ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

------------

BÙI NGỌC YẾN LY

TÍN NGƢỠNG TRUYỀN THỐNG

CỦA NGƢỜI DÂN HUYỆN ĐẢO KIÊN HẢI,

TỈNH KIÊN GIANG

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÔN GIÁO HỌC

Hà Nội - 2020

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

------------

BÙI NGỌC YẾN LY

TÍN NGƢỠNG TRUYỀN THỐNG

CỦA NGƢỜI DÂN HUYỆN ĐẢO KIÊN HẢI,

TỈNH KIÊN GIANG

Chuyên ngành: Tôn giáo học

Mã số: 60 22 03 09

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÔN GIÁO HỌC

CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG: NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS.TS. TRẦN THỊ KIM OANH PGS.TS. LÊ BÁ TRÌNH

Hà Nội - 2020

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan: Luận văn tốt nghiệp này là công trình nghiên cứu của

riêng cá nhân tôi.

Luận văn này đƣợc thực hiện sau quá trình học tập ở Trƣờng Đại học Khoa

học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, và qua quá trình nghiên cứu khảo

sát tình hình thực tiễn trên địa bàn huyện đảo Kiên Hải, tỉnh Kiên Giang, đặc biệt đi

sâu tìm hiểu các tín ngƣỡng truyền thống tiêu biểu của ngƣời dân trên huyện đảo

Kiên Hải. Luận văn này đƣợc thực hiện dƣới sự hƣớng dẫn khoa học của Thầy

PGS.TS Lê Bá Trình.

Các số liệu nghiên cứu, kết quả điền dã trong luận văn là trung thực, luận văn

chƣa đƣợc công bố trong bất kỳ công trình nào.

Kiên Giang, ngày 05 tháng 3 năm 2020

Tác giả luận văn

Bùi Ngọc Yến Ly

LỜI CẢM ƠN

Em xin cảm ơn chân thành đến Thầy PGS. TS Lê Bá Trình, là ngƣời trực tiếp

giảng dạy và hƣớng dẫn em thực hiện luận văn tốt nghiệp này. Trong suốt thời gian thực

hiện, từ lúc định hƣớng đề tài, chọn đề tài và tiến hành viết nội dung luận văn, tuy công

tác giảng dạy và nghiên cứu có nhiều bận rộn nhƣng Thầy đã dành nhiều thời gian và

tâm huyết để hƣớng dẫn em chọn đề tài, định hƣớng cho em cách viết, cách lập luận,

phân tích và trình bày phù hợp với yêu cầu đề tài đặt ra. Nhờ sự góp ý tận tụy và hƣớng

dẫn tận tình của Thầy đã giúp em hoàn thành những kiến thức về đề tài của mình.

Em xin cảm ơn đến quý thầy cô trong Bộ môn Tôn giáo học và Nhà trƣờng đã

giảng dạy cho em những kiến thức nền tảng, những hiểu biết về chuyên ngành Tôn giáo

học. Đây là cơ sở và nguồn động lực quan trọng giúp em hoàn thành luận văn, nắm vững

kiến thức chuyên ngành và tự tin hơn trong những dự định sắp tới.

Em xin tỏ lòng biết ơn đến gia đình, bạn bè, đồng nghiệp trong cơ quan, những

ngƣời đã quan tâm giúp đỡ, chia sẻ kinh nghiệm và động viên tinh thần cho em trong

khoảng thời gian thực hiện luận văn cũng nhƣ trong khoảng thời gian học tập. Nhờ

vậy, mà em tự tin vững bƣớc qua từng ngày trong quá trình thực hiện luận văn này.

Do trình độ lý luận, kiến thức chuyên ngành cũng nhƣ kinh nghiệm thực tiễn

của bản thân còn hạn chế nên không thể tránh khỏi những thiếu sót. Em mong nhận

đƣợc nhiều ý kiến đóng góp, sự chỉ bảo của quý thầy cô để em hoàn thiện kiến thức

cũng nhƣ nâng cao chất lƣợng luận văn của mình.

Em xin chân thành cảm ơn!

Kiên Giang, ngày 05 tháng 3 năm 2020

Tác giả luận văn

Bùi Ngọc Yến Ly

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ..................................................................................................................... 1

Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ TÍN NGƢỠNG

TRUYỀN THỐNG VÀ TÍN NGƢỠNG TRUYỀN THỐNG TẠI HUYỆN ĐẢO

KIÊN HẢI, TỈNH KIÊN GIANG ............................................................................... 8

1.1. Một số vấn đề lý luận về tín ngƣỡng truyền thống ...................................... 8

1.1.1. Khái niệm ................................................................................................... 8

1.1.2. Đặc điểm của tín ngƣỡng ......................................................................... 11

1.1.3. Một số hình thức tín ngƣỡng truyền thống phổ biến ở Việt Nam. ......... 12

1.2. Quá trình hình thành các hình thức tín ngƣỡng truyền thống tiêu biểu

tại huyện đảo Kiên Hải, tỉnh Kiên Giang .......................................................... 18

1.2.1. Khái quát về huyện đảo Kiên Hải, tỉnh Kiên Giang ................................ 18

1.2.2. Các hình thức tín ngƣỡng truyền thống tiêu biểu tại huyện đảo Kiên Hải,

tỉnh Kiên Giang .................................................................................................. 22

Tiểu kết Chƣơng 1 ............................................................................................... 31

Chƣơng 2: THỰC TRẠNG VIỆC THỰC HÀNH TÍN NGƢỠNG TRUYỀN THỐNG

CỦA NGƢỜI DÂN TẠI HUYỆN ĐẢO KIÊN HẢI, TỈNH KIÊN GIANG ............... 32

2.1. Các hình thức thực hành tín ngƣỡng truyền thống tiêu biểu của ngƣời

dân huyện đảo Kiên Hải, tỉnh Kiên Giang ........................................................ 32

2.1.1. Thực hành tín ngƣỡng thờ Nguyễn Trung Trực ...................................... 32

2.1.2. Thực hành tín ngƣỡng thờ Bà Chúa Xứ và Bà Mã Châu ........................ 34

2.1.3. Thực hành tín ngƣỡng thờ Bà Cố chủ ..................................................... 36

2.1.4. Thực hành tín ngƣỡng thờ Bà Thƣợng .................................................... 39

2.1.5. Thực hành tín ngƣỡng thờ Cá Ông - Thờ Thành hoàng Ngƣ nghiệp ...... 39

2.2. Những giá trị truyền thống trong thực hành tín ngƣỡng truyền thống

tiêu biểu của ngƣời dân huyện đảo Kiên Hải, tỉnh Kiên Giang ...................... 50

2.2.1. Giá trị tín ngƣỡng tâm linh ...................................................................... 50

2.2.2. Giá trị giáo dục truyền thống ................................................................... 55

2.2.3. Giá trị cố kết cộng đồng ........................................................................... 57

2.2.4. Giá trị nguồn lực văn hóa trong phát triển kinh tế - xã hội ..................... 60

2.2.5. Giá trị đáp ứng nhu cầu sinh hoạt văn hóa tinh thần của nhân dân ......... 62

2.3. Những khó khăn, hạn chế trong thực hành tín ngƣỡng truyền thống tiêu

biểu của ngƣời dân huyện đảo Kiên Hải, tỉnh Kiên Giang ............................. 63

2.3.1. Cơ sở vật chất chƣa đáp ứng yêu cầu phục vụ lễ hội, cơ sở hạ tầng kỹ

thuật chƣa đáp ứng quy mô của lễ hội tín ngƣỡng phục vụ nhu cầu tâm linh ... 63

2.3.2. Nội dung phần lễ còn mang tính đơn sơ, chƣa phong phú, đầy đủ các

nghi thức truyền thống ....................................................................................... 65

2.3.3. Nội dung phần hội còn đơn giản, thiếu hấp dẫn ...................................... 66

Tiểu kết chƣơng 2 ................................................................................................ 67

Chƣơng 3: MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA VÀ CÁC GIẢI PHÁP BẢO TỒN, PHÁT

HUY GIÁ TRỊ TÍN NGƢỠNG TRUYỀN THỐNG TIÊU BIỂU CỦA NGƢỜI

DÂN TẠI HUYỆN ĐẢO KIÊN HẢI, TỈNH KIÊN GIANG HIỆN NAY ............... 68

3.1. Một số vấn đề đặt ra ..................................................................................... 68

3.1.1. Xu hƣớng biến đổi niềm tin và thực hành tín ngƣỡng truyền thống ....... 68

3.1.2. Tác động của cơ chế thị trƣờng trong các hoạt động lễ, hội của tín ngƣỡng .. 69

3.1.3. Vấn đề nhận thức về trách nhiệm của hệ thống chính trị và nhân dân đối với

nhiệm vụ giữ gìn, phát huy các giá trị văn hóa, tín ngƣỡng truyền thống, lễ hội... 70

3.1.4. Vấn đề nâng tầm, mở rộng quy mô, phạm vi, chất lƣợng của tín ngƣỡng

truyền thống, lễ hội để phục vụ phát triển du lịch, kinh tế, văn hóa, xã hội của

địa phƣơng ......................................................................................................... 71

3.2. Các giải pháp bảo tồn và phát huy những giá trị tín ngƣỡng truyền

thống tiêu biểu của ngƣời dân tại huyện đảo Kiên Hải, tỉnh Kiên Giang

hiện nay ................................................................................................................. 72

3.2.1. Giải pháp về phát triển kinh tế, xã hội tạo điều kiện để thực hiện tốt sinh

hoạt tín ngƣỡng trong các lễ hội ........................................................................ 72

3.2.2. Giải pháp về tuyên truyền, giáo dục đƣờng lối chính sách của Đảng, pháp

luật của Nhà nƣớc về tôn trọng quyền tự do tín ngƣỡng, tôn giáo và tự do

không tín ngƣỡng, tôn giáo ................................................................................ 74

3.2.3. Giải pháp về nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân ....... 76

3.2.4. Giải pháp về xây dựng môi trƣờng văn hóa xã hội lành mạnh ở các công

trình tín ngƣỡng ................................................................................................. 78

3.2.5. Giải pháp về kết hợp giữa biện pháp tuyên truyền và giáo dục với biện

pháp tổ chức, quản lý hành chính ...................................................................... 79

3.2.6. Giải pháp về tăng cƣờng công tác đào tạo và tổng kết thực tiễn về tín

ngƣỡng truyền thống ở địa phƣơng ................................................................... 79

3.3. Một số kiến nghị............................................................................................ 80

3.3.1. Đối với các bộ, ngành ở Trung ƣơng ....................................................... 80

3.3.2. Đối với cấp ủy, chính quyền, các ban ngành tỉnh, địa phƣơng ............... 80

3.3.3. Đối với các đình, đền, chùa, miếu ........................................................... 81

Tiểu kết chƣơng 3 ................................................................................................ 82

KẾT LUẬN ............................................................................................................... 83

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................. 84

PHỤ LỤC

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Tôn giáo, tín ngƣỡng với tƣ cách là một hình thái ý thức xã hội, không chỉ là

một bộ phận của đời sống văn hóa tâm linh, mà còn là bộ phận gắn bó mật thiết với

sinh hoạt văn hóa cộng đồng. Tín ngƣỡng, tôn giáo quan hệ với các lĩnh vực của đời

sống xã hội, tác động đến văn hóa, đạo đức, kinh tế, chính trị, xã hội, an ninh quốc phòng.

Việt Nam là một quốc gia đa tín ngƣỡng, tôn giáo. Các dân tộc trong cộng

đồng các dân tộc Việt Nam đều có những tín ngƣỡng riêng gắn liền với đời sống

kinh tế - văn hóa - lịch sử - xã hội và tâm linh của dân tộc mình.

Trong quá trình khai hoang, lập làng, mở đất phƣơng Nam, các tín ngƣỡng

bản địa đƣợc lƣu dân xác lập trên vùng đất mới đã góp phần đáp ứng đƣợc nhu cầu

về tín ngƣỡng tâm linh của con ngƣời để cầu mong sự bình an giữa chốn rừng

thiêng, nƣớc độc này, cũng nhƣ tƣởng nhớ và biết ơn những anh hùng dân tộc,

những ngƣời đã khai công lập quốc, chống giặc ngoại xâm, thể hiện đạo lý “Uống

nƣớc nhớ nguồn”, “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây” của dân tộc.

Tín ngƣỡng truyền thống của ngƣời Việt đƣợc hình thành từ thời xa xƣa,

phản ánh sự ngƣỡng mộ, niềm tin của con ngƣời vào các lực lƣợng siêu nhiên, có

tính chất thiêng liêng huyền bí. Tín ngƣỡng dân gian có nhiều loại hình khác nhau;

gắn bó mật thiết với đời sống tinh thần của ngƣời dân; thể hiện trong sinh hoạt cộng

đồng và có vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế - xã hội ở mỗi địa phƣơng.

Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển về kinh tế, xã hội, các hoạt

động tín ngƣỡng tâm linh ở nhiều địa phƣơng ngày càng phát triển. Theo đó, cùng

với những đóng góp tích cực của các hoạt động tín ngƣỡng, tôn giáo, cũng có nhiều

vấn đề phức tạp, nhạy cảm, cần phải làm rõ để phát huy những giá trị tích cực và xử

lý những vấn đề phức tạp trong hoạt động tín ngƣỡng, tôn giáo hiện nay.

Tín ngƣỡng của ngƣời dân ở tỉnh Kiên Giang nói chung, ở huyện đảo Kiên Hải

nói riêng cũng mang những đặc điểm chung của tín ngƣỡng của dân tộc Việt Nam và

có những nét riêng biệt. Cùng với tín ngƣỡng dân gian chung của dân tộc, các loại hình

1

tín ngƣỡng truyền thống ở huyện đảo Kiên Hải, tỉnh Kiên Giang còn mang tính đặc

trƣng của vùng miền, cụ thể nhƣ: Thờ cúng tổ tiên, thờ Thành hoàng, thờ Thần Tài, thờ

Thổ Địa, thờ Sơn thần, thờ Cá Ông, thờ Nguyễn Trung Trực, thờ Bà Chúa Xứ, thờ Bà

Mã Châu, thờ Bà Cố chủ Hòn Lại Sơn, thờ Bà Thƣợng, thờ Cô Bảy, thờ Bà Cậu… Các

hình thức tín ngƣỡng đó luôn giữ vai trò quan trọng trong đời sống sinh hoạt văn hóa

tinh thần của ngƣời dân. Các sinh hoạt tín ngƣỡng không chỉ là nơi giúp ngƣời dân giải

tỏa tâm lý và đáp ứng nhu cầu tâm linh mà còn đƣợc coi nhƣ một hình thức sinh hoạt

văn hóa tinh thần không thể thiếu và có sức sống lâu bền trong đời sống tinh thần của

ngƣời dân cho tới ngày nay. Tín ngƣỡng truyền thống còn chứa đựng những giá trị tích

cực và là nơi sản sinh và tích hợp những giá trị văn hóa của ngƣời dân huyện đảo. Mặt

tích cực của tín ngƣỡng còn thể hiện ở việc đây chính là nơi lƣu giữ các giá trị phong

tục tập quán tốt đẹp của ngƣời dân huyện đảo. Tuy nhiên, bên cạnh những giá trị tích

cực trong sinh hoạt tín ngƣỡng của ngƣời dân ở huyện đảo Kiên Hải vẫn còn những biểu

hiện tiêu cực nhƣ mê tín dị đoan, thƣơng mại hóa, gây lãng phí và ô nhiễm môi trƣờng...

Hiện nay, cùng với sự phát triển hội nhập, giao lƣu văn hóa và dƣới tác động

của cuộc sống hiện đại thì tín ngƣỡng của ngƣời dân tại huyện đảo Kiên Hải đã có

những biến đổi nhất định. Đồng thời trong đời sống tín ngƣỡng của họ diễn ra các

xu hƣớng nhƣ: Ngƣời dân không còn quá đề cao vai trò của sinh hoạt tín ngƣỡng

trong đời sống văn hóa tinh thần nhƣ trƣớc đây và đặc biệt là đang diễn ra sự mai

một của một số hình thức sinh hoạt văn hóa tín ngƣỡng truyền thống tốt đẹp. Nếu

nhƣ không có sự quan tâm bảo tồn và phát huy những giá trị tích cực trong tín

ngƣỡng truyền thống thì sẽ dẫn tới sự mất dần đi các tín ngƣỡng này.

Ngoài ra, trong xu thế toàn cầu hóa, tác động của kinh tế thị trƣờng thì thế hệ

trẻ của ngƣời dân huyện đảo không còn nhiều ngƣời quan tâm và duy trì sinh hoạt

tín ngƣỡng truyền thống, không hiểu về các quan niệm cũng nhƣ các nghi lễ tín

ngƣỡng của huyện đảo mình. Đây cũng là một trong những nguyên nhân dẫn tới sự

mai một dần các hình thức sinh hoạt tín ngƣỡng của ngƣời dân huyện đảo. Nhƣ vậy,

vấn đề đặt ra là cần giữ gìn và phát huy những giá trị tích cực và loại bỏ những yếu

2

tố tiêu cực, lạc hậu trong hoạt động tín ngƣỡng truyền thống của ngƣời dân ở huyện

đảo Kiên Hải. Điều này sẽ góp phần bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa ngƣời dân

huyện đảo nói chung và lƣu giữ tín ngƣỡng truyền thống nói riêng để từ đó tạo động

lực cho huyện đảo phát triển mọi mặt, nhằm nâng cao chất lƣợng đời sống văn hóa

tinh thần cũng nhƣ đời sống vật chất.

Xuất phát từ tình hình thực tiễn nhƣ đã trình bày ở trên, tác giả chọn đề tài

“Tín ngưỡng truyền thống của người dân tại huyện đảo Kiên Hải, tỉnh Kiên

Giang” làm luận văn thạc sỹ của mình.

2. Tình hình nghiên cứu

Đã có các công trình nghiên cứu khoa học, các luận văn/luận án, các bài viết

trên báo, tạp chí có liên quan đến đề tài nghiên cứu nhƣ:

- Nguyễn Hồng Dƣơng - Phùng Đạt Văn (2009), Tín ngưỡng tôn giáo và xã

hội dân gian, Nxb Từ điển Bách khoa [xem 14], là những chuyên khảo đề cập đến

các vấn đề hỗn dung tín ngƣỡng Hoa - Việt, tín ngƣỡng Quan Công; sự chuyển biến

của tín ngƣỡng thời hiện đại; nhận thức lại tín ngƣỡng tôn giáo bản địa Việt Nam…

- Ngọc Hà (2011), Tín ngưỡng phong tục và những kiêng kỵ trong dân gian,

Nxb Văn hóa - Thông tin [xem 16], cuốn sách này giới thiệu những phong tục và tín

ngƣỡng thờ cúng tổ tiên, cƣới hỏi, sinh dƣỡng, ma chay, giao tiếp... cũng nhƣ các lễ

nghi, những kiêng kỵ đƣợc lƣu truyền trong dân gian Việt Nam…

- Mai Thanh Hải (2005), Tìm hiểu tín ngưỡng truyền thống Việt Nam [xem

18], tác giả đã đƣa ra khái niệm, đặc điểm cơ bản của tín ngƣỡng thờ thần ở Việt

Nam, cũng nhƣ tín ngƣỡng truyền thống Việt Nam.

- Nguyễn Đức Lữ (2005), Góp phần tìm hiểu tín ngưỡng dân gian Việt Nam,

Nxb Tôn giáo [xem 41], cuốn sách đã đề cập đến các hình thức tín ngƣỡng dân gian

nhƣ tín ngƣỡng thời cúng Tổ tiên, thờ Mẫu, tín ngƣỡng thờ Thành Hoàng, tín

ngƣỡng Phồn thực…

- Hà Văn Tăng - Trƣơng Thìn (1999), Tín ngưỡng mê tín, Nxb Thanh Niên

[xem 53], cuốn sách đề cập đến tín ngƣỡng, trong đó mô tả các trình tự nghi thức

tôn giáo, hoặc ma thuật tôn giáo; cung cấp một số nhận thức về tín ngƣỡng, về tôn

3

giáo và tâm linh mang tính khách quan khoa học.

- Ngô Hữu Thảo, Bài giảng Tín ngưỡng thờ anh hùng dân tộc Việt Nam

[xem 54]. Bài giảng đƣa ra định nghĩa và phân tích, giải thích rất khoa học về loại

hình tín ngƣỡng thờ anh hùng dân tộc Việt Nam.

- Ngô Đức Thịnh (2001), Tín ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng ở Việt Nam Nxb

Khoa học xã hội, Hà Nội [xem 61]. Tác giả đã phác họa rất rõ nét về tín ngƣỡng của

các dân tộc Việt Nam; nghiên cứu hình thức thờ Thành Hoàng làng và hội đình,

điển hình cho sự gắn kết cộng đồng, hình thành và phát triển văn hóa làng; quá trình

tiếp biến văn hóa giữa tín ngƣỡng bản địa và những ảnh hƣởng của Đạo giáo Trung

Hoa, nhƣ các dòng đạo Nội, thờ Mẫu, các anh hùng dân tộc cũng nhƣ tổ các nghề và

làng nghề thủ công truyền thống.

- Ngô Đức Thịnh (2007), Về tín ngưỡng và lễ hội cổ truyền, Nxb Văn hóa -

thông tin [xem 62], công trình là những chuyên khảo đề cập đến các vấn đề “tín

ngƣỡng dân gian” của ngƣời Việt, các dân tộc thiểu số với đa sắc diện ở các vùng

của đất nƣớc; đề cập đến “Lễ hội cổ truyền” với môi trƣờng tự nhiên, xã hội, văn

hóa, đến vai trò của “tín ngƣỡng, môi trƣờng nảy sinh, tích hợp bảo tồn sinh hoạt

văn hóa - nghệ thuật dân gian….”.

- Bùi Thiết (2000), Từ điển Lễ hội Việt Nam, Nxb Văn hóa - Thông tin [xem

60], trong đó tác giả đã nghiên cứu sƣu tầm, tập hợp, hệ thống, chỉnh lý và biên

soạn tất cả các lễ hội truyền thống đã từng diễn ra trên khắp lãnh thổ Việt Nam từ

trƣớc đến nay, sắp xếp theo thứ tự bản chữ cái theo tên riêng của từng loại lễ hội….

- Dƣơng Văn Sáu (2004), Lễ hội Việt Nam trong sự phát triển du lịch,

Trƣờng Đại học Văn hóa Hà Nội [xem 49], công trình nghiên cứu những vấn đề về

tính thẩm mỹ, tính cộng đồng, các giá trị của lễ hội; vấn đề chức năng, vai trò của lễ

hội trong sinh hoạt văn hóa cộng đồng và vấn đề lễ hội truyền thống trong xã hội

hiện đại...

