SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO LẠNG SƠN TRƯỜNG CAO ĐẲNG SƯ PHẠM

THỰC TRẠNG KẾT HỢP NHÀ TRƯỜNG VÀ GIA ĐÌNH TRONG

RÈN KỸ NĂNG TỰ PHỤC VỤ CHO TRẺ MẪU GIÁO BÉ

Ở TRƯỜNG MẦM NON 8/3 THÀNH PHỐ LẠNG SƠN

TIỂU LUẬN KẾT THÚC MÔN HỌC GIÁO DỤC HỌC MẦM NON

Giảng viên hướng dẫn: ThS.Tạ Thị Thu Hằng

Sinh viên: Liễu Thị Hồng Thu

Lớp: K18MN Khoa: Đào tạo Giáo viên

Chuyên ngành: Giáo dục mầm non

Lạng Sơn, tháng 11 năm 2022

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU Trang

1. Lý do chọn đề tài …………………………………………………………. 1

2. Mục đích nghiên cứu ……………………………………………………… 2

3. Nhiệm vụ nghiên cứu . …………………………………………………….. 3

4. Đối tượng và khách thể nghiên cứu ……………………………………….. 3

5. Phạm vi nghiên cứu ….………………………………………………..…... 3

6. Các phương pháp nghiên cứu ……………………………………………… 3

6.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận ………………………..…..... 3 6.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn ………………………….... 4 6.3. Nhóm phương pháp thống kê toán học ………………………...…. 4

NỘI DUNG

CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1. Một số khái niệm cơ bản ………………………………………………..…. 5 1.1. Kỹ năng tự phục vụ …………………………………………………..…. 5 1.2. Giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ mầm non ………………..……. 5 1.3. Nội dung giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ mầm non ………...... 5

2. Đặc điểm phát triển của trẻ mẫu giáo bé …………………………………... 6

3. Vai trò của việc kết hợp nhà trường và gia đình trong giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ mầm non …………………………………………………………... 8

CHƯƠNG II: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

2.1. Vài nét về khách thể nghiên cứu ………………………………………... 11

2.2. Nhận thức về tầm quan trọng của giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ mầm non ............................................................... ............. 12

2.3. Thực trạng mức độ thường xuyên phối hợp giáo dục dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ ………………………………………………………………………... 13

2.4. Thực trạng nội dung kết hợp giữa nhà trường và gia đình trong giáo dục dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ mẫu giáo bé ở Trường Mầm non 8/3 TP Lạng Sơn .… 15

2.5. Thực trạng kỹ năng tự phục vụ của trẻ mẫu giáo bé Trường Mầm non 8/3 TP Lạng Sơn ………………………………………………………………………. 17

2.6. Nguyên nhân ảnh hưởng đến công tác phối hợp giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ mẫu giáo bé ở Trường Mầm non 8/3 TP Lạng Sơn ……….………….. 19

2.7. Biện pháp kết hợp giữa nhà trường và gia đình trong giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ mẫu giáo bé ở Trường Mầm non 8/3 TP Lạng Sơn ………………. 24

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

1. Kết luận ........................................................................................................... 32

2. Kiến nghị ......................................................................................................... 32

TÀI LIỆU THAM KHẢO …………………………………………………… 35

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Trẻ em hôm nay - Thế giới ngày mai, trẻ em là nguồn hạnh phúc của mỗi

gia đình, là tương lai của đất nước, là lớp người kế tục sự nghiệp của cha ông,

gánh vác mọi công việc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc - xã hội chủ nghĩa. Mọi trẻ

em sinh ra đều có quyền được chăm sóc, nuôi dưỡng, tồn tại và phát triển. Khi xã

hội ngày càng phát triển thì giá trị con người ngày càng được nhận thức đúng đắn

và được đánh giá toàn diện. Vì một tương lai tươi sáng, trẻ em sẽ trở thành chủ

nhân hữu ích của tương lai, thì ngay từ tuổi ấu thơ trẻ phải được hưởng một nền

giáo dục phù hợp, hiện đại và toàn diện về mọi mặt;

Giáo dục mầm non là bậc học đầu tiên đặt nền móng cho sự phát triển nhân

cách con người mới, con người Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Việc chăm sóc giáo

dục trẻ em ngay từ những tháng năm đầu tiên của cuộc sống là một việc làm hết

sức cần thiết và có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Mục tiêu Giáo dục mầm non là

giúp trẻ em phát triển về thể chất, tình cảm, thẩm mỹ, hình thành những yếu tố

đầu tiên của nhân cách. Hình thành và phát triển ở trẻ em những chức năng tâm

sinh lý, năng lực và phẩm chất mang tính nền tảng, những kĩ năng cần thiết của

lứa tuổi này khơi dậy và phát triển tối đa khả năng tiềm ẩn, đặt nền tảng cho việc

học tập ở các cấp học tiếp theo. Muốn đạt được những mục tiêu giáo dục đó người

làm nhiệm vụ cần chú trọng đến vấn đề giáo dục tính tự lập cho trẻ;

Tuy nhiên ở lứa tuổi này nếu như không biết uốn nắn trẻ không đến nơi thì

sẽ gây khó khăn cho các bậc học sau này. Chính vì vậy người lớn chúng ta cần

phải rèn luyện cho trẻ những thói quen tốt ngay từ nhỏ. Như ông bà nói “Dạy trẻ

từ thủa còn thơ”. Thật vậy, với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế rất nhiều

bậc phụ huynh có ít thời gian để quan tâm và hướng dẫn con cái chính vì vậy trẻ

thường hay ỷ lại và không tự lo cho bản thân. Trẻ em ngày nay đã thông minh

hơn, hoạt bát, lém lỉnh hơn nhiều so với trẻ ngày xưa. Tuy nhiên các con lại rất

thiếu kĩ năng sống, thiếu khả năng tự lập thường hay dựa dẫm vào người lớn. Khi

gặp khó khăn chúng tìm ngay đến người lớn mà không tìm cách giải quyết. Điều

này ảnh hưởng đến sự phát triển nhận thức, tình cảm của trẻ;

1

Hiện nay đối với gia đình, chủ yếu là cha mẹ còn có nhiều sai lầm về giáo

dục nói chung và giáo dục tính tự lập cho trẻ nói riêng. Thứ nhất là nuông chiều

con quá mức dẫn đến việc chỉ biết hưởng thụ sau này trở thành người có tính ích

kỉ, vụng về, thiếu tự tin trong cuộc sống. Thứ hai là không tin vào khả năng của

trẻ, trẻ muốn làm nhưng thấy trẻ làm lóng ngóng, chậm chạp thì tỏ ra khó chịu,

nên người lớn thường sốt ruột và làm thay trẻ dẫn đến trẻ có thái độ bướng bỉnh

dần dần tạo ra sự ỷ lại dần dần mất tự tin ở trẻ;

Về mặt lý luận và thực tế cho thấy nếu trẻ biết tự phục vụ, trẻ thấy quý

trọng bản thân nuôi dưỡng những giá trị sống và hình thành kĩ năng sống tích cực

trong trẻ, giúp trẻ cân bằng cuộc sống trên bốn lĩnh vực nền tảng: Thể trạng, tâm

hồn, trí tuệ, tinh thần từ đó xây dựng cho trẻ những kỹ năng tự phục vụ hòa nhập

với môi trường xung quanh.Việc giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ em rất cần

sự phối hợp của nhiều lực lượng (gia đình, nhà trường, xã hội). Với tư cách là

giáo viên mầm non tương lai, hiện đang được học tập và nghiên cứu về đặc điểm

tâm, sinh lý trẻ em, quá trình chăm sóc giáo dục trẻ mầm non và thực tế quan sát,

chứng kiến sự bất cập trong cách nuôi, dạy trẻ ở gia đình và nhà trường … Do đó,

chúng tôi chọn đề tài: Thực trạng kết hợp giữa nhà trường và gia đình trong

giáo dục kỹ tự phục vụ cho trẻ mẫu giáo bé ở Trường Mầm non 8/3 Thành phố

Lạng Sơn.

2. Mục đích nghiên cứu

Tìm hiểu thực trạng kỹ năng tự phục vụ của trẻ mẫu giáo bé ở trường Mầm

non 8/3 TP Lạng Sơn. Từ đó đề xuất biện pháp kết hợp nhà trường - gia đình để

giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ mẫu giáo bé, góp phần nâng cao chất lượng

giáo dục mầm non.

3. Nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Tìm hiểu nội dung chương trình và phương pháp giáo dục kỹ năng tự

phục vụ cho trẻ mầm non và những vấn đề lý luận có liên quan đến giáo dục kỹ

năng tự phục vụ;

3.2. Tìm hiểu thực trạng kỹ năng tự phục vụ, hoạt động giáo dục kỹ năng

tự phục vụ của trẻ mẫu giáo bé lớp 3A1 - Trường Mầm non 8/3 TP Lạng Sơn; 2

3.3. Đề xuất biện pháp kết hợp nhà trường - gia đình trong công tác giáo

dục tự phục vụ cho trẻ mẫu giáo bé lớp 3A1.

4. Đối tượng và khách thể nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu: Biện pháp kết hợp gia đình - nhà trường trong

giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ mẫu giáo bé;

4.2. Khách thể nghiên cứu: Kỹ năng tự phục vụ bản thân và hoạt động giáo

dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ mẫu giáo bé lớp 3A1 - Trường Mầm non 8/3 TP

Lạng Sơn;

Cụ thể chúng tôi tiến hành nghiên cứu 27 trẻ mẫu giáo bé lớp 3A1 - Trường

Mầm non 8/3 TP Lạng Sơn.

5. Phạm vi nghiên cứu

Do điều kiện thời gian, trình độ và khả năng có hạn tôi chỉ tập trung nghiên

cứu biện pháp kết hợp giữa nhà trường và gia đình để giáo dục kỹ năng tự phục

vụ cho trẻ mẫu giáo bé lớp 3A1 - Trường Mầm non 8/3 TP Lạng Sơn.

6. Các phương pháp nghiên cứu

Để phục vụ cho việc nghiên cứu đề tài, chúng tôi sử dụng tổng hợp các

phương pháp nghiên cứu sau:

6.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận bao gồm các phương pháp

như: Nghiên cứu giáo trình, tài liệu nhằm thu thập thông tin phục vụ cho việc xây

dựng cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu và định hướng cho việc nghiên cứu thực

tiễn. Phương pháp đọc sách: Chúng tôi đã đọc các tài liệu có liên quan tới vấn đề

kỹ năng tự phục vụ, giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ mầm non, việc phối hợp

giữa nhà trường và gia đình trong giáo dục trẻ;

Việc nghiên cứu và đọc những tài liệu giúp chúng tôi giải quyết nhiệm vụ

1 của đề tài (làm sáng tỏ một số vấn đề giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ mầm

non).

