HỌC VIỆN NGOẠI GIAO

KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

Học phần: CHÍNH TRỊ HỌC ĐẠI CƯƠNG

ĐỀ TÀI:

Lý luận về mối quan hệ giữa chính trị và kinh tế

Liên hệ với nền kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa

của Việt Nam hiện nay

Giảng viên hướng dẫn : Trần Thị Thu Huyền

Sinh viên thực hiện : Nguyễn Thị Hoài Thương

Lớp/Khoa : CT47C1

Mã sinh viên : CT47C1-0034

Hà Nội, ngày 15 tháng 5 năm 2021

1

MỤC LỤC

Bìa giới thiệu……………………………………………………………………1

MỞ ĐẦU………………………………………………………………………..3

1. Tính cấp thiết của đề tài………………………………………………….3

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu……………………………………….3

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu………………………………………..4

4. Phương pháp nghiên cứu ………………………………………………...4

5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài……………………………………5

NỘI DUNG

Phần 1: Lý luận ………………………………………………………………….6

1.1. Khái niệm kinh tế, chính trị ………………………………………………6

1.2. Mối quan hệ chính trị - kinh tế theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin

……………………………………………………………………………………7

Phần 2: Liên hệ thực tiễn vấn đề đổi mới phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam……………………………………………..12

KẾT LUẬN …………………………………………………………………..…20

2

MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………..……………….22

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài:

Chính trị và kinh tế là hai loại hình hoạt động cơ bản nhất cần thiết cho

sự tồn tại và phát triển của xã hội được tổ chức dưới hình thức nhà nước. Mỗi

một chế độ chính trị nhất định sẽ có một nền kinh tế tồn tại và phát triển trong

nó và là cơ sở vật chất cho chế độ chính trị đó. Còn chính trị thì bao giờ cũng

được thiết lập trên nền tảng của một chế độ kinh tế nhất định, bảo vệ và phát

triển chế độ kinh tế ấy. Mối quan hệ giữa chính trị và kinh tế quy định mọi

mối quan hệ và mọi mặt của hoạt động đời sống xã hội; các hoạt động khác có

diễn ra thuận lợi hay không đòi hỏi phải dựa trên mối quan hệ đó có diễn ra

bình thường hay không.

Mối quan hệ chính trị - kinh tế là mối quan hệ biện chứng và Việt Nam

cũng không nằm ngoài quy luật đó. Sau 35 năm thực hiện đổi mới chính trị và

đổi mới kinh tế, nền chính trị và kinh tế của Việt Nam đã vượt qua giai đoạn

khủng hoảng kéo dài và có những bước tiến vượt bậc tạo nên vị thế của riêng

mình trên trường quốc tế. Tuy nhiên, vẫn còn một số tồn tại thiếu sót trong

công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận về chủ nghĩa xã hội và con

đường đi lên chủ nghĩa xã hội còn cần tiếp tục làm rõ; nền kinh tế phát triển

chưa bền vững, chưa tương xứng với tiềm năng, yêu cầu và thực tế nguồn lực

được huy động;… Và để đối mặt với sự vận động chuyển tiếp không ngừng

nghỉ của nền chính trị, kinh tế, xã hội trên toàn thế giới và những “cú sốc lớn”

như đại dịch COVID-19, nền chính trị và kinh tế của Việt Nam cần phải đối

mới linh hoạt để thích ứng và phát triển trong mọi hoàn cảnh.

Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài “mối quan hệ giữa chính trị và kinh tế

trong quá trình đổi mới phát triền nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ

nghĩa ở Việt Nam hiện nay” là hợp lí và rất cần thiết, đề tài không chỉ mang ý

nghĩa lý luận mà còn mang tính thực tiễn cấp thiết.

3

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

Trên cơ sở mục đích làm rõ những quan điểm lí luận của chủ nghĩa

Mác – Lênin về mối quan hệ biện chứng chính trị - kinh tế, đề tài nghiên cứu

làm rõ những bài học kinh nghiệm thực tiễn, những điểm tương đồng và bất

cập của quan hệ chính trị - kinh tế trong quá trình đổi mới, phát triển nền kinh

tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Mục đích cuối cùng là

xác định hệ thống các quan điểm chỉ đạo và đề xuất một số giải pháp nhằm

xây dựng thể chế chính trị và kinh tế Việt Nam trong sự thống nhất giữa định

hướng xã hội chủ nghĩa và nền kinh tế thị trường.

Để đạt được những mục đích này cần tìm hiểu và phân tích hệ thống

quan điểm lí luận về quan hệ chính trị - kinh tế; luận giải mối quan hệ giữa

chính trị và kinh tế hay vai trò của chúng với đường lối đổi mới của đất nước

để làm rõ xu thế biến đổi, phát triển quản lý nhà nước trong nền kinh tế thị

trường ở Việt Nam giai đoạn hiện nay, nghiên cứu sự tác động của chính trị

vào việc hình thành và phát triển nền kinh tế thị trường. Để đưa ra giải pháp

chính yếu cho thể chế chính trị và kinh tế của Việt Nam thời đại mới thì cần

một cái nhìn sâu rộng, tư duy phân tích logic đa chiều tình hình trong và ngoài

nước trên mọi lĩnh vực và mọi mối quan hệ của đời sống xã hội.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:

Đề tài nghiên cứu về mối quan hệ chính trị - kinh tế trong quá trình đổi

mới phát triền nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

Do đó, đề tài sẽ nghiên cứu về sự tác động của các nhân tố chính trị với những

yêu cầu phát triền nền kinh tế thị trường và ngược lại, sự phát triển của nền

kinh tế thị trường so với yêu cầu tác động của các nhân tố chính trị.

Phạm vi nghiên cứu: nghiên cứu về mối quan hệ giữa chính trị và kinh

tế trên địa bàn toàn Việt Nam trong giai đoạn đổi mới hiện nay.

4. Phương pháp nghiên cứu:

Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở những quan điểm cơ bản của chủ

nghĩa Mác – Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh và của Đảng về chính trị, kinh tế,

mối quan hệ giữa chúng trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội; vận dụng

4

phương pháp luận biện chứng duy vật và chủ nghĩa duy vật lịch sử gắn lý luận

với thực tiễn; phân tích, tổng hợp, khái quát hóa thông tin từ nhiều nguồn tài

liệu có điểm tương đồng với việc giải quyết vấn đề của đề tài.

