Cải lương
Cải lương là một loại hình kịch hát có nguồn gốc từ miền Nam Việt
Nam, hình thành trên cơ sở dân ca miền đồng bằng sông Cửu
Long và nhạc tế lễ[1].
Giải thích chữ "cải lương" (改良) theo nghĩa Hán Việt, giáo sư Trần
Văn Khê cho rằng: "cải lương là sửa đổi cho trở nên tốt hơn", thể hiện qua
sân khấu biểu diễn, đề tài kịch bản, nghệ thuật biểu diễn, dàn nhạc và bài
bản.[2]
Về thời gian ra đời, theo Vương Hồng Sển: tuy "có người cho rằng
cải lương đã manh nha từ năm 1916, hoặc là 1918", nhưng theo ông thì kể
từ ngày 16 tháng 11 năm 1918, khi tuồngGia Long tẩu quốc được công
diễn tại Nhà Hát Tây Sài Gòn, cách hát mới lạ này mới "bành trướng
không thôi, mở đầu cho nghề mới, lấy đờn ca và ca ra bộ ra chỉnh đốn,
thêm thắt mãi, vừa canh tân, vừa cải cách...nên cải lương hình thành lúc
nào cũng không ai biết rõ...
Lịch sử
Từ Đờn ca tài tử
Đã đến lúc, theo Vương Hồng Sển, người ta nghe hát bội hoài, hát
bội mãi, cũng chán tai thét hóa nhàm[4] thì các ban tài tử đờn ca xuất hiện.
Buổi đầu, khoảng cuối thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20, các nhóm đờn
ca được thành lập cốt để tiêu khiển, để phục vụ trong các buổi lễ tại tư gia,
như đám tang, lễ giỗ, tân hôn...nhưng chưa hề biểu diễn trên sân khấu
hay trước công chúng.
Và nếu trước kia “cầm” (trong “cầm, kỳ thi, họa”) là của tầng lớp
thượng lưu thì đến giai đoạn này nó không còn bị bó buộc trong phạm vi
đó nữa, mà đã phổ biến rộng ra ngoài. Chính vì thế nhạc tài tử ở các tỉnh
phía Nam, về nội dung lẫn hình thức, dần dà thoát ly khỏi nhạc truyền
thống có gốc từ Trung, Bắc.
Nhắc lại giai đoạn này, trong Hồi ký 50 năm mê hát, có đoạn:
Căn cứ theo sách vở thâu thập và những lời của người lớn
tuổi nói lại, và nếu tôi (Vương Hồng Sển) không lầm thì buổi sơ khởi
của cải lương, là do sự ngẫu nhiên, sự tình cờ, là do lòng ái quốc mà
nên.
Tác giả giải thích:
Người miền Nam có cái hay là khi biết dùng bạo lực cải hại
thân vào tù, thì họ không dùng bạo lực. Họ cố đè nén lòng thương
nước, chôn giấu trong một bề ngoài lêu lổng, chơi bời...Họ (những
tài tử) thường tụ họp vừa tập ca cho vui, vừa trau giồi nghệ
thuật...rồi mỗi khi có đám tang, vào lúc canh khuya...họ cũng hòa
đờn, tập dượt ca cho đúng nhịp, để đánh cơn buồn ngủ. Sau thành
thói tục, mỗi dịp “quan - hôn - tang - tế” (chủ nhà) đều có mời họ cho
rôm đám.[4]
(cid:1) Nhóm tài tử miền Tây Nam Bộ, như: Bầu An, Lê Tài Khị
Khi ấy, Đàn ca tài tử gồm hai nhóm:
(Nhạc Khị), Nguyễn Quan Đại (Ba Đợi), Trần Quang Diệm,
(cid:1) Nhóm tài tử Sài Gòn, như: Nguyễn Liên Phong, Phan
Tống Hữu Định, Kinh Lịch Qườn, Phạm Đăng Đàn...
Hiển Đạo, Nguyễn Tùng Bá...