6.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Phương pháp điều tra;

Phương pháp quan sát các biểu hiện, hành vi; Phương pháp nghiên cứu sản phẩm

của hoạt động thông qua hoạt động hàng ngày; Phương pháp trò chuyện với cô,

trẻ, phụ huynh ...

3

6.3. Nhóm phương pháp thống kê toán học: Xử lý thông tin bằng phương

pháp thống kê toán học.

4

NỘI DUNG

CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1. Một số khái niệm cơ bản

1.1. Kỹ năng tự phục vụ

Kỹ năng tự phục vụ được hiểu là kỹ năng tự chăm sóc bản thân và làm quen

với những sinh hoạt thường ngày trong ứng xử và trong giao tiếp của trẻ đối với

mọi người xung quanh.

1.2. Giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ mầm non

Bản chất của giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ mầm non là dạy trẻ mầm

non biết cách thực hiện những việc cần thiết tự phục vụ cho bản thân để thích nghi

với cuộc sống. Trẻ biết biết tự xúc ăn, tự ngồi bô, tự mặc, cởi bớt áo, xúc miệng,

rửa tay ...

1.3. Nội dung giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ mầm non

Gia đình và nhà trường (cô giáo) cần rèn luyện cho trẻ những thói quen, kỹ

năng tự phục vụ như:

- Trẻ tự rửa mặt, rửa tay: trước khi ăn, sau khi đi đại tiện, chải đầu, đánh

răng;

5

- Có ý thức giữ vệ sinh nơi công cộng, tôn trọng người khác như: không

khạc nhổ bậy, không vứt rác ra lớp học, nơi công cộng, biết sử dụng

nước sạch …;

- Trẻ tự mặc quần áo, biết đòi hỏi người lớn phải cho mình ăn mặc gọn gàng

sạch sẽ;

- Biết lấy, cất gối;

- Biết giữ, cất, đồ dùng đồ chơi gọn gàng sạch sẽ. Biết giúp cô lau bàn ghế,

rửa đồ chơi, xếp lại giá đồ chơi gọn gàng ngăn nắp;

- Khi ra nắng biết đội mũ nón và biết mặc áo mưa khi trời mưa;

- Biết dùng tay - khăn che miệng khi hắt hơi, ho, ngáp, gỉ mũi …

2. Đặc điểm phát triển của trẻ mẫu giáo bé

Trẻ mẫu giáo có độ tuổi trải từ 3 đến 6 tuổi (bé, nhỡ, lớn), khoảng thời gian

không dài so với cuộc đời con người nhưng lại có tốc độ phát triển mạnh mẽ và

ảnh hưởng quan trọng đến sự phát triển nhân cách trẻ sau này;

Trẻ có sự phát triển vận động, sự phát triển hiểu biết về cơ thể bản thân, sự

phân hóa thuận nghịch phải - trái, cấu trúc hóa không gian, cấu trúc hóa thời gian,

viết vẽ ...;

Về vận động, trẻ đã có khả năng vận động hài hòa, di chuyển nhanh nhẹn,

đi vững và có khả năng cân bằng tốt. Sự phối hợp tay, chân đã phát triển nhịp

nhàng, khéo léo.VD: Trẻ tự mặc quần áo, chải răng, tự bê ghế ...

6

- Đặc trưng chủ yếu trong động tác, cử chỉ của trẻ đầu tuổi mẫu giáo là tính

tự phát và tính tự nhiên. Tính tự nhiên của vận động thể hiện: những động tác, cử

chỉ, điệu bộ của trẻ được thể hiện một cách tự nhiên,thoải mái. Tính tự phát của

vận động thể hiện trong các hoạt động khám phá môi trường của trẻ: Tháo, lắp

ghép ...

Về sự hiểu biết về cơ thể bản thân được thể hiện bằng việc trẻ nhận ra mình

trong gương, khám phá, nhận biết cơ thể của bản thân. Cụ thể:

- Từ 3 tuổi trở đi, chức năng nội tâm hóa, trí tưởng tượng ... phát triển, làm

cho sự hiểu biết về cơ thể của trẻ có những thay đổi. Sự hợp nhất giữa hình ảnh

cơ thể mà trẻ nhìn thấy qua soi gương với các cảm giác, xúc giác, vận động giúp

trẻ hiểu rõ hơn và làm phong phú thêm hình ảnh mà trẻ nhìn thấy về

cơ thể bản thân.

Sự hiểu biết về cơ thể bản thân chính là ý thức về cơ thể, về khả năng vận

động và hành động của cơ thể đó. Hiểu biết về cơ thể bản thân là 1 yếu tố cơ bản,

cần thiết cho sự hình thành nhân cách, trẻ nhận ra mình, người khác dựa theo

chính con người trẻ. Càng hiểu rõ về cơ thể bản thân, trẻ càng dễ dàng nhận ra,

chấp nhận, chịu trách nhiệm về mình và ngược lại.

Giai đoạn này, não trẻ đã gần nặng bằng não người lớn (1200g ở tuổi thứ

3). Tư thế đứng thẳng. Và những bước đi đã vững chãi hơn. Trẻ tiếp thu mạnh mẽ

những thao tác với công cụ – đối tượng. Tri thức thực tiễn dần được hình thành

trong não trẻ. Hành động của trẻ với các đối tượng được coi là thành tựu rõ rệt

7

đầu tiên trong lứa tuổi này. Thông qua những hành động với các đối tượng xung

quanh mình mà trẻ dần hình thành được những nhận thức cơ bản về chúng. Trí

nhớ vận động của trẻ rất phát triển, đặc biệt là những thao tác với đồ vật. Trẻ

hướng tới những đồ vật do con người tạo ra để tìm hiểu.Trẻ khám phá chúng theo

hướng đây là cái gì? Có thể làm gì với cái này? Làm thế nào?… Nhờ đó trẻ thiết

lập được mối tương quan giữa các đồ vật với nhau. Cha mẹ nên đồng hành cùng

trẻ trong quá trình khám phá thế giới xung quanh. Tránh tình trạng áp đặt, độc

đoán theo chủ quan người của lớn.Tính cách trẻ đang trên bước đường hình thành.

Do đó, cách ứng xử của người lớn góp phần quan trọng trong việc định hình tính

cách trẻ.

3. Vai trò của việc kết hợp nhà trường và gia đình trong giáo dục kỹ năng tự

phục vụ cho trẻ mầm non

Việc giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện các phẩm chất và năng lực nhằm giúp

trẻ phát triển nhân cách một cách toàn diện là một quá trình lâu dài liên tục, diễn

ra ở nhiều môi trường khác nhau, liên quan rất nhiều đến các mối quan hệ xã hội

phức tạp. Vì thế, giáo dục trẻ luôn đòi hỏi sự kết hợp chặt chẽ, đúng cách của nhà

trường, gia đình và mọi người trong xã hội;

Thực tế môi trường xã hội trẻ sống bên cạnh các tác động tốt, các ảnh hưởng

tiêu cực luôn tồn tại, chứa các yếu tố có thể gây nguy hại đến sự phát triển nhân

cách của trẻ. Với đặc điểm hiếu động và ít vốn sống, trẻ dễ bắt chước theo, dần

dần trở thành thói quen xấu, tác động tiêu cực đến sự phát triển nhân cách của trẻ.

Khi thiếu sự phối hợp đúng đắn, thiếu sự thống nhất các tác động giáo dục giữa

nhà trường, gia đình thì hậu quả xấu trong giáo dục dễ xuất hiện, hậu quả tai hại.

* Đặc điểm của nhà trường trong công tác giáo dục

- Là những người được đào tạo chuyên biệt về công tác giáo dục trong các

trường sư phạm do nhà nước quản lý (các thầy cô giáo);

- Việc đào tạo và giáo dục thế hệ trẻ được tiến hành theo một quy trình chặt

chẽ khoa học, bằng PHƯƠNG PHÁP NHÀ TRƯỜNG (Mục đích, Nội dung,

Phương pháp, Hình thức, Nội quy, Quy chế theo kiểu nhà trường) với hiệu quả

cao;

8

- Tuy nhiên có một số điều kiện nhà trường cũng không thể bằng gia đình

và xã hội trong việc giáo dục thế hệ trẻ như: Điều kiện về thời gian, điều kiện về

vật chất và tinh thần …

* Đặc điểm của gia đình trong công tác giáo dục

Giáo dục gia đình là một phần vô cùng quan trọng đối với sự hình thành

nhân cách trẻ. Cha mẹ trẻ là người thầy đầu tiên của con cái họ, là những người

xây dựng nền tảng của nhân cách đứa trẻ. Quan hệ trong gia đình là quan hệ tình

thương. Cha mẹ trẻ là người gần gũi nhất, hiểu rõ nhất những đặc điểm tâm lý của

trẻ. Nhân cách của cha mẹ có ảnh hưởng mạnh mẽ đến tư tưởng, tình cảm của trẻ.

Gia đình là trường học đầu tiên của lòng nhân ái;

Tuy nhiên trong công tác giáo dục trẻ, cha mẹ trẻ có trình độ văn hoá, trình

độ giáo dục không đồng đều, sự yêu thương và chiều chuộng con cái không đúng

mức sẽ ảnh hưởng không tốt đến sự hình thành nhân cách của các em.

* Đặc điểm của các tổ chức xã hội trong công tác giáo dục

- Có điều kiện về cơ sở vật chất, về tiềm lực kinh tế, về điều kiện tinh thần

có thể hỗ trợ cho nhà trường trong việc tổ chức các hoạt động giáo

dục khác nhau;

- Là nơi trẻ có thể thâm nhập thực tế, gắn liền giữa học với hành kết hợp

giữa giáo dục với lao động sản xuất;

- Tuy nhiên điều kiện gần gũi và hiểu biết trẻ của các tổ chức xã hội còn

hạn chế, trình độ về giáo dục của các tổ chức xã hội đối với thế hệ trẻ cũng rất

khác nhau. Vì thế cần sự tư vấn về giáo dục từ phía nhà trường.

Mối quan hệ giữa giáo dục nhà trường với giáo dục gia đình và xã hội

* Nếu giáo dục trẻ chỉ trong nhà trường mà thiếu giáo dục trong gia đình

và ngoài xã hội thì sẽ:

- Có thể làm cho các tác động giáo dục diễn ra lệch hướng và không thống

nhất với nhau;

- Không phát huy sức mạnh tổng hợp của các lực lượng giáo dục;

9

- Bỏ lỡ cơ hội để các bậc cha mẹ, các lực lượng xã hội có điều kiện thực

hiện trách nhiệm, nghĩa vụ của mình trong việc nuôi dạy con cái và đào tạo thế hệ

trẻ, góp phần thực hiện xã hội hoá giáo dục;

Vì vậy “Giáo dục trong nhà trường dù tốt đến mấy nhưng thiếu giáo dục

trong gia đình và ngoài xã hội thì kết quả cũng không hoàn toàn”.

