Tiểu luận Cổ phần hóa DNNN P.3
đề cương đề án kinh tế chính trị
Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam lí Đề tài:
luận và thực tiễn
Người thực hiện : Nguyễn Văn Học
Lớp : Quản lí kinh tế 47A
Người hướng dẫn : GS.TS. Phạm Quang Phan
Mở đầu
I. Nghiên cứu lí luận về doanh nghiệp Nhà nước và cổ
phần hóa doanh nghiệp Nhà nước trong nền kinh tế ở Việt Nam
1. Doanh nghiệp Nhà nước
a. Khái niệm
b. Vị trí và vai trò
2. Cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước
a. Khái niệm
b. Vị trí và vai trò
II.Thực trạng doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam
1. Trước thời kì đổi mới (trước 1986)
2. Từ thời kì đổi mới đến nay (từ 1986->nay)
3. Đánh giá thành tựu, hạn chế của doanh nghiệp Nhà nước
4. Những vấn đề đặt ra trong việc củng cố sắp xếp các doanh
nghiệp Nhà nước
III. Nghiên cứu quan điểm và các giải pháp tiến hành cổ
phần hóa doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam
1. Các quan điểm của Đảng và Nhà nước về vấn đề cổ phần
hóa doanh nghiệp Nhà nước
2. Các giải pháp cơ bản tiến hành cổ phần hóa doanh nghiệp
Nhà nước
Kết luận
- ý nghĩa lí luận và thực tiễn của việc nghiên cứu đề tài
Danh mục tài liệu tham khảo.
Mở đầu
Như đã biết đất nước ta là một nước nghèo, các trang thiết bị
lạc hậu, nguồn tài chính hạn hẹp nên các doanh nghiệp Nhà nước
hầu như không có khả năng cạnh tranh trên thị trường và đổi mới
công nghệ cũng như sản phẩm. Ngân sách Nhà nước không có khả
năng cấp vốn và bao cấp các doanh nghiệp Nhà nước như trước đây.
Các ngân hàng cho vay cũng phải có các điều kiện bảo đảm như tài
sản thế chấp, khả năng kinh doanh để tính khả năng thu hồi vốn.
Hầu hết các doanh nghiệp ở trong tình trạng không có vốn nhưng
cũng không có cách nào để huy động. Đối mặt với những khó khăn
đó, cổ phần hóa được coi là một giải pháp nhằm tạo ra môi trường
huy động vốn dài hạn cho các doanh nghiệp để đầu tư chiều sâu đổi
mới công nghệ. Vì vậy đây là lựa chọn tất yếu có tính khách quan.
Cổ phần hóa là một nội dung quan trọng trong công cuộc đổi mới.
Cổ phần hóa thu hút được một nguồn vốn nhất định trong công nhân
viên tại doanh nghiệp và ngoài xã hội, tạo ra một động lực trong
quản lý và phát huy tốt hơn tính sáng tạo, cần cù của người lao động
việc làm của người lao động đảm bảo tốt hơn nên doanh thu lợi
nhuận và các khoản nộp ngân sách, tích lũy vốn của doanh nghiệp
và chính thu nhập của người lao động sẽ tăng lên chuyển đổi hình
thức sở hữu với quy chế quản lý mới,người lao động sẽ phát huy ý
thức kỷ luật, tự giác, chủ động tinh thần tiết kiệm trong lao động
góp phần làm cho hiệu quả trong sản xu ất kinh doanh ngày càng
cao, mang lợi ích thiết thực cho bản thân mình, công ty Nhà nước
và xã hội.
Nội dung
I. Nghiên cứu lí luận về doanh nghiệp Nhà nước và cổ phần hóa
doanh nghiệp Nhà nước trong nền kinh tế ở Việt Nam
1. Doanh nghiệp Nhà nước
a. Khái niệm: Theo điều 1 của luật doanh nghiệp Nhà nước
quy định.
Doanh nghiệp Nhà nước là tổ chức kinh tế do Nhà nước đầu tư
vốn, thành lập và tổ chức quản lý, hoạt động kinh doanh hoặc hoạt
động côn gích, nhằm thực hiện mục tiêu kinh tế xã hội do Nhà nước
gia….
- Doanh nghiệp Nhà nước, có tư cách pháp nhân, pháp quyền
và nghĩa vụ dân sự, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động, kinh
doanh trong phạm vi số vốn do doanh nghiệp quản lý.
b. Vị trí và vai trò của doanh nghiệp Nhà nước trong nền kinh
tế nhiều thành phần.
Sự hình thành và phát triển doanh nghiệp Nhà nước của mỗi
quốc gia tuy có những đặc điểm riêng nhất định, song có đặc điểm
chung là thường tập trung vào những ngành, những lĩnh vực then
chốt, giữ vị trí vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân.