5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài:

Về mặt lý luận, đề tài nghiên cứu làm rõ được mối quan hệ không thể

tách rời độc lập giữa chính trị và kinh tế với nhau và trong các vấn đề của đời

sống. Chính trị có tác động to lớn tới kinh tế; ổn định tình hình chính trị là tiền

đề để phát triển kinh tế; một ngành kinh tế muốn phát triển mạnh mẽ và ổn

định thì cũng đòi hỏi phải có sự ổn định về chính trị.

Về ý nghĩa thực tiễn, nghiên cứu đề tài mối quan hệ giữa nền kinh tế và

chính trị giúp chúng ta hiểu rằng thể chế chính trị phải luôn phù hợp với hình

thái kinh tế để tạo điều kiện thúc đẩy nền kinh tế phát triển; hiểu biết hơn về

thực trạng của nền kinh tế ở nước ta trong quá trình đổi mới hiện nay và định

hướng tương lai. Đề tài còn giúp ta có một cái nhìn bao quát hơn về đời sống

kinh tế chính trị đất nước: mặc dù mới bước vào công cuộc đổi mới nền kinh

tế nhưng nước ta đã đạt được những thành tựu vô cùng to lớn góp phần vào

giữ vững ổn định chính trị. Đồng thời qua đó giúp ta hiểu biết, tiếp cận nhanh

hơn những chính sách đúng đắn của đảng nhà nước trong việc hoạch định đổi

mới nền kinh tế đất nước để chủ động tham gia vào các hoạt động kinh tế góp

5

phần xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa vững mạnh.

NỘI DUNG

Phần 1: Phần lý luận

1.1. Khái niệm kinh tế và chính trị

a. Khái niệm kinh tế

Khái niệm “kinh tế” bắt nguồn từ “economi” trong tiếng Hy Lạp có

nghĩa là sự tiết kiệm, sự lựa chọn nhằm đem lại lợi nhuận và hiệu quả tối ưu.

Theo “Từ điển kinh tế chính trị học”, kinh tế là toàn bộ những mối quan hệ

sản xuất nhất định trong lịch sử cơ sở hạ tầng, kinh tế xã hội; hoạt động kinh

doanh của một nước nhất định bao gồm các ngành và các loại hình sản xuất

tương ứng. Mỗi một phương thức sản xuất đều có nền kinh tế riêng của nó

được phân biệt bởi tính chất sở hữu sản xuất mục đích phát triển của sản xuất

hình thức và phương pháp kinh doanh.

Theo quan điểm của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác-Lênin, thì kinh tế

là toàn bộ phương thức sản xuất và trao đổi của một chế độ xã hội với nền

tảng của kinh tế được tạo bởi các quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất, quan hệ

tổ chức và quản lý sản xuất, quan hệ phân phối. Do đó, kinh tế tổng hòa các

quan hệ sản xuất dựa trên một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất, tạo

thành cơ sở kinh tế của một chế độ xã hội nhất định. Khi trở thành một phạm

trù, kinh tế được hiểu là toàn bộ hoạt động có tính cộng đồng trong quá trình

sản xuất, lưu thông, trao đổi và tiêu dùng nhằm thỏa mãn nhu cầu vật chất của

con người.

Như vậy, kinh tế là toàn bộ các lĩnh vực, các ngành khác nhau của một

nền kinh tế quốc dân mà cơ sở của nó là quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất

trên nền tảng của một lực lượng sản xuất; cơ sở vật chất của một chế độ chính

trị.

b. Khái niệm chính trị:

Chính trị trong tiếng Hy Lạp là Politika có nguồn gốc từ chữ Pólis có

nghĩa là “nhà nước”. Từ điển Bách khoa Triết học xem chính trị là những công

6

việc nhà nước với phạm vi hoạt động gắn với những quan hệ giai cấp dân tộc

và các nhóm xã hội lớn mà hạt nhân của nó là vấn đề giành, giữ và sử dụng

quyền lực nhà nước. Chính trị liên quan đến nhiều mối quan hệ đấu tranh, hợp

tác, hòa hoãn phức tạp khác nhau nhưng đều có nguồn gốc sâu xa xuất phát từ

chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và phân hóa giai cấp từ mâu thuẫn

không thể điều hòa giữa hai giai cấp cơ bản đối lập nhau trong phương thức sản

xuất chủ đạo của một hình thái kinh tế xã hội. Cuộc đấu tranh giữa hai giai cấp

đó đã lôi cuốn các cá nhân, nhóm người tầng lớp và giai cấp khác có liên quan

tạo thành cuộc vận động xã hội rộng lớn.

Chính trị nói chung và nhà nước nói riêng xuất hiện không chỉ vì bảo vệ

lợi ích giai cấp mà còn do yêu cầu duy trì trật tự chung của toàn xã hội. Chính

trị không chỉ dừng lại ở cuộc đấu tranh giữa các giai cấp mà còn là sự tham gia

của nhân dân cùng các lực lượng xã hội vào việc định hướng quyền lực, xác

định hình thức, nhiệm vụ, nội dung và phương thức hoạt động của nhà nước

không chỉ vì lợi ích của giai cấp mà còn vì lợi ích của toàn xã hội.

Chính trị còn chịu sự quy định của các yếu tố văn hóa, lịch sử, dân tộc,

tôn giáo, khoa học,….mà nhất là triết học; sự tác động của của thời đại và tình

hình thế giới đương đại. Nhưng, bản chất chân chính của chính trị là sự đấu

tranh của giai cấp, của những người lao động bị áp bức bóc lột chống lại giai

cấp và những người áp bức bóc lột. Chính trị chỉ thực sự giải phóng con người

theo lý tưởng cao cả của loài người là tự do, bình đẳng, bác ái qua từng giai

đoạn lịch sử cụ thể.

Vậy, chính trị là quan hệ lợi ích mà cơ bản nhất là lợi ích kinh tế giữa

các giai cấp, các nhóm xã hội và của nhân dân trong cuộc đấu tranh giải quyết

vấn đề quyền lực nhà nước và xã hội ở một trình độ phát triển văn hóa và văn

minh nhất định.