Ngược lại giáo dục trong gia đình, giáo dục ngoài xã hội mà thiếu giáo dục

của nhà trường thì việc tổ chức quá trình giáo dục sẽ gặp khó khăn không chỉ về

mặt truyền thụ tri thức mà còn ở mặt sử dụng các phương pháp và hình thứctổ

chức giáo dục, mất đi tính chuyên nghiệp, tính khoa học của giáo dục và do vậy

tính hiệu quả không cao, thậm chí không thể thực hiện được. Do đó, mối quan hệ

giữa giáo dục nhà trường với giáo dục gia đình và xã hội là mối quan hệ biện

chứng;

Sự thống nhất tác động giáo dục từ nhà trường, gia đình và xã hội là vấn đề

có tính nguyên tắc đảm bảo cho mọi hoạt động giáo dục có điều kiện đạt hiệu quả

tốt; được xác định trong nhiều văn bản pháp luật ở nước ta hiện nay vì mục tiêu

đào tạo thế hệ trẻ thành những công dân hữu ích cho đất nước.

10

CHƯƠNG II: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

2.1. Vài nét về khách thể nghiên cứu

Trường Mầm non 8/3 đặt tại số 8 - Đường Trần Hưng Đạo – Phường Chi

Lăng - Thành phố Lạng Sơn là trường đạt Chuẩn quốc gia, với cơ sở vật chất và

trang thiết bị dạy học khang trang, hiện đại đáp ứng tốt yêu cầu Giáo dục mầm

non. Hoạt động giáo dục của Nhà trường đạt chất lượng, đảm bảo đủ điều kiện tốt

cho việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho trẻ mầm non;

Cán bộ quản lý và giáo viên của trường đã có nhiều năm công tác, giàu kinh

nghiệm hướng dẫn sinh viên khoa Giáo dục mầm non đến thực tế, thực tập. Năm

học 2022 - 2023 nhà trường có nhiều phòng học được xây dựng mới nên các lớp

2 tuổi năm trước năm nay được chia thành 4 lớp 3 tuổi; mỗi lớp 27 trẻ/ 2 cô, rất

thuận lợi hơn cho việc chăm sóc giáo dục trẻ đầu cấp;

Trẻ trường mầm non 8/3 năm học 2022 - 2023 đa số sống ở các Khối trên

địa bàn phường Chi Lăng, là phường đông dân cư sinh sống, đặc điểm hoàn cảnh

sống, trình độ, nghề nghiệp của cha mẹ cũng rất phong phú, CBCNV Nhà nước,

lao động tự do, kinh doanh thương mại, dịch vụ, làm nghề nông, làm ở các công

ty, xí nghiệp … Nhiều điều kiện, hoàn cảnh, trình độ nhận thức khác nhau nên

thời gian, cách thức quan tâm đến việc chăm sóc giáo dục cho con em mình cũng

khá khác nhau. Có trẻ sáng được đưa vội đến trường, chưa kịp ăn sáng, có trẻ đến

ăn xôi, uống sữa ở sân trường. Có trẻ được gia đình chuẩn bị cẩn thận, đi học đúng

giờ; trẻ đi muộn, trẻ được đón sớm; trẻ được đón muộn vội vàng lúc cuối giờ. Trẻ

hôm nay được bố mẹ nhờ người bác, mai nhờ chú, cậu, bà đón. Có những trẻ

nhiều lần cô phải nhắc trên nhóm là chưa có ai đón. Đa số phụ huynh cho rằng

nhờ giáo viên chăm sóc và giáo dục cho con em mình ở trường trẻ mới có thói

quen, nề nếp tốt chứ trẻ ở nhà 2 ngày cuối tuần phụ huynh đã rất khó để xoay sở

ở cả mọi mặt. Việc chăm sóc giáo dục trẻ ở nhà không phải gia đình nào cũng

quan tâm và biết tổ chức thực hiện khoa học, biết giáo dục kỹ năng tự phục vụ

cho trẻ. Do đó, trẻ nhà trẻ thường gặp khó khăn trong tự phục vụ và hòa nhập môi

trường mới.

11

2.2. Nhận thức về tầm quan trọng của giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ

mầm non

Để tìm hiểu vấn đề này, chúng tôi đã sử dụng câu hỏi 1 (xem phụ lục) đối

với 25 phụ huynh của lớp và 8 giáo viên lớp 3 tuổi của trường mầm non 8/3 TP

Lạng Sơn. Kết quả thu được như sau:

Bảng 1: Nhận thức về tầm quan trọng của công tác giáo dục kỹ năng

sống cho trẻ mầm non

Mức độ Quan trọng Không quan trọng Bình thường

Thành phần SL % SL % SL %

Giáo viên 8 100 0 0 0 0

Phụ huynh 25 100 0 0 0 0

Số liệu bảng 1 cho thấy giáo viên và phụ huynh trường mầm non đều nhận

thức được tầm quan trọng của công tác giáo dục kỹ năng tự phục vụ. 100% giáo

viên nhà trẻ coi công tác giáo dục kỹ năng tự phục vụ là quan trọng, không có

giáo viên nào cho rằng việc giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ là bình thường

hoặc không quan trọng. Điều này cho thấy rằng, giáo viên trường Mầm non 8/3

nhận thức đúng đắn và đánh giá rất cao vai trò, tầm quan trọng của công tác giáo

dục kỹ năng tự phục vụ đối với sự hình thành và phát triển nhân cách, chất lượng

cuộc sống của trẻ. Đây là thông tin rất đáng mừng, là cơ sở để giáo viên luôn ý

thức, tích cực thực hiện các hoạt động giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ;

Đối với phụ huynh, 100% phụ huynh đã nhận thức được vai trò cũng như

tầm quan trọng của việc giáo dục kỹ năng tự phục vụ, kỹ năng tự phục vụ đóng

vai trò quan trọng trong việc phát triển nhân cách và đảm bảo chất lượng sống tốt

cho trẻ; không có phụ huynh cho rằng vai trò của giáo dục kỹ năng tự phục vụ là

bình thường hoặc không quan trọng. Như vậy, phụ huynh lớp mẫu giáo bé 3A1

được hỏi nhận thức đúng tầm quan trọng của công tác giáo dục kỹ năng tự phục

vụ với trẻ, hình thành hành vi thói quen cần thiết để thích nghi với cuộc sống mà

trẻ mới và đang làm quen.

12

2.3. Thực trạng mức độ thường xuyên phối hợp giáo dục dục kỹ năng tự phục

vụ cho trẻ

Việc thường xuyên hay không thường xuyên thực hiện hoạt động giáo dục

kỹ năng kỹ năng tự phục vụ cho trẻ cũng có ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng

giáo dục cũng như việc hình thành khả năng thích ứng cho trẻ. Để tìm hiểu vấn

đề này chúng tôi sử dụng câu hỏi 2 (xem phụ lục) và thu được kết quả như sau:

Bảng 2: Mức độ thường xuyên phối hợp giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ

Thường xuyên Đôi khi Không bao giờ Mức độ SL % SL % SL %

Giáo viên (8) 8 100 0 0 0 0

Phụ huynh (25) 17 68 8 32 0 0

100% giáo viên được hỏi cho biết họ thường xuyên phối hợp với phụ huynh

để giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ. Điều này có nghĩa, 100% giáo viên nhận

thức đúng và đánh giá cao vai trò của việc phối hợp giữa nhà trường, gia đình để

giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ. GV nhận thức đúng vai trò, tầm quan trọng

của giáo dục kỹ năng kỹ năng tự phục vụ cho trẻ, trách nhiệm nghề nghiệp của

mình và ý thức thực hiện thường xuyên đây là điều rất đáng mừng và cần được

nhân rộng ở mọi nơi, với mọi người lớn trong thực hiện trách nhiệm với trẻ, với

sự nghiệp trồng người;

Tuy nhiên, giáo viên cũng cho biết không phải khi nào, phụ huynh nào cũng

chủ động, sẵn sàng hợp tác hay chú tâm vào để kết hợp giáo dục kỹ năng tự phục

vụ cho con em. Nhiều gia đình giáo viên nhắc nhở nhiều lần nhưng phụ huynh

vẫn quên hoặc bộc lộ cách giáo dục con không phù hợp ngay trước GV và trẻ …;

Đa số phụ huynh được hỏi cho rằng thường xuyên phối hợp với cô giáo để

giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ (68%) nhưng thực tế họ chưa thực sự quan

tâm phối hợp với giáo viên mầm non để giáo dục cho con em mình hoặc phối hợp

giáo dục đúng cách, quan tâm theo kiểu: “Trăm sự nhờ cô, chứ chúng tôi không

bảo được, trẻ bướng hoặc lè nhè lắm!”; “trẻ tiến bộ là nhờ cô giáo dạy”. Có tới

13

32% phụ huynh nhận định rằng họ đôi khi cũng giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho

con em, thẳng thắn thừa nhận họ chưa chú ý phối hợp với cô để giáo dục kỹ năng

tự phục vụ cho trẻ vì bận và cô dạy là tốt rồi, tôi hiểu về kỹ năng tự phục vụ còn

rất mơ hồ. Điều này cho thấy việc kết hợp giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ

mẫu giáo bé chưa được phụ huynh quan tâm thực hiện đúng mứchoặc có thực

hiện nhưng chưa thường xuyên, triệt để, chưa có hiệu quả. Trẻ lớp mới lần đầu

đến trường, chính phụ huynh còn rất bịn rịn khi đưa con vào lớp, làm ảnh hưởng

đến tâm lý, kỹ năng tự phục vụ của trẻ, GV nhắc nhở nhiều lần vẫn chưa thay đổi

chứ chưa nói là biết cách phối hợp. Kết quả này cũng khớp với ý kiến giáo viên

nhận định trẻ khi mới đi học thiếu và yếu về kỹ năng tự phục vụ, đặc biệt kỹ năng

tự lập, kỹ năng giao tiếp ... Chẳng hạn, ngay từ khi đón trẻ cô đã nhắc trẻ cất đồ,

chào mẹ, chào cô để vào lớp nhưng nhiều phụ huynh vẫn tháo dép, cởi giầy, cởi

mũ cất cho trẻ và cũng không chú ý nhắc trẻ chào mình để vào lớp, làm hạn chế

việc hình thành thói quen, kỹ năng tự lập, kỹ năng giao tiếp của trẻ;

GVMN khẳng định: Để làm tốt công tác chăm sóc, giáo dục đối với trẻ mẫu

giáo bé theo mục tiêu nhiệm vụ bao giờ cũng khó khăn, vất vả hơn so với lớp lớn,

chưa kể lý do sức khỏe của các con lớp bé hạn chế hơn, các con hay ốm, đang rèn

nề nếp một chút lại có dịch bệnh lây nhau, các con phải nghỉ học ở nhà một thời

gian đi học lại lại gặp khó khăn;

Ý kiến của phụ huynh và giáo viên cho thấy chúng ta cần có biện pháp để

tăng cường kết hợp giữa nhà trường và gia đình trong giáo dục kỹ năng tự phục

vụ cho trẻ mầm non. Cần tích cực, chủ động tận dụng, khai thác các nội dung,

hình thức để giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ mẫu giáo bé giúp các em hình

thành và phát triển nhân cách đúng đắn. Mặt khác, chúng ta cũng cần khẳng định

rằng hoạt động giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ mẫu giáo bé không phải quá

cao siêu, xa vời. Nó chỉ đơn giản là tất cả những việc làm của nhà giáo dục (giáo

viên, cha mẹ học sinh, cộng đồng xã hội) hướng dẫn trẻ, làm mẫu, làm gương để

trẻ mầm non hiểu biết cụ thể rèn luyện những thói quen, thực hành, tự tin trong

các tình huống của cuộc sống xung quanh trẻ.

