1

TIỂU LUẬN

Những vấn đề chung về PCA

2

I. GIỚI THIỆU CHUNG

1. Lịch sử

- Hội nghị hoà bình thế giới lần thứ nhất tổ chức tại Hague năm

1899 đã thông qua công ước “giải quyết hoà bình các tranh chấp

quốc tế, thiết lập nên một cơ quan giải quyết tranh chấp toàn cầu:

Trọng tài quốc tế (PCA).PCA là tiền thân của các cơ quan giải

quyết tranh chấp quốc tế hiện nay bao gồm cả ICJ.Công ước 1899

được sửa đổi tại hội nghị hoà bình thế giới lần thứ 2 (còn gọi là

công ước 1907) vào năm 1907 bằng việc thông qua công ước giải

quyết hoà bình các tranh chấp quốc tế thứ 2.Mặc dù đa số các quốc

gia đều theo Công ước năm 1907,nhưng cả hai công ước này đều

đang có hiệu lực.Hiện tại có 97 quốc gia thành viên.

2. Non - State Parties (các chủ thể phi quốc gia)

- Được hình thành ban đầu như một công cụ để giải quyết tranh

chấp giữa các quốc gia,PCA đã được ủy quyền, vào những năm

1930,sử dụng các khả năng để hòa giải, và làm trọng tài giải quyết

tranh chấp quốc tế giữa các quốc gia và các chủ thể độc lập, do đó

nó có quyền giải quyết các tranh chấp về thương mại và đầu

tư.Vào năm 1962,PCA đã soạn thảo bộ luật “Những nguyên tắc

của Trọng tài và Hòa giải trong việc giải quyết tranh chấp quốc tế

giữa 2 bên,trong đó chỉ có một bên là quốc gia”, sau đó dẫn tới

việc thông qua Hiệp định năm 1965 thành lập nên Trung tâm quốc

tế về giải quyết tranh chấp đầu tư tại ngân hàng thế giới.

3

(- Tuy nhiên,trong những năm sau đó, sau 2 cuộc chiển tranh thế

giới và sự thành lập ICJ và tổ chức tiền nhiệm - tổ chức PCIJ,

PCA đã bị cộng đồng quốc tế sử dụng không đúng mức.)

3. Ủy ban LHQ về luật thương mại quốc tế (UNCITRAL Link)

- “The first stirrings of revitalization” của PCA bắt đầu vào những

năm 1980.Vào năm 1976,Ủy ban LHQ về luật thương mại quốc tế

(UNCITRAL), đã thông qua một bộ luật trọng tài phi nguyên tắc

để sử dụng “trong việc giải quyết các tranh chấp nảy sinh trong

các mối quan hệ thương mại quốc tế,đặc biệt là các hợp đồng

thương mại”.Luật này còn quy định việc chỉ định trọng tài và

quyết định phản đối trọng tài. “Thẩm quyền chỉ định” được thiết

lập bởi sự thoả thuận của các bên.Trong những trường hợp mà các

bên không thể thống nhất về việc lựa chọn thẩm quyền chỉ định,thì

cần thiết phải có một tổ chức quốc tế đáng tin cậy.Bởi vậy theo

điều 6 khoản 2 và điều 7 khoản 2b của uỷ ban LHQ về luật thương

mại quốc tế (UNCITRAL rules):

“ Nếu các bên không thống nhất được thẩm quyền chỉ định,

hoặc nếu thống nhất được nhưng người có thẩm quyền chỉ định từ

chối; hoặc không thể chỉ định trọng tài… thì một trong các bên có

thể yêu cầu Tổng thư ký của PCA chỉ định.

4. Iran-United States Claims – Tribunal ( toà thành lập theo

yêu cầu của Iran và Mỹ) (ví dụ )

4

- Vào năm 1981 Tổng thư ký lần đầu tiên được yêu cầu bổ nhiệm

một thẩm quyền chỉ định, không phải cho một trọng tài thương

mại,mà cho Iran- Hoa Kỳ Claims Tribunal.Sự cung cấp điều kiện

vật chất và sự giúp đỡ … đối với cơ quan đó trong quá trình hình

thành cũng truyền sức sống mới cho PCA.Kể từ năm 1981, gần

200 yêu cầu cho sự bổ nhiệm một thẩm quyền chỉ định đã được đệ

trình lên Tổng thư ký,phần lớn trong số đó là từ giữa những năm

1990.Sự tăng lên này,cũng như sự gia tăng của các trường hợp

phức tạp,đã trực tiếp đưa PCA đến lĩnh vực trọng tài thương mại

quốc tế.Tổng thư ký ngày càng được yêu cầu giải quyết trực tiếp

như thẩm quyền chỉ định,hơn là chỉ đơn thuần bổ nhiệm tổ chức

hoặc cá nhân khác.

5. Revitalization_(tái hoạt động)

- Sự tái hoạt động của PCA bắt đầu vào đầu những năm 1990.Vào

năm 1991,PCA đã triệu tập một nhóm những chuyên gia làm việc

với mục đích đưa ra những khuyến cáo để cải thiện chức năng của

nó .Kể từ đó, PCA đã mở rộng và quốc tế hóa bộ phận nhân viên

của nó,làm tăng thêm sự nhận thức toàn cầu về khả năng và vai trò

của nó, và thúc đẩy và hiện đại hóa chức năng của hệ thống giải

quyết tranh chấp căn bản bằng việc thông qua những nguyên tắc

về thủ tục mà hầu như dựa trên các quy tắc của UNCITRAL.PCA

nhận thấy rằng,mặc dù… nhưng những nguyên tắc của

UNCITRAL đã phản ánh thực tiễn và nguyên tắc hoạt động được

thừa nhận trong văn hoá trọng tài trên toàn thế giới và sẽ “ quy

5

định những thủ tục có hiệu quả và công bằng trong việc hoà bình

giải quyết các tranh chấp giữa các quốc gia về việc giải thích, áp

dụng, thực hiện điều ước và những thoả thuận khác mặc dù những

thủ tục này được dùng trong trọng tài thương mại.”

- Kể từ năm 1990,nhân viên của PCA đã tăng lên gấp 5 và đại diện

cho hơn 10 quốc gia.

II. CƠ CẤU TỔ CHỨC (ORGANIZATIONAL ASPECTS)

1.Trụ sở

PCA có trụ sở tại Hague.Các quá trình giải quyết tranh chấp

được tiến hành dưới sự bảo trợ của nó có thể diễn ra tại bất kỳ nơi

nào khác mà được các bên và toà chấp thuận trong một trường hợp

nào đó.

2. International Bureau_Ban quốc tế

- Cơ cấu tổ chức cơ bản của PCA được thiết lập trong Công ước

nămm 1899 và 1907. PCA không phải là một toà thực sự với các

thẩm phán thường trực.Thay vào đó,một ban thư ký thường trực,

ban quốc tế và đứng đầu là tổng thư ký,giúp đỡ các bên,trong mỗi

vụ việc,thiết lập và quản lý một toà adhoc. Ban quốc tế là ban thư

ký đang hoạt động của PCA.Nó duy trì danh sách thường trực

những trọng tài tiềm năng,nhận những thông báo trực tiếp từ PCA

(bao gồm những yêu cầu về quyền trọng tài), và quy định những

6

sự phục vụ hành chính đang diễn ra đối với các tòa trọng tài,bao

gồm sự cung cấp các cơ sở cho việc xây dựng PCA.

3.Ủy ban (hội đồng) hành chính - Administrative Council

- Chức năng giám sát của PCA được giao cho hội đồng hành

chính,cơ quan bao gồm các đại diện ngoại giao của các bên được

cử tới Hà Lan dự hội nghị 1899 và 1907.Hội đồng đưa ra sự chỉ

đạo chung cho công việc của PCA, và giám sát sự quản lý, ngân

sách và chi tiêu của nó(PCA).(Ngân sách của PCA là sự đóng góp

của các quốc gia thành viên, số lượng mà dựa trên hệ thống các

đơn vị được duy trì bởi Hiệp hội bưu chính toàn cầu ( một trong số

ít các tổ chức liên chính phủ tồn tại từ 1899).Do đó,năm 2003,sự

đóng góp cao nhất của quốc gia đơn lẻ là 24,450 euros ( 50 đơn vị

) và thấp nhất là 244.50 euros (0.5 đv).)Tổng thư ký báo cáo

thường niên với hội đồng hành chính về hoạt động của PCA,chức

năng hành chính và chi tiêu của nó.(PCA).

(- Vì thời kỳ tái hoạt động của PCA xảy ra đồng thời với một

chính sách của chính phủ tuyên bố về sự phát triển không đáng kể

trong các tổ chức quốc tế,phần lớn những sự phát triển và mở rộng

mới đây của nó được tài trợ từ nguồn ngân sách dự trữ, bao gồm

các khoản phí thu từ các tòa trọng tài.)

4.Thành viên của toà

- Các nhà dự thảo công ước 1899 và 1907 đã dự tính việc các bên

lựa chọn trọng tài của mình thông qua một danh sách đóng.Bởi

vậy,2 công ước đó quy định rằng mỗi quốc gia ký kết Công ước có

7

thể chỉ định lên tới 4 thành viên của tòa: những người có đủ

chuyên môn trong lĩnh vực luật quốc tế,có đạo đức tốt và tự

nguyện chấp nhận các nghĩa vụ của một trọng tài (Đ44 CƯ

1907).Mặc dù công ước quy định rằng các trọng tài phải được lựa

chọn từ danh sách thành viên (Đ45 CƯ1907), nhưng rõ ràng

rằng,trong lịch sử của PCA,các bên muốn có sự tự do để chỉ định

trọng tài ngoài cái danh sách đó.

(- Ngoài việc thành lập một hội đồng trọng tài có khả năng, các

thành viên của PCA từ mỗi nước ký kết chỉ định một nhóm quốc

gia, mà các nhóm này có quyền cử các ứng viên tuyển vào ICJ.)

5.Các văn kiện pháp lý cơ bản

- Công ước năm 1899 và 1907 tạo thành những văn kiện cơ bản của

PCA.Trong khi các công ước cũng quy định một khung thủ tục

cho các cách giải quyết tranh chấp dưới sự bảo trợ của PCA,thì

một loạt các nguyên tắc thủ tục mới đã được ấn định vào những

năm gần đây.Những văn kiện đó phần lớn dựa trên các văn kiện

pháp lý của UNCITRAL, để phản ánh sự nhất trí trong các thủ tục

giải quyết tranh chấp trên toàn thế giới.Các bộ luật dưới đây đều

đang có hiệu lực:

• Những nguyên tắc không bắt buộc cho việc giải quyết tranh chấp

bằng hình thức trọng tài giữa 2 quốc gia.(1992)

8

• Những nguyên tắc không bắt buộc cho việc giải quyết tranh chấp

bằng trọng ttài giữa 2 bên mà chỉ có một bên là quốc gia (1993).