1.2. Mối quan hệ chính trị - kinh tế theo quan điểm của chủ nghĩa Mác –

Lênin:

Mác và Anghen đã xem mối quan hệ chính trị - kinh tế là biểu hiện tập

7

trung nhất của quan hệ giữa thượng tầng kiến trúc với hạ tầng cơ sở. Trong mối

quan hệ này, cơ sở hạ tầng – kinh tế giữ vai trò quyết định toàn bộ lịch sử chính

trị, từ lịch sử hình thành giai cấp, đấu tranh giai cấp đến tiêu vong nhà nước và

giai cấp; còn chính trị đóng vai trò là thượng tầng kiến trúc cũng có tính độc

lập tương đối, tác động trở lại đối với hạ tầng cơ sở. Chính trị tuy bị kinh tế

quyết định nhưng với tư cách là chủ thể định hướng của kinh tế, chính trị lại

quy định chiều hướng, mục đích và việc giải quyết những vấn đề lớn của sự

phát triển kinh tế xã hội, quyết định sự tồn vong các chế độ xã hội. Trong đó,

quan hệ kinh tế, quan hệ sản xuất quyết định mọi quan hệ về chính trị, pháp

luật, tư tưởng... Giai cấp nào chiếm địa vị thống trị về kinh tế thì cũng chiếm

địa vị thống trị trong đời sống tinh thần của xã hội. Mâu thuẫn trong đời sống

kinh tế, xét đến cùng, quyết định mâu thuẫn trong lĩnh vực chính trị, tư tưởng.

Cuộc đấu tranh trong lĩnh vực chính trị, tư tưởng là biểu hiện của những mâu

thuẫn trong đời sống kinh tế.

Phát triển từ quan điểm trên, Lênin đã khái quát bản chất mối quan hệ

chính trị và kinh tế thành: “Chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế” và

“Chính trị không thể không chiếm địa vị hàng đầu so với kinh tế”.

a. Chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế:

Xét trong mối quan hệ nội dung - hình thức, chính trị là một trong những

biểu hiện của kinh tế, nhưng là hình thức biểu hiện tập trung và cô đọng nhất.

Nội dung quyết định hình thức nên kinh tế quyết định chính trị, về thể chế lẫn

đường lối, chính sách. Chính trị ra đời từ kinh tế, do kinh tế quyết định; chính

trị là sự phản ánh được xây dựng trên cơ sở kinh tế, gắn chặt với những đặc

trưng và những nhiệm vụ kinh tế của xã hội. Do đó, kinh tế làm nảy sinh chính

trị cả với tư cách là một chế độ bao gồm thể chế chính trị, công cụ, phương tiện

để thỏa mãn nhu cầu, mục đích chính trị. Khi cơ sở kinh tế biến đổi thì chính

trị cũng phải biến đổi theo để phù hợp và phản ánh đúng cơ sở kinh tế, từ đó

tạo ra môi trường tốt nhất cho kinh tế phát triển theo quy luật khách quan.

VD: Khi kinh tế tăng trưởng, một mặt nó làm biến đổi cơ cấu ngành kinh

tế, hình thành nhiều ngành mới, tạo ra nhiều việc làm. Mặt khác, do ứng dụng

8

công nghệ tiên tiến, tăng nhu cầu về nhân lực chất lượng cao, nếu giáo dục đào

tạo không đáp ứng kịp sẽ dẫn đến tình trạng dư thừa nhiều lao động giản đơn,

tăng thất nghiệp nhưng lại thiếu lao động lành nghề. Sự hình thành, tồn tại và

phát triển của chính trị là trên cơ sở những đòi hỏi khách quan của thực trạng

sự phát triển kinh tế và sự liên hệ những lợi ích kinh tế căn bản của các giai

cấp, tầng lớp khác nhau trong nền kinh tế. Sự phản ánh đó có tính chất tập trung,

từ đó quyết định mục tiêu và động lực của sự phát triển kinh tế, tạo điều kiện,

tạo môi trường và bảo đảm cho hoạt động kinh tế diễn ra suôn sẻ.

Mục đích căn bản của chính trị là sự phát triển của kinh tế, kinh tế là gốc

của chính trị, là thước đo tính hợp lí của chính trị. Một trình độ phát triển nhất

định về kinh tế sẽ có một trình độ phát triển tương ứng nhất định về chính trị.

Sự phát triển, biến đổi của kinh tế là nguồn gốc sâu xa của mọi sự biến đổi xã

hội và chính trị, cho nên giải quyết mọi vấn đề chính trị đều phải xuất phát từ

căn nguyên kinh tế. Nền chính trị của một nước, tuy phản ánh tất cả khuynh

hướng kinh tế hiện tồn nhưng bao giờ cũng là sản phẩm trực tiếp của khuynh

hướng kinh tế chủ đạo. Sự biến đổi, phát triển của kinh tế là nguồn gốc sâu xa

của mọi sự biến đổi về xã hội và đảo lộn về chính trị.

Là "sự biểu hiện tập trung của kinh tế", nên chính trị phải mang trong

mình quy luật kinh tế khách quan, phản ánh nó trong cấu trúc, phương thức

hoạt động của các yếu tố cấu thành hệ thống chính trị. Những yêu cầu, điều

kiện của quy luật kinh tế khách quan cần phải được tôn trọng và tuân thủ, kể cả

trước mắt nó có thể mâu thuẫn, trái ngược. Trong các đường lối, chính sách của

Đảng cầm quyền tác động vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội thì chính

sách kinh tế giữ vai trò quyết định.

b. Chính trị không thể không chiếm địa vị hàng đầu so với kinh tế:

Khẳng định vị trí quyết định của kinh tế đối với chính trị nhưng chủ

nghĩa Mác – Lenin không phủ nhận vai trò lãnh đạo của chính trị với kinh tế.

