ĐỀ TÀI BÁO CÁO

Tìm hiểu văn hóa ẩm thực Lào

MỤC LỤC

ĐỀ TÀI BÁO CÁO ........................................................................................................ 1 Tìm hiểu văn hóa ẩm thực Lào ...................................................................................... 1 MỞ ĐẦU ........................................................................................................................ 5 1. Lý do chọn đề tài ....................................................................................................... 5 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ......................................................................................... 6 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................................. 7 3.1. Đối tượng nghiên cứu ............................................................................................. 7 3.2. Phạm vi nghiên cứu ................................................................................................ 8 4. Nội dung và mục đích nghiên cứu ............................................................................. 8 4.1. Nội dung nghiên cứu ............................................................................................... 8 4.2. Mục đích nghiên cứu .............................................................................................. 8 5. Phương pháp nghiên cứu .......................................................................................... 8 6. Bố cục của đề tài ........................................................................................................ 8 NỘI DUNG .................................................................................................................. 10 CHƯƠNG 1. VĂN HÓA LÀO VÀ NHỮNG NÉT ĐẶC SẮC TRONG VĂN HÓA ẨM THỰC ................................................................................................................... 10 1.1. Đôi nét về đất nước và văn hóa Lào .................................................................... 10 1.1.1. Đôi nét về đất nước Lào .................................................................................. 10 1.1.2. Khái quát về văn hóa Lào ................................................................................ 11 1.2. Những yếu tố ảnh hưởng đến văn hóa ẩm thực Lào ................................................. 13 1.2.1. Ảnh hưởng của vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên ................................................. 13 Như chúng ta đã biết, mỗi nền ẩm thực sẽ có những nhân tố khác nhau tác động đến khiến nền ẩm thực đó hình thành nên những đặc trưng riêng. Với đất nước Lào, dấu ấn văn hóa ẩm thực cũng được hình thành bởi sự tác động của khá nhiều nhân tố, trong đó có các yếu tố về vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên. ......................................................... 14 Vị trí địa lý ................................................................................................................ 14 Lào là một quốc gia có đất liền bao quanh tại vùng Đông Nam Á với diện tích khoảng 236.800km2 vào loại rộng trung bình trên thế giới. Đây là nước có diện tích mặt nước lớn hơn mặt đất, không có biển, bị kẹp giữa dãy Trường Sơn và dòng sông Mêkông. Lào là một đất nước với 4 mặt là đất liền nên có sự giao lưu chặt chẽ với các nước láng giềng trên mọi phương diện, điều này đã ảnh hưởng khá lớn tới nền văn hóa ẩm thực. Lào có đường biên giới đất liền tiếp giáp với Thái lan, Campuchia, Việt Nam, Trung Hoa nên mọi sự giao lưu diễn ra hết sức thuận lợi. Vì văn hóa Lào là một nền văn hóa mở nên họ tiếp thu mọi tinh hoa văn hóa của các đất nước láng giềng, điều này đã tạo nên sự đa dạng trong văn hóa của người dân nơi đây. Nền ẩm thực cũng không nằm ngoài sự vận động đó. Hầu hết các món ăn của Lào đều mang đậm màu sắc của ẩm thực Thái Lan và Campuchia, do vậy đến với ẩm thực Lào ta sẽ tìm thấy trong đó sự kết hợp tuyệt vời giữa cái béo mà không ngậy trong ẩm thực Thái và vị giòn tan của các món ăn từ côn trùng hết sức đặc trưng trong ẩm thực Campuchia. ........................................................ 14  Điều kiện tự nhiên .................................................................................................... 14 Địa hình cũng là nhân tố chi phối khá lớn tới văn hóa ẩm thực Lào. Được coi là tiểu lục có diện tích mặt nước lớn hơn mặt đất với những dòng sông trải dài như một mạng lưới

trên khấp đất nước với dòng sông Mêkong hùng vĩ, Lào có một nguồn cá tôm nước ngọt dồi dào để phục vụ cho các bữa ăn, vì thế cá chính là thực phẩm chủ yếu của người dân nơi đây. Ngoài ra với một diện tích rừng khá lớn cùng những cao nguyên trù phú đã giúp cho họ có thể tận dụng những nguồn thức ăn từ tự nhiên như thú rừng, rau quả hay những loại côn trùng… ............................................................................................................ 14 Ở Lào, có nguồn tài nguyên thủy văn dồi dào có giá trị kinh tế quan trọng và đa dạng đồng thời là trục chính của đất nước, dòng Mêkông với 1300 km chiều dài, là yếu tố của sự thống nhất nước Lào về mặt địa lý. Vai trò đó cũng đủ nói lên tầm quan trọng có tính chất lồng kép về kinh tế của dòng sông này đối với nước Lào. Dòng Mêkông với hệ thống phụ lưu của nó đã tạo ra những đồng bằng màu mỡ, đã là chiếc nôi hồng lịch sử của các dân tộc Lào từ thời buổi xa xưa. Hệ thống thủy văn khá dày đặc phân bố rộng khắp trên lãnh thổ Lào, trong điều kiện khí hậu nhiệt đới ẩm, không những là nguồn cung cấp nước dồi dào cho những nhu cầu phát triển công nông nghiệp trong tương lại mà còn là hệ thống giao thông đường thủy thuận tiện cho việc nối liền các vùng nội địa với nhau. ...................................................................................................................................... 15 Cũng cần phải kể đến giá trị kinh tế của mạng lưới sông ngòi và hệ thống các hồ chứa nước sẽ xây dựng về sau này đối với việc phát triển nghề nuôi cá nước ngọt – một nguồn thực phẩm có giá trị dinh dưỡng cao cho nhân dân, nhất là tỏng điều kiện nước Lào không có vùng biển. Nguồn tài nguyên thủy văn là một thành phần quan trọng trong tổng thể lãnh thổ tự nhiên, là một tặng phẩm rất quý mà thiên nhiên đã dành cho đất nước Triệu Voi. ...................................................................................................................... 16 Tài nguyên động, thực vật của Lào rất phong phú. Lào được mệnh danh là vương quốc của rừng. Điều đó nói lên vị trí kinh tế quan trọng của kho vàng xanh giàu có của Lào. Nếu đất nước Lào là một thiên đường của các nhà thực vật học thì cũng có thể nói rằng đây chính là một vườn bách thú thiên nhiên lý tưởng ở miền nhiệt đới với thành phần đa dạng của các loài động vật, chim chóc có giá trị kinh tế cao. Loại động vật đặc hữu có giá trị nhất của Lào là voi. Sự phong phú của loài động vật ấy khiến cho đất nước này từ xưa đã được mệnh danh là đất nước của Triệu Voi. Ngoài voi, còn có các loại động vật đặc hữu khác như hổ, báo, gấu, hươu, nai, bò rừng… và nhiều giống chim quý. Thú rừng của Lào có giá trị kinh tế lớn, chúng cung cấp một khối lượng thịt ngon và bổ đáng kể. ....... 16 1.2.2. Ảnh hưởng của điều kiện kinh tế - xã hội ............................................................. 16 Tuy nhiên, chính sách quản lý và khai thác chưa hợp lý của nhà nước chưa mang lại hiệu quả khiến cho bức tranh kinh tế của Lào còn khá ảm đạm. Mức sống của cư dân nhìn chung còn gặp rất nhiều khó khăn trong việc đáp ứng những nhu cầu sống vật chất (điện, nước, sinh hoạt..), nhu cầu giao lưu văn hóa, tinh thần, hoạt động phúc lợi xã hội cần được nâng cao hơn nữa. Hiện nay, nền kinh tế Lào có rất nhiều khởi sắc với việc thực hiện tốt chương trình kế hoạch 5 năm. Lào đang nắm bắt thời cơ, tạo những bước đột phá và tạo nên những tiền đề kinh tế - xã hội vững chắc. Tăng trưởng GDP năm 2008 đạt 7,9%, thu nhập bình quân đầu người đạt 841 USD/người/năm. Đây được xem là những bước tiến quan trọng nhằm nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người dân, đồng thời có sự ảnh hưởng đáng kể đến nền văn hóa ẩm thực của đất nước. Bên cạnh việc khai thác hiệu quả trữ lượng tài nguyên thiên nhiên phục vụ nhu cầu sống, Lào đã tạo cho mình phong cách ẩm thực riêng trong hệ thống ẩm thực Đông Nam Á. .................................. 17 Ngoài ra một nhân tố quan trọng hình thành nên đặc trưng trong ẩm thực Lào chính là bản chất của một nước nông nghiệp lúa nước. Là một quốc gia cũng xuất phát từ nền nông nghiệp nên nền ẩm thực nơi đây luôn mang đậm dấu ấn của những cánh đồng màu

mỡ và những con sông phì nhiêu. Chính điều này đã giúp cho người Lào có thể duy trì được những thói quen trong sinh hoạt văn hoá nói chung và văn hóa ẩm thực nói riêng. 18 CHƯƠNG 2. ẨM THỰC LÀO – MỘT NÉT ĐẶC TRƯNG TRONG VĂN HÓA CỦA ĐẤT NƯỚC TRIỆU VOI .................................................................................. 18 2.1. Khái niệm về văn hóa ẩm thực ............................................................................. 18 2.1.1. Khái niệm văn hóa ............................................................................................. 18 Như vậy, định nghĩa về văn hoá là khá đa dạng và phức tạp. Từ những định nghĩa khác nhau về văn hoá có thể hiểu rằng: Văn hoá là bao gồm tất cả những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra để phục vụ cho chính mình và làm cho con người thực sự người hơn. Văn hoá là một khái niệm thuộc phạm trù giá trị - nó gắn với sự nhìn nhận, đánh giá của con người; văn hoá là sự hoà nhịp với lao động sáng tạo. Như vậy, có thể xem văn hóa là cái còn đọng lại, tinh túy nhất, không dễ thay đổi của một dân tộc, đó là nếp sống của một dân tộc............................................................................................... 19 2.1.2. Khái niệm ẩm thực ............................................................................................ 19 2.1.3. Khái niệm văn hóa ẩm thực............................................................................... 19 2.2. Phong cách ẩm thực Lào ......................................................................................... 20 2.2.1. Nguyên liệu ......................................................................................................... 20 Người Lào ăn gạo là chính nhưng rất ít ăn gạo tẻ, họ chủ yếu ăn gạo nếp và được nấu lên thành xôi. Thức ăn cùng với xôi gồm có cá, thịt bò, thịt trâu, thịt heo, thịt vịt và các loại rau khác. Thức ăn quan trọng nhất là "cheo" (một loại nước chấm truyền thống của Lào). Có nhiều loại "cheo" khác nhau nhưng người Lào thích nhất là loại "cheo pa đẹt" (giống mắm nêm của người Việt). Trong mỗi bữa ăn, nếu thiếu "cheo" thì cảm thấy ăn không ngon miệng. "Cheo" dùng để chấm rau. Nếu không có thức ăn, có thể ăn xôi với "cheo" cũng rất ngon và no bụng............................................................................................... 20 2.2.2. Gia vị .................................................................................................................. 21 Cũng như rất nhiều các quốc gia trong khu vực, nền ẩm thực của Lào đa dạng không kém, điển hình là ba hương vị đặc trưng: Chua, cay và ngọt đã “hữu ý” kết hợp với nhau làm nên linh hồn và sắc màu riêng trong ẩm thực của người dân Lào. ............................ 21 2.2.3. Phương pháp chế biến ....................................................................................... 22 2.3. Các món ăn tiêu biểu ............................................................................................ 23 2.3.1. Các món ăn hàng ngày ......................................................................................... 23 Rau là một món ăn hàng ngày không thể thiếu với bất kì quốc gia nào ở Đông Nam Á và các món ăn được chế biến từ rau cũng vô cùng đa dạng trong đó rau luộc có thể coi là món ăn làm từ rau đơn giản nhất. Thế nhưng món rau luộc ở Lào lại mang một màu sắc đặc biệt và khiến người ta ấn tượng dù chỉ một lần thưởng thức. Nó đặc biệt không phải ở nguyên liệu mà chính là ở phương pháp chế biến. Nếu như hầu hết rau luộc ở các quốc gia khác đều dùng nước sôi để luộc chín rau thì người Lào lại dùng phương pháp của riêng mình. Họ cho rau vào những nồi hấp cách thủy và dùng hơi nước để rau chin, như thế rau vẫn giữ được màu xanh và vị ngọt nguyên chất. Rau luộc chấm với nước mắm sẽ là một lựa chọn không thể thiếu trong bất kì mộn bữa ăn thông thường của người Lào. . 26  Các loại nước chấm thường dùng ............................................................................. 32 Đối với các quốc gia Châu Á, mỗi khi Tết đến lại là một dịp để gia đình sum họp, quây quần quanh bàn ăn ấm cúng. Những món ăn ngày Tết đôi khi cũng có chút khác so với những ngày thường, ẩn chứa trong đó những ý nghĩa sâu xa, những mong muốn tốt đẹp nhất cho gia đình, công việc. Nhắc tới văn hóa ẩm thực của mỗi quốc gia Châu Á không thể không nhắc tới nét văn hóa ẩm thực Tết rất đặc trưng, rất riêng biệt. Và ẩm thực Lào

trong dịp lễ tết cũng chính là một nét hấp dẫn khơi dậy trong vị giác mỗi người sự thích thú, trong đó ta không thể không nhắc tới món Lạp và xôi nếp. ..................................... 33 2.6. Ẩm thực Lào- nét tương đồng và khác biệt với một số nước trong khu vực ...... 40 2.7. Giá trị văn hoá trong ẩm thực Lào ...................................................................... 41 KẾT LUẬN .................................................................................................................. 42 TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................... 43

