LUẬN VĂN:

Văn hóa giải trí ở thành phố Hải Phòng

trong thời kỳ đổi mới hiện nay

Mở đầu

1. Tính cấp thiết của đề tài

Ngày 5-8-2003 Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá IX) ra Nghị

quyết số 32-NQ/TW về xây dựng và phát triển thành phố Hải Phòng trong thời kỳ công

nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đây là sự kiện có ý nghĩa lịch sử mở ra giai đoạn phát

triển mới của thành phố. Nghị quyết nhấn mạnh: Hải Phòng là thành phố cảng công nghiệp

hiện đại; đô thị trung tâm cấp quốc gia, đầu mối giao thông quan trọng và cửa chính ra biển

của các tỉnh phía Bắc, một cực tăng trưởng quan trọng của vùng kinh tế động lực phía Bắc,

một động lực phát triển kinh tế biển, một trong những trung tâm công nghiệp, thương mại lớn

của cả nước và trung tâm dịch vụ, du lịch, thủy sản, giáo dục, y tế của vùng duyên hải Bắc

Bộ...

Trong những năm đổi mới Hải Phòng đã có bước phát triển mạnh mẽ về chính trị,

kinh tế, văn hóa, xã hội, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân thành phố được nâng lên

rõ rệt. Các hoạt động sản xuất - kinh doanh, thương mại, du lịch, dịch vụ, giáo dục, thông

tin, văn hóa thể thao... diễn ra sôi động, thu hút đông đảo các tầng lớp dân cư thành phố.

Hải Phòng là vùng đất có truyền thống văn hóa lâu đời, có nhiều danh lam thắng

cảnh, di tích lịch sử, nhiều lễ hội dân gian đặc sắc, có khu du lịch biển, đảo (Đồ Sơn, Cát

Bà...) là những địa điểm rất thuận lợi cho việc khai thác, tổ chức các hoạt động văn hóa

giải trí cho nhân dân. Bên cạnh đó, sự phát triển các phương tiện thông tin đại chúng, sự đa

dạng của hệ thống thiết chế văn hóa: Bảo tàng, thư viện, nhà văn hóa, cung văn hoá, nhà

thi đấu TDTT, sự sôi động trong các hoạt động văn hóa nghệ thuật... đã đáp ứng nhu cầu

tinh thần ngày càng phong phú và đa dạng của các tầng lớp nhân dân, góp phần giữ ổn

định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tích đã đạt được

trong phát triển văn hoá, thành phố Hải Phòng cũng còn có những tồn tại, yếu kém trong hoạt

động này:

- Một số cấp, ngành thành phố chưa có nhận thức đầy đủ về vị trí, vai trò của văn

hoá, văn hoá giải trí, còn quá coi trọng khía cạnh kinh tế trong lĩnh vực giải trí, coi nhẹ yếu

tố văn hóa, cảnh quan, môi trường.

- Quá trình đô thị hoá nhanh khiến diện tích đất dành cho các hoạt động giải trí công

cộng (nhất là dành cho trẻ em) ngày càng bị thu hẹp lại. Một số cấp, ngành, đơn vị, đoàn

thể chưa thực sự quan tâm đến việc đẩy mạnh hoạt động văn hóa vui chơi giải trí cho

người dân nên dẫn đến tình trạng thiếu điểm vui chơi giải trí và các nội dung hoạt động

phù hợp, hoặc xuất hiện các loại hình trò chơi, cách chơi gây tổn hại tới sức khoẻ, tới kinh

tế, tới việc hình thành nhân cách, ảnh hưởng tới trật tự an toàn xã hội.

- Với sự phát triển mạnh mẽ của các thành phần kinh tế, nhiều doanh nghiệp ngoài

quốc doanh, công ty liên doanh, công ty có vốn đầu tư nước ngoài ra đời, số lượng công

nhân lao động tăng nhanh nhưng tại nhiều doanh nghiệp, công nhân lao động phải làm việc

trong những điều kiện hết sức khắc nghiệt, thời gian lao động và cường độ lao động cao,

thu nhập thấp, ít được quan tâm đáp ứng nhu cầu văn hoá tinh thần, nhu cầu vui chơi giải

trí nhằm tái sản xuất sức lao động. Có thể nói văn hóa giải trí cho số công nhân lao động ở

đây còn rất ít được quan tâm, chú ý.

- Thành phố chưa phát huy hết các tiềm năng hiện có để phát triển lĩnh vực vui chơi

giải trí như các tiềm năng trong du lịch, dịch vụ văn hoá công cộng, văn hoá nghệ thuật,

phương tiện thông tin đại chúng... Chưa huy động được tốt các nguồn lực trong nước và

nước ngoài đầu tư trong lĩnh vực vui chơi giải trí.

Những tồn tại nêu trên cần sớm được khắc phục nhằm thúc đẩy sự phát triển văn

hóa giải trí ở thành phố Hải Phòng trong thời gian tới. Việc lựa chọn và nghiên cứu đề tài "

Văn hóa giải trí ở thành phố Hải Phũng trong thời kỳ đổi mới hiện nay " sẽ góp phần

vào việc tìm hiểu, phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động văn hoá giải trí ở thành phố Hải

Phòng trong thời gian qua, từ đó đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm đưa văn hoá

giải trí ở Hải Phòng trong thời gian tới tiếp tục phát triển mạnh mẽ và đúng hướng, góp phần

đáp ứng nhu cầu văn hoá ngày càng đa dạng, phong phú của các tầng lớp nhân dân thành phố.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Trong những năm gần đây, việc nghiên cứu văn hóa giải trí và các hoạt động văn hoá

vui chơi giải trí đã được một số nhà nghiên cứu, lý luận văn hóa, quản lý văn hóa quan

tâm, đã có một số đề tài, công trình của các tác giả đi trước đề cập đến những vấn đề mà

luận văn nghiên cứu.

- Đề tài "Nghiên cứu phát triển các hoạt động văn hóa vui chơi giải trí ở Hà Nội -

thực trạng và giải pháp" do PGS.TS Phạm Duy Đức làm chủ nhiệm, Sở Văn hóa Thông

tin Hà Nội là cơ quan chủ trì, thực hiện năm 2003 và công trình "Hoạt động giải trí ở đô

thị Việt Nam hiện nay những vấn đề lý luận và thực tiễn"do PGS.TS Phạm Duy Đức (chủ

biên) [22] đã phân tích một số vấn đề lý luận về văn hoá giải trí, đánh giá thực trạng hoạt

động văn hoá giải trí ở Hà Nội và đề xuất các giải pháp phát triển các hoạt động văn hoá

giải trí ở Hà Nội nói riêng, ở đô thị nước ta nói chung.

- Luận án tiến sĩ xã hội học của Đinh Thị Vân Chi, "Nhu cầu giải trí của thanh niên.

Nghiên cứu khuôn mẫu giải trí của thanh niên và sự đáp ứng nhu cầu giải trí tại Hà Nội"

[9] hoàn thành năm 2001 đã xác định quan niệm về giải trí và nhu cầu giải trí của thanh

niên Hà Nội, các giải pháp đáp ứng nhu cầu giải trí trên địa bàn thành phố Hà Nội.

- Công trình, Vai trò của văn hóa dân gian trong các sân chơi trên truyền hình của

PGS,TS. Trần Thị Trâm [49] đã khai thác các khía cạnh của văn hóa dân gian trong việc tổ

chức các trò chơi giải trí trên truyền hình.

Về xây dựng và phát triển văn hoá ở thành phố Hải Phòng trong thời kỳ công nghiệp

hoá, hiện đại hoá cũng đã có những kết quả nghiên cứu bước đầu. Luận văn thạc sỹ Văn

hoá học " Phương pháp và tổ chức hoạt động Cung văn hoá, Nhà văn hoá lao động trong

thời kỳ đổi mới hiện nay" [7] hoàn thành năm 1998 và Luận án tiến sỹ Lịch sử " Giao tiếp

và ứng xử với tư cách là thành tố văn hoá trong hoạt động doanh nghiệp thời kỳ công

nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước" [8] của tác giả Nguyễn Văn Bính, hoàn thành năm

2003 đã lấy Hải Phòng làm đối tượng khảo sát chủ yếu. Luận văn tốt nghiệp Đại học chính

trị - Học viện CTQG Hồ Chí Minh (khoá 2000 - 2004) của tác giả Hoàng Đình Thi đã

nghiên cứu "Báo chí Hải Phòng với nhiệm vụ xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt

Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc" [45]. Công trình "Lễ hội truyền thống văn hoá tiêu

biểu Hải Phòng" do tác giả Trịnh Minh Hiên (chủ biên) [24] đã đề cập đến một số lĩnh vực

của văn hoá giải trí ở Hải Phòng như: Lễ hội dân gian, các phương tiện thông tin đại chúng

và các thiết chế văn hoá...Tuy nhiên, đó cũng chỉ là một phần của bức tranh toàn cảnh về

văn hóa và văn hoá giải trí của thành phố Hải Phòng, đến lượt mình, chúng tôi sẽ đi sâu

hơn trong việc tái hiện bức tranh toàn cảnh về văn hoá giải trí ở thành phố Hải Phòng trong

thời kỳ đổi mới hiện nay.

3. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài

* Mục đích nghiên cứu:

Trên cơ sở phân tích bản chất, chức năng của văn hóa giải trí và vai trò của văn hoá

giải trí, đề tài đi sâu tìm hiểu thực trạng hoạt động văn hóa giải trí ở Thành phố Hải Phòng

trong thời kỳ đổi mới hiện nay, trên cơ sở đó đề xuất phương hướng và những giải pháp

nhằm nâng cao chất lượng hoạt động văn hóa giải trí, góp phần đáp ứng nhu cầu văn hóa

tinh thần của các tầng lớp nhân dân, xây dựng và hoàn thiện nhân cách con người, thúc đẩy

sự phát triển KT - XH, văn hoá của thành phố Cảng trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện

đại hóa.

* Nhiệm vụ nghiên cứu:

- Phân tích bản chất của văn hóa giải trí, vai trò của văn hóa giải trí trong đời sống xã

hội và sự phát triển, hoàn thiện con người.

- Điều tra, khảo sát đánh giá thực trạng văn hóa giải trí ở thành phố Hải Phòng.

- Đề xuất phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả của văn hóa

giải trí hướng tới xây dựng con người Hải Phòng năng động, sáng tạo trong thời kỳ đổi

mới hiện nay.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài

- Đối tượng nghiên cứu: Văn hoá giải trí ở thành phố Hải Phòng

- Phạm vi nghiên cứu: Văn hóa giải trí là một vấn đề rộng lớn. Vì vậy đề tài chỉ tập

trung làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về văn hóa giải trí và phân tích, đánh giá thực trạng

hoạt động của văn hoá giải trí ở thành phố Hải Phòng trong khoảng thời gian từ năm 2000 đến

nay. Các phương hướng và giải pháp được đề xuất hướng tới năm 2010.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

Đề tài được tiến hành trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ

nghĩa duy vật lịch sử. Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng là: phương pháp lịch sử

và lôgíc, phương pháp so sánh, tổng hợp, thống kê và điều tra xã hội học, phương pháp

liên ngành (đô thị học, văn hoá học, xã hội học...).

6- Đóng góp mới về khoa học của đề tài

- Làm sáng tỏ hơn khái niệm, đặc trưng, bản chất của văn hóa giải trí và vai trò của

văn hoá giải trí đối với việc xây dựng, hoàn thiện con người và phát triển kinh tế - xã hội.

- Phân tích thực trạng văn hóa giải trí ở thành phố Hải Phòng trong thời gian qua.

- Đề xuất giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động văn hóa giải trí ở Thành

phố Hải Phòng trong những năm tới.

7. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài

* Về phương diện lý luận:

- Nhận thức sâu sắc hơn quan điểm của Đảng ta về xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên

tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong thời kỳ đổi mới hiện nay.

- Phân tích và làm sáng tỏ vai trò của văn hóa giải trí trong việc nâng cao đời sống

văn hoá tinh thần của nhân dân, phát triển KT - XH, xây dựng và hoàn thiện nhân cách con

người trong thời kỳ đổi mới hiện nay.

* Về phương diện thực tiễn :

Kết quả mà luận văn đạt được có thể sử dụng để làm tài liệu tham khảo cho việc tìm

hiểu hoạt động văn hoá giải trí, và công tác lãnh đạo và quản lý văn hóa hiện nay ở Thành

phố Hải Phòng.

8. Kết cấu luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn gồm

3 chương, 9 tiết:

Chương 1: Vai trò của văn hoá giải trí trong đời sống xã hội hiện đại.

Chương 2: Thực trạng văn hoá giải trí ở thành phố Hải Phòng trong thời kỳ đổi mới

hiện nay.

Chương 3: Phương hướng và giải pháp phát triển văn hoá giải trí ở Hải Phòng thời kỳ

2006 - 2010.

Chương 1

vai trò của Văn hóa giải trí

trong đời sống xã hội hiện đại

1.1. Quan niệm về văn hoá giải trí

1.1.1. Quan niệm về giải trí

Giải trí là một từ Hán - Việt. "Từ điển Hán - Việt" của cụ Đào Duy Anh giải thích:

Giải trí là khi làm việc rỗi, làm cho trí não được khoan khoái, gần nghĩa với giải trí là tiêu

khiển, tiêu khiển là giải muộn, khuây sầu. Giải trí còn đồng nghĩa với vui chơi cho nên

người ta thường nói vui chơi, giải trí.

Hoạt động giải trí bắt nguồn từ nhu cầu (giải trí). Nhu cầu là đòi hỏi điều gì đó cần

thiết để đảm bảo hoạt động sống của cơ thể, của nhân cách con người, của nhóm xã hội

hoặc toàn XH nói chung; là nguồn thôi thúc nội tại của hành động. Nhu cầu không chỉ

mang tính sinh học, nhằm đáp ứng những đòi hỏi sinh học của con người, nhu cầu còn

mang tính xã hội, thể hiện ở chỗ: Thứ nhất, dù là của riêng mỗi cá nhân nhưng nhu cầu chỉ

có thể được đáp ứng nhờ nền sản xuất xã hội, bị nền sản xuất đó quy định, và vì vậy chúng

mang tính xã hội rõ nét. Các nền sản xuất khác nhau nên nhu cầu được thoả mãn theo sự

quy định của nền sản xuất đó cũng khác nhau. Thứ hai, cũng những nhu cầu như nhau

nhưng mỗi thời đại được đáp ứng theo những cách khác nhau, phù hợp với điều kiện lịch

sử và mức độ phát triển xã hội đó, C.Mác đã từng nói: Cùng là cái đói, nhưng cái đói được

thoả mãn bằng dĩa và dao khác với cái đói ngốn ngấu thịt sống bằng bàn tay, móng tay và

răng, và thứ ba, nhu cầu còn được đáp ứng trong khuôn khổ phong tục tập quán (văn hoá)

của cộng đồng và bị quy định bởi văn hoá cộng đồng.

Khi nghiên cứu về nhu cầu các tác giả đều thống nhất rằng, nhu cầu là nguồn gốc

mọi hành động của con người. Khi một nhu cầu xuất hiện, sẽ hình thành trong con người

một động cơ, thôi thúc hành động để thoả mãn nhu cầu đó. Nhà phân tâm học nổi tiếng

Freud khẳng định rằng mọi hiện tượng tâm lý (trong đó có nhu cầu) đều có nguồn năng

lượng nuôi dưỡng, càng nhiều nhu cầu thì nguồn năng lượng trong cơ thể càng lớn. Nguồn

năng lượng này tuân theo quy luật bảo toàn và chuyển hoá năng lượng cần được sử dụng

hết. Nếu không được sử dụng hoặc bị dồn nén, năng lượng đó sẽ tìm cách giải toả trong

giấc mơ, trong các hành động lố lăng, phá phách... Còn khi được sử dụng đúng cách, nó có

thể thăng hoa và giúp các thiên tài làm nên những kiệt tác nghệ thuật. Và con người chỉ có

thể phát triển toàn diện khi các nhu cầu của mình được đáp ứng đầy đủ. Trong trường hợp

ngược lại sẽ bị kìm hãm và không thể phát triển hoặc phát triển lệch lạc.

Nhu cầu giải trí, với tư cách là một nhu cầu của con người, thể hiện trên hai khía

cạnh:

- ở khía cạnh sinh học: Sự thoả mãn nhu cầu giải trí là điều kiện để cơ thể phục hồi

sức khoẻ sau quá trình lao động, lấy lại thăng bằng tâm - sinh lý để cơ thể tiếp tục làm

việc.

- ở khía cạnh xã hội: Con người giải trí không phải chỉ để giải trí. Mọi hoạt động của

con người đều có mục đích, và bởi vậy, giải trí cũng mang lại cho họ sự phát triển về trí

tuệ và nhân cách, sự thư thái, sảng khoái và những khoái cảm thẩm mỹ.

Như vậy khi nhu cầu giải trí được đáp ứng thoả đáng thì trí não được thư giãn, tinh

thần được thanh thản, tâm hồn thêm trong sáng, đời sống cảm xúc thêm phong phú với

nhiều rung cảm thẩm mỹ, sự phát triển của con người trở nên toàn diện. Ngược lại, khi nhu

cầu giải trí không được đáp ứng đầy đủ, đúng đắn sẽ có nguy cơ làm con người "tha hoá "

trong hoạt động sống.

Hoạt động giải trí thường diễn ra trong thời gian rỗi. Thời gian rỗi - đó là khoảng

thời gian riêng - được dành cho các hoạt động cá nhân, trong đó có hoạt động giải trí. Theo

C. Mác, quỹ thời gian của xã hội và cá nhân được phân chia thành thời gian lao động và

thời gian tự do. Thời gian lao động là khoảng thời gian tất yếu mà mỗi cá nhân buộc phải

thực hiện công việc lao động để bảo đảm sự sinh tồn. Thời gian tự do là khoảng thời gian còn

lại ngoài thời gian lao động, dành cho những hoạt động mà cá nhân có quyền tự quyết định.

Với C. Mác, khái niệm "thời gian rỗi" chưa xuất hiện, bởi khi đó các hoạt động giải trí chưa

phong phú, công nghiệp giải trí chưa ra đời. Tuy vậy C.Mác cũng đã từng coi thời gian tự do

là khoảng thời gian dành cho sự thoải mái, cho giải trí, và mở ra một khoảng không cho những

hoạt động tự do của con người [dẫn theo 9, tr 23].

Theo nhà nghiên cứu văn hoá Đoàn Văn Chúc [10, tr. 224 - 225] thì trong bất kỳ xã

hội nào cũng có 4 dạng hoạt động mà con người phải thực hiện:

- Những hoạt động lao động sản xuất để đảm bảo sự tồn tại và phát triển của cá nhân

và xã hội. Đó là nghĩa vụ xã hội của mỗi người.

- Những hoạt động thuộc các quan hệ cá nhân trong xã hội như nuôi dạy con cái,

chăm sóc gia đình, thăm viếng họ hàng, bạn bè... Đó là nghĩa vụ cá nhân của mỗi người.

- Những hoạt động thuộc đời sống vật chất của con người như nấu nướng, ăn uống,

nghỉ ngơi, vệ sinh cá nhân... đó là hoạt động thoả mãn nhu cầu cá nhân của mỗi người.

- Những hoạt động thuộc đời sống tinh thần của cá nhân như thưởng thức nghệ

thuật, chơi các trò chơi, sinh hoạt tôn giáo...Đó là hoạt động thoả mãn nhu cầu tinh thần

của mỗi người.

Dạng hoạt động thứ nhất được thực hiện theo quy tắc chung của xã hội không thể

tuỳ tiện theo ý thích hoặc hoàn cảnh cá nhân. Nó được xác định một cách nghiêm ngặt và

được diễn ra trong một khoảng thời gian dành riêng, với thời điểm và độ lớn được quy

định chặt chẽ, mà C.Mác gọi là thời gian tất yếu.

Ba dạng hoạt động còn lại cũng không thể thiếu, nhưng chúng được thực hiện một

cách linh hoạt tuỳ theo điều kiện cụ thể của mỗi cá nhân. Chúng được diễn ra trong khoảng

thời gian còn lại sau khi đã trừ đi thời gian tất yếu. Khoảng thời gian dành cho những hoạt

động đó được gọi là thời gian tự do, nghĩa là thời gian mà xã hội dành cho cá nhân quyền

tự do sử dụng.

Trong ba hoạt động trên thì hoạt động thứ tư mang tính tự do hơn cả. Nó không gắn

với sự thúc bách sinh học nào, cũng không hề mang tính cưỡng bức. Nó là hoạt động hoàn

toàn tự do mà cá nhân có toàn quyền lựa chọn theo sở thích, trong khuôn khổ hệ chuẩn

mực của xã hội. Nó là bước chuyển từ những hoạt động nghĩa vụ, bổn phận sang những

hoạt động tự nguyện. Nó đồng thời cũng là hoạt động không vụ lợi, nhằm mục đích giải

toả căng thẳng thể chất và tinh thần để đạt tới sự thư giãn, thanh thản trong tâm hồn, và

cao hơn nữa là đạt tới những rung cảm thẩm mỹ. Với tính chất đặc biệt như vậy, để phân

biệt với các hoạt động trên, người ta gọi nó là hoạt động giải trí và thời gian dành cho hoạt

động giải trí được gọi là thời gian rỗi.

Thời gian rỗi được coi là khái niệm đồng nghĩa với thời gian tự do, nghĩa là "phần

thời gian ngoài lao động của cá nhân (nhóm xã hội) còn lại sau khi đã trừ đi chi phí thời

gian cho những hoạt động cần thiết không thể thiếu" và "Thời gian rỗi là khoảng thời gian

mà trong đó con người không bị thúc bách bởi các nhu cầu sinh tồn, không bị chi phối bởi bất

cứ nghĩa vụ khách quan nào. Nó được dành cho các hoạt động tự nguyện, theo sở thích của

chủ thể nhằm thoả mãn nhu cầu tinh thần của con ngườii (hoạt động giải trí)" [dẫn theo 9,

tr.23].

Như vậy có thể thấy giải trí là một dạng hoạt động cơ bản của con người, đáp ứng

những nhu cầu phát triển của con người về các mặt thể chất, trí tuệ và thẩm mỹ. Giải trí

không chỉ là nhu cầu của từng cá nhân, mà còn là nhu cầu của đời sống cộng đồng, xã hội.

Giải trí - đó là sự giải toả những căng thẳng về thể chất và tinh thần, đạt tới sự thư

giãn trong tâm hồn, và cao hơn nữa là những rung cảm thẩm mỹ. Giải trí là dạng hoạt động

không vụ lợi, nó là hoạt động nhằm thoả mãn nhu cầu tinh thần của con người:Thư

giãn,giải thoát sầu muộn, tìm trạng thái hưng phấn, vui thích.

Trong xã hội nông nghiệp truyền thống, người nông dân lao động theo thời vụ vì

vậy các hoạt động giải trí thường diễn ra sau vụ thu hoạch hoặc trong lúc nông nhàn.

Trong xã hội công nghiệp, giải trí thường gắn liền với các hoạt động trong thời gian

rỗi. Cho nên các từ như Leisure (tiếng Anh) hay Docur (tiếng Nga) lúc đầu có nghĩa là thời

gian rỗi, sau chuyển thành hoạt động trong thời gian rỗi (gọi tắt là hoạt động rỗi), tức là sự

giải trí hay hoạt động giải trí.

Đặc trưng nổi bật của xã hội công nghiệp là sự năng động xã hội, lao động căng

thẳng và diễn ra với tiết tấu nhanh, phân công lao động cụ thể, do vậy hoạt động giải trí

trong xã hội công nghiệp có nhiều nội dung mới. Nếu như hoạt động vui chơi giải trí của

xã hội nông nghiệp phần lớn thường nhẹ nhàng, tiết tấu chậm rãi và thường không sôi động

lắm (đánh đu, thả diều, chọi chim, chọi gà, chọi dế...) thì các hoạt động vui chơi giải trí ở xã

hội công nghiệp thường diễn ra hết sức sôi động với tiết tấu nhanh, mạnh (Bóng đá, các cuộc

thi thể thao như điền kinh, bơi lội, quần vợt...các hoạt động giải trí tìm "cảm giác mạnh",

phiêu lưu, mạo hiểm...). Những hoạt động này hoàn toàn phù hợp với xã hội công nghiệp,

góp phần giải toả những căng thẳng tâm thần, lập lại thế cân bằng nội tại nhằm tái sản xuất

sức lao động.

Chúng ta biết rằng, giải trí là hoạt động diễn ra trong thời gian rỗi, nhưng không

phải bất cứ hoạt động nào được thực hiện trong thời gian rỗi đều là giải trí. Trong thời gian

rỗi người ta có thể làm nhiều việc khác nhau: Có người tranh thủ làm thêm để kiếm sống

hoặc học thêm để nâng cao trình độ (khi đó thời gian rỗi đã bị biến thành thời gian lao

động); cũng có người dùng thời gian rỗi để thực hiện những hoạt động không có tác dụng

gì nhiều đối với sự phát triển toàn diện con người, thậm chí là vô bổ hoặc có hại (la cà

hàng quán, rong chơi không mục đích hoặc sa vào các tệ nạn xã hội...) Những hoạt động

lệch chuẩn như vậy không thuộc nội hàm khái niệm giải trí. Hoạt động giải trí là những

hoạt động của con người nhằm nâng cao đời sống văn hoá tinh thần và phát triển toàn diện

con người.

Giải trí hoàn toàn không phải sự nghỉ ngơi thụ động của con người mà là những

hoạt động mang tính chủ động. Nó là những hoạt động hoàn toàn tự do, do mỗi cá nhân tự

lựa chọn và tham gia một cách chủ động. Nhân tố quyết định mang tính tiên quyết là sở

thích cá nhân (với điều kiện phù hợp hệ chuẩn mực và hoàn cảnh thực tế khách quan của

xã hội) Bởi vậy, sự nghỉ ngơi thụ động không phải là giải trí. " Nghỉ " là sự ngừng làm

việc, ngừng hoạt động nhằm lấy lại sức lực vật chất, sự thăng bằng tâm sinh lý để có thể

tiếp tục làm việc sau đó. Tất nhiên, lúc nghỉ có thể đọc báo, nghe nhạc... nhưng đó chỉ là

phụ, điều chính yếu là để cơ thể không hoạt động (nhưng nghỉ cũng khác với ngủ vào ban

đêm). Nghỉ thuộc dạng hoạt động thứ ba và mang tính thụ động, trong khi giải trí thuộc

dạng thứ tư (nằm trong phạm vi hoạt động tinh thần) mang tính chủ động và tích cực.

Vui chơi giải trí là nhu cầu văn hoá cơ bản của con người (cá nhân và cộng đồng)

nhằm giải toả những căng thẳng, mệt mỏi do lao động đưa lại, bù đắp những thiếu hụt và

mất mát về sức khoẻ và tinh thần, tạo điều kiện để con người phát triển toàn diện về thể

lực, trí lực, tình cảm thẩm mỹ, thoả mãn nhu cầu tinh thần ngày càng cao của con người.

Trong vòng đời của con người, vui chơi giải trí gắn bó suốt đời người. Lịch sử phát

triển của loài người đã cho thấy các hoạt động vui chơi giải trí gắn liền với sự xuất hiện

của xã hội loài người và xã hội ngày càng phát triển, các hoạt động vui chơi giải trí ngày

càng đóng vai trò quan trọng trong đời sống xã hội. Không một dân tộc nào, dù trình độ

phát triển cao thấp đến đâu, lại không có các hoạt động vui chơi giải trí. Sử sách đã nói

nhiều về tính chất đam mê kỳ diệu của các lễ hội, dù đó là hội Fiesta - đấu bò tót hàng năm

tại thành phố Pamplona ở miền Bắc nước Tây Ban Nha, là lễ hội Carnavan mê say, điên

cuồng thâu đêm ở Italia hay Braxin, là lễ hội Thai Pusam của người Đơ - ra - vi -điêng

(Đravidiens) ở miền Nam ấn Độ, hoặc như lễ hội nhảy múa của cư dân Châu Phi. Người

da đen châu Phi thường đắm mình trong những điệu múa rực lửa, ngây ngất như hoà điệu

với tiết tấu của vũ trụ...Góp vào tiếng nói đam mê của lễ hội, có thể kể đến những ngày hội

đâm trâu ở vùng đất Tây Nguyên hùng vĩ, ở hội "chọi trâu" Đồ Sơn (Hải Phòng), ở những

đêm quan họ thâu đêm ở làng Lim (Bắc Ninh), hay những cuộc "đua trải" sôi động vùng

sông nước Nam Bộ.

Bước sang xã hội công nghiệp, các hoạt động vui chơi giải trí không hề giảm đi mà

còn phát triển rầm rộ cùng với sự tăng trưởng mạnh mẽ về kinh tế. Đuy -ma -dơ-đi-ê - nhà

xã hội học người Pháp coi giải trí như là sự biến đổi về chất của xã hội công nghiệp, từ chỗ

bị bóc lột thô bạo bằng việc kéo dài thời gian lao động, người công nhân đã có quyền nghỉ

ngơi mà vẫn hưởng lương. Ông tiên đoán về triển vọng của xã hội hậu công nghiệp sẽ là

một " xã hội giải trí", trong đó thời gian lao động được rút ngắn một cách tối thiểu, thời

gian rỗi được tăng lên, mối quan tâm của xã hội không phải là làm gì để sống, mà là làm

thế nào để giải trí tốt hơn [dẫn theo 9, tr.24].

Có thể hiểu được Đumagdier thông qua dự đoán của C Mác, rằng trong xã hội tương

lai, lao động không còn là cực nhọc, mà là lao động sáng tạo, lao động mang lại niềm vui

và trở thành một hình thức giải trí. Nhờ có những tiến bộ của khoa học công nghệ mà năng

suất, chất lượng và hiệu quả lao động ngày càng cao, tạo điều kiện cho con người thoát

khỏi sự nặng nhọc, vất vả của lao động, thời gian rỗi nhiều hơn, con người có nhiều hơn

các hoạt động giải trí nhằm phát triển nhân cách hài hoà và toàn diện.

Vào thời kỳ đầu của chủ nghĩa tư bản, xuất phát từ những tham vọng muốn đạt lợi

nhuận tối đa, các nhà tư bản đã thúc ép công nhân gia tăng cường độ làm việc, khiến họ bị

suy kiệt cả về thể chất lẫn tinh thần. Chính vì vậy, đã xuất hiện các phong trào đấu tranh

của công nhân đòi được giảm giờ làm và tăng thời gian giành cho hoạt động nghỉ ngơi,

giải trí. Năm 1883, Pôn La -phac-gơ - con rể của C.Mác viết cuốn sách "Quyền được

hưởng nhàn" (Le droit à la paresse) để ủng hộ cuộc đấu tranh của những người lao động. ở

Pháp, vào năm 1900 có Luật Min-lơ-răng (Millerand) thiết lập chế độ ngày làm việc 10giờ.

Năm 1906 mới đề ra chế độ nghỉ bắt buộc 1 ngày trong tuần. Năm 1910 có luật hưu trí đối

với công nhân. Cũng vào thời gian này, quốc tế XHCN phát động cuộc đấu tranh với khẩu

hiệu: 8 giờ lao động, 8 giờ nghỉ ngơi và 8 giờ giải trí. Cuộc đấu tranh giành thắng lợi, bắt đầu

từ đây, người lao động mỗi ngày làm việc 8 giờ [dẫn theo 22, tr.17].

Tuy nhiên, trong 8 giờ giải trí, người ta còn phải làm một số công việc tất yếu như:

nấu ăn, tắm rửa, săn sóc con cái... Các công việc trên đã tiêu tốn hết 4 - 5 giờ/ngày, còn lại

3 - 4 giờ/ngày gọi là thời gian tự do. Đây mới thực là thời gian dành cho các hoạt động giải

trí.

Đương thời, C.Mác rất quan tâm đến khái niệm "thời gian tự do" của người lao

động. Ông cho rằng:

Tiết kiệm thì giờ lao động là tăng thêm thì giờ tự do, tức là thì giờ dành

cho sự phát triển toàn diện cá nhân, sự phát triển tác dụng trở lại sức lao động

và làm tăng sức lao động, về phương diện sự sản xuất trực tiếp, thì giờ tiết kiệm

được có thể coi là dùng để sản xuất ra vốn cố định, một vốn cố định làm nên

con người [dẫn theo 22, tr.18].

Năm 1936 thoả ước Ma-ti-nhông (Matignon) ra đời, quy định mỗi tuần làm việc 40

giờ, cuối tuần có hai ngày nghỉ. Trong xã hội xuất hiện từ ("Week end" - Những ngày nghỉ

cuối tuần, như một phong tục mới, ra đời và vận hành tại một số nước công nghiệp phát

triển). Từ đó, người ta bắt đầu ý thức về phương thức sử dụng vốn thời gian tự do của mỗi

con người. Các nhà xã hội học đã chia ra như sau:

- Thời gian tự do cấp ngày: 3 - 4 giờ.

- Thời gian tự do cấp tuần: 2 ngày nghỉ.

- Thời gian tự do cấp năm: những ngày nghỉ phép và những ngày nghỉ vào dịp lễ,

tết.

- Thời gian tự do cấp đời người: Số năm về hưu sau khi đã hết tuổi làm việc.

ở nước ta, tuy năng suất lao động chưa thật cao, ngân sách nhà nước cũng còn nhiều

khó khăn, nhưng từ năm 1999 Chính phủ đã có quyết định cán bộ, công chức, viên chức

mỗi tuần làm việc 5 ngày (40 giờ), nghỉ cả ngày thứ bẩy và chủ nhật. Cùng với việc tăng

lượng thời gian rỗi cuối tuần, Nhà nước đã giành những khoản ngân sách lớn cho việc xây

dựng các khu công viên, các khu du lịch, các trung tâm văn hoá - thể thao và các thiết chế

văn hoá giải trí khác. Nhà nước cũng đã gia tăng mức lương tối thiểu của đội ngũ cán bộ,

công chức, viên chức... Đến thời điểm tháng 10/2006 mức tăng đã là 450.000đ. Những

việc này đã góp phần cải thiện và nâng cao hơn về mức sống của nhân dân, tạo điều kiện

thuận lợi để người dân tham gia ngày càng nhiều hơn vào các hoạt động văn hoá vui chơi

giải trí.