• Các nguyên tắc không bắt buộc cho Trọng tài liên quan đến các

tổ chức quốc tế và các quốc gia (1996)

• Những nguyên tắc không bắt buộc cho trọng tài giữa các tổ chức

quốc tế và các bên tư nhân.(1996)

• Các nguyên tắc hòa giải không bắt buộc (1996)

• Những nguyên tắc không bắt buộc cho việc tìm hiểu tình hình

thực tế của ủy ban điều tra (1997)

• Các nguyên tắc của quy trình giải quyết tranh chấp bằng hình

thức trọng tài liên quan đến tài nguyên thiên nhiên và môi trường.

• Các nguyên tắc không bắt buộc cho sự hòa giải tranh chấp liên

quan đến tài nguyên thiên nhiên và môi trường.

According to the introduction to the 1992 Optional Rules for

Arbitrating

Disputes between Two States:

“Experience in arbitrations since 1981 suggests that the

UNCITRAL

Arbitration Rules provide fair and effective procedures for

peaceful

resolution of disputes between States concerning the

interpretation,

application and performance of treaties and other agreements,

although

they were originally designed for commercial arbitration.”

9

- Ngoài việc áp dụng các nguyên tắc dựa trên UNCITRAL,PCA

thường thực hiện việc xét xử theo các nguyên tắc xét xử của

UNCITRAL,hoặc theo các nguyên tắc adhoc được các bên đưa ra

cho việc xét xử liên quan.

- Vì vậy,đối với thủ tục của PCA,dường như không có một bộ luật

thủ tục riêng nào áp dụng cho tất cả các trường hợp.Bởi vì ưu thế

của việc xét xử là một phương pháp giải quyết tranh chấp quốc tế

nằm trong hệ thống của PCA, những tranh cãi về vấn đề thủ tục

trong bộ luật này giới hạn tính xét xử của trọng tài.Hơn nữa,bởi vì

các bên hiếm khi dựa vào các nguyên tắc không hợp thời và không

chi tiết, các nguyên tắc thủ tục đầu tiên trong công ước 1899 và

1907 nhấn mạnh vào các điều khoản trong các bộ luật hiện đại của

PCA.

6.Tòa

- Vì vậy, không có một tòa thực sự nào.Một tòa án hoặc một bộ

phận giải quyết tranh chấp khác được thiết lập theo từng vụ việc

được đệ trình, và phương pháp thành lập của nó sẽ dựa trên luật áp

dụng.

7. Registry Services

- Ban thư ký của PCA _ International Bureau_ có một nhóm nhân

viên hành chính và pháp luật thông thạo nhiều thứ tiếng và có kinh

nghiệm.Nó có thể cung cấp dịch vụ đăng ký và hỗ trợ pháp lý cho

10

các tòa và các ủy ban,ví dụ, cung cấp các nguồn thông tin chính

thức và đảm bảo sự an toàn của các tài liệu…Ngôn ngữ chính thức

được sử dụng trong PCA là tiếng Anh và tiếng Pháp, nhưng các vụ

kiện có thể tiến hành bằng bất kỳ một ngôn ngữ nào được các bên

đồng ý.

III. THẨM QUYỀN

1. Jurisdiction of the Institution

- PCA vốn được thiết lập để giải quyết các tranh chấp giữa các

quốc gia, nhưng Các công ước La Hay lại cho phép sự linh hoạt

trong việc thiết lập một “hội đồng trọng tài đặc biệt”(special Board

of Arbitration).

- Theo các quy định không bắt buộc, nói chung, những bên sau, có

thể chấp thuận đưa vụ việc lên PCA:

+ Giữa hai quốc gia trở lên

+ Giữa Quốc gia và tổ chức quốc tế

+ Giữa hai tổ chức quốc tế trở lên

+ Giữa một quốc gia và một bên tư nhân

+ Giữa một tổ chức quốc tế và một bên tư nhân

- (Các nguyên tắc của PCA trong việc giải quyết các tranh chấp và

các quy định hoà giải không bắt buộc liên quan đến tài nguyên

11

thiên nhiên và môi trường không hề có yêu cầu một trong các bên

phải là quốc gia hoặc tổ chức quốc tế.)

2.Thẩm quyền của toà

Cơ sở cho việc xác định thẩm quyền của toà trọng tài do các

bên thoả thuận.Các thoả thuận này có thể nằm trong các điều ước

cụ thể liên quan đến tranh chấp đang diễn ra hoặc các điều ước ký

kết,văn kiện pháp lý liên quan đến các tranh chấp trong tương.

(Toà trọng tài được trao quyền quyết định đối với bất cứ phản

đối nào không chấp nhận thẩm quyền của toà và quy định rằng để

quyết định thẩm quyền của toà, một thoả thuận về việc xét xử

bằng trọng tài có thể xem là tách biệt đối với các văn kiện chứa

đựng nó.)

3.Thẩm quyền tư vấn/thẩm quyền tranh chấp.

- Thực tiễn của PCA,không giống như ICJ, không có sự phân biệt

giữa thẩm quyền tranh chấp và thẩm quyền tư vấn.Toà trọng tài

luôn luôn có quyền xét xử và cần được phân biệt với các hình thức

giải quyết tranh chấp không qua xét xử khác bằng những phán

quyết cuối cùng và có tính ràng buộc.

(.Vì thế những phương pháp giải quyết tranh chấp không mang

tính ràng buộc bao gồm sự dàn xếp,hòa giải,và điều tra, có thể phù

hợp hơn với các bên trong việc tìm kiếm một tuyên bố có tính tư

12

vấn hoặc không ràng buộc đối với quyền và nghĩa vụ chung của

các bên.)

4. Subject Matter_Những vấn đề trọng tâm

- Thẩm quyền xét xử của tòa PCA là không giới hạn.Tuy nhiên

trong từng vụ việc,phạm vi của thẩm quyền xét xử bị hạn chế bởi

cách diễn đạt trong thỏa thuận về việc xét xử bằng trọng tài.Những

nguyên tắc thủ tục của PCA về giải quyết tranh chấp bằng trọng

tài liên quan đến tài nguyên thiên nhiên và môi trường quy định rõ

ràng rằng “Sự mô tả tính chất của tranh chấp liên quan tới môi

trường hoặc tài nguyên thiên nhiên là không cần thiết cho thẩm

quyền xét xử,tất cả các bên đều đồng ý đặt một tranh chấp đặc biệt

dưới sự điều chỉnh của các điều luật này”.

5.Thời hạn

Các nguyên tắc khác nhau về thủ tục không đặt ra một quy định về

thời hạn cho việc đưa tranh chấp lên tòa PCA.Những sự hạn chế

đó có thể thấy trong thỏa thuận về xét xử bằng phương pháp trọng

tài.

IV – NGUYÊN TẮC HOẠT ĐỘNG

1. Luật áp dụng

13

1.1 – Nguyên tắc thủ tục

- Ban đầu, Luật áp dụng trong quá trình xét xử sẽ do các bên lựa

chọn bằng việc chấp thuận áp dụng những nguyên tắc thủ tục cụ

thể.

- Các nguyên tắc thủ tục hiện nay, cũng như các nguyên tắc của

PCA (xuất phát từ các nguyên tắc của UNCITRAL) tạo ra sự linh

hoạt trong vấn đề thủ tục cho toà trọng tài và các bên. Có rất ít các

điều khoản bắt buộc, nghĩa là, các bên có thể thông qua thoả thuận

để thay đổi những quy định thủ tục. Tất cả các nguyên tắc của

PCA đều quy định, toà có thể điều hành việc xét xử theo cách mà

toà cho rằng là thích hợp, miễn là thoả mãn yêu cầu được quy định

tại điều 15 khoản 1 Uncitral : “the parties are treated with equality

and that, at any stage of the proceedings, each party is given a full

opportunity of presenting its case” . Trong các vụ thương mại tư

nhân, và cũng có thể hình dung trong các vụ khác, toà trọng tài có

thể áp dụng hoặc tham khảo luật trọng tài của nơi diễn ra xét xử để

bổ sung vào phần “luật áp dụng”. Trong việc xét xử giữa các quốc

gia, thoả thuận xét xử hoặc các nguyên tắc adhoc sẽ được các bên

thảo ra, trình lên trọng tài để bổ sung vào các nguyên tắc chính mà

không tham khảo đến luật của địa phương.

1.2 – Substantive

- Một lần nữa, các bên lại có thể có sự linh hoạt trong việc quy

định luật áp dụng giải quyết tranh chấp của họ.

- Theo luật của PCA, toà án trọng tài sẽ áp dụng luật do các bên

thoả thuận, nếu không có sự thoả thuận nào, toà sẽ áp dụng: hoặc

là các nguyên tắc áp dụng của luật quốc tế thông thường, hoặc là

bất cứ phần luật nào được quy định theo nguyên tắc chọn luật.

14

- Trong trường hợp, vụ việc liên quan đến tổ chức quốc tế, toà sẽ

áp dụng trực tiếp các quy định thích hợp của tổ chức có liên quan

và luật của các tổ chức quốc tế; trong trường hợp các bên trong vụ

việc là tư nhân, toà sẽ chú ý trực tiếp vào các thuật ngữ trong ký

kết, thoả thuận được nhắc đến…

2. CÁC VẤN ĐỀ THỦ TỤC

2.1- Lập thủ tục

Theo nguyên tắc của PCA, phía nguyên đơn – bên đề xướng

tranh chấp - phải có thông báo về việc tranh chấp cho phía bên kia

- bên bị đơn. Thông báo phải bao gồm những thông tin sau:

- Yêu cầu tranh chấp phải được giao cho trọng tài xét xử.

- Tên và địa chỉ của các bên.

- Liên hệ đến một điều khoản hay thoả thuận về tranh chấp.

- Liên hệ tới điều ước, thoả thuận, ký kết hoặc các văn kiện pháp lý

khác có liên quan đến tranh chấp phát sinh.

- Bản chất chung của vụ việc và chỉ ra mức độ liên quan

- Tìm kiếm sự hỗ trợ và biện pháp khắc phục.

- Đề nghị số lượng trọng tài.

Những quy định trên gần như được dẫn nguyên văn các

nguyên tắc giải quyết tranh chấp của UNCITRAL, bởi các quy

định này được thực hiện trong tranh chấp thương mại, hướng tới

15

thừa nhận giải quyết tranh chấp dựa trên điều khoản tranh chấp

trong tương lai có trong hợp đồng thương mại. Trong trường hợp

tranh chấp được đưa ra theo thoả thuận, đặc biệt liên quan đến các

quốc gia, không bên nào được chỉ định là nguyên đơn hay bị đơn.