Đến lối Ca ra bộ
Qua lối năm 1910, ông Trần Văn Khải kể:
Ở Mỹ Tho có ban tài tử của Nguyễn Tống Triều, người Cái
Thia, tục gọi Tư Triều (đờn kìm), Mười Lý (thổi tiêu), Chín Quán (đờn
độc huyền), Bảy Vô (đờn cò), cô Hai Nhiễu (đờn tranh), cô Ba Đắc
(ca sĩ). Phần nhiều tài tử nầy được chọn đi trình bày cổ nhạc Việt
Nam tại cuộc triển lãm ở Pháp. Khi về, họ cho biết rằng Ban tổ chức
có cho họ được đờn ca trên sân khấu và được công chúng đến xem
đông đảo...[5]
Nghe được cách cho "đờn ca trên sân khấu", Thầy Hộ,
chủ rạp chiếu bóng Casino, ở sau chợ Mỹ Tho, bèn mời ban
tài tử Tư Triều, đến trình diễn mỗi tối thứ tư và thứ bảy trên
sân khấu, trước khi chiếu bóng, được công chúng hoan
nghinh nhiệt liệt.
Trong thời kỳ này, Mỹ Tho là đầu mối xe lửa đi Sài Gòn.
Khách ở các tỉnh miền Tây muốn đi Sài Gòn đều phải ghé
trạm Mỹ Tho. Trong số khách, có ông Phó Mười Hai ở Vĩnh
Long là người hâm mộ cầm ca. Khi ông nghe cô Ba Đắc ca
bài Tứ Đại, như bài “ Bùi Kiệm - Nguyệt Nga”, với một giọng
gần như có đối đáp, nhưng cô không ra bộ. Khi về lại Vĩnh
Long, ông liền cho người ca đứng trên bộ ván ngựa và "ca ra
bộ"[6]. Ca ra bộ phát sinh từ đó, lối năm 1915 - 1916.
Cũng theo Vương Hồng Sển:
các điệu ca ra bộ và cải lương sau này đều chịu ảnh hưởng
của các buổi hát nhân những kỳ bãi tường do các trường trung học
Taberd, Mỹ Tho, trường tỉnh Sóc Trăng...Cho nên chúng ta không
nên ơn các nhà tiền bối, phần đông là các giáo sư trường Pháp, đã
có sáng kiến dìu dắt và dạy cho ta biết một nghệ thuật hát ca khác
với điệu hát bội thời ấy...[7]
Nhà văn Sơn Nam còn cho biết:
năm 1917, Lương Khắc Ninh, sành về hát bội, đã diễn thuyết
tại hội khuyến học Sài Gòn: Người An Nam ta thuở nay vẫn cho
nghề hát là nghề hạ tiện, nên người có học thức một ít thì không
làm…(nay) muốn cải lương phải làm sao?...Chuyện nói đây không
khó. Có học trò trường Taberd đến lúc phát thưởng, nó ra hát theo
Lang Sa (Pháp), bộ tịch như Lang Sa. Rất đổi là hát theo ngoại
quốc, trẻ em còn làm được, hà huống người An Nam mà hát An
Nam không được sao?...Rồi đoàn ca nhạc kịch bên Pháp mỗi năm
sáu tháng đã đến Sài Gòn trình diễn, có màn có cảnh phân minh,
mỗi tuồng dứt trọn một đêm. Công chúng người Việt hâm mộ, thấy
hợp lý, thêm tranh cảnh gọi Sơn thủy, đẹp mắt.[8]
Và rồi ngay năm này (1917), ông André Thận
(Lê Văn Thận) ở Sa Đéc lập gánh hát xiệc, có thêm ít
màn ca ra bộ.