Có thể nói, vui chơi giải trí hiện nay đã trở thành một hoạt động xã hội khá phổ

biến, hơn thế, nó còn trở thành một hướng đi đầy triển vọng trong hoạt động kinh tế của

đất nước... Chính vì vậy, hoạt động vui chơi giải trí đã được Đảng và Nhà nước ta quan

tâm thích đáng. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã nêu rõ:

Phát huy tiềm năng, khuyến khích sáng tạo văn học nghệ thuật, tạo ra

những tác phẩm có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật. Xây dựng và nâng cấp

đồng bộ hệ thống thiết chế văn hoá, chú trọng công trình văn hoá lớn, tiêu biểu.

Nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống nhà văn hoá, bảo tàng, nhà truyền

thống, thư viện, phòng đọc, điểm bưu điện - văn hoá xã, khu vui chơi, giải trí...

[19, tr.106 - 107].

Như vậy, có thể nói rằng: Giải trí là một dạng hoạt động xã hội của con người, diễn

ra trong thời gian rỗi nhằm giải toả những căng thẳng về trí não, thể lực; đáp ứng các nhu

cầu về thể chất, trí tuệ, tình cảm thẩm mỹ..., tạo ra sự cân bằng tâm-sinh lý, nâng cao năng

lực tinh thần và thể chất cho con người.

1.1.2. Quan niệm văn hoá giải trí

Khái niệm văn hoá đã xuất hiện từ lâu trong lịch sử nhân loại và ngừng được mở

rộng cả về nội hàm cùng ngoại diên của nó. Theo người Trung Hoa cổ đại thì “văn hoá" là

sự kết hợp giữa "vẻ đẹp” và "giáo hoá " đựơc dùng để chỉ một triều đại có sự thống trị

"đẹp đẽ" dùng "văn trị” và "giáo hoá", tức là sự thống trị dựa trên sự giáo dục, thuyết phục

con người. Còn ở Hy Lạp cổ đại thì thuật ngữ "cultus " tức là gieo trồng, ban đầu có nghĩa

gieo trồng ngoài đồng ruộng, (cultus agree) sau được dùng với nghĩa là gieo trồng tinh

thần (cultus animi - tức là văn hoá) chỉ sự nâng niu, nuôi dưỡng bản chất, phẩm giá của

con người theo những cái hay, cái đẹp, cái tiến bộ, cái văn minh...

Định nghĩa về văn hoá ngày càng trở nên hết sức phong phú. Năm 1952 A.L

Kroeber và C.L Kluckhohn đã trích lục được khoảng ba trăm định nghĩa văn hoá của các

tác giả ở nhiều nước khác nhau. Đến nay đã có thêm hàng trăm định nghĩa nữa về văn hoá.

Nhưng hầu như tất cả đều quan niệm văn hoá gắn liền với bản chất, năng lực của con

người, với con người, nói cách khác, hệ thống các giá trị tinh thần và giá trị vật chất do con

người sáng tạo ra - văn hoá, trở thành một bộ phận cấu thành của đời sống xã hội.

"Từ điển triết học" của Rôdentan đã đưa ra định nghĩa: "Văn hoá - toàn bộ những

giá trị vật chất và tinh thần do con người tạo ra trong quá trrình thực tiễn xã hội - lịch sử và

tiêu biểu cho trình độ đạt được trong lịch sử phát triển xã hội. Theo nghĩa hẹp hơn, người ta

vẫn quen nói về văn hoá vật chất (kỹ thuật, kinh nghiệm sản xuất, giá trị vật chất...) và văn hoá

tinh thần (khoa học, nghệ thuật và văn hoá, triết học, đạo đức, giáo dục...). Văn hoá là một

hiện tượng lịch sử, phụ thuộc vào sự thay thế các hình thái kinh tế - xã hội" [35, tr.656].

Tổ chức Văn hoá, Giáo dục và Khoa học của Liên hợp quốc (UNESCO) nhìn nhận

văn hoá với ý nghĩa rộng rãi nhất, như một phức thể, tổng thể các đặc trưng, diện mạo về

tinh thần, vật chất, tri thức và tình cảm... khắc hoạ nên bản sắc của một cộng đồng: "Văn

hoá là tổng thể những biểu trưng (ký hiệu) chi phối cách ứng xử và sự giao tiếp trong một

cộng đồng, khiến cộng đồng ấy có đặc thù riêng... Văn hoá bao gồm hệ thống những giá trị để

đánh giá một sự việc, một hiện tượng (đẹp hay xấu, đạo đức hay vô luân, phải hay trái, đúng

hay sai...) theo cộng đồng ấy" [dẫn theo 44, tr.14].

Đại Bách khoa thư Xô Viết [16] đã coi văn hoá là: Trình độ phát triển về mặt lịch sử

của xã hội và con người trong các dạng thức tổ chức đời sống và hoạt động của con người,

cũng như trong các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra. Khái niệm văn

hoá dùng để phân định trình độ phát triển vật chất và tinh thần của các thời đại lịch sử nhất

định, các hình thái kinh tế - xã hội hay một xã hội, dân tộc, bộ tộc cụ thể (chẳng hạn văn

hoá cổ đại, văn hoá xã hội chủ nghĩa, văn hoá Maya...) cũng như chỉ một đặc thù hay lĩnh

vực của đời sống (văn hoá lao động, văn hoá nghệ thuật, văn hoá đời sống ...) Theo nghĩa

hẹp hơn, thuật ngữ “văn hoá "chỉ liên quan tới lĩnh vực đời sống tinh thần của con người.

ở Việt Nam, từ năm 1942 -1943, chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra quan niệm về văn

hoá như sau:

Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo

và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn

học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về ăn, mặc, ở và các

phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hoá.

Văn hoá là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của

nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi

hỏi của sự sinh tồn [30, tr.431].

Chúng ta đã biết rằng: Giải trí là một nhu cầu, một hoạt động văn hoá của con người.

Giải trí mang ý nghĩa bao trùm là các hình thức vui chơi, thưởng thức. Hơn thế nữa, cái

đích cuối cùng của giải trí là giải toả những căng thẳng về thể chất và tinh thần, đạt tới sự

thư giãn trong tâm hồn, và cao hơn nữa là những rung cảm thẩm mỹ. Giải trí là dạng hoạt

động nhằm đáp ứng nhu cầu tinh thần lành mạnh và bổ ích của con người. Có những hoạt

động thoạt nhìn có vẻ là giải trí nhưng vì lý do nào đó mà không đạt được tới mục đích

trên, đều không phải (hoặc không còn là) giải trí. Ví dụ, hoạt động chơi bài, nếu đó là hoạt

động không vụ lợi, chỉ để tiêu khiển, giải toả căng thẳng tinh thần hoặc thể chất thì là hoạt

động giải trí. Nhưng nếu lại gắn với mục đích kinh tế (ăn tiền) hoặc vụ lợi (cá cược) thì

không còn là giải trí nữa. Như vậy, hoạt động giải trí là những hoạt động tạo cho cá nhân

một đời sống tinh thần trong sáng, lành mạnh, phấn chấn... giúp họ phát triển toàn diện.

Giải trí là những hoạt động thuộc đời sống văn hoá - tinh thần. Như vậy có thể coi " Văn

hoá giải trí" (văn hoá vui chơi giải trí) là một trong những yếu tố của cấu trúc chỉnh thể của

văn hoá cộng đồng.

Nói "văn hoá giải trí" cũng tức là “văn hoá vui chơi", "văn hoá vui chơi giải trí"

cũng có thể hiểu là hoạt động vui chơi, giải trí có văn hoá, bằng các hoạt động và sản phẩm

văn hoá và thông qua hoạt động giải trí nhằm xây dựng, hoàn thiện nhân cách con người.

ở đây, ta có thể phân loại các hoạt động văn hoá giải trí theo nhiều tiêu chí khác

nhau:

+ Theo chức năng của các hoạt động: Có hoạt động giải toả căng thẳng thể chất (thể

dục thể thao...) hoạt động giải toả căng thẳng tinh thần (nghe nhạc, dạo chơi, giao tiếp...),

hoạt động nhằm đạt khoái cảm thẩm mỹ (thưởng thức nghệ thuật).

+ Theo chủ thể tổ chức hoạt động: Có hoạt động cá nhân (nghe nhạc, làm thơ, đọc

sách báo...) hoạt động trong nhóm hạn chế (giao lưu với bạn bè, tham gia các hoạt động

cùng với họ ) hoạt động tập thể (hoạt động cùng các bạn đồng nghiệp hoặc trong một tổ

chức đoàn thể nào đó ), hoạt động công cộng ngoài xã hội.

+ Theo địa điểm hoạt động: Có hoạt động giải trí tại gia đình, hoạt động giải trí tại

nơi làm việc, hoạt động giải trí ngoài xã hội.

+ Theo hình thức hoạt động: Có những hoạt động chơi (chơi các trò chơi, dạo chơi...)

hoạt động TDTT, tham quan, du lịch, những hoạt động thoả mãn nhu cầu thưởng thức

nghệ thuật (xem phim, ca nhạc, sân khấu...) những hoạt động sáng tạo nghệ thuật (tham gia

các CLB năng khiếu hoặc các hoạt động nghệ thuật nghiệp dư ); những hoạt động thoả

mãn nhu cầu giao tiếp (gặp gỡ bạn bè, trò chuyện, tâm sự...) những hoạt động thoả mãn

nhu cầu niềm tin (tham gia các sinh hoạt tôn giáo, tham gia các lễ hội hoặc các hoạt động

tôn giáo tín ngưỡng khác...).

Để thấy rõ hơn rõ khái niệm “văn hoá giải trí" hay “văn hoá vui chơi giải trí” cần

nhận thức hơn về nội dung bản chất của vui chơi giải trí.

Trò chơi - đó là hoạt động mang tính tự nguyện nhưng có ý nghĩa xã hội. Trong các

hoạt động giải trí của con người, hoạt động vui chơi chiếm một vị trí hết sức quan trọng.

Phân tích sự chơi theo lý thuyết hoạt động, nhận thấy có ít nhất 4 dạng hoạt động chơi là:

Hoạt động chơi không đối tượng - là hoạt động ngẫu hứng, chơi một mình, đối tượng

của sự chơi là nhằm vào bản thân người chơi như "đi dạo”, "du xuân”, "câu cá ""đánh cờ

một mình ", đối thoại với bản thân mình.

Hoạt động chơi với đối tượng là đồ vật hoặc động vật. Ví dụ: chơi đàn ghi ta, trẻ em

chơi búp bê, người già chơi cây cảnh, chơi chim...

Chơi với đối tượng là máy điện tử. Gọi là “trò chơi ảo”, nin-ten-đo, chơi trên máy vi

tính, chơi trên mạng... là thuộc dạng này.

Chơi với đối tượng là con người - một hay nhiều người: Ví dụ: Chơi cờ, chơi bóng

chuyền, bóng đá... đây là sự chơi bằng trò chơi - một hình thức phát triển đa dạng nhất

trong lĩnh vực giải trí của con người.

Nếu như ba dạng trên là chơi một mình, thì dạng thứ tư là chơi tập thể (giao tiếp tập

thể), cuộc chơi có nội dung thi đấu, nên phải xây dựng thể chế và có trọng tài điều khiển.

Hoạt động chơi về bản chất là mang tính vô tư, đặc điểm của nó là ngẫu hứng, bất

ngờ và đôi khi nghịch lý, nó chống lại tính máy móc trong cuộc sống thường nhật và sự áp

đặt của tập quán xã hội.

Hoạt động chơi còn nhằm rèn luyện, tập dượt con người. Nó rất cần thiết để con

người vượt qua những trở ngại, khó khăn, nó còn là bài học về chữ "nhẫn ", "thắng không

kiêu, bại không nản", nó làm cho con người trầm tĩnh, thư thái hơn. Khía cạnh quan trọng

nhất của nhu cầu chơi là nhằm bù đắp những cái mà con người không thể tìm thấy trong

đời sống thực tiễn. Chẳng hạn như, khi con người có nhu cầu sống với quá khứ tổ tiên thì

không gì hơn là tham gia vào vai diễn của các nhân vật lịch sử...

Các giá trị mà mỗi cuộc chơi mang lại là sự công bằng, bình đẳng và minh bạch

(công khai). Sự công bằng biểu thị ở chỗ mọi người tham gia cuộc thi đều có thể thắng,

hoặc có thể thua, không hề có sự ưu tiên cho bất cứ đối tượng nào. Sự bình đẳng trong

cuộc chơi biểu hiện ở chỗ mọi người tham gia cuộc chơi đều có điều kiện ngang nhau

trong cuộc tranh tài. Trong cuộc đua tranh quyết liệt này, người giỏi sẽ thắng, người kém

sẽ thua; đối với những trò chơi có sự may rủi thì: vận may sẽ thắng, vận rủi sẽ thua, không

có ngoại lệ. Đây là một chân lý hiển nhiên mà mọi người trong cuộc chơi đều thừa nhận.

Sự minh bạch ở đây còn là sự giám sát xã hội. Những người được cử ra làm "trọng

tài” cho cuộc chơi phải thật “công tâm”, mọi xử lý phải trình ra công khai trước sự chứng

kiến của mọi người. Sự khuất tất sẽ làm cho cuộc chơi trở nên mất hết ý nghĩa.

Tóm lại, trong cuộc chơi những người tham gia chơi hết mình theo đúng luật chơi,

những người trọng tài xử lý công tâm theo luật định, các “Fan” (khán giả) cổ vũ “vô

tư”, làm cho cuộc chơi đạt tới giá trị công bằng, bình đẳng và minh bạch. Đó là cái đẹp

vĩnh hằng, làm cho ấn tượng của cuộc chơi sống mãi trong lòng mọi người. Có thể hình

dung hoạt động của mỗi cuộc chơi giống như hoạt động của một hội thu nhỏ, ở đó các

nguyên tắc công bằng, bình đẳng và minh bạch như những chân lý bình dị, đã được

thực thi một cách nghiêm túc.

Chúng ta thấy rằng giải trí tự nó không phải là cái gì gắn liền với sự thấp kém, kém

cỏi. Giải trí là nhu cầu thực sự cần thiết cho con người sau những giờ lao động cực nhọc,

căng thẳng. Giải trí là một trong những hình thức sử dụng thời gian rỗi một cách có lợi

(ích), là cách mà con người nghỉ ngơi một cách tích cực. Giải trí là hoạt động mang tính tự

do cá nhân cao độ, tuỳ ý thích và không giống với hoạt động ở cơ quan, đơn vị nơi mình

đang làm. Trong số những hoạt động được sử dụng khi con người rảnh rỗi thì nghệ thuật -

bao gồm cả sáng tác và tiếp nhận là một trong những loại được ưa chuộng rộng rãi nhất.

Tuy nhiên, mặc dù có tính độc lập tương đối, chức năng giải trí không bộc lộ như nhau ở

mỗi loại hình văn hoá nghệ thuật. Nó phụ thuộc vào động cơ sáng tác của tác giả và thị

hiếu, nhu cầu của từng cá nhân người tiếp nhận tác phẩm. Tuyệt đối hoá chức năng giải trí

thường dẫn tới sự tước bỏ ý nghĩa xã hội tích cực của văn nghệ. Giải trí trong ý nghĩa lành

mạnh nhất, có tác dụng phát triển trình độ và thị hiếu thẩm mỹ của công chúng bao giờ

cũng gắn liền với chức năng thẩm mỹ, chức năng nhận thức và chức năng giáo dục. Tách

biệt chức năng giải trí, đẩy nó lên như một chức năng cơ bản là hạ thấp vai trò tích cực của

nghệ thuật trong đời sống. Ngược lại, không quan tâm tới khía cạnh giải trí là bỏ sót một

khả năng tác động và tự giới hạn tầm ảnh hưởng của nghệ thuật trong đời sống thực tiễn.

Chính vì nghệ thuật đem lại nhiều cái vui mắt. vui tai, nhiều cái hấp dẫn, lôi cuốn.

Một tiếng đàn, một điệu múa, những lời hát, những bộ quần áo biểu diễn đẹp đẽ, những

câu chuyện hồi hộp, cảm động, những bộ phim nhiều tình tiết căng thẳng, gay cấn, hấp

dẫn...tất cả những cái đó có sức hấp dẫn rất lớn và thường đem lại cho con người những

niềm vui, niềm say mê. Có người lúc rảnh đi chơi cờ, xem đá bóng, dạo phố, có người lại

thích đi nghe (xem) hát, đọc sách. Mỗi người có một sở thích riêng và mỗi loại cũng có cái

hay riêng. Nghệ thuật lôi cuốn ở chỗ nó vừa vui tai, đẹp mắt, có sức thu hút, giúp con

người có thêm những giá trị tinh thần bổ ích.

Đến đây có thể nêu lên một định nghĩa về văn hoá giải trí như sau: Văn hoá giải trí

là một bộ phận của đời sống văn hoá xã hội, bao gồm toàn bộ những hoạt động giải trí

của các cá nhân, các cộng đồng... diễn ra một cách tích cực, chủ động, lành mạnh và tiến

bộ. Thông qua những trò chơi và những hoạt động giải trí tạo nên cho các cá nhân và

cộng đồng một đời sống tinh thần phong phú và lành mạnh, hoàn thiện và phát triển.

1.1.3. Các loại hình văn hoá giải trí

Ngày nay, các loại hình giải trí ngày càng phát triển rộng rãi, phong phú về hình thức,

đa dạng về nội dung (không chỉ giải trí bằng đọc sách, báo mà còn tham gia vào quá trình

sáng tạo, biểu diễn văn hoá, văn nghệ, thể thao...) Hoạt động giải trí không dừng lại ở trạng

thái thụ động tiếp nhận, mà phát triển đến trạng thái chủ động tham gia hoạt động sáng tạo.

Hoạt động giải trí không chỉ ở trong trạng thái tĩnh (đọc, xem, nghe, nhìn) mà cả ở trạng

thái vận động: Vận động cơ thể (thể dục thể thao, biểu diễn nghệ thuật) hay du lịch, tham

quan...Tuy nhiên, phân loại các loại hình văn hoá giải trí không phải là điều đơn giản, bởi

vì vui chơi giải trí là một dạng hoạt động xã hội, nếu căn cứ vào hình thái của hoạt động

thì rất khó thực hiện, vì rằng, chỉ cần đổi phương tiện thành mục đích thì hoạt động nào

cũng có thể trở thành hoạt động vui chơi giải trí, ví du: Chèo thuyền là lao động của người

thuỷ thủ, còn chèo thuyền trong cuộc đua "trải” là tham gia cuộc vui của lễ hội. Bóng đá

chuyên nghiệp là dạng hoạt động nghề nghiệp, còn bóng đá phong trào mang tính nghiệp

dư là hoạt động vui chơi giải trí. Biểu diễn nghệ thuật không chỉ là hoạt động nghề nghiệp

của các nghệ sỹ chuyên nghiệp mà còn là hoạt động có tính chất vui chơi, giải trí của đội

ngũ văn nghệ nghiệp dư trong các hội diễn nghệ thuật quần chúng.

Chúng ta thấy có các loại hình văn hoá giải trí chủ yếu sau đây:

1.1.3.1. Loại hình văn hoá giải trí gắn với các trò chơi

Các loại trò chơi là những hoạt động vừa mang tính thể lực, vừa mang tính tinh thần

nhằm rèn luyện sức khoẻ, năng lực tinh thần cho những người tham gia chơi và cả những

người cổ vũ cuộc chơi, như:

+ Trò chơi thể lực: kéo co, đấu vật, bơi lội.

+ Trò chơi khéo léo - thể lực - trí tuệ: đánh đu, thi nấu cơm.

+ Trò chơi trí tuệ: Đánh cờ, đố chữ, câu đối.

+ Trò chơi rèn luyện ý thức, sự ứng xử: câu cá, thả diều, chọi gà, hát đối.

Các loại trò diễn là hoạt động vui chơi giải trí dựa vào đặc trưng thẩm mỹ và kỹ

thuật của tác phẩm văn hoá nghệ thuật, như:

+ Ngôn ngữ - động tác: chèo, tuồng, hát ả đào.

+ Động tác, âm thanh: Múa rối, võ thuật, xiếc.

+ Hỗn hợp - tích hợp: Lễ hội, hội thi.

1.1.3.2. Loại hình văn hoá giải trí gắn với sáng tạo và thưởng thức nghệ thuật

Trong nghệ thuật, với sự hư cấu tưởng tượng nghệ thuật, người nghệ sỹ cuốn hút

người đọc, người xem, người nghe vào trò chơi của các năng lực tinh thần. Trò chơi là mô

hình của sáng tạo, dự báo trước hoạt động sáng tạo. Nghệ thuật giúp con người phát triển

các năng lực cảm thụ, thể nghiệm chủ quan. Người đọc khi đọc các tác phẩm thường giả

định mình là nhân vật, và như vậy là đã tham gia vào trò chơi rèn luyện tình cảm con

người, phát huy năng lực trí tuệ. Các hoạt động nghệ thuật giúp phát triển toàn diện các

năng lực của con người. Nó làm cho đầu óc con người nhạy bén, linh hoạt, sắc cạnh trước

các biểu hiện sinh động và phức tạp của đời sống.

Trong các khoái cảm mà nghệ thuật đem lại có loại khoái cảm tiếp nhận, thưởng

thức một cách vô tư. Vì vậy có thể khẳng định tác dụng giải trí như một chức năng độc lập

của văn chương và nghệ thuật nói chung. Thật ra, giải trí là một nhu cầu tự nhiên của con

người trước nghệ thuật. Trong sự cảm thụ tác phẩm, cùng với sự tiếp nhận nội dung tư

tưởng của tác phẩm, công chúng còn tìm thấy sự khoái cảm trong nếm trải các tình huống

tâm lý, những trạng thái xúc cảm vốn có trong cuộc sống con người.

1.1.3.3. Loại hình văn hoá giải trí gắn với thể dục thể thao

Hoạt động thể dục thể thao là hoạt động văn hoá thể chất, rèn luyện thể chất làm con

người trở nên khoẻ đẹp. Thể thao là thao diễn thân thể, phô bày vẻ đẹp của con người và

sức mạnh thể lực của con người.

+ Vui chơi giải trí bằng các hoạt động thể dục thể thao, như: Tập thể dục hàng ngày,

dưỡng sinh, võ vật, bóng bàn, bóng đá, bóng chuyền...và các loại thể thao khác (thăng

bằng trên dây, nhảy dù, leo núi, lướt ván...).

+ Vui chơi giải trí bằng biểu diễn, thi đấu TDTT: Xem biểu diễn thể dục dụng cụ, thi

đấu bóng các loại, đấm bốc, đấu vật, chọi trâu, chọi gà...

1.1.3.4. Loại hình văn hoá giải trí gắn với thông tin đại chúng

Thông tin đại chúng vừa là một loại hình văn hoá vừa là một phương thức chuyển

tải văn hoá. Vì vậy nó là một hoạt động giải trí cơ bản của con người và xã hội.

+ Vui chơi giải trí bằng đọc (xem): Sách, báo, tranh, ảnh, triển lãm, intenet...

+ Vui chơi giải trí bằng nghe: Nghe radio, casseet...

+ Vui chơi giải trí bằng nghe - nhìn: xem truyền hình, thông tin, quảng cáo, VCD,

DVD...

1.1.3.5. Loại hìnhvăn hoá giải trí gắn với du lịch, dịch vụ

Du lịch dịch vụ là một hoạt động văn hoá mang tính tổng hợp, nguyên hợp nhưng cũng

mang tính chuyên biệt. Con người tham gia các hoạt động du lịch, dịch vụ vừa để đáp ứng nhu

cầu thực dụng, vừa đáp ứng nhu cầu vui chơi giải trí.

+ Vui chơi giải trí bằng du lịch: Du lịch văn hoá, du lịch sinh thái, thương mại chữa

bệnh, hội thảo, thám hiểm...

+ Vui chơi giải trí bằng dịch vụ: mua sắm. may mặc, ăn uống, thư giãn, trang điểm...

1.1.3.6. Loại hình văn hoá giải trí gắn với lao động sản xuất

Có thể chia loại hình này thành các hoạt động chính là:

+ Giải trí trong khi lao động cần thiết: Đó là loại hình diễn ra đồng thời với quá trình

sản xuất như nghe nhạc, chuyện trò (kể chuyện tiếu lâm...)

+ Vui chơi giải trí sau lao động cần thiết: Đây là sự chuyển trạng thái từ lao động sản

xuất cần thiết sang một hình thức khác mang tính giải trí, như, lúc giải lao người công

nhân đọc sách hay làm một việc khác như nguội, điện, làm thơ, vẽ tranh...

+ Vui chơi giải trí bằng lao động sản xuất trong thời gian rỗi: Đây là hình thức vui

chơi giải trí rất có ý nghĩa, khi người công nhân làm lao động chân tay tranh thủ thời gian

rỗi học thêm văn hóa, rèn luyện tay nghề, vi tính, ngoại ngữ, chăm sóc cây cảnh...

1.1.3.7. Loại hình văn hoá giải trí gắn với ẩm thực

Ăn uống cũng là một hoạt động văn hoá. Ăn uống trở thành hoạt động văn hoá ẩm

thực khi ăn uống gắn với một nhu cầu tinh thần nào đó, khi món ăn, thức uống (được chế

biến, bày biện hết sức nghệ thuật, khẩu vị phù hợp, có nguồn gốc từ truyền thống văn hoá

dân tộc...) thể hiện một trình độ văn hoá thẩm mỹ của con người, Hoạt động giải trí qua ẩm

thực bao gồm:

+ Vui chơi giải trí qua thưởng ngoạn các món ăn, thức uống: Những món ăn ngon

miệng, quý hiếm, mới lạ, có thể bồi bổ sức khoẻ.

+ Vui chơi giải trí qua các món ăn, thức uống truyền thống văn hoá của dân tộc.

+ Vui chơi, giải trí gắn với các hoạt động tinh thần khác: Uống cà phê nghe ca nhạc,

xem bóng đá...

+ Vui chơi giải trí qua các món ăn, thức uống trong các dịp lễ tết: Mừng sinh nhật,

mừng thọ, liên hoan, giỗ, lễ cưới, tết...

Có thể nói, phân loại các loại hình vui chơi giải trí là một việc làm cần thiết giúp cho

việc tổ chức, điều hành và quản lý văn hoá giải trí cho phù hợp với chủ thể, đối tượng và

mục đích của chúng. Tuy nhiên, sự phân loại này chỉ có ý nghĩa tương đối mà thôi.

1.2. Chức năng xã hội của văn hoá giải trí

Hoạt động văn hoá giải trí là một hoạt động thiết yếu của xã hội nhằm đáp ứng nhu

cầu phát triển về tư tưởng, tình cảm, thẩm mỹ và thể chất của con người. Là một hiện

tượng xã hội, hoạt động văn hoá giải trí phản ánh năng lực thực tiễn của con người trong

việc vượt qua giới hạn của lao động vì lợi ích vật chất trực tiếp, sử dụng các sản phẩm văn

hoá, thông qua các thiết chế văn hoá để sáng tạo tự do trong môi trường dân chủ và bình đẳng

ở khoảng thời gian rỗi.

Văn hoá giải trí của con người bắt nguồn từ lao động sản xuất và có tác động trở lại

thúc đẩy quá trình sản xuất của xã hội phát triển. Có có nhiều quan niệm khác nhau về

chức năng của văn hoá vui chơi giải trí trong xã hội. ở đây chúng tôi nhận thấy văn hoá

giải trí có một số chức năng cơ bản sau đây:

1.2.1. Chức năng nhận thức của các hoạt động văn hoá giải trí

Các hoạt động văn hoá giải trí cung cấp cho con người những hiểu biết nhất định về

thế giới xung quanh và bản thân mình. Thông qua các loại hình hoạt động của văn hoá giải

trí con người được phát triển trí tuệ, tình cảm nâng cao nhận thức đúng đắn về tự nhiên, xã

hội và chính bản thân mình.

1.2.2. Chức năng giáo dục

Hoạt động văn hoá giải trí chân chính bao giờ cũng mang ý nghĩa giáo dục, góp phần

xây dựng và phát triển toàn diện con người cả về thể chất và tinh thần, đánh thức khát

vọng vươn tới tự do, công bằng, dân chủ và khát vọng vươn tới cái đúng, cái tốt và cái đẹp.

1.2.3. Chức năng điều chỉnh quan hệ xã hội

Các quan hệ xã hội không phải bao giờ cũng diễn ra chỉ trong các quan hệ kinh tế,

quan hệ công quyền mà còn diễn ra các quan hệ dân sự phức tạp. Nhu cầu được thoả mãn

khát vọng dân chủ, bình đẳng, công khai trên cơ sở bình đẳng trước "luật chơi "chung luôn

cuốn hút sự quan tâm của cộng đồng. Các hoạt động văn hoá giải trí góp phần điều chỉnh

và làm cân bằng tâm trạng xã hội, góp phần giải toả những căng thẳng do lao động trí óc

và lao động chân tay đưa lại, tạo điều kiện để con người có thể tái sản xuất sức lao động,

kích thích năng lực sáng tạo của con người.

1.2.4. Chức năng kinh tế của các hoạt động văn hoá giải trí

Trong thời kỳ phát triển kinh tế thị trường và đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại

hoá, nhu cầu văn hoá giải trí của xã hội ngày càng gia tăng và các ngành công nghiệp, các

ngành dịch vụ hướng vào sản xuất các sản phẩm văn hoá, đáp ứng nhu cầu văn hoá giải trí

ngày càng tăng. Như vậy, các hoạt động văn hoá giải trí không chỉ hướng tới thoả mãn nhu

cầu về tinh thần mà còn thực hiện chức năng kinh tế, góp phần tích cực vào việc thúc đẩy

tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội.

Sự phân định các chức năng xã hội của hoạt động văn hoá giải trí chỉ là tương đối.

Sử dụng và khai thác tổng hợp các chức năng trên sẽ góp phần quan trọng để các hoạt

động văn hoá giải trí thực sự là mục tiêu và động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội.

1.3. Văn hoá giải trí trong xã hội hiện đại

Nhu cầu vui chơi giải trí là một nhu cầu văn hoá cơ bản của con người, tạo điều kiện

để con người thoát khỏi những ràng buộc vật chất của lao động bắt buộc, để vươn tới sự tự

do bên trong về phương diện tinh thần. ở mỗi thời kỳ lịch sử, do điều kiện kinh tế xã hội khác

nhau mà văn hoá giải trí cũng khác nhau.

1.3.1. Văn hoá giải trí trong xã hội tiền công nghiệp và công nghiệp

ở các chế độ xã hội trước thời kỳ chủ nghĩa tư bản, nhu cầu vui chơi giải trí của con

người bị hạn chế bởi các quan hệ kinh tế nông nghiệp gia trưởng và tôn giáo chi phối. Thời

kỳ này, năng suất lao động và mức thu nhập lao động xã hội thấp nên thời gian rỗi ít và tập

trung vào những thời điểm “nông nhàn”, sau vụ thu hoạch hoặc chờ vụ thu hoạch. Các hoạt

động vui chơi giải trí tập trung xung quanh các sinh hoạt nghi lễ mang tính chất tôn giáo tín

ngưỡng là chủ yếu.

Nhìn chung, trong xã hội tiền công nghiệp, khái niệm “thời gian rỗi” chưa được quan

tâm đầy đủ như một khái niệm khoa học vì thời gian rỗi của con người rất ít và phân tán.

Các hoạt động vui chơi giải trí của cộng đồng cư dân trong xã hội nông nghiệp tuỳ thuộc

vào thời vụ, ít được chủ động để thực hiện giải trí một cách tự do theo sở thích cá nhân.

Các sở thích giải trí của mỗi người thường quy chiếu vào một số dạng vui chơi giải trí lặp

đi, lặp lại và có tính khép kín cục bộ.

Trong xã hội công nghiệp, thời gian nhàn rỗi của các tầng lớp dân cư xuất hiện nhiều

hơn do năng suất lao động công nghiệp tăng lên và những cuộc đấu tranh của những người

lao động công nghiệp với giới chủ tư bản đòi giảm giờ làm trong xí nghiệp, công xưởng.

Việc sử dụng thời gian nhàn rỗi đã kéo theo quá trình hình thành một nền văn hoá đại

chúng, phục vụ quần chúng được sử dụng sâu rộng trong các vùng khác nhau trong quá

trình phát triển công nghệ và sản xuất hàng loạt. Thời gian nhàn rỗi lúc này đã trở thành

một bộ phận trong cuộc sống của những người dân.

Bản thân khái niệm “giải trí” xuất hiện trong xã hội công nghiệp mang một ý nghĩa

mới. Trong xã hội tiền công nghiệp, giải trí của quần chúng mang hình thức những ngày

nghỉ dành cho nghi lễ gia đình, hôn lễ, tôn giáo và những hội lẽ nông nghiệp, cầu an... Quan

niệm mới về giải trí được coi là sản phẩm của xã hội công nghiệp hiện đại. Sản xuất cơ giới

làm cho năng suất lao động được nâng lên, tạo điều kiện cho họ có thể kiếm sống với một chế

độ làm việc ít giờ, ít ngày hơn, thậm chí có tiền để chi tiêu cho giải trí trong những giờ nhàn

rỗi. Sự phân biệt ranh giới giữa “thời gian lao động”và “thời gian nghỉ ngơi”rõ rệt hơn.

Tuy nhiên, những người lao động trong ngành công nghiệp giành được nhiều ngày

nghỉ không phải là không qua đấu tranh. Thời gian đầu, thông qua nghiệp đoàn, những

người làm công ăn lương đấu tranh đòi hỏi giảm bớt giờ làm vì lý do sức khoẻ và gia đình.