- Vũ Ngọc Khánh (2008), Lễ hội Việt Nam, Nxb Thanh niên [xem 29], công

trình đề cập 116 lễ hội truyền thống tiêu biểu trên mọi miền đất nƣớc ở Việt Nam.

Thể hiện một cách rất sinh động, những nét riêng biệt về tín ngƣỡng, văn hóa riêng

4

của mỗi dân tộc, vùng miền trên đất nƣớc Việt Nam.

- Các công trình nghiên cứu về tín ngưỡng như: Năm 2010 Trần Đăng Sinh

có bài viết trên tạp chí Triết học bàn về “Nguồn gốc và bản chất của tín ngưỡng thờ

cúng tổ tiên”, trong đó tác giả đề cập đến nguồn gốc, bản chất và tính phổ biến của

tín ngƣỡng thờ cúng tổ tiên. Trong Nghiên cứu Tôn giáo. số 2 - 2010, Trần Đức

Dƣơng đã có bài viết về “Phát huy những giá trị tích cực của tín ngưỡng thờ cúng

tổ tiên trong giai đoạn hiện nay”, tác giả đã nêu ra những giá trị văn hóa và đƣa ra

các giải pháp nhằm phát huy những giá trị tích cực của tín ngƣỡng thờ cúng tổ tiên

giai đoạn hiện nay…

- Dƣơng Tấn Phát chủ biên (1986), Tìm hiểu Kiên Giang của Ban Nghiên

cứu lịch sử Đảng tỉnh Kiên Giang [xem 50], đây là nguồn tài liệu rất quí cho những

ngƣời muốn nghiên cứu, tìm hiểu về lịch sử hình thành và phát triển của tỉnh Kiên

Giang trên tất cả các lĩnh vực. Trong đó, tài liệu cũng có một phần trình bày về cuộc

khởi nghĩa của Nguyễn Trung Trực tại Kiên Giang cũng nhƣ sự thờ cúng Ông ở địa

phƣơng.

- Nguyễn Chí Bền (2011), Góp phần nghiên cứu văn hóa dân gian Việt Nam,

tập 1, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội [xem 02]. Tài liệu này đề cập đến vấn đề văn

hóa dân gian của ngƣời Việt, trong đó có tục thờ mẫu, thờ cúng cá voi của cƣ dân

ven biển ở Bến Tre.

- Ngô Đức Thịnh (2001), Tín ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng ở Việt Nam,

Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội [xem 61]. Tác giả đã miêu tả chi tiết các truyền

thuyết và thần tích có liên quan đến cá Ông ở vùng biển của Việt Nam.

Ngoài ra, còn có những luận văn, khóa luận và bài viết trên các báo - tạp chí

đề cập đến vấn đề tín ngƣỡng và tôn giáo nói chung và tín ngƣỡng truyền thống nói

riêng. Những công trình này là nguồn tƣ liệu phục vụ việc nghiên cứu trên lĩnh vực

sinh hoạt tín ngƣỡng truyền thống của nhân dân ta. Tuy nhiên, qua khảo sát và tìm

hiểu tác giả chƣa thấy có tài liệu chuyên biệt nào nghiên cứu một cách hệ thống và

chuyên sâu về tín ngƣỡng truyền thống của ngƣ dân huyện đảo Kiên Hải tỉnh Kiên

5

Giang một cách có hệ thống và trọn vẹn.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích của luận văn

Trên cơ sở một số vấn đề lý luận và thực tiễn về tín ngƣỡng truyền thống ở

nƣớc ta và tỉnh Kiên Giang, luận văn đánh giá thực trạng về đời sống tín ngƣỡng

của ngƣời dân huyện đảo Kiên Hải, tỉnh Kiên Giang, đề xuất giải pháp phát huy

những giá trị tích cực, khắc phục những tác động tiêu cực trong sinh hoạt tín

ngƣỡng truyền thống của ngƣời dân huyện Kiên Hải hiện nay.

3.2. Nhiệm vụ của luận văn

- Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về tín ngƣỡng, tín ngƣỡng truyền

thống và đặc điểm của tín ngƣỡng truyền thống.

- Nghiên cứu các hình thức tín ngƣỡng truyền thống của ngƣời dân huyện

đảo Kiên Hải.

- Đánh giá thực trạng việc thực hành tín ngƣỡng tiêu biểu phát huy các giá trị

tích cực khắc phục những khó khăn, hạn chế trong thực hành tín ngƣỡng truyền

thống của ngƣời dân huyện đảo Kiên Hải hiện nay.

- Đề xuất một số giải pháp phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực

trong sinh hoạt tín ngƣỡng truyền thống của ngƣời dân Kiên Hải trong trong thời

gian sắp tới.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Tín ngƣỡng truyền thống của ngƣời dân tại huyện đảo Kiên Hải, tỉnh Kiên

Giang hiện nay và vấn đề phát huy những giá trị tích cực của nó trong thời gian tới.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Về nội dung và không gian: Tín ngƣỡng của ngƣời dân huyện Kiên Hải là

vấn đề rất rộng, luận văn không trình báy toàn bộ các vấn đề thuộc về tín ngƣỡng

mà tập trung nghiên cứu một số tín ngƣỡng tiêu biểu của ngƣời dân nơi đây, chỉ ra

những giá trị tích cực và những tác động tiêu cực, đề ra những giải pháp nhằm bảo

tồn và phát huy những giá trị tích cực của tín ngƣỡng truyền thống ở Kiên Hải, tỉnh

6

Kiên Giang.

Về thời gian: Từ khi hình thành các cộng đồng dân cƣ của huyện đảo Kiên

Hải đến nay.

5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu

5.1. Cơ sở lý luận

Đề tài dựa trên nền tảng những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin,

đặc biệt là nguyên lý tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, cơ sở hạ tầng quyết

định kiến trúc thƣợng tầng; tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà

nƣớc ta về các vấn đề tín ngƣỡng, tôn giáo, về vấn đề giữ gìn và phát huy bản sắc

văn hóa dân tộc… để xem xét, đánh giá sự việc trong quá trình nghiên cứu.

5.2 Phương pháp nghiên cứu

Đề tài sử dụng phƣơng pháp luận chung là phƣơng pháp luận duy vật biện

chứng, duy vật lịch sử và các phƣơng pháp khác cụ thể nhƣ phân tích, tổng hợp,

diễn dịch, quy nạp, lịch sử và logic, so sánh, phỏng vấn sâu… nhằm thực hiện các

nhiệm vụ mà luận văn đặt ra.

6. Đóng góp của luận văn

6.1. Ý nghĩa khoa học

Đề tài góp phần làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về tín ngƣỡng

truyền thống và sinh hoạt truyền thống của ngƣời dân ở các địa phƣơng, vùng miền

của nƣớc ta. Đồng thời đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần bảo tồn và phát huy

những giá trị tích cực, hạn chế những mặt tiêu cực trong các sinh hoạt tín ngƣỡng

truyền thống của ngƣời dân huyện đảo trong thời gian tới.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Luận văn có thể góp phần vào các tài liệu nghiên cứu, tham khảo và phục vụ

việc giảng dạy các chuyên đề liên quan ở các cơ sở giáo dục, đào tạo.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, hình ảnh và phụ

7

lục, nội dung của luận văn gồm 3 chƣơng, 8 tiết.

Chƣơng 1:

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ TÍN NGƢỠNG

TRUYỀN THỐNG VÀ TÍN NGƢỠNG TRUYỀN THỐNG

TẠI HUYỆN ĐẢO KIÊN HẢI, TỈNH KIÊN GIANG

1.1. Một số vấn đề lý luận về tín ngƣỡng truyền thống

1.1.1. Khái niệm

1.1.1.1. Tín ngưỡng

Hiện nay, khái niệm tín ngƣỡng đƣợc hiểu theo nhiều hƣớng khác nhau,

nhƣng đều thống nhất rằng: tín ngƣỡng là niền tin và sự ngƣỡng vọng của con ngƣời

vào các lực lƣợng siêu nhiên, vô hình, huyền bí... có sức mạnh vô biên, có khả năng

tác động và chi phối con ngƣời.

Theo Từ điển Hán - Việt, tín ngƣỡng là từ ghép gồm: “tín”, có nghĩa là tin;

“ngƣỡng” có nghĩa là ngƣỡng mộ, ngƣỡng vọng. Tín ngƣỡng là tin và ngƣỡng mộ,

ngƣỡng vọng vào một thực thể siêu nhiên, thần bí, phi hiện thực.

Nhà nghiên cứu Đặng Nghiêm Vạn thì cho rằng: “Tín ngƣỡng là niềm tin

của con ngƣời vào những điều thiêng liêng, huyền bí vƣợt khỏi thế giới tự nhiên”

[72, tr8].

Nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Duy trong cuốn Các hình thái tín ngưỡng tôn

giáo ở Việt Nam, có định nghĩa về tín ngƣỡng nhƣ sau: “Tín ngƣỡng là một cách từ

thực tế cuộc sống cộng đồng con ngƣời ý thức về một dạng thần linh nào đó, rồi

cộng đồng con ngƣời ấy tin theo tôn thờ lễ bái, cầu mong cho hiện thực cuộc sống,

gây thành một nếp sống xã hội theo niềm tin thiêng liêng ấy” [12, tr 221].

Khi nghiên cứu về quan điểm tôn giáo của Mác, Ăngghen ta thƣờng bất gặp

các khái niệm tín ngƣỡng, tín ngƣỡng tôn giáo, tín ngƣỡng Cơ Đốc giáo. Khi đó, tín

ngƣỡng đƣợc hiểu theo nghĩa là tín ngƣỡng tôn giáo, “tức là niềm tin vào lực lƣợng

siêu nhiên theo những nguyên tắc thực hành tôn giáo nhất định”. Nhƣ vậy, bản chất

của tín ngƣỡng có thể hiểu là niềm tin của con ngƣời vào sự tồn tại, khả năng siêu

8

nhiên của một thực thể nào đó bên ngoài cuộc sống con ngƣời, đƣợc thể hiện thông

qua hệ thống các nghi lễ thờ cúng. C. Mác cho rằng: “Đời sống xã hội, về thực chất là

có tính chất thực tiễn. Tất cả những sự thần bí đang đƣa lý luận đến chủ nghĩa thần bí,

đều đƣợc giải đáp một cách hợp lý trong thực tiễn của con ngƣời và trong sự hiểu biết

thực tiễn ấy” [6, t3, tr12].

Trong đời sống thƣờng ngày, khi đề cập đến tín ngƣỡng ngƣời ta thƣờng liên

tƣởng đến những hiện tƣợng xã hội có tính chất linh thiêng, thần bí, thể hiện niềm

tin về một thế giới vô hình, về cuộc sống sau khi chết, về sự tồn tại của linh hồn

ngƣời chết và sự tác động của lực lƣợng này đối với cuộc sống hiện tại của con

ngƣời. Hiện tƣợng này gắn liền với các phong tục, tập quán, truyền thống của một

cộng đồng ngƣời hay một dân tộc, nó phản ánh nếp sống, cung cách ứng xử của con

ngƣời cũng nhƣ phản ánh lịch sử phát triển văn hóa của cộng đồng dân tộc đó.

Dƣới góc độ tâm lý học, tín ngƣỡng là một hiện tƣợng tâm lý - xã hội thể hiện

niềm tin của một cộng đồng ngƣời nhất định về thế giới vô hình, về lực lƣợng siêu

nhiên và năng lực chi phối của lực lƣợng này đối với cuộc sống của con ngƣời thông

qua hệ thống lễ nghi thờ cúng; quá trình hình thành và phát triển tín ngƣỡng gắn liền

với lịch sử phát triển của cộng đồng nên nó phản ánh cuộc sống thực tế của cộng đồng

ngƣời đó.

Dƣới góc độ văn hóa, tín ngƣỡng là hiện tƣợng văn hóa tinh thần phản ánh

sự nhận thức của con ngƣời về thế giới xung quanh, về cuộc sống xã hội biểu hiện

thông qua những hành vi ứng xử của họ.

Dù tín ngƣỡng đƣợc quan niệm nhƣ thế nào và ở cấp độ ra sao thì đều thể

hiện một niềm tin - niềm tin vào Chúa, Trời, Phật, Thần, Thánh, ông bà, tổ tiên vào

các lực lƣợng siêu nhiên. Nhƣ vậy, đặc trƣng cơ bản của tín ngƣỡng là niềm tin

đƣợc xác lập trên cơ sở mối liên hệ giữa con ngƣời với lực lƣợng siêu nhiên mà

niềm tin ấy không cần chứng minh gì cả.

Trong khi đó, Luật Tín ngƣỡng, tôn giáo của Nhà nƣớc Cộng hòa Xã hội

Chủ nghĩa Việt Nam (2016) ghi rõ: “Tín ngƣỡng là niềm tin của con ngƣời đƣợc thể

hiện thông qua những lễ nghi gắn liền với phong tục, tập quán truyền thống để

9

mang lại sự bình an về tinh thần cho cá nhân và cộng đồng” [37. tr1].

Nhƣ vậy, “tín ngƣỡng” có thể hiểu là hệ thống giá trị niềm tin mang tính tâm

linh được con người tạo ra nhằm gửi gắm những ước vọng tốt đẹp cũng như mong

muốn được các thế lực siêu nhiên che chở để tránh được những tai họa hay những

nỗi sợ hãi từ thế giới khách quan. Tín ngƣỡng mang nguồn gốc của sự bất lực của

con ngƣời trƣớc thế giới khách quan và quy luật của nó do con ngƣời thần thánh

hóa các hiện tƣợng ấy thành các thể lực siêu nhiên và tôn thờ.

1.1.1.2. Tín ngưỡng truyền thống

Tín ngƣỡng truyền thống là khái niệm để chỉ các hình thức tín ngƣỡng gắn liền

với hoạt động văn hóa tâm linh, dân dã của con ngƣời đã có từ lâu đời cho đến nay.

Tín ngƣỡng truyền thống là một trong những loại hình tín ngƣỡng phản ánh rõ nhất

đặc trƣng của văn hóa dân tộc, thấm đƣợm đạo lý uống nƣớc nhớ nguồn, củng cố và

tăng cƣờng ý thức cộng đồng.

Với quan niệm cho rằng bất cứ vật gì cũng có linh hồn, nên ngƣời xƣa đã thờ

rất nhiều thần linh, bao gồm nhiên thần, thiên thần và nhân thần. Tín ngƣỡng dân gian

Việt Nam chủ yếu dựa trên lòng biết ơn và ngƣỡng mộ của các thế hệ sau đối với tiền

nhân. Tín ngƣỡng dân gian khá phong phú, nó là tâm thức tôn sùng các lực lƣợng

siêu nhiên nhƣ: Tôn sùng tự nhiên, những sự vật có liên quan đến sản xuất nông

nghiệp nhƣ mặt trời, mặt trăng, mƣa, gió, sấm, chớp, sông, núi, biển…, các loại cây

trồng, vật nuôi nhƣ: bầu, ngô, trâu, bò, lợn. Tôn sùng vật tổ nhƣ: chim, cá, cây… Tôn

sùng sự sinh sản nhƣ: sinh thực khí và các hoạt động tính giao. Tôn sùng Mẫu thể

hiện các nữ thần, tứ mẫu, thủy phủ, Bà Chúa Xứ và Thiên Yana… Tôn sùng các anh

hùng dân tộc, anh hùng địa phƣơng, ngƣời có công lớn với dân với nƣớc: Thánh

Gióng, Đức thánh Trần, Bà Trƣng, Bà Triệu, Nguyễn Trung Trực… Ngoài ra, ngƣời

Việt còn thờ các dạng thần nhƣ thần Bếp, thần Thổ công, thần Tài….

Tín ngƣỡng, phong tục, tập quán lâu đời và phổ biến nhất của ngƣời Việt là

thờ cúng tổ tiên và cúng giỗ những ngƣời đã mất. Ở các gia đình ngƣời Việt, nhà

nào cũng có bàn thờ tổ tiên và việc cúng giỗ, ghi nhớ công ơn của các bậc tiền nhân

rất đƣợc coi trọng. Ngoài ra còn có tục thờ Thành hoàng và ngôi đình làng là đặc

10

điểm độc đáo của làng quê Việt Nam.

Tín ngƣỡng thờ Mẫu ở Việt Nam là một tín ngƣỡng có từ rất lâu, nó là một

tín ngƣỡng dân gian có nguồn gốc bản địa và bắt nguồn từ nền văn minh nông

nghiệp lúa nƣớc và là một hình thức tôn vinh ngƣời phụ nữ làm Quốc Mẫu, Thánh

Mẫu, Vƣơng Mẫu…

Từ tâm thức sùng bái đó, trong các cộng đồng đã hình thành các phong tục tập

quán và nghi lễ thờ cúng tự nhiên, thờ cúng tổ tiên, thờ Mẫu và nghi lễ phồn thực. Đó

là những nghi lễ và phong tục rất quen thuộc đối với ngƣời Việt khắp nơi trong cả

nƣớc. Mỗi loại tín ngƣỡng này đều có nguồn gốc sâu xa từ quan hệ giữa con ngƣời với

các đối tƣợng siêu nhiên kia. Là bởi trong sinh hoạt và lao động, hằng ngày thì thiên

nhiêu gắn bó mật thiết và chi phối sự thành bại, tốt xấu đối với việc lao động sản xuất

của họ.

1.1.2. Đặc điểm của tín ngưỡng

Một là, tín ngƣỡng truyền thống của ngƣời Việt đƣợc hình thành từ rất sớm,

gắn liền với quá trình tổ chức cuộc sống, lao động, sản xuất hàng ngày. Các nghiên

cứu về tín ngƣỡng truyền thống ở Việt Nam cho thấy, các hình thức tín ngƣỡng đã

xuất hiện từ ngƣời Việt cổ, thể hiện trực quan qua các hình tƣợng chim Lạc – con

Rồng.

Hai là, các tín ngƣỡng, tôn giáo ở Việt Nam có sự dung hợp, đan xen và hòa

đồng, không kỳ thị, tranh chấp và xung đột lẫn nhau. Các tín ngƣỡng truyền thống

phản ánh đời sống tâm linh phong phú, đa dạng, sự khoan dung, độ lƣợng, nhân ái

của ngƣời Việt Nam và tinh thần đoàn kết toàn dân tộc. Đây là những yếu tố để

ngƣời Việt Nam dễ hòa đồng với nhiều tín ngƣỡng, tôn giáo khác nhau. Ở nhiều

nơi, trong cùng một làng, xã, có nhiều ngƣời có tín ngƣỡng khác nhau, hoặc nhóm

tín đồ của tôn giáo này sống đan xen với nhóm tín đồ của tôn giáo khác hoặc với

những ngƣời không theo tôn giáo và họ sống hòa hợp với nhau trên nền tảng làng,

xóm, dòng họ.

Ba là, mỗi tín ngƣỡng, tôn giáo mang những nét văn hóa riêng biệt nhƣng

đều hƣớng đến Chân - Thiện - Mỹ, chịu ảnh hƣởng của truyền thống dân tộc, góp

11

phần tạo nên những nét đẹp trong nền văn hóa đa dạng, phong phú về bản sắc của

dân tộc. Ở Việt Nam thờ cúng tổ tiên, thờ những ngƣời có công với đất nƣớc, dân

tộc là tín ngƣỡng mang tính chủ đạo, là nét văn hóa độc đáo, chất keo kết dính trong

đời sống tinh thần, tâm linh, xây dựng đoàn kết các dân tộc.

Bốn là, trong lịch sử cận, hiện đại của dân tộc, các thế lực thực dân, đế quốc,

phản động luôn tìm mọi cách lợi dụng các vấn đề liên quan đến tín ngƣỡng, tôn giáo

để thực hiện âm mƣu xâm lƣợc, đô hộ nƣớc ta, hoặc gây mất ổn định an ninh chính

trị, trật tự, an toàn xã hội, phục vụ cho ý đồ đen tối của chúng.

Hiện nay, các thế lực thù địch vẫn sử dụng, lợi dụng những vấn đề của tín

ngƣỡng, tôn giáo nhƣ một thứ vũ khí nhằm thực hiện chiến lƣợc "diễn biến hòa

bình", phá hoại công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa;

với chiêu bài "tự do tôn giáo", "nhân quyền", chúng xuyên tạc, bóp méo đƣờng lối,

chính sách tự do tín ngƣỡng, tôn giáo của Đảng và Nhà nƣớc ta, âm mƣu tạo ra lực

lƣợng và xây dựng ngọn cờ trong tôn giáo hòng lật đổ Nhà nƣớc xã hội chủ nghĩa ở

Việt Nam.

1.1.3. Một số hình thức tín ngưỡng truyền thống phổ biến ở Việt Nam.

1.1.3.1. Tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng

Thành hoàng là một từ Hán, xuất phát từ Trung Hoa xƣa, nghĩa gốc ban đầu

là hào bao quanh thành, nếu hào có nƣớc gọi là trì (thành trì). Ở Trung Quốc Thành

hoàng là chỉ vị thần bảo hộ một thành quách cụ thể. Tục thờ cúng vị thần bảo trợ

thành quách - tức là Thần Thành hoàng xuất phát từ Trung Quốc.

Cũng nhƣ việc thờ cúng tổ tiên, việc thờ cúng Thành hoàng làng ở Việt Nam

vừa là tín ngƣỡng, vừa là đạo lý sống của hậu thế đối với bậc tiền bối có công với

làng xóm, đất nƣớc. Nếu nhƣ việc thờ cúng tổ tiên là một đạo lý thể hiện ý thức

hƣớng về cội nguồn của gia đình, dòng họ thì việc thờ cúng Thành hoàng làng cũng

là sự tôn vinh các bậc tiền bối, luôn gắn kết và che chở cho dân làng, là cầu nối giữa

quá khứ, hiện tại và tƣơng lai. Trong thời kỳ phong kiến, các vƣơng triều nhƣ Lý,

Trần, Lê đều duy trì tục thờ Thần thành hoàng của thành Thăng Long.

Đối với ngƣời dân ở cộng đồng làng xã, vị Thần thành hoàng làng đƣợc coi

12

nhƣ một vị thánh. Mỗi làng quê có một vị thánh của mình. Vị thánh đó là vị có công

với dân, với nƣớc, có thể là tƣớng lĩnh xông pha mặt trận, có thể là vị đƣợc vua sắc

phong… và cũng có thể là vật thiêng, là đấng siêu nhiên mà dân làng thờ phụng,

thậm chí là yêu thần, tà thần nhƣ thần ăn trộm, thần ăn xin, thần chết trôi…

Vào các ngày giỗ Thành hoàng làng, ngày lễ, ngày tết, ngày rằm, ngày

mùng một… dân cƣ trong làng đều mang lễ vật lên đình cúng Thành hoàng, lễ vật

có thể là lễ chay hoặc lễ mặn, nhƣng lễ vật luôn phải đảm bảo yếu tố tinh khiết –

thể hiện sự kính trọng đối với thần thánh. Đặc biệt, khi làng có công việc quan

trọng, đột xuất hoặc khi có những hiện tƣợng, những sự việc bất thƣờng xảy ra

trong làng, ngƣời dân trong làng đều lên đình làm lễ cầu mong sự che chở, bảo vệ

của Thành hoàng.