14

2.4. Thực trạng nội dung kết hợp giữa nhà trường và gia đình trong giáo dục

dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ mẫu giáo bé ở Trường Mầm non 8/3 TP Lạng

Sơn

Để tìm hiểu thực trạng nội dung kết hợp giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho

trẻ của GVMN, phụ huynh và kiểm tra tính chính xác của các thông tin trên, chúng

tôi sử dụng câu hỏi mở: Quý vị hãy kể tên một số kỹ năng tự phục vụ mà gia

đình/thầy cô thường phối hợp với giáo viên mầm non/gia đình để giáo dục cho

trẻ? Kết quả thu được như sau:

Bảng 3: Thực trạng nội dung kết hợp giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ

TT Nội dung kỹ năng tự phục vụ giáo dục cho trẻ GV PH

1 Tự chào hỏi, không cần nhắc 8 80 22 88

2 Tự xúc ăn, ngồi bô 8 80 19 76

3 Tự cởi, cất giày, dép 8 80 18 72

4 Tự cởi, cất túi đồ 8 80 18 72

5 Tự rửa tay, mặt 8 80 22 88

6 Tự bảo vệ (chơi an toàn) 8 80 20 80

7 Kỹ năng khác ... 6 80 0 0

Số liệu bảng 3 cho thấy: Thực trạng nội dung kết hợp giữa GV và PH đểgiáo

dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ chủ yếu được giáo viên nhận thức đồng đều và

thực hiện phong phú hơn. Phụ huynh nhận thức về nội dung giáo dục kỹ năng tự

phục vụ rất khác nhau và chưa đầy đủ, chính xác nên chưa chú ý kết hợp giáo dục

cũng là dễ hiểu. Thể hiện 100% giáo viên kể tên các kỹ năng tự phục vụ, các nhóm

kỹ năng tự phục vụ một cách hệ thống, chi tiết, giống nhau và mang tính chuyên

môn, chuyên nghiệp cao như chúng tôi thống kê ở trên trong khi phụ huynh không

kể được hoặc chỉ số ít kể được các kỹ năng rất vụn vặt rất khó thống kê như: Dạy

trẻ chào hỏi, ngoan, lễ phép, tự xúc ăn, đánh răng; buộc tóc, cởi dép, ngồi bô, đi

ngủ và thức dậy sớm …;

15

Một số phụ huynh có khẳng định quan trọng là dạy trẻ mạnh dạn, không

nhút nhát, biết tự xúc ăn. Những kỹ năng như kỹ năng hợp tác, chia sẻ, kỹ năng

tự bảo vệ chưa thực sự được phụ huynh quan tâm đúng mức: Rất ít phụ huynh cho

biết dạy con họ tên mình, tên bố mẹ. Thực tế chúng tôi tiếp xúc, trò chuyện với

trẻ hỏi các con về tên con, tên bố mẹ chúng tôi nhận thấy đa số các con rất ngơ

ngác;

Kết quả nghiên cứu chỉ ra một thực tế là: GVMN và phụ huynh trẻ mầm

non có nhận thức rất khác nhau về nội dung giáo dục kỹ năng tự phục vụ cũng

như việc thường xuyên kết hợp giáo dục cho trẻ. GVMN nhận thức đầy đủ, đánh

giá cao và thường xuyên thực hiện giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ nhưng phụ

huynh học sinh chưa nhận thức được đầy đủ, chưa hiểu sâu sắc ý nghĩa, tầm quan

trọng, cách thức giáo dục cũng như chưa thường xuyên giáo dục và kết hợp giáo

dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ là điều bất lợi cho công tác chăm sóc giáo dục trẻ

mẫu giáo bé. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến việc thích nghi, thích ứng của

trẻ ở nhà trường, gia đình, xã hội cũng như sự hình thành hành vi, thói quen cũng

như việc đặt nền móng cho những phẩm chất nhân cách. Gia đình là trường học

đầu tiên, cha mẹ là người thầy đầu tiên của con cái họ, trẻ càng nhỏ, ảnh hưởng

của gia đình càng lớn … mà gia đình lại thiếu sự am hiểu về nội dung, phương

pháp giáo dục kỹ năng tự phục vụ cũng như nhận thức chưa đầy đủ, đúng đắn vầ

tầm quan trọng và thường xuyên tận dụng mọi tình huống, tạo tình huống để giáo

dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ thì đó không phải chỉ là một sự lãng phí mà còn

là sự thiếu sót lớn về trách nhiệm do thiếu hiểu biết tạo ra. Trẻ càng nhỏ khả năng

bỏ ngỏ càng lớn, chúng ta dạy trẻ được điều gì trẻ sẽ tiếp thu, ghi nhớ và thực

hành làm ngay và có thói quen bền vững khác hẳn với khi đã lớn tuổi hơn con

người có thể đối phó, giữ kẽ, che giấu hạn chế … nên khó giáo dục hơn. Chính vì

lẽ đó mà việc giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ cần được phụ huynh đặc biệt

quan tâm.

2.5. Thực trạng kỹ năng tự phục vụ của trẻ mẫu giáo bé Trường Mầm non

8/3 TP Lạng Sơn

16

Với câu hỏi cho GV: Theo cô, kỹ năng tự phục vụ của trẻ lớp cô đa số đạt

được ở mức độ nào và tỷ lệ đạt? Và cho phụ huynh: Theo quý vị phụ huynh, kỹ

năng tự phục vụ của con (cháu) quý vị đã đạt được ở mức độ nào? Chúng tôi thu

được kết quả nhận xét như sau:

Bảng 4: Thực trạng kỹ năng tự phục vụ của trẻ lớp 3A1 Trường Mầm

non 8/3

Mức độ Tốt Khá Trung bình Yếu

Thành phần SL % SL % SL % SL %

Giáo viên (8) 2 25 3 37.5 2 25 1 12.5

Phụ huynh (25) 5 20 13 52 6 24 1 4

Số liệu cho thấy thực trạng kỹ năng tự phục vụ của trẻ lớp 3A1 trường Mầm

non 8/3 TP Lạng Sơn có sự khác nhau. Phụ huynh và GVMN đánh giá có sự khác

nhau về kỹ năng tự phục vụ của trẻ mẫu giáo bé và khác nhau ở các mức độ. Giáo

viên và phụ huynh đánh giá kỹ năng tự phục vụ của trẻ mẫu giáo bé chủ yếu ở

mức khá. Có sự đánh giá khác nhau giữa giáo viên mầm non và phụ huynh trẻ ở

từng mức độ. Không có Giáo viên mầm non nào đánh giá trẻ mẫu giáo bé có kỹ

năng tự phục vụ ở mức tốt. Phụ huynh lớp đánh giá số trẻ có kỹ năng tự phục vụ

ở mức tốt rất khiêm tốn 20% ý kiến. Điều này cho thấy: Số trẻ có kỹ năng tự phục

vụ tốt, trẻ biết chào hỏi, ngoan, lễ phép, tự xúc ăn, đánh răng; buộc tóc, cởi dép,

ngồi bô, đi ngủ và thức dậy sớm … còn rất khiêm tốn. Tìm hiểu cụ thể vào lớp

3A1 chúng tôi được biết số này tập trung chủ yếu vào các con nổi trội hơn, sinh

đầu năm, đi nhóm trẻ sớm … Nghiên cứu một cách ngẫu nhiên ½ số trẻ đầu danh

sách lớp chúng tôi thu được kết quả đánh giá chủ yếu là trung bình. Số trẻ có kỹ

năng yếu cũng chiếm 12.5% theo đánh giá của GV. Tuy nhiên ý kiến của phụ

huynh về mức này rất thấp. Trong các mức độ có sự đánh giá khác nhau giữa GV

và phụ huynh. Phụ huynh đánh giá kỹ năng tự phục vụ của trẻ ở mức khá cao hơn

phụ huynh đánh giá kỹ năng tự phục vụ của trẻ cao hơn ở mức trung bình; thấp

hơn đánh giá của GV ở mức Yếu. Sự chênh lệch này có thể do với phụ huynh con

17

ở nhà quen, vui vẻ thực hiện mọi việc, còn với GV khi trẻ lần đầu tiên đến trường,

còn nhiều lạ lẫm bỡ ngỡ; trẻ hạn chế kỹ năng nên chưa chủ động, mạnh dạn, cởi

mở. Cả phụ huynh và GV đều nhận thấy trẻ mẫu giáo bé bộc lộ điểm mạnh, hạn

chế. Cha mẹ có xu hướng đánh giá con cao hơn thực tế cũng là dễ hiểu với tâm lý

“ở nhà nhất mẹ nhì con”;

Được đánh giá ở mức tốt có nghĩa là trẻ đã biếtchào hỏi, ngoan, lễ phép, tự

xúc ăn, đánh răng; buộc tóc, cởi dép, ngồi bô, đi ngủ và thức dậy sớm …;

Tuy nhiên, tỉ lệ trẻ ở mức này theo giáo viên đứng lớp nhà trẻ thời gian đầu

là chưa có; còn phụ huynh cũng nhận định còn khá khiêm tốn và thấp so với tỉ lệ

trẻ có kỹ năng tự phục vụ ở các mức độ khác. Tìm hiểu cụ thể vào lớp 3A1 chúng

tôi được biết số này tập trung chủ yếu vào các con sinh đầu năm mà đã đi học

nhóm trẻ từ trước, chứ nhiều cháu sinh đầu năm nhưng chưa đi nhóm trẻ, hoặc

được gia đình chú ý rèn luyện các con cũng rất rụt rè, nhút nhát, hạn chế. Trường

mầm non đánh giá theo bộ tiêu chuẩn gồm 120 chỉ số nên khá chặt chẽ, nghiêm

túc, sát thực. Còn các bậc cha mẹ thì vì hàng ngày chăm sóc con, kỳ vọng và đôi

khi thiếu hướng dẫn và yêu cầu con một cách nghiêm túc, vẫn còn làm thay con

… nên người thì nhận thấy các con còn rất nhiều thiếu sót, hạn chế, người lại đánh

giá con cao hơn. Và cũng với tâm lý thương yêu, bao bọc con không đúng mức,

chưa đúng phương pháp nên đánh giá các con chủ yếu ở mức khá, ở mức trung

bình, đặc biệt không phụ huynh lớp mẫu giáo bé nào đánh giá kỹ năng tự phục vụ

của con mình ở mức yếu, trong khi GV đánh giá có kỹ năng tự phục vụ ở mức

Yếu. Các trẻ vẫn chưa tự phục vụ tốt theo yêu cầu của cô ở trường lớp, sáng đến

lớp vẫn còn bám mẹ khóc, chưa ăn sáng xong, mất nhiều thời gian trong việc xỏ

dép, cất đồ dùng cá nhân, lấy đồ dùng ra sân tập thể dục, ... GV cũng tâm sự đây

là những trẻ phụ huynh cũng chưa thực sự biết phương pháp giáo dục phù hợp, và

chú ý phối hợp với GV trong việc giáo dục trẻ. Phụ huynh vẫn ngày ngày vội vàng

đưa trẻ đến trường lớp muộn, gửi sữa hoặc đồ ăn nhanh của trẻ cho GV trông hộ.