Đến đầu thế kỷ XX, khi ngày làm việc 10 giờ trở thành phổ biến thì người ta tiếp tục đấu

tranh đòi bớt giờ làm để nghỉ ngơi giải trí.

Vào những năm 1950, ngoài khu vực công nghiệp, khái niệm giờ lao động ngắn,

ngày nghỉ có lương được thừa nhận ở tất cả các nước công nghiệp hoá ở phương Tây.

Nhu cầu giải trí, tiêu khiển, tìm kiếm cơ hội trong thông tin, thể thao, nghệ thuật, giao

tiếp cộng đồng của công chúng ngày càng cao. Ngành công nghiệp phục vụ giải trí nhanh

chóng nắm bắt, khai thác để sản xuất, đáp ứng nhu cầu đa dạng này, tạo thành một thị

trường mới, thị trường giải trí thông qua các hình thức khác nhau như sách, báo, tạp chí,

phim ảnh, truyền thanh và truyền hình, các thiết bị thể dục thể thao...vv. Tuy nhiên, các

quy tắc chỉ đạo việc sử dụng thì giờ nhàn rỗi không bao giờ được giao phó cho sự biến

động của thị trường hay các doanh nghiệp hoạt động vì động cơ thương mại thuần tuý mà

còn phụ thuộc vào Nhà nước, các tổ chức tôn giáo hay từ thiện. ở đô thị xuất hiện nhiều

công viên, sân chơi, bảo tàng, vườn thú, thư viện... các hình thức giải trí xuất hiện cũng đa

dạng, phong phú và không kém phần phức tạp.

1.3.2. Văn hoá giải trí trong xã hội hiện đại

Trong xã hội tiền công nghiệp, hoạt động vui chơi giải trí thường mang ý nghĩa hạn

hẹp, khép kín, cục bộ. Hoạt động giải trí ở đây thường mang tính chất đáp ứng yêu cầu cá

nhân, nhóm xã hội nhất định và có ý nghĩa tự phục vụ cá nhân và tầng lớp hữu sản ở bên

trên là chủ yếu. Điều này phản ánh tính chất giai cấp của các hoạt động vui chơi giải trí.

Tính chất quần chúng của hoạt động vui chơi giải trí chỉ xuất hiện nhiều ở các hoạt động

văn hoá dân gian như lễ hội, nghi lễ tôn giáo hoặc gia đình. Tính chất "hàng hoá "của các

hoạt động vui chơi giải trí bị giới hạn ở sự trao đổi bằng hiện vật thông qua sự ban thưởng

của tầng lớp thống trị xã hội và tự ban thưởng lẫn nhau, đáp ứng nhu cầu tinh thần giải trí,

chưa nhấn mạnh đến việc khai thác lợi ích vật chất của các hoạt động này.

Khi chuyển sang xã hội công nghiệp và thị trường, các quan hệ trong hoạt động vui

chơi giải trí chuyển đổi mạnh sang sản xuất hàng hoá, biến các hoạt động giải trí có thể lưu

thông trên thị trường và đem lại lợi nhuận cho các chủ thể của nó trong tổ chức hoạt động

giải trí. Sự sáng tạo ra các sản phẩm tinh thần được khẳng định như một loại hình lao

động, một loại hình sản xuất hàng hoá đặc biệt. Loại hình này như C.Mác đã nhận xét, nó

vừa có chức năng hàng hoá, được lưu thông trên thị trường, hoạt động theo quy luật cung

cầu, quy luật cạnh tranh, vừa có chức năng văn hoá xã hội, đáp ứng nhu cầu phát triển tinh

thần, trí tuệ và tình cảm của xã hội. Các hoạt động văn hoá vui chơi giải trí là một bộ phận

của hoạt động văn hoá cộng đồng. Nó mang chức năng “kép”, vừa mang chức năng kinh tế

vừa mang chức năng văn hoá. Xã hội hiện đại ngày nay là xã hội thị trường hướng nền sản

xuất vào mục tiêu lợi nhuận. Điều này ở các nước mới phát triển kinh tế thị trường còn là

điều mới lạ, tính tự phát của nền kinh tế xuất hiện nhiều. Mặt khác, do công tác quản lý xã

hội ở các nước mới mở cửa thị trường gặp nhiều khó khăn nên đã dẫn đến tình trạng nhiễu

loạn trên thị trường giải trí.

Vì vậy, nhận thức rõ hơn về thị trường văn hoá giải trí là một vấn đề không chỉ mang ý

nghĩa lý luận mà còn mang ý nghĩa thực tiễn cấp bách hiện nay.

Trước hết cần xem xét mối quan hệ giữa kinh tế và văn hoá trong hoạt động vui chơi

giải trí:

Thứ nhất, cần khắc phục tư tưởng tách rời văn hoá ra khỏi kinh tế chỉ đề cao những

giá trị văn hoá tinh thần, coi thường những vấn đề thực tiễn xã hội, coi thường những vấn

đề kinh tế. Cực đoan hơn, có quan điểm coi kinh tế là những vấn đề thông tục, thấp kém,

coi thường lao động làm ra của cải vật chất, coi thường lao động chân tay, tách kinh tế ra

khỏi văn hoá.

Thứ hai, trong khi tiến hành phát triển kinh tế thị trường, đã xuất hiện quan điểm khá

phổ biến ở nhiều nước đang phát triển là tuyệt đối hoá nhân tố kinh tế, lấy mô hình

Phương Tây làm trung tâm; không chú trọng đến phát huy các nguồn lực văn hoá dân tộc.

Điều đó dẫn các quốc gia này đến suy thoái cả về kinh tế và văn hoá, biến các nước này trở

thành một xã hội tiêu thụ hơn là một xã hội sản xuất và phụ thuộc vào các nền kinh tế bên

ngoài.

Như vậy, tuyệt đối hoá nhân tố văn hoá hay tuyệt đối hoá nhân tố kinh tế đều là sai

lầm. Xu hướng chung hiện nay là đi tìm sự tương tác giữa nhân tố văn hoá và nhân tố kinh

tế trong quá trình phát triển. Đối với văn hoá giải trí hiện nay cũng như vậy.

Trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường, hoạt động giải trí cần được nhìn

nhận như một hoạt động kinh tế có tính văn hoá cao. Quy luật kinh tế tác động một

cách trực tiếp, cụ thể và là động lực cơ bản (bên cạnh động lực văn hoá) để phát triển

các hoạt động giải trí và đáp ứng nhu cầu giải trí của xã hội.

Hoạt động giải trí phải hướng tới phục vụ công chúng một cách tốt nhất. Điều này phản

ánh bản chất chung của kinh tế thị trường. Thực chất của hoạt động kinh doanh trong

lĩnh vực giải trí là giải quyết mối quan hệ giữa ba nhân tố hợp thành quan hệ thị trường.

Đó là các doanh nghiệp - công chúng - và các đối tác cạnh tranh. Đảng và Nhà nước ta

đã xác định trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, các thành phần

kinh tế khác nhau đều tự do, bình đẳng cạnh tranh trong khuôn khổ tôn trọng luật pháp

và đạo lý dân tộc. Điều này làm thay đổi nhận thức cũ của thời kỳ bao cấp trước đây là

Nhà nước làm văn hoá cho nhân dân hưởng, Nhà nước đầu tư về cơ sở vật chất kỹ

thuật, đầu tư về nội dung, chỉ đạo nhất quán theo bộ máy của nhà nước lập ra và nhu

cầu của nhân dân phụ thuộc vào sự “mở” hay "đóng” của Nhà nước. Từ đó dẫn đến tâm

lý chờ đợi, ỷ lại và thụ động của nhân dân trong hoạt động văn hoá, trong đó có lĩnh

vực giải trí. Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, tham gia vào hoạt động kinh doanh

trong lĩnh vực vui chơi giải trí có rất nhiều các thành phần kinh tế khác nhau, trong đó

có cả các nhà đầu tư nước ngoài. Các chủ thể này luôn tìm cách để khai thác nhu cầu và

đáp ứng nhu cầu giải trí của xã hội theo nguyên tắc của thị trường. Nguyên tắc chung

của thị truờng là bình đẳng, công khai. Bản chất chung của thị trường là hoạt động

hướng tới phục vụ khách hàng tốt nhất trên cơ sở cạnh tranh quyết liệt. Đây được coi là

triết lý sơ đẳng nhất, đơn giản nhất, cốt lõi nhất và cũng là cơ bản nhất của kinh tế thị

trường. Như vậy, các hoạt động vui chơi giải trí do Nhà nước lập ra hay là do các thành

phần kinh tế, các tổ chức chính trị tạo nên thì cũng phải chuyển sang thực hiện theo quy

luật chung này. Vấn đề xây dựng thị trường văn hoá giải trí ở nước ta trước hết là phải

làm cho các chủ thể, ở các thành phần khác nhau hoạt động theo quy luật của kinh tế thị

trường. Cưỡng lại quy luật này sẽ dẫn đến sự nhiễu loạn của thị trường. Tất nhiên, ở

đây cũng cần phân biệt có hai loại phục vụ giải trí: Loại hoạt động mang tính lợi nhuận

và loại hoạt động phi lợi nhuận. Loaị hoạt động phi lợi nhuận thường do các cơ quan

văn hoá của nhà nước, các tổ chức kinh tế - xã hội đứng ra tổ chức nhằm phục vụ

những mục tiêu về chính trị, văn hoá, xã hội khác nhau. Vì vậy không nên đồng nhất

hoá các loại hoạt động này mà cần có sự phân biệt chính xác để có những chính sách

phù hợp thúc đẩy sự phát triển việc xây dựng môi trường văn hoá giải trí công cộng.

Kinh tế thị trường là một nền kinh tế mở, mọi chủ thể đều bình đẳng và chủ động

kinh doanh tất những gì mà Nhà nước và luật pháp không cấm. Nó khác nền kinh tế kế

hoạch hoá tập trung, quan liêu trước đây ở chỗ không chờ đợi khách hàng có nhu cầu mới

sản xuất để đáp ứng mà ngược lại, nó chủ động kích thích, khai thác các nhu cầu mới của

khách hàng để bán hàng, tạo nên sự cạnh tranh gay gắt.

Vì vậy, các hoạt động vui chơi giải trí của xã hội trong nền kinh tế thị trường thường

luôn luôn năng động, đổi mới, tạo ra các hình thức vui chơi giải trí mới lạ, hấp dẫn đối với

công chúng. Tiến công là triết lý kinh doanh nói chung và là triết lý kinh doanh trong lĩnh

vực vui chơi giải trí nói riêng.

Như vậy, thừa nhận có thị trường văn hoá giải trí, chúng ta phải vận dụng sáng tạo

phương pháp quản lý kinh tế đối với lĩnh vực hoạt động giải trí, điều tiết các hoạt động

kinh tế theo đòn bẩy kinh tế, dựa trên cơ sở các hướng ưu tiên và các hướng không khuyến

khích thông qua chế độ thuế và các hàng rào kinh tế khác. Đồng thời, chúng ta không thể

để cho hoạt động kinh tế lôi kéo các hoạt động giải trí trượt ra ngoài đường ray của pháp

luật. Mặt khác, cũng không nên áp đặt mô hình quản lý kinh tế một cách cứng nhắc vào

lĩnh vực hoạt động vui chơi giải trí làm mất tính đặc thù của các hoạt động giải trí. Kinh tế

thị trường là nơi thử thách đối với các hoạt động giải trí, có thể có cơ hội và điều kiện phát

triển mạnh mẽ tích cực hơn, đóng góp nhiều hơn vào phát triển vật chất và tinh thần của xã

hội. Ngược lại có thể là nơi bùng phát các mặt trái của xã hội, làm tha hoá nhân cách, đạo

đức của xã hội. ở đây, cần tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, sao

cho có thể vừa khai thác có hiệu quả các nguồn lực để phát triển các hoạt động vui chơi

giải trí, vừa góp phần đáp ứng nhu cầu tinh thần của nhân dân.

Chương 2

Thực trạng văn hóa giải trí ở thành phố Hải Phòng trong thời kỳ đổi mới hiện nay

2.1. Khái quát về sự phát triển kinh tế - xã hội và văn hoá ở thành phố Hải

Phòng trong thời kỳ đổi mới

2.1.1. Sự phát triền kinh tế, văn hoá - xã hội của thành phố Hải Phòng trong thời

kỳ đổi mới

Thành phố Hải Phòng trong thời kỳ đổi mới đã và đang từng bước thay đổi theo

hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Hiện nay thành phố Hải Phòng có diện tích là 1.507,6km2, dân số 1.723.500 người; trong đó nam 855.700 người (49,6%0), nữ 867.800

người (50,4%), dân số thành thị 588.900 người (34,2%), dân số nông thôn 1.134.600 người

(65,8%), số dân làm nông nghiệp 926.300 người (53,7%), số dân làm các ngành nghề khác

797.200 người (46,3%).

Trong những năm qua, thành phố Hải Phòng đã phát huy tốt tiềm năng, lợi thế và nội

lực. Kinh tế thành phố tăng trưởng liên tục với tốc độ cao, năm sau cao hơn năm trước và luôn

tăng gấp 1,5 lần so với mức tăng chung của cả nước. Năm 2000 tốc độ tăng GDP của thành

phố là 9,1% (cả nước 6,79%), năm 2001 là 10,38% (cả nước 6,89%), năm 2002 là 10,65 (cả

nước 7,08), năm 2003 là 10,71% (cả nước 7,34), năm 2004 là 11,39% (cả nước 7,69) và năm

2005 là 12,25%. Đây là năm GDP của thành phố đạt mức cao nhất từ trước tới nay [36,

tr.110].

Trong 5 năm (2001 - 2005) tốc độ tăng GDP hàng năm đạt bình quân chung 11,1%.

Nhóm nông lâm thuỷ sản tăng 5,1% (mục tiêu kế hoạch tăng 5,0%). Nhóm công nghiệp

xây dựng tăng 13,5% (mục tiêu kế hoạch tăng 14,4%); Nhóm dịch vụ tăng trên 11,0%

(mục tiêu kế hoạch tăng 10,0%), góp phần quan trọng trong việc chuyển dịch cơ cấu

kinh tế thành phố theo hướng công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp.

Kết quả tăng trưởng kinh tế đã làm cho thu nhập bình quân đầu người tăng khá. Năm 2000

mới đạt 641,5 USD/người thì đến năm 2004 đã đạt 927,0 USD/người và năm 2005 đạt 1.070

USD/người - vượt chỉ tiêu kế hoạch 5 năm 2001 - 2005 do Đại hội Đảng bộ thành phố XII đề ra

(950 - 1.000 USD/người) [36, tr.110].

Trong những năm qua, thực hiện Nghị quyết TW 5 (khoá VIII). Kết luận Hội nghị

TW10 (khoá IX) về xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc

dân tộc, thực hiện Nghị quyết 9 của Thành uỷ (khoá XI) về phát triển văn hoá, Hải Phòng

đã đạt được nhiều kết quả về xây dựng văn hoá, con người. Đời sống văn hoá được chăm

lo xây dựng và đạt kết quả rõ rệt trong tổ chức thực hiện nếp sống văn hoá, xây dựng các

thiết chế văn hoá cơ sở như: Làng văn hoá, nhà văn hoá, điểm bưu điện văn hoá xã, thư

viện, khu dân cư văn hoá, cụm văn hoá thể thao CNVC, LĐ, cơ quan văn hoá, gia đình văn

hoá... Phong trào " Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá" ở Hải Phòng qua 5 năm

thực hiện (2000 - 2005) đã ngày càng được mở rộng và phát triển nhanh chóng, thực sự đi

vào cuộc sống và trở thành cuộc vận động quần chúng rộng lớn, góp phần xây dựng môi

trường văn hoá lành mạnh, nâng cao dân trí, làm cho đời sống vật chất và tinh thần của

nhân dân từng bước được nâng cao. Đến năm 2005, toàn thành phố đã có 672/761 làng và

100% khu dân cư tổ chức lễ phát động xây dựng làng, khu dân cư văn hoá, 71% cơ quan

doanh nghiệp đăng ký xây dựng cơ quan văn hoá và hàng trăm đơn vị, cơ quan, doanh

nghiệp, trường học đạt tiêu chuẩn cơ quan, đơn vị văn hoá từ cấp quận cho đến cấp thành

phố. Đã có 316.056/414.696 hộ đăng ký xây dựng gia đình văn hoá, trong đó có 263.725

hộ được công nhận gia đình văn hoá cấp quận, huyện, thị xã, 225 gia đình được công nhận

gia đình văn hoá cấp thành phố, 149 điểm bưu điện văn hoá xã. Trên địa bàn thành phố có

197 đội văn nghệ cơ sở, 281 câu lạc bộ gia đình văn hoá, 13 đội thông tin lưu động, 19

cụm văn hoá thể thao công nhân lao động với sự tham gia của trên 300 đơn vị thành viên

và hàng chục nghìn công nhân, viên chức, lao động tham gia vào các hoạt động văn hoá

văn nghệ, tập luyện thể dục thể thao, 100% xã có nhà văn hoá. Phong trào văn hoá văn

nghệ cơ sở ngày càng phát triển. Hàng năm, các cuộc liên hoan văn nghệ quần chúng được

tổ chức ở cấp quận, huyện, thị xã và cứ 2 năm một lần tổ chức liên hoan văn nghệ cấp

thành phố, khơi dậy và phát triển mạnh mẽ các hoạt động văn hoá, văn nghệ ở cơ sở. Một

số lễ hội truyền thống được tổ chức, quản lý đúng quy chế như: Hội làng, Hội chọi trâu,

Hội hát đúm, Hội đua thuyền, thả đèn trời, Múa Rồng, Múa Tứ linh, Múa Kỳ lân...có tác

dụng tốt trong việc giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc. 100% các làng, khu dân cư văn hoá đã

xây dựng các quy ước cụ thể nhằm ngăn chặn, đẩy lùi các tệ nạn xã hội, các văn hoá phẩm

đồi truỵ, đồng thởi đấu tranh ngăn chặn âm mưu " diễn biến hoà bình " của các thế lực thù

địch trên lĩnh vực văn hoá tư tưởng. Việc quan tâm xây dựng môi trường văn hoá đã tạo

điều kiện để đông đảo nhân dân hưởng thụ và tham gia sáng tạo văn hoá - văn nghệ, là cơ

sở để phát triển toàn diện con người. Mục tiêu cao nhất của phát triển văn hoá là xây dựng

con người Hải Phòng có đầy đủ những đức tính nêu trong nghị quyết TW 5 (khoá VIII) và

Nghị quyết 9 Thành uỷ (khoá XI); biết trân trọng, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, phát

huy cao độ truyền thống " trung dũng - quyết thắng", năng động, sáng tạo, khắc phục khó

khăn, tự tin trong lao động, công tác, có tác phong công nghiệp, văn minh, lịch thiệp, có

trình độ văn hoá và nghề nghiệp cao, có lòng tự tôn, tự hào về truyền thống, vị thế thành

phố, bản lĩnh, phẩm chất của người Hải Phòng.

Văn học - nghệ thuật Hải Phòng những năm qua đã gặt hái được nhiều kết quả mới.

Nghị quyết TW 5 (khoá VIII) của Đảng vừa tạo môi trường tự do sáng tác, vừa định hướng

cho các hoạt động sáng tác của đội ngũ văn nghệ sỹ của thành phố. Văn học - nghệ thuật

Hải Phòng đã phản ánh được nhịp sống sôi động của thành phố, ca ngợi, tôn vinh các giá

trị tốt đẹp, phê phán những thói hư, tật xấu, đấu tranh chống tiêu cực xã hội, góp phần làm

phong phú thêm đời sống văn hoá tinh thần, vui chơi giải trí của nhân dân.

Toàn thành phố hiện nay có 179 di tích lịch sử đã được xếp hạng, trong đó có 96 di

tích xếp hạng cấp quốc gia, 83 di tích cấp thành phố, 137 di tích được tu bổ, tôn tạo. Các di

tích được nhân dân tự nguyện tham gia đóng góp kinh phí để tu bổ, tôn tạo ngày càng

khang trang hơn, nhiều di sản văn hoá vật thể của thành phố được lập kế hoạch bảo vệ, giữ

gìn và phát huy tác dụng như khu mộ cổ ở Thuỷ Nguyên, di tích Cái Bèo ở Cát Bà, Cát

Hải, di tích Việt Khê ở Thuỷ Nguyên, và nhiều ngôi đình, chùa, nhà thờ.. ở các địa bàn

khác.

Văn hoá phi vật thể ở thành phố cũng được giữ gìn và phát huy. Lễ hội chọi trâu Đồ

Sơn là một trong 15 lễ hội lớn cấp quốc gia của ngành du lịch; lễ hội đua thuyền Rồng trên

biển Cát Bà là lễ hội lớn của ngành Thuỷ sản; lễ hội hát Đúm ở Phả Lễ (Thuỷ Nguyên); lễ

hội chạy - vật cầu ở Tân Trào (Kiến Thuỵ); múa rối cạn, rối nước ở Nhân Hoà, Đồng Minh

(Vĩnh Bảo), Hội thi pháo đất, Hội múa tứ linh- rồng - kỳ lân ở huyện Vĩnh Bảo...đã góp

phần giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, bản sắc văn hoá địa phương, tăng thêm tình cảm

cộng đồng làng xóm, đồng thời tăng cường các hoạt động quảng bá du lịch, thu hút khách

du lịch đến tham quan, giải trí và thông qua các hoạt động này tạo việc làm, phát triển

nghề truyền thống, nâng cao hiệu quả kinh tế cho nhân dân địa phương.

Trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo, Hải Phòng có gần 800 trường học từ mầm non đến

đại học với khoảng 20.000 giáo viên và trên 600.000 học sinh, có 62 trường đạt chuẩn

quốc gia và đang phấn đấu có 2 trường đạt chuẩn quốc tế. Trong tổng số 1 triệu 172

nghìn người trong độ tuổi lao động đang làm việc trên địa bàn thành phố có 216 tiến sỹ,

817 thạc sỹ, trên 49 nghìn người có trình độ đại học, cao đẳng, 38 nghìn người có trình

độ trung cấp, trên 75 nghìn công nhân kỹ thuật. Tính bình quân có 2,6 đại học, cao

đẳng /1.000 dân; 22 trung học và 14 công nhân kỹ thuật /1.000 dân. Trong 5 năm (2001

- 2005) hàng năm có khoảng 36 nghìn lượt lao động được tạo việc làm mới [Xem Phụ

lục 1, tr.100 Luận văn].

Sự phát triển kinh tế xã hội của thành phố đã góp phần nâng cao đời sống vật chất và

đời sống tinh thần của nhân dân thành phố. Khảo sát của Cục thống kê Hải Phòng năm

2004 cho thấy mức độ trang bị đồ dùng gia đình trong các hộ dân cư không ngừng tăng

nhanh về số lượng cũng như chất lượng.

Số lượng các vật dụng sinh hoạt được người dân sử dụng đã minh chứng cho mức

sống vật chất, tiêu dùng ngày càng được nâng cao của nhân dân thành phố và thích ứng với

đời sống vật chất được cải thiện là nhu cầu văn hoá tinh thần, trong đó có văn hoá giải trí

của nhân dân thành phố ngày càng cao. [Xem Phụ lục 2, tr.101 luận văn].

2.2. Thực trạng hoạt động văn hoá giải trí ở Hải Phòng

Sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế - xã hội trong những năm đổi mới vừa qua đã tác

động mạnh mẽ tới nhu cầu văn hoá vui chơi giải trí của nhân dân thành phố Hải Phòng. Để

đáp ứng nhu cầu đó của nhân dân, các ngành hữu quan ở thành phố Hải Phòng đã có nhiều

cố gắng trong việc nâng cao chất lượng, hiệu quả các hoạt động văn hoá vui chơi giải trí ở

nhiều loại hình. Từ các loại hình vui chơi giải trí trong gia đình, trong cộng đồng dân cư

cho tới các trung tâm vui chơi giải trí công cộng, các trung tâm văn hoá thể thao, các hoạt

động biểu diễn nghệ thuật, các loại hình giải trí trên sóng phát thanh, truyền hình, báo chí...

2.2.1. Hoạt động văn hoá giải trí qua các thiết chế văn hoá công cộng

2.2.1.1. Bảo tồn, bảo tàng

Bảo tàng Hải Phòng là bảo tàng khảo cứu địa phương ra đời sớm. Việc xây dựng

bảo tàng được chuẩn bị ngay sau ngày giải phóng Hải Phòng (13-5-1955) và chính thức đi

vào hoạt động ngày 20/12/1959.

Gần 50 năm qua, Bảo tàng Hải Phòng không ngừng phấn đấu vươn lên, đóng góp

quan trọng vào việc phục vụ nhiệm vụ chính trị, văn hoá - xã hội của thành phố, giới thiệu

với nhân dân Hải Phòng, nhân dân cả nước và bạn bè quốc tế về truyền thống lịch sử -

cách mạng, truyền thống và bản sắc văn hoá của vùng đất và con người Hải Phòng. Đội

ngũ những người làm công tác bảo tàng cũng như nhân dân thành phố và nhiều nhà khoa

học trong và ngoài nước đã nghiên cứu - sưu tầm, kiểm kê bảo quản, trưng bày tuyên

truyền về vùng đất, khí hậu, đất đai, thổ nhưỡng, các di tích khảo cổ, các di tích lịch sử văn

hoá và cách mạng của thành phố Hải Phòng. Đến nay, Bảo tàng lưu giữ hơn 19 nghìn hiện vật,

trên 154.500 tư liệu, gần 30.000 phim ảnh gồm nhiều giai đoạn lịch sử, chứa đựng nhiều nội

dung phong phú, đa dạng phục vụ tốt công tác trưng bày, nghiên cứu khoa học...

Hoạt động trưng bày, tuyên truyền được duy trì và bổ sung nhiều phương thức mới.

Với 17 phòng trưng bày cố định Bảo tàng giới thiệu một cách khái quát nhất về thiên

nhiên, lịch sử, văn hoá, xã hội của Hải Phòng. Bên cạnh đó, Bảo tàng Hải Phòng còn trưng

bày nhằm giới thiệu với nhân dân một số chuyên đề của Trung ương và tỉnh bạn, giúp

người xem hiểu rõ hơn về truyền thống lịch sử - văn hoá, truyền thống cách mạng của dân

tộc Việt Nam.

Trong những năm gần đây, Bảo tàng Hải Phòng phối hợp với các Bảo tàng ở trung

ương như: Bảo tàng Cách mạng Việt Nam, Bảo tàng Văn hoá các dân tộc Việt Nam, Bảo

tàng Quân đội, Bảo tàng lịch sử Việt Nam thành phố Hồ Chí Minh... trưng bày nhiều

chuyên đề với các bộ sưu tập hiện vật độc đáo, đặc sắc, thu hút nhiều nhà khoa học, đông đảo

quần chúng nhân dân và học sinh đến tham quan, nghiên cứu học tập, đem lại cho người xem

những kiến thức bổ ích.

Những năm qua, lĩnh vực bảo tồn - bảo tàng ở Hải Phòng đã được các cấp uỷ Đảng,

chính quyền và nhân dân quan tâm như: Tăng cường đầu tư, cải tạo, nâng cấp, tái thiết,

quyết định bảo vệ, xếp hạng các di tích - danh lam, thắng cảnh; khảo sát, sưu tầm di sản

văn hoá vật thể và phi vật thể; khai quật khảo cổ...để tìm lại và phát huy sức sống của di

sản văn hoá truyền thống, đồng thời duy trì tốt hoạt động của hệ thống bảo tồn, bảo tàng

góp phần làm phong phú thêm đời sống văn hoá tinh thần của nhân dân thành phố.

Mặc dù số lượng nhà bảo tàng, nhà trưng bày hiện vật lịch sử, văn hoá và các danh lam,

thắng cảnh, di sản văn hoá vật thể và phi vật thể ở Hải Phòng không nhiều, nhưng số liệu khách

tham quan ở các địa điểm này hàng năm không nhỏ. Điều đó cho thấy hệ thống bảo tồn, bảo tàng

ở đây đã góp phần đáp ứng nhu cầu tinh thần, giải trí tích cực của nhân dân thành phố [Xem Phụ

lục 3, tr.102 luận văn].

2.2.1.2. Thư viện

Hệ thống thư viện trên địa bàn Hải Phòng bao gồm: 1 thư viện Khoa học Tổng hợp

thành phố (mới xây dựng với trị giá 23 tỷ đồng); 13 thư viện chuyên ngành, 13 thư viện

quận, huyện, thị xã và trên 130 phòng đọc, tủ sách cơ sở ... Hệ thống này hiện nay đang

thu hút đông đảo cán bộ, công chức, học sinh, sinh viên và người dân thành phố tới học

tập, nghiên cứu.

Hệ thống thư viện Hải Phòng những năm qua đã góp phần quan trọng trong việc nâng

cao trình độ dân trí, phục vụ nhu cầu học tập, nghiên cứu của học sinh, sinh viên và nhu

cầu giải trí của các tầng lớp nhân dân, góp phần thúc đẩy quá trình giao lưu, hội nhập và

tiếp thu tinh hoa nền tri thức của nhân loại.

Mặc dù hàng năm số phòng đọc, tủ sách cơ sở tăng nhanh, sách được bổ sung với số

lượng lớn, cùng với số lượt bạn đọc đến thư viện ngày càng tăng, nhưng lĩnh vực hoạt

động thư viện còn có những hạn chế như điều kiện vật chất, cơ sở hạ tầng, chất lượng phục

vụ của các thư viện cơ sở còn thấp. Sách nghiên cứu, sách chuyên môn còn ít. Việc tra cứu

tại các thư viện vẫn còn theo cung cách cũ nên việc tiếp cận với nguồn tư liệu còn khó

khăn, tốn thời gian và hiệu quả thấp. Dự án xây dựng thư viện điện tử, nối mạng các thư

viện với nhau vẫn chưa thực hiện được. Mặt khác, các phương tiện nghe, nhìn đang chiếm

ưu thế nên việc đọc sách tại các thư viện vẫn chưa là hoạt động phổ biến của người dân, kể

cả đối tượng là học sinh, sinh viên [Xem Phụ lục 4, tr.103 luận văn].

2.2.1.3. Các thiết chế văn hoá cơ sở

Những năm qua, hệ thống thiết chế văn hoá các cấp thuộc ngành văn hoá thông tin

Hải Phòng ngày càng ổn định và phát triển. Thành phố đã xây dựng một Trung tâm văn

hoá cấp thành phố, 13 Trung tâm văn hoá thông tin quận, huyện, thị xã, 169 nhà văn hoá

xã, phường, thị trấn (đạt 78% tổng số xã phường trên địa bàn thành phố), 669 trung tâm

văn hoá làng, 1203 làng văn hoá, khu dân cư văn hoá cùng hàng nghìn CLB, đội văn nghệ.

Hệ thống thiết chế này đã đáp ứng cơ bản nhu cầu sinh hoạt giải trí, sáng tạo và hưởng thụ

văn hoá của nhân dân.

Hải Phòng là đơn vị đầu tiên trên toàn quốc có hệ thống nhà văn hoá ba cấp (thành

phố, quận, huyện, thị xã - thị trấn) và đang triển khai tích cực việc xây dựng các trung tâm

văn hoá xã, nhà văn hoá làng. Toàn thành phố hiện có 4 nhà văn hoá cấp thành phố: Trung tâm

Văn hoá thành phố, Cung Văn hoá lao động hữu nghị Việt Tiệp, Cung Văn hoá Thanh niên,

Nhà Văn hoá Thiếu nhi. Ngoài ra còn có các nhà văn hoá hoặc trung tâm văn hoá - thể thao

quận, huyện, thị xã.

Hải Phòng hiện có 128 câu lạc bộ văn nghệ quần chúng sinh hoạt trong các nhà văn

hoá từ thành phố đến quận, huyện thị xã. Đây là những hạt nhân nòng cốt tích cực thúc đẩy

phong trào văn hoá văn nghệ quần chúng. Không chỉ về mặt số lượng mà chất lượng và bề

sâu hoạt động của các câu lạc bộ văn nghệ quần chúng cũng được nâng cao, góp phần thúc

đẩy hoạt động văn hoá văn nghệ cơ sở ở Hải Phòng. Hoạt động các câu lạc bộ sở thích tại

các Cung văn hoá, nhà văn hoá, trung tâm văn hoá từ thành phố đến các quận, huyện, thị

xã, cho đến các xã, phường, thị trấn đã lôi cuốn, thu hút sự tham gia đông đảo của các tầng

lớp nhân dân tham gia sinh hoạt vui chơi giải trí tại các câu lạc bộ này vào thời gian rỗi.

Có thể thấy một số đơn vị tiêu biểu như:

- Cung văn hoá Lao động hữu nghị Việt Tiệp do Liên đoàn Lao động thành phố Hải

Phòng quản lý là công trình được xây dựng và hoàn thành vào tháng 12/1979 theo ký kết

hợp tác về văn hoá giữa Tổng Công đoàn Việt Nam (nay là Tổng LĐLĐ Việt Nam) và

Tổng Công hội nước Cộng hoà XHCN Tiệp Khắc (nay là Cộng hoà Séc và Cộng hoà

Xlôvakia). Sau 17 năm hoạt động, Cung Văn hoá LĐHN Việt Tiệp đã thực sự trở thành

Trung tâm văn hoá - thể thao của Công nhân viên chức, lao động và nhân dân thành phố

Hải Phòng.

Hiện nay, Cung Văn hoá LĐHN Việt Tiệp có 28 câu lạc bộ sở thích, trong đó có 14 câu

lạc bộ loại hình văn hoá nghệ thuật với gần 1.200 hội viên, 14 câu lạc bộ thể dục thể thao với

trên 500 hội viên [Xem Phụ lục 5, tr.104 luận văn].