Nhƣ vậy, có thể thấy tín ngƣỡng truyền thống ở Việt Nam, thần linh không

hẳn là các đối tƣợng trừu tƣợng, xa xôi mà trái lại rất gần gũi với con ngƣời, cùng

chung sống trong cộng đồng và có khác chăng là ở khả năng bảo vệ, bảo hộ cho

dân làng khỏi những bất trắc của cuộc sống. Đối với mỗi ngƣời dân Thành hoàng

làng là chỗ dựa tinh thần, nơi gửi gấm niềm tin cho họ, giúp họ vƣợt qua những

khó khăn của cuộc sống đầy sóng gió. Vì thế, nhiều vị thần đƣợc dân chọn thờ và

cũng có thể bị phế bỏ nếu thấy không đủ sự uy nghiêm phù hộ độ trì cho họ nữa.

Thành hoàng là nhân vật trung tâm của mọi sinh hoạt văn hóa ở các làng quê, đặc

biệt là các lễ hội.

Cùng với việc thờ cúng tổ tiên thì tín ngƣỡng thờ Thàng hoàng làng đem lại

cho ngƣời dân ý thức hƣớng về cội nguồn, về quê cha đất tổ bằng những biểu hiện

sinh hoạt văn hóa truyền thống. Bảo tồn và phát huy những di sản văn hóa là trách

nhiệm của mỗi ngƣời và cũng là để góp phần xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên

tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

1.1.3.2. Tín ngưỡng thờ Tứ Pháp

Hệ thống tín ngƣỡng thờ Tứ Pháp là hiện tƣợng tín ngƣỡng bản địa của nƣớc

ta mang đậm màu sắc của nền văn minh lúa nƣớc kết hợp với Phật giáo, tôn giáo du

nhập từ Ấn Độ, tồn tại khá phổ biến ở đồng bằng Bắc Bộ. Hình thái thờ Tứ Pháp là

một trong những hình thái tín ngƣỡng thờ thần nông nghiệp cổ sơ khi mà đời sống

13

nông nghiệp lệ thuộc hoàn toàn vào thiên nhiên.

Xét bản chất sâu xa, tín ngƣỡng Tứ Pháp bắt nguồn từ quan niệm vạn vật

hữu linh. Đây là một quan niệm tối cổ của con ngƣời trong quá trình sống phải đối

mặt với muôn vàn khó khăn do thiên nhiên tạo ra. Quan niệm vạn vật đều có linh

hồn, ngƣời nguyên thủy nhìn thấy đằng sau mỗi hiện tƣợng tự nhiên đều có một vị

thần. Vị thần đó quyết định sự vận hành của vũ trụ, trong đó có đời sống con ngƣời,

đặc biệt, đối với một vùng đất nông nghiệp trồng lúa nƣớc. Quan niệm về thần Mƣa,

thần Gió đã ăn sâu vào tâm thức ngƣời dân Việt từ xa xƣa, trƣớc khi Phật giáo đặt

chân tới mảnh đất này. Đến khi Phật giáo vào Việt Nam, các nhà sƣ đã nhìn thấy rõ

điều đó và nhận thấy nếu Phật giáo muốn bén rễ vào mảnh đất này thì phải có sự

dung hòa với tín ngƣỡng dân gian. Nhận thức ấy quả không sai và đó là nguyên

nhân sâu xa của sự giao duyên, tiếp biến giữa tín ngƣỡng bản địa với một tôn giáo

lớn. Kết quả của sự giao thoa văn hóa ấy là hệ thống Tứ Pháp: Pháp Vân (nữ thần

mây); Pháp Vũ (nữ thần mƣa); Pháp Lôi (nữ thần sấm); Pháp Điện (nữ thần chớp)

ở các địa phƣơng miền Bắc nƣớc ta.

Ở những chùa thờ Tứ Pháp trƣớc kia thƣờng đƣợc dân làng và dân trong vùng

tổ chức các buổi lễ cầu đảo mỗi khi hạn hán. Tín ngƣỡng thờ Tứ Pháp tồn tại cả linh

khí dân tộc và cả sức mạnh truyền thống, phù giúp cho xã hội hiện tại và góp phần làm

nên bản sắc riêng biệt cho Phật giáo Việt Nam. Ngƣời dân tin rằng, những vùng miền

nào rƣớc chân nhang của Tứ Pháp về thờ thì ở đó đƣợc mƣa thuận gió hòa, mùa màng

bội thu.

Có thể nói, tín ngƣỡng thờ Tứ Pháp là một trong những chỗ dựa về tâm linh

của ngƣời Việt Nam qua nhiều thời đại và tồn tại cho đến tận ngày nay.

1.1.3.3. Tín ngưỡng thờ Mẫu

Tín ngƣỡng thờ Mẫu ra đời từ trong cuộc sống đấu tranh với thiên nhiên khắc

nghiệt, cƣờng quyền đè nén và nạn ngoại xâm tàn bạo, có một mối gắn bó rất tự nhiên

với ngƣời dân lao động. Tín ngƣỡng thờ Mẫu có thể đƣợc hiểu là một loại hình tín

ngƣỡng truyền thống đƣợc tích hợp bởi các lớp tín ngƣỡng thờ nữ thần, Thờ Mẫu

thần và thờ Tam phủ - Tứ phủ với niềm tin thiêng liêng vào quyền năng của Mẫu, bảo

14

trợ cho sự tồn tại và sinh thành ra con ngƣời. Tín ngƣỡng thờ Mẫu ra đời từ rất sớm,

nảy sinh trong môi trƣờng văn hóa thuộc khu vực Bắc Bộ, vùng đất châu thổ rộng lớn

với ba con sông chính: sông Hồng, sông Thái Bình và sông Mã, là đầu mối kinh tế,

chính trị, văn hóa của quốc gia Đại Việt trong lịch sử. Xuất phát từ đặc trƣng của nền

sản xuất nông nghiệp lúa nƣớc, lối tƣ duy trọng thủy, trọng âm, trọng nữ, đề cao vai trò

sản sinh của ngƣời Mẹ, khát vọng về sự sinh sôi, nảy nở. Bản chất của thờ Mẫu là thờ

sự sinh sản, mà sự sinh sản ở đây có nguồn gốc từ ngƣời Mẹ tự nhiên: Mẹ Núi, Mẹ

Sông, Mẹ Biển, Mẹ Lúa, Mẹ Chim, Mẹ Cả... có thể là nhân thần nhƣ Mẫu Liễu Hạnh,

Mẫu Âu Cơ, Ý Lan, Bà Trƣng, Bà Triệu.

Giá trị cốt lõi của tín ngƣỡng thờ Mẫu là cái tâm hƣớng thiện, bởi mỗi ngƣời mẹ

đều dạy con sống hƣớng thiện. Ngƣời đến với tín ngƣỡng thờ Mẫu tâm phải sáng.

Trong cuộc sống thể hiện là ngƣời biết ăn ở, biết đối nhân xử thế, thành tâm thờ phụng

ông bà tổ tiên. Cao hơn là biết ơn những ngƣời có công với dân, với nƣớc. Mọi ngƣời

đều tin rằng vì Mẫu là mẹ của mọi ngƣời nên luôn che chở phù hộ độ trì cho con ngƣời

gặp nhiều thuận lợi, có sức mạnh và niềm tin để vƣợt qua tai ƣơng, vận hạn hay bệnh

tật, đem đến cho cuộc sống sự bình yên, sung túc.

Nhƣ vậy, tín ngƣỡng thờ Mẫu của ngƣời Việt ra đời gắn với chế độ xã hội

nguyên thủy mẫu hệ và với đặc trƣng của nền văn hóa lúa nƣớc dẫn đến sự tôn

sùng tự nhiên, vai trò của ngƣời Mẹ với khát khao sinh sôi, nảy nở, ý nguyện về

sự phát triển.

1.1.3.4. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên

Tín ngƣỡng thờ cúng tổ tiên ra đời trong những điều kiện lịch sử - xã hội

nhất định: Sự thấp kém của lực lƣợng sản xuất dẫn đến quan niệm về Tô Tem. Tô

Tem giáo gắn liền với tổ chức Thị tộc, “Mỗi tổ chức Thị tộc có những hình thức thờ

cúng riêng, trong khuôn khổ các tập tục thờ cúng vật thiêng tổ tiên” [xem 24].

Giai đoạn thị tộc phụ quyền, xác lập uy quyền của ngƣời đàn ông vì vai trò

quan trọng của họ trong hoạt động kinh tế nên họ nắm giữ quyền hành quản lý gia

đình, vợ và con cái tôn trọng uy quyền và phục tùng ngƣời chủ gia đình, con cái

mang họ cha đã kế tiếp ý thức về uy quyền đó không chỉ khi họ còn sống mà ngay cả

15

khi đã chết.

Tín ngƣỡng thờ cúng tổ tiên xuất phát từ quan niệm của con ngƣời về thế giới

sau khi chết, về linh hồn bất tử. Ngƣời Việt quan niệm rằng vạn vật hữu linh. Con

ngƣời gồm hai phần linh hồn và thể xác, khi con ngƣời chết đi, chỉ có thể xác mất đi,

còn linh hồn vẫn tồn tại sau khi chết. Linh hồn con ngƣời sau khi chết vẫn có nhu cầu

sinh hoạt nhƣ khi còn sống và có khả năng tác động đến cuộc sống của những ngƣời

đang sống. Giữa ngƣời sống và ngƣời chết vẫn có sợi dây liên hệ mật thiết.

Đối với ngƣời Việt, có một yếu tố vô cùng quan trọng về sự ra đời của tín

ngƣỡng thờ cúng tổ tiên, về sự tồn tại, phát triển và bảo tồn đến tận ngày nay của tín

ngƣỡng này, đó là đạo lý “uống nƣớc nhớ nguồn”, là sự kính trọng đối với những

ngƣời đã khuất, với những ngƣời đã có công sinh thành, dƣỡng dục mình. Toan Ánh

đã viết: “Thờ phụng tổ tiên không phải là một thứ tôn giáo, mà là lòng thành kính

và biết ơn của con ngƣời đối với ngƣời đã khuất” [xem 01]. Sự kính trọng, tình cảm

lƣu luyến của con ngƣời với những ngƣời thân của mình khiến họ luôn muốn níu

giữ sự hiện diện của những ngƣời thân đã khuất trong cuộc sống của mình.

Tín ngƣỡng thờ cúng tổ tiên có nội dung bình dị và giàu tính thực tiễn, bởi

thế nó dễ dàng đƣợc thế tục hóa trở thành nếp sống, phong tục, bám rễ sâu trong

tiềm thức của ngƣời Việt.

Thờ cúng tổ tiên của ngƣời Việt có từ lâu đời, đã trở thành một tập tục truyền

thống tốt đẹp mang tính phổ quát của ngƣời Việt, có vị trí hết sức đặc biệt trong đời

sống tinh thần của dân tộc Việt Nam, theo điều tra cho thấy [xem 61]:

- 100% các gia đình ở các thành phố, nông thôn đều có ban thờ tổ tiên.

- 96,75% ban thờ tổ tiên đƣợc đặt ở vị trí trang nghiêm nhất trong nhà.

- 100% gia đình ở nông thôn thƣờng xuyên chăm sóc mồ mả của ông bà, tổ

tiên, ở Hà Nội con số này là 85%, Thành phố Hồ Chí Minh là 89%.

Chính vì vậy thờ cúng tổ tiên mang ý nghĩa văn hóa rất lớn. Trƣớc tiên, việc

thờ phụng tổ tiên là ý thức nhớ về nguồn cội, là để thể hiện lòng tri ân đối với công

ơn của tổ tiên, ông bà cha mẹ đã khuất. Ông Phan Kế Bính trong sách Việt Nam

phong tục cũng đã nhận định: “Xét cái tục phụng sự tổ tiên của ta rất là thành kính, ấy

16

cũng là một lòng bất vong bản, cũng là một việc nghĩa vụ của ngƣời” [xem 03]. Con

cháu bày tỏ lòng thành kính và biết ơn đối với các thể hệ đã có công sinh thành và

nuôi dƣỡng con cháu nên ngƣời nhƣ ngày nay. Ngƣời con hiếu thảo phải biết ơn công

sinh thành, nuôi dƣỡng của cha mẹ. Để tỏ lòng hiếu lễ với cha mẹ thì phải biết ơn tổ

tiên, ông bà đã khuất. Đó là nguồn gốc sinh ra thế hệ con cháu ngày nay.

Thờ cúng tổ tiên góp phần tạo điều kiện gìn giữ, lƣu truyền các giá trị truyền

thống. “Trong mỗi gia đình, họ tộc, phía sau bát hƣơng trên bàn thờ tổ tiên chứa

đựng biết bao giá trị truyền thống đáng quý về lao động quên mình, về công lao dẹp

giặc, về tính cách cao đẹp của ông bà tổ tiên. Cùng với những cái cụ thể ở trong

những bàn gia phả, tộc phả, có ý nghĩa giáo dục nhớ về cội nguồn rất lớn, mỗi khi

con cháu nhớ đến, đọc đến” [12, tr221]. Vào các ngày lễ tết, ngày giỗ kỵ, khi nén

hƣơng trên bàn thờ tổ tiên đƣợc thắp lên, con cháu ở xa thì nhớ về quê hƣơng làng

xóm, con cháu ở gần thì tụ tập quây quần ôn lại những chuyện cũ, nhắc lại những

bài học ông bà tổ tiên đã từng dạy mình, truyền dạy lại cho con cháu, các thế hệ trẻ

về truyền thống gia đình, về những bài học làm ngƣời sâu sắc, thấm thía. Khi ấy,

tinh thần thêm gắn kết, lòng tự hào về dòng họ, về quê hƣơng dâng lên, những bài

học làm ngƣời của ông bà, cha mẹ giảng dạy thấm thía hơn bao giờ hết, con cháu

nhƣ tự nhắc nhở mình phải cố gắng sống tốt để không phụ lòng mong mỏi của tổ

tiên, ông bà, cha mẹ, để làm rạng danh tổ tiên, dòng họ. Con cháu cũng tự nhắc nhở

mình phải hiếu thảo với tổ tiên, ông bà cha mẹ là bổn phận của ngƣời làm con, đặc

biệt là sự hiếu thảo ngay khi cha mẹ, ộng bà còn sống để không phải tiếc nuối, ân

hận khi ông bà, cha mẹ mất đi.

Thờ cúng tổ tiên còn là hình thức tín ngƣỡng có ý nghĩa lớn về mặt tổ chức

cộng đồng trong xã hội truyền thống. Có thể nói, ở Việt Nam, không có một tôn

giáo mang tính phổ quát cao hơn tín ngƣỡng thờ cùng tổ tiên. Thờ cúng tổ tiên là tín

ngƣỡng gốc, xuyên suốt quá trình lịch sử Việt Nam. Nó là sợi dây liên kết để góp

phần cốt kết đoàn kết thắt chặt tính dân tộc và cũng là cội nguồn của các phong tục,

tín ngƣỡng khác. Nhƣ vậy có thể coi đây là đặc trƣng, điểm chung của ngƣời Việt,

17

góp phần vào việc cố kết cộng đồng, duy trì tinh thần đoàn kết của ngƣời Việt.

1.2. Quá trình hình thành các hình thức tín ngƣỡng truyền thống tiêu

biểu tại huyện đảo Kiên Hải, tỉnh Kiên Giang

1.2.1. Khái quát về huyện đảo Kiên Hải, tỉnh Kiên Giang Tỉnh Kiên Giang ở tọa độ địa lý 10032' vĩ độ Bắc, 9023' kinh độ Ðông, cách

thủ đô Hà Nội 1.976 km. Kiên Giang là tỉnh thuộc vùng đồng bằng sông Cửu Long -

phía Tây Nam của Tổ quốc; phía Bắc giáp Vƣơng quốc Campuchia; phía Nam giáp

tỉnh Cà Mau và Bạc Liêu; phía Đông và Đông Nam giáp tỉnh An Giang, thành phố

Cần Thơ và tỉnh Hậu Giang; phía Tây giáp Vịnh Thái Lan. Vị trí địa lý của Kiên

Giang có tiềm năng lớn cho phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, là cửa ngõ hƣớng ra

biển Tây của tỉnh cũng nhƣ của vùng đồng bằng sông Cửu Long, có điều kiện thuận

lợi để phát triển kinh tế biển, đảo và giao lƣu với các nƣớc trong khu vực và quốc tế

với các ngành mũi nhọn nhƣ du lịch, thƣơng mại, dịch vụ công nghiệp và nuôi trồng

thủy sản…

Kiên Giang có 15 đơn vị hành chính cấp huyện, thành phố: Thành phố Rạch Giá,

thành phố Hà Tiên, huyện Kiên Lƣơng, huyện Hòn Đất, huyện Tân Hiệp, huyện Châu

Thành, huyện Giồng Riềng, huyện Gò Quao, huyện An Biên, huyện An Minh, huyện

Vĩnh Thuận, huyện U Minh Thƣợng, huyện Giang Thành huyện Phú Quốc và huyện

Kiên Hải.

Kiên Hải là huyện đảo, diện tích tự nhiên là 27,85km2, có 23 đảo lớn, nhỏ,

trong đó 11 đảo có dân sinh sống. Toàn huyện có 04 đơn vị hành chính xã, 13 ấp với

117 Tổ nhân dân tự quản. Dân số 21.185 ngƣời, trong đó đa số là ngƣời kinh (chiếm

trên 98%) còn lại là dân tộc Hoa, Khmer và một số dân tộc khác. Tôn giáo trên địa

bàn huyện có Phật giáo, Tin lành, Hòa hảo, Cao đài, Công giáo. Cơ sở thờ tự trên địa

bàn có 05 cơ sở (Thánh thất Liên giao Hải sơn, Tịnh xá Phụng Hoàng, Chùa Hải Sơn

Tự, Giáo họ Hòn Tre, Ban Trị sự Phật giáo Hòa Hảo), hoạt động chấp hành tốt chủ

trƣơng của Đảng và Nhà nƣớc. Sinh hoạt văn hóa trên địa bàn cũng hết sức phong

phú, đa dạng do hầu hết ngƣời mọi vùng, miền đều có mặt trên địa bàn huyện. Trong

những năm qua, thực hiện đƣờng lối đổi mới của Đảng, tình hình kinh tế - xã hội của

18

huyện không ngừng đƣợc phát triển, tốc độ tăng kinh tế bình quân hàng năm đạt

14%; ngành nghề chính là khai thác, đánh bắt nuôi trồng hải sản, thu nhập bình quân

đầu ngƣời tính đến năm 2015 là 46.000.000 đồng/ngƣời/năm. Công tác xóa đói giảm

nghèo: Tính đến nay toàn huyện còn 35 hộ nghèo, chiếm 0,74% (theo tiêu chí mới).

Quốc phòng - an ninh và trật tự an toàn xã hội luôn đƣợc giữ vững, ổn định. Dân chủ

xã hội đƣợc mở rộng, các giá trị truyền thống đƣợc tôn vinh, lối sống đoàn kết trong

cộng đồng đƣợc phát huy. Các hoạt động văn hóa, văn nghệ thể dục thể thao có bƣớc

phát triển, đáp ứng một phần nhu cầu giải trí của nhân dân. Phong trào "Toàn dân

đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa" đƣợc duy trì và đạt kết quả tốt, từ đó đời sống

tinh thần và sinh hoạt văn hóa trên địa bàn không ngừng đƣợc đổi mới góp phần tích

cực vào phát triển huyện đảo.

Huyện đảo Kiên Hải có 11 đảo có ngƣời dân sinh sống nhƣ đã nêu trên,

nhƣng tác giả chỉ xin nêu khái quát đặc điểm tình hình và đời sống ngƣời dân thuộc

02 xã Hòn Tre và Lại Sơn. Vì qua khảo sát thực tế thì chỉ có 02 hòn đảo này có

nhiều tín ngƣỡng truyền thống. Chính vì vậy trong nghiên cứu và thu thập thông tin

về tín ngƣỡng truyền thống xin đƣợc trình bày gói gọn tại 02 hòn đảo này.

* Sơ lược lịch sử, xã Hòn Tre trƣớc đây còn có tên là Treksu, ngƣời dân quen gọi

là hòn Rùa, có từ rất xa xƣa. Về phƣơng diện hành chính năm 1819 (hay 1820), sách Gia

Định thành thông chí ghi là Đảo Tre: “Ở biển phía Đông Nam trấn, chu vi 20 dặm làm

án ngoại cho hải cảng Kiên Giang” [xem 69]. Đảo này thuộc huyện Long Xuyên, tỉnh

Hà Tiên.

Trong tập Hà Tiên địa phƣơng chí do Portron Klian soạn năm 1929 có đề cập

nhóm đảo này thuộc quận Phú Quốc: “cuối cùng phía ngoài khơi và hƣớng đảo Phú

Quốc, ngƣời ta gặp cụm hòn Củ Tron (Poulo Dama), nơi đây có một cái bãi lớn gọi là

Bãi Ngự, trƣớc kia có thể gọi là nơi ẩn trú của Vua Gia Long, khi bị Tây Sơn đánh đuổi”

[xem 70].

Trích theo sách Lịch sử huyện Kiên Hải: “... Kiên Hải là một hòn gần đất

liền nhất, nhƣng dân cƣ cũng rất thƣa thớt, vào khoảng năm 1940, khi điền chủ

ngƣời Pháp tên là Le Nestour ra lập đồn điền thì mới có dân phu, sau trở thành cƣ

19

dân địa phƣơng. Từ năm 1945 đến năm 1956 là một ấp thuộc xã Đông Thái, huyện

An Biên. Năm 1957, là một ấp trực thuộc xã Vĩnh Thanh Vân, tổng Kiên Hảo,

huyện Kiên Thành. Năm 1961, chính quyền cách mạng vẫn gọi là ấp Hòn Tre,

nhƣng giao về thị xã Rạch Giả chỉ đạo. Năm 1962, chính quyền Sài Gòn lập ấp

chiến lƣợc, Hòn Tre mang tên là Phú Xuân, thuộc xã Vĩnh Thanh Vân, thị xã Rạch

Giá. Năm 1966, ấp Hòn Tre thuộc xã Lại Sơn. Năm 1975, sau giải phóng Hòn Tre

vẫn thuộc xã Lại Sơn, huyện An Biên. Năm 1983, huyện Kiên Hải đƣợc thành lập

có địa giới hành chính khá rộng, bao gồm cả quần đảo Nam Du, Hòn Sơn Rái, quần

đảo Bà Lụa, Hòn Nghệ và quần đảo Hải Tặc. Năm 1985 giao quần đảo Hải Tặc (xã

Tiên Hải) cho huyện Hà Tiên, năm 2000 giao quần đảo Bà Lụa và Hòn Nghệ cho

huyện Kiên Lƣơng” [15, tr45].