2.2 – Thành lập trọng tài

- Các bên có thể thoả thuận đưa ra quy định thành lập toà án trọng

tài. Theo như Công ước 1899 và 1907, các bên chỉ có thể lựa chọn

trọng tài theo danh sách mà PCA đưa ra. Tuy nhiên, quy định này

đã không còn từ rất lâu.

- Cách thành lập một toà án trọng tài cơ bản được phản ánh trong

Công ước 1899 và 1907 và nhiều nguyên tắc của PCA liên quan

đến sự sắp xếp của mỗi bên. Trong số các trọng tài mà các bên chỉ

định sẽ lựa chọn ra một trọng tài chủ trì. Các bên có thể thoả thuận

số lượng trọng tài (trọng tài duy nhất, ba trọng tài). Thường chỉ

trong trường hợp tranh chấp giữa các quốc gia thì toà sẽ có 5 trọng

tài.

- Nếu các bên không thể lựa chọn, toà sẽ có 3 trọng tài. Nếu thiếu

sự đồng tình của trọng tài thứ 3 hoặc do một trong hai bên không

thể chỉ định trọng tài, các bên sẽ cùng xác định thẩm quyền lựa

chọn trọng tài hoặc theo như quy định của UNCITRIAL, thư ký

thường trực của PCA sẽ thực hiện vấn đề này.

- Nếu các bên đồng ý giải quyết tranh chấp của họ trước trọng tài

duy nhất, họ có thể lựa chọn dựa trên thoả thuận chung, nếu thoả

thuận thất bại, họ sẽ uỷ thác cho người có thẩm quyền. Theo các

nguyên tắc của UNCITRIAL, thẩm quyền trong việc sắp xếp trọng

16

tài là việc sử dụng một “list procedure”, qua đó, các bên nhận

được một danh sách chính có ít nhất tên của 3 người, và nhiệm vụ

của họ là phải phản đối hoặc chấp nhận những ai trong danh sách

đó.

- Tuy nhiên, các bên có thể đưa ra một giải pháp khác trong việc

lựa chọn các trọng tài. Các bên có thể quy định bất kỳ các trọng tài

có chuyên môn đặc biệt trong lĩnh vực đang xảy ra tranh chấp và

giới hạn quốc tịch của họ. Vấn đề quốc tịch đặc biệt quan trọng

trong các trường hợp nhạy cảm về mặt chính trị, vì vậy,

UNCITRIAL quy định, việc lựa chọn trọng tài phải được cân nhắc

kỹ lưỡng để đảm bảo cho sự độc lập, công bằng của trọng tài.

Ví dụ, các quy định không bắt buộc trong giải quyết tranh

chấp liên quan đến tài nguyên thiên nhiên và môi trường năm 2001

quy định thành lập hội đồng trọng tài có kinh nghiệm và chuyên

môn về luật môi trường hoặc bảo tồn tài nguyên thiên nhiên do các

quốc gia hoặc Tổng thư ký bổ nhiệm, nhưng cũng không yêu cầu

nhất thiết phải lựa chọn trọng tài từ hội đồng này.

2.3 – Phản đối trọng tài

Theo quy định của PCA, một bên có thể phản đối một trọng

tài nếu họ có nghi ngờ chính đáng về tính công bằng hay độc lập

của trọng tài đó. Nếu bên kia cũng đồng tình với sự phản đối này,

hoặc bản thân trọng tài đó tự rút khỏi vụ việc thì một trọng tài mới

sẽ được chỉ định theo cách mà trọng tài trước đó đã được chỉ định.

Mặt khác, phản đối sẽ được quyết định một lần nữa bởi người có

17

thẩm quyền trong hội đồng trọng tài, cũng như sự chấp thuận lẫn

nhau giữa các bên hoặc sự chấp nhận của Tồng thư ký PCA.

2.4 – Các biện pháp tạm thời

Theo quy định của PCA, Toà có thể yêu cầu một bên áp dụng

những biện pháp tạm thời cần thiết cho việc bảo đảm quyền lợi

riêng của từng bên hoặc những vấn đề chính trong tranh chấp

thông qua việc đưa ra các tuyên bố tạm thời. Hầu hết, các nguyên

tắc của PCA đều quy định rằng, các bên đều có thể hạn chế quyền

này của toà bằng những thoả thuận chung.

Trong các tranh chấp thương mại, các biện pháp tạm thời có

thể bao gồm việc gửi hàng hoá nhờ một bên thứ 3 hoặc bán các

loại hàng hoá có thể bị hư hại. Ví dụ, trong các quy phạm về Tài

nguyên thiên nhiên và môi trường có quy định toà được phép đưa

ra bất cứ yêu cầu nào về việc áp dụng “các biện pháp tạm thời để

đảm bảo quyền lợi của mỗi bên và ngăn ngừa sự nguy hại nghiêm

trọng đến môi trường nằm trong các vấn đề chính của vụ tranh

chấp.”

Trong mọi trường hợp, toà có thể yêu cầu các bên phải đảm

bảo đầy đủ chi phí liên quan tới việc thực hiện các biện pháp tạm

thời đó.

Bởi toà án trọng tài thường gặp nhiều khó khăn trong việc ép

buộc áp dụng các biện pháp tạm thời, tất cả các quy tắc giải quyết

tranh chấp của PCA đều dựa vào các quy tắc giải quyết của

UNCITRIAL: việc yêu cầu biện pháp tạm thời của bất cứ bên nào

18

tới người có thẩm quyền xét xử sẽ không được xem là không hợp

với thoả thuận xét xử hoặc sự từ bỏ thoả thuận đó.

2.5 – Preliminary Objections

Các quy tắc của PCA có quy định thủ tục ban đầu về việc xác

lập thẩm quyền xét xử. Những viện lẽ cho việc thiếu thẩm quyền

xét xử của toà phải được đưa ra trước khi quá trình biện hộ hoặc

được đề cập trong sự phản hồi đối với tuyên bố phản đối.

2.6 – Nơi tiến hành xét xử

Việc xét sử sẽ diễn ra tại Hague, Hà Lan nếu các bên không có

thoả thuận khác. Tuy nhiên, vẫn có sự linh hoạt đáng kể cho các

bên và toà trọng tài trong việc quyết định cụ thể nơi xét xử cho các

phiên điều trần, phiên gặp gỡ, tranh cãi. Như đã được nhắc tới ở

trên, trong các vụ việc cụ thể, nơi xét xử có thể ảnh hưởng tới luật

thủ tục áp dụng.

2.7 – Tranh tụng viết (written pleadings)

Nguyên đơn sẽ phải trình đơn kiện và sau đó thì bị đơn đưa ra

ý kiến phản bác. Đơn kiện phải bao gồm những thông tin sau:

a. Tên và địa chỉ của các bên

b. Trình bày sự việc

19

c. Các vấn đề đang tranh cãi

d. Hỗ trợ và biện pháp khắc phục

Kèm theo đơn kiện là những văn kiện có liên quan, bao gồm cả

việc chấp thuận thẩm quyền xét xử của toà.

Ý kiến phản bác của bị đơn phải bao gồm các mục b, c, d như

trong đơn kiện của nguyên đơn, kèm theo các văn kiện, chứng cớ

có liên quan mà bị đơn có ý định đưa ra. Đơn phản bác cũng có thể

có một “counter – claim” phát sinh từ một điều ước, thoả thuận, ký

kết hoặc các văn kiện pháp lý tương tự hoặc một tuyên bố phản

kiện. Cả hai đều phải thoả mãn những yêu cầu thủ tục của một

tuyên bố phản bác bình thường.

Các bên có thể sửa đổi, bổ sung văn bản đệ trình bất cứ lúc nào

trừ khi toà thấy việc sửa đổi, bổ sung là không thích đáng và làm

chậm trễ sự trình bày của các bên, gây thiệt hại cho các bên.

Không có trường hợp việc sửa đổi, bổ sung vượt quá thẩm quyền

xét xử của toà. Toà có thẩm quyền quyết định có nên bổ sung thêm

một văn bản đệ trình nào không.

Mặc dù PCA có quy định thời hạn của việc trình lên các văn

bản tranh tụng, nhưng trong vấn đề này, toà thường họp các bên

lại, tham khảo ý kiến để đưa ra quyết định. Điều này không được

quy định trong luật nhưng trong thực tế vẫn thường được áp dụng.

Nếu tranh tụng viết có quá nhiều phần, các bên thường hỏi ý kiến

toà và xin đăng ký quyết định có đưa trực tiếp các pleadings cho

nhau và các thành viên của toà hay không.

2.8 - Thẩm vấn trước toà (phiên điều trần)

20

Các bên được phép yêu cầu một phiên thẩm vấn trước toà.

Trong trường hợp không có yêu cầu nào, toà sẽ quyết định có tổ

chức thẩm vấn hay không hay là chỉ xét xử đơn độc hoặc hướng

dẫn thủ tục dựa trên các văn bản đệ trình, các tài liệu và văn kiện

liên quan. Tuy nhiên, trên thực tiễn, hiếm khi nào các bên hoặc toà

bỏ qua phần “hearings”.

Những chi tiết cụ thể về thủ tục trong phiên điều trần thường

được các bên, toà án trọng tài đưa ra tỉ mỉ trong cuộc họp trước

phiên điều trần. Toà có thể linh hoạt điều khiển các thủ tục đó.

Điều 15: “provided that the parties are treated with equality

and that at any stage of the proceedings each party is given a full

opportunity of presenting its case.”

Luật cũng quy định về việc trình bày của các nhân chứng và

các chuyên gia. Nếu một bên có nhân chứng, thì họ phải báo cho

toà và bên kia ít nhất là sớm trước 30 ngày về tên tuổi và địa chỉ

của nhân chứng cũng như vấn đề mà họ làm chứng.

2.9 – Language of the Proceedings

Có thể được các bên thoả thuận. Nếu không có thoả thuận nào,

toà sẽ tự quyết định.

2.10. Sự can thiệp của bên thứ ba

21

Mặc dù, trong thủ tục xét xử của PCA không có quy định về sự

can thiệp của bên thứ ba, tuy nhiện, nếu tranh chấp xảy ra giữa hai

bên trở lên, các bên có thoả thuận, tranh chấp sẽ được giải quyết

tại PCA.

3 – PHÁN QUYẾT CỦA TOÀ

3.1 – Phán quyết

Phán quyết cuối cùng của toà được thông qua bởi đa số thành

viên trong hội đồng trọng tài, được thể hiện trên văn bản, phải bao

gồm lý do của phán quyết trừ khi các bên không có yêu cầu. Trong

khi các Công ước 1899, 1907 đều quy định rằng, phán quyết phải

công khai thì PCA lại yêu cầu các bên phải có thoả thuận về vấn

đề các lý do có cần phải công khai hay không.

