ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP.HỒ CHÍ MINH TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂ N VĂN ----------------------------- BỘ MÔN: GIÁO DỤC ĐẠI HỌC QUỐC TẾ VÀ VIỆT NAM

ĐỀ TÀI:

SINGAPORE – NỀN GIÁO DỤC TIÊN TIẾN CỦA ASEAN

Giảng viên hướng dẫn: PGS.TS. PHẠM LAN HƯƠN G Thực hiện: NHÓM 10

Lớp: NVSPGV-K19

TP. HỒ CHÍ MINH - 2013

DANH SÁCH NHÓM 10

1. STT 2. Họ Tên 4. Email

3. SĐ T

19

Trần Minh Hoàng

0907 785 776

hoangtm533@yahoo.com

25

Trần Thị Quý Thu

0909 925 282

m squythu@yahoo.com

92

Võ Như Thành

0918 541 175

nhuthanhvo@yahoo.com

124

Đào Văn Quang Tuyến 0934 933 727

prdaot uyen@gmail.com

125

Nguyễn Thị Tố Uyên

0934 722 758

uyensuju@gmail.com

126

0907 075 929

Nguyễn Huỳnh Hạ Uyên

uyenguyenhahuynh@yahoo.c om

128

Võ Thị Kim Vân

0908 579 565

kimvan87@gmail.com

130

Lê Xuân Viên

0938 335 577

lxvien@gm ail.com

131

Bùi Hoàng Việt

0908 176 827

vietbh286@gmail.com

132

Lê Thị Vui

0984 794 730

lethivuihy@gmail.com

133

0907 864 216

nguyenlinh533@gmail.com

Nguyễn Thị Phương Linh

134

Nguyễn Thị Kim Yến

0932 131 933

kimyentdt@gmail.com

135

Lê Thị Hải Yến

haiyenle132@gm ail.com

01285 573 335

140

Trần Thanh Mau

0913 852 313

mau7art@yahoo.com

SINGAPORE – NỀN GIÁO DỤC TIÊN TIẾN CỦA ASEAN

I. Đất nước Singapore

Tên Singapore xuất phát từ Singapura trong tiếng Malaysia, vốn được lấy từ

nguồn gốc của chữ Phạn là singa (sư tử) và pura (thành phố). Từ đó, Singapore được

biết với cái tên Thành phố Sư Tử.

Singapore từng là một làng cá của người Malaysia khi nó bị chiếm làm thuộc

địa của Anh vào thế kỷ XIX. Sau đó, quân đội Nhật chiếm đóng Singapore trong Thế

chiến thứ hai, và sau nữa đây là một phần trong sự liên kết tạo thành Liên bang Mã

Lai. Giành được độc lập năm 1965, Singapore hầu như không có tài nguyên gì, thiếu

cả nước sinh hoạt, phải nhập khẩu toàn bộ lương thực thực phẩm, không ổn định về

chính trị xã hội và không phát triển về kinh tế. Đầu tư nước ngoài và sự công nghiệp

hoá do nhà nước chỉ đạo đã tạo ra một nền kinh tế dựa chủ yếu trên xuất khẩu hàng

điện tử và gia công. Sau 50 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng Nhân dân hành động (the

People’s Action Party – PAP) theo quan điểm “nhân tài trị quốc”, Singapore đã trở

thành một trong những nước phát triển nhất thế giới và là nước phát triển hàng đầu ở

vùng Đông Nam Á.

Là một đất nước nhỏ ở vùng Đông Nam Á có diện tích khoảng 697,25km2. Dân số Singapore khoảng 5,4triệu người (cuối tháng 6 năm 2013) [1]1, trong đó, 74,2%

người gốc Hoa, 13,3% người gốc M alaysia, 9,2% người gốc Ấn và 3,3% là những sắc tộc khác [6]2, trong đó có người lai Âu. Ngày nay, Singapore còn là nơi sinh sống và

làm việc của một cộng đồng người nước ngoài rộng lớn với khoảng 20% là lực lượng

lao động phổ thông đến từ Philippin, Indonesia và Bangladesh. Số người nước ngoài

còn lại đều là những chuyên gia đến từ nhiều quốc gia khác nhau như Bắc Mỹ, Úc,

Châu Âu, Trung Quốc và Ấn Độ.

Thành công của mô hình này là không thể phủ nhận: Cơ sở hạ tầng đô thị cực

kỳ tốt, môi trường cực kỳ trong sạch và an toàn, sự hòa hợp chủng tộc hiếm có, tiếng

1 http://www.singstat.gov.sg/Publications/population.html#population_and_population_structure

2 http://www.yoursingapore.com/content/traveller/en/browse/aboutsingapore/people-lang-culture.html

Anh được sử dụng phổ biến, luật pháp được tôn trọng, không có tham nhũng, quyền sở

1

hữu trí tuệ được bảo vệ, nền hành chính hoạt động hết sức hiệu quả, lượng tiền mặt dồi

dào, với các mức thuế thuộc loại thấp nhất thế giới. Thu nhập bình quân đầu người là 51.162USD/năm, một con số mà khá nhiều nước ao ước. [3]3

II. Q uá trình phát triển của nền giáo dục Singapore:

Nền giáo dục của Singapore từ khi giành quyền tự trị năm 1959 đến nay được

chia làm nhiều giai đoạn với phương châm cải cách giáo dục riêng. Ta có thể chia làm

4 thời kỳ chính. Những giai đoạn này không thể tách rời nhau mà là một chuỗi liên

tục:

 Giáo dục để tồn tại (1959 – 1978)

 Giáo dục lấy hiệu quả làm động lực (1979 – 1996)

 Giáo dục lấy năng lực làm động lực (1997 – 2005)

 Giáo dục lấy đổi mới làm động lực (từ 2006)

Song song với từng thời kỳ ta sẽ học tập được từ những thành công cũng như

thất bại của họ.

1. Thời kỳ 1959 – 1978: Giáo dục với mục đích tồn tại.

Sau khi giành độc lập, chính phủ Singapore đã tiếp quản một hệ thống giáo dục

rất đa dạng vì thực tế tại đây tồn tại song song nhiều ngôn ngữ, có các trường sử dụng

3 http://petrotimes.vn/news/vn/quoc-te/singapore-trong-cuoc-dua-suc-canh-tranh.ht ml

tiếng Anh, tiếng Mã Lai, tiếng Hoa, tiếng Tamil. Thêm vào đó nội dung dạy của các

2

trường cũng khác nhau. Từ đó chính phủ Singapore đã quán triệt được rằng việc thống

nhất các chuẩn trong giáo dục là một bộ phận của công cuộc đổi mới đất nước. Bộ

giáo dục Singapore đã nghiên cứu, xây dựng chương trình chung và đưa vào các

trường nhưng đồng thời vẫn cho phép các trường sử dụng ngôn ngữ khác nhau để

giảng dạy. Trong những năm của thập kỷ 60-70, một loạt các biện pháp cải cách giáo

dục đã được tiến hành nhằm đảm bảo các tiêu chuẩn bình đẳng, thống nhất. Chiếu theo

Việt Nam nước ta có hơn năm mươi dân tộc anh em có tiếng nói khác nhau nhưng rào

cản ngôn ngữ không phải là khó khăn của ta hiện tại vì Tiếng Việt chiếm tỉ lệ cao nhất.