Hình thành Cải lương
Từ Anh, Năm Châu, Tư Út, Phùng Há, Ba Liên
trong tuồng Khúc Oan Vô Lượng, gánh Trần Đắc
(Cần Thơ) diễn trên sân khấu khoảng năm 1931
Qua năm 1918, cũng theo Vương Hồng
Sển, năm 1918, bỗng Tây thắng trận ngang (Đệ nhất
thế chiến), mừng quá, toàn quyền Albert Sarraut nới
tay cho phép phe trí thức bày ra một cuộc hát lấy tiền
dâng “mẫu quốc” và cho phép lập hội gánh hát để
dân bản xứ lãng quên việc nước, thừa dịp đó dân
trong Nam bèn trau giồi nghề đờn ca và đưa tài tử
salon lên sân khấu...[9]. Nhân cơ hội ấy, ông Năm Tú
(Châu Văn Tú) ở Mỹ Tho chuộc gánh của ông André
Thận rồi sắm thêm màn cảnh, y phục và nhờ ông
Trương Duy Toản soạn tuồng, đánh dấu sự ra đời
của loại hình nghệ thuật cải lương.
Đến năm 1920, cái tên “cải lương” xuất hiện lần
đầu tiên trên bản hiệu gánh hát Tân Thịnh (1920) với
câu liên đối:
Cải cách hát ca theo tiến bộ
Lương truyền tuồng tích sánh văn minh.
Mặc dù Vương Hồng Sển đã nói cải
lương hình thành lúc nào cũng không ai biết
(cid:1)
rõ, nhưng theo sự hiểu của ông thì:
Năm 1915 trở về trước, tại
(cid:1)
miền Nam, tài tử còn ca kiểu “độc thoại”.
Năm 1916, có ca kiểu "đối
thoại" (ca ra bộ)
(cid:1)
Đêm 16 tháng 11 năm 1918,
tại Rạp Hát Tây Sài Gòn, có diễn
tuồng Pháp - Việt nhứt gia (tức Gia
Long tẩu quốc) đánh dấu thời kỳ phôi thai
của cải lương.
Sau đêm này, André Thận trước và
Năm Tú sau, đã đưa cải lương lên sân khấu
thiệt thọ. Năm 1922, tuồng Trang Tử thử
vợ và tuồng Kim Vân Kiều diễn tại rạp Mỹ
Tho rồi lên diễn tại rạp Chợ Lớn và rạp
Modern Sài Gòn...lúc này hát cải lương mới
thành hình thật sự...[10]
Và diễn biến tiếp theo của cải lương
được Từ điển Bách khoa toàn thư Việt
Nam tóm gọn như sau:
Những năm 1920 - 1930 là thời kì phát triển rực rỡ, nhiều
gánh hát ra đời, nổi tiếng nhất là hai gánh Phước Cương và Trần
Đắc có dàn kịch gồm 3 loại: các tuồng tích của Trung Quốc, loại xã
hội và loại phóng tác (như "Tơ vương đến thác", "Giá trị và danh
dự").
Trong thời kì 1930 - 1934, nghệ thuật cải lương lan truyền ra
ngoài Bắc và nhiều nghệ sĩ xuất sắc xuất hiện như Năm Phỉ, Phùng
Há, Bảy Nhiêu, Năm Châu... Thời kì kinh tế khủng hoảng, nhiều
gánh hát tan rã. Dựa vào tâm lí của dân chúng ngả về tôn giáo, các
gánh hát đua nhau diễn các tích về Phật, tiên, đi đầu là gánh hát
Tân Thịnh.
Từ 1934, xuất hiện phong trào "kiếm hiệp", đi đầu là gánh
Nhạn Trắng và tác giả Mộng Vân người Bạc Liêu. Những vở nổi
tiếng: "Chiếc lá vàng", "Bích Liên vương nữ", "Bảo Nguyệt Nương".