Phán quyết là cuối cùng và ràng buộc các bên, các bên phải thi

hành mà không có sự trì hoãn nào.

Nếu các bên đã đạt được một thoả thuận nào đó trước khi toà

kết thúc xét xử thì họ có thể yêu cầu toà ghi lại thoả thuận đó dưới

dạng quyết định về những điều kiện đã thoả thuận.

3.2 - Giải thích và sửa đổi

Sau khi phán quyết được đưa ra, các bên có thể yêu cầu toà

giải thích phán quyết hoặc sửa các lỗi trong tính toán, biên chép,

lỗi in hoặc yêu cầu một phán quyết bổ sung được đưa ra trong quá

trình xét xử nhưng đã bị bỏ sót trong phán quyết. Toà cũng có

quyền chủ động sửa lại các lỗi trong phán quyết trong vòng 30

ngày kể từ ngày đưa ra phán quyết.

22

3.3 - Kháng án

Phán quyết là cuối cùng và có tính ràng buộc, vì vậy các bên

không có quyền kháng án.

3.4 - Thi hành phán quyết

Các bên phải đảm bảo thi hành phán quyết mà không có sự trì

hoãn nào.

Các phán quyết trong các vụ liên quan đến các bên tư nhân

cũng được thi hành giống như các phán quyết giải quyết tranh

chấp thương mại quốc tế.

Trong một chừng mực nào đó, luật giải quyết tranh chấp tại

nơi xảy ra tranh chấp có quy định rằng, phán quyết phải được

trình lên hoặc được đăng ký, các quy phạm có liên quan quy định

rằng toà án phải có trách nhiệm trong vấn đề này.

Việc từ bỏ quyền miễn trừ xét xử bởi các quốc gia và các tổ

chức phi chính phủ đạt được từ một thoả thuận giải quyết bằng

trọng tài theo quy chế của PCA không dẫn tới việc từ bỏ sự miễn

trừ thi hành.

B. Những case cụ thể

B1. Eritrea/Yemen

I) Giới thiệu chung

Vụ Eritrea/Yemen là một trong số những vụ có tính chất quan

trọng nhất trong lịch sử trọng tài thế giới. Tòa trọng tài gồm 5

thẩm phán trong vụ việc này đã đưa ra hai phán quyết trong hai

giai đoạn:

23

Một là, phán quyết về “Chủ quyền lãnh thổ và phạm vi của tranh

chấp” đưa ra ngày 9/10/1998.

Hai là, phán quyết về “Phân định biên giới biển” đưa ra ngày

17/12/1999.

II) Xác lập tòa trọng tài

Dựa trên thỏa thuận trọng tài giữa chính phủ Eritrea và chính phủ

Cộng hòa Yemen vào ngày 3/10/1996, thỏa thuận này là sự tiếp

nối của thỏa thuận về những nguyên tắc chung giữa Eritrea/Yemen

tại Paris ngày 21/5/1996.

III) Thủ tục xét xử

Eritrea và Yemen, hai bên cam kết không sử dụng vũ lực để giải

quyết tranh chấp chủ quyền lãnh thổ và đường biên giới biển; đã

quyết định thông qua thoả thuận trọng tài và thành lập Toà trọng

tài.

Toà mở phiên họp đầu tiên vào ngày 14 tháng 1 năm 1997 tại

Luân đôn, Anh.

[Phần 5, Phán quyết ] Bốn trọng tài viên của Toà trọng tài

bàn bạc, trao đổi, phê chuẩn, thông qua các hoạt động được uỷ

quyền. Theo điều 7.2 Thoả thuận trọng tài, Toà chỉ định Tổng thư

ký Mr Jonkman của Toà trọng tài Thường trực (PCA) tại Hague và

Thư ký thứ nhất của PCA, Ms Bette E. Shifman lần lượt là người

24

lưu trữ hồ sơ và thư ký của Toà. Địa điểm đăng ký hồ sơ của Tòa

là tại Ban Quốc tế của PCA.

[Phần 6, Phán quyết ] Toà thông báo với hai đại diện của

Eritrea và Yemen về việc thành lập Toà và thảo luận một vài vấn

đề thực tế liên quan đến quá trình tố tụng trọng tài.

[Phần 7, Phán quyết] Điều 2 Thoả thuận trọng tài quy định:

1. Quyết định của Toà trọng tài phải phù hợp với những điều

khoản của Luật quốc tế, theo 2 giai đoạn.

2. Giai đoạn 1, Toà sẽ đưa ra phán quyết về chủ quyền lãnh thổ và

định nghĩa về phạm vi tranh chấp giữa Eritrea và Yemen. Toà sẽ

quyết định chủ quyền lãnh thổ phù hợp với những nguyên tắc, quy

định và thực tiễn luật quốc tế áp dụng trong vụ việc này; cụ thể

trên cơ sở các danh nghĩa lịch sử. Toà sẽ quyết định về định nghĩa

phạm vi tranh chấp trên cơ sở quan điểm của 2 bên.

3. Giai đoạn 2, Toà sẽ đưa ra phán quyết về phân định đường biên

giới biển. Toà sẽ quyết định cân nhắc quan điểm của mình về các

vấn đề chủ quyền lãnh thổ, Công ước Luật biển của Liên Hợp

quốc và những nhân tố phù hợp khác.

[Phần 8, Phán quyết ] Các bên cùng nộp Bản tranh tụng liên

quan đến chủ quyền lãnh thổ và phạm vi tranh chấp vào ngày 1

tháng 9 năm 1997 và Bản phản biện vào ngày 1 tháng 12 năm

1997. Phiên tranh tụng giai đoạn 1 sẽ diễn ra tại Luân đôn từ ngày

26 tháng 1 đến ngày 06 tháng 2 năm 1998. Theo bốc thăm, Eritrea

sẽ trình bày trước.

[ Phần 9, Phán quyết ] Vào cuối phiên họp ngày 6 tháng 02 năm

1998, theo điều 8.3 của Thoả thuận trọng tài, Toà kết thúc phần

tranh tụng trong giai đoạn 1 của quá trình tố tụng trọng tài giữa

25

Eritrea và Yemen. Tuy nhiên, vào cuối phiên tranh tụng, toà yêu

cầu 2 bên phải nộp văn bản trả lời những câu hỏi của Toà trước

ngày 23 tháng 02 năm 1998, trong đó bao gồm câu hỏi liên quan

đến sự tồn tại của các thỏa thuận về thăm dò và khai thác dầu mỏ.

Cũng theo điều 8.3, Toà có quyền yêu cầu các bên thể hiện quan

điểm của mình bằng văn bản để làm sáng tỏ bất kỳ khía cạnh nào

của các vấn đề trước Toà.

[Phần 10, 11 Phán quyết ] Theo thoả thuận của 2 bên,

Yemen sẽ trình bày lập luận trước liên quan đến nhượng quyền

thăm dò và khai thác dầu mỏ liên đới tới phán quyết về chủ quyền

lãnh thổ trong các phiên tranh tụng .

+ Toà đặt ra một loạt câu hỏi về việc giải thích bằng chứng

nhượng quyền và yêu cầu 2 bên trả lời bằng văn bản trong vòng 7

ngày kể từ khi kết thúc phiên tranh tụng. Và như vậy, theo quy

định, 2 bên phải nộp văn bản trả lời vào ngày 17 tháng 7 năm

1998. Nhưng trên thực tế, Eritrea đã nộp muộn vì có bản phụ lục

đi kèm. Ban Quốc tế của PCA đã nhận được bản phụ lục vào ngày

22 tháng 7 năm 1998; còn Yemen nộp văn bản muộn hơn nữa:

ngày 30 tháng 7 năm 1998. Eritrea phản đối việc nộp hồ sơ muộn

này của Yemen.

[Phần 12, Phán quyết ] Trong quá trình tranh tụng bổ sung

vào tháng 11 năm 1998, Toà thông báo cho các bên ý định liên hệ

với Tổng thư ký Liên đoàn Ả Rập để đảm bảo cho sự tồn tại và

muốn lấy bản copy của bất kỳ báo cáo chính thức nào của Liên

đoàn về các chuyến viếng thăm đến một vài hòn đảo đang bị tranh

chấp, đặc biệt vào những năm 70.

+ Ngày 20 tháng 7, Toà gửi fax đến Tổng thư ký Liên đoàn Ả Rập.

26

+ Ngày 28 tháng 7, Văn bản trả lời của Tổng thư ký đã được

chuyển tới các đồng đại diện của 2 nước và các thành viên của

Toà.

I

IV) Cơ cấu của hội đồng xét xử

Theo điều 1 của thỏa thuận trọng tài, Eritrea đã chỉ định hai trọng

tài viên là thành viên là chủ tịch và thẩm phán của ICJ là ngài

Stephen M.Schwebel và Rosalyn Higgins, phía Yemen chỉ định

hai luật sư đó là ngài Keith Highet và tiến sĩ Ahmed Sadek El-

Kosheri.

Ngày 14/1/1997 bốn trọng tài viên đã đề cử cựu chủ tịch của ICJ

Sir Robert Y.Jennings là chủ tịch của tòa trọng tài. Ngài tổng thư

kí của tòa PCA (Permanent Court of Arbitration) Hans Jonkman

được đề cử là người lưu trữ các tài liệu và thư kí tòa là cô Bette

Shifman. London được chọn là nơi diễn ra quá trình xét xử của tòa

trọng tài.

V) Yêu cầu của các bên

Theo quy định của điều 2 thỏa thuận trọng tài, Eritrea và Yemen

yêu cầu tòa phân định tranh chấp theo hai giai đoạn. Giai đoạn 1,

tòa được yêu cầu quyết định xem những vấn đề về chủ quyền lãnh

thổ trên cơ sở những chủ quyền có tính chất lịch sử theo những

quy định, thủ tục và thực tiễn luật pháp quốc tế có thể được áp

27

dụng cho vụ việc đồng thời xác định phạm vi của tranh chấp trên

cơ sở quan điểm rõ ràng của các bên.

VI) Phán quyết về vụ Eritrea/Yemen giai đoạn 1:

Bản phán quyết này được nhiều chuyên gia đánh giá là một “kiệt

tác” về luật với 157 trang chia thành 528 đoạn được phân bổ trong

11 chương.

Chương I: Việc tổ chức toà trọng tài và lập luận của các bên

Mở đầu

1. Phán quyết này được đưa ra theo thỏa thuận về việc thành lập

tòa trọng tài ngày 3 tháng 10 năm 1996 giữa chính phủ Eritrea và

chính phủ Yemen.