Hình 1: Singapore xây dựng đất nước dựa trên những giá trị nền tảng lâu đời của

người Anh là nhà nước pháp quyền (rule of law), lòng khoan dung tôn giáo (religious tolerance) và trọng dụng nhân tài (m eritocracy) [2]4

Với chính phủ Singapore, việc giữ lại tiếng nói riêng cho từng sắc tộc là một cố

4 http://kinhnghiemsingapore.wordpress.com/kinh-nghi %E1%BB%87 m-singapore-2/

gắng rất lớn nhằm kéo các cộng đồng đoàn kết xích lại bên nhau, đồng thời khuyến

3

khích duy trì và phát triển nền văn hóa cũng như phong tục tập quán của từng dân tộc.

M ột chương trình chung và một hệ thống thi cử chung cho toàn bộ các cấp học và bậc

dự bị đại học. Thống nhất sử dụng tiếng anh là ngôn ngữ giảng dạy chủ yếu.

2. Thời kỳ 1979 – 1996: Giáo dục lấy hiệu quả làm động lực

Năm 1979, nền giáo dục Singapore đứng trước một sự thay đổi lớn. Một hội

đồng đứng đầu bởi Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, tiến sĩ Goh Kang

Swee, đã tiến hành một cuộc khảo sát trên diện rộng nền giáo dục Singapore, kết quả

đã mang lại cho nền giáo dục Singapore nhiều cách vận động hiệu quả hơn trước kia.

Đây thực sự là một chuyển biến lớn tập trung vào làm giảm lãng phí trong giáo dục,

đồng thời khuyến khích mọi tầng lớp trong xã hội phải tới trường. Cải tiến, phân loại

sách giáo khoa cho các nhóm học sinh có khả năng khác nhau. Tất cả mọi học sinh đều

phải hoàn thành 10 năm học tập trung (6 năm tiểu học, 4 năm trung học) trước khi

bước vào thế giới việc làm.

Những năm 90 đối mặt với thời kỳ kinh tế suy thoái kinh tế. Giai đoạn này nổi

bật là sự kết hợp giữa nhà trường, quá trình đào tạo và sự đòi hỏi của thị trường lao

động. Ông Lim Swee Say, Phó Chủ tịch Liên đoàn lao động quốc tế lúc bấy giờ đã

phát biểu “vấn đề của Singapore hiện giờ không phải là có việc làm hay không mà là

có khả năng đáp ứng đòi hỏi của công việc để được tuyển dụng hay không…”. Thiết

lập các mối quan hệ giao lưu win-win giữa các thị trường và các doanh nghiệp, các

steak – holder trong xã hội nhằm làm cho kết quả giáo dục (đội ngũ lao động tương

lai) mang tính thực tế và đem lại lợi ích trực tiếp cho kinh tế nước nhà.

Nắm được xu thế của thế giới, Singapore ngay từ giai đoạn này đã chủ động

đầu tư phát triển công nghệ thông tin. Kế hoạch tổng thể lần một từ năm 1997-2002,

trang bị máy tính cho tất cả trường học phổ thông với vốn đầu tư 2 tỷ đô la Singapore.

M ục tiêu của kế hoạch này là mục tiêu 2 em học sinh 1 máy tính, 30% số môn học

được giảng thông qua máy tính và giảm 30% nội dung một số môn học. Kế hoạch tổng

thể lần 2 được công bố tháng 7 năm 2002 nhằm đẩy mạnh và phát triển các điều khoản

được đưa ra ở lần một.

Với mục tiêu tăng cường đoàn kết trong xã hội nên các bài học về các giá trị xã

hội luôn có quan trọng trong chương trình giáo dục Singapore. Ta có thể học tập qua

4

nghiên cứu một giáo trình đúng đắn và phù hợp cho bộ môn giáo dục công dân. Thêm

vào đó, chính phủ cũng nhận ra rằng nhân tố quan trọng nhất dẫn đến sự thay đổi

thành công của việc quản lý trường học là thầy cô giáo và người hiệu trưởng. Từ đó,

Singapore đã đặt ra một kế hoạch bồi dưỡng chuyên nghiệp, trong đó, việc đào tạo và

bồi dưỡng năng lực sư phạm cho giáo viên đang giảng dạy được kết hợp một cách chặt

chẽ với sự phát triển sự nghiệp.

Trong giai đoạn này, giáo dục Singapore đẩy mạnh đào tạo kỹ thuật bách nghệ.

Chính phủ đề ra mục tiêu 40% các em học sinh phổ thông sẽ vào các trường đào tạo kỹ

thuật, 20% các em khác (25%) sẽ được vào đại học. Cũng như vậy giáo dục đại học sẽ

được rà soát để có thể phù hợp và đáp ứng tốt hơn những đòi hỏi của nền kinh tế đang

biến đổi.

3. Giai đoạn 1997 – 2005: Giáo dục lấy năng lực làm động lực

Giáo dục Singapore thời kỳ này đưa ra một yêu cầu mới, học sinh được giáo

dục không chỉ biết đọc, làm máy tính mà còn phải biết sử dụng công nghệ thông tin.

Thêm vào đó, học sinh còn được kỳ vọng là phải có khả năng sáng tạo và đổi mới, biết

chấp nhận rủi ro và phải luôn luôn tự giác học hỏi (mang nét tương đồng với giáo dục

Phần Lan, được cho là nền giáo dục tiên tiến nhất thế giới). Thiết lập khái niệm

“Trường học tư duy, quốc gia học tập” (“Thinking school, learning nation”). Theo đó

các nhà giáo dục Singapore cũng tìm ra cách giảm bớt khối lượng kiến thức cho các

em học sinh phải học, nhằm giành nhiều thời gian hơn cho những kế hoạch học tập

giúp cho việc phát triển các kỹ năng và thói quen của việc tự học. Củng cố cho thuyết

này, Bộ Giáo dục Singapore đã xem xét lại 5 lĩnh vực quan trọng nhất bao gồm:

 Cơ cấu của hệ thống giáo dục.

 Việc kết hợp khả năng tư duy vào quá trình học và cách đánh giá.

 Các hướng phát triển nghề nghiệp và chế độ đãi ngộ dành cho nghề giáo.

 Mở ra nhiều khả năng lựa chọn học vấn cho trẻ em từ lúc tốt nghiệp tiểu học

(bắt đầu phân chuyên ban).

 Cải thiện môi trường các trường phổ thông bao gồm cả việc cải tạo, kiên cố

hóa trường học.