Trả qua nhiều năm xây dựng và phát triển, doanh nghiệp Nhà
nước ở nước ta đã trở thành một lực lượng kinh tế hùng hậu, nhất là
trong các ngành sản xuất và dịch vụ quan trọng. Trong nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần của nước ta doanh nghiệp Nhà nước giữ
vị trí hàng đầu và vai trò chủ đạo được thể hiện ở các mặt sau:
- Doanh nghiệp Nhà nước là lực lượng vật chất quan trọng, và
là công cụ quản lý để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền
kinh tế quốc dân. Nhà nước điều tiết phát triển của các thành phần
kinh tế thông qua các hệ thống pháp luật, kế hoạch và chính sách,
đồng thời sử dụng doanh nghiệp Nhà nước như là một thực lực kinh
tế, làm cơ sở đảm bảo cho những cân đối chủ yếu trong quá trình
phát triển nền kinh tế quốc dân.
- Doanh nghiệp Nhà nước là một trong số các nguồn chủ yếu
cung cấp tài chính cho ngân sách Nhà nước. Nhờ có đóng góp to lớn
về tài chính của các doanh nghiệp Nhà nước cho ngân sách, Nhà
nước có thêm vốn đầu tư vào lĩnh vực kết cấu hạ tầng kinh tế kỹ
thuật nhằm bảo đảm cung cấp các loại hàng hóa và dịch vụ công
cộng cho xã hội, góp phần tích cực vào nâng cao tốc độ và hiệu quả
phát triển nền kinh tế quốc dân.
- Doanh nghiệp Nhà nước là nơi đặc biệt quan trọng thu hút
viện trợ vốn đầu tư nước ngoài cho phát triển kinh tế xã hội của đất
nước: Để đáp ứng nhu cầu to lớn về vốn cho công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, cần tận lực khai thác các nguồn lực tài chính bên trong
nước kết hợp thu hút nguồn nhân lực bên ngoài. Thu hút tài trợ các
nguồn vốn bên ngoài vào các lĩnh vực như khai thác than, dầu khí,
chế tạo hàng điện tử, ô tô, xe máy…
- Doanh nghiệp Nhà nước gánh vác trách nhiệm nặng nề trong
quá trình phát triển kinh tế - xã hội.
Như vậy, doanh nghiệp Nhà nước là trung tâm tiêu biểu của
khoa học, công nghệ, là tấm gương sáng về q uản lý, các doanh
nghiệp không chỉ chịu phục vụ riêng cho mình, mà còn góp phần
phổ biến trang bị khoa học, công nghệ mới…. Doanh nghiệp Nhà
nước còn tạo ra công ăn việc làm cho người lao động, cải thiện cuộc
sống, nâng cao văn hóa giáo dục, giảm sự chênh lệch thành thị và
nông thôn…
2. Cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước
a. Khái niệm
Trước xu thế phát triển ngày càng cao của thị trường thế giới
và những yêu cầu của nền kinh tế "mở" thì mô hình hoạt động cứng
nhắc của các doanh nghiệp Nhà nước không còn phù hợp đặc biệt là
ở các nước đang phát triển như Việt Nam. Trên thế giới, xu thế cổ
phần hóa đã diễn ra mạnh mẽ từ những năm 80, cổ phần hóa có thể
hiểu là việc chuyển một doanh nghiệp Nhà nước thuộc sở hữu Nhà
nước thành công ty cổ phần thuộc sở hữu tập thể nhằm nâng cao
hiệu quả hoạt động và huy động vốn đáp ứng cho nhu cầu đầu tư và
phát triển.
Như vậy, cổ phần hóa chính là phương thức thực hiện xã hội
hóa sở hữu, chuyển đổi từ sở hữu toàn dân sang sở hữu tập thể. Đây
là một công cụ huy độ ng vốn đạt hiệu quả cao, tạo điều kiện cho
người lao động thực sự làm chủ doanh nghiệp.
b. Vị trí và vai trò của cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước
Cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước là lối ra phù hợp với khu
vực kinh tế Nhà nước, nó có vị trí vai trò trên nhiều mặt sau:
- Cổ phần hóa giải tỏa được bế tắc khủng hoảng về vốn cho
doanh nghiệp cổ phần hóa để tạo điều kiện cho nó mở rộng sản xuất
kinh doanh, giảm nhẹ gánh nặng tài chính cho Nhà nước, Nhà nước
có thể thu hồi vốn đầu tư ở doanh nghiệp để chuyển sang đầu tư các
hoạt động ưu tiên hơn nhằm tạo đòn bẩy sang đầu tư cho các hoạt
động ưu tiên hơn nhằm tạo đòn bẩy thúc đẩy phát triển của toàn bộ
xã hội, như đầu tư cho kết cấu hạ tầng kỹ thuật công trình phúc lợi,
giáo dục khoa học..