Từ sau Cách mạng tháng Tám đến nay... Nhiều vở diễn mới xuất
hiện, nội dung phong phú và đa dạng.[11]
Đặc điểm
Bố cục
Khởi sự, các vở cải lương viết về các tích xưa, như Trảm Trịnh Ân, Vợ
Ngũ Vân Thiệu bị tên, Cao Lũng vít thiết xa, Ngưu Cao tảo mộ, Thoại
Khanh Châu Tuấn...hãy còn giữ mang hơi hướm theo kiểu hát bội, do các
soạn giả lớp cải lương đầu tiên vốn là soạn giả của sân khấu hát bội. Sau
này, các vở về đề tài xã hội mới (gọi là tuồng xã hội), như Tội của ai, khúc
oan vô lượng, Tứ đổ tường... thì hoàn toàn theo cách bố cục của kịch nói,
nghĩa là vở kịch được phân thành hồi, màn, lớp, có mở màn, hạ màn, theo
sự tiến triển của hành động kịch. Càng về sau thì bố cục của các vở cải
lương, kể cả các vở viết về đề tài xưa cũng theo kiểu bố cục của kịch nói.
Đề tài & cốt truyện
Buổi đầu, kịch bản cải lương lấy cốt truyện của các truyện thơ Nôm
như Kim Vân Kiều, Lục Vân Tiên...hoặc các vở tuồng hát bội, hoặc phỏng
theo truyện phim và kịch bản Pháp, nhưBằng hữu binh nhung (frères
d’arme), Sắc giết người (Atlantide), Giá trị và danh dự (Le Cid), Tơ vương
đến thác (La dame au camélias)... Vào những năm 1930, đã xuất hiện
những vỡ mới viết về đề tài xã hội Việt Nam như đã kể trên.
Sau đó, lại có thêm các kịch bản dựa vào các truyện cổ Ấn Độ, Ai Cập, La
Mã, Nhật Bản, Mông Cổ...Thế là cải lương có đủ loại tuồng ta, tuồng Tàu,
tuồng Tây...sau có thêm dạng tuồng kiếm hiệp, tuồng Hồ Quảng
v.v...chứng tỏ khả năng phong phú, biết đáp ứng sở thích của nhiều tầng
lớp công chúng.
Sự dung nạp không thành kiến của cải lương có thể coi là sự lai tạp,
nhưng đây cũng là khía cạnh đặc điểm có tính chất chung đối với văn hóa
của vùng đất Nam Bộ.
Ca nhạc
Các loại hình sân khấu như hát bội, chèo, cải lương được gọi là ca kịch.
Là ca kịch chứ không phải là nhạc kịch, vì soạn giả không sáng tác nhạc
mà chỉ soạn lời ca theo các bản nhạc có sẵn, cốt sao cho phù hợp với các
diễn biến cùng sắc thái tình cảm của câu chuyện.
Sân khấu cải lương sử dụng cái vốn dân ca nhạc cổ rất phong phú của
Nam Bộ. Trên bước đường phát triển nó được bổ sung thêm một số bài
bản mới (như Dạ cổ hoài lang của Cao Văn Lầu mà sau này mang
tên vọng cổ). Nó cũng gồm một số điệu ca vốn là nhạc Trung Hoa nhưng
đã Việt Nam hóa. Ngoài trừ bản vọng cổ, dưới đây là một số bài bản được
sử dụng khá phổ biến trong các tuồng cải lương:
- Tam nam: Nam xuân, Nam ai, Nam đảo (đảo ngũ cung) - Khốc hoàng
thiên - Phụng hoàng - Nặng tình xưa - Ngũ điểm - Bài tạ - Sương chiều -
Tú Anh - Xang xừ líu - Văn thiên tường (nhất là lớp dựng) - Ngựa ô bắc -
Ngựa ô nam - Đoản khúc Lam giang - Phi vân điệp khúc - Vọng kim lang -
Kim tiền bản - Duyên kỳ ngộ - U líu u xáng - Trăng thu dạ khúc - Xàng xê
v.v... - Và các điệu lý, như: giao duyên, lý con sáo, lý tòng quân, lý cái
mơn v.v..