5

Riêng ở bậc trường tiểu học, chính phủ chú trọng cải cách các yếu tố sau: Củng

cố nền móng, cung cấp nhiều giáo trình hơn tạo sự linh hoạt trong kết cấu khóa học,

tiếp tục việc giao quyền trong quản lý giáo dục, tăng tỷ lệ giáo viên so với số lượng

học sinh. Từ năm 2004 tăng thêm 1000 giáo viên tiểu học, giảm tỷ lệ giáo viên trên

học sinh còn 1GV/30HS. Như vậy mỗi em học sinh sẽ có thêm 15% GV.

4. Từ năm 2006 đến nay: Giáo dục lấy đổi mới làm động lực

Giáo dục Singapore

từ năm 2006 đã có nhiều

thay đổi, nhiều cơ sở giáo

dục hơn, đa dạng hóa

ngành học, chủ trương

mọi người đều được

hưởng nền giáo dục tiên

tiến và quan trọng hơn là

phát huy được bất cứ tiềm

năng nào của mình.

6

III. Hệ thống giáo dục Singapore

Singapore là một quốc gia được coi là phát triển hàng đầu ở châu Á và trong

khối ASEAN. Singapore hiện thu hút một số lượng khá du học sinh Việt Nam. Dưới

đây là sơ lược về hệ thống giáo dục của đất nước này:

7

1. Giáo dục mầm non

Giáo dục mầm non được cung cấp bởi hệ thống các nhà trẻ, mẫu giáo và các

trung tâm chăm sóc trẻ em bao gồm các chương trình 3 năm cho trẻ em từ 3 tuổi đến 6

tuổi. Được Bộ Giáo dục và Đào tạo cấp phép, các nhà trẻ tại Singapore được hoạt động

bởi các tổ chức cộng đồng, các tổ chức tôn giáo, các tổ chức kinh tế xã hội. Các trung

tâm sức khỏe trẻ em được đăng ký bởi Bộ Phát triển cộng đồng và Thể thao.

Hầu hết các nhà trẻ hoạt động 2 buổi một ngày, mỗi buổi từ 2,5 đến 4 giờ, 5

ngày một tuần. Chương trình nói chung bao gồm các chương trình tiếng Anh và một

ngôn ngữ thứ hai, ngoại trừ những trường quốc tế và hệ thống giáo dục nước ngoài,

nơi có những chương trình cho trẻ em nước ngoài định cư tại Singapore.

Thời gian đăng ký vào các trung tâm chăm sóc trẻ em và nhà trẻ là khác nhau

và tùy thuộc từng nơi. Hầu hết ở các trung tâm chăm sóc trẻ em nhận các em quanh

năm tùy thuộc vào việc còn chỗ hay không.

8

2. Giáo dục tiểu học

Trẻ em Singapore phải trải qua 6 năm học tiểu học bao gồm 4 năm học cơ bản

từ lớp 1 đến lớp 4 và 2 năm định hướng là từ lớp 5 đến lớp 6 .

Ở những năm học cơ bản các khoá học chính bao gồm tiếng Anh, tiếng mẹ đẻ,

toán học, cùng với những môn học phụ như là âm nhạc và nghệ thuật, thể dục và xã

hội. Bắt đầu từ năm thứ 3 có các môn khoa học. Để phát triển hết khả năng của học

sinh, các em được phân lớp theo năng lực học của mình trước khi vào giai đoạn định hướng. Cuối lớp 6 học sinh sẽ tham dự kỳ thi vượt cấp (PSLE5).

5 PSLE: Primary School Leaving Examination

9

Chương trình tiểu học của Singapore đã được ứng dụng như là một hình mẫu

quốc tế, đặc biệt là phương pháp dạy toán. Học sinh nước ngoài được nhận vào trường

tiểu học nếu trường còn chỗ.

3. Giáo dục trung học cơ sở

Các trường trung học tại Singapore có thể là được chính phủ chi phí, hỗ trợ hay

tồn tại độc lập. Học sinh học 4 hoặc 5 năm giáo dục trung học theo các khoá học đặc

biệt, cấp tốc hoặc bình thường. Các khoá học đặc biệt và cấp tốc chuẩn bị (trong 4

năm) cho học sinh thi lấy chứng chỉ chung Singapore - Cambridge ở bậc giáo dục GCE6 ‘O’ (O - “Ordinary”). Học sinh theo các khóa học bình thường có thể lựa chọn

khối cơ bản hoặc khối kỹ thuật, cả hai đều chuẩn bị cho học sinh thi lấy chứng chỉ

chung Singapore - Cambridge ở bậc giáo dục GCE ‘N’ (N - “Normal”) sau 4 năm học

và sau năm thứ 5 sẽ thi lấy chứng chỉ GCE ‘O’.

Chương trình giáo dục phổ thông bao gồm tiếng Anh, tiếng mẹ đẻ, khoa học và

nhân văn. Ở năm trung học thứ 3, học sinh có thể lựa chọn khóa học tùy theo các em

6 GCE: General Certificate of Education

đang ở khối nào trong các khối nghệ thuật, khoa học, thương mại hay kỹ thuật.

10

Chương trình trung học của Singapore được công nhận trên thế giới bởi khả

năng giúp học sinh phát triển cách nghĩ phê phán và kỹ năng tư duy. Học sinh nước

ngoài được nhận vào trường trung học cơ sở nếu trường còn chỗ.

4. Giáo dục sau cơ sở (dự bị đại học)

Sau khi hoàn thành kỳ thi chứng chỉ GCE ‘O’, sinh viên có thể nộp đơn vào các

trường Trung học (Junior College) cho một khoá học 2 năm hoặc các viện học tập

trung cho một khoá học 3 năm dự bị đại học. Các trường và viện nói trên chuẩn bị cho

sinh viên bước vào các trường đại học và đặt nền tảng cho giáo dục cấp trên phổ

thông. Chương trình gồm hai môn bắt buộc: Tiếng Anh nâng cao (General Paper) và

tiếng bản xứ, và tối đa 4 chứng chỉ chung Singapore - Cambridge của bậc giáo dục

GCE ‘A’ (A – “Advance”) từ các môn nghệ thuật, khoa học hoặc thương mại. Cuối

một khoá dự bị đại học, sinh viên phải thi lấy chứng chỉ GCE ‘A’ .

Sinh viên nước ngoài được nhận vào học dự bị đại học tùy thuộc việc còn chỗ

hay không.

11

Các trường Bách khoa

Các trường Bách khoa được thành lập tại Singapore để cung cấp cho sinh viên

chương trình theo hướng thực hành ở bậc cử nhân. Hiện tại có 5 trường Bách khoa tại

Singapore:

 Trường Bách khoa Nanyang

 Trường Bách khoa Ngee Ann

 Trường Bách khoa Republic

 Trường Bách khoa Singapore.

 Trường Bách khoa Temasek

Các trường này cung cấp hàng loạt các khoá học như là kỹ thuật, kinh doanh,

thông tin đại chúng, thiết kế và giao tiếp thông tin. Cũng có các khoá học chuyên

ngành như là nhãn khoa, kỹ thuật hàng hải, đại dương học, y tá, giáo dục tiểu học và

điện ảnh cho những ai muốn theo đuổi một nghề nghiệp cụ thể.