- Cổ phần hóa thông qua đa dạng hóa sở hữu tạo động lực cho
người lao động. Cổ phần hóa bảo đảm sở hữu hóa cho người lao
động tại công ty, xí nghiệp bằng cách cho họ tham gia đầu tư mua
cổ phiếu, thực hiện quyền làm chủ thực sự, có tính vật chất trên
phần vốn đóng góp của họ và thực sự phấn đấu hăng hái cho nâng
cao hiệu quả đồng vốn có.
- Cổ phần hóa cho phép dứt bỏ được chế độ bao cấp ngân sách
của Nhà nước, gạt bỏ chỉ đạo nhiều chi phí kinh tế của các cơ quan
chủ quản bên trên. Đồng thời làm cho doanh nghiệp thực sự trở
thành chủ thể kinh doanh, chỉ hoạt động vì mục tiêu của doanh
nghiệp.
- Cổ phần hóa tạo điều kiện cải tiến, đổi mới cộng tác lãnh đạo
quản lý doanh nghiệp, tập trung vào đồng bộ thống nhất thực sự vì
lợi ích chung và lợi ích riêng trong doanh nghiệp.
- Cổ phần hóa tạo điều kiện cho doanh nghiệp cổ phần được tự
chủ, chủ động trong quan hệ tự nguyện liên doanh, liên kết kinh tế
với các tổ chức và cá nhân trong và ngoài nước, mở ra khả năng tự
nguyện hợp tác kinh doanh.
- Như vậy, cổ phần hóa con đường ngắn nhất vừa bảo tồn vốn
cho Nhà nước, giúp các doanh nghiệp tồn tại và phát triển thực hiện
những chủ trương của Đảng và Nhà nước, thu hút được nguồn vốn
trong dân, còn tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, khuyến khích
được mọi thành phần kinh tế tham gia đầu tư phát triển
II. Thực trạng doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam
1. Trước thời kì đổi mới (trước 1986)
Từ năm 1986 trở về trước, khu vực kinh tế Nhà nước ở nước
ta hoạt động trong cơ chế kế hoạch tập trung quan liêu bao cấp, tăng
trưởng với tốc độ chậm, thất thường và hiệu quả kinh tế xã hội thấp.
Do chủ quan duy ý chí và nóng vội đi lên chủ nghĩa xã hội,
chúng ta đã phát triển ào ào, tràn lan nền kinh tế quốc dân làm cho
số doanh nghiệp Nhà nước từ 7000 năm 1976 tăng lên 12.000 năm
1986. Điều này đã gây ra tình trạng lãng phí tiền của của Nhà nước
vào xây dựng và trang bị các doanh nghiệp Nhà nước. Hơn nữa,
quản lý các doanh nghiệp Nhà nước lại thực hiện theo cơ chế bao
cấp trong một thời gian dài, làm cho hiệu quả sử dụng tài sản trong
khu vực kinh tế Nhà nước còn thấp, thiếu vốn và chiếm dụng vốn
lẫn nhau trở thành một hiện tượng phổ biến.
2.Từ thời kì đổi mới đến nay (từ 1986 đến nay)
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (tháng
12/1986) đánh dấu các mốc quan trọng trong tiến trình đổi mới kinh
tế xã hội của đất nước.
- Cùng với quá trình đổi mới và chuyển đổi cơ chế đã làm cho
doanh nghiệp Nhà nước năng động hơn, hiệu quả hơn. Số lượng
doanh nghiệp Nhà nước từ năm 1989 là 12.000, sau khi mạnh tay
sắp xếp lại đã giảm đi quá nửa, nhưng tỷ trọng GDP của khu vực
kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế quốc dân lại tăng lên, từ 37,6%
năm 1986 tăng lên 43,3% năm 1995, năm 2000 khoảng 39%; trong
5 năm 1991 - 1995 tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm của
khu vực doanh nghiệp Nhà nước đạt 11,7%, trong đó của toàn bộ
nền kinh tế quốc dân chỉ là 8,2%.
- Tuy đã đạt được nhiều kết quả, nhiều tích cực song trước xu
thế toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế mà có không ít các doanh nghiệp
Nhà nước làm ăn thua lỗ, làm mất vốn của Nhà nước, không có khả
năng thanh toán công nợ. Theo báo cáo của Bộ Tài chính tại hội
nghị ngành tài chính toàn quốc họp tại Hà Nội ngày 9 đến ngày
10/11/1998 số doanh nghiệp Nhà nước thua lỗ có giảm dần từ 21%
năm 1991 còn 16% năm 1995 nhưng đến năm 1996 lại tăng lên
22%. Năm 1997 có 1923 doanh nghiệp thua lỗ, chiếm 35% tổng số
doanh nghiệp Nhà nước. Các doanh nghiệp Nhà nước có quy mô
còn bé và không đồng đều, thiếu vốn, thiếu kỹ thuật, công nghệ, tay
nghề kém, kinh nghiệm, quản lý còn nhiều bất cập đã làm cho các
doanh nghiệp Nhà nước thua lỗ trầm trọng.
