ở Kyoto, Nhật Bản,

tháng 3-2003, các đại biểu đã cảnh báo nguy cơ nước sẽ trở thành nguyên nhân của

những xung đột sắt tới, khi mà tình trạng thiếu nước ngọt và sạch vẫn tiếp tục gia tăng.

- 6 -

Ông Uyliam Côxgô, Phó Chủ tịch Hội đồng Nước Thế giới đã nhận định rằng, tác động

của cuộc khủng hoảng về nước tới cuộc sống nhân loại trong thế kỷ XXI sẽ to lớn hơn

nhiều so với cuộc khủng hoảng hiện nay ở Trung Đông, hoặc so với bất kỳ vấn đề thời

cuộc chính trị nào khác. Liên hợp quốc cũng đã thừa nhận rằng, hiện nay trên thế giới đã

và đang xảy ra xung đột dữ dội về nước trong gần 300 khu vực.

Cạn kiệt nguồn nước không chỉ đe dọa sự sống của con người và các sinh vật, mà

còn đe dọa cả sự tồn tại và phát triển của xã hội nói riêng và của Trái Đất nói chung. Sự

suy giảm mạnh mẽ về số lượng cũng như chất lượng của nước trên toàn thế giới hiện nay

là một thực tế nguy hiểm. Nó đang đưa nhân loại đến một cuộc khủng hoảng trầm trọng

về nước. Cuộc khủng hoảng về nước mang tính toàn cầu, bởi vì, nó đang đụng chạm đến

lợi ích sống còn của nhiều dân tộc, nhiều quốc gia, đặc biệt là các nước nghèo thuộc thế

giới thứ ba. Trong những thập niên sắp tới, cuộc khủng hoảng về nước chắc chắn sẽ khốc

liệt hơn, nan giải hơn so với cuộc khủng hoảng về dầu lửa, vì rằng, dầu lửa còn có thể

thay thế được và nhu cầu về dầu lửa còn có giới hạn nhất định. Ngược lại, nước thì không

thể thay thế được. Vấn nạn này có tác động ở nhiều cấp độ: trong nước và quốc tế.

Trong nước

Trước hết, chúng ta hãy xem tác động của vấn nạn này ở cấp độ trong mỗi quốc gia,

để thấy được cạn kiệt nguồn nước có vai trò gì trong việc hoạch định chính sách đối

ngoại của các nước, từ đó mới có thể rút ra tác động của vấn đề này tới sự tương tác giữa

chính sách đối ngoại của các nước đó, hay nói cách khác là nó tác động gì tới quan hệ

quốc tế. Vấn đề do nước gây nên trong nước liên quan đến xã hội, kinh tế, sức khỏe, môi

trường sinh thái trong nước.

Thứ nhất, ảnh hưởng của tài nguyên nước đối với sinh tồn và khả năng phát triển liên

tục của một quốc gia. Đặc biệt với những nước thiếu nước nghiêm trọng hoặc tiềm ẩn

nguy cơ thiếu nước nghiêm trọng thì đó là vấn đề chiến lược hàng đầu. Điều này biểu

hiện nổi bật ở các nước Trung Đông bị thiếu nước nghiêm trọng. Đối với những nước này,

nước là tài nguyên chiến lược của quốc gia có quan hệ mật thiết đến an ninh quốc gia.

Tài nguyên nước có ảnh hưởng mật thiết nhất đến vấn đề lương thực. Nông nghiệp là

ngành dùng nhiều nước nhất, chiếm 70-80% lượng nước dùng trở lên, còn ở nơi nhiệt đới

khô cằn chiếm trên 90%. Dân số tăng thì cần dùng nhiều lương thực, cũng có nghĩa là cần

dùng nhiều nước hơn để sản xuất đủ lương thực. Theo LHQ, đến 2025, thế giới có

- 7 -

khoảng 8,3 tỷ người, các quốc gia có số người tăng thêm (chủ yếu ở các quốc gia đang

phát triển mà lại đang bị hạn hán hoặc nửa hạn hán) phải đứng trước lựa chọn khó khăn là

dùng nguồn nước hiếm hoi đắt giá để sản xuất lương thực hay dùng nước để sản xuất

hàng hóa khác và sau đó nhập khẩu lương thực. Cho dù là thế nào thì giá lương thực cũng

sẽ tăng theo. Các nước Trung Đông đều đứng trước tình trạng khó khăn này, và đây cũng

là nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến an ninh quốc gia.