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Tuy là đất nước của miền đất bị thất lạc cuối cùng ở Đông Nam Á

nhưng Lào lại được biết đến như một quốc gia với nền văn hóa phong phú,

đa dạng, nơi tập trung và hội tụ của những nét đẹp văn hóa nhưng ẩn chứa

trong nó vẫn là những đặc trưng văn hóa rất riêng, vô cùng đặc sắc và mang

đậm bản sắc văn hóa truyền thống. Trên nền văn hóa ấy, văn hóa ẩm thực đã

góp phần tạo nên một nền văn hóa Lào với những đặc trưng riêng biệt, có sự

tương đồng nhưng không bị hòa lẫn với các nền văn hóa khác trong khu vực.

Trong kho tàng văn hóa ẩm thực của thế giới, Lào được biết đến là đất

nước của nhiều món ăn ngon, từ những món ăn dân giã trong đời thường đến

những món ăn cầu kỳ để phục vụ cho ngày Tết và lễ hội đều mang những

nét tinh túy của linh hồn đất nước Triệu Voi.

Tới với đất nước Lào chúng ta sẽ được cùng nhau thưởng thức vị

thơm dẻo của cơm lam, xôi nếp; vị cay, ngọt rất hấp dẫn của món lạp; của

thịt nướng; một chút nồng, tanh của món tép nhảy lẫn với vị cay của ớt và

cùng nhau ngây ngất trong hơi men của rượu hay sảng khoái khi được

thưởng thức một cốc nước dừa mát lạnh... Tất cả đã tạo nên một hương vị rất

riêng, rất Lào. Và hơn hết, đó không chỉ còn là ẩm thực mà nó còn là cả một

kho tàng văn hóa lâu đời của đất nước tươi đẹp này.

“Tìm hiểu văn hóa ẩm thực Lào” để qua đó chúng ta thấy được cái

hay, cái đẹp và hơn hết là thấy được những đặc trưng trong văn hóa ẩm thực

Lào nói riêng và văn hóa đất nước Lào nói chung. Trong đề tài này, chúng

tôi đi sâu vào tìm hiểu những món ăn, đồ uống trong văn hóa ẩm thực của

người Lào để hiểu sâu hơn những giá trị văn hóa tiềm ẩn bên trong đời sống

vật chất cũng như đời sống tinh thần của con người nơi đây.

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Đất nước, con người, văn hóa Lào với những nét riêng biệt luôn là đề

tài thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu, nhất là các nhà nghiên

cứu văn hóa với những khía cạnh khai thác khác nhau, từ phong tục tập

quán, tín ngưỡng, lối sống, cách ứng xử… tới những thói quen trong cuộc

sống sinh hoạt hằng ngày hay chỉ là những món ăn tiêu biểu.

Cuốn sách “Lào, Đất nước – con người” của tác giả Hoài

Nguyên đã cung cấp cho người đọc những hiểu biết nhất định về lịch sử đấu

tranh cũng như quá trình dựng nước, giữ nước và xây dựng một nền văn hóa

Lào phong phú, đa dạng nhưng hết sức gần gũi. Cuốn sách cũng giúp người

đọc được tiếp cận gần hơn, hiểu hơn những con người chân thật, hiền hòa

của đất nước Triệu Voi này.

Trong cuốn “Văn hóa Đông Nam Á” của tác giả Mai Ngọc Chừ

có viết về cách ăn uống của các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á trong

đó có cách ăn uống của đất nước Lào. Tuy nhiên cuốn sách không đi nghiên

cứu sâu về văn hoá ẩm thực của từng dân tộc cụ thể mà chỉ đi khai thác từng

phương diện văn hoá khác nhau cho cả khu vực nhưng tác phẩm chính là

một bức tranh cô đọng giúp người đọc có cái nhìn khá toàn diện về những

nét tương đồng trong văn hoá của các nước.

Tác giả Nguyễn Thị Hải Yến với cuốn sách “Lào – xứ sở Triệu

Voi” đã cho người đọc một cái nhìn tổng quan, bao quát về đất nước Lào

tươi đẹp với những thông tin đa dạng từ vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, tính

cách con người, tới các yếu tố văn hóa trong đó có ẩm thực Lào.

Cuốn sách “Tìm hiểu lịch sử - văn hóa Lào” của tác giả Tuyết

Đào cũng đã giới thiệu tổng quan về đất nước, con người, về lịch sử hình

thành và phát triển của đất nước, của nền văn hóa Lào.

Trên một số tạp chí cũng các bài viết đề cập tới nội dung liên quan

như Tạp chí Văn hoá Nghệ thuật với bài viết “Đông Nam Á và những dấu ấn

văn hoá” cũng đã chỉ ra những nét độc đáo trong tổng thể văn hoá chung

của các dân tộc Đông Nam Á từ thời xa xưa đê từ đó giúp ta thấy được sự

phát triển cũng như đặc trưng văn hóa của các quốc gia theo tiến trình phát

triển của lịch sử.

Ngoài ra, còn có nhiều bài viết trên các tạp chí, nhiều công trình

nghiên cứu khác đã viết về văn hóa, trong đó có đề cập tới văn hóa ẩm thực

Lào. Tuy nhiên, có một điểm chung là hầu hết các cuốn sách, các công trình

nghiên cứu mới chỉ tập trung tìm hiểu, giới thiệu đất nước, văn hóa Lào một

cách tổng quan, khái quát chứ chưa đi sâu nghiên cứu văn hóa Lào ở từng

nội dung cụ thể, trong đó có cả ẩm thực.

Với đề tài này, trên cơ sở tìm hiểu các công trình nghiên cứu về

văn hóa ẩm thực Lào, chúng tôi sẽ lần lượt đi vào khảo sát những món ăn,

thức uống cụ thể từ những món ăn đơn giản, thường ngày tới những món ăn

sử dụng trong các dịp lễ Tết, để chỉ ra những nét đặc trưng trong văn hóa ẩm

thực Lào.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Nghiên cứu văn hóa ẩm thực và những đặc trưng trong văn hóa

ẩm thực của người Lào.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

Đề tài này chúng tôi tìm hiểu những đặc trưng văn hóa ẩm thực

của người Lào trong sinh hoạt thường ngày, các dịp lễ Tết… được biểu hiện

rõ nét qua cách chế biến, trình bày và thưởng thức các món ăn.

4. Nội dung và mục đích nghiên cứu

4.1. Nội dung nghiên cứu

Nhiệm vụ của người viết là đi tìm hiểu văn hóa ẩm thực của

người Lào.

4.2. Mục đích nghiên cứu

Với đề tài “Tìm hiểu văn hóa ẩm thực Lào” chúng tôi muốn

giới thiệu tới người đọc về một đất nước với một nền văn hóa phong phú, đa

dạng và hơn hết là giới thiệu về một đất nước với những đặc trưng trong văn

hóa ẩm thực, với những cái hay, cái đẹp rất riêng biệt, không thể hòa lẫn với

bất cứ một quốc gia, một dân tộc nào khác.

5. Phương pháp nghiên cứu

Để tiến hành đề tài “Tìm hiểu văn hóa ẩm thực Lào”, chúng tôi đã sử

dụng các phương pháp nghiên cứu sau:

- Phương pháp thu thập tài liệu

- Phương pháp thống kê – phân loại

- Phương pháp phân tích – tổng hợp

- Phương pháp so sánh, đối chiếu.

6. Bố cục của đề tài

Đề tài “Tìm hiểu văn hóa ẩm thực Lào”, ngoài phần mở đầu, kết luận

và tài liệu tham khảo, phần nội dung chính gồm hai chương:

Chương 1: Văn hóa Lào và những nét đặc sắc trong văn hóa ẩm thực

Chương 2: Ẩm thực Lào – một nét đặc trưng trong văn hóa của đất

nước Triệu Voi.

NỘI DUNG

CHƯƠNG 1. VĂN HÓA LÀO VÀ NHỮNG NÉT ĐẶC SẮC

TRONG VĂN HÓA ẨM THỰC

1.1. Đôi nét về đất nước và văn hóa Lào

1.1.1.................................................................................................... Đ

ôi nét về đất nước Lào

Lào là một quốc gia ở Đông Nam Á nằm sâu trong đất liền và

được coi là nơi giao lưu của hai nền văn minh lớn: Ấn Độ-Trung Hoa. Địa

thể đất Lào có nhiều núi non bao phủ bởi rừng xanh; đỉnh cao nhất là Phou

Bia cao 2.817 m. Diện tích còn lại là bình nguyên và cao nguyên. Sông Mê

Kông là con soonh lớn nhất, chảy dọc gần hết biên giới phía tây, giáp giới

với Thái Lan, trong khi đó dãy Trường Sơn chạy dọc theo biên giới phía

đông giáp với Việt Nam. Khí hậu trong khu vực là khí hậu nhiệt đới của khu

vực gió mùa với hai mùa rõ rệt: mùa mưa và mùa khô. Mùa mưa kéo dài từ

tháng 5 đến tháng 11, tiếp theo đó là mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4 năm

sau. Thủ đô và là thành phố lớn nhất của Lào là Viêng Chăn, các thành phố

lớn khác: Louang Phrabang, Savannakhet và Pakse. Lào cũng là quốc gia có

nhiều loài động vật quí hiếm trên thế giới sinh sống, nổi bật nhất là hổ, voi

và bò tót khổng lồ.

Mặc dù đã nỗ lực rất nhiều nhưng hiện nay Lào vẫn đang là một

trong những nước chậm phát triển với bức tranh kinh tế ảm đạm, thu nhập

bình quân đầu người thấp trên thế giới. Để khắc phục tình trạng này, chính

phủ Lào đang đề ra các chính sách mới và kêu gọi sự hỗ trợ từ nước ngoài

để Lào ngày càng phát triển hơn.

Và để đưa đất nước đi lên thì sự góp sức của nhân dân chính là

một nhân tố vô cùng quan trọng. Dân cư Lào với khoảng 5 triệu người bao

gồm sáu bộ tộc hợp thành, họ đem nền văn hóa của mỗi bộ tộc hòa vào nền

văn hóa chung, tạo nên sự đa dạng và phong phú, đặc sắc của bức tranh văn

hóa Lào.

Nhân dân Lào có tinh thần yêu nước, bao dung, luôn yêu thương

giúp đỡ lẫn nhau. Yêu lao động, hòa bình, chính nghĩa, kiên quyết không

khuất phục trong đấu tranh chống áp bức bóc lộc của nội ban cũng như nội

phản.

1.1.2.................................................................................................... K

hái quát về văn hóa Lào

Bản sắc văn hóa của Lào là một nền văn hóa nông nghiệp lúa

nước gắn với văn hóa lúa nước và văn minh xóm làng. Điều này đã tạo nên

cho nền văn hóa Lào bên cạnh những nét riêng của yếu tố bản địa thì vẫn

mang hơi hướng chung với văn hóa của các nước trong khu vực, góp phần

tạo ra bản sắc riêng với những đóng góp quan trọng trong kho tàng văn hóa

của thế giới.