Sinh viên tốt nghiệp đã chứng minh việc họ được các nhà tuyển dụng ưa thích

vì họ nổi lên trong môi trường làm việc với những kỹ năng và kinh nghiệm phù hợp

với nền kinh tế mới.

Các viện giáo dục kỹ thuật (Institute of Technical Education - ITE)

ITE là một lựa chọn sau giáo dục phổ thông cho những ai muốn phát triển kỹ

năng kỹ thuật và kiến thức trong các lĩnh vực công nghiệp khác nhau. Bên cạnh việc

cung cấp những khoá học chính quy (“full time”) và các chương trình thực tập cho

những học sinh tốt nghiệp trung học, ITE còn cung cấp những chương trình giáo dục

chuyển tiếp cho những người đã đi làm.

5. Giáo dục đại học

Có 3 trường đại học tại Singapore:

 Đại học quốc gia Singapore (NUS)

 Đại học kỹ thuật Nanyang (NTU)

 Đại học quản lý Singapore (SMU)

12

Các trường này cung cấp hệ thống giáo dục toàn diện với bằng cấp được quốc

tế công nhận. Những cơ hội về học bổng và nghiên cứu sau đại học cũng có sẵn cho

Từ khi thành lập vào năm 1905, NUS đã mở rộng thành một trường toàn diện

sinh viên sau tốt nghiệp.

cung cấp nhiều môn học thuộc các chuyên ngành chính như khoa học, kỹ thuật, công

nghệ, luật, khoa học nghệ thuật và xã hội, y học.

NTU được thành lập vào năm 1981 nhằm cung cấp những phương tiện thuận

lợi cho giáo dục cấp trên phổ thông và nghiên cứu kỹ thuật - công nghệ. Trường đã

được hợp nhất với Viện Giáo dục quốc gia (NIE) - đại học sư phạm - và mở rộng để

bao gồm các ngành học Kiểm toán, Kinh doanh và Truyền thông.

SMU được thành lập vào năm 2000 là trường dân lập đầu tiên có các khoá học

vê kinh doanh và quản trị.

Các trường đại học quốc tế tại Singapore

Ngoài các trường địa phương, các trường đại học cấp quốc tế đã góp phần nâng

cao đẳng cấp và p hạm vi giáo dục cấp trên phổ thông ở Singapore. Một ví dụ là trường

13

đào tạo MBA châu Âu có tên là INSEAD đã đầu tư 60 triệu $ Singapore trang thiết bị

vào một trung tâm khoa học để thành lập trường kinh doanh quốc tế đầu tiên tại Châu

Á. Năm 2000, trường Quant trị kinh doanh Chicago đã chọn Singapore để đầu tư và

trở thành trường Quản trị kinh doanh M ỹ hàng đầu đầu tiên có trụ sở tại châu Á.

Các trường đại học quốc tế hàng đầu khác đã hợp tác với các trường đại học

trong nước để đặt trụ sở tại Singapore là:

 Viện công nghệ Gor – Viện Logistic, Châu Á - Thái Bình Dương.

 Trường đại học Jonhs Hoopin của Singapore - Johns Hopkins Singapore

 Viện công nghệ Massachuset (MIT) - hợp tác Singapore – MIT

 Trường đại học Shanghai Jiao Tong

 Trường đại học Stanford - hợp tác Singapore – Standford

 Trường đại học Wharton thuộc đại học Pennsylvania – Trung tâm nghiên cứu

SMU Wharton

 Trường đại học kỹ thuật Eindhoven (Đức)

 Trường đại học khoa học và kỹ thuật Muenchen (Đức)

Các trường tư thục

Tại Singapore, một hệ thống các trường tư thục rất đa dạng cung cấp hàng loạt

chương trình đào tạo làm phong phú thêm lĩnh vực giáo dục của quốc gia này. Có trên

300 trường về ngôn ngữ, công nghệ thông tin, thương mại, nghệ thuật. Những trường

này cung cấp các chương trình học chủ yếu căn cứ nhu cầu của sinh viên trong nước

và quốc tế.

Các trường tư thục này cung cấp các khoá học đa dạng ở các trình độ độ đại học

học và sau đại học.

Thông qua hợp tác với các trường đại học nổi tiếng của Anh, M ỹ, Úc… các

trường này cung cấp cho sinh viên cơ hội giành các chứng chỉ quốc tế trong môi

trường tiện nghi và đầy đủ. Mỗi trường tự thực hiện tuyển sinh đầu vào và những sinh

viên quan tâm sẽ trực tiếp đến đăng ký. Khi chọn học tại một trường tư thục, bạn cần

14

chắc chắn rằng trường đó phải đáp ứng được sự mong đợi của bạn về các yếu tố sau:

 Các khoá học.

 Các chứng chỉ bạn đạt được có tính phổ biến rộng rãi hay không.

 Trang bị trường học (lớp học, thiết bị máy tính …).

 Các dịch vụ dành cho du học sinh (nhà ở, dịch vụ về visa, định hướng cho

sinh viên, hướng dẫn sinh viên...).

Các trường quốc tế

Các trường quốc tế mang đến cho bạn cơ hội theo đuổi một nền giáo dục tương

tự như ở đất nước bạn. Được Bộ Giáo dục cấp phép, các trường quốc tế này tuân theo

những nguyên tắc và những chương trình giống như tại các nước đó.

Singgapore có một số trường quốc tế cho phép sinh viên nước ngoài và những

người định cư lâu dài đăng ký học. Một số trường có những yêu cầu bắt buộc cho việc

nhập học, chẳng hạn như khả năng ngoại ngữ và quốc tịch. M ỗi trường lại có những

tiêu chí khác nhau.

Học phí mỗi năm vào khoảng 4.600–14.000$ Singapore đối với bậc thấp và

khoảng 6000 –18.000$ Singapore đối với bậc cao. Năm học và các kỳ học cũng khác

nhau giữa các trường.

IV. CÁC VẤN ĐỀ CHUNG CỦA GIÁO DỤC S INGAPO RE

1. Mục tiêu giáo dục

Chính quyền Singapore luôn luôn coi dân số trong nước là nguồn tài nguyên

thiên nhiên duy nhất của họ và mô tả nền giáo dục như là sự phát triển nguồn lực của

đất nước.

Việc xác định mục tiêu giáo dục là hết sức quan trọng đối với sự phát triển của

nền giáo dục, vì nếu xác định mục tiêu của giáo dục không đúng, thì hậu quả của nó

quả thật khôn lường. Việc tác hại không chỉ dừng lại ở trên cá nhân mà còn ảnh hưởng

tới thế hệ sau. Chính vì ý thức được điều đó, hơn nữa Singapore là một đảo quốc nhỏ

bé, hầu như không có tài nguyên thiên nhiên, thậm chí nước dùng hằng ngày cũng phải

nhập khẩu…do đó Singapore đã đưa ra mục tiêu của hệ thống giáo dục là: phát triển

15

tài năng của từng cá nhân, sao cho mỗi người đều có thể đóng góp vào sự nghiệp kinh

tế và vào cuộc đấu tranh liên tục nhằm biến đổi Singapore thành một thị trường quốc

tế giàu năng suất và mang tính cạnh tranh.