Thứ hai, ảnh hưởng của nước với an toàn sức khỏe nhân dân. Trong thời bình, sự ô

nhiễm môi trường thu hút được nhiều sự chú ý. Trước đây các nước coi thường việc bảo

vệ tài nguyên nước nên đã phải chịu nhiều hậu quả do ô nhiễm nước gây ra. Dù hiện nay,

các nước vẫn đang nỗ lực để xử lý ô nhiễm nước, nhưng xét từ góc độ toàn cầu, vấn đề ô

nhiễm nước và uống nước sạch vẫn rất nghiêm trọng, đặc biệt là ở các nước đang phát

triển. Giữa thập kỷ 90 thế kỷ XX, ở Pêru xảy ra một trận dịch tả, loại bệnh do nước

truyền đi này đã lây lan khắp Mỹ Latinh, làm cho hàng trăm người tử vong. Do uống nước không an toàn, không hợp vệ sinh nên mỗi năm có hơn 5 triệu người tử vong.1

Thứ ba, vấn đề môi trường sinh thái do nước gây ra. Nước có quan hệ mật thiết với

môi trường sinh thái như đất, đại dương, rừng và các loại động vật hoang dã…Một số

nước Arập do khai thác nước ngầm quá nhiều làm mức nước ngầm giảm đi và nước biển

thay thế vào. Đất bị thoái hóa, sa mạc hóa, các đầm lầy, ao hồ, dần bị thu nhỏ lại và biến

mất, các động thực vật hoang dã bị tuyệt chủng. Khai thác mạch nước ngầm làm cho mức

nước ngầm bị tụt xuống thấp, mặt đất sụt xuống, Mêhicô, Mỹ, Nhật Bản, Trung

Quốc…đều tồn tại tình trạng này, có thành phố thấp xuống từ 1-10m….Tình hình trên

cho thấy an ninh sinh thái đang bị đe dọa, ngược lại sự phá hoại môi trường lại đe dọa an

toàn sức khỏe và sự phát triển của con người.

Thứ tư, mâu thuẫn trong mỗi quốc gia do nước gây nên. Nước là thứ cơ bản nhất của

cuộc sống, nếu thiếu nước, các quan hệ xã hội sẽ trở nên căng thẳng, các hiện tượng tranh

giành nước vì sự sinh tồn và phát triển nổ ra ngày càng nhiều. Sự tranh chấp có thể xảy ra

giữa các dân cư của thành phố, giữa những người dân nông thôn, giữa công chúng với

chính phủ, giữa trung ương với địa phương, giữa các khu vực trong nước, cũng có thể

xảy ra giữa nước dùng cho công nghiệp, nông nghiệp, năng lượng, vui chơi và sinh hoạt.

Các bang của Ấn Độ xảy ra mâu thuẫn do tranh giành nước, ở Trung Quốc cũng xảy ra

1 Liên Hợp Quốc: “Đánh giá tòan diện tài nguyên nước ngọt thế giới”, 1997.

- 8 -

xung đột ở thượng, trung, hạ lưu sông Hoàng Hà, các cuộc tranh chấp về vấn đề phân

phối nước giữa người Do Thái và người A rập ở Trung Đông…đều phản ánh sự ảnh

hưởng của nước đối với ổn định chính trị và an ninh xã hội trong nước.

Do nước tồn tại tính xuyên biên giới nên nó cũng có tính quốc tế và tính toàn cầu,

vấn đề an ninh nguồn nước trong mỗi quốc gia tất nhiên sẽ mở rộng đến quan hệ quốc tế

và lĩnh vực an ninh trên phạm vi quốc tế.