Ngoài ra, khi các bài hát tây bắt đầu xuất hiện trên sân khấu cải lương
như: Pouet Pouet (trong Tiếng nói trái tim), Marinella (trong Phũ phàng),
Tango mysterieux (trong Ðóa hoa rừng)…thì lúc bấy giờ trong một đoàn
cải lương xã hội có hai dàn nhạc: dàn nhạc cải lương thì ngồi ở trong, còn
dàn nhạc jazz thì ngồi ở trước sân khấu...
Diễn xuất
Diễn viên cải lương diễn xuất như kịch nói. Chỉ khác là diễn viên ca chứ
không nói. Cử chỉ điệu bộ phù hợp theo lời ca, chứ không cường điệu như
hát bội. Vương Hồng Sển nói: Hát bội tượng trưng nhiều quá và la lối lớn
Sau này (khoảng những năm 60), cải lương có pha thêm những cảnh múa, đu
tiếng quá, trái lại cải lương ca rỉ rả cho thêm muồi...[12]
bay, diễn võ...cốt chỉ để thêm sinh động...Y phục, tranh cảnh
Trong các vở diễn về tuồng tích xưa hay lấy cốt truyện ở nước ngoài thì y
phục của diễn viên và tranh cảnh trên sân khấu cũng được chọn lựa sao gợi
được bối cảnh nơi xảy ra câu chuyện, nhưng cũng chỉ mới có tính ước lệ chứ
chưa đúng với hiện thực. Trong các vở về đề tài xã hội, diễn viên ăn mặc
như nhân vật ngoài đời.
Ghi công
Sơ khởi nên kể công ông Tống Hữu Định (tức Phó Mười Hai). Kế đó,
người có công gầy dựng và đưa lên sân khấu là ông André Thận. Bên
cạnh đó còn có vài người góp sức như: Kinh-lịch Quờn (hay Hườn), Phạm
Đăng Đàng...
Ngoài ra còn phải kể đến công của những bầu gánh, soạn giả, nhạc sĩ và
các đào kép tài danh thuộc thế hệ đầu, như: Tư Sự (gánh Đồng Bào
Nam), Hai Cu (gánh Nam Đồng Ban), Trần Ngọc Viện (gánh Nữ Đồng
Ban), Trương Duy Toản, Ba Ðại, Hai Trì, Nhạc khị, Năm Triều, Sáu Lầu
(Cao Văn Lầu), Nguyễn Tri Khương, Trần Văn Chiều (tự Bảy Triều), Ba
Ðắc, Bảy Lung, Ba Niêm, Hai Nhiều, Hai Cúc, Năm Phỉ, Ngọc Xứng, Ngọc
Sương, Phùng Há, Tư Sạng, Hai Giỏi, Năm Nở, Trần Hữu Trang, Tư
Chơi, Năm Châu, Ba Vân, Bảy Nam v.v... Tất cả đã góp phần hình thành
và phát triển loại hình nghệ thuật cải lương.
Cũng nên nói thêm, từ sau Hiệp định Geneve (1954), cải lương càng có
cơ hội phát triển mạnh mẽ, trở thành một loại hình nghệ thuật, một bộ môn
sân khấu có khả năng thu hút đông đảo khán thính giả. Và do sáng kiến
của ông Trần Tấn Quốc, một nhà báo kỳ cựu, giải Thanh Tâm được thành
lập năm 1958 và liên tiếp mỗi năm kế sau đều có phát huy chương và
khen thưởng cho những nam nữ nghệ sĩ trẻ có triển vọng nhất trong năm.
Một số vở cải lương nổi tiếng
Tô Ánh Nguyệt
Sầu vương biên ải
Tuyệt tình ca
Tôn Tẫn Giả Điên
Người vợ không bao giờ cưới
Đời cô Lựu
Lá sầu riêng
Nửa đời hương phấn
Tiếng hạc trong trăng
Sân khấu về khuya
Bên cầu dệt lụa
Tiếng trống Mê Linh
Tấm lòng của biển v.v...