Lào với tên gọi khác là đất nước Triệu Voi (Vạn tượng) nên họ

rất quý trọng loài voi, với người Lào bạch tượng chính là biểu tượng cho vận

may của con người và cả dân tộc Lào.

Bên cạnh đó nền văn hóa Lào có nhiều điểm tương đồng với

các nước láng giềng mà đặc biệt là Thái Lan với nền văn hóa Phật giáo. Đạo

Phật đã ăn sâu vào tư tưởng của người Lào, ảnh hưởng này được phản ánh

trong nhiều lĩnh vực như ngôn ngữ, văn học, nghệ thuật… tạo nên một dân

tộc Lào rất riêng. Từ thế kỷ XIV Phật giáo đã trở thành quốc giáo với hơn

90% dân số theo Phật giáo tiểu thừa. Người dân Lào đã thấm nhuần trong

mình những lời Phật dạy, một mực kính trọng các bậc tăng ni, những vị sư

sãi trong chùa. Với dân số khoảng hơn 6 triệu người và có tới 1.400 ngôi

chùa lớn nhỏ, Lào là nước có tỉ lệ chùa so với dân cao nhất thế giới. Chùa

gắn liền với trường học, gắn cả với đời, sư sãi ăn uống bình thường như dân

dã. Phật tử Lào thường tích đức bằng nhiều hoạt động gọi là Thiện Nghiệp.

Vào những dịp lễ hội, Lào hấp dẫn khách du lịch và các Phật tử đến tham

quan, tìm hiểu Phật giáo không kém gì xứ sở chùa vàng – đất nước láng

giềng Thái Lan.

Có thể nói Phật giáo tiểu thừa đã ảnh thưởng rất lớn đến đạo

đức, tư cách, cách cư xử của người Lào. Họ không coi trọng lắm đến việc

tích lũy của cãi cho riêng mình mà họ dùng của cải cá nhân để cúng bái, tu

sửa chùa chiền. Do ảnh hưởng của Phật giáo nên người Lào luôn nhã nhặn,

ôn hòa, tự kiềm chế và họ ghét lối sống cực đoan trong thực tế…

Ngoài ra người Lào cũng lưu giữ một kho tàng phong tục tập

quán rất đa dạng những cũng khá đồng nhất, điều này rất dễ nhận ra bởi mỗi

một vùng, mỗi địa phương đều có những phong tục riêng nhưng vẫn mang

tính phổ quát. Tính phổ quát thể hiện trước hết ở cách ăn, mặc: Về mặc: đặc

điểm chung là váy, khố, trang phục thường có phục trang và trang sức với

vòng đeo tay, cổ, khuyên tai… Về ăn: tục ăn uống của người Lào với cơm là

chính, rau, cá, hoa quả, thịt là phụ. Và với tất cả người Lào họ đều mong chờ

ngày tết cổ truyền của dân tộc với tên gọi Bunpimay hay còn gọi là Tết té

nước diễn ra từ ngày 13 đến ngày 16 tháng 4 hàng năm. Người dân té nước

để cầu may, bình yên cho cả năm. Đầu tiên họ tưới nước lên các tượng Phật,

sau đó còn té nước vào các nhà sư, chùa và cây cối xung quanh chùa, rồi đến

những người xung quanh. Họ còn té nước vào nhà cửa, đồ thờ cúng, súc vật

và công cụ sản xuất. Trong những ngày này, người dân còn xây tháp cát,

phóng sinh, ăn món lạp, hái hoa tươi, buộc chỉ cổ tay. Với người Lào, những

phong tục trong lễ hội Bunpimay mang ý nghĩa đem lại sự mát mẻ, phồn

vinh cho vạn vật, ấm no hạnh phúc cho cuộc sống, là dịp để nuôi dưỡng và

hun đúc nghệ thuật dân tộc. Một trong những phong tục của người Lào còn

được thể hiện trong cách ở, họ ở trên những ngôi nhà sàn vì nhà sàn phù hợp

với điều kiện, địa hình, khí hậu nước Lào. Bên cạnh đó, tín ngưỡng bản địa

của người Lào hết sức đa dạng, tín ngưỡng đó gồm tín ngưỡng sùng bái tự

nhiên, tín ngưỡng phồn thực, tín ngưỡng thờ cúng người đã mất, tín ngưỡng

thờ thần.

Lào còn được coi là đất nước của những lễ hội, tháng nào trong

năm cũng có. Lễ hội ở Lào hay còn được gọi là Bun, nghĩa là phước, làm

Bun nghĩa là làm phước để được phước. Cũng giống như các nước khác

trong khu vực Đông Nam Á, lễ hội tại đất nước Lào cũng chia làm hai phần:

phần lễ là phần nghi thức do chính con người đặt ra để giao cảm với thần

linh và phần hội chủ yếu là vui chơi, giải trí. Các lễ hội lớn của Lào gồm

Bun Pha Vet (Phật hóa thân) vào tháng 1; Bun Visakha Puya (lễ Phật đản)

vào tháng 4; Bun BangPhay (pháo thăng thiên) vào tháng 5; Bun Khao

PhanSa – (mùa chay) vào tháng 7; Bun Khao Padapdin (tưởng nhớ những

người đã mất) vào tháng 9; Bun Suanghua (đua thuyền) vào tháng 10. Lễ hội

tại Lào luôn gắn liền với chùa.

Tuy nhiên người Lào cũng rất có ý thức trong việc tiếp nhận có

chọn lọc những yếu tố từ bên ngoài. Với các đặc điểm của vị trí địa lí nên

người Lào luôn sẵn sang tiếp thu văn hóa từ các dân tộc cả phương Đông và

phương Tây như Thái Lan, Trung Hoa, Ấn Độ, Pháp, Mỹ…Chính sự hòa

quyện giữa yếu tố mở tiếp thu bên ngoài và yếu tố văn hóa bản địa đã làm

cho văn hóa Lào ngày càng đa dạng, nhiều màu sắc trong đời sống hiện nay.

Ngoài ra, một đặc điểm khác là hiện nay Lào lưu giữ nhiều nét văn

hóa gắn liền với nông thôn: nền móng nông nghiệp lúa nước gắn với tổ chức

làng xã, tổ chức làng xã có tính tự quản.

1.2. Những yếu tố ảnh hưởng đến văn hóa ẩm thực Lào

1.2.1. Ảnh hưởng của vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên

Như chúng ta đã biết, mỗi nền ẩm thực sẽ có những nhân tố

khác nhau tác động đến khiến nền ẩm thực đó hình thành nên những đặc

trưng riêng. Với đất nước Lào, dấu ấn văn hóa ẩm thực cũng được hình

thành bởi sự tác động của khá nhiều nhân tố, trong đó có các yếu tố về vị trí

địa lý và điều kiện tự nhiên.

Vị trí địa lý

Lào là một quốc gia có đất liền bao quanh tại vùng Đông Nam Á với diện tích khoảng 236.800km2 vào loại rộng trung bình trên thế giới. Đây là

nước có diện tích mặt nước lớn hơn mặt đất, không có biển, bị kẹp giữa dãy

Trường Sơn và dòng sông Mêkông. Lào là một đất nước với 4 mặt là đất liền

nên có sự giao lưu chặt chẽ với các nước láng giềng trên mọi phương diện,

điều này đã ảnh hưởng khá lớn tới nền văn hóa ẩm thực. Lào có đường biên

giới đất liền tiếp giáp với Thái lan, Campuchia, Việt Nam, Trung Hoa nên

mọi sự giao lưu diễn ra hết sức thuận lợi. Vì văn hóa Lào là một nền văn hóa

mở nên họ tiếp thu mọi tinh hoa văn hóa của các đất nước láng giềng, điều

này đã tạo nên sự đa dạng trong văn hóa của người dân nơi đây. Nền ẩm

thực cũng không nằm ngoài sự vận động đó. Hầu hết các món ăn của Lào

đều mang đậm màu sắc của ẩm thực Thái Lan và Campuchia, do vậy đến với

ẩm thực Lào ta sẽ tìm thấy trong đó sự kết hợp tuyệt vời giữa cái béo mà

không ngậy trong ẩm thực Thái và vị giòn tan của các món ăn từ côn trùng

hết sức đặc trưng trong ẩm thực Campuchia.

 Điều kiện tự nhiên

Địa hình cũng là nhân tố chi phối khá lớn tới văn hóa ẩm thực

Lào. Được coi là tiểu lục có diện tích mặt nước lớn hơn mặt đất với những

dòng sông trải dài như một mạng lưới trên khấp đất nước với dòng sông

Mêkong hùng vĩ, Lào có một nguồn cá tôm nước ngọt dồi dào để phục vụ

cho các bữa ăn, vì thế cá chính là thực phẩm chủ yếu của người dân nơi đây.

Ngoài ra với một diện tích rừng khá lớn cùng những cao nguyên trù phú đã

giúp cho họ có thể tận dụng những nguồn thức ăn từ tự nhiên như thú rừng,

rau quả hay những loại côn trùng…

Khí hậu Lào chia thành hai mùa rõ rệt: mùa mưa từ tháng 5 tới tháng

11, mùa khô từ tháng 12 tới tháng 4. Đất nước Lào có một nguồn khí hậu vô

tận, thuận lợi cho sự phát triển một nền nông nghiệp nhiệt đới. Cường độ

bức xạ mặt trời cao, lượng ánh sáng dồi dào (khắp nơi trong toàn quốc đều

có ít nhất 1500 giờ nắng trong mỗi năm), cán cân bức xạ luôn luôn dương đã

quy định ở nhiệt độ cao trên toàn lãnh thổ Lào: nhiệt độ trung bình cả năm ở các địa phương đều trên 260C (trừ các miền núi cao), tổng nhiệu độ hoạt động vượt quá 75000C. Điều kiện nhiệt đới này là yếu tố thiên nhiên rất

thuận lợi cho sự phát triển thâm canh tăng vụ, vì cây trồng có thể sinh

trưởng và phát triển quanh năm. Yếu tố thiên nhiên này lại càng có ý nghĩa

quan trọng đối với sự phát triển nền nông nghiệp nhiệt đới của Lào. Điều

kiện khí hậu nhiệt đới ẩm với lượng mưa phong phú, ánh nắng chan hòa và

lộng gió mùa cũng tại ra một nguồn năng lượng vô tận. Người ta còn tìm

thấy sự tươi đẹp của khí hậu ở kho tàng vô giá của rừng nhiệt đới với nhiều

loại động thực vật đặc hữu cơ có giá trị cao về kinh tế.

Tuy là xứ sở của núi và cao nguyên, nhưng Lào có một nguồn dự trữ

lớn về đất nông nghiệp – cơ sở cho việc phát triển toàn diện một nền nông

nghiệp nhiệt đới với các loại nông phẩm khác nhau. Diện tích đồng bằng phù

sa mới trải suốt dọc sông Mêkông và vùng hạ lưu của các phụ lưu của nó

chiếm khoảng 10% diện tích lãnh thổ toàn quốc. Nhưng đồng bằng phù sa

màu mỡ này được bồi đắp từ kỷ đệ từ, những đồng bằng này còn đang ở

trong quá trình phát triển và là vựa lúa của nước Lào.

Ở Lào, có nguồn tài nguyên thủy văn dồi dào có giá trị kinh tế quan

trọng và đa dạng đồng thời là trục chính của đất nước, dòng Mêkông với

1300 km chiều dài, là yếu tố của sự thống nhất nước Lào về mặt địa lý. Vai

trò đó cũng đủ nói lên tầm quan trọng có tính chất lồng kép về kinh tế của

dòng sông này đối với nước Lào. Dòng Mêkông với hệ thống phụ lưu của nó

đã tạo ra những đồng bằng màu mỡ, đã là chiếc nôi hồng lịch sử của các dân

tộc Lào từ thời buổi xa xưa. Hệ thống thủy văn khá dày đặc phân bố rộng

khắp trên lãnh thổ Lào, trong điều kiện khí hậu nhiệt đới ẩm, không những

là nguồn cung cấp nước dồi dào cho những nhu cầu phát triển công nông

nghiệp trong tương lại mà còn là hệ thống giao thông đường thủy thuận tiện

cho việc nối liền các vùng nội địa với nhau.