Quốc tế

Từ lúc đầu mới ảnh hưởng đến chính sách đối ngoại, và khi mà các nước luôn có

những mục tiêu trong chính sách về nguồn nước khác nhau thì vấn đề cạn kiệt nguồn

nước sẽ làm cho những chính sách đó va chạm với nhau quyết liệt, tạo nên những mâu

thuẫn, tranh chấp, xung đột…giữa các quốc gia trong quan hệ quốc tế.

Thứ nhất, tranh chấp tài nguyên nước do lịch sử để lại. Mặc dù các nhà nước đã đạt

được một số thỏa thuận, nhưng cùng với sự biến đổi của địa lý, bản đồ chính trị, và sự

phát triển thời cuộc bên trong nước nên một số hiệp định mà một số hiệp định lại trở

thành nguyên nhân lịch sử gây nên tranh chấp. Sự phân chia biên giới không tính đến sự

phân phối và quản lý nước đã gieo mầm mống cho tranh chấp. Tình trạng này rất rõ nét ở

khu vực châu Phi và Trung Đông. Ví dụ như biên giới giữa Xyri và Israel cho đến nay

vẫn chưa xác định được, điều này chủ yếu là do giới hạn vạch ra trong thời kỳ Anh, Pháp

thống trị liên quan đến sự phân phối tài nguyên nước, nhưng cả hai đều không vừa ý với

những phương án phân chia này.

Thứ hai, mâu thuẫn tranh chấp tài nguyên nước của các quốc gia thiếu nước. Ví dụ

như xung đột giữa Israel và Aicập hay ở toàn bộ khu vực Trung Đông. Thập kỷ 50-60 thế

kỷ XX, Israel đơn phương xây dựng “công trình dẫn nước” để lấy nước sông Gioocđan.

Để chống lại việc này, các quốc gia Arập xây dựng công trình chuyển đổi dòng nước, hai

bên không bên nào chịu nhường nhịn, nhiều lần gây xung đột, cuối cùng trở thành chiến

tranh Trung Đông lần ba. Mâu thuẫn giữa ba nước Xyri, Irắc và Thổ Nhĩ Kỳ xung quanh

tài nguyên nước lưu vực sông Euphrate và Tigre cũng rất sâu sắc. Có người ví rằng vấn

đề tài nguyên nước của khu vực là “quả bom hẹn giờ”. Có người dự báo, những cuộc

chiến tranh trong thế kỷ sau sẽ không phải vì tranh giành dầu mỏ mà là vì tranh giành tài

nguyên nước. Tổng thứ ký Liên hợp quốc, ông B. Gali ngay từ 1982 đã cho rằng:

“nguyên nhân chính đe dọa hòa bình Trung Đông là thiếu hụt tài nguyên nước”.

- 9 -

Thứ ba, lấy nước làm thủ đoạn đe dọa hay công cụ chiến tranh. Các mục tiêu quân sự

thường hay nhắm vào đập nước, các công trình thủy lợi, nhất là ở các nước thiếu nước

hay ở những khu vực cần nước... Trong chiến tranh vùng Vịnh, các đập nước, xưởng sản

xuất nước ngọt từ biển, hệ thống thủy lợi…của Irắc và Côoét đều trở thành mục tiêu quân

sự. Từ xưa đến nay, có nhiều ví dụ về dùng nước làm công cụ chiến tranh, như lấy nước

dìm chết quân địch, phá hủy hệ thống cấp nước của đối phương, làm ô nhiễm nguồn nước.

Tuy loại hình này không phải thường xuyên và cũng không thật nhiều, nhưng do vẫn tồn

tại nên một số quốc gia rất nhạy cảm khi đề cập vấn đề tài nguyên nước và quyền khai

thác nước.