- Trung tâm Văn hoá thuộc Sở Văn hoá Thông tin, ngoài chức năng, nhiệm vụ tổ

chức, hướng dẫn nghiệp vụ thông tin cơ sở, tổ chức các hội diễn, liên hoan văn hoá

nghệ thuật trên địa bàn thành phố, còn là nơi quy tụ các câu lạc bộ sở thích trong lĩnh

vực văn hoá nghệ thuật. Câu lạc bộ thơ: có 79 hội viên, ngoài việc duy trì chế độ sinh

hoạt thường xuyên, định kỳ hàng tháng với nhiều nội dung phong phú, như: bình thơ,

ngâm thơ, giao lưu với các câu lạc bộ thơ khác và tổ chức các chương trình ca nhạc dân

tộc... Nhiều hội viên CLB thường xuyên có bài cho tập san "Hướng dẫn nghiệp vụ văn

hoá thông tin". Năm 2005 CLB đã cho ra mắt tập thơ "Tình biển" chào xuân mới và

chào mừng 60 năm ngày thành lập nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Câu lạc

bộ Hán Nôm, trong năm 2005 đã viết gần 300 bức thư pháp các loại tham gia trưng bày

tại Trung tâm triển lãm thành phố, Đình An Biên và Trung tâm Dịch thuật thành phố.

Nhân dịp kỷ niệm 50 năm giải phóng Hải Phòng (13/5/1955 - 13/5/2005) các Hội viên

CLB đã phục vụ trên 200 lượt khách xin chữ. Trong tháng 10/2005, CLB đã trưng bày

30 bức thư pháp và viết trên 300 bức tặng và giao lưu với khách tại Trung tâm Hội chợ

và Triển lãm quốc tế Hải Phòng. Câu lạc bộ Du lịch sinh thái, năm 2005 đã khai thác

được nhiều tuyến du lịch sinh thái mới như: Cầu Bính, kho lương Thuỷ Nguyên, Núi

Thiên Văn Kiến An, ngoài ra CLB còn tổ chức 5 chuyến du lịch cho 122 hội viên tham

quan những danh lam thắng cảnh của miền Bắc như: Nhà thờ Đá - Phát Diệm, Chùa

Yên Tử, thăm quan Lạng Sơn. Câu lạc bộ sân khấu, là một CLB mới thành lập song

hoạt động khá hiệu quả. Vừa qua, CLB đã dàn dựng vở kịch nói "Hạt giống đỏ" chào

mừng Đại hội Đảng bộ các cấp và Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ XIII. Vở đã công

diễn 14 buổi, thu hút trên 4000 lượt người xem và để lại ấn tượng tốt trong lòng khán giả.

Câu lạc bộ ca nhạc Biển nhớ, được thành lập cách đây gần 10 năm, là nơi tập hợp nhiều

giọng hát hay, từng nổi danh trong phong trào ca hát chuyên nghiệp và không chuyên của

thành phố. Hàng năm CLB thường xuyên cho các hội viên duy trì đều đặn sinh hoạt mỗi

tháng 4 kỳ với nhiều nội dung phong phú, trau dồi nghiệp vụ, luyện tập thanh nhạc, gặp

gỡ, giao lưu ca hát với các CLB bạn và tham gia nhiều hoạt động văn nghệ thành phố hoặc

Trung tâm văn hoá tổ chức. Năm 2005 CLB ca nhạc Biển nhớ tham gia hầu hết các

chương trình văn nghệ kỷ niệm các ngày lễ lớn của thành phố, đồng thời dàn dựng và biểu

diễn chương trình ca nhạc " Người Hải Phòng hát về Hải Phòng" được công chúng yêu

thích đánh giá cao, CLB còn tổ chức 23 buổi biểu diễn tại Trung tâm Văn hoá và các đơn

vị trong, ngoài thành phố.

Có thể nói các thiết chế văn hoá cơ sở và các câu lạc bộ sở thích ở thành phố Hải

Phòng đã hoạt động năng động, sáng tạo với nhiều nội dung đa dạng, phong phú, lôi cuốn

đông đảo mọi tầng lớp nhân dân ở mọi lứa tuổi, mọi diện nghề nghiệp tham gia sinh hoạt,

sáng tạo và hưởng thụ văn hoá. Hải Phòng còn có 669 trung tâm văn hoá làng. Các trung

tâm này đã có nhiều hình thức hoạt động văn hoá khá sôi nổi nhằm đáp ứng nhu cầu vui

chơi giải trí của người dân.

Chúng ta biết rằng làng là một không gian địa lý, một hình thức tổ chức cộng đồng

đặc trưng của cộng đồng dân tộc Việt Nam. Văn hoá làng được sản sinh, phát triển và

được lưu giữ, bảo tồn qua thế hệ. Văn hoá lễ hội, văn hoá dân gian của làng là nét văn hoá

đặc trưng của cộng đồng dân cư vùng đồng bằng sông Hồng nói chung, Hải Phòng nói

riêng. Trong nhiều năm qua, nhân dân đã đóng góp công sức, tiền của để xây dựng cơ sở

vật chất cho các hoạt động văn hoá làng. Hiện nay các huyện ngoại thành có 439 trung tâm

văn hoá làng (nhà văn hoá làng) được tổ chức hoạt động tốt. Các hoạt động của nhà văn

hoá làng đã đáp ứng nhu cầu sinh hoạt và hưởng thụ văn hoá của nhân dân, phù hợp với

trình độ dân trí, tâm lý và khả năng của người dân trong làng. Những hoạt động văn hoá ở

thôn làng được thực hiện dưới hình thức:

+ Tổ chức biểu diễn, giao lưu văn nghệ quần chúng.

+ Tổ chức hội họp và sinh hoạt các đoàn thể, câu lạc bộ, tuyên truyền chủ trương, chính

sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước, các quy định của địa phương.

+ Xây dựng làng văn hoá, gia đình văn hoá, những vấn đề liên quan tới thực hiện

hương ước, quản lý làng và sinh hoạt cộng đồng làng.

+ Các hoạt động văn hoá, TDTT, vui chơi giải trí...

Việc xây dựng và tổ chức thiết chế trung tâm văn hoá làng đã thúc đẩy công tác xã

hội hoá văn hoá ở cơ sở, huy động được khả năng đóng góp của cộng đồng dân cư và các

tổ chức xã hội. Tuy vậy, cơ sở vật chất của các trung tâm văn hoá làng vẫn còn ở quy mô

nhỏ, trang thiết bị chuyên dùng (trang âm, ánh sáng, phông màn...) còn lạc hậu, thiếu thốn dẫn

đến nội dung hoạt động còn nghèo nàn, sơ sài, chất lượng hạn chế, do đó chưa thu hút được

đông đảo người dân

Trước yêu cầu mới của sự phát triển ở nông thôn cần phải củng cố và hoàn thiện tổ

chức thiết chế văn hoá làng, thiết chế văn hoá xã, trong đó mở rộng, hoàn thiện cơ sở vật

chất, trang thiết bị chuyên dùng, khu vui chơi giải trí, phòng đọc sách báo, hệ thống truyền

thanh và cảnh quan môi trường, thu hút đông đảo hơn quần chúng tham gia hoạt động văn

hoá, văn nghệ trong phạm vi làng [Xem Phụ lục 6, tr.105 luận văn].

2.2.1.4. Hoạt động thể dục thể thao

Hải Phòng là một trung tâm TDTT lớn của cả nước. Hải Phòng có nhiều tiềm năng và lợi

thế để phát triển TDTT và triển khai chủ trương xã hội hoá TDTT.

Hải Phòng hiện có 2155 Câu lạc bộ TDTT cơ sở tập luyện, thi đấu 35 môn thể thao

trong đó CLB thuộc hình thức công lập chiếm 24% (khoảng 1690 CLB). Việc ban hành

Nghị định 73/1999/NĐ - CP của Chính phủ đã góp phần quan trọng vào việc hình thành

các cơ sở TDTT ngoài công lập do người dân và các tổ chức xã hội tự xây dựng, không

những đáp ứng được nhu cầu tập luyện TDTT nâng cao sức khoẻ mà còn góp phần đáp

ứng nhu cầu văn hoá, giải trí lành mạnh của người dân thông qua các hoạt động TDTT.

Với phương châm đa dạng hoá các loại hình hoạt động TDTT, hàng năm ngành

TDTT ký liên tịch với các ngành như Công an, Quân đội, Sở Giáo dục - Đào tạo, Sở Văn

hoá Thông tin, Sở Thương mại, Sở Tài chính, Cục Thuế, Sở Điện lực... với các đoàn thể

như như Mặt trận Tổ quốc, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liện hiệp Phụ

nữ, Hội Nông dân, Liên đoàn Lao động, Hội Cựu chiến binh...và các cơ quan tuyên truyền

như Đài Phát thanh và Truyền hình, Báo Hải Phòng, Báo An ninh Hải Phòng nhằm đẩy

mạnh các hoạt động TDTT đến mọi đối tượng bằng nhiều hình thức phong phú, hấp dẫn

nhằm thu hút ngày càng đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia.

Bên cạnh việc tổ chức các hoạt động văn hoá, văn nghệ TDTT thường xuyên cho

CNVC, LĐ trong các đơn vị trên địa bàn thành phố, Liên đoàn Lao động Hải Phòng còn

xây dựng, tổ chức và duy trì hoạt động của 19 cụm Văn hoá Thể thao CNLĐ, thu hút trên

350 cơ quan, đơn vị, lực lượng vũ trang, phường, xã, trường học...với hàng chục nghìn

công nhân, viên chức, lao động tham gia tập luyện môn thể thao mà mình yêu thích. Trung

bình hàng năm mỗi cụm tổ chức từ 10 - 15 đợt thi đấu thể thao. Hàng năm đã huy động

được hàng nghìn ngày công lao động để xây dựng sân bãi, cơ sở vật chất cho hoạt động thể

thao và hàng tỷ đồng ngoài nguồn ngân sách của nhà nước để tổ chức các hoạt động giao

lưu, thi đấu TDTT, nhất là Ngày hội các Cụm Văn hoá Thể thao CNVC, LĐ thành phố

được tổ chức định kỳ vào dịp kỷ niệm ngày giải phóng miền Nam 30/4 và ngày Quốc tế

Lao động 1/5. Mô hình này ở Hải Phòng đã được Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Bộ

Văn hoá Thông tin, Uỷ ban TDTT đánh giá cao. Do có sự đa dạng hoá các loại hình tổ chức

TDTT với nhiều hình thức vận động nên những năm qua số người tập luyện TDTT ở Hải

Phòng ngày một tăng lên, số môn TDTT ngày càng nhiều hơn.

Có thể khẳng định rằng thành phố Hải Phòng là một trong những trung tâm thể thao

lớn nhất của cả nước. Sự nghiệp TDTT của thành phố phát triển ổn định, vững chắc, sâu,

rộng, thu hút đông đảo mọi tầng lớp nhân dân vào các hoạt động thể thao quần chúng. Các

hoạt động TDTT đa dạng, phong phú đã đáp ứng nhu cầu nâng cao sức khoẻ, và hưởng thụ

thể thao, nhu cầu văn hoá giải trí của nhân dân thành phố [Xem Phụ lục 7, tr.106 luận văn].

2.2.2. Hoạt động văn hoá giải trí qua các phương tiện thông tin đại chúng

Hoạt động của các phương tiện thông tin đại chúng là một phần của đời sống văn hoá

xã hội hiện đại. Ngoài các chức năng cơ bản như: Chức năng tư tưởng, chức năng giám

sát, quản lý xã hội và chức năng văn hoá, các phương tiện thông tin đại chúng còn có một

chức năng quan trọng là chức năng giải trí.

Các phương tiện thông tin đại chúng thực hiện chức năng giải trí bằng nhiều hình

thức và mức độ khác nhau, tuỳ theo từng đặc điểm của từng loại hình phương tiện. Sự đa

dạng về loại hình phương tiện cho phép người dân ngày càng có nhiều điều kiện để lựa

chọn cách giải trí. Trong điều kiện sống hiện nay, và trước sự bùng nổ của các phương tiện

thông tin đại chúng, người ta có thể thoả mãn nhu cầu giải trí của mình qua các phương

tịên thông tin đại chúng như đọc sách báo, xem truyền hình, nghe đài phát thanh, nghe các

loại băng đĩa âm thanh...Hoạt động giải trí của người dân thành phố Hải Phòng trong

những năm qua đã được đáp ứng bởi các phương tiện thông tin đại chúng của thành phố.

2.2.2.1. Về báo in

Thành phố Hải phòng có 5 cơ quan báo in do địa phương quản lý, gồm: Báo Hải

Phòng, Báo An ninh Hải Phòng, Tạp chí Sinh hoạt Chi bộ, Tạp chí Cửa Biển, Tạp chí

Khoa học và Kinh tế. Trên địa bàn thành phố Hải Phòng còn có cơ quan thường trú của các

báo chí trung ương như: Báo Nhân dân, Phân xã TTXVN, Báo Lao động, Thanh niên, Tiền

Phong, Thời báo Kinh tế...; có các văn phòng đại diện hoặc địa chỉ liên lạc của báo: Công

an nhân dân, Diễn đàn Doanh nghiệp, Nhà báo và Công luận, Lao động - xã hội, Đại đoàn

kết...Hải Phòng còn có các tờ báo của lực lượng vũ trang, như: Báo Hải quân Việt Nam,

Tạp chí Hải quân, Báo Quân khu Ba... Ngoài ra còn có nhiều tờ Đặc san, Bản tin nội bộ,

Thông tin chuyên ngành... của các cơ quan, đơn vị như Uỷ ban Dân số Gia đình và Trẻ em,

Sở Y tế, Sở Văn hoá Thông tin, Sở Khoa học Công nghệ... xuất bản theo giấy phép định kỳ

hoặc nhất thời do Bộ Văn hoá Thông tin hoặc Sở Văn hoá Thông tin cấp. Như vậy, lực

lượng báo in trên địa bàn thành phố khá đông đảo, hùng hậu, đủ mọi loại hình. Trong quá

trình xây dựng và trưởng thành, báo chí Hải Phòng đã từng bước nâng cao chất lượng,

không ngừng cải tiến cả về nội dung và hình thức, góp phần đắc lực vào sự nghiệp xây

dựng, phát triển thành phố, trở thành người bạn tin cậy và thân thiết của các tầng lớp nhân

dân. Hàng ngày, nhân dân thành phố được tiếp cận với hơn 400 loại báo, tạp chí (gồm các

tờ báo, tạp chí Trung ương, thành phố Hải Phòng và một số địa phương trong nước) với

lượng phát hành khoảng 10 triệu bản/năm.

Những năm qua, hoạt động báo chí của Hải Phòng đã tập trung tuyên truyền đường

lối, chủ trương, chính sách pháp luật của Đảng, Nhà nước và thành phố, tuyên truyền giáo

dục truyền thống lịch sử, truyền thống cách mạng và phổ biến kiến thức cho quảng đại

nhân dân. Báo chí Hải Phòng đã góp phần tích cực vào việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế

nâng cao đời sống tinh thần cho nhân dân. Để đáp ứng yêu cầu giải trí của người dân thành

phố Báo Hải Phòng đã tổ chức các chuyên trang, chuyên mục về văn hoá - văn nghệ, văn

học - nghệ thuật, tình hình chính trị, kinh tế, văn hoá - xã hội trong và ngoài nước, về

TDTT, vui chơi giải trí. Đặc biệt, Báo Hải Phòng đã phát hành ấn phẩm Hải Phòng cuối

tuần được in ấn với hình thức đẹp, trong đó luôn dành từ 60 - 80% nội dung cho các thông

tin giải trí đa dạng, phong phú và hấp dẫn [Xem Phụ lục 8, tr.107 luận văn].

2.2.2.2. Về phát thanh - truyền hình

Hệ thống Phát thanh và Truyền hình Hải Phòng gồm Đài Phát thanh - Truyền hình

thành phố và 07 trạm chuyển tiếp truyền hình, hệ thống truyền hình cáp, 11 đài phát thanh

huyện và 216 đài truyền thanh xã, phường. Hệ thống này đã phát và chuyển tiếp các

chương trình phát thanh - truyền hình của trung ương, của thành phố Hải Phòng và một số

địa phương khác, góp phần tích cực trong việc tuyên truyền các chủ trương, chính sách,

nâng cao dân trí và đáp ứng các nhu cầu giải trí cho mọi người dân. Đài Phát thanh và

Truyền hình thành phố đã tăng thời lượng phát thanh đạt 13h/ngày, thời lượng phát sóng

truyền hình 13h/ngày, riêng thứ 7 và chủ nhật là 18h/ngày và tiếp sóng các chương trình

của Đài tiếng nói Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam (VTV1, VTV2, VTV3) trên kênh

10 VHF và UHF.

Hệ thống thiết bị thu tín hiệu truyền hình bằng vệ tinh TVRO thu chương trình trong

nước phục vụ nhân dân vùng sâu, vừng xa, hải đảo. Các đài phát thanh quận, huyện, thị xã

được trang bị máy phát sóng FM, phòng cách âm và thiết bị sản xuất chương trình. Đài

truyền thanh các xã, phường, thị trấn được nâng cấp, một số được đầu tư hệ thống truyền

thanh không dây, bảo đảm cho việc chuyển tải tín hiệu và bảo vệ an toàn hệ thống truyền

thanh của địa phương. Đài Phát thanh và Truyền hình Hải Phòng trong những năm qua đã

bám sát các định hướng tuyên truyền theo trọng tâm, trọng điểm của nhiệm vụ chính trị,

kinh tế, văn hoá xã hội của thành phố tập trung tuyên truyền đường lối, chủ trương, chính

sách của Đảng, pháp luật của nhà nước. Chương trình thời sự với thời lượng 40 phút/ngày

những năm 2000 trở về trước nay đã tăng lên 90 phút/ngày với những tin tức cập nhật,

phong phú, kịp thời, bám sát những vấn đề thời sự nóng hổi của cuộc sống [Xem Phụ lục

9, tr.108 luận văn].

Trong việc đáp ứng yêu cầu giải trí của người dân thì sự xuất hiện của những kênh

truyền hình, chương trình phát thanh, truyền hình có tính chất giải trí là một điểm mới

trong hoạt động của hệ thống thông tin đại chúng ở thành phố Hải Phòng nói riêng, ở nước

ta nói chung.

Những năm 1990 của thế kỷ XX các kênh truyền hình HTV 7 (Đài truyền hình thành

phố Hồ Chí Minh), kênh VTV3 (Đài Truyền hình Việt Nam) đã ra đời, đó là những kênh

thường được coi là các kênh giải trí. Thực ra đó mới chỉ là lấy giải trí làm "điểm nhấn" chứ

chưa phải là những kênh chuyên biệt giải trí. Chỉ tới gần đây mới xuất hiện những kênh

chuyên biệt giải trí thật sự. Đầu tiên với Truyền hình cáp Việt Nam (VCTV), sau đó là

Truyền hình cáp Sài Gòn (SCTV), Truyền hình cáp Hà Nội (HCTV). Các kênh truyền hình

loại này phát sóng từ 10 - 24/h/ngày, chiếu phim truyện Việt Nam và nước ngoài, phim

hiện đại và cổ điển, phim lẻ và phim nhiều tập, ngoài ra còn có các chương trình ca nhạc,

tạp kỹ, thể thao và giải trí cho khán giả...

Các sân chơi trên truyền hình cũng ngày càng trở thành một hoạt động giải trí hấp

dẫn của công chúng. Để đáp ứng nhu cầu giải trí của công chúng, trên truyền hình đã xuất

hiện xu hướng "trò chơi hoá". Nhiều chương trình truyền hình trên Đài Truyền hình Việt

Nam, Đài Truyền hình Hải Phòng... có xu hướng " Showgame" hoá, tức là biến thành các

trò chơi. Đây là một xu hướng hiện đại của truyền hình thế giới, bởi lẽ trong thời đại công

nghệ thông tin ngày nay, khán giả ngày càng ít thời gian, và chỉ có cái gì thật hấp dẫn thì

mới lôi cuốn được họ. Những năm trước đây, khi "Trò chơi liên tỉnh" và "SV 96" xuất hiện

trên màn ảnh VTV3 thì sức lôi cuốn của truyền hình cũng trở nên sống động, hấp dẫn hơn.

Cho đến thời điểm này cũng đã có tới hàng chục trò chơi trên VTV. Lĩnh vực Âm nhạc có

"Thế kỷ âm nhạc"," Trò chơi âm nhạc", "Làng vui chơi, Làng ca hát", lĩnh vực Điện ảnh

có "Trò chơi điện ảnh"... rồi "ở nhà chủ nhật", "Câu lạc bộ người yêu thơ", "Đường lên

đỉnh Olympia", "Gặp nhau cuối tuần", "Chiếc nón kỳ diệu", "Ai là Ai", "Ai là triệu

phú"..Riêng thiếu nhi có "Vườn cổ tích", "Những đứa trẻ tinh nghịch", "Ông mặt trời

thông thái"... Với các trò chơi này, việc phổ biến kiến thức lịch sử, văn hoá, nghệ thuật trở

nên khéo léo hơn, dễ vào lòng khán giả hơn. Từ Hành trình văn hoá với tri thức văn hoá

các nước, cho đến "Đường lên đỉnh Olympia" là kiến thức tổng hợp về tự nhiên, xã

hội...Hoặc như chương trình "Thế kỷ âm nhạc"," Trò chơi âm nhạc" đang thu hút một số

lượng lớn khán giả ngồi ở trường quay và trước máy thu hình. Kiến thức âm nhạc được bổ

túc cho khá nhiều người từ các dòng nhạc, tác giả, tác phẩm ở nhiều thời kỳ khác nhau,

nhiều dân tộc, quốc gia khác nhau...cho đến thuộc và hát tương đối đúng nhạc một số bài

hát quen thuộc... Hiện nay có một số chương trình trò chơi giải trí như: "Ai là triệu phú" và "

Hãy chọn giá đúng" đang thu hút sự tham gia của đông đảo công chúng trong và ngoài trường

quay...Trong thời gian qua, truyền hình Hải Phòng đã xây dựng một số chương trình trò chơi

giải trí như "Sắc màu Hoa phượng", "Con tàu may mắn", "Siêu thị Sao"...đã tạo được những

tiếng vang nhất định. Đặc biệt, trong dịp Tết Bính Tuất vừa qua, khán giả thành phố Cảng đã

được xem một chương trình trò chơi mới của Đài Truyền hình Hải Phòng- đó là trò chơi

"Con đường chinh phục". Đây là trò chơi mới rất hấp dẫn về phần sân khấu, ánh sáng, âm

thanh, đạo cụ...Tổng số tiền đầu tư lên tới 5 tỷ đồng, với ý tưởng lớn là người xem Truyền

hình Hải Phòng không phải là 1,9 triệu dân mà có thể là 19 triệu dân. Nhắm tới mục đích mở

rộng trò chơi tới nhiều tỉnh trong cả nước, Đài truyền hình Hải Phòng bắt tay với 10 đài truyền

hình của các địa phương kết nối phát sóng "Con đường chinh phục" trong cùng một thời điểm,

đồng thời các đội chơi cũng sẽ được tuyển lựa xa hơn: có các thành viên của Quảng Ninh, Hải

Dương, Bắc Giang, Bắc Ninh, Thái Bình...Theo kế hoạch, "Con đường chinh phục" sẽ là một

sân chơi di động ra các tỉnh lân cận để người xem cảm thấy đây là một sân chơi dành cho

nhiều người chứ không riêng gì Hải Phòng.

Luật chơi như sau: Mỗi cuộc thi có 2 đội chơi. Phần thi thử sức bằng cơ bắp để lựa

chọn nước đi trước. Phần thi khám phá là những câu hỏi tổng hợp. Mỗi đội sẽ chơi trò xúc

sắc để tiến nhanh về đích. Trên dọc hành trình, có nhiều điều bất ngờ nằm trong các nước

đi: Cướp biển, cứu nạn, kho báu...Có 2 cơ hội để giành được số điểm cao: Chinh phục Đảo

giấu vàng và Đảo Kim Cương, Giải thưởng cho mỗi đội tuỳ theo số điểm mà mỗi đội

giành được.

Có thể nói, một mục tiêu quan trọng của các "trò chơi truyền hình" là tính giải trí -

thư giãn. Mục đích này được thể hiện rất cao. Nó làm người ta quên đi những mệt nhọc

của công việc vất vả hàng ngày, góp phần tái tạo sức lao động.

2.2.3. Hoạt động văn hoá giải trí qua các dịch vụ văn hoá nghệ thuật (Biểu diễn

nghệ thuật, Điện ảnh, Băng, đĩa hình, Karaoke...)

2.2.3.1. Hoạt động biểu diễn nghệ thuật

Hải Phòng hiện có 5 đoàn nghệ thuật chuyên nghiệp thụ hưởng ngân sách nhà nước

gồm: đoàn Ca múa, đoàn Kịch nói, đoàn Cải lương, đoàn Chèo và đoàn Múa rối. Thực

hiện Nghị định 73/NĐ - CP của chính phủ về xã hội hoá văn hoá và Quyết định số

47/2004/BVHTT của Bộ trưởng Bộ VHTT ban hành kèm theo Quy chế hoạt động biểu

diễn và tổ chức biểu diễn nghệ thuật chuyên nghiệp đã có thêm 2 đơn vị nghệ thuật tự

trang trải thuộc Trung tâm biểu diễn nghệ thuật, 03 công ty TNHH có chức năng hoạt động

tổ chức biểu diễn nghệ thuật theo Luật Doanh nghiệp.

Mặc dù với kinh phí hạn hẹp, cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật chưa đáp ứng

yêu cầu, lực lượng diễn viên trẻ còn hạn chế về chuyên môn, nhưng nhìn chung các đoàn

nghệ thuật ở Hải Phòng đã đảm bảo kế hoạch biểu diễn được giao. Các đoàn đã có những

chương trình biểu diễn nghệ thuật có chất lượng chuyên môn cao, những tiết mục, vở diễn

để lại nhiều dư âm trong lòng công chúng Hải Phòng. Đoàn Kịch nói Hải Phòng có một số

vở diễn tiêu biểu như: "Con cáo và chùm nho", "Âm mưu và tình yêu", "Dòng sông ám

ảnh", "Lịch sử và nhân chứng", "Sống trong im lặng" hay "Vụ án 2000 ngày"... đã có dư

âm tốt trong lòng công chúng yêu nghệ thuật kịch nói. Đoàn Ca múa Hải Phòng có những

tiết mục, vở diễn tiêu biểu, như: Vở ca kịch "Tình yêu và danh dự ", Vở ca kịch "Yêu

trước Phật đài", Chương trình ca múa nhạc dân tộc " Sân đình làng biển", Chương trình ca

múa nhạc "Thương lắm Miền Trung ơi" ...để lại những tiếng vang lớn. Đoàn múa Rối Hải

Phòng có: Vở "Vua Hùng kén rể", Vở "Huyền thoại hoạ my", Tiết mục "Ngày hội tuổi

thơ", Chương trình "Bàn tay - Con Rối - Cuộc đời"... Đoàn Cải lương Hải Phòng có

một số vở diễn tiêu biểu, như Vở "Kêu cứu"; Vở " Hòn Đất", Vở "Tiếng gọi"; Vở "Sau

bức màn nhung"; ' Đôi dòng sữa mẹ"; " Người mẹ lưu đày"; " Lôi Vũ"; " Loài hoa không

tên",; " Người khơi nguồn xuân"; " Nữ tướng Lê Chân"... Đoàn Chèo Hải Phòng có các vở

diễn tiêu biểu như: "Suý Vân giả dại", "Quan Âm Thị Kính", "Tấm Cám"; "Chiếc nón Bài

Thơ"; "Người con gái sông Cấm"; "Lam Sơn tụ nghĩa"; "Tấm vóc đại hồng"; "Ni cô Đàm

Vân"; "Cây tre trăm đốt"; "Công chúa Tô Lan"; "Ông vua hoá hổ"; "Nỗi đau tình Mẹ"; "

Biển khổ"; " Lời sấm truyền từ quán Trung Tân"; "Lưu Bình - Dương Lễ".

Các đoàn nghệ thuật của Hải Phòng còn tham gia nhiều chương trình lớn phục vụ

nhiệm vụ chính trị, đặc biệt là các chương trình: "Hải Phòng rực sáng biển Đông ", " Hải

Phòng 50 mùa phượng đỏ " có tính sử thi nhân dịp kỷ niệm 50 năm ngày giải phóng Hải

Phòng (13/5/1955 - 13/5/2005).

Nhìn chung, các đoàn nghệ thuật thành phố Hải Phòng đã vượt lên khó khăn thử thách,

tích cực tổ chức biểu diễn từ trung tâm thành phố đến các vùng nông thôn, từ nơi tập trung đông

dân cư đến các vùng sâu, vùng xa góp phần đáp ứng nhu cầu văn hoá giải trí của công chúng Hải

Phòng [Xem Phụ lục10, tr.109 luận văn].

2.2.3.2. Hoạt động điện ảnh

Điện ảnh ra đời, tồn tại và phát triển gắn liền với những tiến bộ của khoa học, kỹ

thuật và công nghệ. Đứng ở góc nhìn hoạt động văn hoá thì điện ảnh là một phần của diện

mạo văn hoá đương đại. Điện ảnh Việt Nam nói chung và điện ảnh Hải Phòng nói riêng

luôn được coi là một loại hình nghệ thuật quan trọng trong văn hoá giải trí.

Những năm gần đây, hoạt động điện ảnh ở Hải Phòng có bước phát triển mới trên cả

ba mặt: buổi chiếu, lượt người xem và doanh thu. Điện ảnh Hải Phòng đứng thứ 3 cả nước,

sau Điện ảnh Hà Nội và điện ảnh thành phố Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, điện ảnh Hải Phòng

vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của các tầng lớp nhân dân và tương xứng với tầm vóc một

đô thị lớn của quốc gia.

Hoạt động chiếu phim của Hải Phòng chủ yếu chỉ có hệ thống các rạp chiếu phim

trong khu vực nội thành và 2 đội chiếu bóng lưu động. Hiện nay, tại khu vực nội thành, các

rạp chiếu phim có số buổi chiếu từ 350 đến 400 buổi/tháng với lượt người xem từ 15.000 -

25.000 lượt/người/tháng (chưa đạt được con số 01 người xem phim 01 lần/năm). ở ngoại

thành 2 đội chiếu bóng lưu động hoạt động 12 buổi/tháng (124 buổi/năm) - một con số quá

thấp so với số dân của thành phố Hải Phòng có tới 55% dân cư sống ở vùng nông thôn và

hải đảo). Nếu Hải Phòng có 800 thôn và lấy thôn làm đơn vị tổ chức buổi chiếu thì hoạt

động của 2 đội liên tục trong 1 năm (mỗi ngày 1 buổi x 02 đội x 365 ngày = 730 buổi) thì

phải hơn 1 năm người dân của 1 thôn mới được xem 2 bộ phim. Trong những năm qua,

Trung tâm phát hành phim và chiếu bóng thành phố đã có nhiều cố gắng duy trì, tổ chức

các hoạt động chiếu phim cho nhân dân ở khu vực ngoại thành, vùng nông thôn và hải đảo.

Hoạt động chiếu phim ở Hải Phòng dù còn nhiều hạn chế nhưng đã góp phần tích cực

vào việc nâng cao dân trí, đáp ứng nhu cầu giải trí của nhân dân thành phố [Xem Phụ lục

11, tr.110 luận văn].

2.2.3.1. Hoạt động dịch vụ băng đĩa hình

Dịch vụ văn hoá góp phần làm phong phú đời sống văn hoá của mỗi cá nhân và cộng

đồng. Nó vừa đóng vai trò xã hội hoá các sáng tạo văn hoá của cá nhân, cung ứng các sản

phẩm văn hoá nhằm thoả mãn các nhu cầu văn hoá giải trí và hưởng thụ văn hoá, bồi

dưỡng và nâng cao thị hiếu thẩm mỹ của công chúng. Nói tóm lại, hoạt động dịch vụ văn

hoá nhằm thoả mãn những nhu cầu tinh thần của nhân dân.

Từ khi Đảng và Nhà nước ta tiến hành công cuộc đổi mới đến nay, đời sống kinh tế,

văn hoá, xã hội có nhiều biến chuyển. Mức sống của nhân dân được cải thiện và nâng cao

hơn. Nhu cầu hưởng thụ văn hoá của người dân gia tăng, nhiều loại hình hoạt động văn

hoá và dịch vụ văn hoá mới xuất hiện và được nhân rộng trên cả nước như hoạt động kinh

doanh phim, kinh doanh băng đĩa nhạc, băng đĩa hình, hoạt động karaoke... Các cửa hàng

cho thuê băng đĩa, quán karaoke ... đua nhau mọc lên cả ở khu vực thành thị và nông thôn

Hải Phòng. Có thể nói, chưa bao giờ đời sống văn hoá, đặc biệt là các hoạt động dịch vụ

văn hoá lại diễn ra sôi động như hiện nay.

Băng đĩa hình, băng đĩa nhạc nói riêng và các loại văn hoá phẩm nói chung là một

loại hàng hoá đặc biệt, bởi giá trị sử dụng của nó tác động sâu sắc đến tư tưởng, đạo đức,

tình cảm, lối sống của con người trong cộng động xã hội và thuần phong mỹ tục của dân

tộc. Thời gian trước đây, nếu như băng cassette, đĩa nhạc chiếm đa phần trong thị trường

băng đĩa thì ngày nay thị trường đó được bổ sung thêm nhiều loại băng đĩa: Băng video,

đĩa CD, đĩa VCD, đĩa DVD... và các loại băng đĩa đó đã trở thành một thứ hàng hoá thông

dụng trong đời sống sinh hoạt của các tầng lớp nhân dân.

Đáp ứng nhu cầu thưởng thức văn hoá tại gia đình của công chúng, các hãng, trung

tâm sản xuất, các công ty, các nhà xuất bản âm nhạc đã cung cấp cho thị trường nhiều

chương trình băng đĩa mới. Những cửa hàng kinh doanh mua bán và cho thuê băng đĩa

hình cũng không ngừng gia tăng đóng vai trò cầu nối trung gian giữa các hãng và người

tiêu dùng.