Qua quan sát và nghiên cứu chúng tôi cho rằng GVMN đánh giá chính xác, khách

quan, khoa học hơn vì GV có chuyên môn, hàng ngày hướng dẫn, yêu cầu các con

thực hiện, trải nghiệm, thực hành các kỹ năng và nhìn nhận các con trong mặt 18

bằng chung của nhiều trẻ, đánh giá sẽ chính xác, khách quan hơn nếu các con đạt

hoặc không đạt ở các kỹ năng.

2.6. Nguyên nhân ảnh hưởng đến công tác phối hợp giáo dục kỹ năng tự phục

vụ cho trẻ mẫu giáo bé ở Trường Mầm non 8/3 TP Lạng Sơn

Bảng 5.1: Nguyên nhân ảnh hưởng đến việc kết hợp giáo dục kỹ năng tự

phục vụ cho trẻ ở Trường Mầm non 8/3 (Theo 8 GV)

Mức độ ảnh hưởng

Stt Nguyên nhân ảnh hưởng Nhiều Ít Không ảnh hưởng

SL % SL % SL %

1 Nhà trường chưa quan tâm 0 0 2 25 6 75

đúng mức tới việc tuyên

truyền phụ huynh giáo dục

kỹ năng tự phục vụ cho trẻ

2 Nhận thức và phương pháp 5 62.50 3 37.50 0 0

giáo dục kỹ năng tự phục vụ

cho trẻ của gia đình còn hạn

chế

3 Chưa có sự thống nhất và 6 75 2 25 0 0

phối hợp giáo dục kỹ năng tự

phục vụ cho trẻ giữa Nhà

trường và gia đình

4 Khả năng tiếp nhận và thực 4 50 3 37.5 1 12.50

hành kỹ năng tự phục vụ của

trẻ còn hạn chế

5 Nguyên nhân khác 0 0 0 0 0 0

Bảng 5.2: Nguyên nhân ảnh hưởng đến việc kết hợp giáo dục kỹ năng tự

phục vụ cho trẻ ở Trường Mầm non 8/3 (Theo 25 PH)

STT Nguyên nhân ảnh hưởng Mức độ ảnh hưởng

19

Nhiều Ít

Không ảnh hưởng

SL % SL % SL %

1 Nhà trường chưa quan tâm 3 12 15 60 7 28

đúng mức tới việc tuyên truyền

giáo dục kỹ năng tự phục vụ

cho trẻ

2 Nhận thức và phương pháp 19 76 4 16 2 8

giáo dục kỹ năng tự phục

vụ cho trẻ của gia đình còn

hạn chế

3 Chưa có sự thống nhất và phối 21 84 3 12 1 4

hợp giáo dục kỹ năng tự phục

vụ cho trẻ giữa Nhà trường và

gia đình

4 Khả năng tiếp nhận và thực 22 88 1 4 2 8

hành kỹ năng tự phục vụ của

trẻ còn hạn chế

5 Nguyên nhân khác 0 0 0 0 0 0

Số liệu bảng 5 cho thấy: Có sự nhận định khác nhau về nguyên nhân ảnh

hưởng nhiều đến việc kết hợp giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ mẫu giáo bé ở

từng nguyên nhân nhưng lại tương đồng ở các nguyên nhân. Đa số giáo viên và

phụ huynh đều cho rằng Chưa có sự thống nhất và phối hợp giáo dục kỹ năng tự

phục vụ cho trẻ giữa Nhà trường và gia đình chiếm 78.75% ý kiến giáo viên và

phụ huynh học sinh. Do Nhận thức và phương pháp giáo dục kỹ năng tự phục vụ

cho trẻ của gia đình còn hạn chế cũng là những nguyên nhân ảnh hưởng nhiều

đến hoạt động giáo dục môi trường cho trẻ ở trường Mầm non 8/3. Cuối cùng là

nguyên nhân Khả năng tiếp nhận và thực hành kỹ năng tự phục vụcủa trẻ còn hạn

chế (57.5%). Điều này theo chúng tôi là hợp lý vì đây là một nội dung giáo dục

20

mà mặc dù nhà trường với tư cách là cơ quan chuyên trách việc giáo dục đào tạo

thế hệ trẻ, am hiểu nội dung, phương pháp cách thức giáo dục cho trẻ, tuyên truyền

và nhắc nhở phụ huynh thực kết hợp thực hiện dạy, rèn cho trẻ những kỹ năng tự

phục vụ cơ bản, nền tảng như kỹ năng giao tiếp cơ bản, tự cất đồ dùng, tự biết đi

vệ sinh … nhưng không phải phụ huynh nào cũng đã quan tâm thực hiện hoặc

thực hiện đúng, vì thiếu phương pháp, thiếu tin tưởng vào khả năng của trẻ hoặc

vì quá yêu thương, nuông chiều làm thay thế cho trẻ mà không biết rằng chính

tình thương, sự bao bọc thái quá hay sự nóng vội, thiếu kiên nhẫn hướng dẫn,

động viên chờ đợi trẻ đã làm hạn chế khả năng bỏ ngỏ rất lớn của các con. Tâm

lý học đã chỉ ra: Sự phát triển của trẻ trong những năm đầu vô cùng nhanh chóng,

quan trọng và thuận lợi cho việc giáo dục những hành vi, thói quen chuẩn mực,

kỹ năng nền tảng nếu ai nắm bắt được điều này để khai thác giáo dục trẻ từ sớm

sẽ góp phần phát huy cao độ tiềm năng của trẻ, ngược lại dù trẻ có năng khiếu

sớm nhưng nếu không được quan tâm giáo dục, tác động đúng, năng khiếu đó

cũng bị mai một, thui chột sau 10 tuổi. Mặt khác, việc yêu cầu phối hợp giữa GV

và phụ huynh cũng là vấn đề tế nhị, đòi hỏi phụ huynh phải luôn chủ động, GV

phải khéo léo, kẻo rất dễ hiểu lầmhoặc tâm lý giáo viên ngại va chạm … nên đôi

khi việc kết hợp giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ giữa GVMN và phụ huynh

còn gặp những trở ngại, ảnh hưởng đến chất lượng và hiệu quả công tác chăm sóc

giáo dục trẻ. Chính vì vậy vấn đề phải kết hợp giữa phụ huynh trong gia đình và

giáo viên trong nhà trường mầm non để giáo dục, rèn kỹ năng tự phục vụ cho trẻ

là việc làm vô cùng hữu ích, cần thiết và đòi hỏi phải làm ngay, thường xuyên,

trong mọi hoàn cảnh, tình huống, mọi lúc mọi nơi, đúng dù có nhận thức đúng và

đánh giá rất cao.

Các phụ huynh đôi khi do quá chú trọng sức khỏe của trẻ, đáp ứng những

nhu cầu, đòi hỏi thái quá của trẻ để trẻ vui hoặc quan tâm đến kết quả học tập của

trẻ, thành tích về mặt sản phẩm, ... mà sao nhãng hoặc thực hiện hình thức đối với

việc giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ. Thực hiện hô hào, nhắc nhở theo kiểu

chung chung, không có nội dung, hình thức thiết thực cụ thể, không có biện pháp

xử lý phù hợp khi gặp những tình huống phức tạp, có trẻ không hưởng ứng. Bên 21

cạnh đó, kỹ năng hướng dẫn hạn chế, không có hiểu biết về tâm lý trẻ cũng như

phương pháp giáo dục cho trẻ, vấp phải những rào cản tư tưởng, quan điểm giáo

dục sai lầm khác trong gia đình và ngoài xã hội cũng làm ảnh hưởng đến việc giáo

dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ. Chẳng hạn có bố mẹ muốn giáo dục kỹ năng tự

phục vụ cho con từ sớm nhưng ông bà lại có quan điểm khác, chiều chuộng, phản

ứng, làm thay cháu, không có sự thống nhất ngay từ trong gia đình cũng làm cho

trẻ khó hình thành hành vi thói quen đúng chuẩn mực. Hoặc có phụ huynh xem

đó là nhiệm vụ của nhà trường và lớn lên trẻ sẽ khôn ra. Mặt khác, không phải gia

đình nào cũng quan tâm đến việc giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho con em, một

số gia đình bố mẹ chỉ quan tâm đến kinh tế, họ chú trọng công việc làm ăn cho

con em có cuộc sống sung sướng về vật chất đã vì trẻ còn nhỏ. Một số gia đình

cũng đã quan tâm giáo dục con em có ý thức gọn gàng ngăn nắp, hành vi lễ phép,

kỹ năng tự phục vụ, sự mạnh dạn, độc lập, dũng cảm, ... Tuy nhiên không phải

gia đình nào cũng được như vậy. Ngoài ra, trẻ còn bị chi phối bởi xã hội hiện đại,

nhà ít con, được chiều chuộng, tạo mọi điều kiện luôn có người phục vụ, giúp tới

nơi, tới chốn.

Về nguyên nhân thứ 3 thì qua nghiên cứu tâm lý học trẻ em, qua quan sát,

trò chuyện chúng tôi nhận thấy: Hầu hết các em bước sang tuổi lên 3 có khả năng

và thích tự xúc ăn, tự mặc quần áo, rửa tay, hứng thú với việc tìm hiểu thế giới

xung quanh, ham hiểu biết, hay hỏi, khi được giao nhiệm vụ vừa sức thì các em

tích cực và tự giác thực hiện mặc dù còn khó khăn, vụng về nhưng khi hướng dẫn,

khích lệ động viên đúng cách các trẻ đều có thể tự làm được. Có nhiều cháu 2 tuổi

được hướng dẫn sớm biết dùng đũa ăn cơm, lấy thức ăn rất khéo léo, chải đầu,

mặc quần áo, đi giầy dép, xỏ tất rất gọn, rất khéo. Điều này cho thấy dù trẻ còn

non nớt nhưng nếu chúng ta quan tâm hướng dẫn sớm ngay khi trẻ thích làm và

kiên trì chờ đợi động viên trẻ tự tin vào khả năng của bản thân, vui vẻ, hòa đồng

... Như vậy kỹ năng tự phục vụ của trẻ chịu sự chi phối của yếu tố động viên,

khích lệ; khi kỹ năng được hướng dẫn rõ ràng, rồi mới đến khi thấy việc làm của

mình có ích hay mình phải có trách nhiệm tự giác. Giáo viên, phụ huynh cần

thường xuyên có sự quan tâm sâu sát, khéo léo xây dựng và hình thành ý thức tự 22

giác thực hiện, những hành động nhỏ được thực hiện hàng ngày như chào hỏi,

ngoan, lễ phép, tự xúc ăn, đánh răng; buộc tóc, cởi dép, ngồi bô, đi ngủ và thức

dậy sớm ... được các em rèn luyện và hình thành thói quen tích cực.