Thứ tư, xung đột do khai thác, quản lý và phân phối nước gây ra. Đó là trường hợp

một số quốc gia có chung nguồn nước, nếu một nước xây dựng công trình thủy lợi hoặc

thực thi kế hoạch phát triển công-nông nghiệp, thường có ảnh hưởng lớn tới tài nguyên

nước hoặc các mặt khác của nước khác trong vùng, từ đó dẫn đến các xung đột. Ví dụ,

Israel làm mưa nhân tạo ở trong nước khiến cho Gióocđani phàn nàn, vì Gióocđani cho

rằng nếu Israel không làm mưa nhân tạo, thì nước mưa tự nhiên sẽ rơi xuống Gióocđani

chứ không rơi xuống Israel. Mỹ xây dựng công trình thủy lợi trên sông Colorado làm ảnh

hưởng đến chất lượng của nước chảy vào Mêhicô, gây ra những tranh cãi của hai nước về

vấn đề này, cuối cùng phải thông qua đàm phán ngoại giao mới giải quyết được.

Thứ năm, khủng hoảng tài nguyên nước dẫn đến vấn đề di dân. Một lượng lớn người

dân di cứ vượt qua biên giới các nước, nếu họ không được các quốc gia có liên quan sắp

xếp thỏa đáng thì có thể gây nên xung đột quốc tế. Công trình đập nước Axoan của Aicập

không những làm cho hơn 100.000 người dân nước này phải di cư mà còn làm rất nhiều

người dân của Xuđăng phải di cư. Nếu quản lý không tốt, dân di cư và dân bản địa sẽ

phát sinh mâu thuẫn về lợi ích.

Thứ sáu, những tranh chấp quốc tế do ô nhiễm nước gây nên. Nước ở các dòng sông

luôn lưu động, vì vậy ô nhiễm từ nơi này sẽ theo dòng nước chảy đến nơi khác, gây nên

những tranh chấp quốc tế. Năm 1986, một nhà máy hóa chất Thụy Sĩ bốc cháy làm ô

nhiễm sông Ranh khiến cá chết hàng loạt, nước không thể dùng được, vì vậy các quốc gia

ở hạ lưu liên tiếp đưa ra yêu cầu bồi thường. Những tranh chấp này thường không dẫn

đến xung đột quốc tế nghiêm trọng nhưng nếu cộng thêm ảnh hưởng của nhân tố khác thì

có thể trở nên nghiêm trọng.

- 10 -

Trên thực tế, có rất nhiều mặt mà vấn đề cạn kiệt nguồn nước có thể ảnh hưởng tới

quan hệ quốc tế, nhưng các tác động trên đây là nổi cộm nhất, đã và đang tác động mạnh

mẽ tới QHQT. Những giải pháp hiện đang được biết đến được đề cập dưới đây, tuy chưa

phải là tối ưu nhất nhưng cũng đã phần nào giải tỏa bớt sức nóng và tình trạng cấp bách

của vấn đề.

Giải pháp cho cạn kiệt nguồn nước

Biện pháp kĩ thuật và quản lý:

Để phần nào giải quyết nhu cầu cấp bách về nước ngọt, các nhà khoa học đang

nghiên cứu khả năng vận chuyển các khối tuyết từ Nam Cực về bán đảo Arập. Hiện

Canađa được xem là quốc gia đi đầu trong việc đối phó với tình trạng khan hiếm nước

khi sử dụng các tảng băng ở Greenland để chế biến thành nước uống.

Khử mặn nước biển cũng được các nhà khoa học đầu tư nghiên cứu. Các nghiên cứu

cho biết trong tổng số nước hiện hữu trên hành tinh, nước ngọt chiếm chưa đầy 2,5%,

trong đó có đến 69% là sông băng, 30% là nước ngầm, còn nước sông, hồ chỉ chiếm

0,3%. Các vùng Trung Đông, Bắc Phi và một số nước châu Âu có lượng nước ngọt chưa

đầy 2.000 m3/người/năm và đang bị cạn kiệt.

Để có thêm nguồn nước ngọt, người ta đã nghĩ tới phương án khử mặn nước biển,

nhưng công nghệ này rất tốn kém. Có tới 39% dân số thế giới, gần 2,4 tỷ người sống cách

biển chưa đầy 100km. Có 42 trong số 70 thành phố có hơn 1 triệu dân không thể tiếp cận

được với nguồn nước ngọt đều là các thành phố ven biển, do đó việc khử mặn nước biển

để có nguồn nước sử dụng là giải pháp cần thiết.