Theo khảo sát của Cục Thống kê Hải Phòng năm 2004 thì cứ 100 hộ dân thì có

49,14 % số hộ có đầu video. Như vậy số hộ dân Hải Phòng sở hữu và sử dụng đầu video,

đầu đĩa hình với số lượng không nhỏ, Theo số liệu của Sở Văn hoá Thông tin Hải Phòng,

hiện nay trên địa bàn thành phố có khoảng gần 110 cửa hàng, điểm bán và cho thuê băng

hình, buôn bán đĩa CD, VCD và DVD đã được Sở VHTT cấp giấy phép. Hệ thống các của

hàng nói trên đã đáp ứng nhu cầu giải trí rất lớn của người dân thành phố.

Tuy nhiên, ở thành phố Hải Phòng, tình trạng vi phạm về kinh doanh băng, đĩa khá

nghiêm trọng, tuy chưa hình thành những " chợ " kinh doanh băng đĩa bất hợp pháp, nhưng

nhiều nơi, việc vi phạm bản quyền trong in sao băng, đĩa, chứa chấp, tiêu thụ băng đĩa có

nội dung không lành mạnh còn diễn ra khá phổ biến. Hầu như bất cứ nhu cầu nào của

khách về các loại băng, đĩa đều được đáp ứng khá dễ dàng, từ những chương trình ca nhạc

trong nước và hải ngoại tới các phim ảnh, kể cả phim sex, phim bạo lực...

Với số lượng các cửa hàng băng hình khá nhiều như hiện nay, việc kinh doanh

băng, đĩa gặp nhiều khó khăn về doanh thu. Vì thế, để hấp dẫn khách hàng và kiếm lời,

ngoài việc kinh doanh những băng đĩa được cấp phép "dán tem", nhiều cửa hàng còn kinh

doanh băng đĩa bất hợp pháp. Sở dĩ khách hàng thường tìm đến loại sản phẩm này bởi vì

giá cả của chúng rất rẻ, 01 đĩa CD, VCD của Trung Quốc giá chỉ 6.000- 7.000đ. Trong khi

đó, giá băng,đĩa hợp pháp luôn cao gấp 3 - 5 lần.

Có thể nói, tình hình kinh doanh băng đĩa hiện nay đang diễn biến phức tạp, đòi hỏi

các nhà quản lý văn hoá phải có đối sách thích hợp để có thể giải quyết một cách có hiệu

quả những vấn đề mà thực tế đặt ra.

2.2.3.2. Các hoạt động dịch vụ văn hoá khác

Các hoạt động dịch vụ văn hoá công cộng được hình thành và phát triển như một đòi

hỏi tất yếu của xã hội. Đặc biệt ở các đô thị, hoạt động văn hoá nơi công cộng được coi

như một bộ phận cấu thành của đời sống đô thị.

Bản thân các hoạt động văn hoá nơi công cộng rất phong phú, đa dạng về hình thức:

Từ biểu diễn nghệ thuật, chiếu phim, băng hình, khiêu vũ, hát karaoke đến các hình thức

vui chơi giải trí khác.

Việc đẩy mạnh phát triển các hoạt động dịch vụ giải trí nơi công cộng vừa đáp ứng

nhu cầu tinh thần của nhân dân, vừa đem lại lợi nhuận cho các nhà kinh doanh. Tuy nhiên,

trong vài năm trở lại đây, bên cạnh những thành tựu về mọi mặt của đời sống kinh tế - xã

hội, thành phố Hải Phòng phải đối mặt với mặt trái của nền kinh tế thị trường. Một số tiêu

cực nảy sinh tại các điểm dịch vụ văn hoá khiến nhiều người lo ngại, đặc biệt là tại các vũ

trường, quán karaoke và điểm massage. Các tụ điểm sinh hoạt văn hoá này có lúc, có nơi

bị biến dạng, trở thành nơi chứa chấp những hành vi phản văn hoá và tệ nạn xã hội: mại

dâm, ma tuý và các chất gây nghiện khác...

Cần khẳng định rằng các hoạt động văn hoá công cộng vốn dĩ lành mạnh. Chúng ra

đời nhằm thoả mãn nhu cầu văn hoá tinh thần của con người, giúp con người cân bằng tâm

lý, sức khoẻ. Chẳng hạn, hoạt động khiêu vũ được xem như những hoạt động văn hoá hết

sức phổ biến ở các nước, nhất là các nước khu vực Châu Âu, châu Mỹ, châu Phi...Còn ở

Việt Nam, do điều kiện lịch sử, văn hoá... các vũ điệu chủ yếu được du nhập ở nước ngoài

và được một bộ phận công chúng hưởng ứng nhiệt tình. Vì vậy, vũ trường là địa điểm chủ

yếu để người ta có thể tham gia một loại hình nghệ thuật mà họ ưa thích, mặc dù tại những

buổi sinh hoạt có tính chất tập thể, cộng đồng, hoạt động khiêu vũ còn tương đối xa lạ đối

với mọi người dân.

Tương tự như vậy, karaoke ra đời từ Nhật Bản (với nghĩa là hát theo nhạc), Hát

karaoke được xem như là một phát minh trong lĩnh vực giải trí bằng âm thanh, vừa có tính

chất thư giãn, vừa nâng cao khả năng âm nhạc của những người tham dự. Karaoke được du

nhập và phổ biến ở Việt Nam vào những năm 90 thế kỷ trước và được duy trì khá mạnh

mẽ cho đến ngày nay...Gần đây, các quán caphê Internet, của hàng kinh doanh Internet

mọc lên cũng nhằm đáp ứng nhu cầu sử dụng thành tựu kỹ thuật hiện đại để tiếp cận thông

tin toàn cầu một cách nhanh chóng.

Tuy nhiên, những tiêu cực nảy sinh từ các vũ trường, quán karaoke hay quán caphê

Intenet..., có một phần do trình độ quản lý yếu kém của các cơ quan chức năng trong việc

quản lý hoạt động kinh doanh các loại hình này. Để giảm thiểu những tiêu cực nảy sinh

trong hoạt động của các dịch vụ văn hoá nói trên, Nhà nước và ngành Văn hoá thông tin đã

ban hành nhiều văn bản pháp lý. Nghị định 87CP của Chính phủ năm 1995 đã yêu cầu các

đơn vị, tổ chức, cá nhân khi kinh doanh dịch vụ văn hoá nơi công cộng (vũ trường,

karaoke) phải tuân thủ. Gần đây, ngày 25/5/2005, Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị

số 17/2005/CT - TTg nhằm chấn chỉnh các hoạt động tiêu cực trong quán bar, nhà hàng

karaoke, vũ trường. Chỉ thị yêu cầu tạm ngừng việc cấp mới Giấy chứng nhận đăng ký

kinh doanh quán bar, nhà hàng karaoke, vũ trường trên phạm vi cả nước để các cấp, các

ngành tiến hành rà soát, đánh giá tình hình hoạt động của các cơ sở hiện có, từ đó xây

dựng quy hoạch và tăng cường các biện pháp quản lý các loại hình dịch vụ này...

Để thực hiện Chỉ thị 17/2005/CT - TTg các ban ngành chức năng của thành phố đã

tăng cường kiểm tra các hoạt động dịch vụ giải trí công cộng, kiên quyết xử lý vi phạm của

các quán bar, vũ trường, phòng hát karaoke.... [Xem Phụ lục 12, tr.111 luận văn].

Nhìn chung, xu hướng "thương mại hoá" các dịch vụ văn hoá đã gây ra những tác

động tiêu cực, ảnh hưởng không nhỏ tới các hoạt động văn hoá vui chơi giải trí ở thành

phố Hải Phòng. Cần thấy rằng, dịch vụ văn hoá vui chơi giải trí phải thực hiện một chức

năng kép, vừa mang lại hiệu ích kinh tế, vừa mang lại hiệu ích xã hội. Nhưng trong bối

cảnh kinh tế thị trường, những chủ thể tham gia kinh doanh trong lĩnh vực này thường quá

xem trọng hiệu ích kinh tế, ít quan tâm đến hiệu ích xã hội. Bởi vậy, các tiêu cực xã hội len

lỏi trong các dịch vụ văn hoá. Đây là một vấn đề cần được sớm xử lý thoả đáng.

2.2.4. Hoạt động sinh hoạt văn hoá truyền thống

Lễ hội là một dạng hoạt động văn hoá tổng hợp của cộng đồng, dân tộc, là nhu cầu

văn hoá của một cộng đồng người. Lễ hội là một hình thức hữu hiệu để phổ cập những giá

trị văn hoá dân tộc, lưu truyền những phong tục, tập quán tốt đẹp của dân tộc hay địa

phương. Chỉ trong tâm thế hội, mỗi người mới có dịp thăng hoa bay bổng những phẩm

chất, tài năng tốt đẹp của mình, mới có dịp hoà nhập vào cái chung trong ngày hội để tạo

thành niềm vui chung, sức mạnh chung và thuần phong mỹ tục chung của một làng quê,

một phố phường trong ngày hội.

Các hội làng, các ngày hội cổ truyền ở các di tích lịch sử và văn hoá nước ta còn là

nơi giáo dục một cách nhẹ nhàng, tế nhị truyền thống yêu nước, yêu quê hương, yêu nghề,

nơi phổ cập, gìn giữ những giá trị văn hoá rèn đúc, ươm mầm những tài năng và khát vọng

cao đẹp cho thế hệ trẻ.

Hải Phòng là một vùng đất “mới” so với các vùng dân cư khác thuộc châu thổ sông

Hồng như Hà Nội, Bắc Ninh, Hà Tây, Hải Dương, Thái Bình. Khi xưa, các vùng đất trên

đã tập hợp thành làng thì Hải Phòng, nơi cuối sông, giáp biển còn là vùng đất hoang đầy sú

vẹt. Bà Lê Chân, một nữ tướng của Hai Bà Trưng đã chiêu mộ trai tráng trong vùng Đông

Triều quê mình vào những năm 40 đầu thế kỷ thứ nhất đến khai hoang, lập ấp xây dựng căn

cứ chống giặc. Sau khi cuộc khởi nghĩa thất bại, trên cơ sở làng ấp ban đầu cư dân các vùng

khác nhau ở Hải Dương, Thái Bình... đã lần lượt di dân đến đây khai hoang, lập ấp, mở rộng

đất đai xây dựng nên làng ngày một trù phú, đông vui. Hương ước của làng Nhân Mục, xã

Nhân Hoà, huyện Vĩnh Bảo có ghi “Làng ta là một trong số ít làng cổ nhất của phủ Hạ Hồng.

Tương truyền cách đây trên 2000 năm, từ một vùng hoang sơ, mênh mông sông nước, người

họ Nguyễn, họ Trần, họ Đoàn sau là họ Vũ từ các nơi xa chọn đất này lần lượt về đây khai sơn

lập địa” [41, tr.2].

Dân cư các vùng quê khác nhau di cư đến vùng đất Hải Phòng đồng thời cũng mang cả

nền văn hoá của làng xưa đến nơi cư trú mới và chính bởi vậy tính đa dạng văn hoá của Hải

Phòng là sự tổng hợp của nền văn hoá nhiều vùng quê trong châu thổ sông Hồng và được phát

triển lên, tạo nên những sắc thái văn hoá rất riêng của vùng đất có điều kiện thiên nhiên, môi

trường sống vùng cửa sóng, cửa gió, nơi ngăn sóng biển, nơi giao lưu đầu tiên với nước ngoài

và cũng là nơi chịu sự xâm lăng đầu tiên của giặc ngoại xâm, để từ đó tạo nên “tính cách” của

người Hải Phòng nói chung, nét văn hoá làng của người Hải Phòng nói riêng.

Bên cạnh cái chung của văn hoá làng truyền thống trong đó bao hàm cả văn hoá lễ

hội và văn hoá dân gian của vùng đồng bằng sông Hồng, lễ hội ở Hải Phòng có những nét

đặc sắc:

Thứ nhất, lễ hội ở Hải Phòng, về cơ bản là các lễ hội của cư dân nông nghiệp với ước

muốn mưa thuận gió hoà, mùa màng tươi tốt, dân khang vật thịnh, còn có lễ hội của ngư

dân- những người đánh cá. Hội chọi trâu Đồ Sơn, chủ yếu là của ngư dân chứ không phải

của những người làm ruộng, hay Hội làng Quần Mục (nay thuộc xã Đại Hợp, huyện Kiến

Thuỵ, Hải Phòng) với hai trò chính là bơi thuyền và đi kheo là của những người đánh cá.

Hội làng Quần Mục thường được tổ chức vào ngày 7 tháng Giêng âm lịch hàng năm.

Thứ hai, lễ hội là do dân, người dân đây chủ yếu là nông dân tổ chức nên. Thông

thường hàng năm, từ nhu cầu cuộc sống, nhu cầu tâm linh và phong tục, tập quán mà

người dân (nông dân, ngư dân) tổ chức lễ hội. Tuy nhiên, lễ hội có thể được tổ chức với

quy mô khác nhau ở từng năm, tuỳ thuộc vào việc làm ăn của người dân trong vùng.

Thứ ba, lễ hội của Hải Phòng còn mang sắc thái riêng, độc đáo, ít nơi hoặc thậm chí

không nơi nào có, như Hội chọi trâu Đồ Sơn. Theo truyền thuyết dân gian lễ hội chọi trâu

Đồ Sơn là để làm vui lòng thần - Thành hoàng làng - là Thuỷ thần, nhưng thần hiện tại là

thần Điểm tước (vết chân chim). Người Đồ Sơn tổ chức hội chọi trâu vào tháng Tám âm

lịch, là lúc vụ cá Nam vừa kết thúc và chuẩn bị vụ cá Bắc.

Thứ tư, lễ hội của Hải Phòng còn mang tính chất biểu tượng. Có thể coi trò diễn "

Thuỷ chiến cửa đình", Ngô Quyền đánh quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng, nhằm diễn lại

chiến công đánh giặc của ông cha ta trên vùng sông nước, là một ví dụ. Người ta làm thuyền

chiến bằng cách ghép những thân cây chuối thành từng bè. Trên các bè có treo rèm, kết.

ở Hải Phòng, có 3 loại lễ hội truyền thống: Lễ hội mang tính tưởng nhớ; Lễ hội nghề

nghiệp phong tục; Lễ hội du xuân ngoạn cảnh.

- Lễ hội mang tính tưởng nhớ, lễ hội Đền Phú Xá, phường Đông Hải, quận Hải An

thờ Đức thánh Trần Hưng Đạo một danh tướng nổi tiếng thời Trần, người góp phần quan

trọng trong 3 lần đánh thắng quân Nguyên- Mông và Bà Bùi Thị Từ Nhiên, một người đàn

bà của làng đã có công giúp Trần Hưng Đạo trong việc quyên góp, xây dựng kho quân

lương, góp phần không nhỏ làm nên những chiến thắng đó. Lễ hội Đền Trần Quốc Tảng -

một danh tướng thời Trần ở thị trấn Minh Đức, huyện Thuỷ Nguyên...

- Lễ hội nghề nghiệp, phong tục như Lễ hội chọi trâu tổ chức vào ngày 9/8 âm lịch

hàng năm với câu ca đã ghi đậm trong ký ức mỗi người:

"Dù ai buôn đâu bán đâu

Mồng tám tháng sáu chọi trâu thì về

Dù ai buôn bán trăm nghề

Mồng chín tháng tám nhớ về chọi trâu" [41, tr.3]

- Lễ hội du xuân ngoạn cảnh, là lễ hội gắn liền với ngày xuân, mọi người đi lễ Đền,

lễ Chùa và sau đó là du xuân, ngoạn cảnh, thả tâm hồn trong vẻ đẹp của núi sông như lễ

hội chùa Mỹ Cụ, xã Chính Mỹ, huyện Thuỷ Nguyên, lễ hội Núi Voi, huyện An Lão.

Thành phố Hải Phòng hiện nay có 123 nơi tổ chức lễ hội truyền thống. Trong đó: có

109 lễ hội mang tính tưởng nhớ; 12 lễ hội nghề nghiệp phong tục; 2 lễ hội du xuân ngoạn

cảnh.

ở Hải Phòng, hầu hết các tháng trong năm đều có các ngày hội, lễ hội được tổ chức

trên nhiều địa bàn thành phố. Tháng Giêng có tới 25 hội và lễ hội; Tháng Hai có 21 hội

và lễ hội; Tháng Ba có 17 hội và lễ hội; Tháng Tư có 05 lễ hội (đặc biệt là Lễ hội đua

thuyền Rồng trên biển - Lễ hội làng cá); Tháng Sáu có 02 hội; Tháng Tám có 07 hội (đặc

biệt là có Hội Chọi trâu Đồ Sơn - và hội hát Đúm trên sông ở Thuỷ Nguyên); Tháng Chín

có 05 hội và lễ hội; Tháng Mười Một có 02 hội và lễ hội; Tháng Mười Hai có 01 lễ hội.

Nhìn chung các lễ hội trên địa bàn thành phố đã diễn ra lành mạnh và thu hút được

động đảo người dân tham gia. Các giá trị đích thực của lễ hội được phát huy, tạo không khí

phấn khởi trong nhân dân, bảo đảm cho nhân dân quyền tự do tín ngưỡng, quyền được

hưởng thụ các giá trị văn hoá. Những di sản văn hoá vật thể và văn hoá phi vật thể cũng

được quan tâm bảo tồn thông qua các lễ hội truyền thống. Trong thời gian mở hội, công tác

xã hội hoá việc trùng tu, tôn tạo di tích được nhân dân nhiệt tình hưởng ứng.

2.2.5. Hoạt động du lịch

Nói đến Hải Phòng, người ta nghĩ ngay đến 2 địa danh nổi tiếng là Đồ Sơn và Cát

Bà. Trong đó Đồ Sơn là một quần thể du lịch với các điểm du lịch đẹp với bãi tắm I, II, III,

đảo Hòn Dáu, biệt thự Bảo Đại, đền Bà Đế, tháp Tường Long, suối Rồng; các di tích lịch

sử như Bến Nghiêng, Bến tàu không số, các lễ hội nổi tiếng như: Hội xuống nước đầu

năm, Lễ hội chọi Trâu...Bên cạnh Đồ Sơn, Cát Bà cũng là quần thể với nhiều điểm du lịch

nổi tiếng, trong đó Vườn Quốc gia Cát Bà đang được Tổng cục Du lịch đề nghị công nhận

là Khu bảo tồn sinh quyển thế giới. Cát Bà nguyên sơ thuở nào giờ đây đang được đầu tư

phát triển, song vẫn không làm mất đi vẻ đẹp thuần khiết. Cát Bà đang định hình với dáng

vóc của khu du lịch đan xen hài hoà giữa vẻ đẹp thiên tạo và nhân tạo, truyền thống và

hiện đại. Đặc biệt, từ ngày 01- 4 - 2002, tuyến đường xuyên đảo Đình Vũ - Cát Hải - Cát

Bà khánh thành, cùng những chuyến phà tự hành nối Cát Bà với đất liền đã mở ra một

tương lai đầy triển vọng cho phát triển du lịch ở hòn đảo này.

Hải Phòng còn là mảnh đất “thiêng" với nhiều di tích văn hoá, lịch sử. Trong đó,

thuộc huyện Vĩnh Bảo là quần thể di tích tưởng niệm Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm,

Đình Nhân Mục, Miếu Cựu Điện, Đền chùa Thái Bình, làng nghề chạm khắc gỗ thôn Bảo

Hà, múa rối nước, múa rồng, múa rối cạn, múa tứ linh... ở huyện Tiên Lãng là 4000 ha

rừng ngập mặn Vinh Quang... Trở về nội thành, chúng ta sẽ bắt gặp Núi Thiên Văn tại

quận Kiến An; các dấu di tích lịch sử từ thời Bạch Đằng dậy sóng ghi dấu chiến công của

Ngô Quyền đánh quân Nam Hán, Trần Quốc Tuấn đại phá quân Nguyên - Mông, đến

những năm tháng hào hùng chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược ở đia bàn quận

Ngô Quyền.

Trong những năm qua, ngành du lịch Hải Phòng đã lập nhiều dự án đầu tư cải tạo, nâng

cấp và xây dựng hệ thống cơ sở vật chất cho hoạt động du lịch. Từ năm 2001 đến năm 2005

tổng số vốn đầu tư vào du lịch là 1680,43 tỷ đồng.

Thành phố cũng khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư vào các hoạt động kinh

doanh du lịch. Hiện nay, toàn thành phố có trên 200 đơn vị kinh doanh du lịch, khoảng 150

khách sạn (trong đó có trên 50 khách sạn từ 1 đến 4 sao) với 5117 phòng. Ngành Du lịch

Hải Phòng đã tổ chức những "Mùa Du lịch" tại các điểm du lịch lớn, như: Mùa du lịch trên

đảo Cát Bà với chương trình Lễ hội tuổi trẻ Cát Bà, biểu diễn lướt ván, thi thuyền nan, thi

thuyền thúng và các trò chơi dân gian, đua thuyền rồng...Tại Đồ Sơn, việc khôi phục Lễ

hội chọi trâu vào ngày 9/8 âm lịch hàng năm (hiện Lễ hội này đã được Tổng cục Du lịch

Việt Nam chọn là một trong 15 lễ hội quốc gia) đã thu hút hàng vạn du khách trong mỗi

mùa Lễ hội, vào ngày 1/5 hàng năm UBND thành phố tổ chức Khai mạc hè Đồ Sơn với

các hình thức tổ chức đa dạng, phong phú nhằm thu hút khách du lịch về vui chơi, giải trí,

nghỉ dưỡng...tại bãi biển Đồ Sơn. Có thể nói, thời gian qua du lịch Hải Phòng đã có bước

phát triển nhanh chóng. Chỉ tính từ năm 2001 - 2005 tổng số lượt khách tăng bình quân

hàng năm là 18,15%, trong đó khách quốc tế tăng 18,75%. Năm 2005 lượng khách du lịch

đạt 2 triệu 429 nghìn, trong đó khách quốc tế đạt 512 nghìn lượt người. Tổng doanh thu

hàng năm tăng 17,15% trong đó năm 2004 đạt 464 tỷ đồng, năm 2005 đạt 552 tỷ đồng.

Tổng GDP của ngành đạt 3,5% tổng GDP của thành phố và giải quyết việc làm cho

khoảng 27.000 lao động [20, tr 124].

Du lịch Hải Phòng hiện nay đã thu hút khách du lịch tham quan, giải trí theo nhiều

điểm và tuyến du lịch như:

* Các khu du lịch trọng điểm, gồm có:

- Khu du lịch nội thành Hải Phòng, Khu Du lịch Đồ Sơn, Khu du lịch Cát Bà - Cát

Hải.

* Các tuyến du lịch trọng điểm:

- Tuyến du lịch Hải Phòng - Đồ Sơn - Cát Bà - Hạ Long - Hà Nội

- Tuyến du lịch Hải Phòng - Huế - Đà Nẵng - Miền Đông Nam Bộ

- Tuyến du lịch Hà Nội - Hải Phòng - Điện Biên

- Tuyến du lịch Hải Phòng - Thành phố HCM và các tỉnh Miền Tây

- Tuyến du lịch Hải Phòng - Kiến An - An Lão - Tiên Lãng - Vĩnh Bảo (du khảo

đồng quê).

- Tuyến du lịch Hải Phòng - Thuỷ Nguyên.

Có thể nhận thấy trong thời gian qua hoạt động của ngành du lịch Hải Phòng đã có

bước tăng trưởng khá, góp phần tích cực trong sự phát triển chung của thành phố [Xem

Phụ lục 13, tr.112 luận văn].

2.2.6. Hoạt động văn hoá giải trí ở cơ sở có vốn đầu tư nước ngoài

Trong những năm qua thành phố Hải Phòng đã có nhiều chính sách, biện pháp phù

hợp và đã thu được những kết quả rất đáng khích lệ trong việc thu hút đầu tư nước ngoài

trên nhiều lĩnh vực sản xuất, kinh doanh...Tính đến 31/12/2004, số dự án đầu tư trực tiếp

nước ngoài có hiệu lực tại Hải Phòng là 166 dự án của 19 nước với tổng số vốn đăng ký là

1 tỷ 819 triệu USD, trong đó Nhật Bản là nước có số dự án nhiều nhất với 42 dự án và

tổng số vốn đăng ký là 421 triệu USD; Tiếp đến là Đài Loan 16 dự án nhưng lại có tổng số

vốn đăng ký là 544 triệu USD...Các lĩnh vực mà các nhà đầu tư nước ngoài quan tâm đầu

tư là: công nghiệp chế biến, công nghiệp điện nước, thương nghiệp, vận tải kho bãi, kinh

doanh tài sản, dịch vụ tư vấn, giáo dục đào tạo (01 dự án)... về khách sạn, nhà hàng (02 dự

án), văn hoá thể thao, giải trí (03 dự án). Các dự án đầu tư vào lĩnh vực vui chơi giải trí là:

- Casino Đồ Sơn (Công ty Liên doanh Du lịch Quốc tế Hải Phòng) hoạt động theo

giấy phép số 40/GP ngày 6/8/1992 của Uỷ ban Nhà nước về Hợp tác và Đầu tư (Nay là Bộ

Kế hoạch và Đầu tư). Dự án gồm một khu vui chơi giải trí được xây dựng trên diện tích 44

ha tại khu III Đồ Sơn, có một khách sạn 4 sao, Casino phục vụ người nước ngoài và một số

công trình phụ trợ khác. Thời hạn hoạt động là 30 năm. Vốn pháp định 25 triệu Đôla Mỹ,

trong đó bên nước ngoài là Tập đoàn STDM của Macau góp 80%, bên Việt Nam góp 20%

bằng quyền sử dụng đất.

Sau khi hoàn thành xây dựng giai đoạn 1, năm 1995 Công ty bắt đầu đi vào hoạt

động, giải quyết việc làm cho hơn 500 lao động với thu nhập trung bình mỗi người trên

1.000.000 đ/tháng.

Trong quá trình hoạt động, Công ty gặp không ít khó khăn, nhưng từ tháng 5/1997 Công

ty dần đi vào ổn định, kinh doanh phát triển. Hiện nay, Công ty là một trong những doanh

nghiệp có mức nộp ngân sách cao của thành phố Hải Phòng thời kỳ từ năm 2001 đến năm

2005 [Xem Phụ lục 14, tr.113 luận văn].

Từ đầu năm 2004, Công ty bắt đầu triển khai giai đoạn II của Dự án, theo đó sẽ hoàn

thiện và đưa vào hoạt động khách sạn 4 sao, 100 phòng có Casino bên trong, giải quyết

việc làm từ 600 - 700 lao động.

"Quy chế hoạt động CASINO" được xây dựng trên cơ sở những điều khoản quy định

trong các văn bản pháp lý về đầu tư nước ngoài tại Việt Nam; những quy định của Hiệp

hội CASINO quốc tế; những điều khoản ghi trong Điều lệ Công ty Liên doanh, trong giấy

phép đầu tư do Uỷ ban Nhà nước về Hợp tác và Đầu tư cấp và tham khảo quy chế hoạt

động CASINO của STMD (Macau) nhằm phù hợp với yêu cầu thực tế của hoạt động này ở

Việt Nam.

CASINO trực tiếp do các nhân viên chuyên nghiệp được uỷ nhiệm của Công ty

Liên doanh Du lịch Quốc tế Hải Phòng quản lý. Là một ngành hoạt động của Công ty Liên

doanh nên CASINO chịu sự quản lý, giám sát của Uỷ ban Nhà nước về Hợp tác và Đầu tư

(Nay là Bộ Kế hoạch và Đầu tư) và Uỷ ban nhân dân thành phố Hải Phòng.

Hoạt động CASINO được bố trí, tổ chức trong khách sạn Quốc tế đặt trên đồi 72

của khu III Đồ Sơn, Hải Phòng. Giai đoạn thử nghiệm theo như nội dung luận chứng kinh

tế kỹ thuật đã duyệt sẽ được tiến hành tại Câu lạc bộ Quốc tế tại khu III (Đồ Sơn).

Các thể loại bài và hình thức chơi áp dụng trong khu vực CASINO bao gồm: Slot

Machines ; Sever card Poker; Rou Lette; Cussec; Boule; Fantan; Baccarat; Paikau; Black

Jack; Ma Juang paikau; Các bàn chơi và trò chơi điện tử; Keno; 3 King; Bingo; Hold em

Hoạt động của CASINO có thể được tổ chức và điều khiển 24 giờ trong ngày (kể cả

ban ngày và ban đêm).

Đối tượng chơi: là người nước ngoài chỉ cần có hộ chiếu hoặc giấy chứng minh hợp

pháp họ đều được vào CASINO để chơi.

Các hình thức chơi trong CASINO sử dụng thống nhất các loại đồng "chíp", "xèng

"do Công ty Du lịch Liên doanh Quốc tế Hải Phòng đặt làm tại nước ngoài để thay vào

tiền mặt. Giá trị đơn vị của các đồng: chíp:, "xèng "tính theo Đôla Mỹ. Đồng "chíp",

"xèng" chỉ được sử dụng trong CASINO mà không có giá trị trao đổi ngoài CASINO.

Khách vào CASINO đổi tiền của mình ra các đồng "chíp", "xèng" tại các bàn đổi trong

CASINO. Khi kết thúc, khách có thể đổi lại các đồng "chíp", hoặc đồng "xèng" ra tiền

mặt. Khách được phép mang ngoại hối vào Việt Nam dưới dạng tiền mặt, séc, ngân phiếu,

credít card và sử dụng tại CASINO và khi xuất cảnh khách được phép mang số ngoại tệ

chưa sử dụng hoặc số tiền thu được do thắng cuộc tại CASINO ra khỏi Việt Nam khi

có giấy xác nhận của CASINO và đại diện được ngân hàng Nhà nước Việt Nam uỷ quyền.

- Khu đô thị OLIMPIA. Dự án xây dựng Khu đô thị Olympia được Bộ Kế hoạch và

Đầu tư cấp Giấy phép đầu tư số 2484/GP ngày 31/5/2005. Chủ đầu tư của Dự án là Công

ty TNHH Qia Feng (Hồng Công).Đây là Công ty có đủ năng lực tài chính và đội ngũ các

nhà quản lý giàu kinh nghiệm, điều này đã được khẳng định trên cơ sở thành công của

những Dự án cùng loại tại Trung Quốc và một số nước trong khối ASEAN. Mục tiêu hoạt

động của Dự án là xây dựng khu đô thị hiện đại bao gồm các hạng mục hạ tầng cơ sở đô

thị, trung tâm thương mại tổng hợp, các công trình nghỉ dưỡng, vui chơi giải trí, TDTT.....

Vốn đầu tư của Dự án là 85 triệu USD, trong đó vốn pháp định là 25,5 triệu USD,

vốn vay là 59,5 triệu USD, thời gian hoạt động: 50 năm. Số vốn đầu tư sẽ được thực hiện

trong 10 năm. Đối với nguồn vốn vay. Công ty Qia Feng (Hồng Công) đã có biên bản ghi

nhớ với các Ngân hàng Thượng Hải, Hồng Công, VID Public Bank về việc vay vốn thực

hiện Dự án. Diện tích đất sử dụng của Khu đô thị OLYPIA là 64,84 ha tại xã Hải Thành,

huyện Kiến Thụy.

Khi Dự án đi vào khai thác, Công ty sẽ thu hút khoảng 200 lao động người Việt Nam.

Dự án được hoàn thiện sẽ tạo ra một mô hình khu đô thị với các dịch vụ giải trí hoàn chỉnh

đầu tiên tại Hải Phòng sẽ cung cấp cho người dân những sản phẩm hoàn thiện và được

hưởng những dịch vụ vui chơi giải trí tốt nhất, phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế xã hội

của thành phố.

Nhìn chung, hoạt động đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài ở thành phố Hải Phòng

trong lĩnh vực giải trí còn ở mức khiêm tốn, song cũng đã có những bước đi đúng hướng

đầy tiềm năng, nhằm khai thác các lợi thế của thành phố Cảng biển lớn nhất phía Bắc, lại

có các khu du lịch nổi tiếng nằm không xa thủ đô Hà Nội - trung tâm chính trị, kinh tế, văn

hoá của cả nước. Chắc chắn trong một tương lai gần, cùng với những chính sách thông

thoáng thu hút đầu tư cả trong và ngoài nước thành phố sẽ hấp dẫn nhiều hơn nữa các nhà

đầu tư nước ngoài tham gia đầu tư kinh doanh trong nhiều lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực

vui chơi giải trí...

2.3. Đánh giá chung về văn hoá giải trí và công tác quản lý văn hóa giải trí ở

thành phố Hải Phòng

2.3.1. Những ưu điểm và yếu kém trong hoạt động văn hoá giải trí ở thành phố

Hải Phòng

Hải Phòng là địa phương có tốc độ phát triển kinh tế xã hội cao so với các tỉnh, thành

phố trong cả nước. Do vậy các hoạt động văn hoá giải trí cũng được quan tâm phát triển nhằm

đáp ứng nhu cầu văn hoá tinh thần của nhân dân. Cùng với quá trình mở cửa, đẩy mạnh công

nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Hải Phòng

đang từng bước khẳng định vị thế là "...thành phố Cảng công nghiệp hiện đại; đô thị trung tâm

cấp quốc gia...một trong những trung tâm công nghiệp, thương mại lớn của cả nước...".

Điều kiện phát triển kinh tế và đặc điểm dân cư ở thành phố Hải Phòng gắn liền với

truyền thống văn hoá lâu đời là cơ sở để phát triển văn hoá vui chơi giải trí. Các loại hình

văn hoá vui chơi giải trí trong gia đình, trong cộng đồng dân cư, ở các trung tâm vui chơi

giải trí công cộng, ở các trung tâm văn hoá thể thao, các hoạt động biểu diễn nghệ thuật và

các loại hình vui chơi giải trí trên sóng phát thanh, truyền hình, báo chí... đã đáp ứng tốt

hơn nhu cầu văn hoá tinh thần của các tầng lớp nhân dân thành phố.