Khẳng định này nhấn mạnh tính độc lập tương đối và vai trò tác động trở lại rất

tích cực của chính trị với kinh tế. Trong tất cả sự tác động trở lại của các nhân

tố xã hội khác đối với kinh tế thì sự tác động của chính trị giữ vai trò quan trọng

9

hàng đầu. Chính trị tác động trở lại kinh tế thông qua sức mạnh của các thể chế

của hệ thống chính trị, đặc biệt là nhà nước. Nếu có một nền chính trị đúng đắn,

khoa học và phù hợp với cơ sở kinh tế của xã hội hiện tại thì nó sẽ tạo điều kiện

thuận lợi cho kinh tế phát triển, góp phần to lớn vào tăng trưởng nền kinh tế,

hỗ trợ giải phóng sức sản xuất và làm lành mạnh các quan hệ xã hội. Ngược lại,

một nền chính trị sai lầm, không khoa học, không phù hợp với thực tiễn kinh tế

sẽ làm trì trệ, kìm hãm sự phát triển kinh tế, thậm chí gây nên khủng hoảng

kinh tế, và luôn kéo theo sự mất ổn định của chính trị - xã hội.

Chính trị luôn là hoạt động đi trước, hoạt động tạo hành lang, tạo môi

trường cho kinh tế phát triển; giành, nắm quyền lực chính trị là điều kiện cần,

có ý nghĩa quyết định để giai cấp cách mạng triển khai xây dựng một chế độ

kinh tế - xã hội. Chính trị định hướng và tạo môi trường cho phát triển kinh tế

trên tất cả các khâu: xây dựng đường lối phát triển kinh tế, định hướng quá trình

tổ chức thể chế hóa đường lối, quản lý quá trình phát triển kinh tế và định hướng

xã hội cho phát triển kinh. Chính trị không chỉ lãnh đạo kinh tế mà còn tham

gia kiểm soát chặt chẽ những vấn đề cơ bản, then chốt của kinh tế: ngân sách,

vốn, hoạt động tài chính tiền tệ, chính sách kinh tế đối ngoại …. Chính trị còn

tham gia quản lí, kiểm soát chặt chẽ nội dung hoạt động của nền kinh tế, góp

phần nâng cao tính năng động, đồng thời thẩm định tính đúng đắn của đường

lối phát triển kinh tế. Thực tế nếu không có một đường lối chính trị đúng đắn

thì một giai cấp nhất định không thể giữ vững được sự thống nhất chính trị của

mình, cũng không thể hoàn thành được nhiệm vụ kinh tế. Thắng lợi của cách

mạng chính trị là tiền đề, điều kiện tiên quyết cho những biến đổi về chất và

phát triển kinh tế diễn ra tiếp theo.

VD: Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, giai cấp công nhân và nhân dân lao

động muốn giải phóng khỏi sự bóc lột và tha hóa, trước hết phải giành được

quyền lực chính trị, nhà nước thì mới có tiền đề để cải tạo quan hệ kinh tế, sở

hữu các tư liệu sản xuất cơ bản. Sẽ không thể có sự biến đổi và phát triển nào

của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa nếu giai cấp vô sản chưa giành được chính

10

quyền nhà nước.

Chính trị có ổn định thì kinh tế mới có bước phát triển. Chính trị mất ổn

định nền sản xuất xã hội sẽ bị đình trệ, ảnh hưởng nghiêm trọng tới an ninh

quốc gia. Sự vận động phát triển kinh tế phải tính đến việc bảo vệ và phát triển

thành quả chính trị đã đạt được, vì chính trị có tác động trở lại đối với kinh tế

theo những hướng khác nhau, thúc đẩy hoặc kìm hãm. Bởi vậy, muốn để kinh

tế phát triển đồng thuận với sự tác động của chính trị vào kinh tế, đòi hỏi phải

quan tâm đến ba phương diện: đường lối chính sách kinh tế, thể chế kinh tế và

chủ thể kinh tế.

- Đường lối chính trị đúng đắn, khoa học sẽ can thiệp một cách tự giác vào

quá trình kinh tế khách quan. Chính trị có thể vận dụng tổng hợp một số quy

luật, điều kiện nhằm đưa nền kinh tế phát triển đúng quỹ đạo, phù hợp với

lợi ích của chủ thể chính trị.

- Không có đường lối chính trị đúng đắn thì không một giai cấp nào có thể

giữ vững được sự thống nhất chính trị của mình và do đó cũng không có khả

năng lãnh đạo kinh tế.

- Nếu thiếu quan điểm chính trị đúng đắn trong giải quyết những vấn đề kinh

tế, dù kinh tế vẫn tăng trưởng, nhưng trung tâm quyền lực chính trị lại không

còn trong tay giai cấp thống trị đương thời.

Một lực lượng, giai cấp xã hội khi đã nắm được quyền lực chính trị trong tay,

tất yếu phải sử dụng quyền lực đó điều hành sự phát triển kinh tế theo hướng

đem lại lợi ích nhiều nhất. Đồng thời, mọi chính sách phát triển kinh tế, xã hội

do giai cấp nắm quyền lực chính trị ấy đề xướng và triển khai đều hướng tới

mục tiêu củng cố quyền lực chính trị của họ. Rõ ràng duy trì, bảo vệ quyền lực

chính trị của giai cấp, lực lượng nắm quyền, luôn là ưu tiên hàng đầu.

Tổng hợp lại về mối quan hệ chính trị và kinh tế, đây là mối quan hệ cơ

bản nhất, đồng thời nhạy cảm và phức tạp nhất trong các quan hệ xã hội. Để

giải quyết tốt quan hệ này, cần phải tránh cả hai khuynh hướng sai lầm: tuyệt

đối hóa kinh tế và tuyệt đối hóa chính trị. Thực chất sự tác động chính trị đối

với kinh tế là tạo môi trường xã hội ổn định, giải phóng sức sản xuất, tạo động

lực phát triển kinh tế và định hướng phát triển. Sự phát triển xã hội đòi hỏi phải

11

có sự ưu tiên của chính trị đối với kinh tế, phải có giải pháp chính trị để phát

triển kinh tế. Kinh tế càng phát triển thì chính trị càng phải mở rộng, đổi mới,

tạo tiền đề tiên quyết cho kinh tế phát triển.

Phần 2: Liên hệ thực tiễn vấn đề đổi mới phát triển nền kinh tế thị trường

định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam:

Mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, giữa kinh tế thị

trường và định hướng xã hội chủ nghĩa là hai trong tám mối quan hệ lớn được

nêu trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã

hội (Bổ sung, phát triển năm 2011). Tuy nhiên, vấn đề này được đặt ra ngay từ

khi đất nước tiến hành công cuộc đổi mới, trong đó trực tiếp và trước hết là đổi

mới kinh tế. Mọi cuộc đổi mới trên thực tế đều theo trình tự từ đổi mới tư duy,

tiếp đó là đổi mới thể chế và cuối cùng là đổi mới tổ chức, bộ máy, con người

cho phù hợp với yêu cầu mới. Đó cũng chính là nội dung cốt lõi của mối quan

hệ giữa kinh tế và chính trị, là cơ sở cho việc hình thành chủ trương, đường lối

phát triển đất nước trong suốt 35 năm qua.