Cơ quan thăm dò nguồn nước quốc tế mới đây cho biết, khả năng lọc nước biển của

thế giới có thể tăng từ 52 triệu m3/ngày năm 2008 lên 107 triệu m3/ngày vào năm 2016.

Cũng trong thời gian này, công suất tái chế nguồn nước đã qua sử dụng có thể tăng gấp 3

lần, từ 20 triệu m3/ngày lên 60 triệu m3/ngày. Tổng chi tiêu dự kiến cho phương pháp

"ngọt hóa nước biển" trong giai đoạn trên là 64 tỉ USD, so với 25,6 tỉ USD của các dự án

tái chế nguồn nước đã qua sử dụng. Ước tính, thị trường khử mặn nước biển cần 80 tỷ

Euro từ nay đến năm 2015, trong đó có 42 tỷ Euro dành cho việc phát triển các cơ sở mới

nhằm tăng gấp 2 lần công suất hiện nay. Nhiều nước vùng Vịnh sẽ đầu tư thêm 12,5 tỷ

Euro để tăng 90% công suất nước khử mặn. Dự báo, đến năm 2015 khu vực này sẽ sản

- 11 -

xuất mỗi ngày 29 triệu m3 nước so với 15 triệu m3 hiện nay. Các nước Tây Ban Nha,

Libi, Angeri có nhu cầu lớn về nước khử mặn...

Nga là quốc gia đang sở hữu 20% dự trữ nước ngọt toàn cầu cũng đề xuất các

phương pháp lọc nước mới và nhấn mạnh Nga có thể nghiên cứu khả năng xuất khẩu

nước ngọt qua các đường ống dẫn nước đặc biệt để tham gia vào quá trình cung cấp nước

toàn cầu.

Ngoài ra, các biện pháp như cải thiện các phương thức sử dụng nước, đặc biệt là tưới

tiêu; đổi mới và xây dựng mới các cơ cấu sản xuất và phân phối nước sạch; bảo vệ và

chống ô nhiễm các nguồn nước cũng được đề cập tới để đảm bảo có thể khắc phục được

phần nào tình trạng khan hiếm nguồn nước đang diễn ra.

Biện pháp thị trường

Nước là nguồn tài nguyên phân bố không đồng đều, một số quốc gia và khu vực có

nguồn nước phong phú và khu vực khác lại thiếu nước nghiêm trọng. Điều này đã dẫn

đến việc mua bán nước. Cũng giống như các tài nguyên khác như dầu lửa, việc lấy nước

làm mặt hàng để bán đã bắt đầu ở một số quốc gia và khu vực, đặc biệt là ở khu vực

Trung Đông thiếu nước nghiêm trọng.

Việc giao dịch về nước có thể diễn ra giữa các khu vực trong một quốc gia, cũng có

thể diễn ra giữa các quốc gia. Như Mỹ là quốc gia có nguồn nước dồi dào nhưng giữa các

bang ở miền Tây lại thiếu nước. Hay như Các Tiểu Vương Quốc Arập thống nhất từ năm

1984 đã bắt đầu mỗi năm nhập khẩu 20 triệu tấn nước đóng gói để giải quyết vấn đề dùng

nước trong nông nghiệp ở những khu vực hạn hán, họ cho rằng làm cách này tốt hơn so

với việc làm ngọt hóa nước biển. Goocđani đã ký hiệp định thương mại về nước với Iraq,

theo hiệp định này mỗi năm Goocđani phải thông qua đường dẫn nước để mua 160 triệu

mét khối nước sông Euphrate của Iraq. Ixraen cũng ký hiệp định tương tự, mỗi năm nhập

khẩu từ Thổ Nhĩ Kỳ 350 triệu mét khối nước ngọt. Ixraen còn có ý định mua nước của

các quốc gia châu Âu như Bungari, Italia, Rumani…Các quốc gia thiếu nước mua nước

của các quốc gia nhiều nước, đây là một trong những biện pháp để giải quyết vấn đề thiếu

nước.