Toàn đảo Hòn Tre chỉ có một con đƣờng duy nhất dài chừng 3km, rộng 2m.

900 nóc nhà trên đảo dọc hai bên con đƣờng cộng với hơn 300 tàu thuyền ghe

xuồng lớn nhỏ neo đậu sát bến cảng làm cho trung tâm Hòn Rùa nhƣ “thành phố

chài”…

Cấu tạo địa chất chỉ có đá chồng lên đá để tạo thành đảo Hòn Tre có diện

tích khoảng 400 ha và đỉnh cao 395m. Những mảng đất ít ỏi kẹt giữa khe, hốc, hang

đá… đƣợc ngƣời dân trồng xoài, mãng cầu, mít; phần trên cao gần đỉnh là rừng

nguyên sinh ít cây cổ thụ, nhiều bụi lùm và dây leo; có nhiều khỉ, sóc, ít kỳ đà và

trăn. Trên đảo có nhiều khe suối nhỏ là nguồn cung cấp nƣớc ngọt sinh hoạt cho

ngƣời dân Hòn Tre. Ngoại trừ khu trung tâm chiếm khoảng 3km sát mép biển phía

Đông, 8km còn lại của Hòn Tre còn rất hoang sơ. Vì cấu tạo nhiều đá tảng nên dƣới

chân núi giáp biển chỉ có đá và đá nhẵn nhụi bởi đƣợc sóng biển gội rửa qua bao

đời nay.

Hòn Tre có Sơn linh động, miếu Bà Cậu, miếu Bà Chúa Thƣợng (Bà Chúa

Hòn), dinh Ông Nam Hải, chùa Cô Lan, chùa Phƣớc Hải (tịnh xá). Ở đây không có

hệ thống tôn giáo đúng nghĩa, chủ yếu là tín ngƣỡng truyền thống.

Ngoài tết cổ truyền, hòn đảo nhỏ này mỗi năm có 4 lễ hội theo âm lịch mà

"ngƣời đi đâu cũng về dự" đông nghẹt ngƣời: Lễ hội vía Bà Chúa Xứ vào ngày rằm

tháng 2, Lễ vía Ông Nam Hải ngày 26/4, Lễ cúng Rằm tháng 7 ở tịnh xá Phƣớc Hải

20

và ngày 9/9 Lễ vía Bà Thƣợng.

* Sơ lược về lịch sử Hòn Sơn là một hòn đảo thuộc xã Lại Sơn, huyện Kiên

Hải, tỉnh Kiên Giang. Đảo Hòn Sơn cách thành phố Rạch Giá khoảng 55 km về phía Tây theo đƣờng chim bay, với diện tích 11,5 km2. Dân cƣ tập trung chủ yếu là 03

xóm chài và nông nghiệp chủ yếu là những vƣờn cây ăn trái, còn lại diện tích chiếm

80% là rừng nguyên sinh với ít cây cổ thụ, nhiều cây nhỏ và dây leo. Động vật chủ

yếu có khỉ, sóc, chim, một ít kỳ đà và trăn… Hòn Sơn có hơn 2.012 hộ gia đình với

8.120 khẩu.

Hòn Sơn có tên gọi khác là Hòn Sơn Rái. Ngƣời dân trên đảo từ trƣớc đến

nay sống chủ yếu bằng nghề đánh bắt hải sản, ngoài ra còn có những nghề thủ công

nhƣ đóng tàu, chế biến tôm, cá, mực khô và các cơ sở sản xuất nƣớc mắm...

Nhƣng nghề từng làm cho hòn đảo này vang danh khắp nơi là chế biến nƣớc

mắm. Tuy nhiên, vài năm trở lại đây, do nguồn cá cơm quanh đảo trƣớc kia rất dồi

dào nay đã cạn kiệt, một số cơ sở sản xuất nƣớc mắm đã ngƣng hoạt động.

Hòn Sơn Rái, “Tƣơng truyền, lần đầu Chúa Nguyễn Ánh đến đây (1780),

quân lính không còn gì để ăn, trong đêm Chúa nằm mộng thấy một vị thần hiện ra

chỉ đƣờng đi tìm lƣơng thực... Sau khi tỉnh giấc, Chúa đƣợc nhiều con rái cá bắt cá

dâng lên. Sau đó các dấu chân đi trên cát của đoàn quân nhà Chúa đƣợc các con rái

cá xóa hết, nhằm bảo vệ nhà Chúa. Do đó, sau khi lên ngôi (1802), Vua Gia Long

đặt tên hòn này là Hòn Sơn Rái để tƣởng nhớ các loài rái cá đã có công với Vua”

[15, tr45].

Cũng nhƣ nhiều địa danh khác, Hòn Sơn Rái còn nhiều truyền thuyết khác

nói về sự hình thành tên gọi của đảo, hoặc là vì hình thù của hòn này giống hình con

rái cá, hoặc là vì trên đảo có nhiều con rái cá sinh sống hoặc là vì trên đảo từng mọc

nhiều cây dầu, nhân dân lấy nhựa của cây dầu này gọi là dầu rái (mảnh hỏa) dùng

để quét lên vỏ ghe xuồng chống thấm. Có lẻ thuyết phục hơn hết là vì nơi đây ngày

xƣa có nhiều rái cá sinh sống.

Các hình thức tín ngƣỡng tiêu biểu trên hòn Sơn Rái nhƣ thờ ông Nguyễn

21

Trung Trực, thờ Bà Chúa Xứ, Bà Mã Châu, Bà Cố Chủ, Cá Ông...

1.2.2. Các hình thức tín ngưỡng truyền thống tiêu biểu tại huyện đảo Kiên

Hải, tỉnh Kiên Giang

Đối với ngƣời dân Kiên Hải, tín ngƣỡng truyền thống lúc nào cũng nhƣ hình

với bóng, ngự trị trong cuộc sống hằng ngày, từ lúc sinh ra cho đến khi từ giã cõi

đời. Hiện nay, có nhiều loại hình tín ngƣỡng khác nhau ở Kiên Hải, tuy nhiên qua

quá trình tiếp biến và hội nhập của các dân tộc đã tạo nên những giá trị văn hóa

đồng nhất nhƣng chính trong sự đồng nhất đó đã khẳng định đặc tính tâm linh riêng

của mỗi dân tộc, mỗi nền văn hóa. Có thể thấy nhu cầu sinh hoạt tín ngƣỡng truyền

thống ở Kiên Hải gồm các loại hình sau:

1.2.2.1. Tín ngưỡng thờ cúng tại gia đình

- Thờ cúng tổ tiên. Đây là truyền thống lâu đời, một nét đẹp văn hóa trong

đời sống tâm linh của ngƣời phƣơng Đông. Từ lâu, họ cho rằng ngƣời chết thể xác

sẽ hóa thân vào vũ trụ nhƣng linh hồn vẫn tồn tại nhớ về nơi ở cũ, vì vậy bổn phận

con cháu phải luôn phụng sự, tƣởng nhớ linh hồn, để ông bà phù trợ cho con cháu

cuộc sống yên ổn, khỏe mạnh, làm ăn phát đạt.

“Tu đâu cho bằng tu nhà

Thờ cha kính mẹ mới là chân tu”

Thờ cúng tổ tiên, ông bà đƣợc xem là đạo lý làm ngƣời quan trọng đến mức

có ngƣời cho là “đạo” (tôn giáo). Hiện nay ở Kiên Hải, những gia đình theo đạo

Phật hay không theo đạo thƣờng đặt bàn thờ tổ tiên ở chính giữa, nơi trang trọng

nhất của ngôi nhà. Tùy vào hoàn cảnh của mỗi gia đình, bàn thờ tổ tiên đƣợc bài trí

khác nhau, thƣờng là một bệ xi măng đúc, hoặc tủ gỗ, trên bàn thờ có chân dung

ngƣời đã khuất, bát nhang, bình hoa, đèn, gia đình khá giả thì có thêm lƣ đồng.

Ngƣời trẻ hiện nay trọng ngày giỗ ông bà, xem nhƣ thƣớc đo của lòng hiếu thảo,

đoàn tụ, giữ gìn dòng họ. Ai cũng có thể đứng ra tổ chức cúng giỗ cho ông bà,

không phân biệt trai hay gái, không nhất thiết chỉ có con trai trƣởng. Có những gia

đình, con trai không chỉ thờ cúng cha, mẹ đẻ mà còn thờ cúng cả cha, mẹ vợ. Bên

cạnh bàn thờ tổ tiên, tùy thuộc vào đối tƣợng theo tôn giáo nào thì có bàn thờ tôn

22

giáo riêng.

- Thờ các vị thần bảo gia đƣợc phối tự thờ cúng ở gia đình và cộng đồng.

Đối với ngƣời Việt, thờ ông bà ở gia đình là việc chính, đƣợc đặt ở giữa nhà, giữa

trang thờ, nói lên ƣớc vọng chính của gia đình. Các thần phụ nhƣ thần Quan Công,

Thiên Hậu, Cửu Thiên Huyền Nữ, Quan Âm, Linh Sơn Thánh Mẫu, thần Đất… sẽ

bổ sung thêm những ƣớc vọng khác của gia chủ. Thần Trời, thần Mặt Trăng, thần

các Vì Sao, ông thần Sấm bà thần Sét, ông thần Bão bà thần Gió Lốc, thần Tổ sinh

Chăn nuôi… là những vị thần gia bảo trong tín ngƣỡng của ngƣời dân tại huyện đảo

Kiên Hải.

1.2.2.2. Tín ngưỡng thờ cúng tại đền, miếu, đình làng

- Thờ các danh nhân, anh hùng lịch sử, liệt sỹ cách mạng là một nét đẹp văn

hóa dân tộc, vừa là đạo lý truyền thống của ngƣời phƣơng Đông “uống nước nhớ

nguồn”, “ăn quả nhớ người trồng cây”, nhớ công ơn của những ngƣời đã chiến đấu, hy

sinh trong công cuộc đấu tranh bảo vệ và xây dựng quê hƣơng, đất nƣớc qua các thời

kỳ lịch sử. Trong đó tiêu biểu nhất đó là tín ngƣỡng thờ anh hùng dân tộc Nguyễn

Trung Trực.

Xuất phát từ truyền thống tín ngƣỡng thần quyền của văn hóa dân gian, biểu

hiện dƣới hình thức thờ cúng tổ tiên, thần thánh và các vị anh hùng dân tộc, anh

hùng Nguyễn Trung Trực đƣợc nhân dân tôn vinh nhƣ một vị thần bảo vệ quê

hƣơng đất nƣớc. Trải qua tháng năm, tinh thần yêu nƣớc Nguyễn Trung Trực đƣợc

dân gian hóa ít nhiều qua những câu chuyện truyền miệng. Chính điều đó là một

trong những yếu tố khiến cho tín ngƣỡng truyền thống về Ông sâu đậm thêm. Ngày

giỗ của Ông hàng năm 26, 27, 28 tháng 8 âm lịch.

Đối với ngƣới dân Kiên Hải, ngày giỗ ông Nguyễn là một phần trách nhiệm

không thể thiếu trong đời sống tinh thần của họ. Những lúc khó khăn thắp nén

nhang xin Ông phù hộ, những lúc thuận lợi thắp nén nhang lạy tạ. Lễ vật dâng cúng

Ông đa dạng và gần gũi nhƣ giỏ trái cây, bịch bột ngọt, cây nƣớc đá, con cá tƣơi

vừa đánh bắt đƣợc... đồ cúng giản dị nhƣ chính tấm lòng của họ. Hằng năm số

lƣợng ngƣời về tham dự lễ hội Ông ngày càng đông lên.

- Thờ cúng các nữ thần vùng biển. Đây là tín ngƣỡng Mẫu hệ có từ xa xƣa.

23

Ngƣời Việt còn tiếp thu thần của các cƣ dân Khmer, Chăm, Hoa… làm cho việc thờ

cúng phổ biến và phong phú hơn: Bà Cố Chủ, Bà Chúa Thƣợng, Cô Bảy, Bà Cậu,

Bà Chúa Xứ, Bà Mã Châu (Thiên Hậu Thánh Mẫu),…

+ Tín ngưỡng thờ Bà Chúa Xứ và Bà Mã Châu.

Tại xã Hòn Sơn, miếu Bà Chúa Xứ và Bà Mã Châu đã có trên trăm năm. Lúc

xƣa đƣợc xây dựng bằng lá ở ấp Bãi Bắc. Ông Nguyễn Văn Quân trong lúc ra Hòn

Chông đã gặp miễu Bà Mã Châu. Do thấy xung quanh miễu nuôi trâu bò nhiều quá nên

ông thỉnh Bà Mã Châu về ở chung với Bà Chúa Xứ. Năm 1969 ông Nguyễn Văn Quân

qua đời. Đến năm 1970, các con ông và bà con trong ấp trùng tu miếu Bà Mã Châu và

Bà Chúa Xứ lại đến ngày hôm nay.

Tại tổ 4, ấp II, xã Hòn Tre, miếu Bà Chúa Xứ đƣợc xây dựng từ lâu đời,

miếu tọa lạc trên trục đƣờng chính (ấp 2) của xã đảo. Chính điện thờ Bà Chúa Xứ,

trƣớc có ban thờ anh hùng Nguyễn Trung Trực. Ngoài khuôn viên miếu có ban thờ

các vị thổ thần, thổ địa, thần nông... là những vị thần xuất phát từ tín ngƣỡng trong

cuộc sống thƣờng nhật.

+ Tín ngưỡng thờ Bà Cố Chủ

Miếu Bà Cố Chủ hòn Lại Sơn, tọa lạc tại Kèo Ngựa, một dãi đất bằng phẳng

thuộc khu vực bãi Nam, ấp Bãi Nhà A, đƣợc xây dựng lần đầu vào ngày mùng 9

tháng 9 âm lịch năm 1899 bằng vật liệu tre lá. Sau nhiều lần trùng tu, năm 2011, miếu

đƣợc xây dựng bằng vật liệu bê tông, cốt thép nhƣ hiện nay. Miếu Bà Cố Chủ còn gọi

là Bà Chúa Hòn. Bà là ngƣời đầu tiên đến và khai phá vùng đất đảo hoang vu Hòn

Sơn. Từ đó về sau, ngƣời dân từ khắp mọi nơi về đây sinh cơ lập nghiệp trong sự

đùm bọc chở che của Bà Chúa Hòn. Nhớ công ơn to lớn đó, ngƣời dân nơi đây đã lập

miếu thờ Bà.

+ Tín ngưỡng thờ Bà Thượng

Miểu Bà Thƣợng (Thƣợng động Thánh Mẫu/Cổ Hý Tiên Phi), tọa lạc tại tổ

4, ấp II, xã Hòn Tre. Miểu này là thờ Nữ thần Hang động. Theo quan điểm của

ngƣời dân Hòn Tre miếu là nơi thờ cúng bà Chúa Hòn hay còn gọi là Bà Thƣợng.

Miểu không lớn nhƣng khang trang và cổ kính. Nép mình dƣới tán cây đa cổ thụ,

24

miểu Bà Thƣợng mang dáng vẻ trầm mặc và trang nghiêm. Ngƣời Kiên Hải xem Bà

Thƣợng là một dạng ác thần chuyên trừ tà ma, đặc biệt tại các vùng núi có nhiều

hang động âm u, sâu thẳm trên những hải đảo xa xôi giữa biển. Dân gian còn gọi Bà

Chúa Thƣợng Động là Bà Cố Hi hay trang trọng hơn là Cố Hi Tiên Phi. Chức năng

của nữ thần này phức tạp hơn vì Bà vừa là phúc thần, vừa là ác thần. Tính “ác” ở

đây là trừng phạt kẻ ác chứ không phải hại ngƣời tốt. Dân gian thƣờng gọi nữ thần

này là “Bà La Sát”, xuất phát từ tính danh của Bà là “Thánh Anh La Sát”. Cƣ dân

trên đảo cúng kiếng Bà Chúa Thƣợng nhƣ vị thần bảo hộ, che chở ngƣời dân trong

cuộc đấu tranh sinh tồn với thiên nhiên khắc nghiệt, hoang dã nơi vùng biển đảo.

- Tín ngưỡng thờ Cá Ông - Thờ Thành hoàng Ngư nghiệp

Từ bao đời nay, ngƣ dân vùng biển Kiên Hải có tục thờ ông Nam Hải - hiện

thân của loài cá Voi có thân hình to lớn nhƣng tính tình hiền hòa, thƣờng cứu giúp

ngƣ dân mỗi khi bị nạn. Sau khi lên ngôi, vua Gia Long đã phong Cá Voi tƣớc hiệu

“Nam Hải Cự Tộc Ngọc Lân Thƣợng đẳng Thần”. Các vua triều Nguyễn sau đó

phong sắc cho cá voi với danh hiệu “Đại càng Quốc gia Nam Hải”.

Càng tin vào sự giúp đỡ của Cá Voi, ngƣ dân tổ chức việc thờ cúng hết sức

thành kính. Họ kiêng gọi Cá Voi mà gọi là Cá Ông hoặc Ông Nam Hải. Lăng thờ

cúng gọi là lăng Ông. Kiến trúc của lăng Ông cơ bản mang dáng dấp một ngôi đình,

vừa mang chức năng tín ngƣỡng vừa mang chức năng thế tục. Lăng thƣờng đƣợc xây

gần sông, biển và quay mặt ra hƣớng Đông. Hàng năm vào mùa Xuân hoặc mùa Thu,

ngƣ dân Kiên Hải tiến hành nghi thức cúng ông Nam Hải – còn gọi là Lễ hội Cầu

ngƣ, cầu thần Biển phù hộ độ trì cho sóng yên biển lặng và cho một vụ đánh bắt cá

mới đầy bội thu. Họ tin rằng, lễ tế càng chu đáo bao nhiêu thì ân đức của ngài ban

cho ngƣ dân (đƣợc mùa tôm cá, đời sống sung túc) càng nhiều bấy nhiêu.

Tƣơng truyền, vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX vùng biển Rạch Giá này

có rất hoang sơ, chỉ rải rác vài ngôi nhà của những lƣu dân từ các nơi đến đây lập

nghiệp. Ngoài nghề chính là đánh bắt hải sản, lƣu dân còn trồng tỉa hoa màu, đem

sức ngƣời chống chọi với thiên nhiên, chống chọi với biển cả mênh mông, với bão

tố, với cá dữ, bệnh tật... Để rồi trong tâm tƣởng, cũng nhƣ trong không gian bao la

25

ấy, phần lớn họ cảm thấy bất lực, muốn cầu nguyện một năng lực siêu nhiên để tự

an lòng, tự cân bằng cuộc sống, để mong đƣợc phù trợ khỏi tai ác trong bao la biển

cả, chỉ mong đƣợc yên lành tạo kế sinh nhai và tập tục thờ cúng và thờ cúng cá Ông

hay các vị thần linh của biển cả ra đời trên cơ sở đó.

Trong tâm niệm của ngƣ dân ven biển, cá Ông đại diện cho lòng tốt, cho tính

hƣớng thiện, cứu giúp ngƣời bị nạn, giúp ngƣ dân có một chuyến biển nhiều tôm cá,

một căn cốt của cuộc sống tốt đẹp và an lành. Do vậy mà cá Ông đƣợc xem là Phúc

thần hàng đầu trong hệ thống thần linh biển cả. Trong tín ngƣỡng thờ thần biển của

ngƣ dân ở đây, cũng nhƣ nhiều ngƣ dân khác ở vùng duyên hải, lễ hội Nghinh Ông,

lễ Cầu Ngƣ trong quan niệm cũng nhƣ thực tiễn là lễ hội tiêu biểu nhất của nhân

dân miền sông nƣớc, ven biển, bộc lộ rõ nét quá trình chuyển hóa giữa linh vật và

linh thần, nâng tầm thiên hóa cho linh vật thành vị thần trấn nhậm biển Đông, bảo

trợ ngƣ dân. Sự thiên hóa này không dừng lại ở tín ngƣỡng dân gian mà đã đi vào

truyền thuyết, tồn tại cùng với lịch sử của một vùng đất, một làng chài, để lại dấu ấn

trong tâm thức con ngƣời đƣợc tôn phong nhƣ một vị thần Nam Hải Cự Tộc Ngọc

Lân Thƣợng đẳng Thần. Việc thờ cúng Cá Ông, một Phúc thần tối cao ở biển cả là

một tập tục tốt đẹp của một cộng đồng, nhằm mục đích cầu phúc, sống an lành và

làm ăn tấn tới, một nhu cầu rất đời thƣờng của nhân dân gắn liền với sự kính trọng

thiên hóa. Cá Ông đã hằng sâu vào tâm niệm và đã trở thành tín ngƣỡng thờ cúng

phổ biến, luôn đƣợc bồi đắp dần. Việc thực hành tín ngƣỡng thờ cá ông có một nội

hàm phong phú, nghi thức trân trọng, nghi lễ tôn nghiêm, tồn tại từ đời này qua đời

khác. Xuyên suốt một thế kỷ qua nhân dân xã Lại Sơn luôn giữ lệ Nghinh Ông,

chứng tỏ rằng ngƣời dân rất tôn kính Nam Hải Đại Tƣợng Quân. Ngày nay, đa phần

nhân dân xã Lại Sơn có cuộc sống ổn định và sung túc với nghề khai thác và chế

biến hải sản, trong tâm thức của ngƣời dân nơi đây đều cho rằng có một phần ƣu ái

do thiên nhiên ban tặng và sự phù trợ của các thần linh, trong đó có Nam Hải Đại

Tƣớng Quân.

Hàng năm, cứ đến ngày 15, 16/10 (âm lịch) nhân dân xã đảo Lại Sơn cùng

với những ngƣời dân ở nơi khác tập trung về đây để tổ chức lễ hội Nghinh Ông rất

26

trân trọng, bằng nhiều hình thức tế lễ, cầu an, sinh hoạt văn hóa cộng đồng. Đây

chính là sự bày tỏ, tri ân của ngƣ dân đối với cá Ông, là dịp để những ngƣời đi biển

trao đổi kinh nghiệm cuộc sống, tầm ngƣ, thăm hỏi, động viên nhau trong cuộc sống

để sau Lễ Nghinh Ông họ tiến ra biển mang theo niềm tin cho một chuyến hải trình

đầy ấp sản vật trong lòng đại dƣơng trù phú.