3. Đánh giá thành tựu, hạn chế của doanh nghiệp Nhà
nước
a. Đánh giá về những thành tựu của doanh nghiệp Nhà nước
Trong quá trình đổi mới và chuyển đổi cơ chế đã giúp cho các
doanh nghiệp Nhà nước có hiệu quả kinh doanh ngày càng tăng và
đóng góp vai trò quan trọng trong nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần. Đặc biệt sự phát triển của các doanh nghiệp Nhà nước trong
lĩnh vực kết cấu hạ tầng kỹ thuật, năng lượng, dầu khí, giao thông
bưu chính.. đã tạo điều kiện cho doanh nghiệp Nhà nước thuộc các
thành phần kinh tế khác, phát triển đồng thời thúc đẩy quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại
hóa.
- Các doanh nghiệp Nhà nước đóng góp GDP hàng năm cho
khu vực kinh tế quốc dân, tạo ra nguồn vốn lớn cho Nhà nước thực
hiện xây dựng cơ sở hạ tầng, xây dựng các công trình phúc lợi xây
dựng trường học, phát triển giáo dục, khoa học, công nghệ… tạo lập
bình đẳng trong xã hội, gây dựng Nhà nước Việt Nam ngày càng
văn minh giàu đẹp.
- Những thành tựu này góp phần củng cố vị thế của các doanh
nghiệp Nhà nước trên trường quốc tế.
b. Đánh giá về những hạn chế của doanh nghiệp Nhà nước
Cùng với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế đã làm cho nhiều
doanh nghiệp Nhà nước ở nước ta kinh doanh thua lỗ , phá sản…
chính vì lẽ đó mà làm cho thâm hụt ngân sách Nhà nước phải bù lỗ
cho các doanh nghiệp Nhà nước, làm cho nạn thất nghiệp ngày càng
nhiều, thiếu công ăn việc làm, nhiều tệ nạn trong xã hội gia
tăng,nguồn vốn vay nước ngoài ngày càng lớn
- Những hạn chế của doanh nghiệp Nhà nước không chỉ làm
thâm hụt ngân sách Nhà nước mà nó còn làm cho quá trình thực
hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước bị chậm lại, kinh tế
kém phát triển dẫn đến ngày càng tụt hậu so với nền kinh tế của các
quốc gia trên thế giới.
- Những hạn chế của doanh nghiệp Nhà nước do nhiều nguyên
nhân khách quan và chủ quan gây ra. Nhưng nguyên nhân cực kỳ
quan trọng gây ra tình hình trên là sức mua của nhân dân, sức mua
của nông thôn còn thấp, thị trường chưa được mở rộng, cơ quan
quản lý chưa hoạt động hiệu quả, trình độ ứng dụng khoa học còn
non kém, thiếu nguồn vốn đầu tư…
Qua đây có thể thấy những thành tựu và hạn chế của doanh
nghiệp Nhà nước, những tác động của những thành tựu và hạn chế
đó tới nền kinh tế, tới cuộc số ng, định hướng phát triển và chiến
lược phát triển của nền kinh tế quốc dân.
4. Những vấn đề đặt ra trong việc củng cố sắp xếp các
doanh nghiệp Nhà nước.
Nhằm quán triệt các quan điểm và yêu cầu của Đảng và Nhà
nước ta, đã đề ra những vấn đề trong việc củng cố sắp xếp các
doanh nghiệp Nhà nước:
- Sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước, duy trì và phát triển
những doanh nghiệp Nhà nước làm ăn có hiệu quả, giải thể và cho
phá sản các doanh nghiệp Nhà nước bị thua lỗ kéo dài.
- Sát nhập các doanh nghiệp nhỏ vào các công ty lớn, thành
lập các công ty ngành hàng nhằm tăng sức cạnh tranh trên thị
trường trong và ngoài nước, thị trường khu vực và thị trường thế
giới.
- Đổi mới cơ chế quản lý doanh nghiệp theo hướng giao quyền
tự chủ kinh doanh, từng bước xóa bỏ cơ chế Bộ chủ quản, cấp hành
chính chủ quản nhiệm vụ là sự cách biệt giữa doanh nghiệp Trung
ương và doanh nghiệp địa phương, đồng thời tăng cường công tác
kiểm tra kiểm soát của Nhà nước.
- Cổ phần hóa một bộ phận doanh nghiệp Nhà nước theo yêu
cầu của xã hội hóa nền sản xuất, đặc biệt là xã hội hóa về vốn.
Sắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà nước là một vấn đề vừa có
tính bức xúc, vừa có tính cơ bản. Đây là một công việc phức tạp,
liên quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực và nhiều tầng lớp dân cư,
nó đòi hỏi phải chi phí nhiều nguồn lực và không thể giải quyết một
cách nhanh chóng. Để đạt được những vấn đề đặt ra trong việc củng
cố sắp xếp lại các doanh nghiệp thì các doanh nghiệp phải giải
quyết một số vấn đề chủ yếu như sau:
+ Vai trò chủ đạo của doanh nghiệp Nhà n ước phải được
khẳng định dựa trên cơ sở nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội và
năng lực cạnh tranh là chủ yếu. Các doanh nghiệp Nhà nước là công
cụ vô cùng quan trọng của Nhà nước để dẫn dắt nền kinh tế quốc
dân phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
+ Cách tiếp cận vấn đề sắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà nước
cần xuất phát từ quan hệ sở hữu, phải có quan điểm đúng đắn về cơ
cấu sở hữu trong các doanh nghiệp Nhà nước. Đặc biệt, coi trọng
quan hệ giữa doanh nghiệp Nhà nước và các thành phần kinh tế để
tạo lên sức mạnh tổng hợp của toàn bộ nền kinh tế.
+ Tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng trong sản xuất kinh
doanh giữa các thành phần kinh tế.
+ Xác định đại diện chủ sở hữu tài sản của Nhà nước tại doanh
nghiệp Nhà nước trên cơ sở phân biệt quyền sở hữu và quyền sử
dụng.
+ Hoàn thiện chức năng quản lý của Nhà nước về kinh tế trên
cơ sở tách quyền sở hữu Nhà nước của các cơ quan Nhà nước với
quyền sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, xóa bỏ chế độ cơ
quan, cấp hành chính chủ quản, với doa nh nghiệp là chủ thể sản
xuất vốn lâu nay đã can thiệp quá sâu vào hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp, biến doanh nghiệp trở thành vật phụ thuộc
của cơ quan hành chính Nhà nước, gây nhiều phiền hà, cản trở,
nhưng rút cục không chịu trách nhiệm đối với những hậu quả xấu đã
xảy ra, cũng như đối với các phán quyết sai trí của mình.
+ Thiết lập một cơ quan độc lập để thực hiện chương trình cải
cách doanh nghiệp Nhà nước trong một số năm. Như đã biết, việc
sắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà nước là một bộ phận quan trọng
của lực lượng sản xuất, do vậy cách tiếp cận vấn đề cũng phải xuất
phát từ các quan hệủơ hữu, quan hệ quản lý và quan hệ phân phối;
đặt toàn bộ các quan hệ đó trong mối quan hệ tương tác giữa các
thành phần kinh tế trong quá trình vận hành theo cơ chế thị trường
dưới sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
III. Nghiên cứu quan điểm và các giải pháp tiến hành cổ phần
hóa doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam.
1. Các quan điểm của Đảng và Nhà nước về vấn đề cổ
phần hóa doanh nghiệp Nhà nước
Nói đến quan điểm về cổ phần hóa, trước hết ta phải khẳng
định cổ phần hóa không phải là tư nhân hóa. Cổ phần hóa là một nội
dung đa dạng hóa sở hữu, là quá trình chuyển đổi hình thức sở hữu
của một chủ thể thành sở hữu của nhiều chủ thể, trong đó Nhà nước
là một chủ sở hữu. Còn tư nhân hóa là chuyển sở hữu Nhà nước
thành sở hữu tư nhân, Nhà nước không tham gia là chủ sở hữu một
phần vốn và tài sản nào.
Qua những phân tích, đánh giá tình hình hoạt động của các
doanh nghiệp Nhà nước sản xuất kém hiệu quả, ta thấy cổ phần hóa
là con đường tối ưu để các doanh nghiệp này tồn tại và phát triển.
Việc đẩy mạnh cổ phần hóa được Đảng và Nhà nước khẳng định tại
đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (1996) là "Triển khai vững
chắc và tích cực cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước để huy động
thêm vốn tạo động lực thúc đẩy doanh nghiệp Nhà nước làm ăn có
hiệu quả, vốn huy động được dùng để đầu tư mở rộng sản xuất kinh
doanh". Cổ phần hóa là công cụ huy động vốn hiệu quả cao. Thực
chất của vấn đề CPH là tối ưu hóa việc huy động khó khăn hoặc
đang giảm sút như huy động vốn qua ngân hàng, đầu tư nước
ngoài… quan điểm này cần được phổ biến rộng rãi đến các chủ thể
có khả năng mua cổ phiếu.