Tuy nhiên, việc tổ chức, triển khai các hoạt động văn hoá giải trí trên địa bàn thành

phố trong nhiều năm qua cũng còn không ít những yếu kém, bất cập:

- Việc quy hoạch và đầu tư xây dựng các điểm vui chơi, giải trí cho các tầng lớp nhân

dân ở các địa bàn thành phố nói chung còn ở mức thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu của

nhân dân. Một số điểm vui chơi có quy mô quá nhỏ, cơ sở vật chất nghèo nàn, xuống cấp,

không thu hút được đông đảo người dân tham gia, còn thiếu sự phối kết hợp giữa các ban,

ngành, đoàn thể trong việc đầu tư và tổ chức các hoạt động vui chơi, giải trí.

- Nhu cầu vui chơi, giải trí của người dân ở các lứa tuổi rất lớn và đa dạng, nhưng

điều kiện phục vụ như sân bãi, cơ sở vật chất, trang thiết bị…tại các khu dân cư ở nội

thành gặp rất nhiều khó khăn. Thiếu điểm vui chơi, thiếu các loại hình trò chơi, một bộ

phận người dân tự tìm đến các loại hình trò chơi không lành mạnh gây tổn hại tới sức

khoẻ, tới kinh tế, tới việc hoàn thiện nhân cách. Nhiều trẻ em ở vùng sâu, vùng xa, hải đảo

không có điều kiện vui chơi vì phải tham gia lao động cùng gia đình để tăng nguồn lao

động và thu nhập. Một số trò chơi như: trò chơi điện tử, Internet… và các điểm tổ chức

hoạt động vui chơi giải trí có thu tiền đã lôi cuốn một bộ phận người dân, nhất là trẻ em

tham gia làm ảnh hưởng không nhỏ tới việc học tập, sinh hoạt của các em, ảnh hưởng tới

trật tự an toàn xã hội.

- Thành phố còn chậm trong việc quy hoạch và đầu tư xây dựng những công trình vui

chơi giải trí công cộng lớn, trọng điểm nhằm đáp ứng nhu cầu văn hoá tinh thần ngày càng

tăng của nhân dân thành phố trong lĩnh vực vui chơi giải trí; chưa tạo được nhiều điểm hấp

dẫn du khách trong nước và quốc tế đến thăm thành phố.

- Thành phố chưa thu hút được các nhà đầu tư có khả năng đầu tư, xây dựng và khai

thác hiệu quả kinh tế từ những khu vui chơi giải trí lớn mang tầm cỡ vùng, miền, như khu

vui chơi giải trí Tuần Châu (Quảng Ninh), Khu vui chơi giải trí Đầm Sen, Suối Tiên (thành

phố Hồ Chí Minh)...

Hải Phòng có 2 khu du lịch biển, đảo nổi tiếng là Đồ Sơn và Cát Bà có thể lôi cuốn

du khách trong và ngoài nước đến tham quan, du lịch, nghỉ dưỡng, thư giãn, giải trí. Tuy

nhiên, việc thu hút khách du lịch đến nghỉ ngơi, vui chơi giải trí dài ngày cũng còn nhiều

hạn chế. Công tác quy hoạch, tổ chức, điều hành các hoạt động văn hoá du lịch, sự phối

hợp giữa các ngành du lịch, văn hoá còn nhiều hạn chế. Vì vậy chưa thu hút, hấp dẫn được

nhiều nhà đầu tư nước ngoài trong việc tổ chức các hoạt động văn hoá vui chơi giải trí,

tham gia đầu tư xây dựng các tổ hợp văn hoá, thể thao du lịch, khai thác có hiệu quả khía

cạnh kinh tế trong các hoạt động văn hoá giải trí...Đây cũng là những vấn đề thành phố cần

hết sức quan tâm trong chiến lược xây dựng và phát triển kinh tế, xã hội, văn hoá trong

thời gian tới.

- Việc sử dụng đất cho hoạt động TDTT còn thấp. Hải Phòng là một đô thị đất chật

người đông với diện tích 1.519 km2, dân số gần 1,8 triệu người. Do những năm trước đây

không được quan tâm quy hoạch nên đất giành cho TDTT ở Hải Phòng rất thấp. Theo điều

tra quy hoạch của ngành TDTT năm 1997 đất bình quân cho TDTT ở Hải Phòng có

0,8m2/người. Khu vực nội thành chỉ đạt 0,34 m2/người. Sau 5 năm thực hiện chủ trương

xã hội hoá tỉ lệ đất giành cho hoạt động TDTT đã được nâng lên, đến cuối năm 2003 đạt

1,6 m2/ người. Tuy nhiên, đây vẫn là con số rất thấp so với yêu cầu của Chỉ thị 274/TTg

của Thủ tướng Chính phủ phải đạt từ 1- 4m2/người.

- Kinh phí dành cho hoạt động của ngành Văn hoá - Thông tin thành phố còn ở mức

thấp do vậy hoạt động văn hoá giải trí ở thành phố gặp nhiều khó khăn [Xem Phụ lục 15,

Phụ lục 16. tr.114, 115 luận văn].

2.3.2. Công tác quản lý văn hoá vui chơi giải trí ở Hải Phòng thời gian qua

2.3.2.1. Các chủ thể quản lý hoạt động văn hoá giải trí ở thành phố Hải Phòng

Hiện nay trên địa bàn thành phố Hải Phòng có các chủ thể quản lý các hoạt động

văn hóa giải trí với các nội dung cụ thể là:

TT Nội dung Cơ quan quản lý

1 Các hoạt động vui chơi, giải trí tại - Sở văn hoá thông tin, Sở Thể dục

nhà văn hoá, các trung tâm văn hoá - Thể thao và một số tổ chức Chính

thể thao, Cung văn hoá trị- XH

- Sở du lịch, Sở Văn hoá Thông tin 2 Các hoạt động giải trí trong các khu

vui chơi giải trí công cộng - Sở Thương mại

- Công đoàn 3 Các hoạt động vui chơi, giải trí trong

cơ quan, xí nghiệp - Đoàn thanh niên

- Mặt trận tổ quốc, Hội Phụ nữ. 4 Các hoạt động vui chơi giải trí trong

các câu lạc bộ - Sở Văn hoá TT, Công đoàn

Đài Phát thanh và Truyền hình 5 Các hoạt động vui chơi, giải trí trên

truyền hình

- Sở Văn hoá Thông tin, Sở Du lịch 6 Các hoạt động vui chơi, giải trí trong

các lễ hội

7 Các hoạt động giải trí trong các dịch - Doanh nghiệp nhà nước, tập thể, tư

vụ giải trí (Cửa hàng băng hình, nhân

karaoke, quán bar, vũ trường, của - Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở thương

hàng Intenet...) mại, Sở Văn hoá Thông tin

8 Các hoạt động vui chơi giải trí ở vườn - Sở Giao thông công chính, Sở Văn

hoa, công viên hoá Thông tin

Như vậy, chủ thể quản lý hoạt động văn hóa giải trí ở thành phố Hải Phòng rất đa

dạng. Đây là điều kiện thuận lợi để tăng cường quản lý nhà nước về văn hóa giải trí, không

"bỏ sót", "bỏ lọt" các hoạt động văn hóa giải trí trên địa bàn. Nhưng điều đó cũng dẫn đến tình

trạng "lấn sân" hoặc buông lỏng, ỷ lại, dựa dẫm trong các hoạt động quản lý văn hóa giải trí

trên địa bàn thành phố thời gian qua. Điều này đòi hỏi phải có sự sắp xếp, phân công, phân cấp

cụ thể và rõ ràng cho các chủ thể quản lý về văn hóa giải trí của thành phố trong thời gian tới.

2.3.2.2. Hoạt động thanh tra, kiểm tra các hoạt động văn hóa giải trí trên địa bàn

thành phố Hải Phòng

Hải Phòng là địa phương có tốc độ phát triển kinh tế cao so với các tỉnh, thành phố

trong cả nước. Các hoạt động văn hoá, thông tin, giải trí ở Hải Phòng đã đáp ứng tích cực nhu

cầu sáng tạo và hưởng thụ văn hoá của các tầng lớp nhân dân. Thành uỷ, Hội đồng nhân dân,

Uỷ ban nhân dân và các ban, ngành, đoàn thể của thành phố đã thường xuyên quan tâm lãnh

đạo, chỉ đạo, tăng cường các biện pháp quản lý nhằm thực hiện nghiêm túc các chủ trương của

Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về lĩnh vực văn hoá, thông tin, giải trí...Tích cực,

kiên trì đấu tranh đẩy lùi các hiện tượng tiêu cực trong hoạt động văn hoá như nhập lậu, tàng

trữ, lưu hành văn hoá phẩm có nội dung phản động, độc hại, các hiện tượng mê tín dị đoan,

các tệ nạn xã hội, tạo môi trường văn hoá lành mạnh. Tuy nhiên, trong đời sống văn hoá xã

hội, thành phố cũng còn nhiều tồn tại, yếu kém. Các tệ nạn xã hội như ma tuý, mại dâm,

HIV/AIDS chưa được ngăn chặn mà có nguy cơ mở rộng từ các quận nội thành ra ngoại

thành, khu vực ven đô, khu công nghiệp, khu chế xuất, khu du lịch. Một số cơ sở kinh doanh

karaoke, vũ trường, massage, nhà nghỉ, khách sạn đã lợi dụng loại hình kinh doanh này, tìm

cách hoạt động biến tướng, trá hình gây hậu quả xấu. Nguyên nhân của tình trạng này là do

các chủ kinh doanh đã chạy theo lợi nhuận, coi thường kỷ cương pháp luật, đạo lý và trách

nhiệm công dân; sự buông lỏng quản lý, nhất là của cấp cơ sở, sự phối hợp thiếu đồng bộ của

các cấp, các ngành trong việc lãnh đạo, chỉ đạo đấu tranh ngăn chặn tệ nạn xã hội, chưa thấy

hết tác hại to lớn về mặt xã hội, đạo đức của các tệ nạn này gây ra cho đất nước, cho thế hệ trẻ;

Một số quy định của pháp luật chưa đồng bộ và phù hợp. Các tội phạm ngày càng tinh vi, xảo

quyệt.

Thực hiện Chỉ thị số 17/2005/CT - TTg, ngày 25/5/2005 của Thủ tướng chính phủ về

việc chấn chỉnh các hoạt động tiêu cực trong các quán bar, nhà hàng karaoke, vũ trường...

Uỷ ban nhân dân thành phố Hải Phòng đã có kế hoạch chỉ đạo Ban phòng chống các tệ

nạn ma tuý, mại dâm, HIV/AIDS thành phố, Uỷ ban nhân dân các quận, huyện, thị xã xây

dựng kế hoạch, kiện toàn đoàn, đội kiểm tra liên ngành các cấp, bàn biện pháp tổ chức

thực hiện tốt Chỉ thị của Thủ tướng chính phủ. Các sở, ban ngành như: Văn hoá Thông tin,

Công an, Thương mại, Du lịch, Lao động Thương binh xã hội, Kế hoạch đầu tư đã tăng

cường phối kết hợp ban hành các văn bản chỉ đạo các đơn vị trực thuộc mở đợt cao điểm

tuyên truyền thực hiện Chỉ thị gắn với việc triển khai thực hiện các Luật Du lịch, Luật

phòng chống ma tuý, Pháp lệnh Phòng chống mại dâm.

Chỉ tính từ 25/5/2005 (thời điểm ban hành Chỉ thị 17/2005/CT - TTg của Thủ tướng

chính phủ) đến 31/5/2006, Sở Văn hoá Thông tin đã phối hợp với các ngành chức năng như:

Công an, Du lịch, Y tế, Thương mại, Kế hoạch và Đầu tư, Quản lý Thị trường, Lao động

Thương binh và Xã hội, Chi cục Phòng chống tệ nạn xã hội, Phòng Văn hoá Thông tin và Thể

thao các quận, huyện, thị xã...tập trung rà soát, kiểm tra điều kiện, phân loại các loại hình nhà

nghỉ, quán bar, vũ trường và quán karaoke. Các cơ quan chức năng này đã tiến hành tổng

kiểm tra rà soát trên địa bàn thành phố: 11/11 vũ trường, 437/437 điểm kinh doanh karaoke,

2661 cơ sở lưu trú (trong đó có: 541 nhà nghỉ, khách sạn, 2076 cơ sở lưu trú bình dân, 44 cơ

sở cho người nước ngoài thuê), 10 điểm ca nhạc phòng trà, 33 cơ sở massage.

Uỷ ban nhân dân thành phố Hải phòng đã giao cho Sở Văn hoá Thông tin thành phố -

thường trực Ban chỉ đạo phòng chống các hoạt động tiêu cực tại các quán bar, nhà hàng

karaoke, vũ trường, xây dựng kế hoạch triển khai Chỉ thị 17 của Thủ tướng Chính phủ đến

cơ sở, đồng thời đề ra nhiều biện pháp phối hợp với các các sở, ban, ngành chức năng tổ

chức kiểm tra, rà soát, đánh giá hoạt động của các quán bar, nhà hàng karaoke, vũ trường

theo đúng tinh thần Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ. Chỉ trong 1 năm thực hiện (từ

6/2005 đến 20/4/2006) các đoàn kiểm tra liên ngành 814 và các đội kiểm tra liên ngành

814 từ thành phố đến các quận, huyện, thị xã, xã, phường, thị trấn đã tiến hành kiểm tra

1.056 buổi với 5.229 lượt điểm, trong đó: Karaokee 745 lượt điểm, nhà nghỉ khách

sạn1.568 lượt điểm, cửa hàng kinh doanh băng, đĩa các loại 433 lượt điểm, vũ trường 20

lượt điểm, ca nhạc, phòng trà 53 lượt điểm, dịch vụ Intenet 686 lượt điểm, các loại khác

(in, massage) 251 lượt điểm.

Kết quả xử lý vi phạm: Phạt hành chính bằng tiền 401.400.000đ; thu giữ và tiêu huỷ

51.043 băng đĩa các loại (trong đó có hơn 1.000 đĩa nội dung khiêu dâm, ca nhạc hải

ngoại), 379 sách, ấn phẩm mê tín, bói toán, 52 bộ máy vi tính và 06 đầu máy các loại, 13

máy đánh xèng...

Nhìn chung, vấn đề phát triển văn hoá nói chung và văn hoá giải trí nói riêng ở thành

phố Hải Phòng đã được các cấp uỷ Đảng, chính quyền, các đoàn thể và các tầng lớp nhân

dân thành phố quan tâm đầu tư phát triển. Văn hoá giải trí ở thành phố Hải Phòng đã có

bước phát triển quan trọng, góp phần vào việc "xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt

Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc" theo tinh thần Nghị quyết TW 5 (khoá VIII) của

Đảng. Hoạt động của các loại hình văn hoá giải trí ở Hải Phòng đã góp phần nâng cao đời

sống văn hoá tinh thần, thẩm mỹ, đáp ứng nhu cầu giải trí lành mạnh của các tầng lớp nhân

dân, đồng thời đem lại những hiệu quả kinh tế rõ rệt, góp phần tích cực vào sự phát triển

chung của thành phố.

Chương 3

phương hướng và giải pháp phát triển văn hóa giải trí ở Thành phố Hải Phòng thời

kỳ 2006 - 2010, 2020

3.1. Dự báo chung về tình hình phát triển kinh tế - xã hội - văn hoá và nhu cầu

văn hoá giải trí ở Thành phố Hải Phòng trong thời gian tới.

3.1.1. Về sự phát triển kinh tế xã hội của thành phố Hải Phòng thời kỳ 2005 -

2010

Định hướng phát triển thành phố Hải Phòng từ nay đến năm 2020 đã được Đại hội

Đảng bộ thành phố lần thứ XIII xác định rõ:

Chủ động và sáng tạo phát huy tiềm năng, lợi thế của thành phố Cảng, huy

động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá,

hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế, phát triển toàn diện; cơ bản hoàn thành

hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật và xã hội theo tiêu chí của thành phố cảng, công

nghiệp hiện đại, đô thị trung tâm cấp quốc gia...văn hoá phát triển tương xứng

với vai trò nền tảng tinh thần của xã hội... đời sống vật chất, tinh thần của nhân

dân được nâng lên một bước, tạo nền tảng vững chắc để Hải Phòng cơ bản trở

thành phố công nghiệp văn minh, hiện đại trước năm 2020 từ 3 đến 5 năm [20,

tr.147 - 148].

Đến đầu năm 2005 dân số của Hải Phòng có trên 1,7 triệu người, trong đó dân đô thị

chiếm 37%, dân nông nghiệp chiếm 67%; Về giới tính, Nam chiếm khoảng 49,3%, nữ

khoảng 50,7%. Dân số của thành phố khá trẻ, có tới 29,4% dân số trong độ tuổi từ 0-14

tuổi, chỉ có khoảng 7% số dân từ 65 tuổi trở lên. Trung bình hàng năm có khoảng 1,75 vạn

lao động được đào tạo.

Với mức tăng dân số xấp xỉ 1%/năm, dự báo đến năm 2010 dân số Hải Phòng sẽ là

1,96 triệu người và đến năm 2020 sẽ là 2,1 triệu người, dân số trong độ tuổi lao động sẽ

tăng 1,8% thời kỳ 2006 - 2010 sẽ tạo ra nguồn lao động khá phong phú cho thành phố.

Hải Phòng là thành phố có trên 100 năm phát triển cảng biển và công nghiệp nên đã

hình thành một đội ngũ công nhân đông đảo giàu truyền thống cách mạng. Hiện nay có

trên 14,5 vạn lao động làm việc trong các ngành công nghiệp - xây dựng, trên 26 vạn lao

động làm việc trong các ngành dịch vụ (giao thông, thương mại, bưu điện...), trên 49.050

cán bộ có trình độ cao đẳng, đại học và trên đại học, trong đó có trên 216 tiến sỹ, giáo sư,

phó giáo sư, 817 thạc sỹ Người dân Hải Phòng có trình độ học vấn và dân trí tương đối

cao. Tỷ lệ số dân trong độ tuổi lao động đang làm việc đã qua đào tạo khá cao, lao động kỹ

thuật chiếm 23,3%, cán bộ có trình độ đại học và cao đẳng chiếm 5,23% tổng số lao động

[45, tr.29]. Tại Hải Phòng có 4 trường đại học: Đại học Hàng Hải, Đại học Y, Đại học Hải

Phòng và Đại học Dân lập Hải Phòng, hai Viện nghiên cứu về Biển, Viện Y học Biển và

04 trường Cao đẳng, ngoài ra còn có các trường trung cấp, trường đào tạo nghề. Nhờ vậy,

Hải Phòng được xếp thứ hai sau Hà Nội về tiềm lực khoa học kỹ thụât ở vùng đồng bằng

sông Hồng và đứng thứ ba trong cả nước... Mặt khác, nằm cách thủ đô Hà Nội không xa,

Hải Phòng có lợi thế sử dụng đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật của các Viện nghiên cứu,

các trường Đại học của trung ương cho việc phát triển thành phố thông qua con đường hợp

tác, nghiên cứu hoặc ứng dụng kết quả nghiên cứu phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp

hoá, hiện đại hoá, phát triển thành phố

Mô hình thành phố Cảng tương lai đã được thiết kế với định hướng là thành phố

cảng biển quốc tế văn minh, hiện đại và phát triển, đứng vững bên bờ biển Đông của Tổ

quốc; là đô thị trung tâm cấp quốc gia, cửa chính ra biển, có cảng nước sâu (cảng đầu mối,

cảng cửa ngõ, cầu cảng nước sâu); là đầu mối giao thông quan trọng cả về đường biển,

đường sông, đường sắt, đường bộ, đường sông (quốc tế) của vùng Duyên hải Bắc Bộ; là

trung tâm công nghiệp, thương mại, du lịch, dịch vụ, thuỷ sản, y tế, văn hoá, giấo dục - đào

tạo, khoa học - công nghệ, tài chính - tín dụng, một trọng điểm phát triển kinh tế biển, một

cực tăng trưởng mạnh của khu vực kinh tế động lực các tỉnh phía Bắc, có vị trí trọng yếu

về an ninh - quốc phòng.

Trước những yêu cầu đặt ra cho một thành phố có vai trò quan trọng trong vùng kinh

tế động lực Bắc Bộ, đầu mối giao thông quan trọng, có mối quan hệ chặt chẽ, hữu cơ với

các tỉnh, thành phố trong vùng, có vị trí chiến lược cả về kinh tế, quốc phòng, an ninh đối

với cả nước. Đại hội XIII Đảng bộ thành phố Hải Phòng xác định một số chỉ tiêu phát triển

kinh tế - xã hội Hải Phòng từ nay đến năm 2010 là:

- Phấn đấu đưa tỷ trọng GDP Hải Phòng đạt khoảng 4 - 4,5% trong GDP cả nước vào

năm 2010; tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đạt 12 - 13%/năm, gấp 1,5 lần mức tăng

bình quân chung của cả nước, trong đó, tốc độ tăng bình quân GDP ngành dịch vụ đạt 13 -

14%, công nghiệp - xây dựng 13,5 - 14%/năm, nông - lâm - thuỷ sản 4,5 - 5%/năm. Cơ cấu

kinh tế chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá với tỷ trọng dịch vụ trong

GDP đến năm 2010 đạt 52 - 53%; công nghiệp - xây dựng 38 - 39%, nông - lâm - thuỷ sản

8 - 9%. Đến năm 2010 GDP bình quân /người đạt 1.800 USD/năm.

- Giá trị sản xuất công nghiệp tăng 18 - 19%/năm; giá trị sản xuất nông - lâm - thuỷ

sản tăng 6 - 6,5%/năm trong đó nông nghiệp tăng 3,5 - 4%/năm, thuỷ sản tăng 14 - 15%.

-Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội giai đoạn 2005 - 2010 đạt trên 90.000 tỷ

đồng, bình quân trên 18.000 tỷ đồng/năm, tăng 14%/năm, trong đó vốn đầu tư nước ngoài

(FDI và ODA) chiếm 30%.

- Thu hút trên 5,6 triệu lượt khách du lịch vào năm 2010.

- Cơ bản hoàn thành phổ cập giáo dục bậc trung học và nghề trên địa bàn thành phố

vào năm 2008.

- Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên bình quân 1%/năm

- Tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn mới đến năm 2010 giảm còn 5 - 6%

- Giải quyết việc làm cho 225.000 lao động, bình quân đạt 45.000 lao động/năm.

- Tỷ lệ dân số đô thị đạt 55 - 60% vào năm 2010 [20, tr.150 - 151]

3.1.2. Dự báo về xu thế phát triển nhu cầu văn hoá giải trí trong thời gian tới

Trong xu thế toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế các hoạt động văn hoá nói

chung và văn hoá giải trí nói riêng ở thành phố Hải Phòng cũng chịu những ảnh hưởng và

tác động của sự biến đổi văn hoá trong nước và thế giới đương đại. Nhiều nhà nghiên cứu

cho rằng, trong thập niên đầu thế kỷ XXI, văn hoá giải trí sẽ có nhiều biến đổi, theo một số

xu hướng chính là:

Thứ nhất, văn hoá giải trí sẽ gắn bó chặt chẽ hơn với sự phát trriển mạnh mẽ của du

lịch toàn cầu. Giờ đây, các hoạt động du lịch sẽ đi sâu khám phá các nền văn minh thế giới

và các giá trị độc đáo trong văn hoá, phong tục tập quán của các dân tộc. Như vậy, xu

hướng tìm về bản sắc dân tộc trong các hoạt động vui chơi giải trí trong bối cảnh đa dạng

văn hoá sẽ kích thích các quốc gia, các dân tộc khai thác các loại hình vui chơi độc đáo,

đặc sắc của dân tộc mình để vừa bảo vệ bản sắc dân tộc, vừa qua đó tạo ra sự hấp dẫn quốc

tế sâu rộng thúc đẩy du lịch, dịch vụ phát triển.

Thứ hai, văn hoá giải trí sẽ gắn liền với việc giữ gìn và nâng cao sức khoẻ. Nhu cầu

rèn luyện nâng cao sức khoẻ để kéo dài tuổi thọ là nhu cầu thiết yếu của con người trong xã

hội hiện đại. Cùng với sự phát triển về kinh tế, các hoạt động văn hoá vui chơi giải trí gắn với

các hoạt động thể dục thể thao sẽ trở thành trào lưu chung của xã hội ngày nay.

Thứ ba, các loại hình văn hoá vui chơi giải trí gắn liền với sự bùng nổ các phương

tiện thông tin đại chúng (báo chí, xuất bản, phát thanh và truyền hình, mạng Internet...).

Các phương tiện thông tin đại chúng sẽ là một hình thức chủ yếu đáp ứng nhu cầu vui chơi

giải trí cho con người trong thời gian rỗi.

Các loại hình nghệ thuật và các chương trình vui chơi giải trí được phát đi với thời

lượng lớn trên sóng phát thanh truyền hình, báo chí sẽ đáp ứng nhu cầu giải trí và cuốn hút

đông đảo công chúng tham gia.

Thứ tư, các hoạt động văn hoá giải trí gắn với sinh hoạt cộng đồng ở các khu vực tập

trung đông dân cư như: công viên, khu vui chơi giải trí, tụ điểm giải trí, thư viện, bảo tàng,

nhà văn hoá, sân thể thao...sẽ ngày càng gia tăng.

Thứ năm, văn hoá giải trí gắn với các thành tựu khoa học công nghệ hiện đại. Sự bùng

nổ của cuộc cách mạng khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ điện tử, công nghệ

thông tin và viễn thông đã tác động mạnh mẽ đến đời sống của xã hội hiện đại. Những tiến

bộ mới trong khoa học công nghệ đã thâm nhập rất mạnh vào lĩnh vực vui chơi giải trí

nhằm đáp ứng nhu cầu của công chúng, nhất là công chúng trẻ. Các trò chơi điện tử, các

trò chơi trên mạng Internet, trên điện thoại, trên vô tuyến truyền hình, trên đài phát

thanh...cũng đang đổi mới mạnh mẽ để thu hút công chúng

Thứ sáu, văn hoá giải trí gắn với môi trường tự nhiên và cảnh quan văn hoá gia tăng.

Xu thế đô thị hoá và phát triển đô thị nước ta sẽ phát triển mạnh trong thời kỳ từ nay cho

đến năm 2010 và 2020. Các khu công nghiệp, khu công nghệ cao xuất hiện ngày càng

nhiều, các khu dân cư mới, khu đô thị mới với những dãy nhà nhiều tầng được quy hoạch

sẽ mọc lên nhanh chóng. áp lực của cuộc sống đô thị hoá dồn nén con người vào những

ngôi nhà nhiều tầng tạo ra tâm lý chung của cộng đồng là trở về với thiên nhiên, trở về với

cội nguồn. Vì vậy các khu vui chơi giải trí sẽ phải gắn nhiều hơn với môi trường thiên

nhiên. Các khu du lịch như Đồ Sơn, Cát Bà ...với cảnh quan môi trường và thiên nhiên

tuyệt đẹp sẽ là nơi cuốn hút khách du lịch trong và ngoài nước về đây tham quan, nghỉ

dưỡng, vui chơi...

Thứ bẩy, văn hoá giải trí gắn liền với bảo vệ, giữ gìn và phát huy những giá trị văn

hoá truyền thống. Vấn đề giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc là vấn đề sống còn

liên quan đến vận mệnh mỗi quốc gia, dân tộc trong xu thế toàn cầu hoá hiện nay. Vì vậy

các hoạt động văn hoá giải trí phải góp phần bảo tồn và phát triển các giá trị di sản văn

hóa, thuần phong mỹ tục tốt đẹp của dân tộc.

Thứ tám, xu hướng đa dạng hoá các nhu cầu văn hoá vui chơi giải trí của các nhóm

xã hội, các tổ chức nghề nghiệp, các lứa tuổi và giới tính. Quá trình phát triển kinh tế xã

hội trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế thế giới sẽ

tạo ra sự phân hoá xã hội mạnh mẽ cả về thu nhập kinh tế, trình độ học vấn, thị hiếu thẩm

mỹ, sở thích giải trí... Nhu cầu văn hoá giải trí sẽ rất đa dạng, có nhu cầu đại chúng, nhu

cầu nhóm, nhu cầu của các cá nhân. Các chủ thể tham gia vào tổ chức các hoạt động vui

chơi giải trí sẽ từng bước quan tâm tới nhu cầu chính đáng này. Sự đa dạng hoá về nhu cầu

vui chơi giải trí trong thời gian tới không chỉ xuất hiện trên bình diện rộng nhiều loại hình

và hình thức vui chơi giải trí mà còn thể hiện ở sự biến đổi thường xuyên của những nhóm

xã hội, gây sức ép thường xuyên buộc các nhà dịch vụ phải đổi mới liên tục và tìm kiếm,

sáng tạo các hình thức vui chơi giải trí mới, tạo nên môi trường "động" cho hoạt động này.

3.2. Phương hướng phát triển văn hoá và văn hoá giải trí ở thành phố Hải

Phòng thời kỳ 2006 - 2010

Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ XIII xác định: Mở rộng dân số toàn

thành phố trên 2 triệu người vào năm 2020 với cư dân đô thị hơn 50%; Quan tâm nâng cao

chất lượng dân số, nguồn nhân lực là nhân tố hàng đầu trong việc khai thác các thế mạnh

phát triển kinh tế của thành phố. Đẩy mạnh xã hội hoá giáo dục, mở rộng các loại hình

giáo dục công lập, dân lập, tư thục. Hoàn thành phổ cập trung học phổ thông và phổ cập

nghề vào năm 2010; Phát triển các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và

dạy nghề tại Hải Phòng theo hướng đào tạo đa ngành, đa hệ, tiếp cận tiêu chuẩn quốc tế,

tăng nhanh số lượng và chất lượng lao động xuất khẩu...là hướng chủ yếu để Hải Phòng trở

thành một trung tâm giáo dục, đào tạo của vùng duyên hải Bắc Bộ và miền Bắc, đặc biệt là

trên lĩnh vực đào tạo phục vụ các ngành kinh tế biển và các ngành khoa học ứng dụng

công nghệ kỹ thuật cao.

Bám sát mục tiêu xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản

sắc dân tộc, định hướng cho thành phố trong thời gian tới là tiếp tục mở rộng và nâng cao

hiệu quả cuộc vận động "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá", xây dựng nếp

sống văn minh, gia đình văn hoá, tổ chức thường xuyên các hoạt động văn hoá văn nghệ,

TDTT và các loại hình văn hoá giải trí, không ngừng nâng cao đời sống văn hoá tinh thần

của nhân dân thành phố, đẩy lùi các tệ nạn xã hội, chống văn hoá phẩm đồi truỵ. Phấn đấu

xây dựng con người Hải Phòng thời kỳ đổi mới phát triển toàn diện cả thể lực, trí lực, phát

huy truyền thống "Trung dũng quyết thắng", năng động, sáng tạo, đoàn kết, vững vàng

vượt qua khó khăn, thử thách để vươn lên, có tác phong công nghiệp văn minh, lịch thiệp,

có trình độ văn hoá và tay nghề cao để tiếp thu nhanh các tiến bộ khoa học công nghệ,

quản lý, thích ứng nhanh với nền kinh tế thị trường định hướng XHCN trong xu thế hội

nhập kinh tế quốc tế.

Các chỉ tiêu cụ thể đến năm 2010:

- Phấn đấu đến năm 2010 có 80-85 % số làng, khu dân cư đạt tiêu chuẩn làng văn hoá

cấp quận, huyện, trong đó 30% đạt tiêu chuẩn văn hoá cấp thành phố, 85-90 % số hộ gia

đình đạt tiêu chuẩn gia đình văn hoá.

- Số lượt người đến đọc sách báo tại thư viện tăng bình quân 10-15%.Tăng số sách

báo phát hành đạt bình quân 8 bản người vào năm 2010, tăng gấp 2 lần so năm 2000.

- 100% số hộ gia đình được nghe đài phát thanh và xem vô tuyến truyền hình có chất

lượng cao.

- Phấn đấu thực hiện chỉ tiêu đến năm 2010 nâng mức hưởng thụ và tham gia sáng

tạo văn hoá của người dân Hải Phòng lên gấp 2,7 lần - 2,8 lần so với năm 2000.

- Hoàn thiện hệ thống thiết chế văn hoá-thông tin từ thành phố đến cơ sở: 100% các

quận, huyện, xã có trung tâm văn hoá-thể thao; 100% xây dựng trung tâm văn hoá làng

[20, tr.168 - 169].

3.3. Một số giải pháp phát triển văn hóa giải trí Hải Phòng thời kỳ 2006 - 2010

3.3.1. Xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội, văn hoá

Hải Phòng đang trong quá trình đô thị hoá nhanh nhằm phát triển đô thị trung tâm và

các đô thị vệ tinh. Diện tích đô thị hiện nay khoảng 7 nghìn ha, dân số gần 600 nghìn

người, dự kiến sẽ diện tích tăng lên 16 nghìn ha và dân số sẽ tăng lên 970 nghìn dân vào

năm 2010.

Quan tâm xây dựng, phát triển mạng lưới đô thị, cơ sở hạ tầng đồng bộ. Hướng phát

triển là chỉnh trang đô thị cũ, trước hết là khu trung tâm, hình thành và mở rộng đô thị

vùng ven, đặc biệt là hướng Đông (quận Hải An, khu công nghiệp Đình Vũ), Đông Nam

(Thị xã Đồ Sơn, quận Kiến An) và Tây bắc thành phố (2 huyện An Dương, Thuỷ Nguyên).

Phấn đấu đến năm 2020 thành phố sẽ có 10 quận. Phát triển các khu đô thị mới như các

khu đô thị đường Hải Phòng - Đồ Sơn, phía Bắc Sông Cấm, Quán Toan... Hoàn chỉnh

nghiên cứu và triển khai xây dựng trung tâm chính trị - hành chính mới của thành phố.

Hoàn chỉnh hạ tầng kỹ thuật đô thị.