Theo truyền thuyết và tín ngƣỡng dân gian, Nam Hải Đại Tƣớng Quân là

một Phúc thần, vâng mệnh trời cai quản và trấn nhậm một vùng sông nƣớc Nam Bộ,

một vùng biển mênh mông trù phú. Vâng mệnh thiên cơ, Ngài đã làm cho mƣa

thuận, gió hòa, bảo vệ muôn loài Hải tộc. Ngài đã từng hải du khắp hang cùng ngõ

hẹp để bảo vệ chúng sinh. Khi trầm đáy biển, khi vƣợt phong ba, hiển lộ thần oai,

trợ giúp dân lành, cứu nguy tàu thuyền khi gặp sóng to, gió lớn, phù trợ ngƣ dân

may mắn gặp nhiều sản vật mà đại dƣơng đã ban tặng. Trong tiềm thức, trong sâu

thẳm của lòng ngƣời, Ngài thật sự là đấng hiển linh, từ bi, bác ái. Trong văn tế cung

di tôn thần có nói đến việc Ngài vƣợt tam cấp võ môn hóa rồng lên mây, biến hóa

khôn lƣờng.

Ở vùng biển này, Ngài Nam Hải Đại Tƣớng Quân cùng các vị tôn thần, tả

ban, hữu ban, liệt vị đã góp công phù giúp nhân dân làm cho thuận vũ, đều phong,

an cƣ, lạc nghiệp. Đã bao đời nay, ngƣời dân nơi đây luôn kính trọng và tôn thờ

Ngài, kính mong Ngài trợ giúp khi sóng to, gió lớn và sau mỗi cuộc hành trình ra

biển trở về ghe tàu đầy ấp cá tôm.

Nam Hải Đại Tƣớng Quân tục danh là cá Ông là một sinh vật sống dƣới

nƣớc, ở rải rác khắp vùng biển Việt Nam, đặc tính thông minh và hiền lành, rất gần

gũi với cuộc sống đời thƣờng của con ngƣời, nhất là những ngƣời sống bằng nghề

khai thác hải sản.

Ngày xƣa, khi đi biển ngƣời ta thƣờng gặp cá Ông ở gần bờ mỗi khi trời

chớm động, chứng tỏ cá Ông có khả năng dự báo những biến đổi bất thƣờng của

trời đất. Chính vì khả năng này cá Ông có thể tìm nơi trú ẩn an toàn khi sóng to, gió

lớn. Do thân cá Ông to nên rất khó xây trở trong phong ba, vì vậy có những trƣờng

27

hợp phải dựa vào ghe thuyền của những ngƣ dân để trú sóng.

Ngẫu nhiên con ngƣời và cá ông dựa vào nhau, nƣơng tựa nhau để tồn tại.

Trong tâm thức, ngƣời dân luôn đặt niềm tin vào thế giới tâm linh để cầu mong

một huyền năng, tinh thần nào đó trong cuộc mƣu sinh. Trong truyền thuyết và sự

ngẫu nhiên trong cuộc sống, ngƣời dân tin rằng cá Ông là một vị thần của đại

dƣơng, là sự hiện thân của đấng từ bi, bác ái, có nhiệm vụ trấn nhậm các vùng

biển, cửa sông để trợ giúp ngƣ dân. Thiên mệnh và nhân tâm đã phong cho Ngài là

Nam Hải Đại Tƣớng Quân hoặc Đông Hải Đại Tƣớng Quân tùy theo vùng biển mà

Ngài trấn nhậm.

Niềm tin và tập tục đã đƣợc tích tựu từ xƣa, cho nên khắp đất nƣớc ta ở các

vùng duyên hải, các cửa biển có rất nhiều đền thờ cá Ông. Có nơi còn lƣu giữ

những bộ thần cốt, gần nhƣ nguyên vẹn. Thần cốt của Nam Hải Đại Tƣớng Quân rất

có giá trị trong tín ngƣỡng dân gian, có giá trị về lịch sử khai phá và hình thành

vùng đất phƣơng Nam và có rất nhiều giá trị trong khoa học.

Theo truyền thuyết, tục thờ cá Ông đƣợc xuất phát từ tín ngƣỡng của dân tộc

Chăm: “Vị thần tên là Cha-aih-va, vì quá nôn nóng trở về xứ sở sau thời gian khổ

luyện phép thuật, đã cãi lại thầy của mình và tự ý biến thành cá Voi. Từ đó, mỗi khi

có thuyền lâm nạn vị thần đều nâng đỡ và đƣa ngƣời lâm nạn vào bờ”. Truyền

thuyết dân gian của dân tộc Kinh thì cho rằng: “Cá Voi do Phật Quan âm Bồ tát xé

chiếc áo cà sa thành muôn mảnh thả trên mặt biển để cứu vớt chúng sinh đi biển bị

lâm nạn”. Trong lịch sử triều Nguyễn có ghi lại: Khi Chúa Nguyễn Ánh bôn tẩu

ngoài đảo Phú Quốc (Kiên Giang) bị bão lớn, thuyền sắp đắm, ông đã cầu nguyện

và đƣợc cá voi cứu thoát nạn. Sau khi phục quốc lên ngôi, vua Gia Long (tức Chúa

Nguyễn Ánh) phong cho cá Voi là “Nam Hải Cự Tộc Ngọc Lân Thƣợng đẳng

Thần”. Những ngƣời dân vùng ven biển tôn vinh cá Ông (cá Voi) thành một vị thần

rất đỗi thiêng liêng, là chỗ dựa tinh thần mỗi khi gặp sóng to gió lớn, thuyền bị đắm,

con ngƣời bị hiểm nguy đe dọa. Vì vậy, cá ông đƣợc liệt vào phúc thần hàng đầu

trong hệ thống thần linh biển cả của tín ngƣỡng thờ thần biển của ngƣ dân ở đây

cũng nhƣ nhiều ngƣ dân ở ven biển khác.

Cƣ dân nơi đây không chỉ thờ cá Ông, mà còn thờ rất nhiều thần linh vô

28

hình, hữu hình. Đó là Thành Hoàng, là các linh thần ở biển... Tuy nhiên, trong quan

niệm cũng nhƣ trong thực tiễn, cúng cầu ngƣ và lễ hội nghinh ông, có lẽ là tiêu biểu

nhất cho tín ngƣỡng thờ thần biển, thần nƣớc ở đây, bộc lộ rõ nét quá trình chuyển

hóa vật - thần; nâng tầm thiên hóa một con vật lớn nơi biển cả thành vị thần bảo trợ

cƣ dân ven biển. Sự thiêng hóa này không chỉ dừng ở cấp độ bình dân (đƣợc dân

chúng công nhận) mà còn ở cấp độ cao hơn (xã hội, Nhà nƣớc công nhận).

Việc thờ cúng cá Ông nhƣ một phúc thần tối cao ở biển thực ra không kéo vị

thần đó lên qua cao, mà chỉ là sự nhấn mạnh một đại diện trong hệ thống thần linh

mà thôi. Bởi, trong khi chăm chút cho lệ thờ cúng cá Ông nhƣ là hoạt động tâm linh

cơ bản của con ngƣời xứ biển, ngƣời ta cũng không quên cúng kiếng những vị thần

biển khác, dù là phúc thần hay hung thần linh hữu hình hay vô hình... trong tâm thức,

tâm lý hay hành động, cƣ dân biển rất chu toàn, rất năng động; cầu phúc thần để đƣợc

độ trì, cầu hung thần để đừng bị phá phách, thờ những linh hồn phiêu diêu để tích

đức, cuối cùng để đạt tới đích sống an lành và làm ăn tấn tới. Do đó tục thờ cá ông

mang tính chất cộng đồng lớn bên cạnh các tục thờ khác mang tính cộng đồng hẹp

hơn. Cho nên, trong đời sống cũng nhƣ trong tâm thức cƣ dân biển (và nhiều khi cả

cƣ dân xa biển) sự tôn trọng, kính cẩn, thiên hóa cá Ông, lúc đầu nhƣ là một biểu

tƣợng của lòng tốt, sau dần nhƣ một vật linh, một vị thần độ mạng, phù hộ con ngƣời.

Và có lẽ từ một nhu cầu đời thƣờng, sự kính trọng cá Ông đã dần dần hằn sâu vào

quan niệm, tâm thức, trở thành tín ngƣỡng thờ cúng cá Ông phổ biến, đƣợc bồi đắp

dần để có nội hàm phong phú nhƣ hiện nay.

Hiện nay, ở Kiên Hải có 05 đình, lăng Ông dọc theo các xã: Dinh Ông Nam

Hải (tổ 4, ấp 2, xã Hòn Tre); Lăng Ông Nam Hải (ấp Thiên Tuế, xã Lại Sơn); Lăng

Ông Nam Hải (ấp Bãi Bắc, xã Lại Sơn); Lăng Ông Nam Hải (ấp Bãi Ngự, xã An

Sơn); Lăng Ông Nam Hải (ấp Hòn Mấu, xã Nam Du).

Với những ngƣời làm nghề đi biển nói chung, Cá Ông tự ngàn xƣa đã trở

thành biểu tƣợng của sự phù trợ, chở che những lúc gặp khó khăn, nguy khốn.

Chính vì niềm tin đó nên đối với các ngƣ phủ, họ rất trân trọng vật tổ tín ngƣỡng

của mình.

29

+ Lăng Ông Nam Hải tọa lạc tại Ấp Bãi Bắc, xã Lại Sơn, huyện Kiên Hải

Vào khoảng chừng năm 1890, Cá Ông bị Tây bắn trôi dạt vào đất bà Lý Thị

Xứng. Từ đó bà con trong Ấp Bãi Bắc lập miếu thờ đơn sơ bằng cây lá. Đến năm

1985, ông Hai Ngôn và ông Hai Lan xây dựng thành lập Ban Quý tế đến hôm nay.

Trong làng còn giữ lại một bộ xƣơng cá ông rất lớn, tuy không còn nguyên

vẹn và hoàn chỉnh nhƣng cũng cho thấy đƣợc sự tín ngƣỡng của ngƣ dân đối với vị

thần phù hộ cho họ trên biển. Hằng năm, vào ngày 19 và 20 tháng 01 âm lịch, nơi

đây sẽ diễn ra các hoạt động cúng tế rất sôi nổi và mang đặc trƣng riêng, với đầy đủ

nghi thức hành lễ “Nghinh Ông”.

+ Dinh thờ Cá Ông tọa lạc ở ấp Hòn Tre là nơi thể hiện rõ niềm tin tín

ngƣỡng đó của ngƣời dân trên đảo. Dinh vừa đƣợc xây dựng mới, khang trang và

tọa lạc nên trục đƣờng chính của xã đảo. Bên trong thờ bộ xƣơng Cá Ông dài 9,8m

mà trọng lƣợng còn sống nặng đến 5 tấn. Đây có thể xem là mô hình Cá Ông

nguyên vẹn nhất trên toàn huyện đảo. Ngƣời ta lấy ngày Cá Ông trôi dạt vào đảo

(ngày 26-4-2006) làm ngày hành lễ và tín ngƣỡng rằng Cá Ông sẽ mang lại may

mắn cho những ai nhìn thấy và cả cho những nơi nào mà Cá Ông về ngự.

Ngoài những tín ngƣỡng tiêu biểu đã nêu trên, Kiên Hải còn có những tín

ngƣỡng trong phạm vi thờ cúng trên địa bàn của huyện nhƣ tín ngƣỡng thờ Bà -

Cậu (Miểu Bà - Cậu tọa lạc tại tổ 4, ấp II, xã Hòn Tre); thờ Cô Bảy (Miếu Cô Bảy,

tọa lạc tại tổ 4, ấp II, xã Hòn Tre); thờ Cô Lan (Chùa Cô Lan, tọa lạc tại ấp 1, xã

Hòn Tre); tín ngƣỡng thờ Phật giáo (Chùa Quan Âm, tọa lạc tại Tổ 2, ấp Bãi Bắc,

xã Lại Sơn; chùa Hải Sơn, tọa lạc tại xã Lại Sơn; Tịnh xá Phƣớc Hải, tọa lạc tại ấp

1, xã Hòn Tre); tín ngƣỡng thờ Thiên Nhãn (Thánh thất Liên giao Hải Sơn trực

thuộc Tòa thánh Ngọc Kinh (Phái Cao Đài Bạch Y), tọa lạc tại ấp Bãi Nhà, xã Lại

Sơn); tín ngƣỡng Âm linh - Cô Bác (miếu Âm hồn lƣu vong, tại ấp Bãi Ngự, xã

An Sơn; miếu Neak Tà, tại Tổ 3, ấp 2, xã Hòn Tre; miếu Neak Tè, ấp Bãi Nhà B,

30

xã Lại Sơn)...

Tiểu kết Chƣơng 1

Từ việc làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về tín ngƣỡng truyền thống

đặc biệt là những vấn đề liên quan đến đề tài nghiên cứu: Đó là quan niệm về tín

ngƣỡng, tín ngƣỡng truyền thống, đặc điểm của tín ngƣỡng truyền thống và các

hình thức của tín ngƣỡng truyền thống; quá trình hình thành các hình thức tín

ngƣỡng truyền thống tiêu biểu ở Việt Nam, khái quát sơ lƣợc về huyện đảo Kiên

Hải, tỉnh Kiên Giang đã đƣợc làm rõ.

Qua đây cho chúng ta thấy rằng, tín ngƣỡng truyền thống ra đời, tồn tại và

phát triển trong suốt chiều dài lịch sử dựng nƣớc và giữ nƣớc của dân tộc Việt Nam;

là một hoạt động sinh hoạt văn hóa tinh thần, tín ngƣỡng truyền thống không thể

thiếu trong sinh hoạt văn hóa tinh thần của ngƣời dân lao động.

Tín ngƣỡng truyền thống cũng nhƣ tôn giáo là nhu cầu tinh thần của tuyệt đại

đa số các thành phần cƣ dân ở nƣớc ta. Đánh giá đúng vai trò của tín ngƣỡng truyền

thống để có cái nhìn toàn diện về đời sống văn hóa tinh thần của ngƣời dân Việt

Nam hiện nay, để thấy đƣợc những giá trị của nó trong đời sống xã hội của con

ngƣời, đồng thời để từ đó bổ sung, điều chỉnh chủ trƣơng, chính sách, pháp luật về

tín ngƣỡng nói chung, tín ngƣỡng truyền thống nói riêng, phát huy mặt tích cực và

hạn chế mặt tiêu cực trong sinh hoạt tín ngƣỡng, tăng cƣờng củng cố khối đại đoàn

kết toàn dân.

Những nội dung này là cơ sở để Chƣơng 02 của luận văn nhận diện thực

trạng việc thực hành tín ngƣỡng truyền thống của huyện đảo Kiên Hải, tỉnh Kiên

31

Giang hiện nay.

Chƣơng 2:

THỰC TRẠNG VIỆC THỰC HÀNH TÍN NGƢỠNG TRUYỀN THỐNG

CỦA NGƢỜI DÂN TẠI HUYỆN ĐẢO KIÊN HẢI, TỈNH KIÊN GIANG

2.1. Các hình thức thực hành tín ngƣỡng truyền thống tiêu biểu của

ngƣời dân huyện đảo Kiên Hải, tỉnh Kiên Giang

2.1.1. Thực hành tín ngưỡng thờ Nguyễn Trung Trực

Đình thần Nguyễn Trung Trực tọa lạc tại ấp Bãi Nhà, xã Lại Sơn hay còn gọi

là Đền Thần Lại Sơn. Đền đƣợc xây dựng khá lâu nhƣng không biết chính xác là

ngày nào, vì ngƣời dân ở đây rất tôn sùng vị tƣớng Nguyễn Trung Trực và đã phong

ông làm thần, cho nên để tƣởng nhớ đến công ơn của ông ngƣời dân cho xây dựng

Đền Thần Lại Sơn để tƣởng niệm và làm lễ hội hàng năm.

Trong đền trên tấm vách cũ bên hƣơng án và trong ngổn ngang kiệu rƣớc

trống hội có treo một bức tranh đƣợc vẽ vào năm 1969. Bức tranh mô phỏng trận

thủy chiến và thể hiện rõ khí phách rực lửa của con ngƣời và đất biển Kiên

Giang đã sinh sống ở đây hơn 40 năm qua, cho dù Hòn Sơn đã trải qua những

cơn bão biển quét đi nhiều mạng ngƣời. Trên bức tranh có câu thơ danh sĩ Huỳnh

Mẫn Đạt là:

“Hỏa hồng Nhật Tảo oanh thiên địa

Kiếm bạt Kiên Giang khấp quỷ thần”

Vì thế, từ trong tín ngƣỡng, tâm linh của ngƣời dân nơi đây, những vị anh

hùng dân tộc có công giữ biển, giữ đảo vẫn hiện hữu trong cuộc sống. Và ngƣời dân

nơi đây thờ cụ Nguyễn Trung Trực nhƣ một vị thần bảo trợ cho vùng đất này.

Ở Hòn Sơn Rái còn lƣu truyền về những nghĩa quân Nguyễn Trung Trực. Khi

nghĩa quân tan rã, ngƣời có điều kiện thì vào đất liền để tiếp tục kháng chiến, ngƣời

không có điều kiện thì ở lại các đảo tìm kế sinh nhai, chờ cơ hội... Trong số đó có

nhiều ngƣời là dân của Hòn này. Theo hậu duệ của ông Lê Văn Năm, một nghĩa quân

của Nguyễn Trung Trực, ngƣời quê Cao Lãnh, tham gia nghĩa quân từ khi ông về Hòn

32

Chông lập căn cứ ở Ba Trại, sau khi Nguyễn Trung Trực bị bắt và bị hành hình,

nghĩa quân không còn, ông Năm đành ở lại đây sinh sống, lúc đầu sống tạm bằng

nghề thầy thuốc chữa bệnh cho dân, lâu dần dân tình quý mến, ông không thể rời xa

họ đƣợc, ông lấy vợ, sinh con và an cƣ ở đây. Khi ông qua đời, để tƣởng nhớ ơn

đức của ngƣời xƣa và vị anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực, ngƣời thủ lĩnh của

cha mình, con ông là Lê Văn Lợi cùng bà con ở hòn đảo này đã dựng lên một ngôi

đền để thờ cúng.

Cũng tại đây, trƣớc khi nghĩa quân rút về Hàm Ninh lập căn cứ chống Pháp,

từ quần đảo Hải Tặc, sau khi tập hợp đƣợc 40 thuyền ghe, nghĩa quân tiến về Phú

Quốc, trên đƣờng có ghé qua Hòn Sơn Rái để nhận tiếp tế. Tại hòn đảo này, bà

Tăng Thị Phú và nhân dân trên đảo đã tiếp tế rất nhiều lƣơng thực, thực phẩm và

nƣớc uống cho nghĩa quân, một số thanh niên tự nguyện đứng vào đoàn quân để

cứu nƣớc.

Đình thần Nguyễn Trung Trực phối tự cùng Thành Hoàng bổn cảnh, đình có

sắc phong của vua Bảo Đại. Hằng năm vào ngày rằm tháng Giêng, lễ cúng rất lớn,

kéo dài 3 ngày đêm; nhân dân trên đảo tham dự rất đông, dân đi hành hƣơng ngày

càng nhiều. Mấy năm gần đây, có năm vài ba ngàn ngƣời, có cả nhân dân ở trong

đất liền ra. Phần lễ, có hai nghi thức: một là nghi lễ thần Thành Hoàng bổn cảnh;

hai là nghi lễ thần Nguyễn Trung Trực, phần hội có diễn các trò chơi dân gian và ca

hát quần chúng, có năm chính quyền đứng ra tổ chức.

Chương trình Lễ cúng Đình Thần xã Lại Sơn, huyện Kiên Hải, tỉnh Kiên Giang

Hàng năm ngày 19-20-21 tháng 02 (nhằm 15-16-17 tháng Giêng âm lịch)

- Ngày 19 tháng 02 (nhằm 15-01 âm lịch):

+ 8 giờ sáng: Lễ thỉnh Bà và Thần Nam Hải

+ 9 giờ đến 10 giờ: Lễ cúng an vị các vị thần

+ 10 giờ đến 11 giờ: Dùng cơm chay

+ 16 giờ đến 17 giờ: Dùng cơm chay

+ 18 giờ đến 20 giờ: Lễ cầu an

+ 20 giờ đến 23 giờ: Đãi cháo chay

33

- Ngày 20 tháng 02 (nhằm 16-01 âm lịch)

+ 7 giờ sáng đến 8 giờ: Lễ tế thần Nam Hải và các vị thần

+ 10 giờ đến 12 giờ: Đãi cơm mặn cho quan khách

+ 16 giờ đến 17 giờ: Cúng cơm mặn

+ 18 giờ đên 20 giờ: Lễ đồng bào đến dâng hƣơng

+ 21 giờ: Lễ thỉnh sanh

+ 23 giờ đến 24 giờ: Lễ chánh tế thần

+ 24 đến 01 giờ: Đãi cháo mặn

- Ngày 21 tháng 02 (nhằm 17-01 âm lịch)

+ 7 giờ 30 sáng: Lễ tế Tiền Hiền – Hậu Hiền

+ 8 giờ sáng: Lễ tống tàu

+ 10 giờ đến 11 giờ: Buổi tiệc liên hoan chung

+ 12 giờ: Mãng lễ.

2.1.2. Thực hành tín ngưỡng thờ Bà Chúa Xứ và Bà Mã Châu

Theo khảo sát thực tế, tục thờ Bà Chúa Xứ ở Kiên Hải có nguồn gốc từ tín

ngƣỡng thờ mẫu, sâu xa hơn là tín ngƣỡng “cha trời - mẹ đất” cổ truyền của ngƣời

Việt. Theo chân những lớp ngƣời đi khai hoang, mở cõi, hình thức tín ngƣỡng này

đã đƣợc các lƣu dân mang theo trong tâm thức, nhƣ một “hành trang tinh thần” từ

quê cha, đất tổ.

Có thể nói, tục thờ Bà Chúa xứ là sản phẩm văn hóa tâm linh đƣợc hình

thành qua quá trình giao lƣu, tiếp biến và hội tụ của nhiều làn sóng văn hóa trên

vùng đất mới. Ðây là hình thức tín ngƣỡng phổ biến trong đời sống dân gian Kiên

Hải qua nhiều thế hệ, gắn liền với công cuộc khai phá, định cƣ của ngƣời Việt ở

vùng đất này.

Hệ thống miếu thờ Bà Chúa xứ thƣờng có 2 loại, loại miếu thờ của gia đình

thƣờng đƣợc lập với quy mô nhỏ, trong sân hoặc vƣờn nhà để các thành viên trong

gia đình thờ cúng; loại miếu thờ cộng đồng do dân cƣ trong xóm góp công góp của

xây dựng, ban đầu có thể làm bằng cây lá, khi có điều kiện thì xây dựng bằng bê-

34

tông, cao và rộng để ngƣời có thể đi vào sắp lễ cúng kiếng thƣờng xuyên.