Kết quả của họ là một hệ thống giáo dục trong đó người ta có thể đánh giá, phát

hiện và phân loại học sinh theo từng chương trình tương ứng. Những người làm công

tác giáo dục đã thẳng thắn xác định những học sinh mà họ cho là “sáng giá” hơn

những bạn đồng môn khác.

M ỗi người là một cá thể độc nhất vô nhị trên thế giới này, chính vì vậy mà việc

giáo dục muốn thành công phải được tiến hành tùy thuộc vào từng trường hợp cụ thể

với những thể chất, tinh thần, khả năng mà họ sẵn có. Khi thực hiện việc giáo dục

mang tính chất cá nhân này, chắc chắn việc giáo dục sẽ vô cùng vất vả, bởi vì mỗi

trường hợp thì phải cần một cách thức khác nhau. Do đó, với mục tiêu này nhà giáo

dục bị buộc phải hết sức linh động trong chương trình, kế hoạch.

2. Phương pháp giáo dục

Để đạt được mục tiêu giáo dục trên Singapore đã đưa ra 3 phương pháp liên

hoàn với nhau để không chỉ phát triển mỗi cá nhân mà còn thúc đẩy cả đất nước tiến

lên.

2.1. Mục tiêu phát triển tài năng của từng cá nhân

Nền giáo dục của Singapore nỗ lực tạo lập những con người biết độc lập trong

suy nghĩ. Hay nói cách khác là mỗi cá nhân dám thi hành những công việc và sẵn sàng

chịu trách nhiệm trên công việc mình đã làm.

2.2. Phương pháp “dạy ít, học nhiều”

Trong bài phát biểu nhân dịp Quốc khánh 2004, Thủ tướng Singapore Lý Hiển

Long đã nói: “Chúng ta phải dạy ít đi để sinh viên có thể học được nhiều hơn”. Câu

nói có phần "vô lý" này giờ đây đã trở thành một chính sách quan trọng của hệ thống

giáo dục Singapore.

Theo chiến lược “Dạy ít, học nhiều”, giáo dục Singapore tập trung nâng cao

chất lượng học tập của sinh viên bằng cách tạo thêm nhiều “khoảng trống” trong

chương trình học để giáo viên có thể thực hiện những kế hoạch giảng dạy riêng, cùng

16

sinh viên định hình một môi trường giáo dục riêng và bồi dưỡng nghiệp vụ.

Với Phương pháp “dạy ít, học nhiều”, sinh viên sẽ chủ động hơn trong học tập,

khám phá tri thức thông qua các thí nghiệm, trải nghiệm thực tế, học các kỹ năng sống

và xây dựng nhân cách nhờ chiến lược đào tạo hiệu quả và sáng tạo.

Ngoài ra, sinh viên cũng có thêm nhiều cơ hội học tập và rèn luyện toàn diện để

phát triển tư duy, nhân cách và những tố chất để thành công trong tương lai.

Mô hình “Dạy ít, học nhiều” đã được áp dụng ở nhiều trường học Singapore,

đơn cử như Trường trung học Bedok South, học sinh được học làm phim và thiết kế

poster cho Quỹ Trái tim Singapore, thiết kế bộ sạc điện thoại nhờ phần mềm máy

tính…

Không chỉ thế, trường học còn tạo điều kiện để các em biến thiết kế của mình

thành sản phẩm thực sự. Với những hoạt động như vậy, học sinh đã đồng thời được

học nhiều môn học khác nhau: Âm nhạc, nghệ thuật, thiết kế, công nghệ.

Mô hình “Dạy ít, học nhiều” được thực hiện từng bước một chứ không phải là

một bước chuyển đột ngột. Một ví dụ về việc thực hiện mô hình này là sự ra đời của

chương trình “Project Work” vào năm 2000, cho phép sinh viên học cách làm việc

nhóm và áp dụng kiến thức vào thực tế.

Để có thể thực hiện phương pháp dạy ít học nhiều, người học phải chủ động

trong quá trình học, giáo viên chỉ đóng vai trò hướng dẫn, khuyến khích và hỗ trợ. Để

làm được điều đó, cần tạo lập thái độ học tập với bốn yếu tố:

a) Học sinh chịu trách nhiệm và tự quản lý việc học của mình: phải xác định

mục tiêu học tập rõ ràng và biết phải làm gì để thực hiện mục tiêu đó, cũng như xây

dựng tiêu chuẩn đánh giá chất lượng học cho riêng mình.

b) Học sinh biết đưa ra chiến lược học tập hiệu quả: Biết cách học, cải tiến

phương pháp học và áp dụng kiến thức một cách hiệu quả .

c) Học sinh biết hợp tác với bạn bè: Họ hiểu rằng học tập là một hoạt động xã

hội, rằng mỗi người có mỗi quan điểm khác nhau về cùng một vấn đề, và việc trao đổi

ý kiến, chia sẻ kiến thức sẽ làm cho việc học thêm phong phú và chất lượng.

17

d) Học sinh luôn được khuyến khích trong quá trình học: Họ thấy được niềm

vui và sự hứng khởi cũng như lợi ích của việc học tập.

Theo Bộ giáo dục Singapore, Project Work là một phương pháp đào tạo, theo

đó các môn học sẽ được tích hợp, kết nối với nhau giúp sinh viên khám phá sự gắn kết

và thống nhất giữa chúng. Project Work sẽ giúp sinh viên phát triển kỹ năng trong 4

lĩnh vực sau:

 Áp dụng kiến thức: Sinh viên được học các kỹ năng nghiên cứu cơ bản, áp

dụng và lưu chuyển kiến thức giữa các môn học khác nhau và tạo mối liên hệ giữa

chúng.

 Truyền thông: Sinh viên học cách truyền đạt ý tưởng một cách rõ ràng và

hiệu quả.

 Hợp tác: Sinh viên phát triển các kỹ năng xã hội thông qua các bài tập làm

việc nhóm nhằm đạt mục tiêu chung.

 Học tập độc lập: Sinh viên phải chịu trách nhiệm và tự quản lý sự học của

mình, phát triển thái độ học tập và nghiên cứu tích cực.

Theo chính sách này, các trường tiểu học sẽ phải cải thiện cả chương trình

giảng dạy và phương pháp đánh giá chất lượng giáo dục. Ví dụ, Trường tiểu học

Rulang đã tổ chức lại chương trình học để học sinh hào hứng và tham gia tích cực hơn

vào bài giảng. Các em được học các kiến thức và kỹ năng thông qua những hoạt động

vui tươi, hấp dẫn và phù hợp.