2. Eritrea và Yemen đã kí trước đó thỏa thuận về các nguyên tắc

chung tại Paris ngày 21 tháng 5 năm 1996, có chính phủ CH Pháp,

Ethiopia và CH Arab Ai Cập. Các bên đã tuyên bố sẽ nhờ vậy vào

luật pháp để bảo đảm với nhau việc hòa giải các tranh chấp về các

vấn đề chủ quyền lãnh thổ và việc giới hạn biên giới trên biển một

cách hòa bình. Các bên đã đồng ý thiết lập một thỏa thuận về việc

thành lập một tòa trọng tài. Thỏa thuận về các nguyên tắc chung

còn quy định rằng:

1) Tòa trọng tài được yêu cầu đưa ra những quyết định phù hợp

với luật quốc tế theo hai giai đoạn.

28

2) Giai đoạn đầu tiên sẽ đi đến một quyết định về chủ quyền lãnh

thổ và về việc xác định phạm vi tranh chấp giữa Eritrea và Yemen.

Tòa phải quyết định chủ quyền lãnh thổ theo các nguyên tắc, luật

định và thực tiễn của luật quốc tế có thể được áp dụng với vấn đề

đó và đặc biệt là trên cơ sở những văn tự có giá trị lịch sử (historic

titles). Tòa phải quyết định về việc xác định phạm vi của tranh

chấp trên cơ sở quan điểm tương ứng của mỗi bên (on the basis of

the respective positions of the two Parties).

3) Giai đoạn thứ hai phải đi đến một quyết định về giới hạn biên

giới trên biển. Tòa phải quyết định tính đến ý kiến…

8) Theo bảng thời gian đã quy định trong thỏa thuận trọng tàu cho

những giai đoạn khác nhau của xét xử, các bên trình bản kiến nghị

liên quan đến chủ quyền lãnh thổ và phạm vi tranh chấp đồng thời

vào ngày 1/9/1997 và bản phản-kiến nghị vào 1/12/1997. Theo

quy định trong điều 7.1 thỏa thuận trọng tài, tòa trọng tài đặt tại

London.

Lập luận của các bên về chủ quyền lãnh thổ

13) Eritrea dựa trên những tuyên bố của họ về chủ quyền lãnh thổ

đối với những hòn đảo trên biển Đỏ theo một loạt những tuyên bố

trải dài hơn 100 năm và những nguyên tắc về chiếm giữ hữu hiệu

(effective occupation) của luật quốc tế. Eritrea quả quyết rằng

quốc gia này kế thừa quyền sở hữu những hòn đảo này vào năm

1993 khi mà Eritrea tuyên bố độc lập hợp pháp từ Ethiopia.

Ethiopia về phần mình đã thừa kế quyền sở hữu của chính nó từ

29

Italy, mặc cho một giai đoạn bị quân Anh chiếm đóng Eritrea

trong toàn bộ CTTG II. Quyền sở hữu của Italy được tuyên bố…

15) Eritrea quả quyết rằng, không tranh chấp chủ quyền của đế chế

Ottaman, Italy cũng đã duy trì một sự có mặt tích cực (active

presence) ở những hòn đảo trên biển Đỏ khác vào thời gian đó.

Những con tàu lớn của Italy đã tuần tiễu ở những vùng nước xung

quanh khu vực đó để truy quét hải tặc, bọn buôn bán nô lệ và

những nhóm phiến loạn và quyền quản lý thuộc địa có vẻ đã gây

ra sự nhượng bộ cho việc khai thác thương mại. Theo Eritrea, lúc

đó không có một tuyên bố hoặc sự hiện diện nào của Yemen trên

và xung quanh những đảo đó trong suốt thời gian đã nêu. Iman

Yahya, người đã thành lập nhà nước Yemen hiện đại đã chiếm cứ

một vùng cao nguyên có tên là Gebel và theo Eritrea, Iman Yahya

đã công khai thừa nhận những vùng đất thấp duyên hải có tên là

Tiham không phải thuộc chủ quyền của ông ta. Việc dàn xếp về

đất đai đã được xác nhận thông qua “Hiệp ước Da’an” vào năm

1911, một biên bản hiểu biết giữa Đức vua và Đế chế Ottaman.

16) Eitrea quả quyết rằng sự suy yếu của Đế chế Ottoman trong

nhiều năm bởi CTTG I đã khiến cho Italy lên kế hoạch xâm chiếm

một tập hợp các đảo có tên gọi là “Zuqar-Hanish”. Những mưu đồ

này đã không trở thành hiện thực bởi việc chiếm đóng của quân

đội Anh namư 1915…

17) Vấn đề về chủ quyền đối với những hòn đảo được hình thành

trong thời kì hậu CTTG I đã lên đến cực điểm khi Hiệp ước

Lausanne được kí kết vào năm 1923. Trong khi các vùng đất cũ

của Đế chế Ottoman bại trận được chia đều cho những kẻ thống trị

bản địa đã có công ủng hộ Đồng Minh, Eritrea cho rằng không

một nhà cầm quyền nào ở bán đảo Arab đã ủng hộ Đồng Minh có

30

sự gần gũi thích hợp về mặt địa lý đối với những hòn đảo này để

được xem xét như những người nhận đất hợp pháp.

18) Eritrea chỉ ra rằng sự thất bại của Anh trong việc thuyết phục

những nước Đồng Minh còn lại để chuyển giao những hòn đảo

này cho những kẻ thống trị Arab được nước Anh lựa chọn hoặc

cho chính bản thân quôc gia này thông qua hiệp ước Sèvres chưa

được phê chuẩn năm 1920 và những cuộc đàm phán đã dẫn đến

việc kí kết Hiệp ước Lausanne vào năm 1923. Eritrea tin rằng điều

6 và 16 Hiệp ước Lausanne đã mở đường cho việc Italy chiếm

đóng những hòn đảo này. Điều 6 đã thiết lập một quy tắc chung

rằng trong những điều khoản của Hiệp ước, “những đảo lớn và đỏa

nhỏ nằm trong phạm vi 3 dặm tính từ bờ biển là thuộc chủ quyền

của quốc gia duyên hải”. Eritrea giải thích điều khoản này…

19) Điều 16 của Hiệp ước Lausanne chứa đựng một sự từ chối rõ

ràng của Thổ Nhĩ Kì về mọi quyền lợi và sở hữu đối với những

vùng đất đai và đảo của Đế chế Ottoman cũ và đã quy định rằng

tương lai của những lãnh thổ đó sẽ được dàn xếp bởi các bên có

liên quan. Eritrea lập luận rằng bởi vì điều 16 không hề chuyển

những hòn đảo này cho bất cứ một nhà nước đặc biệt nào và

không chỉ rõ bất cứ một thủ tục nào để chuyển nhượng quyền sở

hữu đối với những hòn đảo này, việc này hoàn toàn thuộc về

những tiêu chuẩn chung của luật quốc tế về chiếm hữu lãnh thổ

bao gồm chinh phục, chiếm hữu hữu hiệu và sự định vị trong lãnh

hải.

22) Hiệp định giữa Anh và Italy năm 1938 cũng chứa đựng một

cam kết rõ ràng về cả hai phía với sự tôn trọng những hòn đảo trên

biển Đỏ của Đế chế Ottoman rằng không được phép thiết lập chủ

quyền và có những hành động mạnh mẽ hoặc tự vệ. Trong quan

31

điểm của Eritrea, điều này không phải đã cấu thành một sự từ bỏ

(relinquishment) của những quyền đang tồn tại mà đơn giản đó chỉ

là một thỏa ước về cách cư xử trong tương lai. Eritrea còn chứng

minh vào thời điểm thỏa thuận Anh-Italy được kí kết, chủ quyền

của Italy đã được thiết lập thông qua những sắc lệnh số 1446 vào

tháng 12 năm 1938…

23) Eritrea cho rằng việc quân Anh chiếm đóng nước này trong

thời gian đầu của CTTG II là hoàn toàn phù hợp với luật chiếm

đóng trong quá trình xung đột. Mọi biên giới lãnh thổ của Eritrea,

bao gồm các hòn đảo là không đổi và quyền sở hữu của chúng đơn

giản là chuyển giao cho Ethiopia khi hai thực thể sáp nhập thành

nhà nước liên bang.

24) Eritrea còn cho rằng Hiến pháp 1952 của mình đã xác nhận

các hòn đảo đó là thuộc về lãnh thổ của Eritrea. Hơn nữa, người

viết câu “Eritrea bao gồm các hòn đảo” là một cố vấn pháp lý của

Ethiopia, ông John Spencer.

25) Một căn cứ pháp lý khác mà Eritrea căn cứ vào đó là luật tập

quán quốc tế. Rằng tất cả các hòn đảo đều nằm trong lãnh hải của

Eritrea. Các hòn đảo này đều nằm trong lãnh hải 12 hải lý của

Eritrea và đương nhiên thuộc về chủ quyền lãnh thổ của nước này.

26) Trong vòng 35 năm từ 1953 cho đến khi Eritrea tuyên bố độc

lập vào năm 1991, nước này cho rằng mình đã có những hành

động thể hiện chủ quyền đối với những hòn đảo này. Bao gồm rất

nhiều tàu tuần tiễu trên vùng biển này tăng một cách liên tục có hệ

thống mà không hề gặp một cản trở nào, thêm vào đó vào năm

1967, căn cứ theo việc chuyển giao quyền quản lý những hải đăng

cho Asmara bởi Ban thương mại Anh, Ethiopia đã tiến một bước

dài trong việc củng cố chủ quyền của mình lên các đảo này…

32

27) Eritrea cho rằng trong suốt những năm 1970 cả hai nước

Yemen và những đồng minh trong khu vực đều thừa nhận sự kiểm

soát ccủa Ethopia đối với những hòn đảo bằng những tuyên bố và

hành động. Nước này viện dẫn rằng, mãi đến những năm 70 của

thế kỉ XX, Bắc Yemen và Nam Yemen mới có những thể hiện về

quyền lợi của hai nước này đối với những hòn đảo… Để chứng

minh cho những quan điểm của mình, Eritrea đưa ra lập luận rằng

những quốc gia arab này không cáo buộc Ethiopia “dâng” những

hòn đảo này cho Israel nhưng đã cho phép Ethiopia xem xét những

hòn đảo để thanh tra những hoạt động quân sự của Israeli.

28) Eritrea nhận định rằng trong những năm cuối trong giai đoạn

1970 trước khi Eritrea tuyên bố độc lập, đã có những cuộc thanh

sát bằng đường không và đường thủy bởi quân đội Ethiopia một

cách rõ ràng.