...................................................................................................................Cũng cần phải kể đến giá trị kinh tế của mạng l

dưỡng cao cho nhân dân, nhất là tỏng điều kiện nước Lào không có vùng

biển. Nguồn tài nguyên thủy văn là một thành phần quan trọng trong tổng

thể lãnh thổ tự nhiên, là một tặng phẩm rất quý mà thiên nhiên đã dành cho

đất nước Triệu Voi.

...................................................................................................................Tài nguyên đ

thiên đường của các nhà thực vật học thì cũng có thể nói rằng đây chính là

một vườn bách thú thiên nhiên lý tưởng ở miền nhiệt đới với thành phần đa

dạng của các loài động vật, chim chóc có giá trị kinh tế cao. Loại động vật

đặc hữu có giá trị nhất của Lào là voi. Sự phong phú của loài động vật ấy

khiến cho đất nước này từ xưa đã được mệnh danh là đất nước của Triệu

Voi. Ngoài voi, còn có các loại động vật đặc hữu khác như hổ, báo, gấu,

hươu, nai, bò rừng… và nhiều giống chim quý. Thú rừng của Lào có giá trị

kinh tế lớn, chúng cung cấp một khối lượng thịt ngon và bổ đáng kể.

1.2.2. Ảnh hưởng của điều kiện kinh tế - xã hội

Lào là nước nằm sâu trong lục địa, không có đường thông ra

biển và chủ yếu là đồi núi trong đó 47% diện tích là rừng, có một số đồng

bằng nhỏ ở thung lũng sông Mê Kông, hoặc các phụ lưu như đồng bằng

Viêng Chăn, Champasack. Theo thống kê, 45% dân số sống ở vùng núi, Lào

có 800000ha đất canh tác nông nghiệp với 85% dân số sống bằng nghề

nông. Lào có tài nguyên phong phú về lâm nghiệp, nông nghiệp, khoáng sản

và thủy điện tạo điều kiện rất lớn cho việc phát triển kinh tế. Sản phẩm nông

nghiệp chiếm khoảng một nửa tổng sản phẩm quốc nội (GDP) và sử dụng

80% lực lượng lao động. Nền kinh tế vẫn tiếp tục nhận được sự trợ giúp của

Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) và các nguồn quốc tế khác cũng như từ đầu tư

nước ngoài trong chế biến sản phẩm nông nghiệp và khai khoáng.

Tuy nhiên, chính sách quản lý và khai thác chưa hợp lý của nhà

nước chưa mang lại hiệu quả khiến cho bức tranh kinh tế của Lào còn khá

ảm đạm. Mức sống của cư dân nhìn chung còn gặp rất nhiều khó khăn trong

việc đáp ứng những nhu cầu sống vật chất (điện, nước, sinh hoạt..), nhu cầu

giao lưu văn hóa, tinh thần, hoạt động phúc lợi xã hội cần được nâng cao

hơn nữa. Hiện nay, nền kinh tế Lào có rất nhiều khởi sắc với việc thực hiện

tốt chương trình kế hoạch 5 năm. Lào đang nắm bắt thời cơ, tạo những bước

đột phá và tạo nên những tiền đề kinh tế - xã hội vững chắc. Tăng trưởng

GDP năm 2008 đạt 7,9%, thu nhập bình quân đầu người đạt 841

USD/người/năm. Đây được xem là những bước tiến quan trọng nhằm nâng

cao đời sống vật chất, tinh thần của người dân, đồng thời có sự ảnh hưởng

đáng kể đến nền văn hóa ẩm thực của đất nước. Bên cạnh việc khai thác hiệu

quả trữ lượng tài nguyên thiên nhiên phục vụ nhu cầu sống, Lào đã tạo cho

mình phong cách ẩm thực riêng trong hệ thống ẩm thực Đông Nam Á.

Ngoài ra một nhân tố quan trọng hình thành nên đặc trưng trong

ẩm thực Lào chính là bản chất của một nước nông nghiệp lúa nước. Là một

quốc gia cũng xuất phát từ nền nông nghiệp nên nền ẩm thực nơi đây luôn

mang đậm dấu ấn của những cánh đồng màu mỡ và những con sông phì

nhiêu. Chính điều này đã giúp cho người Lào có thể duy trì được những thói

quen trong sinh hoạt văn hoá nói chung và văn hóa ẩm thực nói riêng.

CHƯƠNG 2. ẨM THỰC LÀO – MỘT NÉT ĐẶC TRƯNG

TRONG VĂN HÓA CỦA ĐẤT NƯỚC TRIỆU VOI

2.1. Khái niệm về văn hóa ẩm thực

2.1.1. Khái niệm văn hóa

Có thể nói chưa bao giờ khái niệm văn hoá, những vấn đề văn

hoá lại được dư luận quan tâm và sử dụng rộng rãi như hiện nay. Từ góc

nhìn và cách tiếp cận khác nhau, các nhà văn hoá học trong và ngoài nước

đã đưa ra nhiều định nghĩa khác nhau về văn hoá.

Định nghĩa đầu tiên về văn hoá có thể kể đến Edward. Burnett Tylor –

nhà khoa học người Anh: “Một toàn thể phức hợp bao gồm tri thức, tín

ngưỡng, nghệ thuật, luân lý, luật pháp, phong tục và tất thảy những năng

lực khác nhau và những tập quán mà con người hoạch đắc với tư cách là

thành viên của xã hội”.

Fediro Mayor, tổng giám đốc UNESCO chỉ rõ: “Đối với một số người,

văn hoá chỉ bao gồm những kiệt tác tuyệt vời trong các lĩnh vực tư duy sáng

tạo, đối với những người khác, từ những sản phẩm tinh vi hiện đại cho đến

những tín ngưỡng, phong tục tập quán, lối sống và lao động. Cách hiểu biết

thứ hai này đã được cộng đồng quốc tế chấp nhận tại Hội nghị liên chính

phủ về các chính sách văn hoá họp năm 1970 tại Venise ”.

Trong Tìm về bản sắc văn hoá Việt Nam, Trần Ngọc Thêm đã đưa ra

định nghĩa về văn hoá “Văn hoá là hình thức hữu cơ các giá trị vật chất và

tinh thần do con người sáng tạo và tích luỹ trong quá trình hoạt động thực

tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội”.

Như vậy, định nghĩa về văn hoá là khá đa dạng và phức tạp. Từ những

định nghĩa khác nhau về văn hoá có thể hiểu rằng: Văn hoá là bao gồm tất cả

những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra để phục vụ cho

chính mình và làm cho con người thực sự người hơn. Văn hoá là một khái

niệm thuộc phạm trù giá trị - nó gắn với sự nhìn nhận, đánh giá của con

người; văn hoá là sự hoà nhịp với lao động sáng tạo. Như vậy, có thể xem

văn hóa là cái còn đọng lại, tinh túy nhất, không dễ thay đổi của một dân tộc,

đó là nếp sống của một dân tộc.

2.1.2. Khái niệm ẩm thực

Ẩm thực là những nguyên liệu cần và đủ để chế biến nên các món ăn,

ẩm thực cũng được hiểu là thưởng thức những món ăn.

Ẩm thực là tiếng dùng khái quát nói về việc ăn và uống. Theo Nguyễn

Văn Dương nghiên cứu về ẩm thực trong ngôn ngữ, thì từ “ăn” trong tiếng

việt có số lượng ngữ nghĩa và số lượng từ ghép rất phong phú, có đến 15/20

ngữ nghĩa được nêu trong từ điển Tiếng Việt có liên quan đến “ăn”. Sở dĩ từ

“ăn” chiếm vị trí lớn ngôn ngữ và tư duy người Việt vì từ xưa đến đầu thế kỷ

XX, nước ta đất hẹp, kỹ thuật chưa phát triển, mức sống còn thấp do đó cái

ăn luôn là yếu tố quan trọng nhất: “có thực mới vực mới vực được đạo”, “dĩ

thực vi tiên”…

2.1.3. Khái niệm văn hóa ẩm thực

Trong cuốn “Từ điển Việt Nam thông dụng” định nghĩa văn hoá

ẩm thực được hiểutheo 2 nghĩa:

Theo nghĩa rộng, “Văn hóa ẩm thực là một phần văn hóa nằm

trong tổng thể, phức thể các đặc trưng diện mạo về vật chất, tinh thần, tri

thức, tình cảm… khắc họa một số nét cơ bản, đặc sắc của một cộng đồng,

gia đình, làng xóm, vùng miền, quốc gia… Nó chi phối một phần không nhỏ

trong cách tứng xử và giao tiếp của một cộng đồng, tạo nên đặc thù của cộng

đồng ấy”.

Theo nghĩa hẹp, “Văn hóa ẩm thực là những tập quán và khẩu vị

của con người, những ứng xử của con người trong ăn uống; những tập tục

kiêng kỵ trong ăn uống, những phương thức chế biến bày biện trong ăn uống

và cách thưởng thức món ăn”.

Hay có định nghĩa nêu “Văn hoá ẩm thực là những gì liên quan đến

ăn, uống nhưng mang nét đặc trưng của mỗi cộng đồng cư dân khác nhau,

thể hiện cách chế biến và thưởng thức các món ăn, uống khác nhau, phản

ảnh đời sống kinh tế, văn hoá - xã hội của tộc người đó”.

Theo Jean Anthelme Brillat Savarin “Văn hóa ẩm thực là một biểu

hiện quan trọng trong đời sống con người, nó cũng hàm chứa những ý nghĩa

triết lý, là những gì chính tạo hóa giúp con người kiếm thức ăn, nuôi sống họ

lại còn cho họ nếm mùi khoái lạc với các món ăn ngon”.

Như vậy, Văn hóa ẩm thực là một phần của văn hóa ứng xử, thể hiện

những thói quen ăn uống và cách thức chế biến món ăn của mỗi dân tộc, mỗi

khu vực khác nhau.

2.2. Phong cách ẩm thực Lào

2.2.1. Nguyên liệu

Người Lào ăn gạo là chính nhưng rất ít ăn gạo tẻ, họ chủ yếu ăn gạo

nếp và được nấu lên thành xôi. Thức ăn cùng với xôi gồm có cá, thịt bò, thịt

trâu, thịt heo, thịt vịt và các loại rau khác. Thức ăn quan trọng nhất là "cheo"

(một loại nước chấm truyền thống của Lào). Có nhiều loại "cheo" khác nhau

nhưng người Lào thích nhất là loại "cheo pa đẹt" (giống mắm nêm của người

Việt). Trong mỗi bữa ăn, nếu thiếu "cheo" thì cảm thấy ăn không ngon

miệng. "Cheo" dùng để chấm rau. Nếu không có thức ăn, có thể ăn xôi với

"cheo" cũng rất ngon và no bụng.

Vì là một quốc gia có diện tích sông hồ lớn nên nguồn thực

phẩm chính của người Lào là cá, tôm nước ngọt trong đó cá là thực phẩm

chủ yếu. Ngoài cá nước ngọt thì thịt heo, gà, trâu và vịt là những thành phần

quan trọng để nấu nướng nhiều thứ món ăn thông thường. Người Lào cũng

ăn những thứ thịt thú săn như nai, gà rừng, chim cút nếu có dịp kiếm được.

Một món ăn Lào tiêu biểu phải có vị pha trộn giữa cay và ngọt, được

trung hòa bằng các gia vị thảo mộc. Điều này khiến cho các món ăn Lào trở

nên nổi bật hơn các nước trong khu vực. Lào rất chuộng ăn ớt. Họ có món ớt

chiên giòn, ớt muối, ớt luộc.

Rau thơm cũng là nguyên liệu không thể thiếu được của người Lào.

Bên cạnh nhà là vườn rau, trong đó rau thơm chiếm diện tích lớn. Người Lào

thường xây dựng bên cạnh nhà mình một vườn rau, trên đó người ta trồng

các lọai rau như hành, khoai, dưa chuột, đậu ván ,củ cải, cần tây, xà lách…

Nó là những thứ bổ sung cho bữa ăn hàng ngày của người Lào.

2.2.2. Gia vị

Cũng như rất nhiều các quốc gia trong khu vực, nền ẩm thực của Lào

đa dạng không kém, điển hình là ba hương vị đặc trưng: Chua, cay và ngọt

đã “hữu ý” kết hợp với nhau làm nên linh hồn và sắc màu riêng trong ẩm

thực của người dân Lào.