Tỷ lệ đô thị hoá chuyển dịch từ 35% năm 2002 lên khoảng 50% năm 2010, tỷ lệ dân

phi nông nghiệp ở mức 46,3% hiện nay tăng lên 60,6% năm 2010. Đây là những thách

thức và là nhu cầu lớn để phát triển toàn diện các lĩnh vực y tế, giáo dục và văn hoá-xã hội.

Một số khu công nghiệp, khu đô thị mới sẽ được xây dựng, mở rộng, trong đó có các công

trình phục vụ nhu cầu vui chơi giải trí của người dân thành phố [Xem Phụ lục 17, tr.116

luận văn].

3.3.2. Phát triển đi đôi với quản lý tốt hệ thống thông tin đại chúng

Nghị quyết Đại hội XIII Đảng bộ thành phố đã xác định:

...Phấn đấu thực hiện chỉ tiêu đến năm 2010 nâng mức hưởng thụ và tham

gia sáng tạo văn hoá của người dân Hải Phòng lên mức 2,7 đến 2,8 lần so với

năm 2000. Đầu tư phát triển, hiện đại hoá về thiết bị kỹ thuật, nâng cao chất

lượng hoạt động của các phương tiện thông tin đại chúng... Duy trì và nâng cao

chất lượng hệ thống truyền thanh các xã, phường, thị trấn. Nâng cao chất lượng

các chương trình phát thanh, truyền hình. Đầu tư ứng dụng công nghệ kỹ thuật

số trong truyền dẫn phát sóng, công nghệ sản xuất chương trình phát thanh

truyền hình. Đến năm 2010, phấn đấu 100% hộ được nghe đài phát thanh và

xem truyền hình [20, tr168 - 169].

Mục tiêu đó đã đặt ra cho các cơ quan báo chí, phát thanh truyền hình Hải Phòng

yêu cầu phải nâng cao chất lượng cả về nội dung và hình thức nhất là trong lĩnh vực văn

hoá giải trí cần có những thông tin cập nhật, mới mẻ, hấp dẫn, lôi cuốn công chúng. Trên

hệ thống truyền hình, Trung tâm phát hành phim và chiếu bóng thành phố bên cạnh việc

tích cực khai thác các chương trình phim truyện đặc sắc của nước ngoài như: Mỹ, Trung

Quốc, Hàn Quốc, Canada, Hồng Công, Singapo...cần tổ chức trình chiếu tốt các phim

truyện trong nước. Phối hợp với các Hãng sản xuất các phim truyện nhằm phản ánh cuộc

sống và con người Việt Nam nói chung, Hải Phòng nói riêng trong thời kỳ đổi mới. Tiếp

tục sản xuất, phối hợp sản xuất các chương trình vui chơi giải trí trên truyền hình. Thời

gian qua, một số chương trình như: "Sắc màu Hoa Phượng", " Con tàu may mắn", "Siêu thị

Sao"...đã tạo được những tiếng vang nhất định, và hiện nay, chương trình trò chơi "Con

đường chinh phục" đã liên kết phát sóng cùng 10 Đài truyền hình địa phương hứa hẹn là

một sân chơi bổ ích, hấp dẫn, vừa tạo được nguồn thu từ việc quảng cáo sản phẩm của các

doanh nghiệp vừa đáp ứng yêu cầu giải trí của nhân dân thành phố.

3.3.3. Phát triển hệ thống các thiết chế văn hoá-nghệ thuật

- Trước mắt, cần sắp xếp lại các tổ chức, thiết chế hoạt động văn hoá-nghệ thuật, như

các Đoàn nghệ thuật, các rạp chiếu phim, biểu diễn nghệ thuật:

Tập trung đầu tư phát triển các loại hình nghệ thuật mà thành phố có thế mạnh (cải

lương, chèo, múa rối, kịch nói, ca múa nhạc), nâng cao hiệu quả hoạt động các đoàn nghệ

thuật chuyên nghiệp theo hướng nghệ thuật đỉnh cao.

Xây dựng mô hình tổ chức các đoàn biểu diễn nghệ thuật ở thành phố theo hướng xã

hội hoá, như: Nhà hát ca múa nhạc (có Đoàn ca múa nhạc nhẹ và Đoàn ca múa nhạc dân

tộc), Nhà hát kịch, Nhà hát sân khấu dân tộc, bao gồm: Đoàn chèo, Đoàn Cải lương và

Đoàn nghệ thuật múa rối.

Xây dựng các đoàn nghệ thuật theo hướng gọn nhẹ về bộ máy, trang thiết bị đồng bộ

hiện đại, phát huy tính chủ động, sáng tạo của các đoàn nghệ thuật, tài năng của đội ngũ

văn nghệ sĩ phấn đấu đạt trình độ của quốc gia. Thực hiện cơ chế tài chính mới đối với các

đoàn nghệ thuật. Đảm bảo cơ chế tài trợ cần thiết hoặc hợp đồng đặt hàng nhằm tạo điều

kiện cho các đoàn nghệ thuật, các nghệ sỹ năng động hơn trong hoạt động, gắn họ với các

sản phẩm nghệ thuật và chịu trách nhiệm về kết quả của từng vở diễn. Thực hiện đa dạng

hoá phương thức và quy mô biểu diễn, đáp ứng nhu cầu xã hội hoá hoạt động nghệ thuật.

Đầu tư cải tạo, nâng cấp rạp hát, rạp chiếu phim hiện có (quy mô vừa và nhỏ) bằng

nhiều nguồn lực để nâng cao chất lượng tổ chức biểu diễn nghệ thuật: Nhà hát Sông Cấm

(nhà hát múa rối) quận Ngô Quyền; Nhà hát Phương Đông (nhà hát cải lương) quận Hồng

Bàng, Rạp Long Châu (nhà hát ca múa nhạc) quận Hồng Bàng; Rạp Tân Việt (Nhà hát

chèo) quận Lê Chân và dự kiến xây dựng mới Nhà hát kịch ở quận Hải An.

Xây dựng trung tâm biểu diễn nghệ thuật tổng hợp phục vụ biểu diễn ca múa nhạc ở khu

đô thị mới trong Trung tâm Hội chợ-triển lãm-Văn hoá Hải Phòng.

Đầu tư xây dựng rạp hát, rạp chiếu phim ở các khu đô thị mới như: Bắc sông Cấm,

đường 353, ngã 5 - sân bay Cát Bi…

Cải tạo cơ sở vật chất, nâng cấp và hiện đại hoá trang thiết bị cho một số rạp chiếu

bóng hiện có như: Rạp chiếu bóng Công Nhân, quận Ngô Quyền; Rạp chiếu bóng 1-5,

quận Hồng Bàng; Rạp Lê Văn Tám, quận Lê Chân; Rạp Lạc Viên, quận Ngô Quyền; Rạp

19/5, quận Kiến An...

Đầu tư xây dựng các cụm rạp đa năng nhỏ (2-3 rạp nhỏ quy mô khoảng 100-150 chỗ

/rạp) chiếu phim nhựa, phim video..., với trang thiết bị hiện đại, tiện nghi hoặc kết hợp

trong các quần thể dịch vụ-thương mại, siêu thị, khu giải trí liên hợp, thể thao...

Khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia xây dựng, cải tạo cơ sở vật chất kỹ

thuật hệ thống các cơ sở biểu diễn nghệ thuật và các chương trình biểu diễn văn nghệ-nghệ

thuật.

Ngành văn hoá phối hợp với các ngành du lịch - dịch vụ, TDTT và các tổ chức xã

hội sử dụng cơ sở vật chất-kỹ thuật để tổ chức biểu diễn nghệ thuật và các hoạt động văn

hoá giải trí khác. Kết hợp giữa ngành điện ảnh, chiếu phim và phát thanh, truyền hình để

hoạt động có hiệu quả trong việc đáp ứng nhu cầu giải trí của công chúng.

- Phát triển thị trường dịch vụ văn hoá - văn nghệ với tăng cường quản lý

- Tiếp tục phát triển các trung tâm văn hoá-nghệ thuật quần chúng: Mở rộng, cải tạo

nâng cấp các thiết chế văn hoá-thông tin cấp quận, huyện, vận động nhân dân đóng góp

xây dựng và hoàn thiện trung tâm văn hoá xã, làng. Tổ chức các CLB văn nghệ-nghệ thuật

ở cơ sở (xã, làng, các cơ quan, công ty, trường học...) Kết hợp với các cấp, ngành thường

xuyên tổ chức các hội diễn, liên hoan văn nghệ quần chúng trên địa bàn thành phố.

- Phát triển mạng lưới thiết chế văn hoá-thông tin cơ sở:

Xây dựng và hoàn thiện hệ thống thiết chế văn hoá-thông tin các cấp từ thành phố

đến cơ sở theo hướng đa năng tổng hợp, đa dạng về loại hình với nội dung thiết thực gắn

kết với nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội, bao gồm xây dựng và mở rộng, nâng cấp cơ sở

vật chất và trang thiết bị hiện đại, đồng bộ của hệ thống thiết chế văn hoá thông tin các cấp:

Trung tâm văn hoá thành phố và các Trung tâm văn hoá-thông tin cấp quận, huyện, thị xã

và trung tâm văn hoá-thông tin cấp xã, phường.

Xây dựng Trung tâm văn hoá thành phố trở thành một thiết chế văn hoá đa năng,

tổng hợp nghiên cứu, hướng dẫn nghiệp vụ các trung tâm văn hoá quận, huyện, liên kết

giúp đỡ nghiệp vụ các thiết chế văn hoá cấp thành phố và tương đương, tổ chức các hoạt

động văn hoá-thông tin, vui chơi giải trí văn hoá-nghệ thuật của quần chúng.

3.3.4. Đẩy mạnh phát triển các hoạt động du lịch

Để thu hút trên 5,6 triệu lượt khách du lịch vào năm 2010 (tăng bình quân

15%/năm), cần xây dựng Hải Phòng thành Trung tâm đón nhận và phân phối khách quốc

tế, đào tạo nhân lực du lịch, quảng bá xúc tiến du lịch. Ưu tiên đầu tư cho khu du lịch trọng

điểm Cát Bà và Đồ Sơn; nâng cao chất lượng các tuyến du lịch hiện có, mở thêm tuyến du

lịch sinh thái biển Hải Phòng - Bạch Long Vỹ, sớm hoàn thành các dự án du lịch, khu vui

chơi giải trí. Đẩy mạnh công tác thông tin quảng bá, xúc tiến du lịch. Phát triển, đào tạo

nguồn nhân lực du lịch. Phấn đấu đến năm 2010 tỷ trọng GDP du lịch, khách sạn nhà hàng

trong GDP toàn thành phố đạt 4,5%, doanh thu du lịch Hải Phòng chiếm khoảng 10%

doanh thu du lịch cả nước (hiện ở mức 5 - 6%), tăng trên 16%/năm.

Phát triển các loại hình du lịch ở Hải Phòng gắn với các tour du lịch của cả nước và

đa dạng hoá các hình thức du lịch. Kết hợp với quần thể Hạ Long - Quảng Ninh (vịnh Hạ

Long và Bái Tử Long), tạo thành tour du lịch biển, sinh thái, du lịch văn hoá, tham quan-

nghỉ dưỡng, thể thao...

Đa dạng hoá sản phẩm dịch vụ-du lịch gắn với nội dung văn hoá giải trí, phát triển

cân đối các loại hình du lịch với cơ sở hạ tầng kinh tế - văn hoá.

Đối với thị xã Đồ Sơn và huyện Cát Hải có cơ chế liên kết với các thành phần kinh

tế đầu tư xây dựng các khu dịch vụ vui chơi giải trí (vui chơi cảm giác mạnh gắn với biển),

thể dục thể thao, rèn luyện thể chất, tổ chức biểu diễn các loại hình văn hoá nghệ thuật dân

gian phục vụ du lịch... (các cụm văn hoá gắn với Hội chọi trâu Đồ Sơn).

+ Phát triển khu vui chơi giải trí ở các công viên văn hoá. Việc phát triển các khu vui

chơi giải trí, nghỉ dưỡng là nhu cầu cấp thiết khi đời sống của nhân dân thành phố ngày

càng được cải thiện.

3.3.5. Gìn giữ, bảo tồn và phát huy các di sản văn hoá của thành phố

Thành phố Hải Phòng hiện nay có 179 di tích lịch sử đã được xếp hạng, trong đó có

96 di tích xếp hạng cấp quốc gia, 83 di tích cấp thành phố, 137 di tích được tu bổ, tôn tạo.

Các di tích được nhân dân tham gia đóng góp kinh phí để tu bổ, tôn tạo ngày càng khang

trang hơn. Nhiều di sản văn hoá của thành phố được lập kế hoạch bảo vệ, giữ gìn và phát

huy tác dụng như khu mộ cổ ở Thuỷ Nguyên, di tích Cái Bèo ở Cát Bà, Cát Hải, di tích

Việt Khê ở Thuỷ Nguyên và nhiều ngôi đình, chùa, nhà thờ.

Lễ hội chọi trâu Đồ Sơn là một trong 15 lễ hội lớn cấp quốc gia của ngành Du lịch,

lễ hội đua thuyền Rồng trên biển Cát Bà là Lễ hội lớn của ngành Thuỷ sản; lễ hội hát Đúm

ở Phả lễ (Thuỷ Nguyên); lễ hội chạy - vật cầu ở Tân Trào (Kiến Thuỵ); múa Rối cạn, rối

nước ở Nhân Hoà, Đồng Minh (Vĩnh Bảo), hội thi pháo đất, hội Múa Tứ linh- rồng - kỳ

lân ở huyện Vĩnh Bảo...góp phần giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, bản sắc văn hoá địa

phương, gắn bó tình cảm cộng đồng, quảng bá du lịch, thu hút khách du lịch đến tham

quan, giải trí và thông qua các hoạt động này tạo thêm việc làm, phát triển ngành, nghề

truyền thống.

Để phát huy hiệu quả giá trị các di sản văn hoá và gắn liền với nhu cầu sáng tạo,

hưởng thụ và nhu cầu tâm linh, nhu cầu văn hoá giải trí của người dân cần tạo ra những

sản phẩm văn hoá đặc thù có chất lượng hấp dẫn du khách tham quan, phát triển mạnh các

loại hình dịch vụ văn hoá, tạo nguồn thu từ dịch vụ tham quan và các hoạt động văn hoá

khác để tái đầu tư trở lại cho việc bảo vệ và phát huy giá trị của di tích.

3.3.6. Đẩy mạnh xã hội hoá các hoạt động văn hoá vui chơi giải trí

Trong thời kỳ phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chủ

động hội nhập kinh tế quốc tế và tăng cường hợp tác, giao lưu văn hoá với nước ngoài gia

tăng, đòi hỏi phải đẩy mạnh hơn nữa xã hội hoá văn hoá. Trong lĩnh vực văn hoá vui chơi

giải trí trên địa bàn thành phố Hải Phòng, việc xã hội hoá và mở rộng quá trình dân chủ

hoá các hoạt động vui chơi giải trí là một đòi hỏi thiết yếu nhằm khắc phục tư tưởng bao

cấp, trông chờ, ỷ lại vào Nhà nước, Xã hội hoá các hoạt động văn hoá vui chơi giải trí là

nhằm khai thác các tiềm năng về vật chất và tinh thần của toàn xã hội vào xây dựng môi

trường văn hoá giải trí lành mạnh ở Hải Phòng.

Đẩy mạnh xã hội hoá các hoạt động văn hoá vui chơi giải trí sẽ tạo điều kiện thuận

lợi để các tổ chức kinh tế, xã hội, các đoàn thể chính trị xã hội, các cấp, các ngành, các

cộng đồng dân cư, các cơ quan, xí nghiệp, trường học, đơn vị quân đội, công an...của thành

phố tham gia bằng nhiều phương pháp và hình thức khác nhau vào các hoạt động vui chơi

giải trí. Tổ chức tốt việc xây dựng môi trường văn hoá giải trí ở cơ sở gắn với cộng đồng

gia đình, cộng đồng dân cư ở khu phố, khối phố, khu vực làng xã văn hoá ở ngoại

thành...góp phần làm phong phú đời sống văn hoá tinh thần của các tầng lớp nhân dân

thành phố.

Thực hiện chính sách xã hội hoá các hoạt động vui chơi giải trí cần chú ý tới đặc

điểm của các loại hình văn hoá giải trí khác nhau như đài phát thanh, truyền hình, các câu

lạc bộ, các cung văn hoá, nhà văn hoá; thư viện, các hoạt động vui chơi giải trí ở khu công

viên, các khu vui chơi giải trí cộng đồng; các hoạt động du lịch, tham quan danh lam thắng

cảnh, lễ hội và di sản văn hoá dân tộc đa dạng, phong phú khác.

Các cơ quan quản lý nhà nước ở thành phố cần xây dựng chính sách xã hội hoá và tổ

chức điều hành chính sách xã hội hoá theo hệ thống quy định nhất định để tránh tình trạng

buông lỏng quản lý hoặc rập khuôn máy móc, không khai thác được sự sáng tạo của cộng

đồng dân cư thành phố.

3.3.7. Tăng cường đầu tư cho phát triển văn hoá giải trí

Việc phát triển văn hoá giải trí ở thành phố Hải Phòng trong thời gian tới đòi hỏi phải

gia tăng các nguồn lực đầu tư của nhà nước và xã hội, coi đó là những giải pháp cơ bản để

kích thích các hoạt động văn hoá giải trí phát triển mạnh mẽ và đúng hướng.

Hải Phòng là thành phố công nghiệp, có cảng biển lớn... lại có cả các khu du lịch nổi

tiếng Đồ Sơn và Cát Bà, việc kêu gọi đầu tư, nhất là đầu tư nước ngoài nhằm biến 2 khu

vực này thành 2 khu du lịch trọng điểm cần có những cơ chế, chính sách thông thoáng, hấp

dẫn nhằm thu hút các nhà đầu tư nước ngoài đẩy mạnh hoạt động đầu tư vào các lĩnh vực,

trong đó có lĩnh vực vui chơi, giải trí.

Việc đầu tư vào các hoạt động vui chơi giải trí ở Hải Phòng cần phải chú ý tới sự

phát triển của thành phố Hải Phòng trong tương lai để có cái nhìn toàn diện và phát triển

trong quá trình đầu tư. Trong vòng 10 năm và 20 năm tới Hải Phòng phát triển tới vòng

bán kính đến 20 - 30 km, các khu đô thị, khu dân cư mới với những dãy nhà cao tầng sẽ

mọc lên ở những vùng, miền mà hôm nay còn là vùng nông thôn...Vì vậy, chính sách đầu

tư trong lĩnh vực vui chơi giải trí cần có tầm nhìn mang tính chiến lược phát triển tổng thể

của Hải Phòng, tránh tình trạng manh mún, cát cứ. Công tác đầu tư cần gọn, dứt điểm và

phải đánh giá kiểm tra kết quả đầu tư từng hạng mục, từng công trình. Kiên quyết chống

đầu tư tràn lan, không chú ý tới hiệu quả kinh tế - xã hội của các công trình này.

Trong đầu tư xây dựng cần chú ý tới các công trình vui chơi giải trí trọng điểm của

thành phố. Các công trình này phải được đặc biệt quan tâm cả về quy mô, chất lượng đầu

tư cũng như năng lực quản lý, điều hành. Các công trình trọng điểm này phải được xây

dựng ở cả khu vực nội thành và ngoại thành, cả ở trung tâm thành phố và địa bàn các quận,

huyện, thị xã.

3.3.8. Tăng cường quản lý các hoạt động văn hoá giải trí

Trong thời kỳ đổi mới hiện nay, các hoạt động vui chơi giải trí cũng đang vận hành

theo cơ chế thị trường. Các thành phần kinh tế đều có thể tham gia đầu tư vào lĩnh vực này

để vừa khai thác lợi nhuận, vừa đáp ứng nhu cầu văn hoá của nhân dân. Khi hiện nay, mức

sống của nhân dân ngày càng được nâng cao thì khu vực vui chơi giải trí ngày càng được

các nhà đầu tư trong nước và quốc tế quan tâm. Các chương trình vui chơi giải trí trên hệ

thống Phát thanh và Truyền hình trung ương và Hải Phòng cũng đang bằng mọi cách đáp

ứng nhu cầu giải trí rất đa dạng, phong phú của công chúng. Thị trường mỹ thuật, âm nhạc,

điện ảnh cũng đang diễn ra hết sức sôi động nhằm đáp ứng nhu cầu giải trí của người dân.

Công tác quản lý các hoạt động vui chơi giải trí cần tập trung vào các nội dung chủ yếu là:

Nâng cao nhận thức của các cấp uỷ Đảng, chính quyền, các đoàn thể và toàn xã hội

về vai trò của văn hoá nói chung và vai trò của văn hoá giải trí trong việc nâng cao đời

sống văn hoá tinh thần, xây dựng nhân cách, phẩm chất của con người Hải Phòng đáp ứng

yêu cầu sự nghiệp CNH, HĐH.

Hiện nay, nhận thức chung của toàn xã hội cũng như nhận thức chung của các cấp

lãnh đạo Đảng, chính quyền, các đoàn thể chính trị xã hội về vai trò của vui chơi giải trí

còn chưa được quan tâm đúng mức. Điều này dẫn đến tình trạng là vai trò lãnh đạo của các

cấp uỷ và chính quyền các cấp đối với lĩnh vực này thường ít quan tâm, thậm chí có nơi

còn buông lỏng. Vì vậy, những hiện tượng tiêu cực xuất hiện trong lĩnh vực vui chơi giải

trí có xu hướng ngày càng nghiêm trọng. Những tình trạng cá cược bất hợp pháp trong

bóng đá, trong các trò chơi dân gian như đấu vật, chọi gà, các tệ nạn xã hội trong các

phòng hát karaoke, vũ trường, quán bar; tình trạng quản lý một cách hình thức các quán

dịch vụ Internet; tình trạng tội phạm và tệ nạn xã hội gia tăng tại các công viên, các vườn

hoa công cộng... Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là do nhận thức

chung của toàn xã hội, trước hết là của cán bộ, đảng viên trong cấp uỷ, chính quyền và

đoàn thể các cấp còn hạn chế, chưa thấy rõ vai trò của hoạt động này trong quá trình xây

dựng và phát triển văn hoá ở thành phố hiện nay. Bởi vậy, cần nâng cao hơn ý thức trách

nhiệm của các cấp uỷ Đảng, chính quyền và đoàn thể nhân dân về lãnh đạo và quản lý hoạt

động này.

Phân cấp quản lý tổ chức các hoạt động vui chơi giải trí, đảm bảo hiệu lực và hiệu

quả. Uỷ ban nhân dân thành phố Hải Phòng cần phân cấp quản lý các hoạt động vui chơi

giải trí trên địa bàn Hải Phòng. Hiện nay, việc phân cấp và phối hợp quản lý các hoạt động

vui chơi giải trí ở địa điểm công cộng hiện nay còn nhiều yếu kém và chưa hợp lý. Nhiều

đơn vị, nhiều cơ quan cùng tham gia quản lý một địa điểm hoặc làm nhiều chức năng khác

nhau, nên vừa thiếu tập trung, vừa khó kiểm soát. Công tác quản lý các hoạt động vui chơi,

giải trí trên địa bàn thành phố Hải Phòng có 3 loại là:

Loại 1: Do Nhà nước trực tiếp quản lý thông qua các doanh nghiệp nhà nước hoạt

động công ích - phúc lợi.

Loại 2: Do các cơ quan, đoàn thể quản lý, điều hành.

Loại 3: Do các công ty nhà nước, tập thể, tư nhân trong nước và nước ngoài đầu tư.

Vì vậy công tác quản lý nhà nước ở đây cần chú trọng phân cấp quản lý cho cả 3 loại

chủ thể nói trên. Sự phân cấp này phải được xác định rõ ràng, cụ thể và công khai trên cơ

sở những văn bản pháp lý nhất định do Uỷ ban nhân dân thành phố quy định. Đồng thời

trong quá trình phân cấp quản lý các hoạt động vui chơi giải trí trên địa bàn thành phố, cần

bảo đảm tính thống nhất chung trong quản lý nhà nước, tránh tình trạng cát cứ, manh mún.

Xây dựng và hoàn chỉnh quy hoạch, kế hoạch phát triển các hoạt động vui chơi giải

trí trên địa bàn thành phố.

Hiện nay, công tác xây dựng quy hoạch phát triển các hoạt động vui chơi giải trí, các khu

vui chơi giải trí ở Hải Phòng mới bước đầu được quan tâm ở một số khu đô thị mới được xây

dựng và trong quy hoạch phát triển chung của thành phố, còn khu vực nội đô và hầu hết các

địa bàn ngoại thành chưa được quan tâm đúng mức. Vì vậy, vấn đề cấp bách là cần có quy

hoạch dài hạn và ngắn hạn cho sự phát triển các hoạt động vui chơi giải trí trên địa bàn thành

phố Hải Phòng.

Việc xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển các hoạt động vui chơi giải trí ở Hải

Phòng đòi hỏi phải chú ý đến các ngành, các cấp quản lý từ thành phố, quận, huyện đến

phường, xã, chú ý các nhân tố dân tộc và hiện đại trong quy hoạch, chú ý cả khía cạnh văn

hoá trong kinh tế và khía cạnh kinh tế trong các hoạt động văn hoá vui chơi giải trí, chú ý

cả nhu cầu trước mắt, nhu cầu lâu dài và bền vững của thành phố.

Việc gìn giữ và phát huy bản sắc, truyền thống văn hoá tốt đẹp thông qua các hoạt

động vui chơi, giải trí ở Hải Phòng cần phải được coi trọng, song không rơi vào bảo thủ, trì trệ

mà cần đổi mới tư duy, cách nghĩ, cách làm đối với lĩnh vực này để phục vụ nhu cầu phát triển

thành phố ngày càng văn minh giàu đẹp.

Cần chú ý đảm bảo tính dân chủ, công khai của hệ thống quy hoạch và tính chuyên

môn cao của hệ thống quy hoạch phát triển các hoạt động vui chơi giải trí trên địa bàn

thành phố. Trong công tác quy hoạch này cần có sự tham gia của các nhà hoạch định chính

sách, các nhà quản lý, các nhà khoa học, các doanh nghiệp, đại diện các tổ chức đoàn thể

chính trị - xã hội

Cần chú ý tới tính pháp lý và tính thực tiễn của quy hoạch. Tính pháp lý của quy

hoạch này cần được thể hiện bằng các văn bản pháp lý và phải được các cấp có thẩm

quyền phê duyệt và kịp thời xử lý những chủ thể vi phạm. Phải chú ý đến tính khả thi, tính

thực tế của quy hoạch, tránh tình trạng quy hoạch treo hiện nay.

3.3.9. Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ những người hoạt động chuyên sâu trong lĩnh

vực văn hoá giải trí

Các hoạt động vui chơi giải trí trong thời kỳ phát triển phát triển kinh tế thị trường

và mở rộng giao lưu hợp tác quốc tế liên quan đến lĩnh vực công nghiệp giải trí, dịch vụ

giải trí và văn hoá giải trí. Điều đó đã đặt ra yêu cầu phải đào tạo liên ngành, chuyên sâu

về lĩnh vực này cho những người tham gia vào hoạt động này. Khi được đào tạo cơ bản và

chuyên sâu, họ sẽ có điều kiện đưa các hoạt động giải trí, văn hoá giải trí phát triển lành

mạnh đúng hướng, đem lại hiệu quả kinh tế. Hiện nay, ở thành phố Hải Phòng chưa có cơ

sở đào tạo tập trung chuyên sâu về lĩnh vực này mà phụ thuộc vào từng doanh nghiệp vì

vậy các ngành Văn hoá Thông tin, Du lịch, Kế hoạch và Đầu tư...cần sớm lựa chọn những

người có năng lực, tâm huyết, yêu nghề đi đào tạo chuyên sâu về lĩnh vực vui chơi giải trí

trong nước và quốc tế. Đặc biệt là năng lực quản lý các hoạt động văn hóa vui chơi giải trí.

3.4. những kiến nghị

Chúng tôi xin đề xuất với Thành uỷ và Uỷ ban nhân dân cùng các cơ quan hữu quan

của thành phố một số kiến nghị sau:

1. Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân thành phố cần xây dựng và hoàn chỉnh

Quy hoạch tổng thể phát triển các hoạt động văn hoá vui chơi giải trí trên địa bàn thành

phố từ nay đến năm 2010 - 2020 ở các địa bàn khác nhau, các loại hình hoạt động khác

nhau. Hệ thống quy hoạch này phải đảm bảo đáp ứng tốt nhu cầu giải trí của cộng đồng

dân cư trên địa bàn thành phố.

2. Thành uỷ, Uỷ ban nhân dân thành phố xây dựng các chính sách khuyến khích phát

triển văn hoá giải trí và các loại hình văn hoá vui chơi giải trí lành mạnh ở thành phố. Đó

là các chính sách về xã hội hoá, chính sách về đầu tư và thu hút đầu tư vào các lĩnh vực vui

chơi giải trí, chính sách mở rộng giao lưu, trao đổi, học tập kinh nghiệm trong lĩnh vực tổ

chức các hoạt động vui chơi giải trí. Đề nghị thành phố xác định rõ chức năng, nhiệm vụ

của một số ngành, một số cơ quan của thành phố trong việc quản lý và tổ chức hoạt động

các loại hình văn hoá giải trí. Việc phân công, phân cấp quản lý phải rõ ràng, tránh chồng

chéo và phải tạo ra được sự thống nhất trong quản lý của thành phố, tránh tình trạng cục

bộ, khép kín.

3. Hải Phòng là thành phố công nghiệp lớn có đội ngũ công nhân lao động đông đảo.

Trong nhiều năm qua, Hải Phòng đã xây dựng nhiều khu công nghiệp tập trung, thu hút

nhiều doanh nghiệp đầu tư sản xuất và một số lượng công nhân lao động không nhỏ đến

đây làm việc. Nhiều doanh nghiệp Nhà nước và doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế

có số lượng công nhân lớn. Một số doanh nghiệp ngoài quốc doanh vì lợi nhuận đã gia

tăng cường độ lao động, ít quan tâm đến điều kiện vật chất, tinh thần cho người lao động, bên

cạnh đó là điều kiện ăn, ở của CNLĐ tại các khu công nghiệp tập trung gặp rất nhiều khó

khăn, đó là chưa kể đến đời sống văn hoá tinh thần của họ rất thiếu thốn, ít có điều kiện để giải

trí, hồi phục sức khoẻ, trong khi xung quanh những nơi ở của họ có không ít những tệ nạn xã

hội, những hoạt động giải trí phản văn hoá, tiêu cực. Vì vậy, đề nghị Thành uỷ, Uỷ ban nhân

dân thành phố và các ban ngành chức năng thành phố cần quan tâm:

+ Trong quy hoạch về chiến lược phát triển thành phố những năm 2010 - 2020, ngoài

việc cấp đất cho các doanh nghiệp đầu tư cơ sở sản xuất, cần tạo điều kiện về quỹ đất để

doanh nghiệp xây dựng các khu nhà ở, khu vui chơi giải trí, công viên, cây xanh dành cho

công nhân lao động của các doanh nghiệp này.

+ Thành phố có cơ chế, chính sách, quy định cụ thể yêu cầu các doanh nghiệp cần

tuân thủ nghiêm túc Bộ luật lao động và các quy định của thành phố về thời gian lao động,

thời gian nghỉ ngơi và những điều kiện về đời sống vật chất, văn hoá tinh thần cho người

lao động.

4. Uỷ ban nhân dân thành phố cần quan tâm đầu tư nhiều hơn trong lĩnh vực văn hoá

để tạo ra động lực mới cho quá trình phát triển các hoạt động văn hoá vui chơi giải trí ở

Hải Phòng. Các lĩnh vực trọng điểm đó là:

+ Đầu tư vào các hoạt động vui chơi giải trí gắn liền với việc giữ gìn và phát huy các

giá trị văn hoá truyền thống của thành phố Hải Phòng (như hoạt động giải trí trong sinh

hoạt lễ hội truyền thống, du lịch sinh thái nhân văn...)

+ Đầu tư vào các khu vực sáng tạo các hoạt động vui chơi giải trí theo hướng dân tộc,

hiện đại, nhân văn, đặc biệt là trong lĩnh vực văn hoá nghệ thuật, sáng tạo các loại hình vui

chơi giải trí độc đáo của Hải Phòng.

+ Đầu tư vào ngành công nghiệp giải trí như sản xuất các chương trình giải trí trên

phát thanh, truyền hình, điện ảnh, Video... đặc biệt là khai thác lợi thế của các phương tiện

thông tin đại chúng để giáo dục, định hướng các hoạt động vui chơi giải trí lành mạnh ở

thành phố Hải Phòng.

5. Sở Văn hoá Thông tin, Sở Du lịch, Báo Hải Phòng, Đài Phát thanh -Truyền hình

Hải Phòng và các cơ quan thông tin đại chúng khác cần đẩy mạnh tuyên truyền về văn hoá

vui chơi giải trí lành mạnh cho nhân dân thành phố, đồng thời phê phán xu hướng giải trí

tiêu cực, chống các phản giá trị trong lĩnh vực văn hoá vui chơi giải trí.

Kết luận

1. Từ việc nhận thức toàn diện và sâu sắc hơn về vai trò, vị trí, chức năng xã hội của

các hoạt động vui chơi giải trí, coi các hoạt động vui chơi giải trí như một bộ phận trọng

yếu của văn hoá, có tác động to lớn đến việc xây dựng môi trường văn hoá, xây dựng tư

tưởng, đạo đức, lối sống xã hội, nhất là trong tình hình hiện nay, luận văn " Văn hoá giải

trí ở thành phố Hải Phòng trong thời kỳ đổi mới hiện nay" đã đánh giá thực trạng và đề

xuất các phương hướng và giải pháp phát triển văn hoá giải trí ở thanh phố Hải Phòng

trong thời gian tới, làm cho văn hoá giải trí trở thành một động lực thúc đẩy kinh tế xã hội

phát triển, đáp ứng nhu cầu vui chơi giải trí, nhu cầu tinh thần ngày càng cao của nhân dân

thành phố Hải Phòng.