Tuy nhiên, việc mua bán nước này phụ thuộc rất nhiều vào nhân tố chính trị cũng

như tình hình quan hệ quốc tế. Nó đặc biệt ảnh hưởng đến những quốc gia mà họ nhập

khẩu để tiêu dùng. Vì thế các quốc gia mua nước buộc phải tính đến các nhân tố như biến

- 12 -

đổi tình hình trong nước xuất khẩu nước hoặc những nguyên nhân khác mà cắt cung cấp

nước, ống dẫn nước, phương tiện vận chuyển nước có thể được coi là mục tiêu phá hoại

của chiến tranh,…Các quốc gia nhập khẩu nước cũng buộc phải tính đến các biện pháp

vận chuyển nước một cách khả thi nhất để đảm bảo được an ninh về nguồn nước cho

mình.

Biện pháp hợp tác, thương lượng

Trước tình trạng trên nguồn nước ngày càng khan hiếm, chủ đề của Ngày nước thế

giới năm 2003 được xác định là “Nước cho tương lai”. Đó cũng là lời kêu gọi giữ gìn,

nâng cao chất lượng nước và số lượng nước sạch hiện có cho thế hệ tương lai. Trong

thông điệp của ông Klaus Toepfer, Giám đốc điều hành chương trình môi trường Liên

Hợp Quốc, nhân ngày nước thế giới 2003: “Điều này là hết sức cần thiết vì nếu chúng ta

không đạt được mục tiêu phát triển thiên niên kỷ về nước vào năm 2015, hàng triệu người

sẽ sống mà không có nước uống an toàn và không được đảm bảo vệ sinh tối thiểu”.

Theo Viện Tài Nguyên Thế Giới (WRI), những biện pháp quan trọng hiện nay là cải

thiện việc sử dụng nước, đặc biệt là nước tưới tiêu, đổi mới các cơ cấu sản xuất và phân

phối nước sạch, bảo vệ và chống ô nhiễm nguồn nước. Để thực hiện các biện pháp này,

trong 25 năm tới thế giới sẽ phải đầu tư mỗi năm 180 tỷ USD so với mức đầu tư hiện nay

75 tỷ USD. Xây dựng các chương trình hoạt động mang tính hợp tác quốc tế, các biện

pháp thể chế cần thiết để thực hiện các chiến lược phát triển bền vững về các nguồn nước

quốc tế và các lưu vực dòng chảy của các nguồn nước này . Các dự án này cũng mang lại

các lợi ích toàn cầu cho các quốc gia. Với tiêu điểm rộng hơn này, và với những cân nhắc

về đa dạng sinh học thường được đưa vào các dự án này, các can thiệp chủ động hơn

nhằm bảo vệ các nguồn nước quốc tế có nguồn đa dạng sinh học quan trọng phổ biến.

Ngoài ra, các dự án giải quyết các mối liên kết giữa các vùng ven biển, các đại dương, sự

biến đổi khí hậu, và các nguồn nước quốc tế cũng có thể mang lại lợi ích trong nhiều lĩnh

vực trọng tâm. Phòng ngừa các thiệt hại đe doạ các mặt nước được nhấn mạnh trong

Chương trình hoạt động này trong khi việc khắc phục các hệ thống thiệt hại thường được nhấn mạnh hơn trong Chương trình hoạt động Các nguồn nước.2

2 Nguồn: The World Vision, 3/2006

- 13 -

Biện pháp pháp luật

Cần có các giải pháp quản lý, khai thác và bảo vệ tốt tài nguyên nước. Trước hết, cần

phải củng cố, bổ sung mạng lưới điều tra quan trắc tài nguyên nước, bao gồm cả nước

mặt và nước dưới đất, cả lượng và chất, hình thành mạng lưới quan trắc điều tra tài

nguyên nước thống nhất trong phạm vi cả nước, tiến hành kiểm kê đánh giá tài nguyên

nước trong các lưu vực sông, các vùng và toàn lãnh thổ. Trên cơ sở kiểm kê đánh giá tài

nguyên nước và cân bằng kinh tế nước mà xây dựng chiến lược, chính sách phát triển bền

vững tài nguyên nước quốc gia nói chung và cho các lưu vực nói riêng. Cần thực hiện

nghiêm chỉnh Luật tài nguyên nước và đẩy mạnh hoạt động của Hội đồng tài nguyên

nước Quốc gia và Ban Quản lý lưu vực các sông.