2.1. Quan điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh về mối quan hệ chính trị - kinh

tế:

Trong quá trình hoạt động và cùng với Đảng lãnh đạo sự nghiệp cách mạng của

dân tộc, chủ tịch Hồ Chí Minh đã quán triệt theo quan điểm của chủ nghĩa Mác

– Lênin về mối quan hệ giữa chính trị và kinh tế, nhiều lần nêu cao tầm quan

trọng của mối quan hệ này, đồng thời khẳng định cần phải đổi mới nó để phục

vụ sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa.

Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng chính trị phải tập trung vào phát triển

kinh tế, “kinh tế phải gắn liền với chính trị”, “kinh tế gắn liền với con người, xã

hội”, cần “không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân”.

Trong phát triển kinh tế-xã hội cần tạo ra sự phát triển hài hòa và cân đối giữa

các mặt kinh tế với chính trị, con người với xã hội mà sử dụng một cách có hiệu

quả kinh tế sẽ là đòn bẩy cho sự phát triển của kinh tế-xã hội. Tăng trưởng kinh

tế cần phải gắn với tiến bộ xã hội. Một trong những nét tư duy kinh tế nổi bật

12

của chủ tịch Hồ Chí Minh đó là sử dụng các đòn bẩy kinh tế không chỉ để phát

triển kinh tế mà còn là chính sách để thực hiện công bằng xã hội. Công bằng xã

hội được Người xem không chỉ là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội mà còn là động

lực thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội của đất nước.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ chính trị - kinh tế còn được lồng

ghép vào tư tưởng của nhiều lĩnh vực và những giai đoạn cụ thể, vẫn còn có giá

trị định hướng cho mối quan hệ chính trị - kinh tế trong thời kì quá độ lên xã

hội chủ nghĩa của nước ta hiện nay. Người còn khẳng định kinh tế giữ vai trò

quyết định trong quan hệ với chính trị. Tư tưởng này được áp dụng vào việc giải

quyết các vấn đề của đất nước hậu chiến tranh: dịch bệnh, đói nghèo, mù chữ,…,

mục tiêu độc lập dân tộc phải gắn liền với ấm no, hạnh phúc của nhân dân, với

lý tưởng chủ nghĩa xã hội. Nhận định được vai trò quyết định của kinh tế chính

trị, chủ tịch Hồ Chí Minh đã kêu gọi toàn dân tăng gia sản xuất, tập trung xây

dựng kinh tế vững mạnh theo định hướng chính trị xã hội chủ nghĩa làm tiền đề

cho các lĩnh vực khác phát triển. Với Người, mục đích kinh tế là phục vụ nhân

dân cho nên nó cần dựa vào nhân dân để làm cho sản xuất phát triển, tức là quan

điểm về mục tiêu thống nhất với quan điểm về động lực.

2.2. Kinh tế - chính trị nước ta giai đoạn trước 1986:

Sau năm 1975, đất nước hoàn toàn giải phóng lại phải đối mặt với nền

kinh tế bị tàn phá kiệt quệ, đời sống nhân dân vô cùng khổ cực, nền công nghiệp

vô cùng lạc hậu so với các nước trên thế giới. Kinh tế Việt Nam giai đoạn 1976-

1986 hay còn gọi là Thời kỳ bao cấp là giai đoạn áp dụng mô hình kinh tế cũ ở

miền Bắc cho cả nước sau khi thống nhất và đồng thời là giai đoạn của những

tìm tòi để thoát khỏi mô hình này. Miền Bắc đẩy mạnh sản xuất tập trung, tăng

số lượng hợp tác xã, tuy nhiên năng suất vẫn trì trệ. Ở miền Nam, việc hợp tác

hóa tương tự được tiến hành khẩn trương nhưng không thích hợp và sớm bị dỡ

bỏ. Điều này cho thấy cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp thời chiến đã

không còn phù hợp , trở thành rào cản kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế.

Trên cơ sở và tình hình cấp bách đó, đại hội VI của Đảng 1986 đã đưa ra

đường lối đổi mới kinh tế: xóa bỏ cơ chế quản lí tập trung quan liêu bao cấp,

13

chủ trương xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ

chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Đây cũng được coi là một bước ngoặt lịch sử, một sự thay đổi căn bản, sâu sắc

và toàn diện, chuyển đất nước từ mô hình phát triển cũ sang mô hình mới, là

tiền đề quan trọng để đem lại thành quả to lớn và có ý nghĩa lịch sử ngày hôm

nay.

2.3. Kinh tế - chính trị nước ta giai đoạn sau 1986 đến nay:

Đổi mới nền kinh tế đất nước là điều hết sức cần thiết; muốn xây dựng

xã hội chủ nghĩa thành công thì điều kiện tiên quyết là phải có một nền kinh tế

vững chắc, ổn định đáp ứng đầy đủ mọi điều kiện cho đất nước đi lên xã hội chủ

nghĩa thành công. Công cuộc đổi mới nền kinh tế ở nước ta do Đảng cộng sản

Việt Nam lãnh đạo, vì thế mọi hoạt động về chính trị và kinh tế đều có chung

mục đích đưa đất nước xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Công cuộc đổi

mới này diễn ra dưới sự lãnh đạo của thế chế chính trị khác với các nước khác,

đó là nhà nước xã hội chủ nghĩa, do đó mối quan hệ kinh tế-chính trị nước ta có

nhiều điểm đặc trưng.

Quan hệ sản xuất thống trị hiện nay là quan hệ sản xuất cộng sản chủ

nghĩa, với hai thành phần kinh tế chính là kinh tế nhà nước và kinh tế tập thế,

từ quan hệ sản xuất đó mà hình thành nên thể chế chính trị xã hội chủ nghĩa.