Đứng trên góc độ người lao động thì Cổ phần hóa chính là một
cơ hội để vươn lên làm chủ sản xuất. Động lực này thúc đẩy người
lao động làm việc hăng say hơn, năng suất và chất lượng cao hơn.
Do đó, cổ phần hóa phải tạo điều kiện cho người lao động thực sự
làm chủ doanh nghiệp có như vậy thì mới phát triển được sản xuất.
Quan điểm của Đảng và Nhà nước chỉ rõ: "cổ phần hóa một số
doanh nghiệp Nhà nước không phải là tư nhân hóa nền kinh tế mà là
quá trình giảm bớt sở hữu Nhà nước trong các doanh nghiệp Nhà
nướcvà đa dạng hóa sở hữu. Nó tạo cơ sở cho việc đổi mới các quan
hệ tổ chức quản lý và phân phối sản phẩm. thúc đẩy quá trình tích tụ
và tập trung vốn nhằm hiện đại hóa nền kinh tế, tạo động lực phát
triển trong doanh nghiệp, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh".
Đảng và Nhà nước cũng khẳng định "cổ phần hóa doanh nghiệp
Nhà nước không có nghĩa là làm suy yếu khu vực kinh tế Nhà nước,
mà là một trong các giải pháp quan trọng để tháo gỡ những vướng
mắc, khó khăn trong sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp Nhà
nước hiện nay nhằm phát huy vai trò chủ đạo thực sự của chúng
trong nền kinh tế thị trường".
Như vậy, cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước được Đảng và
Nhà nước khẳng định và chỉ rõ như là giải pháp mang tính chất
bước ngoặt để doanh nghiệp Nhà nước tồn tại và phát triển trong xu
hướng xã hội hoá, hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế.
2. Các giải pháp cơ bản tiến hành cổ phần hóa doanh nghiệp
Nhà nước
a. Giải pháp cho các doanh nghiệp còn gặp khó khăn về tài
chính và quản lý
- Những doanh nghiệp Nhà nước làm ăn có hiệu quả, những
nhóm doanh nghiệp có khó khăn về tài chính, nhữ ng nhóm doanh
nghiệp có khó khăn vè quản lý giá thành sản xuất lên cao thì đều
thuộc nhóm doanh nghiệp cổ phần hóa còn những doanh nghiệp làm
ăn thua lỗ kéo dài sẽ phải áp dụng các biện pháp sát nhập với các
đơn vị khác rồi cổ phần hoá, hoặc bán cho cán bộ công nhân viên
chức trong và ngoài doanh nghiệp hoặc cho phá sản. Hay cần phải
thành lập các quỹ hỗ trợ để giải quyết khó khăn về tài chính,nâng
cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, làm ăn có lãi.
Khi tham gia vào cơ chế thị trường thì phải nhận thức rõ khâu
quản lý là khâu có tính chất quyết định. Một người quản lý tốt phải
nắm bắt chính xác tình hình của doanh nghiệp, khi có thua lỗ phải
biết cách chuyển hướng sản xuất kinh doanh, khôi phục lại doanh
nghiệp. Chính vì vậy việc lựa chọn người quản lý không phải dễ
dàng. ở nước ta hiện nay công tác đào tạo ngành quản trị kinh doanh
vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu về chất lượng. Đây là một vấn đề
cần được xem xét, giải quyết để có thể theo kịp sự phát triển của
nền kinh tế.
b. Giải pháp cho những tồn tại về mặt tư tưởng
Những tồn tại về mặt nhận thức tư tưởng là một trong những
trở lực lớn, đầu tiên trong việc tiến hành cổ phần hóa ở bất cứ một
doanh nghiệp nào.
- Quán triệt tư tưởng xem cổ phần hóa là phương thức huy
động vốn tối ưu và hiệu quả nhất:
+ Xét ở góc độ doanh nghiệp sản xuất kinh doanh dịch vụ,
thiếu vốn khiến các hoạt động trở lên cầm chừng rất kém hiệu quả,
không có khả năng mở rộng và phát triển sản xuất. Các doanh
nghiệp Nhà nước hoạt động kém hiệu quả nên các nhà đầu tư còn e
dè sợ đồng tiền mình đầu tư sẽ không có hiệu quả, không sinh lời.
Để vay được vốn ngân hàng doanh nghiệp phải gặp rất nhiều khó
khăn như: phải thế chấp các khoản cho vay thường ngắn hạn, lãi
suất cao nên sau khi kinh doanh và trả lãi ngân hàng thì lãi thực
không còn bao nhiêu. Trong khi đó, việc mở rộng liên doanh với
nước ngoài cũng còn nhiều bất cập do những bất đồng về ngôn ngữ,
quyền lợi và các thủ tục giấy gờ. Vì vậy phải quán triệt tư tưởng.