Bên trong các miếu thờ thƣờng có tƣợng Bà Chúa xứ bằng bê-tông ở tƣ thế

ngồi, đặt trang nghiêm chính giữa bệ thờ, đầu đội mão trang trí sặc sỡ, mặc áo

hoàng bào hoặc áo lụa thêu rồng phụng, trên cổ đeo nhiều chuỗi hạt, hai bên có lộng

che, có khi thêm đôi hạc đứng chầu. Bài vị trong các miếu thờ Bà Chúa xứ thƣờng

đƣợc viết bằng chữ Hán với các danh xƣng của Bà: “Chúa xứ nƣơng nƣơng”, hoặc

“Chúa xứ thánh mẫu”, có khi là “Chúa xứ bổn cảnh”. Thời Nguyễn, dƣới triều vua

Gia Long, Bà còn đƣợc sắc phong là “Linh Sơn thánh mẫu” ghi nhận sự có mặt của

tín ngƣỡng thờ Bà Chúa xứ trong lịch sử dân tộc. Bà Chúa xứ vừa là một “phúc

thần” với chức năng phù hộ sức khỏe, tiền tài, danh vọng, công việc… nhƣng có lúc

lại đóng vai một “ác thần” trong những thề thốt, nguyền rũa, trù ếm lẫn nhau của

nhân gian.

Ðặc điểm chung của các miếu thờ Bà Chúa xứ ở Kiên Hải là hầu hết đƣợc

xây dựng dọc theo các tuyến sông rạch, thuận lợi cho ngƣời dân đi lại để thực hành

tín ngƣỡng. Nhiều miếu thờ đƣợc lập ở ngã ba sông, nơi xuồng ghe thƣờng qua lại,

ngƣời trong xóm có công có việc đi ngang miếu nhƣ đƣợc nhắc nhở vào thắp nén

“đi thƣa, về trình” với thần linh. Những miếu thờ này không chỉ dành cho ngƣời dân

địa phƣơng, mà khách thƣơng hồ có dịp đi ngang qua muốn cầu nguyện chuyện gì

cũng có thể vào khấn vái để xin Bà phù hộ.

Chương trình lễ hội cúng Miếu Bà Chúa Xứ và Bà Mã Châu tại xã Hòn Sơn

- Ngày 14/02 âm lịch: 7h30’: Các Ban tựu tế trang trí buổi lễ.

- Ngày 15/02 âm lịch: 8h: Lễ thỉnh hƣơng Thần Nam Hải Đại Tƣớng Quân

9h-10h: Lễ cúng thỉnh các vị thần linh, các vị

tiền – hiền – hậu hiền.

10h: Đãi cơm chay

16h: Đãi cơm chay

17h-21h: Lễ tụng kinh cầu an Quốc thái Dân an

22h: Dùng cháo.

- Ngày 16/02 âm lịch: 7h-10h: Lễ tế các vị thần linh

35

10h30’: Đón tiếp những Đoàn đến dâng hƣơng

11h30: Đãi cơm quan khách

16h: Đãi cơm quan khách

18h-20h: Lễ viếng quân, đồng bào đến dâng hƣơng

20h30’: Đãi cháo

21h: Lễ thỉnh sanh

23h: Lễ Chánh tế

- Ngày 17/02 âm lịch: 1h đêm: Đãi cháo

7h: Lễ tế tiền hiền – hậu hiền “Cổ Dỉa”

9h: Lễ đƣa Tàu Tống

10h: Đãi cơm, buổi tiệc liên hoan

11h: Kết thúc lễ

Chương trình lễ hội Miếu Bà Chúa Xứ tại xã Hòn Tre

Ngày chính lễ là 15 tháng 2 âm lịch. Vào ngày này, ngƣời dân của xã đảo Hòn

Tre tụ tập về đây hành lễ, thức cúng giản đơn: cơm, trái cây, xôi... nhƣng cũng đủ đế nói

lên lòng biết ơn của họ đối với các vị thần đã cho mƣa thuận, gió hòa, làm ăn thuận lợi.

- Ngày 14/02 âm lịch: 9h: Vào Lễ Thƣợng phƣờng

10h: Cúng cơm chay

16h: Cúng cơm

21h: Tẩm bà

- Ngày 15/02 âm lịch: 10h: Cúng cơm chay đãi quan khách

16h: Cúng cơm

21h: Bóng múa hầu bà

00h: Tế heo

- Ngày 16/02 âm lịch: 9h: Tống bè, bế mạc lễ.

2.1.3. Thực hành tín ngưỡng thờ Bà Cố chủ

Truyền thuyết (Hòn Lại Sơn bây giờ). Trƣớc đây có tên là Hòn Rái, thời vua

Gia Long bị quân Nguyễn Huệ đánh chạy loạn về đây mới đặt tên này.

Hòn Rái thời kỳ đó chƣa có dân cƣ, chỉ có gia đình Bà. Bà tên là Tăng Thị

36

Phú, đến Hòn lúc bấy giờ còn rất hoang sơ. Dần hồi dân tứ xứ dùng cây xà cừ mọc

trên Hòn Rái lấy vỏ cây và pha chế làm dầu trai để trét ghe xuồng đi trên biển. Gia

đình Bà chỉ có một ngƣời con gái. Bà rất hòa thuận với xóm làng, hay giúp đỡ khi

hàng xóm gặp khó khăn hoạn nạn.

Bà còn có khả năng thiên phú biết nhìn trời, đón gió. Bà biết hôm nay có

mƣa. Mƣa lớn hay mƣa nhỏ, nếu có nắng thì nắng nhiều hay nắng ít, biển động hay

biển êm, có bão hay không... đều đoán trúng hết. Từ đó dân trên Hòn ai muốn ra

biển hay lên rừng làm rẫy, trồng trọt đều đến nhờ Bà đoán thời tiết dùm. Dần dần

Bà nổi tiếng về xem thiên văn. Bà lại hiền từ, phúc hậu nên đƣợc mọi ngƣời yêu

thƣơng kính phục.

Không may gia đình Bà gặp nạn, bị bọn hải tặc ghé vào đánh cƣớp. Chúng

tra khảo Bà để tìm vàng bạc, vì gia đình Bà khá giả nhất xóm. Bọn chúng dùng đủ

mọi cách tra khảo, nhƣng Bà quyết không khai. Bọn chúng trói Bà, rồi cột đá vào

mình xô Bà chìm xuống biển rồi kéo neo rời khỏi Hòn. Tuy bị đá nặng làm Bà chìm

xuống biển, nhƣng Bà đã tìm cách tháo dây, cởi trói để bơi vào bờ. Lần này Bà đƣợc

thoát nạn.

Mấy năm sau bọn cƣớp quay lại đánh cƣớp nhà Bà một lần nữa. Bọn chúng

bắt đƣợc Bà, cũng đánh đập tra khảo nhƣng vẫn không lấy đƣợc vàng bạc của Bà.

Lần này bọn chúng quyết tâm giết chết Bà. Chúng bắt Bà cho vào chiếc rọ bắt heo

rồi buộc dây chắc chắn, chở ra khơi quăng Bà xuống biển. Lần này Bà không thoát

đƣợc. Lúc bấy giờ thuyền bè còn rất thô sơ, chỉ có chèo và buồm, phần vì bị neo

dƣới đáy biển nên không tìm thấy hài cốt Bà.

Nhƣng không bao lâu sau, trong những buổi hoàng hôn, gió lặng sóng yên,

ngƣời dân thấy Bà xuất hiện thấp thoáng trên mặt biển. Thấy vậy dân trên đảo nói

rằng Bà là ngƣời tốt mà bị chết một cách oan uổng nên hồn phách không siêu thoát.

Có ngƣời cho là Bà khi còn sống làm nhiều điều thiện, lẽ ra Bà phải về cõi trời,

nhƣng vì bận bịu con cháu, bà con trên Hòn nên Bà không nỡ ra đi. Từ đó bà con trên

đảo mới cất cái miếu thờ phụng Bà vào ngày mùng 09 tháng 9 âm lịch, năm 1899.

Từ ngày dân trên đảo lập miếu thờ Bà, Bà âm thầm phù trợ nhiều điều tốt

37

lành. Khi ra khơi bị sóng gió lớn đều kêu Bà phù hộ, hoặc khi đi làm ăn đều đến trình

Bà để đƣợc hộ trì. Bà đƣợc mọi ngƣời kính phục, quý trọng và rất tin tƣởng nhƣ lúc Bà

còn sống. Tiếng lành đồn xa, ngƣời dân khắp miền đất nƣớc đều đến đây ngày càng

đông hơn.

Kể từ ngày Bà mất, nhiều năm sau, bọn hải tặc thỉnh thoảng cũng ghé vào

Hòn để đánh cƣớp. Dân trên Hòn biết đƣợc họ liền chạy đến miếu khấn vái, trình

báo với Bà, tức khắc mặt biển cuồn cuộn nổi lên sóng to gió lớn, nhận chìm nhiều

tàu thuyền của bọn hải tặc, số còn lại thì bị hộc máu mà chết. Một lần khác chúng

đến cƣớp, Bà cũng làm giông to gió lớn tấp vào ghềnh đá bị chìm tàu mà chết.

Hiện nay còn di tích ngƣời dân trên đảo đặt nơi này tên là Vịnh Tàu Ô (tàu của

bọn hải tặc gọi là tàu ô). Một vài lần nhƣ vậy nên bọn cƣớp biển không dám bén mảng

đến đây nữa. Tiếng đồn đại Bà chủ Hòn hiển linh ngày một vang xa, khắp nơi ai cũng

đều kính phục Bà.

Tại vùng đảo khơi xa, tín ngƣỡng Bà Cố Chủ còn biểu hiện nhƣ một dạng

shaman giáo, ai đau ốm mà có lòng tin, bà nhập đồng chỉ cách lấy thuốc chữa khỏi

bệnh. Cho đến nay, hoạt động cúng kiếng Bà Cố Chủ tại xã Lại Sơn diễn ra theo mô

thức dành cho bậc tiền hiền khai khẩn đất đai, làng xã, điều này thể hiện tâm thức

“uống nƣớc nhớ nguồn” của cƣ dân trên đảo. Ngôi miếu thờ Bà Cố Chủ đƣợc xây

dựng, qua nhiều trùng tu đến nay khá bề thế, khang trang.

Miếu Bà Cố Chủ Hòn có 6 câu liễn sơn son phết vàng ghi đậm công đức

của Bà.

“Cố Chủ thiên phong phù quốc thái

Cố Chủ Hòn Sơn hộ dân an

Khai phương lập án dân trù phú

Đời sống dân cư hưởng thái bình

Ơn Cố Chủ tiền phong tích đức

Truyền tử tôn kế thế đời đời”

Cứ đến ngày 9 tháng 9 âm lịch hàng năm, lễ cúng Bà đƣợc ngƣời dân Hòn

Sơn tổ chức rất long trọng, thu hút rất nhiều ngƣời về đây dự hội và trở thành một

38

nét văn hóa tốt đẹp trong đời sống tinh thần của ngƣời dân.

Lễ hội diễn ra trang trọng, đƣợc chính quyền địa phƣơng quan tâm tham gia.

Qua truyền thuyết nửa hƣ nửa thật về nhân vật Bà Cố Chủ, có thể thấy sắc thái

sinh thái văn hóa thể hiện khá rõ, đó là hành vi con ngƣời thích nghi và tƣơng tác với

thiên nhiên biển đảo hoang sơ, thể hiện khát vọng về cuộc sống bình an, công bằng,

đạo lý để trấn an cho mình, đồng thời cũng để đối đầu với cuộc mƣu sinh nhiều bất

trắc, hiểm nguy nơi vùng biển, đảo.

2.1.4. Thực hành tín ngưỡng thờ Bà Thượng

Tín ngƣỡng thờ Bà Thƣợng đã trở thành phong tục tập quán tốt đẹp, hàng

năm cứ vào ngày 09-9 âm lịch, dù tất bật với công việc mƣu sinh, ngƣời dân Hòn

Tre vẫn không quên hội tụ về đây tổ chức ngày cúng vía bà. Đây cũng là dịp để

ngƣời dân huyện đảo có cơ hội gặp gỡ, trò chuyện, thăm hỏi nhau và cùng vui chơi

giải trí sau một năm làm việc vất vả.

Chƣơng trình lễ hội

- Ngày 08/9 âm lịch: 9h: Vào Lễ Thƣợng phƣờng

10h: Cúng cơm chay

16h: Cúng cơm

21h: Tẩm bà

00h: Tế heo

- Ngày 09/9 âm lịch: 10h: Cúng cơm chay

16h: Đãi cơm quan khách

21h: Lễ dâng mâm.

- Ngày 10/9 âm lịch: 9h: Tống bè, bế mạc lễ.

2.1.5. Thực hành tín ngưỡng thờ Cá Ông - Thờ Thành hoàng Ngư nghiệp

2.1.5.1. Thực hành phần lễ của tín ngưỡng thờ cúng Cá Ông

Việc thực hành tín ngƣỡng thờ Cá Ông ở Kiên Hải về cơ bản không khác

mấy so với các vùng khác; đồng thời có nhiều nội dung mang tính đặc thù của vùng

này, cụ thể:

Chƣơng trình và nghi lễ:

+ Ngày 15/10 âm lịch:

39

- Buổi sáng từ 7h – 11h: Ban Tổ chức, Ban Quý tế tiếp đón khách mời.

- Buổi chiều từ 14h: Làm lễ cúng thỉnh các vị thần linh (báo cáo lễ tế chính

thức bắt đầu và mời các thần về chứng giám). Ngoài việc thờ cúng cá Ông trong lễ

hội, ngƣ dân còn bày tỏ lòng biết ơn tiền hiền, hậu hiền, các vị thần linh.... Ngƣời ta

cúng heo trắng, heo đƣợc cạo sạch lông, chừa lại mấy đốm lông ở lƣng và vai, lễ vật

này chƣa đƣợc xẻ thịt hay chế biến gì cả. Tính chất cúng thờ, phối hƣởng và đa thần

không chỉ là cách ứng xử, giao tiếp với các thần mà còn hằn sâu trong nhận thức,

trong quan niệm tâm linh của ngƣời Việt. Họ cầu thần Thiện để giúp đỡ, độ trì,

nhƣng cũng khấn vái, tế lễ thần Ác để họ đừng phá phách, cách ứng xử giữa ngƣời

sống và chết, hữu hình và vô hình của ngƣ dân thể hiện một đạo lý uống nƣớc nhớ

nguồn và mang tính nhân văn sâu sắc.

- Buổi tối 19h: Lễ cầu an, lễ cầu siêu. Trong buổi lễ ngoài nhân dân bá tánh

tham gia buổi lễ thƣờng có đoàn đại diện 3 tôn giáo trên đảo Lại Sơn tham gia gồm

Đạo Hòa Hảo, Thánh thất Cao Đài và Chùa Phật giáo Hải Sơn. Các đoàn lần lƣợt

dâng lễ vật và thực hành nghi cúng lễ theo cách thức riêng của từng tôn giáo. Mục

đích của lễ là cầu an, nên trong bài văn tế, các vị thần đƣợc xƣớng danh rất nhiều,

kể cả âm hồn cô hồn cũng đƣợc mời về bồng lai phối hƣởng. Trong bài tế lễ, lời

khấn vái của dân chài cũng rất đơn giản, không cao xa, không phải là lời sám hối về

tội lỗi, cũng không phải là lời cầu xin thoát khỏi cửa bể trầm luân mà rất thực tiễn:

Lời cầu xin che chở, phù trợ cho cuộc sống hằng ngày đƣợc bình yên suôn sẻ. Có

năm ở miếu Hà Bá phía trƣớc Đình thần Nam Hải ngƣời ta còn tổ chức cúng cô hồn

và thả thuyền cúng. Ngƣời ta thả muối gạo, vàng mã, áo giấy và hình nộm ngƣời

xuống biển để các vong hồn bơ vơ, không nơi nƣơng tựa lấy đó làm đồ dùng, giảm

bớt sự khổ sở, bất hạnh, hành động này của ngƣ dân đƣợc xem là thế mạng, cầu

mong các vong linh hồn chết dƣới biển bị mất xác đừng bắt ngƣời sống, đừng phá

hoại công việc làm ăn. Khi làm lễ cúng cô hồn, chánh tế thực hiện nghi thức “chấn

đạt”, mõ khởi trƣớc 3 hồi, tiếp đến là chiêng trống và dàn nhạc cổ hòa theo. Trong

tiếng nhạc u buồn và trầm lắng ấy, ông đọc lời khấn gọi mời: “Khách thập phương

xa lạ âm hồn một tiếng xưa nay. Ai chưa rõ họ tên quanh quất biết đâu làng xã,

40

hoặc là kẻ ra vô trong rừng thẳm, lạc đường cheo mắc phải miệng hùm, hoặc là

người xuôi ngược giữa biển khơi bị trận tố sụt vào bụng cá. Những người sống đã

khổ thác càng thêm khổ, biết lấy ai thờ phụng, còn cũng đau mất lại đau hơn, không

kẻ giữ gìn mồ mả. Đốt nắm hương lạy vái cô hồn, tình bác ái thấu chăng nơi tiền

hạ, ôi thôi kính thay xin hưởng” v.v... Không biết lời cầu xin hiệu quả nhƣ thế nào,

nhƣng trƣớc hết con ngƣời cảm thấy thanh thản về mặt tâm linh, thoải mái về mặt

tinh thần vì mọi ƣớc muốn đã đƣợc ký gửi vào các thần linh. Họ khấn mời tất cả các

thần linh về hƣởng lộc cũng nhƣ không muốn một ai trở thành ma đói lang thang.

Tƣ tƣởng khoan hòa thể hiện rõ trong đời sống tâm linh. Tâm lý trong thực tiễn gắn

chặt với quan niệm thờ cúng.

- Vào lúc 20h Lễ Kiến quân (đồng bào tổ chức dâng hƣơng). Các nghi lễ này

do Ban Tổ chức, Ban Quý tế tổ chức hành lễ.

+ Ngày 16/10 âm lịch:

Đây là ngày Chánh lễ, khung cảnh xã đảo Lại Sơn thật đông vui, tàu thuyền

đậu chật kín các bãi, chiếc nào cũng cắm cờ phƣớn rực rỡ và mang trên mình những

ngƣ dân khỏe khoắn.

- Buổi sáng 6h30: Các phƣơng tiện tàu thuyền, ghe đƣợc trang trí, tập hợp ở

khu vực bãi biển trƣớc cửa Đình thần Nam Hải.

- Lúc 7giờ 30: Lễ Nghinh Ông Nam Hải bắt đầu. Đây là lễ nghi quan trọng

nhất mang tính cộng đồng rõ nét, mở đầu cho hàng chục lễ nghi nối tiếp theo. Nội

dung của lễ nghi này mới thực là lễ chính và là điểm nhấn của lễ cầu ngƣ. Đoàn

rƣớc gồm nhiều ngƣời tham gia, trong đó có:

+ Đội lân sƣ,

+ Long đình, kiệu rƣớc,

+ Học trò lễ,

+ Đội nhạc lễ,

+ Ban quý tế,

+ Đông đảo nhân dân và khách hành hƣơng…

Đặc biệt là 3-5 chiếc thuyền lớn đƣợc trang bị cờ quạt và đông đảo ngƣời

41

tham gia cùng các khí tự nhƣ cờ, lọng… Đám rƣớc Cá Ông đi từ Dinh xuống Bãi

Thiên Tuế để lên tàu thuyền, trong tiếng trống lân giục giã. Ghe Chủ lễ dẫn đầu

đoàn ghe khoảng 20 chiếc diễu hành đi quanh đảo để “rƣớc Ông”. Trên ghe chủ lễ

có bàn hƣơng án, cắm cờ ngũ sắc khói nhang nghi ngút. Các bô lão mặc áo thụng

xanh đi rƣớc lễ. Đi hộ tống tàu chủ lễ là những chiếc thuyền của ngƣ dân tham gia

đoàn rƣớc có thắp đèn treo cờ xí sặc sỡ và bày mâm phẩm vật cúng trƣớc mũi tàu.

Cả đoàn tàu rƣớc đi trong cờ xí rập rình, nhạc cử rộn rã. Các phƣơng tiện tàu thuyền

xuất phát từ Bãi Thiên Tuế đi một vòng quanh đảo Lại Sơn lần lƣợt chạy qua Bãi

Nhà cách đó khoảng 1km, rồi đến Bãi Bàng, Bãi Bấc rồi tất cả tàu thuyền ra khơi

đến một vị trí đã định trƣớc dừng lại. Vị Chánh tế tay cầm nhang đứng trƣớc mũi

thuyền khấn mời Ông về dự lễ cầu ngƣ. Lời khấn dựa theo tâm niệm mong sao khấn

vậy rồi vị Chủ tế lắc hai đồng tiền “xin keo”. Khi nào hai đồng tiền có một đồng

sấp, một đồng ngửa là đƣợc. Đó là để vị thần Nam Hải - Cá Ông chứng dám lòng

thành của ngƣ dân ngoài biển. Hành động đó đƣợc xem nhƣ là ông đã “lên” và đã

về nhập vào hƣơng án.

Ngƣời ta cho rằng mỗi khi cá Ông xuất hiện ngoài cửa biển, thƣờng có một

cặp cá Đao đi hai bên trƣớc dẫn đƣờng và cặp mực đi hai bên. Các cụ già giải thích

rằng cá Ông có nhiệm vụ phải giúp đỡ những thuyền bè bị tai nạn ngoài biển, lỡ có

lúc trên biển nhiều giông tố, tàu bè lâm nạn nhiều, Ông làm không xuể sẽ bị trời

trừng phạt. Và cá Đao chính là ngƣời thực hiện nghiêm lệnh đó. Thông thƣờng Cá

Ông ít phải hứng chịu hình phạt vì đã có cặp mực phun nƣớc đen để giải nguy.

Một truyện khác thì cho biết: “Đức Phật Quan Âm trong một lần tuần du đại

hải ngậm ngùi đau xót cho số phận ngƣời trần bị chết chìm tại biển khơi nên xé áo

cà sa thành trăm mảnh thả trên biển làm phép biến thành cá Ông, lấy bộ xƣơng voi

ban cho để cá Ông có thân hình to lớn, lại ban phép thâu đồng để lội thật mau, hầu

làm tròn trách nhiệm cứu vớt ngƣời lâm nạn”.

Đoàn ghe mở hết tốc lực lƣớt trên mặt biển xanh. Thỉnh thoảng vị Chủ lễ lại

rải ít giấy vàng, giấy bạc xuống mặt biển rồi lầm rầm khấn vái. Sau đó đoàn rƣớc

42

trở về nơi xuất phát là Bãi Thiên Tuế. Lễ Nghinh Ông diễn ra một giờ trên biển gây

ấn tƣợng lớn và xúc cảm cho ngƣời xem. Long án đƣợc đƣa từ tàu lên bờ rồi rƣớc

vào ngự trong Đình thần Nam Hải để tổ chức lễ tế thần.