Hiện nay, liên minh giữa công nhân và nông dân vẫn nắm vững thống trị. Để

tiếp tục con đường xã hội chủ nghĩa, thực hiện thành công mọi hoạt động chính

trị và sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa thì thì cần có một nền kinh tế mạnh

mẽ, phát triển vững chắc làm bàn đạp. Với trung tâm lãnh đạo là Đảng, mọi hoạt

động kinh tế đều phải tập trung hướng đến ổn định chính trị, phục vụ dân giàu,

nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, từng bước đi lên xây dựng

thành công xã hội chủ nghĩa.

Chính sách đổi mới kinh tế của đại hội Đảng lần VI năm 1986 đã tạo nên

một bước ngoặt không chỉ cho đường lối phát triển nền kinh tế nước ta mà còn

đi liền với đổi mới hệ thống chính trị. Chính sách này bám sát chủ nghĩa Mác –

Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về quan hệ chính trị - kinh tế nhưng cũng rất

14

coi trọng việc bổ sung, sửa đổi phù hợp tình hình thời đại mới.

2.3.1. Đổi mới tư duy về quan hệ chính trị với kinh tế:

Xét trên tổng thể, Đảng ta bắt đầu công cuộc đổi mới từ đổi mới về tư

duy chính trị trong việc hoạch định đường lối về chính sách đối nội, đối ngoại.

Đó là một sự kết hợp có nguyên tắc giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị

nhằm giải phóng sức sản xuất, phát triển chính trị - xã hội, thực hiện dân chủ tốt

hơn và thể hiện tư duy mới của Đảng ta về quan hệ chính trị với kinh tế trong

điều kiện lịch sử cụ thể. Ngay từ đầu, Đảng đã nhất quán trong việc kết hợp chặt

chẽ đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm,

đồng thời từng bước đổi mới chính trị phù hơp yêu cầu phát triển kinh tế. Đảng

đã có chủ trương xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành

theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ

nghĩa, nhận thức được mỗi thành phần kinh tế sẽ có bản chất và chịu tác động

bởi quy luật kinh tế riêng. Do đó, mối quan hệ chính trị - kinh tế cần được duy

trì chặt chẽ để tránh sự phát triển lệch hướng, tiêu cực của kinh tế, cần một chế

độ chính trị bền vững, ổn định để định hướng nền kinh tế theo đúng con đường

của Đảng và nhà nước đã đề ra.

Việt Nam tập trung thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đổi mới kinh tế, khắc

phục khủng hoảng kinh tế - xã hội để xây dựng và củng cố niềm tin của nhân

dân, tạo điều kiện đổi mới các mặt khác của đời sống xã hội, đặc biệt là đổi mới

hệ thống chính trị. Cuối cùng, mục tiêu chính của đổi mới hệ thống chính trị là

nhằm thực hiện tốt dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy đầy đủ quyền làm chủ

của nhân dân. Đổi mới kinh tế tiếp tục đi vào chiều sâu trong quá trình phát triển

kinh tế- xã hội ở Việt Nam, những vấn đề đã rõ tiếp tục được khẳng định, vấn

đề chưa rõ được nghiên cứu, bổ sung cả về lý luận và thực tiễn.

Như vậy, với việc kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi

mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới

chính trị, chúng ta vừa thúc đẩy được nền kinh tế của đất nước phát triển theo

quy luật khách quan, vừa tạo nên sự năng động, tích cực trong tư duy, tư tưởng

và đời sống tinh thần nói chung của xã hội, làm cho con người được thực sự tự

15

do và có điều kiện phát huy tính chủ động, sáng tạo của mình. Hình thái kinh tế

cộng sản chủ nghĩa đã hình thành nên chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta đồng

thời những hoạt động chính trị các chính sách và sự lãnh đạo của Đảng và nhà

nước cũng giúp công cuộc đổi mới kinh tế diễn ra thành công và đạt được nhiều

thắng lợi vô cùng quan trọng. Hai quá trình đó có quan hệ biện chứng với nhau,

tạo nên sức mạnh giúp chúng ta có cơ sở thực hiện thành công sự nghiệp đổi

mới toàn diện đất nước.

2.3.2. Đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước

trong việc giải quyết quan hệ chính trị với kinh tế:

Trong thời kỳ phát triển mới của đất nước, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp

hoá, hiện đại hoá, việc đổi mới, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đôi với việc

giải quyết mối quan hệ chính trị và kinh tế là rất cần thiết và cần được thực hiện

một cách nghiêm túc. Sự ổn định về chính trị là tiền đề quyết định sự thắng lợi

của công cuộc đổi mới kinh tế nước ta hiện nay. Mọi tổ chức Đảng và đảng

viên phải quán triệt sâu sắc và nghiêm túc chấp hành đường lối kinh tế của

Đảng. Đảng cũng cần phải đặc biệt quan tâm bồi dưỡng đội ngũ cán bộ kinh tế;

quản lý tốt đảng viên để ngăn ngừa suy thoái đạo đức, tiến hành kiểm tra thường

xuyên việc lãnh đạo các hoạt động tài chính của các địa phương; bảo đảm cho

tiền của và tài sản công được phân bố và sử dụng đúng đường lối của Đảng.

Đảng và nhà nước cũng cần đổi mới và tăng cường công tác quản lý

trong việc giải quyết quan hệ chính trị và kinh tế. Trong quản lý kinh tế-xã hội,

chính quyền các cấp cần phải quán triệt nghị quyết của Đảng đầy đủ và kịp thời

cụ thể hóa thành các kế hoạch để đưa vào cuộc sống. Đồng thời công tác tổng

kết, đúc rút kinh nghiệm cần được tiến hành thường xuyên để điều chỉnh những

chính sách của Đảng. Trong thời đại phát triển mới, việc quản lý kinh tế-xã hội

nên được chuyển mạnh sang bằng các công cụ quản lý vĩ mô và sức mạnh kinh

tế của Nhà nước, đồng thời thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ và phát huy

quyền làm chủ của nhân dân trong việc quản lý, phát triển kinh tế-xã hội. Bên

cạnh đó, cần tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, tinh giản bộ máy nhà nước

16

các cấp và thường xuyên đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn cho đội ngũ

cán bộ nhà nước. Việc sử dụng các khoản đóng góp của dân cũng cần được

thực hiện công khai hóa, đảm bảo chi tiêu minh bạch, hợp lý.