29) Eritrea cho rằng mãi đến tháng 12/1995, nước này mới nhận

thấy sự “hiện diện chính thức” của một số ít hải quân của Yemen

và điều này đã làm nổ ra xung đột giữa hai quốc gia và kết quả

cuối cùng là mỗi quốc gia chiếm một trong những đảo chính ở

vùng biển này. Điều này chứng tỏ bất chấp những hoạt động có

tính truyền thống và lâu đời của những ngư dân Eritrea cũng như

lực lượng chức năng của nước này nhằm duy trì an ninh và sự ổn

định cho vùng biển có những hòn đảo thì Yemen vẫn có chủ quyền

thông qua chiến tranh…

31) Về phần mình, Yemen chủ yếu dựa trên những lập luận về

những tuyên bố có tính chất lịch sử, truyền thống và riêng biệt của

mình. Yemen viện dẫn điều 2(2) của thỏa thuận trọng tài trong đó

nhấn mạnh tính quan trọng của những “tuyên bố có tính chất lịch

sử” (historic titles) từ thế kỉ thứ VI trước công nguyên căn cứ vào

33

những chứng cứ về hải đồ, tuyên bố của vua Iman xứ Yemen và

“thái độ của những quốc gia thứ ba trong suốt một thời gian dài.”

32) Yemen cho rằng bất chấp những lần sáp nhập của nước này

vào đế chế Ottoman, bao gồm hai lần vào giai đoạn 1538 circa

1635, và 1872 đến 1918 không hề làm mất đi những chủ quyền

lịch sử của nước này đối với những hòn đảo. Yemen quả quyết

rằng việc đế chế Ottoman thành lập một tỉnh (vilayet) Yemen

đồng nghĩa với việc Ottoman thừa nhận tính chất riêng biệt của

Yemen như một đơn vị hành chính và lãnh thổ đơn lẻ, không dính

líu tới đế chế này. Lập luận này có cơ sở khoa học là những văn

của thế kỉ 17, 18, 19 và một số bản đồ.

33) Để tăng thêm tính thuyết phục cho những khẳng định của

mình, Yemen còn dẫn ra việc vua Imam đã bị Anh quốc từ chối lời

đề nghị bổ sung một phần phụ lục bí mật liên quan đến những hòn

đảo này trong hiệp định với Anh quốc năm 1934. Và yêu cầu rằng

vấn đề liên quan đến những hòn đảo này sẽ được giải quyết theo

điều 16 của hiệp ước Lausanne.

34) Yemen cho rằng điều đó không cấu thành sự từ chối chủ

quyền mang tính truyền thống của mình bởi những tài liệu nêu trên

trong giai đoạn 1933 đến 1937 của nhà cầm quyền Anh quốc chỉ

là một sự miễn cưỡng không thừa nhận chủ quyền của Yemen.

Yemen còn cho rằng hiệp ước Lausanne không có ảnh hưởng đến

chủ quyền của mình đối với những hòn đảo bởi vì Yemen không

phải là một thành viên của hiệp wocs này và sự từ bỏ quyền của

Thổ Nhĩ Kì không thể làm thay đổi lợi ích của những quôc gia thứ

3. Yemen cho rằng những quy định trong điều 16 hiệp ước

Lausanne không làm cho những hòn đảo terra nullius, và chủ

quyền đối với những hòn đảo này là chưa rõ ràng. Hơn nữa, điều

34

16 của hiệp ước đã ngừng tác động đến các quốc gia có liên quan

bởi vì những lý do chủ quan của các bên và các nước thứ 3.

35) Một nguyên tắc ủng hộ tuyên bố về chủ quyền duy nhất của

Yemen đối với những hòn đảo là “nguyên tắc về đơn vị tự nhiên

và địa lý”. Yemen lập luận rằng đây là một hệ luận (corollary) của

quan điểm về chủ quyền truyền thống. Căn cứ khoa học của

Yemen về lập luận này đó là tài liệu về “Biển Đỏ và vịnh của

Aden Pilot” đưa ra bởi Cục thủy văn học Anh quốc và bách khoa

thư Britannica.

37) Chủ yếu nói về những chủ quyền lịch sử căn cứ trên những

hoạt động liên quan đến những ngư dân và hoạt động của họ…

38) Yemen cho rằng những hòn đảo này có những ngôi mộ của

những nhà tu hành và nhiều nơi thờ cúng linh thiêng khác của

người Yemen. Và những ngư dân Yemen ở đây còn hình thành

phong tục là để lương thực vào mộ những người đã mất.

39) Thêm vào đó, Yemen cũng chỉ rõ ra rằng thẩm quyền về

những hệ thống giải quyết những tranh chấp có tính truyền thống

giữa những ngư dân bằng cách “ride the circuit” dọc theo những

bờ biển và giữa hòn đảo này, để đảm bảo việc tiếp cận pháp lý đối

với những những ngư dân không thể ra khơi.

40) Yemen nhấn mạnh mối liên hệ kinh tế giữa những hòn đảo này

và ngư dân của Yemen, những người sống phụ thuộc vào vùng

nước này, họ chỉ bán cá cho Yemen nội địa. Yemen đối sánh tình

hình này với những ngư đân Eritrea và cho rằng bởi vì những khó

khăn trong việc vận chuyển cá tươi về Eritrea nội địa (bao gồm thủ

đô Asmara) nên Eritrea không có truyền thống ăn thủy sản. Theo

Yemen, những ngư dân Eritrea vì lợi ích của mình đã tìm kiếm

35

một thị trường tốt hơn, và đó chính là những khu vực dọc theo bờ

biển của Yemen. Yemen tin rằng qua nhiều thế kỉ, việc sử dụng

những hòn đảo trong suốt một thời gian dài và gần như là riêng

biệt (the long-standing, intensive and virtually exclusive use of the

Islands) của những ngư dân Yemeni không hề gặp bất cứ một sự

can thiệp nào từ những quốc gia khác.

Chương VII: Những chứng cứ về việc triển khai chức năng của

quốc gia và thẩm quyền của nhà nước

239) Đối với luật quốc tế hiện đại về quyền chiếm hữu (or

attribution) lãnh thổ đòi hỏi những tiêu chuẩn sau: một sự thể hiện

rõ ràng có chủ đích về sức mạnh và quyền hạn đối với những vùng

đất này, bằng sự thể hiện về thẩm quyền và chức năng của quốc

gia theo nguyên tắc liên tục và hòa bình.

243, 244) Không có bất cứ văn bản pháp lý nào chứng minh một

cách rõ ràng rằng những hòn đảo là thuộc về chủ quyền của hai

quốc gia, kể cả hiến pháp, sắc lệnh, những quy định về hàng hải…

Văn bản có tính pháp lý thuyết phục nhất đó là năm 1971 nêu ra

bởi Eritrea chứng minh rằng “những hòn đảo nằm trong phạm vi

ảnh hưởng của Ethiopia”. Mặc dù đã xác định hai đảo Greater

Hanish và jabal Zuqar là nằm trong “vùng” được nêu ra, và năm

1987, Bộ phòng vệ quốc gia cũng nhắc lại những hòn đảo này

nhưng vẫn không nêu rõ, chỉ đích danh những đảo đó.

Chương X: Kết luận

36

441) Đối với vấn đề “chủ quyền truyền thống”, tòa phán quyết

rằng nếu đế chế Ottoman từ chối hoàn toàn quyền sở hữu đối với

những hòn đảo theo hiệp ước Lausanne 1923 khi thất trận ở giai

đoạn cuối CTTG I thì quyền này nghiễm nhiên “trở về” với

Yemen.

442) Theo học thuyết uti possidetis, thì đế chế Ottoman, mà cụ thể

là giai đoạn thứ hai của đế chế này trong giai đoạn 1872-1918,

thực tế chỉ có quyền sở hữu chứ không thật sự sở hữu những hòn

đảo này như vốn có của nó.

445) Hiệp ước Lausanne không quy định một cách rõ ràng, như

hiệp ước Sèvres đã làm, rằng Thổ Nhĩ Kì từ bỏ chủ quyền lãnh thổ

phục vụ lợi ích của phe Hiệp ước; theo kiểu loại trừ toàn bộ những

khả năng thực hiện một học thuyết về trao trả quyền (a doctrine of

reversion). Yemen không phải là một thành viên của hiệp ước

Lausanne, đó là RES INTER ALIOS ACT.

456) Hơn nữa, cần phải nhớ lại rằng, cả Eritrea và Yemen không

có nhiều cơ hội để chứng minh tham vọng của mình một cách

thoải mái và tích cực về chủ quyền hoặc những hoạt động có tính

chất nhà nước đối với những hòn đảo cho đến sau năm 1967, khi

mà Anh quốc rời khỏi khu vực này; bởi vì Anh quốc luôn ý thức

được việc phải canh chừng, duy trì vị trí của mình theo như quy

định trong hiệp ước Lausanne rằng quan điểm pháp lý đối với

những hòn đảo là chưa rõ ràng và xác định.

458) Có một lập luận cho rằng, căn cứ trên vị trí địa lý của những

hòn đảo, đảo nhỏ và đảo đá đang tranh chấp đã hình thành nên một

quần đảo có phạm vi vượt quá những vùng biển gần giữa bờ biển

giữa hai quốc gia. Từ đó, có thể suy luận ra rằng, những đảo nào

nằm ngoài cụm đảo này đương nhiên thuộc về quốc gia có đường

37

bờ biển gần nhất đối với đảo đó trừ khi quốc gia kia có khả năng

chứng minh một cách rõ ràng hơn chủ quyền của nó đối với hòn

đảo đó.

460) Cáo trạng của Yemen nhấn mạnh đến cái gọi là “nguyên tắc

về sự thống nhất tự nhiên và địa lí” khi nói về những đảo trong

cụm Hanish…

461) Nguyên tắc này được miêu tả cẩn thận trong chương 5 bản

kiến nghị của Yemen khi nước này đã viện dẫn một số tác gia nổi

tiếng như Fiztmaurice, Waldock và Charles de Visscher. Tòa cho

rằng một số quan điểm của các tác gia này là không cần tranh cãi

nhưng đó không phải là những nguyên tắc tuyệt đối bởi vì các tác

gia chủ yếu nói căn cứ trên những suy luận của chính họ. Mặc dù,

Fiztmaurice đã giải quyết tương đối rõ rằng việc tuyên bố chủ

quyền đối với một bộ phận lãnh thổ và được suy luận mở rộng đối

với những lãnh thổ bên ngoài mà ở đó không hề có rất ít hoặc

không hề có một sự tác động nào của Yemen. Tòa không phản đối

những ý kiến của Fiztmaurice nhưng những đó vẫn chỉ là một

nguyên tắc về sự thống nhất đơn giản.