Tóm lại: Những nguyên nhân cơ bản ảnh hưởng đến hoạt động giáo dục kỹ

năng tự phục vụ cho trẻ mẫu giáo bé là:

- Chưa có sự thống nhất và phối hợp giáo dụckỹ năng tự phục vụ cho trẻ

giữa Nhà trường và gia đình;

- Nhận thức và phương pháp giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ của gia

đình còn hạn chế;

- Khả năng tiếp nhận và thực hành kỹ năng tự phục vụ của trẻ

còn hạn chế;

- Nhà trường chưa quan tâm đúng mức tới công tác tuyên truyền phụ huynh

giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ.

2.7. Biện pháp kết hợp giữa nhà trường và gia đình trong giáo dục kỹ năng

tự phục vụ cho trẻ mẫu giáo bé ở Trường Mầm non 8/3 TP Lạng Sơn

Với trăn trở làm thế nào để trẻ có kỹ năng tự phục vụ tốt, dễ dàng thích

nghi với môi trường mới, mang lại chất lượng cuộc sống vui vẻ, an toàn, yêu

thương, nâng cao hiệu quả chăm sóc giáo dục, chúng tôi đã tìm kiếm các biện

pháp kết hợp giữa nhà trường mầm non và gia đình trẻ trong việc giáo dục kỹ

năng tự phục vụ cho trẻ, kết quả như sau:

Bảng 6.1: Biện pháp kết hợp giữa nhà trường và gia đình trong giáo dục

kỹ năng tự phục vụ cho trẻ (Theo 8 GV)

Mức độ cần thiết STT Biện pháp

Cần thiết

Bình thường Không cần thiết

23

SL % SL % SL %

1 Phối hợp với gia đình trong 8 100 0 0 0 0

giáo dục kỹ năng tự phục vụ

cho trẻ với nhiều hình thức

2 Tăng cường vai trò của gia 8 100 0 0 0 0

đình trong giáo dục kỹ năng tự

phục vụ cho trẻ

3 Bồi dưỡng PP giáo dục kỹ 6 75 2 25 0 0

năng tự phục vụ cho PH

4 TX trao đổi trực tiếp với PH về 5 68.5 2 25 1 12.5

kỹ năng tự phục vụ của trẻ và

yêu cầu gia đình quan tâm

hướng dẫn trẻ

5 Biện pháp khác 0 0 0 0 0 0

Bảng 6.2: Biện pháp kết hợp giữa nhà trường và gia đình trong giáo dục

kỹ năng tự phục vụ cho trẻ (Theo 25 PH)

Mức độ cần thiết

Cần thiết Bình thường Không cần thiết

STT Biện pháp

SL % SL % SL %

Phối hợp với gia đình trong

1 giáo dục kỹ năng tự phục vụ 18 72 4 16 3 12

cho trẻ với nhiều hình thức

Tăng cường vai trò của gia

2 đình trong giáo dục kỹ năng tự 18 72 4 16 3 12

phục vụ cho trẻ

Bồi dưỡng PP giáo dục kỹ 3 20 80 3 12 2 12 năng tự phục vụ cho PH

TX trao đổi trực tiếp với PH về 4 22 88 2 8 1 4 kỹ năng tự phục vụ của trẻ và

24

Mức độ cần thiết

Cần thiết Bình thường Không cần thiết

STT Biện pháp

SL % SL % SL %

yêu cầu gia đình quan tâm

hướng dẫn trẻ

5 Biện pháp khác 0 0 0 0 0 0

Bảng 6.3: Tổng hợp chung biện pháp kết hợp giữa nhà trường và gia

đình trong giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ (theo 8 GV và 25 PH)

Mức độ cần thiết

TT Biện pháp Cần thiết Bình thường Không cần thiết

GV PH Chung GV PH Chung GV PH Chung

Phối hợp với gia

đình trong giáo dục

1 kỹ năng tự phục vụ 100 72 0 16 0 12

cho trẻ với nhiều

hình thức

Tăng cường vai trò

của gia đình trong 2 100 72 0 16 0 12 giáo dục kỹ năng tự

phục vụ cho trẻ

Bồi dưỡng PP giáo

3 dục kỹ năng tự phục 75 80 25 12 0 12

vụ cho PH

TX trao đổi trực tiếp

với PH về kỹ năng

tự phục vụcủa trẻ và 4 65.5 88 25 8 12.5 4 yêu cầu gia đình

quan tâm hướng dẫn

trẻ

25

Mức độ cần thiết

TT Biện pháp Cần thiết Bình thường Không cần thiết

GV PH Chung GV PH Chung GV PH Chung

5 Biện pháp khác 0 0 0 0 0 0 0 0 0

Nhận xét: Nhìn vào bảng ta thấy: Để trẻ có kỹ năng tự phục vụ tốt ngay từ

tuổi mầm non và nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục mầm non Tăng

cường vai trò của gia đình trong giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ; Phối hợp

với gia đình trong giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ với nhiều hình thức; Bồi

dưỡng phương pháp giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho phụ huynh; Thường xuyên

trao đổi trực tiếp với phụ huynh về kỹ năng tự phục vụ của trẻ và yêu cầu gia đình

quan tâm hướng dẫn trẻ. Điều này có thể giải thích: Do nhiều kỹ năng tự phục

vụphụ huynh hoàn toàn có thể giáo dục được cho trẻ từ trong gia đình hoặc nghiêm

túc thực hiện theo yêu cầu của giáo viên khi trẻ ở nhà. Chẳng hạn, GVMN yêu

cầu, phụ huynh trẻ 2 tuổi phải để trẻ tự ngồi bô, trẻ tự xúc ăn, trẻ 3 tuổi tự mặc

quần áo, đi giầy dép, sắp quần áo vào ba lô, chọn bộ mặc ngày mai từ tối hôm

trước, trẻ phải chào mọi người khi đi học, khi đến lớp, cất đồ dùng của mình đúng

vị trí, trẻ 4 tuổi tự rửa mặt, phơi khăn, cất bát, cốc … hoặc tất cả trẻ đều phải có

thói quen dọn đồ dùng đồ chơi sau khi sử dụng để đúng nơi quy định, ngã thì đứng

dậy, dũng cảm tìm cách khắc phục không khóc nhè, ăn vạ … thì tất cả những việc

này đòi hỏi phụ huynh phải hoàn toàn đồng tình hưởng ứng và nghiêm túc, kiên

trì hướng dẫn động viên giúp trẻ thực hiện mọi nơi, mọi lúc. Phụ huynh cần tránh

làm hộ, hoặc thay đổi yêu cầu, không để trẻ thực hiện thường xuyên, liên tục, nhất

quán để thành hành vi thói quên, nếu nay làm mai bỏ thì không có kết quả, ở

trường cô hướng dẫn và yêu cầu trẻ làm thì trẻ làm được, về nhà phụ huynh đỡ

lấy làm thay hoặc bỏ qua, trẻ sẽ không thể có được kỹ năng …

Từ việc nghiên cứu lý luận, thực trạng, tìm hiểu nguyên nhân khảo sát biện

pháp đối với phụ huynh, giáo viên trường Mầm non 8/3, chúng tôi mạnh dạn đề

26

xuất một số biện pháp kết hợp giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ mầm non như

sau:

1/ Tăng cường vai trò của gia đình trong giáo dục kỹ năng tự

phục vụ cho trẻ, hướng dẫn phụ huynh phương pháp giáo dục kỹ

năng tự phục vụ cho trẻ

- Giáo viên và nhà trường tuyên truyền, đề nghị phụ huynh thường xuyên,

nghiêm túc thực hiện việc giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ ở mọi lúc, mọi nơi.

Người lớn trong gia đình phải là tấm gương sáng, yêu thương, tôn trọng, đối xử

công bằng với trẻ và đảm bảo an toàn cho trẻ. Thường xuyên chỉ ra cái mới mà

người lớn cũng tìm tòi một cách hăng hái bằng nhiều cách, hãy trao đổi với trẻ về

những thông tin mà cô giáo, cha mẹ mới tìm thấy cho trẻ thấy rằng học lúc nào

cũng vừa vui, vừa thích. Cô giáo giao việc cho cha mẹ hãy dành thời gian mỗi

ngày để kể cho trẻ nghe những câu chuyện, dành thời gian trò chuyện với con để

trẻ có tâm thế sẵn sàng đến trường.

- Giáo viên và nhà trường hướng dẫn cụ thể cho phụ huynh một số điều

người lớn cần tránh như:

+ Khi dạy trẻ kỹ năng tự phục vụ, không hạ thấp trẻ, không tạo

cho trẻ thói quen kiêu ngạo, không lăng nhục trẻ, không doạ nạt trẻ;

Không bắt trẻ hứa hẹn;

+ Người lớn luôn khuyến khích, chia sẻ để trẻ tự tin vào năng lực của bản

thân và hy vọng vào tương lai nhiều hơn; tạo cơ hội để trẻ chơi, giúp trẻ tìm ra

nhiều cách học khác nhau.

Để hình thành và phát triển ở trẻ những thói quen, nghi thức văn hóa trong

ăn uống cần thiết không chỉ có sự tập luyện mà còn cần sự thống nhất những cách

thức và phương thức giữa gia đình và trường, lớp mầm non. Chỉ có sự kiên trì,

nhẫn nại, sự đồng cả, sự quan tâm, chú ý và sự giúp đỡ quý báu của người lớn

mới giúp trẻ vượt qua những khó khăn, trở ngại, mới tạo được một bầu không khí

thân ái, đầm ấm cần thiết trong bữa ăn.