Như vậy, mối quan hệ chặt chẽ giữa kinh tế và chính trị của nước ta

vẫn luôn được duy trì chặt chẽ với nhau, cùng tác động qua lại tích cực để

hoàn thành công cuộc xã hội chủ nghĩa chung của toàn dân tộc.

2.3.3. Những tồn tại và giải pháp khắc phục:

Tồn tại:

Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, quá trình đổi mới đất nước nói

chung và đổi mới kinh tế, đổi mới chính trị ở nước ta nói riêng vẫn còn những

bất cập, hạn chế. Cho đến hiện nay, chúng ta vẫn chưa có được nhận thức rõ

ràng, cụ thể và đầy đủ thế nào là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ

nghĩa, khiến cho lý luận, nhận thức về mô hình mới vẫn còn thiếu sót, gây cản

trở cho việc hoạch định chính sách. Nền kinh tế nước ta tuy đã có những bước

tăng trưởng nhưng còn chậm và chưa bền vững, chưa tương xứng với tiềm năng

hiện có: “Nền kinh tế chủ yếu vẫn phát triển theo chiều rộng, tăng trưởng kinh

tế còn phụ thuộc nhiều vào các yếu tố về vốn, tài nguyên, lao động trình độ thấp,

chưa dựa nhiều vào tri thức, khoa học và công nghệ, lao động có kỹ năng”. Bên

cạnh đó, đổi mới chính trị còn chậm và hiệu quả còn thấp: “Tổ chức bộ máy của

Đảng và toàn hệ thống chính trị còn cồng kềnh, nhiều tầng nấc; chức năng,

nhiệm vụ ở một số tổ chức còn chồng chéo; hiệu lực, hiệu quả hoạt động của

nhiều tổ chức trong hệ thống chính trị chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ,...”

Bên cạnh đó, các hoạt động chính trị còn tồn tại nhiều bất cập, tác động

đến quá trình đổi mới phát triển nền kinh tế. Nhà nước đã có tác động quá sâu

vào các hoạt động kinh doanh, sản xuất kinh tế, chính phủ chưa tạo được môi

trường kinh doanh thật sự lành mạnh, bình đẳng khi thực tiễn, khu vực kinh tế

tư nhân với tiềm năng sản xuất kinh tế hiệu quả hơn thì lại không có nhiều cơ

hội tiếp cận vốn, đất đai, thông tin, cơ hội trong đấu thầu cũng như tiếp cận thị

trường như khu vực kinh tế nhà nước. Doanh nghiệp nhà nước vẫn được “ưu

17

ái” về mọi phương diện, chiếm nguồn lực lớn nhưng một số lại sử dụng không

hiệu quả, gây thất thoát, thua lỗ. Mặc dù đã có chủ trương cải cách, thoái vốn,

tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước nhưng vẫn còn rất chậm. Sự bất bình đẳng

trên dẫn đến hậu quả là khả năng cạnh tranh của nền kinh tế nước ta còn thấp,

môi trường đầu tư kinh doanh đã được cải thiện nhưng chưa đáp ứng yêu cầu.

Ngoài ra, hệ thống pháp luật Việt Nam trong thời gian qua còn thiếu đồng

bộ, chồng chéo, nhiều bộ luật ban hành một thời gian chưa thi hành đã phải sửa,

không ít luật đã ban hành nhưng không đi vào thực tiễn. Trong điều kiện hội

nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, thể chế kinh tế nước ta vẫn chậm đổi mới,

thiếu chủ động trong xây dựng các rào cản không trái với các cam kết quốc tế

để bảo vệ thị trường và doanh nghiệp trong nước trước những tác động tiêu cực

từ bên ngoài. Những hạn chế này khiến các doanh nghiệp trong nước nói riêng,

nền kinh tế đất nước nói chung chưa tận dụng có hiệu quả các cơ hội do hội

nhập quốc tế đem lại. Những hạn chế của thể chế kinh tế đã dẫn đến sự suy giảm

niềm tin của một bộ phận người dân và doanh nghiệp vào sự quản lý, điều hành

của bộ máy Nhà nước. Tình trạng quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong bộ máy

quản lý Nhà nước tuy đã được cải thiện nhưng vẫn tồn tại. Đây cũng là vấn đề

rất cần được quan tâm để có giải pháp khắc phục trong thời gian tới.

Giải pháp:

Bên cạnh những chính sách đổi mới, phát triển công tác lãnh đạo, quản

lý của Đảng và Nhà nước trong giải quyết quan hệ chính trị-kinh tế thì để khắc

phục những tồn tại và thúc đẩy quá trình đổi mới phát triển nền kinh tế và chính

trị nước nhà, một số giải pháp vĩ mô cũng cần được thực hiện, đảm bảo.

Sự ổn định của chính trị là nhân tố tiên quyết để đảm bảo sự vững bền

của nền kinh tế, là điều kiện để giữ và thu hút nguồn đầu tư trong nước và đầu

tư nước ngoài vào nước ta. Do đó cần phải đảm bảo giữ vững nền chính trị của

nước nhà, củng cố phát triển vai trò lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu lực quản

lý của Nhà nước và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Đất nước còn cần

một hệ thống luật pháp hoàn thiện: cụ thể, rõ ràng, đầy đủ và công bằng, văn

18

minh. Nhà nước có vai trò, trách nhiệm giải quyết các vấn đề kiện tụng, đảm

bảo ổn định trong điều tiết kinh tế tầm vĩ mô, hạn chế tối đa các loại tiêu cực.

lạm phát trong quá trình phát triển kinh tế.

Để mở đường cho thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

tiếp tục mở rộng, phát huy tiềm lực thì cần xóa bỏ triệt để các cơ chế tập trung

quan liêu bao cấp đã lỗi thời, hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế của Nhà nước

bằng cách định hướng phát triển kinh tế, đưa ra hệ thống chính sách thống nhất,

hợp lí tạo môi trường thuận lợi và ổn định cho kinh tế phát triển, đồng thời hạn

chế và khắc phục những tiêu cực còn tồn tại trên thị trường. Nhà nước đảm bảo

chức năng quản lý kinh tế, nhưng không can thiệp vào quá trình quản lí kinh

doanh của các doanh nghiệp để đảm bảo tính tự chủ và tự do trong kinh doanh.