Để hỗ trợ việc đổi mới giáo dục, Bộ giáo dục Singapore cam kết thực hiện

những thay đổi về cấu trúc chương trình học và cung cấp những nguồn lực cần thiết.

Bộ sẽ tăng cường tính linh hoạt, chủ động của các trường bằng cách rút gọn chương

trình giảng dạy tới 10-20% để tạo “thời gian trống”.

Giáo viên được tự do giành thời gian trống thực hiện các bài giảng do họ tự

thiết kế, áp dụng nhiều phương pháp giảng dạy, đánh giá đa dạng để đáp ứng tốt hơn

nhu cầu của từng học sinh. Bộ giáo dục giảm 2 giờ làm mỗi tuần cho mỗi giáo viên để

họ có thêm thời gian lên kế hoạch giảng dạy và trao đổi kinh nghiệm chuyên môn.

18

2.3. Sự liên kết hợp tác với mọi người

M ột cột mốc quan trọng trong những cải cách giáo dục gần đây ở Singapore là

tầm nhìn chiến lược “Nhà trường tư duy, quốc gia học tập” (Thinking Schools,

Learning Nation – TSLN) với vai trò định hướng đổi mới cho giáo dục Singapore từ

năm 1997.

“Nhà trường tư duy” là mô hình trường học - nơi tư duy sáng tạo, niềm say mê

học tập suốt đời và tinh thần phụng sự tổ quốc của học sinh được kích thích ngay từ

tuổi nhỏ. Còn theo mô hình “Quốc gia học tập”, học tập được coi là văn hóa quốc gia,

trong đó mọi tầng lớp xã hội đều dồi dào tính sáng tạo và đổi mới.

Dưới tầm nhìn TSLN, nhiều sáng kiến đa dạng đã được thực hiện trên từng khía

cạnh của hệ thống giáo dục. Năm 1997, chương trình “Giáo dục quốc gia” (National

Education) bắt đầu được thực hiện với mục đích thắt chặt tinh thần dân tộc và củng cố

niềm tin vào tương lai của người dân Singapore.

Cũng trong năm đó, Bộ Giáo dục Singapore khởi động kế hoạch tổng thể đưa

công nghệ thông tin vào trường học, chuẩn bị cho sinh viên những kỹ năng tin học cần

thiết cho công việc sau khi ra trường.

Năm 2004, trọng tâm của TSLN được chuyển thành “Cách tân và Dám nghĩ

dám làm” (Innovation & Enterprise – I&E). I&E nhằm mục đích khơi gợi tinh thần học hỏi và hợp tác tập thể của sinh viên [8]7.

3. Chính sách giáo dục

Nhằm đạt được mục tiêu giáo dục của mình với những phương pháp đã đề ra,

chính phủ Singapore lập tức đưa ra những chính sách đầy tích cực cho giáo dục:

Khi chọn lựa ưu tiên đầu tư, thì Singapore luôn đưa giáo dục lên hàng đầu. Điều

này không nằm trên giấy tờ mà trên thực tế tại quốc gia này. Ví như, đất đai là tài sản

quý giá bậc nhất tại đảo quốc, nhưng phần lớn lại dành cho các trường học. Người dân

ở đây phải chấp nhận sống trên các căn hộ chung cư cao tầng vì chính phủ ưu tiên

7http://studysingapore.edu.vn/noi-dung/singapore-cai-cach-giao-duc-theo-huong -day-it-hoc-nhieu .ht ml

dành đất đai để xây dựng trường học.

19

Không chỉ vậy, học sinh còn được chăm lo từng chút về không gian, môi trường

học. Ấn tượng khi bước vào các trường học tại Singapore là những sân chơi rộng rãi,

thoáng mát và nhiều cây xanh xung quanh. Ví dụ như trường Rulang Primary có 58

lớp học, sĩ số trong mỗi lớp học chỉ có 30 em. Trên mỗi bức tường ở ngoài hành lang

phòng học đề có trưng bày ảnh và nội dung giới thiệu về lịch sử của ngôi trường, các

đời hiệu trưởng, những mảng văn hóa đang tồn tại ở Singapore. Ngoài ra còn có hình

ảnh và nội dung giới thiệu những phẩm chất nổi bật của các vị lãnh đạo đất nước trong

quá khứ và hiện tại được tóm lược sinh động mà chỉ cần đọc qua, học sinh đều nắm

được lịch sử đất nước và ngôi trường.

Không dừng lại ở chính sách ưu tiên dành cho trường học mà cả chương trình

giảng dạy cũng được chủ động. Để hỗ trợ việc đổi mới giáo dục, Bộ Giáo dục

Singapore cho phép các trường rút gọn chương trình giảng dạy tới 10%-20% để tạo

thời gian trống. Do đó, các giáo viên được tự do thực hiện các bài giảng do họ tự thiết

kế, áp dụng nhiều phương pháp giảng dạy. Bộ cũng giảm 2 giờ làm mỗi tuần cho mỗi

giáo viên để có thêm thời gian lên kế hoạch giảng dạy và trao đổi kinh nghiệm chuyên

môn.

Tiếng Anh được coi là chìa khóa phát triển của Singapore. Trong giai đoạn nền

tảng, chương trình học chính là tiếng Anh, ngôn ngữ mẹ đẻ và toán với các môn phụ

như âm nhạc, nghệ thuật, thủ công, thể dục và các môn xã hội khác. Khoa học được

dạy từ lớp 3, để phát huy tối đa tiềm năng của học sinh.

4. Chính sách giáo viên

Singapore có đội ngũ lao động cấp cao hàng đầu thế giới. Sở dĩ nói như vậy vì

những người này tạo ra năng suất vô cùng lớn, thành thạo về chuyên môn, kỹ thuật và

có thái độ làm việc tích cực. Nhưng để có được điều này, Singapore đã phải liên tục

đầu tư vào việc đào tạo cả một thế hệ thông qua con đường giáo dục.

Singapore cũng xác định giáo dục là một kênh hữu hiệu thu hút du học sinh

nước ngoài. Chính vì vậy, ngoài cải tiến hệ thống giáo dục, Singapore cũng có chế độ

đãi ngộ thỏa đáng cho các giáo sư tiến sĩ. Hiện tại, du học sinh đến Singapore là rất lớn

và nước này cũng là một trong những trung tâm đào tạo uy tín của thế giới. Có thể kể

đến các trường đại học danh tiếng như Công nghệ Nanyang (NTU), Học viện phát

20

triển quản lý Singapore (MDIS), Đại học Quốc gia Singapore (NUS)...

Singapore chọn lọc kỹ các sinh viên thi vào ngành sư phạm trước khi đào tạo họ

và chỉ tiêu tuyển sinh tương đương với lượng giáo viên thiếu trong ngành. Ngay khi

được tuyển chọn, sinh viên sẽ được Bộ giáo dục thuê và gần như chắc chắn được bảo

đảm có việc làm.