Xây dựng các biện pháp chế tài đối với hành vi làm ô nhiễm nguồn nước, khai thác

và sử dụng nguồn nước bất hợp lý trong mỗi quốc gia.

Những khó khăn trong việc giải quyết vấn đề cạn kiệt nguồn nước toàn cầu

Nhận thức của con người về vấn đề này còn ở mức hạn chế, thậm chí còn chưa thấy

hết được tầm nghiêm trọng của vấn đề. Một trong những thái độ của con người là chỉ khi

nhìn thấy sự việc mới hành động, ta gọi là khi nước đến chân mới nhảy. Bà Elizabeth

Dowdeswell, nguyên phụ tá ông Tổng thư ký Liên hiệp quốc cũng đã lên tiếng cảnh giác

rằng: “Chúng ta chỉ đánh giá sự việc khi thấy nguồn nước giếng đã cạn, không những chỉ

ở những vùng đất khô hạn mà ở cả những vùng đất không liên hệ chi tới những vùng hạn

hán”. Con người thường không thấy những hành động của mình đang vô tình hủy hoại

nguồn nước và môi trường để ngăn chặn hoặc có ý thức bảo vệ, mà thường chú trọng giải

quyết hậu quả của những hành động ấy. Do đó, đây là một vấn đề khá nan giải, vì nó đòi

hỏi sự cải tạo, sự thay đổi lối suy nghĩ truyền thống của con người.

Tình hình rất đáng lo ngại nhưng cho đến nay, hiểm họa thiếu nước và tác hại khủng

khiếp của việc thiếu nước sạch ít được đề cập trong các hội nghị quốc tế, kể cả các hội

nghị bàn về vấn đề phát triển. Trong bối cảnh năm nay được Liên hợp quốc chọn làm

Năm quốc tế về nước, Hội nghị quốc tế về chủ đề này tại Stockolm đã quyết định đặt

trọng tâm trên các hồ sơ cơ bản này, với mục đích gióng lên tiếng chuông báo động.

LHQ vừa công bố báo cáo mang tên "Tương lai 2008" ("State of Future 2008"), dự

báo về những thách thức đối với loài người trong tương lai. Ngoài giá lương thực và năng

- 14 -

lượng tăng cao, cùng với vấn đề thay đổi khí hậu, khan hiếm nước ngọt cũng là một trong

những thách thức lớn nhất đối với nhân loại trong những năm tới.

Kết luận

Như vậy là bài tiểu luận đã mang đến cho chúng ta cái nhìn khá toàn diện về vấn đề

cạn kiệt nguồn nước, giúp các nhà hoạch định, đặc biệt về chính sách đối ngoại và nghiên

cứu quan hệ quốc tế trong việc tham khảo, sử dụng tài liệu về vấn đề này được thuận tiện

hơn. Hơn nữa, việc giúp nâng cao nhận thức của mọi người một cách toàn diện về vấn đề

nguồn nước, sẽ là biện pháp hữu hiệu để giải quyết vấn đề này trên thực tế.

Danh mục tham khảo

1. Gs. TS. Nguyễn Trọng Chuẩn, Những vấn đề toàn cầu trong hai thập niên đầu của

thế kỷ XXI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà nội, 2006, trang 171-179.

2. Vương Dật Châu (Chủ biên), An ninh Quốc tế trong thời đại toàn cầu hoá, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà nội, 2004, trang 203-257, 551-588.

3. Smair & Francois Houtart (Chủ biên), Toàn cầu hoá các cuộc phản kháng - Hiện

trạng các cuộc đấu tranh 2002, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà nội, 2004, trang 219-226.

- 15 -