2. Việc khảo sát, phân tích, đánh giá văn hoá giải trí trên địa bàn thành phố Hải

Phòng là một công việc gặp nhiều khó khăn, phức tạp, vì vậy luận văn mới chỉ tập trung

vào khảo sát một số lĩnh vực cơ bản là: Văn hoá giải trí qua các thiết chế văn hoá công

cộng; văn hoá giải trí qua các phương tiện thông tin đại chúng; văn hoá giải trí qua các

dịch vụ văn hoá nghệ thuật; văn hoá giải trí qua các sinh hoạt văn hoá truyền thống; văn

hoá giải trí qua các hoạt động du lịch; hoạt động đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực văn hoá

giải trí...

Có thể nói, trong thời gian qua, các hoạt động văn hoá giải trí ở Hải Phòng đã có

sự chuyển biến tích cực nhằm đáp ứng nhu cầu vui chơi giải trí của nhân dân thành

phố. Các loại hình này đã được phát triển một cách đa dạng hơn, từng bước đáp ứng

nhu cầu tinh thần ngày càng cao của công chúng thành phố, góp phần thúc đẩy phát

triển kinh tế - xã hội, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc. Những mặt hạn chế

trong lĩnh vực văn hoá giải trí thể hiện cả về phương diện lãnh đạo quản lý và cả về tổ

chức các hoạt động vui chơi giải trí. Đó là những bất cập về nhận thức, quản lý, điều

hành và giám sát, kiểm tra của các cơ quan có trách nhiệm đối với lĩnh vực này.

3. Trên cơ sở dự báo về nhu cầu văn hoá giải trí cuả nhân dân thành phố Hải

Phòng trong thời gian tới, đề tài đã đề xuất một số phương hướng và giải pháp nhằm

đẩy mạnh phát triển văn hoá giải trí trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại

hoá. Hiện nay, tốc độ phát triển các loại hình của văn hoá giải trí diễn ra rất mạnh mẽ,

bao gồm cả xu hướng tích cực và tiêu cực, trong khi đó, các chính sách và công tác

quản lý văn hoá giải trí còn chưa theo kịp, hoặc còn lúng túng, bị động. Do vậy, thành

phố cần quan tâm hơn về việc ban hành, bổ sung hoàn thiện các chính sách về lĩnh vực

này để các lĩnh vực của văn hoá giải trí thành phố Hải Phòng phát triển đúng hướng,

góp phần xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh và sự phát triển toàn diện con người

Hải Phòng trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH, hội nhập kinh tế quốc tế.

Danh mục các công trình đã công bố của tác giả

có liên quan đến đề tài

1. Nguyễn Quang Linh (2006), "Tổ chức các hoạt động văn hóa vui chơi giải trí cho công

nhân lao động ở Thành phố Hải Phòng hiện nay", Thông tin Văn hóa và phát triển,

(9), tr.54-57.

Danh mục tài liệu tham khảo

1. Đào Duy Anh (1938), Việt Nam văn hoá sử cương, Quan Hải tùng thư, Huế.

2. Bảo tàng Hải Phòng, (2005) Báo các tổng hợp một số hoạt động Bảo tồn - Bảo tàng

từ năm 2001 - 2005, Hải Phòng.

3. Bộ Văn hoá- Thông tin - Thể thao (1992), Mấy vấn đề văn hoá và phát triển ở Việt

Nam hiện nay, Hà Nội.

4. Bộ Văn hoá Thông tin (1994), Các văn bản pháp quy về văn hoá thông tin, Tập 4,

Hà Nội.

5. Bộ Văn hoá Thông tin (2000), Các văn bản pháp quy về văn hoá thông tin, Tập 5,

Hà Nội.

6. Phan Kế Bính (1990), Việt Nam phong tục, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.

7. Nguyễn Văn Bính (1998), Phương pháp và tổ chức hoạt động Cung văn hoá, Nhà văn

hoá lao động trong thời kỳ đổi mới hiện nay, Luận Văn thạc sĩ Văn hóa học, Đại

học văn hoá, Hà Nội.

8. Nguyễn Văn Bính (2003), Giao tiếp và ứng xử với tư cách là thành tố văn hoá

trong hoạt động doanh nghiệp thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước,

Luận án tiến sĩ Lịch sử, Viện Văn hoá thông tin, Hà Nội.

9. Đinh Thị Vân Chi (2001), Nhu cầu giải trí của thanh niên, Luận án tiến sĩ Xã hội

học, Đại học quốc gia, Hà Nội.

10. Đoàn Văn Chúc (1999), Xã hội học văn hoá, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội

11. Trần Tất Chủng (1997), "Còn không các trò vui chơi giải trí dân gian?", Tạp chí Du

lịch Việt Nam, (50), Hà Nội.

12. Công đoàn công ty LD du lịch quốc tế Hải Phòng, (2005), Báo cáo tóm tắt một số

hoạt động Công đoàn từ năm 2001 - 2005, Hải Phòng.

13. Công ty cổ phần thông tin kinh tế thương mại (2003) Hải Phòng, Thế và lực trong

thế kỷ XXI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

14. Cục Thống kê Hải Phòng, Báo cáo phân tích đời sống các tầng lớp dân cư thành

phố Hải Phòng năm 2004.

15. Cung Văn hoá LĐHN Việt Tiệp Hải Phòng (2006), Tổng hợp kết quả hoạt động từ năm

2001 - 2005, Hải Phòng

16. Đại Bách khoa thư Xô viết (1985), Nxb Bách khoa toàn thư Xô Viết, M., (tiếng

Nga).

17. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành

Trung ương (khoá VIII), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

18. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX,

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

19. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X,

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

20. Đảng bộ thành phố Hải Phòng (2005), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ thành

phố lần thứ XIII, Nxb Hải Phòng.

21. Đồ Sơn thắng cảnh và du lịch (1997), Nxb Hải Phòng.

22. Phạm Duy Đức (2004), Hoạt động giải trí ở đô thị Việt Nam hiện nay những vấn đề

lý luận và thực tiễn, Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội.

23. Trịnh Minh Hiên (1993), Hải Phòng - Di tích lịch sử - Văn hoá, Nxb Hải Phòng.

24. Trịnh Minh Hiên (2006), Lễ hội truyền thống tiêu biểu Hải Phòng, Nxb Hải Phòng.

25. Nguyễn Xuân Kính (chủ biên) (2002), Văn hóa dân gian trong đời sống đô thị, Nxb

Khoa học xã hội, Hà Nội.

26. Đinh Gia Khánh (1995), Văn hóa dân gian với sự phát triển của xã hội, Nxb Chính

trị quốc gia, Hà Nội.

27. Hữu Ngọc (1995), Hồ sơ Văn hoá Mỹ, Nxb Thế giới, Hà Nội.

28. C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin (1977), Về văn học nghệ thuật, Nxb Sự thật, Hà

Nội.

29. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, Tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

30. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, Tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

31. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, Tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

32. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, Tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

33. Hoàng Phê (chủ biên) (1988), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

34. Quá trình hình thành, phát triển thành phố và đặc tính người Hải Phòng (1987),

Nxb Hải Phòng.

35. Rodentan (1975), Từ điển triết học, Nxb Tiến bộ Mátxcơva, Bản Tiếng Việt, Nxb

Sự thật, Hà Nội.

36. Sở Kế hoạch và Đầu tư Hải Phòng, Kinh tế Hải Phòng 50 năm xây dựng và phát

triển (1955 - 2005), Nxb Thống kê, Hà Nội

37. Sở Thể dục Thể thao Hải Phòng (5/2006), Định hướng phát triển xã hội hoá thể dục

thể thao thành phố Hải Phòng năm 2006 - 2010.

38. Sở Văn hoá Thông tin - Uỷ ban DS - GĐ & Trẻ em thành phố Hải Phòng (2006),

Báo cáo Sơ kết 5 năm thực hiện Chỉ thị 03/2000/CT- TTg của Thủ tưởng chính

phủ về việc đẩy mạnh các hoạt động Văn hoá, vui chơi, giải trí trẻ em.

39. Sở Văn hoá Thông tin Hải Phòng, Báo cáo tổng hợp quy hoạch ngành văn hoá

thông tin giai đoạn đến năm 2010.

40. Sở Văn hoá Thông tin Hải Phòng, Báo cáo hiện trạng văn hoá Hải Phòng từ năm

1990 đến tháng 9/2002.

41. Sở Văn hoá Thông tin, Quy hoạch ngành Văn hoá Thông tin đến năm 2010 (Chuyên

đề V - khôi phục, phát triển lễ hội truyền thống, văn hoá dân gian, văn hoá làng

xã) - Hải Phòng, tháng 10/2003.

42. Sở Văn hoá Thông tin Hải Phòng (2005), 50 năm xây dựng và phát triển 1955 -

2005, Nxb Hải Phòng.

43. Tạp chí Nghiên cứu lịch sử Hải Phòng (1988), Nxb Hải Phòng.

44. Văn Đức Thanh (2004), Về xây dựng môi trường văn hóa cơ sở, Nxb Chính trị quốc

gia, Hà Nội.

45. Hoàng Đình Thi (2004), Báo chí Hải Phòng với nhiệm vụ xây dựng và phát triển

nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, Luận văn tốt nghiệp

Đại học chính trị, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.

46. Thành uỷ, Hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân thành phố Hải Phòng (2005), Hải

Phòng 50 năm chiến đấu, xây dựng và trưởng thành 1955 - 2005, Nxb Hải

Phòng.

47. Giang Thu (2006), Xuân về- hấp dẫn trò chơi tổ tôm điếm, Sở Văn hóa Thông tin

Hải Phòng Hướng dẫn nghiệp vụ văn hóa cơ sở.

48. Thư viện Hải Phòng, Báo cáo tổng hợp hoạt động thư viện từ năm 2001 - 2005, Hải

Phòng.

49. Trần Thị Trâm (2005), "Vai trò của văn hoá dân gian trong các sân chơi trên truyền

hình", Tạp chí Nguồn sáng Dân gian, (3).

50. Trung tâm biên soạn Từ điển Bách khoa Việt Nam (1995), Từ điển bách khoa Việt

Nam, Hà Nội, Tập 3

51. ánh Tuyết (1996), "Du lịch vui chơi giải trí sẽ là ngành phát triển nhanh", Tạp chí

Du lịch Việt Nam, (37).

phụ lục

Phụ lục 1

Một số kết quả phát triển kinh tế - xã hội - văn hoá

của thành phố Hải Phòng 5 năm (2001 - 2005)

Đ.vị chỉ tiêu 2001 2002 2003 2004 2005

tính

Tỷ * Tổng sản phẩm trong 9.178 10.153 11,241 12.536 14,071

đồng nước (GDP)

- Tốc độ tăng trưởng % 9,1 10,40 10,64 10,71 12,25

USD 725,2 793,3 872,8 962,2 1.070,0 * GDP B/quân đầu người

Nghìn 1.723, 1.743, 1.754, 1.770, 1.784,2 * Dân số trung bình

người 4 2 5

% - Tỷ lệ dân số đô thị 45

Triệu 1,16 1,45 1,68, 2,12 2,43 * Thu hút khách Du lịch

lượt

Tỷ 319 441 457 464 546 *Doanh thu ngành D.lịch

đồng

% 11,7 9,5 6,7 4,5 3,0 * Tỷ lệ hộ nghèo

* Bưu chính viễn thông

- Số điện thoại/100dân Máy 9,9 12,3 14,9 17,6 7,4

1000 - Số người sử dụng Intenet 99 177 253 340 68

ng

Thuê - Thuê bao Intenet/100dân 0,23 0,33 0,58 0,82 1,09

bao

* Văn hoá

Triệu 0,18 - Tổng số sách xuất bản

bản

Triệu 10,7 - Tổng số Báo xuất bản

bản

- Số giờ phát sóng Đài Giờ/n 4,3 4,4 4,5 4,7 6,6

Tiếng nói VN + Đài TP gày

/năm

-Tỷ lệ số hộ được nghe đài % 75,0 95 95 98 98

- Số giờ phát sóng Truyền Giờ/n 14,60 15,50 18,60 20,0 20,0

gày hình Việt Nam + Đài TP

/năm

- Tỷ lệ số hộ được xem % 90 90 95 95 95

truyền hình

Nguồn: Sở Kế hoạch đầu tư Hải Phòng, Kinh tế Hải Phòng 50 năm xây dựng và

phát triển (1955-2005), Nxb Thống kê, Hà Nội, 2005.

Phụ lục 2

Một số đồ dùng lâu bền được người dân thành phố Hải Phòng sử dụng

Các đồ dùng lâu bền Đơn vị tính Năm

Tên đồ dùng %/100 hộ 2004

Xe máy 52,36

Máy điện thoại 42,37

Tủ lạnh 24,84

Đầu Video 49,14

Ti vi màu 87,63

Dàn nghe nhạc 16,45

Máy vi tính 7,2

Máy điều hoà nhiệt độ 3,01

Máy giặt, máy sấy quần áo 14,52

Bình tắm nước nóng 13,44

Nguồn: Cục Thống kê Hải Phòng, Báo cáo phân tích đời sống các tầng lớp dân cư

thành phố Hải Phòng năm 2004.

Phụ lục 3

Kết quả hoạt động bảo tồn - bảo tàng thời kỳ 2001-2005

Các hoạt động bảo tồn - bảo Đ.vị 2001 2002 2003 2004 2005 tàng tính

1-Tổng số Bảo tàng thuộc sở hữu 4 4 4 4 4

NN có trên địa bàn

2- Tổng số bảo tàng được xếp loại Loại 4 4 4 4 4

2

3- Tổng số hiện vật, tài liệu hiện Hiện 17.50 17.59 19.54

có 4 2 9 vật

4- Tổng số khách tham quan Ngườ 28.95 36.12 35.77 34.39 35.30

5 2 5 8 0 i

5- Tổng số di tích lịch sử, V.hoá 147 147 147 147 147 Di

tích và danh lam, thắng cảnh có trên

địa bàn

6- Tổng số di tích lịch sử, văn hoá - 96 96 96 96 96

và danh lam, thắng cảnh đã được

xếp hạng quốc gia.

* Tổng số khách tham quan Nghì 250 256 259 263 254

n

người

- Khách nước ngoài 12.00 15.00 15.50 16.20 17.00 -

0 0 0 0 0

- Khách trong nước 238 241 243,5 246,8 237,0 -

7- Tổng số di sản văn hoá phi vật 125 125 125 125 125 Di

sản thể có trên địa bàn (ghi tổng số và

liệt kê số loại) trong đó:

* Lễ hội 95 95 95 95 95 -

* Nghệ thuật biểu diễn dân gian 3 3 3 3 3 -

* Tôn giáo - tín ngưỡng dân gian 8 8 8 8 8 -

* Nghệ thuật tạo hình dân gian 3 3 3 3 3 -

* Nghề truyền thống 16 16 16 16 16 -

Nguồn:

- Sở Văn hoá Thông tin Hải Phòng - Báo cáo hiện trạng văn hoá Hải Phòng từ năm

1990 đến tháng 9 năm 2002

- Bảo tàng Hải Phòng - Báo cáo tổng hợp hoạt động bảo tồn - bảo tàng từ 2002 -

2005

Phụ lục 4

Kết quả hoạt động thư viện thành phố Hải phòng thời kỳ 2001 - 2005

Các số liệu Đ/v 2001 2002 2003 2004 2005 tính

Thư 1- Tống số Thư viện có trên 28 28 28 28 28 viện địa bàn, trong đó:

- * Thư viện tổng hợp 1 1 1 1 1

- * Thư viện chuyên ngành 13 13 13 13 13

- * Thư viện Thiếu nhi 1 1 1 1 1

- * Thư viện quận, huyện.. 13 13 13 13 13

* Phòng đọc, tủ sách cơ sở Phòng 135 135 135 135 135 tủ

2- Tình hình hoạt động

* Tổng số vốn tài liệu hiện có 319.69 325.88 305.04 303.29 313.38 Bản 5 2 8 5 5

* Tổng số vốn tài liệu được bổ - 8.669 8.187 9.670 10.090 11.876 sung trong năm

* Số lượt sách báo được luân 311.12 320.71 360.60 384.95 403.40 Lượt 3 3 2 2 3 chuyển

* Tổng số thẻ được cấp trong Thẻ 6.380 7.794 7.665 7.642 8.131 năm

* Tổng số lượt bạn đọc trong 153.41 159.01 184.85 180.58 191.80 Lượt năm 9 1 1 8 4

Nguồn: Thư viện Hải Phòng, Báo cáo tổng hợp hoạt động thư viện thành phố Hải

Phòng từ năm 2001 - 2005.

Phụ lục 5

Bảng tổng hợp kết quả hoạt động của Cung Văn hoá LĐHN Việt Tiệp

thời kỳ 2003 - 2005

TT Nội dung hoạt động Đ/v tính 2003 2004 2005

I/văn hoá nghệ thuật

1 Số lượng câu lạc bộ 9 11 14 CLB

Số lượng hội viên (được cấp thẻ) Người 1.019 1.159 486

Số buổi sinh hoạt 218 479 490 Buổi

2 Biểu diến văn hoá nghệ thuật (ca Chương nhạc, thời trang, chương trình thơ, 12 14 18 trình dạ hội

Chương 3 Tổ chức - phục vụ Hội diễn 4 11 12 trình

Chương 4 Chuyên đề, tập huấn nghiệp vụ 2 4 8 trình

Triển lãm (Tranh, ảnh, tem, thư 5 4 5 5 Cuộc pháp, mỹ thuật

6 Giao lưu văn hoá, trao đổi kinh Cuộc 11 13 14 nghiệm

7 Các lớp đào tạo Lớp 4 10 13 Số lượng học viên Lượt 120 300 390 người

Sinh hoạt Văn hoá Nghệ thuật tại Lượt/ 8

Cung VH (tham dự các hoạt động) người/ 500 580 650

ngày

II/ Thể dục thể thao

1 Số lượng CLB CLB 13 13 14

Số lượng hội viên (được cấp thẻ) Người 1.412 1.316 1.556

Số buổi sinh hoạt Buổi 415 437 510

Tổ chức Giải, Hội thao 2 Cuộc 6 9 3

Tập huấn 3 Đợt 4 5 4

4 Giao lưu, thi đấu giao hữu Cuộc 12 13 6

5 Các lớp đào tạo Lớp 10 12 8

Số lượng học viên Người 400 500 600

Tham gia các giải 6 Lần 5 4 4

Thành tích (tại các giải đấu thành Giải, Huy 7 7 18 38 phố, quốc gia, quốc tế) chương

Lượt/ 8 Sinh hoạt TDTT tại Cung văn hoá

người/ 1.100 980 1.100

ngày

Nguồn: Cung Văn hoá LĐHN Việt Tiệp Hải Phòng - Báo cáo tổng hợp kết quả

hoạt động từ năm 2003 - 2005.

Phụ lục 6

Số liệu tổng hợp về trung tâm văn hoá, Nhà văn hoá ở Hải Phòng

thời kỳ 2001 - 2005

Văn hoá thông tin cơ sở Đơn 2001 2002 2003 2004 2005 vị

Nhà - Nhà Văn hoá tỉnh/thành 01 01 01 01 01 VH

- Trung tâm Thông tin - T. tâm 01 01 01 01 01 triển lãm Thành phố

- Nhà Thiếu nhi (cả tỉnh/ Nhà 03 03 03 03 03 thành và quận huyện

- Cung VH Công đoàn quản Cung 01 01 01 01 01 lý VH

- Cung VH Thanh niên - 01 01 01 01 01

- Nhà VH, Trung tâm VHTT NVH 12 12 12 12 12 quận, huyện

- NVH xã, phường CLB 169 169 169 169 169

* Tổng số các đội Văn nghệ Đội 497 497 497 497 497 quần chúng

* Tổng số các liên hoan, hội Cuộc 47 47 47 47 47 diễn

* Tổng số nhà Bưu điện văn Nhà 142 142 142 142 142 hoá xã

- Số sách, báo, tạp chí có Bản 14.800 14.800 14.800 14.800 14.800 trong Bưu điện văn hoá xã

Nguồn: Sở Văn hoá Thông tin Hải Phòng

-Báo cáo hiện trạng văn hoá Hải Phòng từ năm 1990 đến tháng 9 năm 2002.

- Báo cáo tổng hợp một số hoạt động văn hoá thông tin cơ sở thành phố Hải Phòng

năm 2003- 2005

Phụ lục 7

Kết quả hoạt động TDTT ở Hải Phòng thời kỳ 2001 - 2005

Đơn vị Nội dung 2001 2002 2003 2004 2005 tính

* Số người tập luyện TDTT % 19 19,5 19,5 20 20,5

thường xuyên

* Gia đình Thể thao % 6,5 7 7,2 7,3 7,8

* Câu lạc bộ TDTT cơ sở Câu lạc 2.025 2.150 2.200 2.215 2.230

bộ

% * Số trường giảng dạy nội 75 80 90 90 91

khoá đúng quy định

* Số trường tổ chức ngoại % 35 40 50 52 52

khoá chất lượng tốt

* Tổ chức các cuộc thi đấu Cuộc 35 35 37 38 40

Thể thao thành phố

Nguồn: Sở Thể dục Thể thao Hải Phòng, Định hướng phát triển xã hội hoá thể dục

thể thao thành phố Hải Phòng 2006-2010, 5/2006.

Phụ lục 8

Bảng tổng hợp hoạt động báo chí ở thành phố Hải Phòng

thời kỳ 2001-2005

Đơn 2001 2002 2003 2004 2005 vị

1- Số lượng các tờ báo của

thành phố

* Báo chính trị - xã hội tờ 01 01 01 01 01

* Báo chuyên ngành - 01 01 01 01 01

* Tạp chí chuyên ngành - 03 03 03 03 03

* Các hình thức xuất bản nội 17 17 17 17 17 bộ, thông tin KH, nghiệp vụ

2- Số lượng báo, tạp chí Bản trên được phát hành/năm

* Báo của Đảng bộ, chính - 4 triệu 4 triệu 4 triệu 4 triệu 4 triệu quyền thành phố

- * Báo An ninh Hải Phòng 2 triệu 2 triệu 2 triệu 2 triệu 2 triệu

* Tạp chí tổng hợp Bản

- - Tạp chí Sinh hoạt chi bộ 6.500 6.500 6.500 6.500 6.500

- - Tạp chí Cửa biển 6.600 6.600 6.600 6.600 6.600

- Tạp chí Khoa học, Kinh tế 15.900 15.900 15.900 15.900 15.900 - HP

* Tạp chí Chuyên ngành -

- Thông tin Khoa học kinh tế 2.400 2.400 2.400 2.400 2.400 -

-Thông tin Nông nghiệp, 2.400 2.400 2.400 2.400 2.400 - Thuỷ sản

- Tạp chí Văn hoá Thông tin 2.000 2.000 2.000 2.000 2.000 - HP

* Các hình thức Xuất bản nội bản 3.000 3.000 3.000 3.000 3.000 bộ

Nguồn: Hoàng Đình Thi, Báo chí Hải Phòng với nhiệm vụ xây dựng và phát triển

nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, Luận văn tốt nghiệp Đại học

chính trị, Học viện CTQG Hồ Chí Minh, năm 2004.

Phụ lục 9

Bảng tổng hợp hoạt động phát thanh - truyền hình ở thành phố Hải Phòng thời kỳ

2001-2005

Đài 2001 2002 2003 2004 2005

1- Tổng số đài Phát thanh, TH

* Đài PTTH trực thuộc thành phố 01 01 01 01 01 -

* Đài PT trực thuộc huyện 10 10 10 10 10

* Đài truyền thanh xã, phường 216 216 216 216 216 -

* Tỷ lệ huyện, thị được phủ sóng

92,30 92,30 92,30 92,30 trong địa bàn thành phố (Phần 92,30

% trăm được tính bằng số lượng (12/1 (12/1 (12/1 (12/1 (12/1

huyện, thị trên tổng số huyện, thị 3) 3) 3) 3) 3)

có trong tỉnh thành)

* Tổng số cán bộ hiện có ở khu Cán 340 340 340 340 340 vực báo chí, phát thanh, truyền bộ hình (do địa phương quản lý)

* Số giờ phát sóng Đài Tiếng nói Ngh.g

Việt Nam + đài thành phố iờ 4.40 4.50 4.70 6.60 6,70

/năm

* Tỷ số hộ được nghe đài % 95 95 98 987 98

* Số giờ phát sóng Đài Truyền Ngh.g

14.60 15.50 18.60 20.00 20.00 hình Việt Nam + đài thành phố iờ

/năm

* Tỷ số hộ được xem truyền hình % 90 90 95 95 95

Nguồn:

- Hoàng Đình Thi, Báo chí Hải Phòng với nhiệm vụ xây dựng và phát triển nền văn

hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, Luận văn tốt nghiệp Đại học chính trị.

- Văn kiện trình Đại hội lần thứ XIII - Đảng bộ thành phố Hải Phòng, 12/2005

Phụ lục 10

Tổng hợp hoạt động của các đoàn Nghệ thuật thành phố Hải Phòng

thời kỳ 2001 - 2005

Hoạt động biểu diễn đ.vị 2001 2002 2003 2004 2005

* Tổng số Đoàn NT chuyên Đoàn 13 13 13 13 13 nghiệp có trên địa bàn, trong đó:

- Đoàn thuộc tỉnh/thành 5 5 5 5 5 -

* Tổng số đoàn NT chia theo loại 13 13 13 13 13 - hình

- Cải lương 2 2 2 2 2 -

- Chèo 1 1 1 1 1 -

- Kịch nói 2 2 2 2 2 -

- Múa rối 1 1 1 1 1 -

- Xiếc 2 2 2 2 2 -

- Ca múa nhạc 5 5 5 5 5 -

* Tổng số các vở diễn, chương vở 26 24 24 20 20 trình mới dàn dựng trong năm

- Sân khấu 16 14 14 14 14 -

- Ca múa nhạc 10 10 10 6 6 -

* Tổng số buổi biểu diễn nghệ Buổi 1.500 1.521 1.642 1.551 1.587 thuật, trong đó:

- Của các đơn vị địa phương 800 812 916 899 900 -

- Của các đoàn tư nhân 700 589 726 652 687 -

* Tổng số lượt người xem biểu Lượt

diễn nghệ thuật, trong đó: nghìn 1.205,0 1.116,0 1.108,0 1.092,0 1.112,0

người

- Của các đơn vị địa phương 645.00 603.00 750.00 710.00 790.00 lượt 0 0 0 0 0

- Của các đoàn tư nhân 560.00 513.00 358.00 382.00 322.00 - 0 0 0 0 0

* Tổng số các buổi BDNT phục - 247 223 251 233 265 vụ vùng sâu, vùng xa

* Doanh thu( 5 đoàn Nghệ thuật tỷ 1,1 1,05 1.2 đồng của TP)

Nguồn: Sở Văn hoá Thông tin Hải Phòng

- Báo cáo hiện trạng văn hoá Hải Phòng từ năm 1990 đến tháng 9 năm 2002.

- báo cáo tổng hợp hoạt động của các đoàn nghệ thuật Hải Phòng từ năm 2001 -

2005

Phụ lục 11

Số liệu tổng hợp về tình hình hoạt động của Điện ảnh thành phố Hải Phòng thời kỳ 2001

- 2005

Điện ảnh đơn vị 2001 2002 2003 2004 2005

1- Tổng số phim phát hành bộ 27 42 62 87 106 trong năm, (phim truyện)

2- Phim Video phát hành

trong năm (cả phim - 16 34 50 51 50

Tr.hình):

3- Số đơn vị chiếu phim Đơn vị 04 04 04 04 04

+ Rạp Rạp 02 02 03 03 04

+ Đội chiếu bóng lưu động Đội 02 02 02 02 02

4- Phim chiếu lưu động Buổi 288 288 288 288 288

5- Tổng số lượt người xem Lượt 43.26 50.08 60.00 78.00 90.00 các buổi chiếu phim lưu người 0 0 0 0 0 động

6- Số cửa hàng băng hình Cửa hàng 210 186 152 122 106

Nguồn: Sở Văn hoá Thông tin Hải Phòng- Báo cáo hiện trạng văn hoá Hải Phòng

từ năm 1990 đến tháng 9 năm 2002

- Trung tâm Phát hành phim và Chiếu bóng Hải Phòng - Báo các tổng hợp một số

hoạt động từ năm 2001 2005

Phụ lục 12

Số liệu về số lượng các quán Bar, Karaoke, Vũ trường

ở thành phố Hải Phòng thời kỳ 2001-2005

Số điểm 2001 2002 2003 2004 2005

Karaoke 433 402 408 382 265

Vũ trường 13 13 11 11 9

Ca nhạc phòng trà (bar) 21 21 19 8 8

Nguồn: Sở Văn hoá Thông tin thành phố Hải Phòng năm 2005

Phụ lục 13

Kết quả hoạt động du lịch ở thành phố Hải Phòng

thời kỳ 2001-2005

Đ/vị Chỉ tiêu 2001 2002 2003 2004 2005 tính

1- Mạng lưới

- Khách sạn, trong đó cái 126 134 171 193 221

+ Khách sạn 3 sao trở lên - 4 6 7 8 11

+ Công suất sử dụng % 51 53 46 48 51 phòng

2- Tổng lượt khách du 1000 1,234 1,722 1,883 2,035 2,429 lịch lượt

+ Khách quốc tế 1000 373,6 558,9 602 495,5 511,5 lượt

+ Khách nội địa 1000 860 1,163 1,281 1,540 1,918 lượt

3- Doanh thu ngành du tỷ 319 441 457 464 546 đồng lịch

Nguồn: Sở Kế hoạch đầu tư Hải Phòng, Kinh tế Hải Phòng 50 năm xây dựng và

phát triển (1955-2005), Nxb Thống kê, Hà Nội, 2005.

Phụ lục 14

Kết quả nộp ngân sách nhà nước của Casino Đồ Sơn từ năm 2001- 5005

2001 2002 2003 2004 2005

25 tỷ 570 triệu 35 tỷ 285 triệu 25 tỷ 978 triệu 25 tỷ 763 triệu 24 tỷ125 triệu

Nguồn: Công đoàn Công ty Liên doanh Du lịch quốc tế Hải Phòng - Báo cáo tóm tắt

một số hoạt động từ năm 2001 - 2005.

Phụ lục 15

Tổng hợp chi ngân sách cho các hoạt động văn hoá - xã hội

ở thành phố Hải Phòng thời kỳ 2001 - 2003

Đơn vị: tỷ đồng

Bình quân Stt Ngành 2001 2002 2003 năm

1 Văn hoá 15,66 17,62 16,79 16,69

2 Giáo dục - đào tạo 337 325,1 380 347,3

3 Y tế 93,10 97,3 109,46 99,6

4 Thể dục thể thao 15,20 15,3 16,68 15,7

5 Các ngành khác 55,56 51,88 62,30 56,58

Cộng 516,52 507,2 585,23 536,3

1 Văn hoá 3,0 3,5 2,9 3,1

2 Giáo dục - đào tạo 65,2 64,1 64,9 64,7

3 Y tế 18,0 19,2 18,7 18,6

4 Thể dục thể thao 2,9 3,0 2,8 2,9

5 Các ngành khác 10,8 10,2 10,6 10,5

Cộng 100 100 100 100

Nguồn: Sở Văn hoá Thông tin Hải Phòng - Báo cáo tổng hợp quy hoạch ngành văn hoá

thông tin giai đoạn đến năm 2010.

Phụ lục 16

Chi ngân sách cho sự nghiệp biểu diễn nghệ thuật (2000 - 2002)

Đơn vị: triệu đồng

Loại nghệ thuật 2000 2001 2002

1 Kịch nói 327 650 740

2 Chèo 367 953 508

3 Cải lương 433 450 495

4 Ca múa nhạc 695 417 530

5 Rối 325 350 410

Tổng số 2.147 2.820 2.683

Nguồn: Nguồn: Sở Văn hoá Thông tin Hải Phòng - Báo cáo tổng hợp quy hoạch ngành văn

hoá thông tin giai đoạn đến năm 2010.

Phụ lục 17

Điều chỉnh quy hoạch các khu công nghiệp tập trung

Khu cụm công nghiệp Khu đô thị mới

I. Khu vực ven sông Bạch Đằng

1. Khu CN Minh Đức - Tràng Kênh - Thị trấn Minh Đức mở rộng quy

2. Khu CN Bến Rừng mô 65.000 dân

3. Khu CN Đình Vũ - Khu đô thị đông nam TP, quy mô

175.000 dân; 2.350 ha

II. Khu vực ven sông Cấm

1. Khu CN Lê Thiện-Đại Bản-An - Đô thị bắc sông Cấm, quy mô:

Hưng 120.000 dân, 3030 ha

2. Khu CN Nômura - Đô thị tâybắc TP quy mô: 120.000

dân, 1650 ha

3. Khu CN Bến Kiền

4. Khu CN Vật Cách-Nam Sơn -Quận Hồng Bàng mở rộng

5. Khu CN Thượng Lý-Sở Dầu quy mô 191.000 dân, 2060 ha

6. Khu CN An Đông

7. Khu CN Đông Hải - Quận Hồng Bàng mở rộng

quy mô 187.000 dân, 1.241 ha

III. Khu ven sông Lạch Tray

1. Cụm CN An Tràng-Cống Đôi - Quận Kiến An mở rộng

quy mô 120.000 dân, 2.955 ha

2. Cụm CN Tiên Hội-Quán Trữ

3. Cụm CN Đông Hoà

4. Cụm CN Vĩnh Niệm - Quận Lê Chân mở rộng

quy mô 200.000 dân, 1.156 ha

- Đường 353, quy mô khoảng 100.000 dân, 2300 5. Cụm CN Thành Tô-Hải Thành

ha

Nguồn: Sở Văn hoá Thông tin Hải Phòng -Báo cáo tổng hợp quy hoạch ngành văn hoá

thông tin giai đoạn đến năm 2010.