+ Tuyên truyền để cha mẹ trẻ không nên bực bội, cha mẹ trẻ cần phối hợp

với giáo viên một cách chặt chẽ và hợp lý bằng việc tham gia tình nguyện vào quá 27

trình giáo dục trong nhà trừơng; tham gia vào các buổi trao đổi, họp với giáo viên,

để hiểu rằng trẻ học là phải học cả đời;

+ Giáo viên cần giúp trẻ có được những mối liên kết mật thiết với những

bạn khác trong lớp, trẻ biết chia sẻ, trẻ học cách lắng nghe và diễn đạt được ý của

mình, giúp trẻ luôn cảm thấy tự tin khi tiếp nhận các thử thách mới; thoải mái

trong mọi trường hợp;

+ Thường xuyên liên hệ với phụ huynh để kịp thời nắm tình hình của trẻ,

trao đổi với phụ huynh những nội dung và biện pháp chăm sóc và giáo dục trẻ tại

nhà, bàn bạc cách giải quyết những khó khăn gặp phải;

+ Tăng cường đọc sách, kể cho trẻ nghe các câu chuyện qua đó giúp trẻ

nhận thức, rèn luyện thói quen, kỹ năng, vui vẻ với mọi người, thích đến trường;

+ Cha mẹ luôn khuyến khích trẻ nói lên quan điểm của trẻ, việc này sẽ hình

thành kỹ năng tự kiểm soát bản thân, rèn luyện tính tự tin cho trẻ khi tham gia các

hoạt động và các buổi thảo luận tại trường sau này;

+ Khuyến kích trẻ sáng tác những giai điệu bài hát, những điệu múa mới.

Cho trẻ được giao lưu văn nghệ với nhau.

- Tiếp tục nâng cao nhận thức của giáo viên, phụ huynh trẻ về việc giáo dục

kỹ năng tự phục vụ cho trẻ, gắn việc giáo dục kỹ năng tự phục vụ với việc triển

khai thực hiện cuộc vận động “Xây dựng trường học thân thiện và học sinh tích

cực”;

- Giáo dục trẻ có những kỹ năng tự phục vụ cơ bản, nền tảng như kỹ năng

giao tiếp cơ bản, mạnh dạn vượt qua thử thách, tính tự lập, và sự hợp tác với mọi

người xung quanh.

2/ Phối hợp với gia đình trong giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ với

nhiều hình thức

Mục tiêu: Phát huy sức mạnh tổng hợp của các lực lượng giáo dục; Làm

cho các tác động giáo dục diễn ra cùng hướng và thống nhất với nhau; Tạo ra cơ

hội để các bậc cha mẹ, các lực lượng xã hội có điều kiện thực hiện trách nhiệm,

nghĩa vụ của mình trong việc nuôi dạy con cái và đào tạo thế hệ trẻ, góp phần thực

hiện xã hội hoá giáo dục.Góp phần nâng cao chất lượng chăm sóc - giáo dục trẻ ở 28

trường mầm non. Vì “Giáo dục trong nhà trường chỉ là một phần, còn cần có sự

giáo dục ngoài xã hội và trong gia đình để giúp cho việc giáo dục trong nhà trường

được tốt hơn. Giáo dục trong nhà trường dù tốt đến mấy nhưng thiếu giáo dục

trong gia đình và ngoài xã hội thì kết quả cũng không hoàn toàn”.

Cách thức thực hiện:

* Về phía nhà trường:

- Cần giúp các bậc cha mẹ nắm vững mục đích giáo dục, mục tiêu giáo dục

cấp học;

- Đầu năm học cần giới thiệu cho phụ huynh trẻ nắm được kế hoạch và nội

dung các hoạt động giáo dục của nhà trường;

- Bồi dưỡng kiến thức và kỹ năng giáo dục con em trong phạm vi gia đình

theo đúng mục tiêu giáo dục;

- Cần định kỳ thông báo để phụ huynh trẻ biết được kết quả học tập, rèn

luyện của con cái họ để cùng nhau đề ra những biện pháp GD thích hợp;

- Cần tranh thủ sự giúp đỡ của các tổ chức xã hội bằng cách vận động tuyên

truyền, hợp tác;

- Tạo mọi điều kiện thuận lợi cho giáo viên viên tổ chức tốt các họat động

nuôi dưỡng, chăm sóc giáo dục trẻ theo thời gian của nhà trường đã đưa ra.

*Phía gia đình:

- Chủ động hợp tác với nhà trường trong việc giáo dục con cái;

- Gia đình cần phối hợp với giáo viên một cách chặt chẽ và hợp lý bằng việc

tham gia vào các buổi trao đổi, buổi họp của nhà trường;

- Gia đình sẵn sàng hỗ trợ, ủng hộ nhà trường về vật chất cũng như tinh thần

trong công tác giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ;

- Tạo mọi điều kiện để con cái có thể học tập, rèn luyện một cách tốt nhất;

- Đề xuất những biện pháp nhằm giúp nhà trường thực hiện tốt các hoạt động

giáo dục;

- Tư vấn và giúp đỡ nhà trường trong giáo dục kỹ năng tự phục vụ, là môi

trường, là cơ sở thực tiễn giúp nhà trường gắn liền giữa việc học với trải nghiệm,

giữa giáo dục với đời sống.

29

*Việc phối hợp giáo dục giữa nhà trường, gia đình và xã hội cần tuân thủ các

nguyên tắc sau:

- Phối hợp giáo dục chặt chẽ với nhau trên cơ sở tự nguyện và bình đẳng

với mục đích chung là vì quyền lợi thế hệ trẻ;

- Trong việc kết hợp giáo dục giữa nhà trường và gia đình thì nhà trường

giữ vai trò chủ đạo. (Tổ chức, hướng dẫn cha mẹ học sinh và các tổ chức xã hội

thực hiện trách nhiệm, nghĩa vụ của mình trong việc nuôi dạy con cái và đào tạo

thế hệ trẻ).

3/ Thường xuyên trao đổi trực tiếp với phụ huynh về kỹ năng tự phục

vụcủa trẻ và yêu cầu gia đình quan tâm hướng dẫn trẻ

Trao đổi trực tiếp thông qua giờ đón và trả trẻ; Tổ chức họp định kỳ với gia

đình; Thăm hỏi gia đình trẻ qua Zalo; Lập sổ bé ngoan; Mời gia đình trẻ tham

quan hoặc tham gia trực tiếp vào một số hoạt động của lớp, của trường tuỳ theo

điều kiện và khả năng của họ; Phối hợp giữa giáo viên và gia đình thông qua ban

phụ huynh.

- Giáo viên và cha mẹ cùng chia sẻ, trao đổi kiến thức chăm sóc sức khỏe

cho trẻ; Phòng chống suy dinh dưỡng và béo phì cho trẻ, có kế hoạch và biện pháp

chăm sóc đối với trẻ suy dinh dưỡng và trẻ có khiếm khuyết.

+ Tạo điều kiện giúp trẻ được tự do tìm tòi khám phá trong mội trường an

toàn theo khả năng và sở thích của mình để trở thành đứa trẻ tò mò, sáng tạo; tự

tin và luôn được hạnh phúc vì mọi người xung quanh yêu thương, gần gũi trẻ;

+ Chú ý lôi cuốn các thành viên trong gia đình, đặc biệt các thành viên là

nam giới: ông, bố, anh, chú, bác tham gia vào việc chăm sóc và dạy trẻ.

Nhà trường cần cung cấp và hoặc giới thiệu cho các bậc cha mẹ trẻ biết các

mốc phát triển bình thường của trẻ, và những vấn đề cần lưu ý trong sự phát triển

của trẻ để có thể phát hiện và can thiệp sớm.

- Phối hợp với nhà trường trong việc tổ chức ngày lễ, ngày hội, tổ chức

ngày sinh nhật cho trẻ ...;

- Tạo môi trường an toàn về tình cảm cho trẻ. Ở lớp, cô giáo cần tạo môi

trường làm sao cho trẻ cảm thấy lớp cũng như ở nhà, khuyên các bà mẹ không 30

nên để lộ sự lo âu, quá lưu luyến khi tạm biệt trẻ ở trường, ... Lúc về nhà, bố mẹ

nên lắng nghe những câu chuyện của trẻ về trường lớp, các bạn hoặc hỏi han trẻ

về những gì đã xảy ra ở lớp, cố gắng động viên và khuyến khích trẻ để tạo cho trẻ

cảm giác tự tin khi đến lớp. Gia đình cần phải trao đổi với giáo viên những đặc

điểm riêng của con mình, Ví dụ như thói quen ăn uống, sức khỏe, cá tính... để

giáo viên có biện pháp chăm sóc - giáo dục phù hợp;

- Giáo viên cần giúp trẻ có được những mối liên kết mật thiết với những

bạn khác trong lớp, trẻ biết chia sẻ chăm sóc, trẻ cần phải học về cách ứng xử,

biết lắng nghe trình bày và diễn đạt được ý của mình khi vào trong các nhóm trẻ

khác nhau, giúp trẻ luôn cảm thấy tự tin khi tiếp nhận các thử thách mới;

- Thường xuyên liên hệ với phụ huynh để kịp thời nắm tình hình của trẻ,

trao đổi với phụ huynh những nội dung và biện chăm sóc giáo dục trẻ tại nhà, bàn

bạc cách giải quyết những khó khăn gặp phải;

- Tuyên truyền để cha mẹ trẻ không nên bực bội khi trẻ về đến nhà. Cha mẹ

cần có niềm tin với sự hướng dẫn của giáo viên và năng khiếu tò mò bẩm sinh của

trẻ, trẻ có thể lĩnh hội kinh nghiệm nhằm giải quyết các vấn đề quan trọng, đọc,

làm toán, thử nghiệm một số kỹ năng khoa học khi chơi với nhau;

- Cha mẹ trẻ cần phối hợp với giáo viên một cách chặt chẽ và hợp lý bằng

việc tham gia tình nguyện vào quá trình giáo dục trong nhà trường. Cha mẹ nên

tham gia vào các buổi trao đổi với giáo viên, tham gia các buổi họp của nhà trường

để nắm bắt được tình hình để cùng với nhà trường giáo dục trẻ một cách toàn diện

hơn;

- Cô giáo, cha mẹ giúp trẻ phát triển sở thích, ý thích của mình.

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

1. Kết luận

Từ kết quả nghiên cứu trên chúng tôi đưa ra một số kết luận sau:

Việc giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ mẫu giáo bé - Trường Mầm non

8/3 đã được quan tâm thực hiện, tuy nhiên chưa có sự thống nhất giữa gia đình và

nhà trường trong giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ. Giáo viên mầm non đã chú

trọng nhưng phụ huynh chưa thực sự quan tâm và thường xuyên giáo dục kỹ năng 31

tự phục vụ cho trẻ. Phụ huynh còn thiếu phương pháp giáo dục, chưa ý thức khai

thác, tận dụng các phương pháp đó một cách hiệu quả. Trẻ còn gặp khó khăn trong

các hoạt động chung, khi đến trường, khi ra môi trường lạ; làm cản trở hoạt động

chăm sóc giáo dục trẻ ở trường của giáo viên mầm non. GVMN mất nhiều thời

gian, hướng dẫn, dỗ dành; nhắc nhở, động viên … Trẻ có kỹ năng tự phục vụ hạn

chế do lần đầu đi học; khả năng tiếp thu của trẻ không đồng đều, một số phụ huynh

chưa quan tâm đúng mức đến việc giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho con em mình,

trình độ chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng tuyên truyền của giáo viên chưa đồng

đều làm ảnh hưởng đến chất lượng truyền thông. Nội dung, công tác phối hợp còn

sơ sài, đôi khi thiếu tính thực tế, không phù hợp và chưa được cập nhật thông tin

kịp thời dẫn đến hiệu quả chưa cao, chưa thu hút được sự quan tâm và đáp ứng

thông tin của các bậc cha mẹ. Khối lượng công việc lớn, không có nhiều thời gian

cho công tác phối hợp với gia đình và xã hội trong việc giáo dục trẻ. Kết quả

nghiên cứu cho thấy cần có sự kết hợp và tăng cường vai trò của gia đình trong

công tác giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ mầm non.