Một món ăn tiêu biểu của người Lào phải là sự pha trộn giữa cay và

ngọt, được trung hòa thêm thảo mộc. Các món ăn có đặc điểm là dùng

những gia vị như gừng, me, lá chanh, và nhiều loại ớt khô rất cay. Vị chính

trong các món ăn hầu hết các món ăn đều có rất nhiều ớt. Chỉ riêng ớt có

hàng chục món: từ ớt chiên giòn, ớt muối chua, ớt sa tế , ớt hầm, ớt luộc …

Chính vị cay này cũng là một nét văn hóa vì phần đông người Lào sử dụng

nguồn lao động chân tay, vị cay gây kích thích, tạo món ăn ngon, giúp người

lao động ăn được nhiều, tăng sức lao động. Ở mỗi vùng cũng có các món ăn

đặc trưng, có các tên gọi khác nhau và được chế biến theo đặc trưng của

từng vùng, nhưng không thể không có vị cay của ớt…

Ngoài ra trong cách chế biến món ăn của người Lào còn sử dụng hai

loại gia vị chính là hai vị thuốc “gialang” và “macụt”. Hai vị thuốc này chủ

yếu dùng trong món canh măng, có tác dụng không gây đau nhức, không

đầy bụng.

2.2.3. Phương pháp chế biến

Một đặc trưng trong phong cách chế biến của người Lào là họ thường

làm chín thức ăn bằng hơi nước. Hầu hết các món luộc của người Lào đều

được đưa lên xửng hấp và được làm chins hoàn toàn nhờ hơi nước bốc lên.

Đây chính là điểm đặc biệt trong phong cách ẩm thức của người Lào mà ta

khó có thể tìm thấy ở đâu.

Ngoài ra người Lào còn làm chín thức ăn bằng phương pháp nướng.

Có rất nhiều cách nướng từ đưa trực tiếp thực phẩm lên lửa hay vùi trong

than hồng đến nướng bằng lò nướng hay chảo điện. Nhưng người Lào vẫn

thích nướng thực phẩm bằng cách cho vào ống nứa, ống vầu hay ống bương,

để tạo mùi vị thơm ngon cũng như màu sắc đặc trưng rất riêng của xứ sở.

Người Lào đặc biệt thích ăn các món nướng, tất cả những thực phẩm mà có

thể nấu được bằng cách nướng thì họ đều sử dụng, từ thịt, cá đến cả rau củ

và gia vị. Cơm lam cũng là một món được chế biến bằng hình thức này.

Một đặc điểm trong cách nấu nướng của Lào khiến cho nó trở nên nổi

bật là cách thức pha trộn cá, thịt và gia vị thảo mộc trong cùng một món ăn.

Mắm cá (pa dek) và nước mắm (nam pa) cũng là những thành phần quan

trọng trong bữa ăn của người Lào. Người ta thường nấu nướng thức ăn trên

cái lò đốt bằng củi hoặc than.

Và đến với ẩm thực Lào, ta sẽ rất khó để bắt gặp những món ăn qua

cách chế biến chiên rán, bởi đây là một nước nhiệt đới nên các món ăn được

làm qua dầu mỡ hầu hết không được người dân ưa chuộng.

2.3. Các món ăn tiêu biểu

Món ăn Lào từ món ăn trong đời sống hang ngày tới dịp lễ Tết

đều có khá nhiều món ngon, có thể kể ra như : gà nướng, lạp, lạp xưởng, thịt

heo hấp măng (hoặc cá hấp lá chuối), gà (cá) nấu me, rau luộc, cơm (xôi).

Ngoài ra còn có các món khác như như: ếch, mực chiên tỏi, sườn nướng,

nem chua cá thịt… Ẩm thực Lào, ngoài các món này, còn có những món

được xem là đặc sản như : Món Tam Maak Hung còn gọi là nộm chay gồm

dưa muối, đu đủ, đậu đũa, cà dĩa giã rồi trộn chung với cùng hàng chục gia

vị ăn rất lạ…Tất cả đều mang hương vị vừa quen lại vừa lạ, quen vì các

nguyên liệu không quá khó tìm, nhưng lạ vì cách chế biến tinh tế và rất đặc

trưng.

2.3.1. Các món ăn hàng ngày

 Cơm lam

Cơm lam là loại cơm đặc trưng của người Lào, được nấu từ

gạo, là thực phẩm rất được người Lào trân trọng. Cơm lam thơm hơn, dẻo

hơn, ngon hơn cơm nấu theo phương pháp thông thường nên dần trở thành

món ăn đặc sản, được rất nhiều người Lào ưu thích.

Để làm được ống cơm lam ngon cần phải có sự chăm chút, khéo léo

của người nấu, từ khâu chọn ống lam, chọn gạo nếp, tới cách ngâm gạo và

cách nướng… trong đó việc chọn tre, nứa (ống lam) là quan trọng hơn cả.

Ống nứa dùng nấu cơm lam phải còn tươi, không quá non cũng không

quá già (để khi cơm chín, hạt cơm quyện thêm chút vị ngọt và mùi vị đặc

trưng của tre, nứa), ống nứa có độ dài khoảng 15cm, ống thẳng dài. Đặc biệt,

nếu chọn được những cây nứa có nước ở trong ống và sử dụng nước đó để

nấu cơm, lúc đó cơm sẽ ngon hơn khi sử dụng nước thường. Ống nứa được

chọn về chặt hở một đầu, sau đó rửa sạch và lót lá dong vào bên trong.

Gạo được vo đãi sạch, rắc thêm một chút muối, trộn đều rồi cho vào

ống lam, đổ nước xâm xấp gạo, sau đó ngâm khoảng một tiếng. Sau khi gạo

trong ống lam đã đủ thời gian ngâm, nước sẽ được đổ thêm vào cho ngập

gạo rồi dùng lá chuối rừng hoặc lá dong nút chặt đầu ống nứa, để cơm lam

vẫn giữ được nguyên hương vị của nó.

Quá trình nướng cũng đòi hỏi người nấu phải khéo léo, dựng ống lam

trên kiềng, khi nướng ống lam phải được xoay đều trên ngọn lửa, hoặc trên

than hồng, tránh để lửa quá to làm ống lam cháy khiến cơm chín không đều,

còn nếu để lửa quá nhỏ sẽ làm cho cơm lam bị nhão, ướt. Thời gian nấu cơm

lam khoảng một giờ đồng hồ là cơm chín, tuy nhiên người Lào thường dựa

theo kinh nghiệm của mình. Khi thấy ống lam cháy hết vỏ ngoài, đồng thời

ngửi thấy mùi thơm từ ống lam bay ra là người ta đã biết cơm chín hay chưa

mà không cần mở nút lá để kiểm tra. Khi cơm chín, hạt cơm có vị thơm ngọt

của gạo nếp, có mùi thơm và màu xanh của lá dong, đồng thời quyện thêm

một chút vị ngọt đặc trưng của tre giang.

Cách thưởng thức và trình bày cơm lam tuy đơn giản nhưng cũng thể

hiện sự khéo léo của người chế biến. Khi cơm chín, người ta chẻ bỏ lớp vỏ

ống giang cháy đen bên ngoài đến khi thấy lớp màng lụa mỏng bao bọc phần

ruột cơm là được. Cắt các ống cơm thành từng khẩu, có độ dài khoảng 10cm

và bày vào đĩa. Khi ăn chỉ cần bóc bỏ lớp lụa bên ngoài.

Người Lào thường ăn cơm lam cùng với cá nướng, thịt gà hay thịt lợn

rừng nướng (những thực phẩm này có khi cũng được nướng trong ống tre,

giang). Tuy nhiên, thưởng thức cơm lam ngon nhất là khi ăn cùng với muối

vừng. Sự kết hợp của hương vị nếp ngọt thơm với vị bùi béo của muối vừng

càng làm cho món cơm lam thêm hấp dẫn.

Người Lào còn cho rằng: phụ nữ sau khi sinh ăn cơm lam sẽ tránh

được các chất kim loại khi nấu bằng nồi: gang, nhôm, đồng... nên không gây

ảnh hưởng tới sức khỏe và chất lượng nguồn sữa mẹ.

Ngày nay khi chế biến cơm lam người ta còn cho thêm một vài gia vị

khác để món cơm lam đậm đà và ngon hơn.

 Cơm (xôi)

Ở Lào người ta ít trồng cấy gạo tẻ mà chủ yếu là gạo nếp, vì thế 90%

người Lào chủ yếu ăn xôi. Người ta cho rằng người Lào ăn xôi nhiều hơn ăn

cơm và gạo nếp gần như lương thực hàng ngày của họ. Nhà nào cũng có

những cái chõ hong xôi được sử dụng thường xuyên mỗi ngày. Xôi là lương

thực chính trong ngày thường được người Lào ăn cả ngày, sáng, trưa, chiều,

tối.

Hạt nếp Lào là loại gạo hạt dài, màu trắng trong. Khi nấu, để xôi ngon

hơn, người ta không nấu như cách bình thường (đổ ít nước vào nếp) mà nấu

bằng chõ. Tuy nhiên, cách nấu xôi theo kiểu truyền thống của người Lào là

đựng trong ống nứa và nấu bằng nước suối.

Tương tự như cách nấu cơm lam, gạo nếp sau khi được nhặt sạch sạn,

sẽ được ngâm trong nước khoảng 2 – 3 giờ để nước ngấm dần vào trong gạo

và gạo được mềm hơn, nở hơn trước khi nấu xôi. Trong thời gian ngâm

nước, gạo được đảo đi đảo lại 2 - 3 lần để gạo được ngấm đều nước. Sau khi

ngâm, gạo được vớt ra, đãi lại một lần nữa cho thật sạch, cho một chút muối

vào gạo và trộn đều (trước đây khi chưa có muối hoặc muối còn khan hiếm

người Lào thổi cơm xôi không. Ngày nay khi xóc gạo người ta cho một chút

muối trắng vào gạo để tăng thêm vị đậm cho món xôi).

Sau đó, gạo nếp và nước suối được cho vào trong ống nứa, dùng lá

chuối hoặc lá dong nút chặt đầu ống nứa lại, rồi tiến hành nướng trên lửa

hoặc trên than hồng (lưu ý là không để lửa quá to hoặc quá nhỏ vì nó đều

làm cho xôi mất ngon).

Khi ống nứa cháy sém cũng là lúc xôi cạn nước, sau đó ủ xôi

cho chín. Khi ăn, gọt lớp vỏ nứa bên ngoài là lộ ra phần xôi nếp màu trắng

được bọc bằng lớp vỏ lụa của ống nứa. Khối xôi nếp lúc này có hình dáng

như một cái ống, thơm mùi nứa, chỉ việc dùng tay bốc ăn. Nếp Lào dẻo, ráo

nên khi ăn sẽ không bị dính vào tay.

Gạo ngoài chế biến thành cơm lam và xôi nếp thì nó còn là thứ lương

thực có nhiều công dụng, như: dùng để làm vỏ bọc cho các loại bánh, làm

khuôn cho các món tráng miệng và bánh kẹo. Cơm trộn với khoai sọ, nước

cốt dừa, và ngó hoa súng để làm món điểm tâm, chẳng hạn như món Khao

tom - gồm cơm trộn với chuối, gói vào lá chuối rồi đem hấp. Một món điểm

tâm thông dụng khác là Tom nam hua bua, được làm bằng cách trộn cơm với

nước cốt dừa và hoa sen.

Một điều đáng chú ý nữa là ở Lào, không chỉ là thực phẩm hàng ngày,

lúa gạo còn được liên tưởng mạnh mẽ với những người phụ nữ. Trong nhiều

làng bản hẻo lánh có truyền thuyết kể rằng nữ thần lúa đã hiến dâng mình

cho ngọn lửa, và sau khi chết, tro của nữ thần đã giúp cho dân làng có được

một mùa bội thu, tránh được nạn đói trong năm đó. Ở một số làng bản người

Phuan, hài cốt của các bà tổ bà sơ được giữ trong ngôi tháp nhỏ xây giữa

ruộng lúa của gia đình họ thờ cúng rất trang nghiêm và dành một ngày nhất

định trong năm để tưởng nhớ đến vị nữ thần ấy.