Những ngƣời phải ở lại trên bờ không đi theo đoàn rƣớc ra biển đƣợc thì háo

hức chờ mong kiệu Ông (long đình) và đoàn diễu hành đi qua nhà mình hoặc nơi

mình đứng. Ngƣời ta tin tƣởng rằng, điều đó sẽ mang đến cho họ những điều may

mắn, tốt đẹp. Đó chính là giá trị tâm linh và sự hƣởng thụ lễ hội của công chúng.

Lúc 9h -11h: Nghi lễ khấn vái Cá Ông tại chính điện của Đình thần Nam Hải

cầu cho mƣa thuận gió hòa, làm ăn trên biển thuận lợi. Tiếng trống, tiếng phèng la

khua vang hỏa cùng âm thanh réo rắt của dàn nhạc bát âm, trong khi vị Chánh tế

điều hành Ban quý tế và học trò lễ khấn vái và dâng đồ tế lễ (không dùng hải sản).

- Từ 11h -12h: Buổi trƣa Ban Quý tế đãi cơm quan khách.

- Từ 14h -16h: Buổi chiều tiến hành lễ Chánh tế Nam Hải Đại Tƣớng Quân

tại Đình thần Nam Hải để cầu xin thủy thần Ðông Hải phò hộ cho trời yên bể lặng,

năm mới đƣợc mùa cá. Ban Quý tế gồm vị Chánh tế đứng giữa chiếu tế trực diện

với chánh điện, vị bồi tế đứng sau (khoảng 1 mét). Ngoài ra còn có các học trò lễ

đứng thành hàng dọc đối diện hai bên hƣơng án với khói hƣơng nghi ngút. Ngƣời ta

xem đây là nơi ngự của ông xem hát nên không ai đƣợc thất kính, vô lễ, đứng hoặc

ngồi quay lƣng trƣớc hƣơng án. Ban nhạc lễ gồm một ngƣời đánh trống chầu đứng

bên tả và một ngƣời đánh chiêng đứng bên hữu sân tế. Trên bàn thờ hƣơng trầm nghi

ngút, tăng thêm vẻ uy nghiêm. Vị Chánh tế xƣớng các nghi thức nhƣ sau:

BÀI BAN BAN TỀ

Chánh bái Bồi bái tựu vị

Tả ban Hữu ban tựu vị

Cửu sát tế vật

Ế mau quyết

Chánh bái, Bồi bái, Tả ban, Hữu ban xảo thối

Chắp sự giả tựu vị

Chắp sự giả các tƣ ký sự

Tiền khởi kích thác thái

43

Khởi chung cổ vĩ thông thần minh

Thái bình chung cổ tịnh thinh

Nhạt sanh tựu vị

Nhạt sanh khởi nhạc

Nhạt sanh quy hồi cựu sở

Khởi chung cổ

Chánh bái Bồi bái tựu vị

Tả ban Hữu ban tựu vị

Quán tẩy phế cân

Vai quỳ

Phần hƣơng

Nguyện hƣơng

Thƣợng hƣơng

Vai quỳ

Tạ thần Nam Hải

Cúc cung bái

Hƣng bái

Hƣng bình thân

Chánh bái bồi bái xảo thối

Chánh bái, Bồi bái, Tả ban, Hữu ban tựu vị

Quán tẩy phế cân

Vai quỳ

Phần hƣơng

Nguyện hƣơng

Thƣợng hƣơng

Tạ thần Nam Hải

Cúc cung bái

Hƣng bái

Hƣng bình thân

Nghệ hƣơng án tiền

44

Vai quỳ

PHẦN HƢƠNG

Nguyện hƣơng

Thƣợng hƣơng

Tạ thần Nam Hải

Cúc cung bái

Hƣng bái

Hƣng bình thân

Nghệ hƣơng án tiền

Vai quỳ

PHẦN HƢƠNG

Nguyện hƣơng

Thƣợng hƣơng

Tạ thần Nam Hải

Cúc cung bái

Hƣng bái

Hƣng bình thân

Nghệ hƣơng án tiền

Vai quỳ

SƠ HIỀN LỄ (lần thứ nhất)

Vai quỳ

Châm tửu

Hiến tửu

Vai quỳ

Chánh bái, Bồi bái, Tả ban, Hữu ban phủ phục hƣng

Tạ thần Nam Hải

Cúc cung bái

Hƣng bái

45

Hƣng bình thân

Á HIẾN LỄ (lần thứ hai)

Vai quỳ

Châm tửu

Hiến tửu

Chánh bái, Bồi bái, Tả ban, Hữu ban phủ phục hƣng

Tạ thần Nam Hải

Cúc cung bái

Hƣng bái

Hƣng bình thân

CHUNG HIỂN LỄ (Lần thứ ba)

Vai quỳ

Châm tửu

Hiến tửu

Chánh bái, Bồi bái, Tả ban, Hữu ban phủ phục hƣng

Tạ thần Nam Hải

Cúc cung bái

Hƣng bái

HIẾN TRÀ (Lần thứ tƣ)

Hƣng bình thân

Vai quỳ

Ẩm phƣớc thọ lộ

Chánh bái, Bồi bái, Tả ban, Hữu ban phủ phục hƣng

Tạ thần Nam Hải

Cúc cung bái

Hƣng bái

Hƣng bình thân

Chánh bái, Bồi bái, Tả ban, Hữu ban xảo thối

Viên quan kỳ lão tựu vị

46

Tạ thần Nam Hải

Cúc cung bái

Hƣng bái

Hƣng bình thân

Xảo thối

Lễ nhạc đồng bái

Tiệc sân lễ thành cồ chung giao hội

- Từ 19h – 22h: Tổ chức lễ kiến quân (phần này do Ban quý tế tổ chức).

- Sau lễ cúng tế thần là lễ cúng tiền hiền, hậu hiền và táo quân, những vị thần

đƣợc thờ tại Đình thần Nam Hải. Các chủ gia nghệ, vạn chài vào lăng khấn vái lạy

thần. Họ đem lễ vật hoặc tiền đi đám cúng ông. Tiền này gọi là tiền “hành bƣu,

hành giải” có ngƣời gọi là tiền “cúng hƣơng”.

- Từ 22h -24h: Tổ chức buổi tiệc nhẹ tiễn khách dự hội.

Với quan niệm xem cá Ông là một vật thiêng nên ngƣ dân tổ chức nhiều lễ

cúng tế trong năm. Một số thần tích còn lƣu lại cho biết rằng: xƣa kia lễ cúng chính

tại các lăng ông cũng nhƣ tại đình mỗi năm thƣờng tổ chức 2 lần; một vào mùa Xuân

và một vào mùa Thu theo lệ “Xuân cúng Thu tế”.

Ngày nay ngoài lễ hội Nghinh Ông, tại đình thần Nam Hải xã Lại Sơn còn

có nhiều lễ cúng khác diễn ra trong năm:

+ Đó là tục cúng mở đầu năm mới vào sáng ngày mùng một tết. Từ sáng

sớm, ngƣ chài đã vào đình thần Nam Hải làm lễ cúng. Lễ vật là một ít bánh ngọt và

trái cây. Vạn trƣởng vạn lạch khấn bái cầu thần phù hộ năm mới làm ăn phát đạt.

Các thành viên và các chủ gia nghệ cùng thấp nhang khấn lạy. Tùy theo nguyện

vọng ƣớc muốn của mình mà xin thần phù trợ.

+ Lễ cúng cầu an tháng 3 âm lịch. Lễ vật cúng: Hoa quả, trà rƣợu, heo. Tuy

vậy lễ vật cúng không phải là cố định; năm nào đƣợc mùa ngƣ dân làm ăn khá thì

vạn chài góp tiền mua heo cúng ông. Có năm chỉ cúng chè, xôi, hoa quả…. trƣởng

vạn chài trong trang phục áo dài khăn đóng vái lại ông và các thần, cầu gửi cho thần

47

các ƣớc nguyện của ngƣ dân.

+ Lễ cúng tiên sƣ: Còn gọi là lễ cúng tổ nghề. Lễ vật cúng là đầu heo và gà.

Trong lễ cúng này ngƣ dân tổ chức xem chân gà để xác định vụ mùa năm nay khá hay

kém. Thành phần dự lễ là hội đồng vạn lạch, các chủ gia nghệ tàu thuyền và các lão

ngƣ, chức sắc ở địa phƣơng.

Thấp thoáng trong các nghi lễ cúng tế trên đây, chúng ta nhƣ bắt gặp đây đó

hình ảnh Ngƣ Ông cùng các chàng trai bàn về luồng lạch, đƣờng dây cứu nạn trong

mƣa bão… Lễ hội Cầu Ngƣ ngoài việc tế lễ khi bƣớc vào vụ mùa đánh bắt cá còn là

sự ghi ơn các vị tiền hiền, hậu hiền và là dịp để các ngƣ phủ cùng ngồi lại trao đổi

nghề nghiệp bên chén rƣợu lộc. Ngƣời miền biển thành kính với thần linh và sống

rất thật lòng. Điều đó dễ thấy khi họ tế lễ. Ngoài ra có năm ngƣ dân ở xã đảo Lại

Sơn còn tổ chức lễ phóng đăng trên biển, lễ thả tàu tống ôn cúng các linh hồn đã

khuất …

- Văn tế: Theo cổ truyền, hiện nay vào dịp lễ hội Ban quý tế có cử ra 1 chánh

tế, 1 bồi tế, 1 chánh bái, 1 bồi bái, 8 học trò lễ. Trong buổi chánh tế tại đình, ông

chánh tế điều khiển các nghi thức tế nhƣ: tấu nhạc lễ, dâng rƣợu, dâng trà, dâng

hƣơng, bày lễ vật… nhƣng theo trí nhớ của ông Nguyễn Văn Xinh - Chánh tế, đồng

thời là Phó Trƣởng ban Quý tế, hoàn toàn không có văn tế trong các nghi thức chính

nhƣ: nghinh thần, cầu siêu, cầu an, chánh tế vv…

BÀI VĂN TẾ NAM HẢI ĐẠI TƢỚNG QUÂN

RẰNG CUNG KÍNH THẦN MINH

Ngài là vị thần minh, khi ẩn khi hiện rất là hiển linh.

Cai quản vùng biển Nam Hải, do trời phong giữ gìn bảo vệ Hải Tộc

Thuận theo cơ trời làm cho mƣa thuận gió hòa

Vinh râu đuôi hoạt yến tiệc linh đình cũng có bằng hữu rất tƣơng đắt, khi

biến khi hiện nơi Hải Đảo

Vƣợt sóng ba đào, trầm đáy biển, khi vƣợt ba cấp sẽ hóa rồng lên mây, biến

hóa không lƣờng nhƣ rồng xuất hiện, chim nổi tự tại, ngọc chiếu sáng ngời

Lãnh mệnh trời tuần tra cõi thủy, hang cùng ngõ hẹp đều có mặt vân du cứu

48

độ, thật khổ vô cùng, hiển lộ thật oai

Để cứu trợ ngƣ thuyền bị lâm nguy, gúp ngƣ dân may mắn gặp nhiều đàn cá,

hành trình khi về vui vẻ ghe đầy hải sân

LỄ PHÉP CUNG KÍNH:

Kính dâng lễ mọn rất là đơn sơ

Khi ngài chứng giám bốn mùa thuận lợi

Nhờ sự soi sáng của thần minh

Bảo vệ xóm làng đƣợc an ninh giàu có

Lòng ngƣời ngƣỡng mộ linh thần

XIN NGÀI NAM HẢI ĐẠI TƢỚNG QUÂN BAN CHO ÂN HUỆ THẬT NHIỀU

2.1.5.2. Hoạt động phần hội trong tín ngưỡng thờ Cá Ông

Khoảng mƣời năm về trƣớc, hầu hết, lễ Nghinh Ông ở Kiên Hải chỉ có phần

lễ, phần hội gần nhƣ không rõ ràng, chỉ có phần giao lƣu đờn ca tài tử. Tại đây,

những bài ca mang đậm chất biển, truyền tải những tâm tƣ tình cảm, tình yêu đối

với biển nhƣ: bão biển, biển của riêng em, Cánh chim trên biển, Nhớ biển quê

hƣơng… thể hiện tinh thần hƣớng biển và cái nhìn tích cực về biển. Qua đây, cũng

toát lên đƣợc do môi trƣờng sống hoàn toàn phụ thuộc vào biển, vì thế ngƣ dân nơi

đây, không còn niềm tin nào lớn hơn là niềm tin cũng nhƣ sự kỳ vọng vào biển.

Biển chính là cuộc sống của họ, vì vậy mà họ yêu biển nhƣ ruột thịt của mình. Cũng

chính vì vậy Cá Ông chính là vị thần cứu thế và bảo hộ của họ.

Những năm gần đây, các hoạt động văn hóa, nghệ thuật ngày trở nên phong

phú và sôi nổi với nhiều cuộc thi, trò chơi diễn ra ngay trên biển và trên bờ gần khu

vực Dinh Ông. Các trò chơi thu hút đông đảo ngƣời dân tham gia chơi cũng nhƣ cổ

vũ trong không khí hết sức sôi nổi. Hàng trăm ngƣời dân của huyện đảo cũng nhƣ

du khách đổ về ven biển khu vực cầu cảng để tham gia cũng nhƣ xem đua thuyền

trên biển, bắt vịt trên biển, đi cà kheo, đập nồi, nhảy bao bố… Vui nhộn nhất là trò

bắt vịt trên biển. Hàng chục con vịt đƣợc mang ra thả trên biển cách bờ chừng vài

chục mét và ngƣời dân ai cũng có thể bơi ra để bắt vịt mang về nhà. Để bắt đƣợc

49

một con vịt cũng chẳng dễ dàng bởi vừa bơi vừa bắt trong khi sóng biển đánh liên

tục nên có ngƣời trắng tay, có ngƣời bắt đƣợc 2-3 con. Cả những ngƣời lớn, trẻ nhỏ

tham gia tranh nhau bắt vịt. Các trò chơi tại lễ hội Nghinh Ông hấp dẫn nhƣ đập nồi

đất trúng quà; kịch tính màn nhảy cà kheo. Thi ẩm thực với các món ăn miền biển

nhƣ: gỏi cá trích, mực luộc nƣớc dừa, cá xanh xƣơng nhúng giấm, ốc tai tƣợng xào

lăn, tôm, cua, ghẹ… Đối tƣợng tham gia Hội thi Văn hóa ẩm thực gồm các cơ quan

ban ngành của huyện Kiên Hải, các xã và lực lƣợng vũ trang. Hàng trăm ngƣời dân

đến tham dự lễ hội Nghinh Ông trong không khí rất sôi nổi, đã góp phần làm cho

không khí của lễ hội thêm vui tƣơi, phấn khởi và tạo sự đoàn kết gắn bó giữa ngƣời

dân xứ đảo với nhau cũng nhƣ phục vụ du khách đến tham quan.

Tại các lễ hội Nghinh Ông, phần hội thƣờng ít đƣợc chú ý hơn, chƣa thể hiện

đậm sắc thái văn hóa của đồng bào các dân tộc ở Kiên Giang. Tuy nhiên, trong thời

gian gần đây, nhờ sự chỉ đạo, quan tâm sâu sát của Sở Văn hóa và Thể thao, phòng

Văn hóa mà chất lƣợng của các lễ hội đƣợc nâng lên rõ rệt. Thực tế chứng minh

rằng, trong năm 2016, số lƣợng du khách đến với Kiên Giang nói chung và lễ hội

Nghinh Ông nói riêng có phần nâng lên rõ nét. Theo khảo sát, tại Lễ hội Nghinh

Ông ở Lại Sơn, huyện Kiên Hải số lƣợng khách đến tham gia lễ hội tăng gần gấp

đôi so với năm 2015, ƣớc tính khoảng gần 2.000 lƣợt ngƣời tham dự.

Qua đó đã cho chúng ta nhận thấy tầm quan trọng của công tác tổ chức lễ hội

sẽ có tác động tích cực đến việc thu hút du khách đến và tìm hiểu về tục thờ cúng cá

Ông của cƣ dân ven biển tỉnh Kiên Giang nói chung cũng nhƣ các Lễ hội Nghinh

Ông ở Kiên Hải nói riêng. Từ đó, giúp cho lễ hội thực sự là món ăn tình thần không

thể thiếu trong đời sống của cƣ dân ven biển và các vùng lân cận.

2.2. Những giá trị truyền thống trong thực hành tín ngƣỡng truyền

thống tiêu biểu của ngƣời dân huyện đảo Kiên Hải, tỉnh Kiên Giang

2.2.1. Giá trị tín ngưỡng tâm linh

- Tín ngưỡng truyền thống là một bảo tàng phong phú về đời sống tinh thần -

văn hóa của cộng đồng, đồng thời nó cũng phản ánh quá trình lao động, chiến đấu

đầy khí phách của nhân dân và những biến cố quan trọng của xã hội. Do đó, tín

50

ngƣỡng truyền thống có tác động sâu sắc đến đời sống tâm linh, tƣ tƣởng, tình cảm

và tính cách của con ngƣời ở mỗi vùng đất qua nhiều thế hệ. Thực tế cho thấy, sức

lan tỏa của tín ngƣỡng truyền thống diễn ra liên tục và mạnh mẽ, tác động đến tâm

hồn, tƣ tƣởng, tình cảm, cốt cách của nhiều thế hệ,...

Từ nhận thức về biển và mối quan hệ giữa con ngƣời với biển, ngƣời dân

biển nói chung và ở huyện đảo Kiên Hải nói riêng luôn thƣờng trực nhu cầu về an

ninh tinh thần, mà ở một khía cạnh nào đó, nó nhƣ biểu hiện của ý muốn khắc phục

những rủi ro trong lao động sản xuất cũng nhƣ trong đời sống thƣờng nhật.

Tín ngƣỡng truyền thống, trong đó có Lễ hội Cầu Ngƣ của cƣ dân ven biển

Kiên Hải đã tồn tại và đang đƣợc thực thi đến tận ngày nay, chứng tỏ có khả năng

đáp ứng nhu cầu tâm linh và tâm lý cầu an cũng nhƣ nhu cầu cân bằng đời sống

hiện thực với đời sống tâm linh, tinh thần của họ. Bởi lẽ đặc thù của nghề biển là

tiếp xúc và đối mặt với một không gian bao la biển nƣớc, với những bí ẩn, hiểm

nguy luôn bủa vây đe dọa tính mạng con ngƣời; cũng đã không ít lần, dân biển bất

lực trƣớc sức mạnh của đại dƣơng. Cho nên mối quan tâm trên hết của họ là bảo toàn

tính mạng và có thể khẳng định tinh thần cầu an và nguyện ƣớc bình an của ngƣ dân

đã "cao hơn" nông dân.

Ngƣời nông dân sản xuất trên đồng ruộng cũng phải đối mặt với những hiểm

họa từ thiên nhiên, tuy nhiên trong chừng mực nào đó, vẫn có thể chủ động thích

nghi "trông trời, trông đất, trông mây" trong gieo trồng, gặt hái. Và sự phát triển của

khoa học kỹ thuật ngày nay đã hỗ trợ nông dân rất nhiều trong cuộc sống và sản

xuất. chuyện mƣa nắng thất thƣờng, mùa màng thất bát, dịch bệnh hoành hành, với

đà phát triển của khoa học kỹ thuật, khiến ngƣời ta đỡ lo ngại hơn. Còn đời sống

của ngƣ dân biển, dù khoa học kỹ thuật phát triển, thì vẫn còn nhiều khó khăn -

những khó khăn xuất phát từ đặc thù của môi trƣờng sản xuất. Với cộng đồng làm

nghề biển, việc làm chủ nắng mƣa, sóng gió vẫn là khát vọng, ƣớc mong; tƣ tƣởng

chiến thắng thiên nhiên, làm chủ thiên nhiên là điều không tƣởng. Bởi vậy, trong

tâm thức của ngƣời làm biển thƣờng trực ƣớc muốn thiêng liêng nhất vẫn là trời

51

yên, biển lặng, ghe thuyền ra khơi vào bến an toàn, tôm, cá đầy khoang.

- Để "giữ hồn" trên biển, để bình an trở về cho mỗi chuyến đi biển, cộng

đồng dân biển có nhu cầu nhờ đến sự phù trì, che chở của thần Biển, Cô Bác, Tiền

hiền, các Bà… dưới biển, trên bờ. Các hành vi thờ cúng, lễ hội, kiêng kỵ, nhằm thỏa

mãn nhu cầu đó, đồng thời giúp cho tâm lý của ngƣời đi biển bình tĩnh, an tâm,

hƣớng suy nghĩ đến những điều tốt đẹp cho những chuyến ra khơi vào bến; mặt

khác cũng góp phần giải tỏa những ức chế của ngƣời làm biển trƣớc những khó

khăn, thất bát; củng cố niềm tin trong tâm rằng thần linh cũng thấu hiểu khó khăn,

vất vả của con ngƣời trong cuộc mƣu sinh, từ đó sẽ hộ trì và ban phúc.

Cũng thông qua các hình thái tín ngƣỡng và sự thực hành tín ngƣỡng, ƣớc

muốn của dân biển về vùng đất lành đã đƣợc thỏa mãn ở khía cạnh tinh thần. Đất

lành cũng có nghĩa là đất thiêng - địa linh và đó còn là nơi lƣu giữ những hồn thiêng

của các thế hệ ông cha ngƣời Việt khai hoang lập ấp, của những Chiến sĩ trận vong

và Cô Bác "hữu thực vô danh, hữu danh vô thực" đã diễn ra sự cộng cƣ và trao đổi

văn hóa giữa ngƣời Việt và một số tộc ngƣời khác ở vùng này. Một điểm chung

trong tín ngƣỡng của các dân tộc "khác Việt" ở đây là sự thờ cúng Địa thần. Tín

ngƣỡng này đã tác động đến tâm lý của dân Việt Kiên Giang nói chung và dân biển

nói riêng. Kết quả là, tất cả các đối tƣợng thiêng, bất kể của cộng đồng nào tồn tại

trong lòng đất, đều đƣợc quy về phạm trù địa thần để có lý do cầu cúng nhằm đạt

đến các giá trị đất lành, ngƣời an, cuộc sống đủ đầy.

Trong cuộc sống, ai cũng có những ƣớc mơ, hoài bão, khát vọng một cuộc

sống tốt đẹp, công bằng, hạnh phúc. Để làm đƣợc điều đó, bản thân mỗi ngƣời cần

phải nỗ lực, cố gắng rất nhiều. Nhƣng khả năng con ngƣời là có hạn nên đôi khi

không đƣợc nhƣ mình mong muốn. Những lúc ấy con ngƣời cảm thấy bất lực, bế

tắc và họ nghĩ đến lực lƣợng siêu nhiên giúp họ có động lực tiếp tục vƣợt qua khó

khăn, rủi ro, hoạn nạn.