463) Thuyết này được tòa nhìn nhận là con dao hai lưỡi khi mà nó

gặp phải vấn đề đối với những hòn đảo được suy ra từ đảo gốc có

thể nằm trong…

VII) Một vài nhận định

Hai bản phán quyết trong vụ Eritrea/Yemen là một minh chứng rõ

ràng cho vai trò giải quyết các tranh chấp của một tòa quốc tế trên

38

cơ sở luật, bao gồm công ước về luật biển của LHQ năm 1982 như

là sự pháp điển hóa luật tập quán quốc tế.

Phán quyết về “Chủ quyền lãnh thổ và phạm vi của tranh chấp”

trong vụ này là một cột mốc đánh dấu sự phát triển của những

nguyên tắc và thủ tục của luật pháp quốc tế điều chỉnh vấn đề

chiếm hữu chủ quyền lãnh thổ. Học thuyết nổi tiếng về những

chứng cứ về việc chiếm hữu xác thực và có hiệu lực được ghi

trong phán quyết này đã được phát triển bởi ICJ và các tòa quốc tế

khác.

B2. Case Red Crusader

I. Tổng quan về tranh chấp

Đây là vụ tranh chấp giữa Vương quốc Anh cụ thể là Scotland

và Đan Mạch (2 nước đều là thành viên của NATO) xảy ra vào

ngày 29-5-1961, Đan Mạch đã buộc tội tàu đánh cá Red Crusader

của Anh là đã đánh bắt cá ở vùng biển không được phép theo như

Hiệp định kí kết giữa 2 nước vào ngày 27-04-1959(theo đó thì khu

vực thuộc quyền kiểm soát việc đánh bắt cá của Đan Mạch là

khoảng 6 dặm tính từ bờ biển Faroe Islands, trong đó có một phần

nhỏ rộng 12 dặm; còn của Anh là khoảng tiếp theo đến phạm vi 12

dặm tính từ bờ biển Faroe Islands). Cụ thể vụ việc như sau:

Ngày 29/5/1961 một con tàu đánh cá Red Crusader của

Scotland bị một tàu hải quân loại nhỏ có tên Neils Ebbesen của

Denmard bắt giữ ngoài khơi đảo Faroe Islands với lí do như trên.

Thuyền trưởng Red Crusader đã được lệnh đi theo tàu Neils

Ebbesen của Đan Mạch tới Thorshawn để xét xử ở tòa Faroese.

39

Cùng với đó Neils Ebbesen cũng đã cử một trung sĩ và một hạ sĩ

lên tàu Red Crusader để giám sát việc thực hiện lệnh trên. Sau một

thời gian đi theo tàu Neils Ebbesen, Red Crusader đã chuyển

hướng để thoát khỏi Neils Ebbesen. Neils Ebbesen đã đuổi theo và

phóng hoả. Mũi thuyền, cột buồm, dây ăngten vô tuyến, radar trên

Red Crusader đã bị hỏng. Sau khi có thông tin từ bộ hải quân Đan

Mạch, Neils Ebbesen đã ngưng phóng hoả nhưng vẫn tiếp tục đuổi

theo. Trong lúc đó tàu thuỷ quân bộ hải quân hoàng gia Anh

Troubridge và tuần dương hạm bảo bệ cá Wooton cũng trực tiếp

đến khu vực với mục đích để tìm ra 2 tàu và diễn biến vụ việc. Hai

con tàu này gặp Red Crusader, Neils Ebbesen ở khoảng giữa 2

đảo Faroe Islands và Orkney Islands bờ biển phía bắc của

Scottland. Năm nhân viên của Wooton đã lên Neils Ebbesen để tổ

chức 1 hội nghị. Hội nghị đã thỏa thuận rằng Red Crusder bị bắt

buộc kiện ở Faroe.

Ngày 30/5 đại sứ Đan Mạch tại London đã gửi tới văn phòng

ngoại giao yêu cầu tàu Red Crusader chuyển đến Thorshavn để đối

mặt với lời buộc tội đánh bắt cá trong phạm vi 6miles và bắt cóc

các thuỷ thủ Đan Mạch.

Ngày 31/5/1961, trong Hạ viện Anh, Mr Hector Hughes,

Labour member for Aberdeen đã tuyên bố thế giới lấy làm tiếc về

biện pháp bạo lực được đưa ra bởi một quốc gia vừa là thành viên

của NATO vừa là thành viên của Liên Hợp Quốc.

Ngày 7/6/1961 văn phòng ngoại giao đã gửi một bản ghi nhớ

đến đại sứ Đan Mạch, đáp lại yêu cầu của Đan Mạch ngày 30/5.

Chính phủ Anh lấy làm tiếc về vụ việc vừa xảy ra, đó không phải

là tính đặc thù cho quan hệ tốt đẹp giữa 2 nước. Vấn đề ở đây

không phải là quyền kiểm soát việc đánh cá ở khu vực giới hạn ở

40

Faroe của Đan Mạch, mà là sự xuất hiện những nghi ngờ trong

thực tế diễn biến vụ việc này.

Ngày 28/10 khi việc đàm phán về việc thiết lập Ủy ban điều

tra (commission of inquiry) được khẳng định tiến triển. Sau đó Ủy

ban điều tra quốc tế phụ trách điểu tra vụ việc này được thiết lập

theo như sự trao đổi văn bản ngày 15/11/1961.

Sau khi ủy ban điều tra đưa ra phán quyết thì phải mất gần 1

năm sau , hai chính phủ mới đạt được môth thỏa thuận để giải

quyết vụ việc là một hiệp định từ bỏ tất cả những cáo buộc lẫn

nhau của cả 2 phía trước đó.

Theo đó Red Crusader được tự do đi lại trong vùng biển của

Đan Mạch mà không la sợ bị bắt giữ, và chính phủ Đan Mạch

cũng không phải đền bù cho những thiệt hại của Red Crusader.

II. Thủ tục điều tra

Vào ngày 25/11/1961 Đại sứ của Đan Mạch tại Luân Đôn và

Ngoại trưởng Anh đã trao đổi công hàm với nhau. Về phía mình

đại sứ thay mặt chính phủ Đan Mạch đề nghị rằng:

(a.) – (i) Ủy ban điều tra(được viết tắt là ủy ban-commission) gồm

các thành viên sau:

1. Professor Charles de Visscher

2. Professor Andre Gros

3. Captain C.Môlenburgh

(ii) chủ tịch của Ủy ban là Professor Charles de Visscher

(iii) nếu bất kỳ thành viên nào của Ủy ban qua đời hay không có

khả năng hoạt động , vị tri khuyết sẽ được bổ sung bởi sự thỏa

thuận của hai chính phủ.

41

(ii) tình huống bắt giữ và

(iii) thực tế và vụ việc diễn ra sau đó trước khi Red Crusader tiến

vào Aberdeen.

(c)- (i) ủy ban sẽ tự xác định thủ tục của nó và tất cả những câu hỏi

cần thiết cho việc điều tra.

(ii) Nếu không có sự nhất trí, những quyết định của commission

tất cả các câu hỏi bao gồm cả bản chất hoặc thủ tục, sẽ được thông

qua bởi đa số các thành viên, bao gồm tất cả các vấn đề liên quan

đến thẩm quyền của commission, việc giải thích hiệp ước và xác

định những vấn đề được ghi rõ trong điều (b)

(d) – (i) mỗi quốc gia trong vòng 14 ngày kể từ ngày hôm nay chỉ

định một đại diện cho các mục đích của việc điều tra và sẽ thông

báo tên, địa chỉ của người đại diện cho mỗi quốc gia và đến chủ

tịch commission

(ii) Mỗi quốc gia có quyền được đại diện trước commission bởi

đại diện và luật sư bào chữa và người tư vấn khi mà nó được chỉ

định

(e) – (i) vụ tranh tụng sẽ diễn ra theo 2 hình thức miệng và viết

(ii) Written memory sẽ được đệ trình lên commission trong thời

gian giới hạn do commission quy định

(iii) thủ tục tranh tụng miệng sẽ sau khi tranh tụng viết và sẽ tuân

theo quy định tại điểm ‘f’ phía sau. Nó tổ chức kín tại một địa

điểm và thời gian đó commission quy định sau khi tham khảo với

2 cơ quan đại diện của 2 nước.

42

(iv) mỗi quốc gia có quyền đưa nhân chứng lên commission và

thẩm vấn các nhân chứng được triệu tập bởi quốc gia kia để đưa ra

chứng cứ trước commission trong lúc tranh tụng miệng.

(f.) – (i) commission sẽ lựa chọn địa điểm làm việc và thông báo

bằng văn bản cho các quốc gia. Thêm vào đó vị trí đã được chọn

có thể tiến hành các chức năng ở Đan Mạch, bao gồm khu vực

Faroe Islands và UK.

(ii) mỗi quốc gia sẽ hợp tác tạo thuận lợi cho quá trình điều tra.

(g)- (i) commission sẽ chấm dứt điều tra nhanh ngay khi có thể, và

sẽ gửi bản báo cáo bằng văn bản và bản copy cho các đại diện.

(ii) bất kì điều gì trong quá trình điều tra được công bố sẽ phải

được sự chấp thuận của 2 quốc gia.

(h) hai chính phủ chấp nhận bằng chứng của commission đưa ra là

bằng chứng cuối cùng.

(i) –(i) chi phí hoạt động của commission sẽ được chia ngang bằng

cho hai nước

(ii) chi phí chung cho việc điều tra được chia bằng nhau cho 2

chính phủ, nhưng mỗi chính phủ sẽ phải chịu các chi phí của mình

như việc trình bày, việc chuẩn bị trong vụ việc

2. nếu việc đề nghị đã nói ở trên được UK chấp nhận, tôi có vinh

dự đề nghị rằng văn bản này và sự đáp lại của UK sẽ thành lập

một hiệp ước giữa 2 chính phủ trong vấn đề này và sẽ có hiệu lực

kể từ ngày hôm nay.

Trả lời cho đề nghị này của Đan Mạch, Ngoại trưởng Anh đã

có công hàm trả lời với nội dung như sau:

43

Đồng ý văn bản đề nghị của chính phủ Đan Mạch và sự hồi đáp

bằng văn bản của Anh sẽ thành lập 1 hiệp ước giữa hai chính phủ

sẽ có hiệu lực từ ngày hôm nay.

Commission được thành lập ngày 21/11/1961, không một ai

trong số các thành viên là công dân của UK hay Đan Mạch. Họ lần

lượt là những người Bỉ, Pháp, Hà Lan. Trong thời gian họ được bổ

nhiệm, họ giữ các vị trí sau: Professor de Visscher là giáo sư đại

học Louvain và chủ tịch danh dự của viện luật quốc tế, Professor

Andre Gros là cố vấn pháp lí cho Bộ Ngoại giao Pháp; Captain

Moolenburgh là Netherlands Inspector-General of Shipping.