 Rau luộc

Rau là một món ăn hàng ngày không thể thiếu với bất kì quốc gia nào

ở Đông Nam Á và các món ăn được chế biến từ rau cũng vô cùng đa dạng

trong đó rau luộc có thể coi là món ăn làm từ rau đơn giản nhất. Thế nhưng

món rau luộc ở Lào lại mang một màu sắc đặc biệt và khiến người ta ấn

tượng dù chỉ một lần thưởng thức. Nó đặc biệt không phải ở nguyên liệu mà

chính là ở phương pháp chế biến. Nếu như hầu hết rau luộc ở các quốc gia

khác đều dùng nước sôi để luộc chín rau thì người Lào lại dùng phương

pháp của riêng mình. Họ cho rau vào những nồi hấp cách thủy và dùng hơi

nước để rau chin, như thế rau vẫn giữ được màu xanh và vị ngọt nguyên

chất. Rau luộc chấm với nước mắm sẽ là một lựa chọn không thể thiếu trong

bất kì mộn bữa ăn thông thường của người Lào.

 Cá nướng

Người Lào đặc biệt thích ăn các món nướng, tất cả những thực phẩm

mà có thể nấu được bằng cách nướng thì họ đều sử dụng, từ thịt, cá đến cả

rau củ và gia vị.

Là đất nước có nhiều sông suối nên các loại thủy sản đã trở thành

nguồn thực phẩm quan trọng trong bữa ăn hàng ngày của người Lào, trong

đó món ăn được đồng bào yêu thích và có cách chế biến đơn giản nhất đó là

món cá nướng. Cá nướng có thể làm được bất cứ lúc nào và với bất kỳ loại

cá nào, bởi phương thức chế biến khá đơn giản. Dù vậy người dân ở đây cho

rằng cá nướng vẫn là món ngon nhất trong các món ăn được chế biến từ cá.

Nguyên liệu để làm món cá nướng là loại cá to khoảng nửa cân trở

lên, phải còn tươi sống, thường là các loại cá sông, suối như cá chép, cá

trắm…Cá sau khi được làm sạch, bỏ ruột, sẽ được ướp với muối, rồi để một

thời gian khoảng từ 10 tới 15 phút cho muối ngấm đều vào cá. Sau đó kẹp cá

vào gắp nướng rồi tiến hành nướng cá.

Người ta dùng thân cây tre dày, còn tươi (để tránh lửa làm cháy kẹp

tre) chẻ đôi ra rồi kẹp cá vào giữa. Khi nướng cần phải kiên trì hơ cho con cá

chín dần, chín đều trên than củi. Khi cá đã chín, tỏa ra mùi thơm, người ta

dùng sợi chỉ vuốt dọc theo chiều kẹp cá, con cá được gỡ ra vẫn nguyên vẹn,

không vỡ nát. Do cá đã được ướp muối trước khi nướng nên khi nướng chín

da cá không cháy mà lại được phủ một lớp muối, thịt cá không dính vào da,

thịt rất thơm. Món cá nướng được ăn kèm với các loại rau và có thể dùng

thêm nước mắm hoặc muối chấm, tùy vào khẩu vị của từng người. Tuy

nhiên loại nước chấm được người Lào ưu thích nhất khi ăn cá nướng là

chẻo. Chẻo chế biến từ gan heo băm nhỏ, nêm cùng các loại gia vị: bột năng,

ớt, tỏi, hành, mắm, muối, chanh và thêm một chút lạc rang.

Món cá nướng phải ăn với cơm lam, xôi dẻo thì mới có thể cảm nhận

được hết vị ngọt béo của cá, vị cay của ớt, mùi thơm của các loại gia vị.

Cơm xôi ăn với cá nướng, chấm muối ớt là món ăn được sử dụng phổ biến

cả trong đời thường, vào các dịp lễ hội và dâng cúng tổ tiên của người Lào.

Ngoài cách nướng bằng kẹp tre, người Lào còn thích cho cá vào trong

ống giang, nứa để nướng (tương tự như khi chế biến cơm lam), họ cho rằng

cá nướng theo cách này sẽ giữ được vị ngọt của cá, đồng thời cũng giữ được

mùi thơm của các loại gia vị đi kèm.

Ngoài cá nướng, người Lào còn có các món ăn nướng khác như gà

nướng, thịt nướng, tuy nhiên các món ăn này ít được sử dụng hơn.

 Tép nhảy

Món “Tép nhảy” được xem là đặc sản trên đất Lào. Tép sống được

đánh bắt trên sông Mê Kông nên tươi ngon, có vị ngọt rất đặc trưng. Để chế

biến món tép nhảy thì tép sẽ được rửa sạch, loại bỏ hết các tạp chất rồi để

ráo nước. Khi ăn người ta vắt chanh vào tép (chanh vừa làm cho tép chín tái,

vừa làm giảm đi vị tanh của tép), sau đó tép được nêm thêm các loại gia vị

vừa ăn. Món tép nhảy được ăn sống kèm với nước chấm.

 Món Tam Maak Hung

Món Tam Maak Hung được coi là đặc sản mang đậm phong vị của

người dân Lào. Món Tam Maak Hung hay còn gọi là nộm chay. Món ăn nổi

tiếng này bao gồm các nguyên liệu: dưa muối, đu đủ, cà chua, đậu đũa sống,

mắm nêm, ớt, tỏi, đường, muối. Các nguyên liệu trên sau khi được giã sẽ

được trộn chung với cácloại gia vị khác nhau. Khi ăn Tam Maak Hung

chúng ta có thể cảm nhận thấy đây là món ăn có sự hòa trộn tổng thể của

những mùi vị khác nhau, chua, cay, mặn, ngọt, với cái cay lè lưỡi đẫm mắm

nêm cùng rất nhiều ớt xắt nhỏ và mùi thơm của các gia vị, của rau thơm chắc

chắn sẽ để lại dư vị khó quên cho bất cứ ai đã một lần được thưởng thức

món ăn dân giã này.

 Phở Lào

Chịu ảnh hưởng của văn hóa ẩm thực Việt Nam, ẩm thực Lào cũng có

nhiều món ăn với phương pháp chế biến và hương vị tương tự như món ăn

Việt. Tuy nhiên để phù hợp với khẩu vị của mình, người Lào đã có những

thay đổi nhất định, tạo nên sự khác biệt với món ăn gốc. Trong đó, nổi bật

nhất là món phở Lào.

Trong cách chế biến, về cơ bản phở Lào và phở Việt đều giống nhau,

có chăng chỉ khác ở cách chế nước và cách sử dụng các loại gia vị khi ăn.

Nếu người Việt khi nấu nước phở thường cho vào một số hương liệu như

hoa hồi, quế, gừng, hành khô… còn người Lào thì không, họ chỉ ninh xương

và để nước thật nhạt, để khi khách ăn có thể chế thêm các loại gia vị tùy

thích.

Về vấn đề gia giảm thì phức tạp hơn, bởi đi kèm một bát phở dành

cho người Lào cần có nhiều loại, thứ nhất là phải kể đến rau, gồm: rau húng

chó, mùi tàu, giá, cà pháo, ớt tươi và đặc biệt là phải có đậu đũa, được cắt

hoặc bẻ thành từng khúc và được chấm với một loại nước chấm tương tự

như nước chấm nem lụi ở Huế.

Thứ đến là các loại gia vị, gồm đường, nước mắn, dấm, xì dầu, tương

ớt, ớt khô chưng. Và khi ăn, người Lào thường cho rất nhiều các loại gia vị

này bởi theo phong cách ẩm thực Lào, phải thật chua, cay và ngọt mới ngon.

Ngoài các món ăn tiêu biểu kể trên, người Lào còn rất nhiều

món ăn ngon, hấp dẫn và mang hương vị rất đặc biệt như: Thoót mú đẹt

điêu, tôm dâm cung, gà nướng, lạp xưởng, thịt heo hấp măng (hoặc cá hấp lá

chuối), gà (cá) nấu me, rau luộc, cùng các món: ếch, mực chiên tỏi, sườn

nướng, nem chua cá thịt…

Ngày nay, do chịu ảnh hưởng nhất định từ các quốc gia khác,

nhất là các nước phương Tây trong ẩm thực, người Lào bắt đầu làm quen và

ưa chuộng các món ăn của phương Tây, đặc biệt là các món ăn của Pháp.

Hiện nay, người Lào có thễ dễ dàng tìm thấy các món ăn Pháp ở mọi nơi,

nhất là trong những nhà hàng ở Vientiane và Luang Phrabang. Món đùi ếch

và filet Mignon, bít tết vẫn được ưa chuộng trong nhân dân. Bánh mỳ giòn

kiểu Pháp hay baguette là món ăn sáng của người Lào. Người Lào nhúng

baguette vào cà phê sữa để ăn hay ăn với trứng rán hay nhét pate vào trong

như bánh sandwich. Người Lào còn thường dùng bánh mì croissant và bánh

mì socola với một ly cà phê đậm.

 Măng ống nhồi thịt

Đây là một món ăn khá phổ biến ở Lào, món măng này được họ chế

biến bằng thịt lợn xay nhuyễn kết hợp với một số hương liệu thông dụng mà

tạo nên một món ăn rất đặc trưng cho đất nước mình. Trong đó việc sử dụng

hai vị thuốc “gialang” và “macụt” làm gia vị chính với tác dụng không gây

đau nhức, không đầy bụng đã làm nên điều đặc biệt cho món ăn. Vì thế

măng ống nhồi thịt không chỉ được xem như một món canh thông thường

mà còn như một bài thuốc quý lưu truyền trong dân gian hàng bao đời nay.

Nguyên liệu để làm món ăn này bao gồm: măng ống tươi, hành lá,

trứng, bột mì, thịt nạc xay nhuyễn, muối, hạt tiêu, nước mắm, hành tím băm

nhuyễn, lá chuối và các phụ gia khác.

Thực hiện: Chọn mua những ống măng to, ruột nhiều phần rỗng. Luộc

măng kỹ với ít nhất 3 lần nước sôi, rồi rửa lại với nước lã cho sạch. Cắt bỏ

phần cứng và dai. Khoét bỏ phần vắt ngăn giữa ống măng.

Trộn đều thịt heo xay với muối, nước mắm, hành tím, tiêu, nửa phần

hành lá thái nhỏ và 1 muỗng canh bột mỳ. Để hỗn hợp sang một bên khoảng

15-20 phút cho ngấm đều gia vị.

Nhồi hỗn hợp thật chặt vào ống măng sao cho vừa đủ. Bọc lá chuối

bên ngoài, cột lại bằng chỉ sạch. Cho măng vào xửng tre, hấp chín khoảng

15 phút. Sau đó bóc lớp lá chuối bên ngoài ra, để măng sang một bên cho

ráo nước.

Đun nóng một ít dầu ăn trong 1 nồi vừa. Đánh đều trứng với muối và

1 muỗng canh bột mỳ còn lại trong 1 tô lớn. Dùng đũa gắp từng ống măng,

nhúng vào tô trứng và chiên nóng trong nồi. Lần lượt chiên những ống măng

còn lại. Khi món ăn đã xong, cắt từng khúc măng tròn và bày ra bàn ăn.

Nếu không thích chiên nhúng trứng, có thể dùng măng ngay sau khi

hấp xong, mùi vị cũng vẫn rất ngon.

 Món ăn từ côn trùng

Giống như người Camphuchia và Thái Lan, người Lào cũng rất thích

các món ăn được chế biến từ côn trùng. Từ dế cơm, trứng kiến, đến con cà

cuống, nhền nhện trong các món chiên, xào, dồn đậu phộng đến hấp cơm

hay ngâm giấm đều rất ngon. Các món ăn từ côn trùng rất giàu đạm, được

người Lào chế biến đa dạng, hấp dẫn và lạ mắt cũng giống như chính mùi vị

của nó vậy.

Cà cuống – một côn trùng có ích sống nhiều ở các đồng ruộng

Campuchia được người Lào nhập về với giá rất đắt là côn trùng được ưa

chuộng nhất với hương vị thơm cay. Ngoài ra, châu chấu chiên cũng là một

món ăn độc đáo của xứ sở hoa Champa này. Châu chấu sau khi đã cấu đầu,

vặn cánh, bẻ càng sẽ được rửa sạch rồi để ráo. Khi chế biến, người ta đun

nóng chảo, cho một chút dầu, mỡ rồi cho châu chấu vào chiên, sau đó nêm

thêm gia vị để món ăn đậm đà hơn. Sau khi chiên xong, châu chấu được bày

ra đĩa, rắc lá chanh đã thái chỉ lên trên. Khi ăn, người ta bốc những con châu

chấu chiên kẹp thêm vài sợi lá chanh đưa vào miệng và lim dim tận hưởng

hương vị giòn tan, ngọt, bùi của những con châu chấu.