Một vấn đề cần được quan tâm nữa đó là các chính sách, luật pháp để bảo vệ sở

hữu tư nhân, tạo cơ sở cho sự phát triển bền vững và đồng đều trên các khu vực

kinh tế và đảm bảo quyền lợi của các nhà kinh doanh đầu tư. Công cuộc công

nghiệp hóa – hiện đại hóa cần được tích cực đẩy mạnh, ứng dụng nhanh tiến bộ

khoa học kĩ thuật và đẩy mạnh phân công lao động xã hội. Nhà nước cũng cần

đề cao tầm quan trọng cúa các hoạt động kinh tế đối ngoại và ngoại giao nhằm

thúc đẩy, thu hút đối tác đầu tư và thị trường tiềm năng cho các doanh nghiệp.

Suy cho cùng, thắng lợi của công cuộc đổi mới, trước hết trên lĩnh vực

kinh tế, là kết quả tổng hợp của nhiều nhân tố, song nhân tố quyết định nhất là

sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, vai trò năng động sáng tạo trong quản lý của

Nhà nước. Thắng lợi đó thể hiện năng lực tư duy lý luận, năng lực lãnh đạo của

Đảng và Nhà nước đối với kinh tế, chứng tỏ sự thành công trong việc giải quyết

19

quan hệ chính trị với kinh tế.

KẾT LUẬN

Tiểu luận đã tổng hợp cơ bản đầy đủ những kiến thức về mối quan hệ sâu

sắc, chặt chẽ giữa chính trị và kinh tế trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác

– Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đồng thời đã liên hệ đến tầm quan trọng của

mối quan hệ này trong vấn đề đảm bảo sự phát triển, đổi mới của nền kinh tế thị

trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Chính trị và kinh tế là đại diện

tiêu biểu cho mối quan hệ giữa kiến trúc thượng tầng và cơ sở hạ tầng. Một nền

kinh tế phát triển, bền vững là cơ sở hạ tầng cần thiết cho sự phát triển của kiến

trúc thượng tầng tương ứng: các vấn đề chính trị, xã hội, tôn giáo, ….. Hai lĩnh

vực này luôn song hành tác động lẫn nhau trong mọi lĩnh vực, là cơ sở cho mọi

hoạt động của kinh tế xã hội. Kinh tế có vai trò quyết định đối với chính trị,

ngược lại chính trị cũng có tác động to lớn đến nền kinh tế.

Ở Việt Nam, mối quan hệ chính trị - kinh tế với những nét chung cũng

mang những đặc trù riêng của nền kinh tế đi lên từ xuất phát nghèo nàn, lạc hậu,

ảnh hưởng nặng nề bởi chiến tranh, thể chế nhà nước xã hội chủ nghĩa được

hình thành nền từ hình thái kinh tế cộng sản chủ nghĩa. Để thực hiện thành công

công cuộc đổi mới phát triển kinh tế và đi lên xây dựng xã hội chủ nghĩa thì cần

sự lãnh đạo, quản lí hiệu quả, kịp thời của Đảng và Nhà nước, đồng thời cần sự

đóng góp, xây dựng của toàn dân để có một nền kinh tế vững mạnh, văn mình.

Nền chính trị của nước ta cũng đã thu hút sự chú ý đầu tư từ thị trường quốc tế,

đảm bảo phát triển được những tiềm năng của nước nhà. Bên cạnh những thắng

lợi kinh tế của công cuộc đổi mới, nâng cao đời sống nhân dân, củng cố sức

mạnh chính trị thì vẫn còn những tồn tại, hạn chế trong cả công tác quản lí, lãnh

đạo và điều tiết ảnh hướng xấu đến nền kinh tế. Do đó, cần kịp thời thực hiện

các biện pháp sửa đổi, chấn chỉnh nhằm tạo một môi trường thuận lợi cho sự

phát triển vững chắc của nền kinh tế và cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Là sinh viên Học viện ngoại giao, đồng thời là một công dân của nước

Việt Nam, là một Đảng viên của Đảng cộng sản Việt Nam, tôi luôn tin tưởng

20

vào đường lối lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, sự linh hoạt, nhạy bén của bộ

máy chính trị sẽ hoạt động hiệu quả, tạo điều kiện cho nền kinh tế nước nhà phát

triển. Bản thân cam kết luôn tuân thủ theo những chính sách mà Chính phủ đề

ra nhằm đảm bảo nền kinh tế luôn vận hành hiệu quả, kêu gọi mọi người thực

hiện đúng và đủ nhằm giải quyết các vấn đề khó khăn còn tồn tại của nền kinh

tế. Vì sự phát triển của cả chính trị và kinh tế đất nước đều cần đến sức mạnh

của toàn dân, dù chưa thực sự đóng góp được nhiều nhưng bản thân sẽ luôn cố

gắng hết sức để duy trì, đảm bảo sự ổn định của kinh tế, xã hội và chính trị đất

21

nước.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Giáo trình Chính trị học đại cương – Nhà xuất bản chinh trịquốc gia.

2. Báo cáo nghiên cứu đề tài “Mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị trong quá

trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt

Nam” – TS Nguyễn Quốc Tuấn – TP.Hồ Chí Minh 2007.

3. Quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị trong phát triển nền kinh

tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay – Bộ tài chính

– Học viện tài chính – Hà Nội 2013.

4. Mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị trong quá trình đổi

mới ở Việt Nam PGS.TS Trần Văn Phòng - Học viện CT-HCQG Hồ Chí

Minh. 30/9/2015 10:10

5. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương

Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 84, 193 - 194

6. Kinh tế thị trường: “Nhiều hạn chế của thể chế kinh tế cản trở sự phát

triển” – Hải Vân/VOVVN. 12:00, 05/05/2017

https://vov.vn/kinh-te/nhieu-han-che-cua-the-che-kinh-te-can-tro-su-phat- trien-620982.vov

7. Nghiên cứu khoa học: Về mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị trong quan

điểm của V.I. Lê nin và ý nghĩa đối với Việt Nam hiện nay. – Học viện

Báo chí và tuyên truyền. 16/06/2019 09:57

https://ajc.hcma.vn/pages/nghien-cuu-khoa-

22

hoc.aspx?CateID=679&ItemID=10785