Người đại diện của Đan Mạch là Mr Bent Jaccobsen, Đại diện

của UK là Mr F.A Vallat.

Ngày 21/11/1961 đồng ý những bản ghi nhớ sẽ được chuyển

tới London và được lưu tại Hague ngày 5/12, cùng với mỗi bản

copy cho các thành viên của commission và sẽ được đăng kí lên

tòa án trọng tài thường trực. Courter-Memorials sẽ được trao đổi

và lưu lại tại các điểm nêu trên vào ngày 16/1/1962. quyết định

việc tranh tụng miệng sẽ được diễn ra vào 5/3/1962 theo thứ tự

sau: bằng chứng Đan Mạch- bằng chứng Anh, tuyên bố miệng của

Đan Mạch- tuyên bố của Anh, được sắp xếp bởi 2 bên, nếu có yêu

cầu. Mỗi nhân chứng sẽ được thẩm vấn, thẩm vấn chéo và nếu cần

thiết sẽ được thẩm vấn lại. Tranh tụng bằng văn bản là tiếng Anh

và các văn bản bổ sung được thừa nhận dựa trên thông báo hợp lý.

Theo việc trao đổi ý kiến giữa chủ tịch commission và tổng thư

ký của hội đồng thường trực tòa án trọng tài, Mr Malcolm Eliot

Long được chỉ định quản lý sổ đăng bạ và hoạt động trong khi

tranh tụng miệng và thảo luận của commission.

44

Ngày 3/3/1962 commission đã gặp bí mật và điều chỉnh với đại

diện của các bên về những thủ tục nội bộ và tài liệu thỏa thuận.

tranh tụng miệng sẽ kéo dài từ 5-16/3/1962. Commission sẽ nghe

9 nhân chứng và 2 chuyên gia Đan Mạch vào buổi tranh tụng

miệng từ 5-9/3/1962. Các nhân chứng sẽ bị thẩm vấn chéo bởi các

luật sư bào chữa của UK và trong một vài trường hợp sẽ bị thẩm

vấn lại.

Từ 10/3, 3 nhân chứng và 1 chuyên gia của UK sẽ được thẩm

vấn. Các nhân chứng và chuyên gia bị thẩm vấn chéo bởi các đại

diện của Đan Mạch và trong một vài trường hợp bị thẩm vấn lại.

Việc tuyên bố và trả lời được diễn ra từ 14-16/3/1962.

Báo cáo của commission, gửi đến Hague ngày 23/3/1962 được

chia thành 3 chương, theo như các tiêu đề chính sau: (a.) thực tế

dẫn đến vụ bắt giữ Red Crusader và tình huống bắt giữ, (b) những

sự kiện giữa vụ bắt giữ Red Crusader và cuộc gặp với tàu thuyền

hải quân UK, (c) các sự kiện sau khi gặp tàu thuyền UK.

Báo cáo của commission được công bố đồng thời tại London

và Copenhagen ngày 30/3/1962.

III. Phán quyết của Ủy ban điều tra

1. Những diễn biến dẫn đến sự bắt giữ tàu Red Crusader

a. Không có bằng chứng nào về việc đánh cá trong vùng cấm được

thiết lập mặc dù tàu đánh cá Red Crusader đã ở trong khu vực này

trong khoảng thời gian từ 21h cho đến 21h 14’ ngày 29/5/1961.

b. Red Crusader cùng với dụng cụ, thiết bị không xếp gọn gàng đã ở

trong vùng cấm từ 21h đến 21h14’.

c. Tín hiệu đầu tiên và tín hiệu cuối cùng của Niels Ebbesen để dừng

Red Crusader lại, được đưa ra khi ở bên ngoài vùng cấm.

45

2. Những sự kiện xảy ra bắt đầu từ lúc RC bị bắt giữ đến cuộc gặp gỡ

với hải quân Anh.

a. Red Crusader bị tấn công.

b. Skipper Wood sau khi nhận được lệnh của Niels Ebbesen, đã thay

đổi hướng đi theo như được yêu cầu với mục đích nhằm chạy trốn

lẩn tránh thẩm quyền tài phán của Đan Mạch cái mà được cho là

đúng và được chấp nhận.

c. Trong khi cố gắng trốn thoát, thuyền trưởng của Red Crusader đã

từng bước tách đại úy Beck và hạ sĩ Kropp trong 1 khoảng time

nhất định và có ý định đưa họ tới Aberdeen.

d. Trong lúc phóng hỏa từ 3h22’ đến 3h53’ nhân viên chỉ huy của

Neils Ebbesen đã sử dụng các lực lượng vũ trang vượt quá quyền

hạn của minh tại 2 điểm: phóng hỏa mà không có cảnh báo bằng

tiếng súng(of solid gun-shot) và gây nguy hiểm tính mạng con

người trên Red Crusader không được chứng minh là cần thiết.

Việc trốn thoát của Red Crusader rõ ràng vi phạm mệnh lệnh đã

nhận và tuân thủ, việc tách các viên chức và thủy thủ của Neils

Ebbesen trên boong, việc từ chối dừng lại của thuyền trưởng

Wood có thể giải thích một vài sự phẫn uất của Captain Solling.

Tuy nhiên hoàn cảnh như vậy không thể biện minh cho hành vi vi

phạm được. Quan điểm của Commission rằng những biện pháp

khác được cố gắng, nếu kiên trì đúng lúc cuối cùng có thể thuyết

phục thuyền trưởng Wood dừng và trở lại các thủ tục bình thường,

cái mà chính ông ta theo đuổi trước đó.

e. Chi phí của việc sửa chữa thiệt hại nguyên nhân bởi việc phóng

hoả và va đập Red Crusader mà UK đệ trình được Đan Mạch cho

là hợp lý.

46

3. Những sự kiện sau lần gặp các tàu của hải quân Anh

Trong chương III dẫn đến các sự kiện sau khi gặp gỡ với các

tàu thuyền hải quân UK, commission tuyên bố rằng trong bản ghi

nhớ của Đan Mạch (aide-mémorier) ngày 2/6/1961 cũng như

courter-memorial, các quan chức hải quân của UK bị chỉ trích vì

việc can thiệp vào thẩm quyền luật pháp (lawful authority) của

Neils Ebbesen đối với một con tàu đánh cá, cái mà nó bắt giữ một

cách hợp pháp.

Kết luận của commission về các sự kiện liên quan đến các tàu

thyền hải quân UK là “Tư lệnh Griffith và các quan chức khác của

hải quân hoàng gia UK đã rất cố gắng để tránh các biện pháp bạo

lực giữa Neils Ebbesen và Red Crusader. Một thái độ được cho là

mẫu mực”

IV. Nhận xét

1. Ý nghĩa của biện pháp điều tra

Biện pháp điều tra là biện pháp dung để xác định diễn biến

thực tế của vụ việc khi mà các bên không có quan điểm thống

nhất. Có thể nói biện pháp điều tra chỉ là giai đoạn đầu trong giải

quyết tranh chấp, do vậy ngày nay nó đã không được sử dụng như

một biện pháp riêng biệt mà được ghép vào các hình thức giải

quyết tranh chấp khác như trọng tài hay tòa án…

2. Điểm khác biệt của ủy ban điểu tra trong trường hợp này so

với thực tế

Trong vụ tranh chấp này, điểm đáng chú ý của hình thức ủy

ban điều tra đó là về thẩm quyền của nó và tính chất của báo cáo

điều tra.

47

Thứ nhất Ủy ban này đưa ra những bằng chứng không chỉ về

diễn biến vụ việc mà còn về mặt luật pháp, trong khi trách nhiệm

của ủy ban là điều tra diễn biến, hoàn cảnh và những tranh chấp

của 2 bên mà thôi (điều 35-Hague convention: limited to statement

the fact)

Hay nói cách khác ủy ban đã vượt quá thẩm quyền của mình.

Trong phán quyết của mình, ủy ban đã sử dụng những từ mang

tính phán xét hành động như “rightly”, “exceeded legitimate use of

armed force”, “cannot justify”, “were impeccable”.

Thứ hai, khi thỏa thuận thành lập Ủy ban điều tra, hai bên đã

chấp nhận báo cáo của Ủy ban là cuối cùng (final) nhưng theo lí

thuyết thì nó không thể được xem như vậy. (điều 35 has in no way

the character of a ward and leaves the parties entire freedom as to

the efect to be given to the statement). Điều này làm cho bản báo

cáo mang giá trị pháp lí như là phán quyết của trong tài.

Có thể nói chính 2 điểm khác biệt so với lí thuyết này đã làm

cho bản báo cáo mang tính chất gần giống với một phán quyết của

trọng tài.

Ngoài hai điểm chính trên thì về mặt thủ tục cũng có những

điểm khác biệt như:

Examination of the witnesses phải được sự hướng dẫn của chủ

tịch (điều 26 The examination of the witnesses is conducted by the

president) nhưng trong trường hợp này chủ yếu do đại diện của

mỗi bên.

Báo cáo sẽ được công bố khi 2 bên chấp nhận nhưng theo lí

thuyết thì nó chỉ cần sự có mặt của đại diện và cố vấn pháp luật

của hai bên. (điều 34 the Report of the Commission is read at a

48

public sitting, the agents and counsel of the parties being present

or duly summoned). Chính điểm này cũng đã cho thấy giá trị của

bản báo cáo, nó thể hiện sự đồng thuận của cả hai bên về diễn biến

thực tế của vụ việc.

3. Điểm khác biệt so với hình thức trọng tài

Như chúng ta đã biết hình thức trọng tài được sử dụng khá rộng

rãi vì tính linh hoạt của nó, nếu xét về hình thức, thủ tục thì ủy ban

điều tra tương đối giống nhau nhưng có hai điểm khác nhau cơ

bản.

Thứ nhất đó là tính ràng buộc của phán quyết. Những phán

quyết của trọng tìa thì mang tính ràng buộc các bên phải thực hiện,

nhưng báo cáo của ủy ban điều tra thì không mang tính rang buộc.

Thứ hai là khác biệt về thẩm quyền giải quyết tranh chấp. Cả

hai hinh thức đều có thẩm quyền giải quyết nhũng vấn đề do hai

bên yêu cầu, tuy nhiên ủy ban điều tra chỉ điều tra về diễn biến vụ

việc xảy ra, không giải quyết trực tiếp tranh chấp mà cung cấp cơ

sở cho các bên tiến hành những biện pháp khác mà thôi, còn trọng

tài thì dựa trên những bằng chứng mà các bên tranh chấp đưa ra để

phán xét những vấn đề mà các bên yêu câu để giải quyết tranh

chấp.