 Các loại nước chấm thường dùng

 Muối ớt

Vị chính trong các món ăn ở Lào là vị cay của ớt. Do đó muối ớt là

một loại đồ chấm đơn giản và khá phổ biến trong các bữa ăn thường ngày

cũng như trong các dịp tết, lễ hội của người dân nơi đây. Muối ớt có thể

chấm được tất cả các loại thức ăn từ xôi đồ cho tới các món luộc, nướng,

rán… Do vậy, khi không có điều kiện chế biến các loại nước chấm khác thì

đĩa muối ớt trở thành thứ không thể thiếu trong mỗi bữa cơm của người Lào.

Để làm được một đĩa muối ớt ngon cần phải có muối trắng, hạt tiêu,

ớt. Người Lào cho muối giã cùng với ớt và hạt tiêu đã được nướng thơm, giã

nhỏ. Muối ớt có thể ăn với bất kỳ loại thức ăn nào cũng hợp.

 Mắm Muok

Mắm Muok là loại nước chấm chỉ có riêng ở Lào, đó là loại nước

chắm được làm từ lòng cá trộn ớt, sả, hành … Lòng cá sau khi làm sạch

được chưng cùng với các loại gia vị. Mắm Muok thích hợp cho mọi món ăn

và là loại nước chấm phổ biến trong các bữa ăn của người Lào.

 Mắm Cheo

Mắm Cheo là loại nước chấm rất đặc biệt của người Lào, gồm có da

trâu, ớt nướng, tỏi nướng, riềng nướng, đường cùng nhiều gia vị thảo mộc

trộn lẫn với nhau. Mắm Cheo chấm với các món nướng, luộc, hấp đều rất

hợp. Mắm có vị mặn, ngọt vừa phải, và thú vị hơn nữa khi thưởng thức

miếng da trâu dai dai, sần sật trong mắm Cheo.

 Nước Chẻo

Là loại nước chấm thường dùng kém với cơm lam hoặc xôi. Nguyên

liệu chính gồm gan heo băm nhuyễn, lạc rang, bột năng, ớt, tỏi, hành, mắm,

muối, chanh. Gan heo sau khi được bằm nhuyễn và trộn với cá gia vị trên

đem nấu chin sẽ tạo ra một loại nước chấm sền sệt, mang đủ các vị đặc trưng

trong món ăn cảu người lào, tạo thành một loại nước dùng khiến món ăn đi

kèm trở nên đậm đà hơn.

2.3.2. Món ăn dịp lễ, Tết

Đối với các quốc gia Châu Á, mỗi khi Tết đến lại là một dịp để gia

đình sum họp, quây quần quanh bàn ăn ấm cúng. Những món ăn ngày Tết

đôi khi cũng có chút khác so với những ngày thường, ẩn chứa trong đó

những ý nghĩa sâu xa, những mong muốn tốt đẹp nhất cho gia đình, công

việc. Nhắc tới văn hóa ẩm thực của mỗi quốc gia Châu Á không thể không

nhắc tới nét văn hóa ẩm thực Tết rất đặc trưng, rất riêng biệt. Và ẩm thực

Lào trong dịp lễ tết cũng chính là một nét hấp dẫn khơi dậy trong vị giác mỗi

người sự thích thú, trong đó ta không thể không nhắc tới món Lạp và xôi

nếp.

 Lạp

Lạp là món ăn truyền thống gần gũi nhất, không thể thiếu trong ngày

Tết và trong các lễ hội của người Lào. Người Lào cho rằng đây món ăn

mang lại cho con người sự may mắn, hạnh phúc và sung túc bởi “Lạp” trong

tiếng Lào nghĩa là may mắn, phúc lộc dồi dào. Và ngay tên gọi thôi cũng đã

tiềm ẩn ý nghĩa hết sức lớn lao của món ăn này trong đời sống ẩm thực của

người dân Lào. Không có sắc màu rực rỡ giống như món xôi gấc của Việt

Nam, cũng không cầu kỳ như những món ăn truyền thống khác của Lào,

món lạp cũng giản dị như chính những nguyện ước bình an của người dân

nơi đây trong cuộc sống.

Thành phần, nguyên liệu chủ yếu để chế biến món lạp là thịt nạc băm

nhỏ, có thể là thịt bò, thịt gà, vịt, thịt hươu, thịt lợn… Ðôi khi người ta còn

làm lạp bằng thịt hổ với cái tên là Hổ lạp. Thịt được trộn đều với tim, gan

bằm nhuyễn cùng với rau bạc hà xắt nhỏ và và các loại gia vị như nước cốt

chanh, riềng, sả, thật nhiều ớt, đặc biệt, món này mà không có thính nếp thì

sẽ làm giảm hương vị độc đáo. Lạp chính là sự pha trộn khéo léo giữa chua,

cay và ngọt. Cũng giống như những món ăn khác của đất nước Triệu Voi,

món lạp không thể thiếu một chút hương vị thơm cay của thảo mộc. Vài

cọng ngò gai, húng lủi mơn mởn vừa được hái ở mé vườn nhà điểm xuyết

thêm nét xanh tươi và thanh mát, cho đĩa thịt nâu hồng hấp dẫn. Món ăn này

thường được người dân Lào ăn sống để cảm nhận được đầy đủ nhất hương

vị đặc biệt của nó. Vị chua của chanh, cay xè của ớt, các loại gia vị và thảo

mộc đặc biệt đã làm cho miếng thịt tai tái nhưng vẫn giữ được cái tươi ngon

roi rói. Tuy nhiên, nếu không quen ăn bạn vẫn có thể được mời thưởng thức

món lạp với phần thịt đã được làm chín.

Lạp là món ăn dễ kết hợp, có thể ăn kèm với xôi hoặc cơm lam đều

mang đến một vị ngon, thơm và vừa miệng. Hạt nếp Lào thong dài, trắng

trong, khi đồ lên vẫn còn giữ nguyên hình dáng và cái sắc trong lúc ban đầu.

Thế nhưng chớ tưởng là xôi khô, xôi cứng, nhón một nắm đưa lên miệng

mới thấy hết cái thơm dẻo quyện hòa với vị beo béo đặc trưng của xôi nếp

Lào sao mà tuyệt diệu. Món xôi này “đẩy đưa” cùng với vị bùi ngậy đậm đà

của lạp thì không còn gì tuyệt bằng.

Miếng lạp dậy vị tươi ngọt của thịt, béo bùi của tim, gan, chua

cay của đủ loại gia vị, thính nếp thơm quyện vào hỗn hợp ấy như làm giảm

bớt sự ngấy ngán. Hương vị tinh tế của thảo mộc càng thêm kích thích vị

giác của người ăn. Vị cay xè của món lạp dễ khiến người ăn lần đầu… giàn

giụa nước mắt, nhưng những hạt xôi nếp dẻo thơm ngọt mát đã cân bằng lại

vị giác rất kịp thời. Cái ngon của mỗi món ăn bổ trợ cho nhau là vậy, một

đậm đà, một lại thanh tao. Người Lào vốn quen ăn bằng tay, nên bạn đừng

ngại ngần nắm từng nắm xôi nếp từ chiếc giỏ tre xinh xắn thành một chiếc

“thìa” nho nhỏ, chấm miếng xôi vào đĩa lạp hoặc dùng tay như một chiếc

thìa để lùa thức ăn vào miệng.

Theo văn hóa Lào thì lạp được xem như là “linh hồn” của người Lào

trong năm mới. Người ta có thể tặng nhau món lạp thay lời chúc may mắn

đầu năm. Gia đình nào nhận được nhiều món này thì hy vọng năm mới sẽ có

nhiều tài lộc... nên món này được làm rất cẩn thận vì nếu không ngon, người

ta tin rằng cả năm sẽ gặp xui xẻo.

Trong các bữa tiệc lớn, vào những dịp đặc biệt hay có khách sang

trọng thì lạp là món ăn luôn có mặt và mang lại rất nhiều ý nghĩa cho mọi

người. Người Lào còn quan niệm lạp là món ăn đòi hỏi sự chế biến công

phu, cẩn thận, vì nếu trong ngày tết món này mà làm không ngon tì năm mới

sẽ gặp nhiều xui xẻo. So với món thịt nướng của người Tác - ta hay món bít

tết Cerviche của người Mexico, lạp của người Lào cũng không kém phần

hấp dẫn.

 Xôi nếp

Nhắc đến đặc sản hay giản dị hơn là những món ăn dân dã, người Lào

luôn tự hào và coi gạo nếp, lạp là những món ăn truyền thống, mang đến sự

may mắn, không thể thiếu trong cuộc sống hằng ngày, đặc biệt là các ngày lễ

Tết. Trong đó một món ăn được chế biến từ những hạt gạo nếp thơm ngon

đã trở thành món ăn truyền thống của người Lào, đó chính là món xôi nếp.

Vì ở Lào người ta chủ yếu ăn gạo nếp nên xôi là món ăn quanh năm

của người Lào, tuy nhiên vào những dịp lễ tết thì món xôi thường được làm

cầu kì hơn. Người ta chọn những hạt gạo nếp thơm ngon nhất để dùng đồ

xôi. Khi ăn xôi, các thành viên trong gia đình ăn từ một cái thố chung hoặc

dùng riêng mỗi người một bát và ăn bốc bằng tay. Người ăn sẽ nắm cơm

thành từng viên nhỏ, và sau đó dùng nó như cái thìa để vét và lùa thức ăn

trên đĩa vào miệng, hoặc chấm vào nước chấm. Cách ăn mộc mạc này theo

người dân Lào có như thế mới cảm nhận được hết hương thơm và vị ngọt tự

nhiên của từng hạt gạo.

Xôi được ăn kèm với thịt gà nướng hay cá kho riềng và thêm món rau

như bông bí, đọt bầu, đọt bí luộc chấm với một loại mắm giống như mắm

nêm của Việt Nam.

Ngày nay, người Lào chủ yếu nấu xôi bằng chõ. Dụng cụ dùng để nấu

xôi là một chiếc nồi đồng và một chiếc chõ gỗ hoặc nhôm, có hình dáng bầu

tròn. Ninh đồng được thiết kế phần đựng nước phía dưới to và thon nhô về

phía trên có vành đựng nước ở phần tiếp giáp khi đặt chõ xôi để nước bốc

hơi tập trung độ nóng về một hướng. Phía trong chõ đặt một phên nứa đan

để đỡ không cho gạo rơi xuống.

Gạo nếp vo sạch được đổ vào chõ, đổ khoảng nửa nồi nước để cách

không cho nước gần gạo tạo một khoảng trống cho nước trong nồi sôi và bốc

hơi lên chõ. Rồi để sôi khoảng 1 đến 1,5 giờ tùy thuộc vào lượng gạo nấu.

Khi nấu lửa phải được đun cháy đều để giữ nước trong nồi luôn sôi và hơi

luôn bốc đều, như vậy xôi mới chín đều từ dưới đáy chõ lên đến trên. Sau

khi nấu xong, người ta lại xới xôi bỏ ra một cái rổ khác (cho có độ thoáng,

xôi ráo, ngon, không bị ứ nước).

Cái ngon đặc trưng của hạt nếp Lào là dẻo và thơm. Thoạt nhìn

dĩa xôi thấy hạt gạo nếp còn nguyên hình dáng, dễ lầm tưởng là xôi bị khô,

cứng. Tuy nhiên, ăn vào mới cảm nhận được độ dẻo, ngọt và hơi có chút vị

béo giống như là xôi có nước dừa nhưng hoàn toàn không phải! Cái ngon từ

miếng xôi mềm, vị béo của nếp tạo nên vị ngon đặc trưng của xôi nếp Lào.

Có cảm giác như chưa kịp nhai thì xôi đã rã trong miệng!

Đặc biệt, nếp Lào nấu cơm rượu cũng ngon không kém. Hạt nếp tơi,

rời và mềm còn nguyên dáng vẻ ban đầu cho dù đã qua quá trình lên men.

Thêm nữa, lẫn trong vị ngọt của cơm rượu có lẫn vị béo của hạt nếp, khác

hẳn với cơm rượu nấu bằng nếp thường.