Singapore dành cho các giáo viên 100 giờ đào tạo mỗi năm và bổ nhiệm các

giáo viên có thâm niên giám sát trình độ giáo viên tại mỗi trường.

Trong những thập kỷ vừa qua, chính phủ đã tập trung tối đa cho phát triển giáo

dục, nghiên cứu, lập ra những trường đại học chất lượng cao để thu hút sinh viên giỏi,

đồng thời đưa người giỏi ra nước ngoài học. Với một nước nhỏ, dân số ít, phải kiên trí

với chính sách này trong nhiều năm, Singapore mới đủ nhân tài để phát triển như hôm

nay. Singapore là đất nước của những người nhập cư nhờ chính sách này, và đến ngày

nay chính phủ vẫn tiếp tục mở rộng cửa cho những người nhập cư tài năng đến làm

việc và sinh sống. Trong quá khứ, nhiều tổ chức của Nhà nước đã đứng ra tuyển dụng

nhân tài. Để có nhân tài, các trường đại học của Nhà nước chủ động mời những người

giỏi đến học với nhiều ưu đãi đặc biệt về học bổng, chế độ ăn ở và tạo cơ hội làm việc,

đóng góp cho Singapore.

Sinh viên nước ngoài đến học tập tại Singapore được vay tiền để chi trả cho

những chi phí cần thiết về sinh hoạt và học tập. Sau khi tốt nghiệp với kết quả học tập

cao, những cử nhân "ngoại" này phải cam kết làm việc cho một công ty nào đó của

Singapore ít nhất là 3 năm để trả nợ.

5. Thực trạng học sinh – sinh viên

Singapore có đội ngũ lao động cấp cao hàng đầu thế giới. Sở dĩ nói như vậy vì

những người này tạo ra năng suất vô cùng lớn, thành thạo về chuyên môn, kỹ thuật và

có thái độ làm việc tích cực. Nhưng để có được điều này, Singapore đã liên tục đầu tư

vào việc đào tạo cả một thế hệ thông qua con đường giáo dục.

Singapore cũng xác định giáo dục là một kênh hữu hiệu thu hút du học sinh

nước ngoài. Chính vì vậy, ngoài cải tiến hệ thống giáo dục, Singapore cũng có chế độ

đãi ngộ thỏa đáng cho các giáo sư tiến sĩ. Hiện tại du học sinh đến Singapore là rất lớn

21

và nước này cũng là một trong những trung tâm đào tạo uy tín của thế giới. có thể kể

đến các trường đại học danh tiếng nhưng công nghệ Nanyang (NTU), học viện phát

triển quản lý Singapore (MDIS), đại học quốc gia Singapore (NUS). NUS được xếp

thứ 2 trong toàn bộ các đại học Á châu năm 2011.

Sinh viên nước ngoài đến học tập tại Singapore được vay tiền để chi trả cho

những học phí cần thiết về sinh hoạt và học tập. Sau khi tốt nghiệp với kết quả học tập

cao, những cử nhân “ngoại” này phải cam kết làm việc cho một công ty nào đó của

Singapore ít nhất là 3 năm để trả nợ.

Singapore là đất nước có nền giáo dục chất lượng cao với hệ thống các trường

công lập được xếp hạng trên thế giới. Các trường này cung cấp cho học sinh một môi

trường học tập thực sự lý tưởng với hệ thống giáo trình phong phú, máy móc thiết bị

hiện đại hỗ trợ cho học tập và giảng dạy, hệ thống phòng đọc, phòng học, phòng chơi

nhạc, phòng computer lab với mạng internet phục vụ miễn phí giúp cho sinh viên dễ

dàng tra cứu tài liệu và thực hành việc học ngôn ngữ.

Bên cạnh đó, yêu cầu cơ bản cho tất cả sinh viên khi học tập tại Singapore là

phải có máy vi tính xách tay vì cường độ và số lượng bài tập mà các sinh viên phải

làm tương đối lớn, ngoài ra sinh viên cũng phải sử dụng máy vi tính để kết nối internet

truy cập các thông tin cần thiết, đọc bài giảng của giáo viên cũng như liên hệ với giáo

viên khi các em không đến lớp.

Sinh viên có sự chủ động rất cao trong việc học tập, nghiên cứu khoa học, chủ

động tìm kiếm tài liệu, trao đổi với giáo viên khi cần thiết.

V. Kinh nghiệm đổi mới giáo dục ở S ingapore

 Nhà nước chi trả chi phí; đầu tư cho những dự án, chương trình, nghiên cứu

mới.

 Chọn lãnh đạo GDĐH là người có năng lực, tâm huyết, dám hi sinh cho sự

nghiệp đổi mới.

 Sử dụng nguồn nhân lực đổi mới.

 Tiếp cận công nghệ nguồn.

22

 Chọn trọng điểm rồi chọn trọng tâm để học tập [8]8.

1. Thực tiễn đào tạo

Ở Singapore, quá trình

cải cách giáo dục đã thực hiện

hơn 20 năm qua. Đối với

Singapore, ở mỗi giai đoạn đều

có một chiến lược phát triển giáo

dục nhất định, nhưng giai đoạn

nào thì cũng bám lấy tiêu chí

nhu cầu của xã hội đối với đào

tạo. Xã hội đang cần người làm công việc gì thì trường học đào tạo ngành nghề đó. [4]9

M ột ngành học mới của một trường luôn căn cứ từ nhu cầu thực tế của xã hội,

vì vậy sinh viên tốt nghiệp rất dễ dàng tìm được việc làm.

 Mỗi trường đại

học của Singapore, dù

trường công hay trường tư,

luôn có một trung tâm tư

vấn việc làm và giúp đỡ

sinh viên thực tập tại các

công ty. Bản thân các

trường đại học có sự gắn bó

chặt chẽ với các doanh

nghiệp, công ty liên quan

đến ngành nghề đào tạo. Bên cạnh đó các trường thường xuyên có các hội thảo về việc

8 Phạm Lan Hương, 2013, Giáo dục hội nhập quốc tế, TP.HCM

9

http://www.nguyendinhminh.net/index.php?option=com_content&view=article&id=367:sc-hut-ca-giao-dc-

singapore-nhin-t-thc-tin-tren-t-o-quc&catid=38:nghien-cuu&It emid=60

làm để sinh viên tiếp cận dễ dàng hơn.

23

 Giáo dục Singapore được chia thành hai khu vực, gồm trường công và trường

tư. Các trường công thuộc sự quản lý của Bộ Giáo dục và được Chính phủ hỗ trợ tài

chính nên việc mở một ngành học mới hay thành lập một trường mới luôn phải qua

nhiều khâu khác nhau.

Các trường tư thì đơn giản hơn về mặt thủ tục vì họ tự túc về mặt tài chính. Tuy

nhiên để mở ra những ngành học mới, thành lập những trường mới, các tổ chức giáo

dục tư nhân phải nghiên cứu kỹ, thăm dò và dự đoán được những ngành học có khả

năng thu hút sinh viên dựa trên nhu cầu của xã hội, của nền kinh tế và xu hướng giáo

dục trong nước, của thế giới.