Xem cổ phần hóa là phương thức huy động vốn tối ưu và hiệu quả
nhất. Cổ phần hóa mở ra một cánh cửa đầu tư thuận lợi và dễ dàng
huy động được một lượng vốn không lãi suất, không kỳ hạn. Các
doanh nghiệp nên chủ động đăng ký cổ phần hóa để nâng cao hiệu
quả sử dụng vốn nâng cao trách nhiệm của người lao động tạo cơ sở
cho sự phát triển ổn định và bền vững.
- Giải pháp những thắc mắc cho cán bộ công nhân viên trong
doanh nghiệp và những người có liên quan trước khi cổ phần hóa:
+ Cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp phải có ý thức
một cách rõ ràng cổ phần hóa là một tất yếu khách quan. Họ cần
phải hiểu, cổ phần hóa là vì lợi ích của các doanh nghiệp của chính
họ. Sau khi tiến hành cổ phần hóa họ sẽ hoàn toàn độc lập tự chủ
trong sản xuất kinh doanh. Đây là cơ hội cho những người có thực
lực, những doanh nghiệp vươn lên khẳng định mình. Còn đối với
những người kém năng lực, những doanh nghiệp yếu thì phải nhận
ra là đã đến lúc phải tự vươn lên hoàn thiện mình nên không muốn
bị đào thải theo quy luật cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường.
Các cơ quan chức năng có trá ch nhiệm làm rõ cho người lao động
hiểu rõ những lợi ích mà họ được hưởng khi tiến hành cổ phần hóa.
Đồng thời phải làm rõ cho họ thấy được những trách nhiệm mà họ
sẽ phải gánh vào, những rủi ro có thể xảy ra để họ có nỗ lực, quyết
tâm hơn.
+ Các phương tiện thông tin đại chúng góp phần rất đắc lực để
hỗ trợ việc tuyên truyền các mục tiêu trên. Tuyên truyền qua đài,
báo, ti vi đặc biệt ở những tờ báo uy tín, truyền hình trung ương.
Tuyên truyền qua các chương trình thời sự, những bộ phim, những
câu chuyện… là những chương trình thu hút được nhiều khán giả.
Việc đưa tin về các công ty cổ phần làm ăn có hiệu quả, những buổi
phỏng vấn trực tiếp trên đài truyền thanh, truyền hình về chủ trương
cổ phần hóa chắc chắn sẽ đóng góp vào việc tuyên truyền cho đông
đảo quần chúng về quan điểm của Đảng và Nhà nước. Qua đây,
doanh nghiệp cũng tác động đến các cổ đông tiềm năng ngoài doanh
nghiệp.
+ Ngoài ra, các cơ quan chức năng phải nhận thức rõ và hiểu
những chủ trương chính sách mới của Chính phủ về cổ phần hóa
"truyền bá cho đông đảo quần chúng những chủ trương mới của
Chính phủ về cổ phần hóa.
- Đối với những hành động chân lý có ý cản trở việc thực hiện
chủ trương cổ phần hóa cần có những chế tài xử lý nghiêm minh.
Những thành phần này chủ yếu là những cán bộ lãnh đạo sợ mất
chức hoặc những người có năng lực kém sợ mất chỗ làm. Cần xử lý
nghiêm minh những trường hợp này, có như vậy vai trò chỉ đạo của
các cơ quan, tổ chức mới được đảm bảo, trên cơ sở đó tiến hành đẩy
nhanh các công đoạn của quy trình cổ phần hóa.
- Phê phán và khắc phục triệt để tư tưởng ỷ lại vào bao cấp của
Nhà nước:
+ Trước kia, các doanh nghiệp Nhà nước được hình thành một
cách ồ ạt không quan tâm đến việc có hoạt động hiệu quả hay
không. Chính công tác quản lý lỏng lẻo, thiếu đồng bộ, không đi sâu
đi sát tình hình tạo ra một bộ máy cồng kềnh ỳ ạch chuyên dựa vào
bao cấp của ngân sách. Tư tưởng ngày đã ăn sâu vào một bộ phận
lớn doanh nghiệp. Vì vậy cần có những cải cách kịp thời và đúng
đắn để xóa dần tư tưởng trên. Chính vì vậy cần phải nhanh chóng
làm cho họ hiểu được cổ phần hóa là một biện pháp giúp họ vươn
lên, tự đứng ra chịu trách nhiệm về quyết định của mình.
c. Giải pháp cho vấn đề dôi dư lao động trong doanh nghiệp
sau khi tiến hành cổ phần hóa
- Dôi dư lao động sau cổ phần hóa là một trong những mặt trái
của quá trình cải cách doanh nghiệp, nó là vấn đề cực kỳ phức tạp.