Ở Lào, xôi nếp thường được dát lên những bức tượng Phật hoặc

những bức tường của tư gia để cúng cho các vị thần cư ngụ tại đó.

2.4. Các đồ uống tiêu biểu

Nói tới văn hóa ẩm thực của mỗi quốc gia, bên cạnh các món ăn

tiêu biểu, chúng ta phải kể đến những loại đồ uống mang đặc trưng của các

quốc gia, các vùng miền khác nhau.

Các loại đồ uống thông dụng nhất mà người Lào sử dụng trong cả

ngày thường và cả ngày lễ tết, có thể kể tới như LauLao, Fanthong (gần

giống với rượu cần), NamSa (trà pha nhạt), cà phê, nước dừa…

Laulao là một loại rượu nhẹ làm từ cơm nếp lên men, uống với chút

chanh và nước ngọt. Còn Fanthonglà loại đồ uống tương tự như rượu cần

của người Việt. Rượu Lào dễ uống, khó say, nhưng khi say không gây nhức

đầu. Theo tập quán, trong các bữa tiệc lễ hội, vài người ngồi uống Laulao

cùng một lúc bằng những cái ống dài hút rượu từ một bình sứ.

Cà phê Lào thì tuyệt vời, đa số được trồng từ cao nguyên

Bolovens màu mỡ ở Nam Lào. Người Lào thích uống cà phê đậm và ngọt, vì

thế người ta hay cho thêm đường và sữa đặc vào cà phê. Cà phê thường

được pha từng ly, uống kèm với một cốc Nam Sa - một thứ trà Tàu pha nhạt.

Nam Sa là loại đồ uống được sử dụng rộng rãi, dùng mọi lúc, mọi nơi ở Lào.

Tuy nhiên, loại đồ uống nổi tiếng nhất phải kể khi nhắc tới ẩm

thực Lào, đó chính là món dừa nướng. Dừa để nguyên trái, nướng vừa phải,

sau đó lột vỏ rồi ướp lạnh. Khi thưởng thức nước dừa có vị ngọt và thơm rất

lạ, cơm dừa dẻo tạo nên hương vị khá đặc biệt, mà không loại đồ uống nào

có thể sánh được. Ngoài ra nước dừa còn được tìm thấy hầu hết trong các

loại thức uống, người Lào có thói quen hay pha trộn nước dừa với các loại

thức uống khác để tạo nên vị thanh ngọt cho đồ uống.

Lào cũng có thương hiệu bia riêng, cũng như ở Việt Nam bia Lào dễ

uống và có thể dễ dàng tìm thấy ở hầu hết quán ăn hay nhà hàng nào trên

khắp đất nước.

2.5. Những đặc trưng trong văn hóa ẩm thực Lào

Ẩm thực Lào tuy gần gũi với các nước láng giềng Đông Nam Á như

Thái Lan, Việt Nam, Campuchia… nhưng vẫn có những nét đặc sắc riêng.

Hầu hết các món ăn của Lào thường nấu tái hơn là chín, với các vị phổ biến

là chua, cay, ngọt. Điều này giúp mọi người hiểu nhiều hơn về văn hóa Lào -

một nền văn hóa có tính chất “hoang dã” mà thực phẩm chủ yếu đến từ săn

bắn.

Ở Lào có đặc điểm là nhiều rừng núi nên người ta hay tổ chức

những cuộc săn bắn và sau mỗi cuộc đi săn đó họ lại tổ chức những bữa tiệc

có thịt - đồ uống. Những thú rừng hoang dã như hươu, nai sẽ được dùng

ngay vì dân làng không có tủ lạnh để giữ thịt tươi. Người Lào ăn gạo là

chính. Món ăn Lào có chung đặc điểm là các gia vị như gừng, me, lá chanh

và nhiều loại ớt khô rất cay.

Nhìn vào nền ẩm thực Lào với các món ăn thức uống tiêu biểu

trên tq có thể nhận thấy văn hóa ẩm thực Lào có những đặc trưng sau:

Tính hòa đồng đa dạng: Người Lào dễ dàng tiếp thu văn hóa ẩm

thực của các dân tộc khác, vùng miền khác để từ đó chế biến thành của

mình. Đây cũng là điểm nổi bật của ẩm thực Lào

Tính ít mỡ: Các món ăn Lào chủ yếu làm từ rau, quả, củ nên ít mỡ,

không dùng nhiều thịt như các nước phương Tây, cũng không dùng nhiều

dầu mỡ như món của người Hoa.

Tính đậm đà hương vị: Khi chế biến thức ăn người Lào thường

dùng nước mắm để nêm, lại kết hợp với rất nhiều gia vị khác …nên món ăn

rất đậm đà. Mỗi món khác nhau đều có nước chấm tương ứng phù hợp với

hương vị.

Tính tổng hòa nhiều chất, nhiều vị: Các món ăn Lào thường bao

gồm nhiều loại thực phẩm như thịt, tôm, cua cùng với các loại rau, đậu, gạo.

Ngoài ra còn có sự tổng hợp của nhiều vị như chua, cay, ngọt, bùi béo… mà

đặc biệt là vị cay trong ẩm thực Lào.

Tính cay trong ẩm thực Lào: Vị chính trong các món ăn hầu hết

các món ăn đều có rất nhiều ớt. Chỉ riêng ớt có hàng chục món: từ ớt chiên

giòn, ớt muối chua, ớt sa tế , ớt hầm, ớt luộc … Cụm từ ngon lành đã gói

ghém được tinh thần ăn của người Lào. Ẩm thực Lào là sự kết hợp giữa các

món, các vị lại để tạo nên nét đặc trưng riêng.

Tính cộng đồng: Tính cộng đồng thể hiện rất rõ trong ẩm thực Lào.

Không giống như Phương Tây, người Lào không ăn quanh bàn ăn cao mà

người Lào ngồi xổm trên nền nhà, người Lào mang lên bàn cùng một lúc các

món ăn.

Tính hiếu khách: Trước mỗi bữa ăn người Lào thường có thói quen

mời. Lời mời thể hiện sự giao thiệp, tình cảm, hiếu khách, mối quan tâm trân

trọng người khác… Khách đến nhà sẽ tuân theo những quy tắc bắt buộc

được xem là nét văn hóa rất riêng của mình, khách không được ngồi ăn trong

khi những người khác đã đứng dậy. Tập quán của người Lào là luôn chừa lại

thức ăn trong đĩa khi đã ăn xong, nếu khách không chừa lại thức ăn, người ta

sẽ cho là khách ăn không đủ no. chủ nhà sẽ bị mất thể diện

Đặc biệt trong bữa ăn, người Lào ngồi quanh mâm cơm đặt dưới sàn

nhà, đàn ông ngồi xếp bằng, đàn bà ngồi gập gối đưa bàn chân về phía sau.

người Lào mang các món ăn lên bàn cùng một lúc. Quan niệm Piep – là cha

mẹ, là bề trên luôn ăn miếng đầu tiên để khai mạc bàn ăn, theo thứ tự tuổi

tác sẽ ăn các món sau tiếp theo.

Mọi thành viên đều dùng tay để nhón xôi trong "típ khậu" (bát) của

mình. Mỗi người có một cái muỗng riêng để lấy thức ăn hoặc canh trong

mâm. Họ ăn chậm chạp, vừa ăn vừa nói chuyện vui vẻ, đặc biệt khi nhón xôi

họ không làm rơi vãi một hạt cơm nào.

Khách đến nhà sẽ tuân theo những quy tắc bắt buộc được xem là nét

văn hóa rất riêng của mình, khách không được ngồi ăn trong khi những

người khác đã đứng dậy. Tập quán của người Lào là luôn chừa lại thức ăn

trong đĩa khi đã ăn xong, nếu khách không chừa lại thức ăn, người ta sẽ cho

là khách ăn không đủ no, chủ nhà sẽ bị mất thể diện. Người Lào rất sạch sẽ

đến mức kỹ tính, họ có thói quen rửa tay không chỉ trước mà cả sau bữa ăn.

2.6. Ẩm thực Lào- nét tương đồng và khác biệt với một số nước

trong khu vực

Vì Lào có diện tích biên giới giáp với Thái Lan và Campuchia khá dài

nên việc giao lưu văn hóa giữa Lào với hai quốc gia này diễn ra khá mạnh

mẽ. Nền ẩm thực của Lào cũng mang những phong cách tương tự như

Campuhia và Thái Lan. Điều này thể hiện ở việc dùng gia vị. Hầu hết các

món ăn của ba quốc gia này đều có sự tổng hòa giữa vị cay của ớt, ngọt của

đường và chua của các loại trái cây. Khi chế biến, bằng bàn tay khéo léo của

mình, họ đã biết pha trộn tỉ lệ, dung hòa các loại gia vị để mõi món ăn mang

một đặc trưng riêng.

Ngoài ra các món ăn của Lào, Campuchia, Thái Lan cũng có khá

nhiều điểm tương đồng, đặc biệt là các món ăn làm từ côn trùng. Loại thức

ăn giàu đạm này được tìm thấy rất nhiều trên đất nước ba đất nước này. Tuy

nhiên, món ăn từ côn trùng của Lào lại ít món hơn người Thái Lan và ít phổ

biến hơn.

Mang phong cách tương tự các quốc gia láng giềng là Campuchia và

Thái Lan: cay, chua và ngọt. Tuy nhiên, ẩm thực Lào lại có những nét đặc

trưng rất riêng. Ngoài cá nước ngọt thì thịt heo, gà, trâu, và vịt là những

thành phần quan trọng để nấu nướng nhiều món ăn thông thường. Người

Lào ăn gạo là chính, các món ăn có đặc điểm là dùng các gia vị như gừng,

me, lá chanh và đặc biệt là nhiều loại ớt khô rất cay. Ớt là một phần không

thể thiếu trong ẩm thực của người Lào và vị cay của nó đã trở thành một nét

văn hóa. Người Lào cũng thích ăn nhiều rau, đó là những thứ bổ sung cho

bữa ăn hằng ngày của họ và họ thường trồng rau ngay trong vườn.

2.7. Giá trị văn hoá trong ẩm thực Lào

KẾT LUẬN

Những nét đẹp của văn hóa ẩm thực bắt nguồn từ chính cuộc sống,

bởi cuộc sống là mạch nguồn trong trẻo nhất cho văn hóa tồn tại và phát

triển. Ẩm thực, bản thân nó đã là văn hóa bởi đó là sản phẩm của con người,

thông qua nét đẹp của quá trình chọn, chế biến, cách làm ra những món ăn

và thưởng thức đã làm cho nó trở thành một nét độc đáo trong văn hóa ẩm

thực của đất nước Lào.

Văn hóa ẩm thực Lào rất đa dạng và còn chứa đựng trong nó

những đặc trưng riêng. Những đặc trưng ấy có thể là cách dùng gia vị, cách

chế biến, cách trình bày cho đến cách thưởng thức các món ăn, từ những

món ăn đơn giản, thường ngày tới những món ăn sử dụng trong các dịp lễ

Tết. Và chính những đặc trưng ấy đã trở thành yếu tố tạo nên nét đẹp trong

văn hóa ẩm thực của người Lào.

Cùng với sự tiếp thu những yếu tố văn hóa mới để tạo nên một

nền văn hóa hiện đại, tiến bộ hơn, văn hóa Lào, bao gồm cả văn hóa ẩm thực

vẫn lưu giữ trong mình những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của ông

cha để lại từ bao đời.

Thông qua quá trình giao lưu, tiếp xúc với văn hóa các nước,

văn hóa ẩm thực Lào đã có sự thay đổi đáng kể, bên cạnh những món ăn

truyền thống của dân tộc, những món ăn mới, mang phong vị khác đã xuất

hiện, góp phần làm đa dạng hơn cho nền văn hóa ẩm thực Lào.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Mai Ngọc Chừ (1999), Văn hóa Đông Nam Á, Nxb Đại học Quốc

gia Hà Nội.

2. Tuyết Đào (1978), Tìm hiểu lịch sử - văn hóa Lào, Nxb Khoa học

Xã hội.

3. Hoài Nguyên (2008), Lào, Đất nước – con người, Nxb Chính trị

Quốc gia.

4. Hoàng Phê (chủ biên) (2009), Từ Điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng.

5. Nguyễn Thị Hải Yến (2007), Lào – xứ sở Triệu Voi, Nxb Thế Giới.

6. Nguồn: www.google.com

www.dulichlao.vn