2. Kiến nghị

*Về phía nhà trường mầm non:

- Nhà trường cần tăng cường phối hợp với gia đình để giáo dục kỹ năng tự

phục vụ cho trẻ với nhiều hình thức, nâng cao vai trò của phụ huynh trong công

tác giáo dục trẻ;

- Các cấp quản lý giáo dục trong trường phải quan tâm thường xuyên đến

công tác tuyên truyền, vận động phụ huynh thực hiện các nội dung về giáo dục kỹ

năng tự phục vụ cho con em nên coi đó như một hoạt động chuyên môn trong

trường. Bên cạnh đó, cần chỉ ra, nhắc nhở các hiện tượng phụ huynh thiếu hợp tác

hoặc xem nhẹ công tác giáo dục kỹ năng tự phục vụ; đồng thời chú trọng việc nêu

gương và nhân rộng gương điển hình phụ huynh có những ý kiến đóng góp trong

công tác giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ, giáo viên có những sáng kiến hay,

cách làm tốt, hiệu quả trong phối hợp giáo dục cho trẻ;

32

- Tổ chức các buổi hội thảo chuyên đề cho trẻ, giáo dục kỹ năng

tự phục vụ chuyên đề cha mẹ am hiểu, cha mẹ hồn nhiên ... cho phụ

huynh được tham gia.

+ Ban giám hiệu trao đổi với giáo viên để xác định mục tiêu của trường,

kết quả mong đợi phù hợp với tiềm năng phát triển của trẻ và xây dựng kế hoạch

năm học cho từng độ tuổi phù hợp với đặc điểm của chương trình;

+ Tạo điều kiện cho giáo viên tổ chức tốt các họat động nuôi dưỡng, chăm

sóc giáo dục trẻ theo thời gian của nhà trường đã đưa ra;

+ Tập huấn cho giáo viên về các kỹ năng làm việc với cha mẹ, tạo cơ hội,

tổ chức nhiều hoạt động nhằm giúp giáo viên tăng cường phối hợp nhất quán với

gia đình để dạy trẻ kỹ năng tự phục vụ đạt hiệu quả.

* Về phía giáo viên mầm non:

- Tích cực, chủ động trong việc giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ, gia

công, chế biến, lồng ghép kiến thức về kỹ năng tự phục vụ, các hành động thực

tiễn vào bài học để trẻ nắm bắt được một cách sinh động và tự nhiên;

- Hình thành trong trẻ kỹ năng tự phục vụ hoàn thiện bản thân mình, giúp

trẻ luôn cảm thấy tự tin khi tiếp nhận các thử thách mới. Cần chuẩn bị cho trẻ sự

tự tin, thoải mái trong mọi trường hợp.

*Về phía gia đình:

- Kết hợp với nhà trường mầm non trong công tác giáo dục kỹ năng tư phục

vụ cho con em mình tại gia đình, rèn luyện cho các em kỹ năng tự phục vụ bản

thân, giữ gìn đồ đạc gọn gàng ngăn nắp, sạch đẹp, không vứt rác bữa bãi; giúp trẻ

mạnh dạn, sáng tạo, tự tin trong các hoạt động, vui thích đến lớp;

- Cha mẹ luôn coi trọng trẻ và tích cực tham gia vào các hoạt động giáo dục

trẻ ở nhà trường, trao đổi với giáo viên bằng nhiều hình thức thông qua bảng thông

tin cha mẹ cần biết;

- Giao tiếp giữa cha mẹ và con cái cần dịu dàng, ít la mắng, phân việc cho

trẻ, không cung phụng trẻ, không tranh thủ xúc cho con ăn, chia sẻ những khó

khăn của giáo viên, phụ giúp giáo viên trong rèn kỹ năng tự phục vụ cho trẻ.

33

*Về phía trẻ: Tích cực tham gia các hoạt động giáo dục kỹ năng tự phục

vụ mà nhà trường tổ chức; phải có sự kiên trì, nhẫn nại, biết lắng nghe và diễn đạt

được ý của mình khi vào các nhóm trẻ khác nhau.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nguyễn Thanh Bình. Giáo dục kỹ năng sống ở Việt Nam. Viện chiến lược và chương trình giáo dục. 2006

2. Nguyễn Thanh Bình (2007). Giáo trình giáo dục kỹ năng sống. NXB Đại học Sư Phạm.

3. Tăng Bình - Thu Huyền - Ái Phương. Ứng xử Sư Phạm và giáo dục kỹ năng sống trong nền giáo dục hiện đại. NXB Hồng Đức.

34

4. Hoàng Phê (chủ biên 2004). Từ điển Tiếng Việt. Viện ngôn ngữ. NXB Đà Nẵng - Trung tâm từ điển học. Hà Nội - Đà Nẵng.

5. Nguyễn Thị Mỹ Lộc (đồng chủ biên). Tổ chức quản lý nhóm lớp trẻ trường mầm non.H - giáo dục, 1998.

6. Thái Duy Tuyên (2003). Những vấn đề cơ bản của Giáo dục học. NXB ĐHSP.

7. Nguyễn Thị Mỹ Lộc - Đinh Thị Kim Thoa - Đặng Hoàng Minh. Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mầm non. Phần 1+ phần 2.

35

PHIẾU TRƯNG CẦU Ý KIẾN

Để góp phần rèn kỹ năng tự phục vụ cho trẻ mẫu giáo bé, nâng cao chất lượng hiệu quả của công tác chăm sóc giáo dục trẻ mầm non lần đầu đến trường, rất mong cô cho biết ý kiến của mình về các vấn đề dưới đây:

1. Theo cô việc kết hợp nhà trường và gia đình trong giáo dục kỹ tự phục

vụ cho trẻ mẫu giáo bé có vai trò như thế nào?

Quan trọng

Bình thường

Không quan trọng

2. Cô hãy cho biết lớp mẫu giáo bé 3A1 có thường xuyên thực hiện việc kết hợp nhà trường và gia đình trong giáo dục kỹ tự phục vụ cho trẻ hay không?

Thường xuyên

Đôi khi

Không bao giờ

3. Cô hãy kể tên một số kỹ năng tự phục vụ mà cô thường phối hợp với gia

đình để giáo dục cho trẻ?

Stt Nội dung kỹ năng tự phục vụ giáo dục cho trẻ Ghi chú

1 Tự chào hỏi, không cần nhắc

2 Tự xúc ăn, ngồi bô

3 Tự cởi, cất giày, dép

4 Tự cởi, cất túi đồ

5 Tự rửa tay, mặt

6 Tự bảo vệ (chơi an toàn)

7 Kỹ năng khác ...

4. Theo cô, kỹ năng tự phục vụ của trẻ lớp cô đa số đạt được ở

mức độ nào?

Tốt Khá Trung bình Yếu

5. Cô hãy cho biết nguyên nhận nào có thể ảnh hưởng đến việc rèn kỹ năng tự phục vụ cho trẻ mẫu giáo bé và mức độ ảnh hưởng của nguyên nhân đó?

Mức độ ảnh hưởng Stt Nguyên nhân ảnh hưởng

Nhiều

Ít Không ảnh hưởng

Nhà trường chưa quan tâm đúng mức tới

1 việc tuyên truyền phụ huynh giáo dục kỹ

năng tự phục vụ cho trẻ

Nhận thức và phương pháp giáo dục kỹ

2 năng tự phục vụ cho trẻ của gia đình còn

hạn chế

Chưa có sự thống nhất và phối hợp giáo

3 dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ giữa Nhà

trường và gia đình

Khả năng tiếp nhận và thực hành kỹ năng 4 tự phục vụ của trẻ còn hạn chế

5 Nguyên nhân khác

6. Theo cô, cần làm gì để việc phối hợp rèn kỹ năng tự phục vụ cho trẻ

mang lại hiệu quả cao?

. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

Trân trọng cảm ơn ý kiến đóng góp của cô!

PHIẾU TRƯNG CẦU Ý KIẾN

Để góp phần rèn kỹ năng tự phục vụ cho trẻ mẫu giáo bé, nâng cao chất lượng hiệu quả của công tác phối hợp giáo dục trẻ mầm non, rất mong quý vị phụ huynh cho biết ý kiến của mình về các vấn đề dưới đây:

1. Theo quý vị, việc kết hợp nhà trường và gia đình trong giáo dục kỹ tự

phục vụ cho trẻ mẫu giáo bé có vai trò như thế nào?

Quan trọng

Bình thường

Không quan trọng

2. Quý vị có thường xuyên thực hiện việc kết hợp nhà trường và gia đình trong giáo dục kỹ tự phục vụ cho trẻ hay không?

Thường xuyên

Đôi khi

Không bao giờ

3. Quý vị hãy kể tên một số kỹ năng tự phục vụ mà gia đình thường phối

hợp với các cô giáo để giáo dục cho trẻ?

Stt Nội dung kỹ năng tự phục vụ giáo dục cho trẻ Ghi chú

1 Tự chào hỏi, không cần nhắc

2 Tự xúc ăn, ngồi bô

3 Tự cởi, cất giày, dép

4 Tự cởi, cất túi đồ

5 Tự rửa tay, mặt

6 Tự bảo vệ (chơi an toàn)

7 Kỹ năng khác….

4. Theo quý vị, kỹ năng tự phục vụ của con (cháu) quý vị đã đạt được ở

mức độ nào?

Tốt Khá Trung bình Yếu

5. Quý vị hãy cho biết nguyên nhận nào có thể ảnh hưởng đến việc rèn kỹ năng tự phục vụ cho trẻ mẫu giáo bé và mức độ ảnh hưởng của nguyên nhân đó?

Mức độ ảnh hưởng Stt Nguyên nhân ảnh hưởng Nhiều Ít Không ảnh hưởng

Nhà trường chưa quan tâm đúng mức

1 tới việc tuyên truyền phụ huynh giáo

dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ

Nhận thức và phương pháp giáo dục

2 kỹ năng tự phục vụ cho trẻ của gia

đình còn hạn chế

Chưa có sự thống nhất và phối hợp

3 giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ

giữa Nhà trường và gia đình

Khả năng tiếp nhận và thực hành kỹ 4 năng tự phục vụ của trẻ còn hạn chế

5 Nguyên nhân khác

6. Theo quý vị, cần làm gì để việc phối hợp nhà trường - gia đình rèn kỹ

năng tự phục vụ cho trẻ mang lại hiệu quả cao?

. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

Trân trọng cảm ơn ý kiến đóng góp của Quý vị!