Vì vậy các doanh nghiệp phải trực tiếp đưa ra hướng giải quyết, các
cơ quan Nhà nước chỉ hỗ trợ giúp đỡ và tháo gỡ những vướng mắc
giữa doanh nghiệp với người lao động.
*Đối với doanh nghiệp:
+ Phân loại lao động để xác định số lao động dôi dư: Đối với
số lao động còn lại có nhiều hướng giải quyết như: sử dụng sau khi
đào tạo, đào tạo lại, hỗ trợ chuyển sang ngành nghề mới.
+ Xác định nguồn vốn để giải quyết la o động dôi dư hiện có
tại doanh nghiệp có thể lấy từ: quỹ hỗ trợ mất việc làm, quỹ trợ cấp
thôi việc, quỹ đào tạo của đơn vị…
* Đối với Nhà nước nên hạn chế hỗ trợ trực tiếp tăng cường
hỗ trợ gián tiếp.
+ Hỗ trợ trực tiếp: hỗ trợ một phần kinh phí cho doanh nghiệp
có thể lấy quỹ cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước. Những hỗ trợ
nên tập trung vào đào tạo, dạy nghề cho người lao động, hỗ trợ
trong thời gian mất việc.
+ Hỗ trợ gián tiếp: là hỗ trợ về cơ chế chính sách cho người
lao động, tín dụng, thuế sản xuất kinh doanh.
Việc đào tạo cho người lao động mang tính sách lược, vừa
mang tính chiến lược. Khi doanh nghiệp cổ phần hóa sau khi đi vào
sản xuất ổn định thì cần mở rộng quy mô sản xuất nên tuyển thêm
lao động những lao động đó phải là lao động có tay nghề cao đã qua
đào tạo.
Như vậy, những giải pháp nêu trên tuy chưa phải là những giải
pháp tốt nhất nhưng nên thực hiện tốt thì chúng sẽ đẩy nhanh được
quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước, thuận lợi cho tiến
trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước ở nướ c ta hiện tại và
trong tương lai. Nhằm đáp ứng những nhu cầu tất yếu thay đổi của
thị trường cũng như hội nhập kinh tế quốc tế. Tạo động lực cho nền
kinh tế cạnh tranh với các nền kinh tế trên thế giới.
kết luận
Chúng ta đang bắt đầu một thiên niên kỷ mớ i, một thiên niên
kỷ hội nhập và tăng trưởng kinh tế. Khi tham gia vào thị trường thế
giới, các doanh nghiệp Việt Nam đặc biệt doanh nghiệp Nhà nước
phải chấp nhận cạnh tranh khốc liệt. Để có chỗ đứng, các doanh
nghiệp Nhà nước buộc phải cải cách. Cổ phần hóa ra đời thật đúng
lúc chứng tỏ đây là một biện pháp đúng đắn, phù hợp với quy luật
khách quan.
Nghiên cứu cổ phần hóa nó có cả ý nghĩa lí luận và thực tiễn
thể hiện một cách sâu sắc. Cổ phần hóa thể hiện được tư tưởng quan
điểm nhận thức của Đảng và Nhà nước trong nền kinh tế thị trường
hội nhập khu vực và quốc tế. Giúp chúng ta hiểu được những nhu
cầu tất yếu trong tiến trình cổ phần hóa để xây dựng thành công chủ
nghĩa xã hội.
Cổ phần hóa một vấn đề phức tạp và đa dạng hóa sở hữu là đi
ngược lại với những chính sách của chúng ta trước đây. Quốc hữu
hóa một doanh nghiệp tư nhân có khi chỉ cần một sắc lệnh nhưng cổ
phần hóa một doanh nghiệp Nhà nước thì không đơn giản một chút
nào. Để thực hiện thành công cổ phần hóa chắc chắn chúng ta sẽ
còn gặp rất nhiều khó khăn trước xu thế toàn cầu hóa. Tuy nhiên,
chúng ta không được nóng vội, chủ quan đối với sự nghiệp cổ phần
hóa để tránh gặp phải những cạm bẫy của thị trường. Điều quan
trọng ở đây là chúng ta phải kết hợp hài hòa giữa yếu tố chủ quan và
yếu tố khách quan. Nói đến yếu tố chủ quan là nói đến tư tưởng, khả
năng của con người, sự nỗ lực của các điều kiện vật chất, bối cảnh
kinh tế, xã hội môi trường pháp lý.
Ngoài ra, chúng ta có thể tham khảo kinh nghiệm cổ phần hóa
của các nước đi trước. Tiếp nhận có chọn lọc các bài học kinh
nghiệm sẽ giúp chúng ta rất nhiều, tránh được những sai lầm có thể
mắc phải.
Cổ phần hóa là giải pháp mang tính quyết định cho các doanh
nghiệp Nhà nước trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.