 Các tiêu chí để mở ngành hay thành lập trường được quản lý chặt chẽ, thậm

chí là khắt khe, ngoài việc đáp ứng đúng nhu cầu của thị trường, còn phải đáp ứng đầy

đủ những yêu cầu về chất lượng của nền giáo dục Singapore.

Ví dụ: muốn mở ngành đào tạo bác sĩ y khoa, cơ sở đào tạo phải có đủ số lượng

giáo sư giảng dạy trong ngành Y tế, đủ cơ sở vật chất cho sinh viên nghiên cứu. Muốn

mở khoa báo chí, giáo viên phải đã làm việc hoặc đang công tác tại một tòa soạn báo

chí, có kinh nghiệm nghề nghiệp trong phỏng vấn, thu thập thông tin, viết bài.

2. Tầm nhìn

Trong bài phát biểu nhân dịp Quốc khánh 2004, Thủ tướng Singapore Lý Hiển

Long đã nói: “Chúng ta phải dạy ít đi để sinh viên có thể học được nhiều hơn”. Câu

nói có phần "vô lý" này giờ đây đã trở thành một chính sách quan trọng của hệ thống

giáo dục Singapore.

Với mô hình “Dạy ít, học nhiều”, kiểu học vẹt, học vì thành tích và phong cách

giảng dạy “dành cho tất cả mọi người” sẽ bị loại bỏ. Thay vào đó, sinh viên sẽ chủ

động hơn trong học tập, khám phá tri thức thông qua các thí nghiệm, trải nghiệm thực

tế, học các kỹ năng sống và xây dựng nhân cách nhờ chiến lược đào tạo hiệu quả và

sáng tạo. Ngoài ra, sinh viên cũng có thêm nhiều cơ hội học tập và rèn luyện toàn diện

để p hát triển tư duy, nhân cách và những tố chất để thành công trong tương lai.

24

M ột cột mốc

quan trọng trong

những cải cách

giáo dục gần đây ở

Singapore là tầm

nhìn chiến lược

“Nhà trường tư

duy, quốc gia học

tập” (Thinking

Schools, Learning

Nation) với vai trò định hướng đổi mới cho giáo dục từ năm 1997.

 “Nhà trường tư duy” là mô hình trường học - nơi tư duy sáng tạo, niềm say

mê học tập suốt đời và tinh thần phụng sự Tổ quốc của học sinh được kích thích ngay

từ tuổi nhỏ. Còn theo mô hình “Quốc gia học tập”, học tập được coi là văn hóa quốc

gia, trong đó mọi tầng lớp xã hội đều dồi dào tính sáng tạo và đổi mới.

 Để hỗ trợ việc đổi mới giáo dục, Bộ Giáo dục Singapore cam kết thực hiện

những thay đổi về cấu trúc chương trình học và cung cấp những nguồn lực cần thiết.

Bộ sẽ tăng cường tính linh hoạt, chủ động của các trường bằng cách rút gọn chương

trình giảng dạy tới 10-20% để tạo “thời gian trống”. Bộ Giáo dục cũng giảm 2 giờ làm

mỗi tuần cho mỗi giáo viên để họ có thêm thời gian lên kế hoạch giảng dạy và trao đổi

kinh nghiệm chuyên môn.

Về tài chính, Bộ Giáo dục

hỗ trợ các trường trang bị các

lớp học đặc biệt phù hợp với cả

hoạt động tập thể, hoạt động

nhóm, “phố sinh thái” để học về

khoa học tự nhiên, hoặc một nhà

hát để học nghệ thuật biểu diễn.

Kết quả của quá trình cải

cách giáo dục kéo dài nhiều thập

25

kỷ qua là, thay vì đưa rất nhiều người đi du học ở thời kỳ đầu phát triển, giờ đây chính

là lúc Singapore xuất khẩu giáo dục như một hoạt động kinh tế thực sự. Còn khối

ngoài công lập được tạo điều kiện phát triển, nhất là khuyến khích việc liên thông, liên

kết với nước ngoài, mời gọi các trường đại học danh tiếng quốc tế đặt chi nhánh.

Chính những điều này thu hút người học và cũng chính đối tác liên kết sẽ buộc cơ sở

giáo dục trong nước nâng cao chất lượng cũng như cơ sở vật chất.

Để khuyến khích sinh viên các nước đến du học, bộ phận xúc tiến du học (thuộc

Tổng cục Du lịch Singapore) có nhiều chương trình nhằm quảng bá cho việc thu hút

du học sinh đến đảo quốc này. Chính phủ Singapore mời rất nhiều đoàn nhà báo về

giáo dục, các công ty du học các nước đến tìm hiểu.

M ột trong những điển hình của chính sách thu hút sinh viên là các khu ký túc xá

dành cho sinh viên ngoại quốc gần như các khu Resort gồm hồ bơi, siêu thị, điểm truy

cập Internet, phòng nghỉ 2 giường có máy lạnh, tủ lạnh, nước nóng lạnh... Các khu ký

10 http://baodient u. chi nhphu.vn/quoc-te/ gi ao-duc-singapore-day -it-de-hoc-duoc-nhieu/ 177530. vgp

túc xá này có tiêu chuẩn cao vì đây là tổ hợp kiến trúc do tư nhân đầu tư kinh doanh. [5]10

26

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Department of Statistics Singapore,

http://ww w.singstat.gov.sg/Publicat ions/population.html#population_and_popul ation_structure

2. Lê H ữu Huy, Lý Quang Diệu và triết lý tuyển chọn nhân tài,

http://kinhnghiemsingapore.wordpress.com/kinh-nghi%E1%B B%87m- singapore-2/

3. Linh Linh, Singapore trong cuộc đua sức cạnh tranh,

http://petrotimes.vn/news/vn/quoc-t e/singapore-trong-cuoc-dua-suc-canh- tranh.html

4. Nguyễn Đình Minh, 2012, Sức hút của Giáo dục Singapore nhìn từ thực tiễn trên đất Đảo Quốc, Tạp chí khoa học Giáo dục & Đời sống - tháng 3 năm 2012

5. Nguyễn Chiến, Giáo dục Singapore: “Dạy ít để học được nhiều”,

http://baodientu.chinhphu.vn/quoc-t e/giao-duc-singapore-day-it-de-hoc-duoc- nhieu/177530.vgp

6. People-Language-Culture Singapore,

http://ww w.yoursingapore.com /content/traveller/en/browse/aboutsingapore/peo ple-lang-culture.html

7. Phạm Lan Hương, 2013, Giáo dục hội nhập quốc tế, TP.HCM

8. Singapore cải cách giáo dục theo hướng dạy ít, học nhiều!

http://studysingapore.edu.vn/noi-dung/singapore-cai-cach-giao-duc-theo- huong-day-it-hoc-nhieu.html

27