- Đối với cư dân ven biển Kiên Hải, dinh, miếu cá Ông là một ngôi miếu hết

sức linh thiêng. Chính vì sự linh thiêng đó mà người dân càng đặt lòng tin vào sự

phù hộ, che chở của Ông. Ngƣời đến cúng cá Ông có cả già trẻ, trai gái và đủ mọi

52

thành phần xã hội, đó là những em học sinh, những ngƣời nông dân, ngƣ dân và

những ngƣời kinh doanh buôn bán. Tất cả họ đến đây đều với một lòng thành tâm

kính cẩn. Họ không chỉ gửi đến cá Ông lời cầu xin phù hộ và giúp đỡ vƣợt qua

những khó khăn để thực hiện đƣợc những ƣớc mơ, hoài bảo, khát vọng trong cuộc

sống mà còn là lời cầu mong tha thứ cho những việc làm sai trái với lƣơng tâm mà

mình đã trót làm để tìm thấy sự an yên trong tâm hồn.

Cuộc sống chúng ta luôn tiềm ẩn nhiều khó khăn, bất trắc, cho nên ngƣời dân

cần một chỗ dựa tinh thần để có thể yên tâm sống và lao động sản xuất. Xã hội ngày

càng phát triển, con ngƣời bằng sự nỗ lực, sự hiểu biết của bản thân đã có thể gặt

hái đƣợc những thành tựu nhất định nhƣng họ vẫn tin có lực lƣợng siêu nhiên là thần

linh giúp đỡ. Điều đó cho thấy, việc ổn định tâm lý, tinh thần con ngƣời trong cuộc

sống rất quan trọng và sẽ rất khó thực hiện nếu không có những sinh hoạt tâm linh

nhƣ lễ hội.

Lễ hội Nghinh Ông mang đậm bản sắc văn hóa truyền thống mà tất cả ngƣời

dân trong vùng không phân biệt giới tính, tuổi tác, tôn giáo đều tham gia.

Khảo sát thực tế cho thấy: Cô Huệ, một ngƣời dân ở Bãi Nhà, xã Lại Sơn,

huyện Kiên Hải cho biết rằng, dịp lễ hội Nghinh Ông năm nào cô cũng tham gia, cô

tham gia cùng Ban Quý Tế và phụ trách luôn phần nội trợ để tiếp đón du khách gần

xa đến tham dự lễ hội. Dù theo đạo Phật nhƣng hàng năm vẫn đi lễ hội Nghinh Ông

và thờ cúng cá Ông vì tin vào sự linh thiêng của cá Ông. Là thành viên trong Ban

Quý tế, đến với lễ vía Nghinh Ông xã Lại Sơn, trƣớc hết cô Huệ cùng Ban Quý tế

thực hành nghi lễ Cầu An cầu cho bá tánh dân an, mƣa thuận gió hòa, ngƣ dân ra

khơi đƣợc thuận buồm xuôi gió, nhà nhà no ấm, sau đó là cầu mong cá Ông phù hộ

cho gia đình sức khỏe, làm ăn thuận lợi, con cháu thành đạt. Cũng theo cô Huệ,

ngƣời dân dù theo hay không theo tôn giáo nào, dù đạo hay đời… ai cũng mong

muốn cuộc sống của mình luôn gặp nhiều may mắn, gia đình bình an, mọi điều

đƣợc thuận lợi. Do đó, lễ hội Nghinh Ông ở đây nhƣ là chiếc cầu nối, là dịp để con

ngƣời giải bày và gửi gắm những ƣớc vọng đó đến cá Ông cầu mong sự phù hộ.

Đến với lễ hội Nghinh Ông không chỉ có ngƣời lớn tuổi mà còn có một bộ

53

phận không nhỏ lớp trẻ, đó là những em học sinh, sinh viên sinh sống trong vùng

hay ở những vùng lận cận cũng đến tham dự lễ hội Nghinh Ông. Lớp trẻ đến đây

không chỉ để xem lễ hội, tham gia các hoạt động trong ngày hội mà còn đến để cầu

xin cá Ông phù hộ sức khỏe cho ông bà, cha mẹ, công việc làm ăn trong gia đình

đƣợc thuận lợi và việc học hành của mình đạt kết quả tốt.

Nhƣ em Nguyễn Thị My, 19 tuổi hiện làm công nhân may ở tỉnh Đồng Nai,

cho biết rằng, em sống ở đây từ nhỏ, 3 năm gần đây, em lên Đồng Nai làm công nhân

may, nhƣng dịp lễ hội Nghinh Ông năm nào em cũng về tham gia, vì đó là lễ hội linh

thiêng và các hoạt động hội thì rất vui. Đến lễ hội Nghinh Ông qua lời dạy của ba mẹ,

phong tục thờ cúng cá Ông của ngƣ dân trên đảo, lúc nhỏ em thƣờng theo ba mẹ đến

Dinh Ông thắp hƣơng cầu mong cá Ông phù hộ cho em thông minh, sáng suốt, có sức

khỏe và học tập thật tốt. Cứ nhƣ vậy, mỗi năm em đều đến tham dự lễ hội Nghinh

Ông. Em còn cho biết, không chỉ vào dịp lễ hội Nghinh Ông mà ngày thƣờng ngƣời

dân đến với Dinh Ông Nam Hải cũng rất đông, cầu mong phù hộ cho gia đình đƣợc

sức khỏe, may mắn, mƣa thuận gió hòa để ngƣ dân yên tâm đánh bắt.

Qua gặp gỡ trực tiếp, Ông Trần Văn Mến, ấp I, xã Hòn Tre, huyện Kiên Hải

cho biết: "hàng năm vào các ngày cúng ở Dinh Ông Nam Hải là gia đình tôi cũng

nhƣ bà con từ nơi khác đến đây ai cũng mang lễ vật lại cúng ông Nam Hải Đại

Tƣớng Quân, cầu cho việc đánh bắt hải sản trên biển đƣợc thuận lợi cũng nhƣ

ngành nghề làm ăn trên biển đƣợc phát triển… Cứ ngƣời dân đi biển cầu nguyện

Ông để cho trời êm biển lặng để tiện cho việc làm biển sao cho thuận lợi trong lúc

tàu ra khơi….".

- Lễ hội nghinh Ông tại xã Hòn Tre huyện Kiên Hải, không những đáp ứng

được nhu cầu tín ngưỡng của nhân dân bày tỏ lòng tri ân của ngư dân được sự phù trợ

của cá Ông đối với các hoạt động đánh bắt hải sản trên biển, mà còn tạo sự đoàn kết

gắn bó trong cộng đồng dân cư.

Ông Võ Văn Bé, Phó Trƣởng ban Miếu Bà - Dinh Ông xã Hòn Tre - Kiên

Hải cho biết: "Lễ hội Dinh Ông Nam Hải Đại Tƣớng Quân (tức tục thờ Cá Ông) là

nhằm để tôn vinh Ông, là Ông độ cho tất cả ngƣời dân làm ăn trên biển đƣợc mƣa

54

thuận gió hòa mùa màng đƣợc thắng lợi và đƣợc bội thu. Ông còn giúp nhân dân

đƣợc là khi sóng to gió lớn, Ông độ cho tất cả thuyền bè đƣợc bình yên trở về đất

liền. Cứ tới ngày Lễ hội thì ngƣời dân ở trên đảo Hòn Tre - Kiên Hải tổ chức lễ cúng

Dinh Ông để cho tất cả bà con xa gần, trong và ngoài đảo đến để tôn vinh Ông, tƣởng

nhớ Ông ngày Ông lụy tại đảo Hòn Tre này…".

Lễ hội Cầu Ngƣ ở Kiên Hải không chỉ là nơi con ngƣời vùng này gửi gắm

niềm tin mà còn thể hiện khát vọng đoàn kết, gắn bó trong cộng đồng của các tầng

lớp nhân dân. Mọi ngƣời không phân biệt giới tính, tuổi tác, nghề nghiệp, ai cũng có

quyền xin cá Ông che chở, phù hộ cho cuộc sống của mình, của cộng đồng, thôn

xóm mình. Họ có niềm tin vào sự linh thiêng của cá Ông và chính niềm tin đó là

điểm chung để mọi ngƣời gắn bó, đoàn kết vƣợt qua những khó khăn, rủi ro, thử

thách để vƣơn lên xây dựng tƣơng lai tốt đẹp.

2.2.2. Giá trị giáo dục truyền thống

- Tín ngưỡng truyền thống góp phần nâng cao hiểu biết về cội nguồn và bản

sắc văn hóa dân tộc. Dù ở đâu, trong tín ngƣỡng truyền thống nào, những hoạt động

diễn ra đều nhằm ôn lại quá khứ một địa phƣơng, một cộng đồng dân cƣ. Những

hoạt động đó nhằm nhắc lại vai trò, công lao của thánh thần, của các bậc tiền nhân.

Đó là cội nguồn của tự nhiên, đất nƣớc, xóm làng và cội nguồn của cả hệ thống tôn

giáo, tín ngƣỡng truyền thống. Hoạt động tín ngƣỡng truyền thống là hoạt động văn

hóa mang tính tƣởng niệm hƣớng về sự kiện và nhân vật lịch sử đƣợc dân chúng địa

phƣơng thờ cúng. Nó trở thành nền tảng cơ sở để giáo dục quần chúng nhân dân,

nhắc nhở các thế hệ con cháu ôn lại truyền thống của cha ông, nhớ ơn các bậc tiền

nhân có công với nƣớc, với địa phƣơng. Các lễ thức, nghi thức, trò diễn, huyền tích

về thần thánh... đều thể hiện đạo lý "uống nước nhớ nguồn" trong hằng số tâm thức

Việt Nam. Những tín ngƣỡng truyền thống với nhiều nội dung và hình thức khác

nhau nhƣng đều bày tỏ thái độ trân trọng quá khứ, tôn vinh tiền nhân, những ngƣời

có công với nƣớc. Đây là động thái hƣớng về truyền thống của thế hệ đƣơng thời.

- Lễ hội là hình thức sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng truyền thống của cộng

đồng cư dân, lễ hội không chỉ là tấm gương phản chiếu nền văn hóa dân tộc mà còn

55

là môi trường bảo tồn, làm giàu và phát huy nền văn hóa dân tộc ấy. Ngoài giá trị

tâm linh, cố kết cộng đồng thì giáo dục đạo đức truyền thống cũng là một giá trị tốt

đẹp của lễ hội Cầu Ngƣ.

Dân tộc ta vốn có đạo lý "uống nƣớc nhớ nguồn" răn dạy con ngƣời "ăn quả

nhớ ngƣời trồng cây", biết ơn những ngƣời đã tạo dựng nên những gì chúng ta có

đƣợc nhƣ ngày nay. Những gì chúng ta có đƣợc ngày nay không phải tự nhiên sẵn

có mà do ông cha ta đã mất bao nhiêu công sức và có cả xƣơng máu để xây dựng và

giữ gìn. Lễ hội là môi trƣờng rất tốt để giáo dục truyền thống quý báu của dân tộc

cho thế hệ sau.

Dinh, miễu thờ cá Ông ở Kiên Hải hay Đình thần Thờ Nguyễn Trung Trực

đƣợc xây dựng và phát triển gắn với công lao to lớn của vị anh hùng dân tộc

Nguyễn Trung Trực và công đức thờ cúng cá Ông - vị thần phù trợ cho cƣ dân ven

biển đƣợc mƣa thuận gió hòa, mùa màng tốt tƣơi, vị thần bảo hộ cho cuộc sống hàng

ngày của cƣ dân huyện Kiên Hải nói riêng và tỉnh Kiên Giang nói chung. Bên cạnh đó,

miếu còn thờ các vị tiền hiền, hậu hiền, những ngƣời có công trong khai hoang lập ấp,

những vị anh hùng nghĩa sỹ đã hy sinh bảo vệ quê hƣơng đất nƣớc. Do đó, lễ hội

Nghinh Ông và việc thực hành các tín ngƣỡng truyền thống khác đƣợc tổ chức không

chỉ tƣởng nhớ, tạ ơn công đức của cá Ông mà còn tƣởng nhớ công ơn của những anh

hùng có công với dân, với nƣớc nhƣ thờ các anh hùng liệt sĩ.

- Lễ hội Cầu Ngư một mặt thỏa mãn nhu cầu tâm linh, cố kết cộng đồng, vui

chơi, giải trí của người dân, mặt khác qua các hoạt động đó thể hiện truyền thống

uống nước nhớ nguồn của nhân dân ta được bảo lưu trong các hoạt động của lễ hội

mà ở đây là các nghi thức cúng tế và các hình thức diễn xướng diễn ra trong lễ hội

Nghinh Ông. Chính lễ hội đã tuyên truyền, giáo dục truyền thống uống nƣớc nhớ

nguồn, nhớ về cội nguồn dân tộc, khắc ghi công ơn của những vị thần linh, tiền

nhân đã có công tạo dựng nên cuộc sống ngày hôm nay. Quan sát lễ hội, chúng tôi

thấy không chỉ ngƣời lớn tuổi mà còn có một bộ phận không nhỏ lớp trẻ cũng náo

nức tham gia, không chỉ đến thắp nhang cầu nguyện, vui chơi mà còn góp một phần

công sức của mình phục vụ từ dọn dẹp cảnh quan, giữ trật tự, phục vụ tiếp đãi quan

56

khách. Bản thân bộ phận lớp trẻ này đã đƣợc giáo dục, truyền dạy về sự che chở

linh thiêng của cá Ông từ ông bà, cha mẹ nên trong thâm tâm các em cũng tin tƣởng

vào sự linh ứng của Ông. Không thể phủ nhận một điều là ngày nay cùng với sự

phát triển tiến bộ của xã hội, thế hệ trẻ đƣợc tiếp xúc với thành tựu khoa học kỹ

thuật, đã đƣợc học hành tới nơi tới chốn, trình độ học vấn càng đƣợc nâng cao

nhƣng bộ phận lớp trẻ ở Kiên Hải vẫn tham gia lễ hội với thái độ kính cẩn, trang

nghiêm, với sự thành tâm chứ không có một sự đùa giỡn hay thái độ bất tin, bất

kính nào với cá Ông. Từ niềm kính cẩn đó, hình thành thái độ trật tự, lịch sự trong

ứng xử, giao tiếp và không có bất cứ một hành động thái độ nào quậy phá, gây rối

vì sợ gặp phải sự quở phạt của cá Ông.

Khi trao đổi với các bạn thanh thiếu niên trên xã đảo Lại Sơn, huyện đảo

Kiên Hải, các em hƣớng dẫn khách đến viếng Dinh cá Ông rất nhiệt tình và cẩn

thận, một nhóm các em là đoàn viên thanh niên trong xã, năm nào các em cũng đi lễ

hội Nghinh Ông và tham gia đón tiếp du khách đến tham dự lễ hội. Dù các em chỉ

biết đến cá Ông nhƣ linh vật rất linh thiêng. Các em đến trƣớc tiên là thắp nhang

cầu nguyện cúng bái cá Ông, sau đó là xem các trò diễn, tham dự lễ hội. Và dù là

thế hệ trẻ tiếp xúc với tục thờ truyền thống nhƣng các em vẫn rất hào hứng với các

hoạt động diễn ra tại lễ hội.

Nhƣ vậy, chức năng giáo dục, trao truyền văn hóa là một chức năng không thể

thiếu trong bất cứ một tục thờ nào và tục thờ cá Ông cũng không ngoại lệ. Tục thờ cá

Ông với những nghi lễ đƣợc lƣu giữ qua bao thế hệ, đƣợc thực hiện một cách bài bản,

nghiêm túc, minh chứng cho sự kính cẩn biết ơn đối với công lao, ơn đức của cá Ông,

vị thần bảo bọc, xây dựng và bảo vệ cuộc sống của mình. Chúng ta cần lƣu giữ, bảo

vệ và phát triển giá trị truyền thống tốt đẹp này để tiếp tục giáo dục cho thế hệ trẻ

hôm nay tôn trọng và gìn giữ tài sản tinh thần vô giá mà ông cha ta để lại. Chính

những giá trị đó điều chỉnh hành vi, răn dạy con ngƣời sống tốt hơn, cùng nhau xây

dựng một cuộc sống trong mối quan hệ gắn kết vƣơn tới giá trị tốt đẹp - giá trị chân

thiện mỹ trong cuộc sống.

2.2.3. Giá trị cố kết cộng đồng

- Tín ngưỡng truyền thống tồn tại, phát triển trở thành nhu cầu tự nguyện

57

của cộng đồng, việc thực hiện các nghi lễ cúng tế tạ ơn các vị thần phù hộ cho họ

có cuộc sống bình yên, mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt tạo nên sự tương tác

giữa các cộng đồng. Chính sự cố kết cộng đồng giúp cho con ngƣời có tinh thần

đoàn kết, tƣơng thân tƣơng ái, giúp nhau vƣợt qua khó khăn, thử thách của cuộc

sống.

Lễ hội Cầu Ngƣ tồn tại, phát triển trở thành nhu cầu tự nguyện của cộng

đồng, việc thực hiện các nghi lễ cúng tế tạ ơn các vị thần phù hộ cho họ có cuộc

sống bình yên, mƣa thuận gió hòa, mùa màng tƣơi tốt tạo nên sự tƣơng tác giữa các

cộng đồng. Chính sự cố kết cộng đồng giúp cho con ngƣời có tinh thần đoàn kết,

tƣơng thân tƣơng ái, giúp nhau vƣợt qua khó khăn, thử thách của cuộc sống.

Ngƣời dân Kiên Giang nói chung và Kiên Hải nói riêng vốn có truyền thống

đoàn kết tốt đẹp. Tinh thần đoàn kết đó xuất phát từ nét văn hóa của ngƣời dân ven

biển, lại chịu ảnh hƣởng của thời tiết, chỉ mong mƣa thuận gió hòa, sóng yên biển

lặng để thuận lợi đánh bắt cá.

- Điểm thờ cá Ông là nơi sinh hoạt tín ngưỡng, là nơi thờ tự những vị thần

bảo hộ cho cuộc sống hàng ngày của người dân không chỉ riêng người dân địa

phương mà còn cho cả người dân trong vùng. Vào ngày cúng Ông, tất cả mọi ngƣời

đều tham gia một cách nhiệt tình và trên tinh thần tự nguyện. Dù lễ hội đƣợc tổ

chức lớn hay nhỏ, vẫn là sinh hoạt văn hóa tập thể, là công việc của cả cộng đồng,

nên để tổ chức lễ hội thành công không thể thiếu sự tham gia của cộng đồng từ việc

chuẩn bị tài chính, nhân lực đến việc thực hiện các nghi thức cúng tế, các hình thức

vui chơi giải trí. Cũng nhƣ những lễ hội truyền thống khác, lễ hội Nghinh Ông nói

riêng và tục thờ cá Ông nói chung đã tạo nên sự cố kết cộng đồng, đoàn kết dân cƣ

nơi đây.

Qua hoạt động sinh hoạt văn hóa tâm linh chung, ngƣời dân cảm thấy thân ái

nhau hơn. Giá trị cố kết cộng đồng trong tục thờ cá Ông thể hiện qua việc những

ngƣời tổ chức lễ hội cùng ngồi lại với nhau, cùng bàn bạc xây dựng kế hoạch tổ

chức nhƣ thế nào để vừa lƣu giữ nét truyền thống, đảm bảo tính trang nghiêm vừa

đáp ứng nhu cầu tín ngƣỡng, giải trí của ngƣời dân. Cụ thể, hàng năm trƣớc khi lễ

hội diễn ra, Ban Tổ chức lễ hội và Ban Quản lý di tích cá Ông đều có cuộc họp để

58

bàn về cách thức tổ chức lễ hội, thành lập và phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng

ban phục vụ lễ. Trƣớc ngày diễn ra lễ hội Nghinh Ông, mọi ngƣời tập trung lại dinh

rất đông, mỗi ngƣời đều cố gắng sắp xếp cho lễ hội một cách chu đáo nhất. Tinh

thần đoàn kết cùng nhau chia sẻ, gánh vác công việc phục vụ lễ hội của ngƣời. Tinh

thần ấy còn đƣợc thể hiện rất rõ trong suốt quá trình chuẩn bị và tổ chức lễ hội.

Nhƣ đã trình bày ở phần trƣớc, để phục vụ lễ hội thì Ban Tổ chức đã họp và

phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng ban, ban tiếp tân, ban quý tế, ban hậu cần,

phân công ngƣời giữ an ninh trật tự cho lễ hội. Sau khi họp phân công nhiệm vụ cụ

thể, mỗi ngƣời tùy theo chức trách, công việc đƣợc phân công, tự giác bắt tay vào

thực hiện nhiệm vụ của mình giúp Ban Tổ chức và chính quyền địa phƣơng chuẩn

bị tổ chức lễ hội thật chu đáo từ công tác dọn dẹp đến công tác phục vụ trong suốt

thời gian diễn ra lễ hội. Thực tế cho thấy, dù tham gia lễ hội với vai trò tổ chức hay

khách hành hƣơng thì mỗi ngƣời đều ý thức đƣợc vị trí của mình trong tổ chức,

trong cộng đồng, từ đó luôn nêu cao tinh thần tự giác, góp phần điều chỉnh hành vi

của cá nhân sao cho phù hợp với hoàn cảnh.

- Tính cố kết cộng đồng ở lễ hội Nghinh Ông còn được thể hiện qua việc các

thành viên trong cộng đồng đều dựa trên quan hệ bình đẳng, tự nguyện, không

tranh giành chức tước cũng như quyền lợi. Các chức Chánh Bái, Bồi bái, Đông

hiến, Tây hiến đều đƣợc lựa chọn trên cơ sở bình đẳng, dân chủ và theo những tiêu

chuẩn quy định. Mọi ngƣời dân khi tham dự lễ hội Nghinh Ông đều có chung một

lòng hƣớng thiện, cầu mong mƣa thuận gió hòa, nhà nhà no ấm, hòa thuận và vì nhu

cầu vui chơi giải trí. Vì thế mà khi đứng trƣớc Ông Nam Hải, mọi ngƣời đều mong

cho cuộc sống bình an, mạnh khỏe, gia đình gặp nhiều may mắn, xóm làng bình

yên. Sau cúng tế cá Ông, ai cũng vui vẻ ngồi vào mâm cơm tại Dinh Ông hoặc uống

cốc nƣớc và trò chuyện rôm rả. Đó là những vật phẩm mà khách hành hƣơng dâng

cúng, họ cùng ngồi ăn uống cộng cảm do miếu thiết đãi từ đó tạo thêm sự cố kết

cộng đồng không chỉ ngƣời dân trong vùng mà cố kết cả khách hành hƣơng ở nơi

khác về dự lễ.

Nhƣ vậy, tính cộng đồng và cố kết cộng đồng là một nét giá trị tiêu biểu

59

trong lễ hội Nghinh Ông. Tất cả mọi ngƣời ai cũng đảm nhận công việc khác nhau

nhƣng đều có chung tình cảm, mục đích là cầu mong cho mƣa thuận gió hòa, quốc

thái dân an, nhà nhà đều ấm no hạnh phúc, họ xem đó cũng là công việc của gia

đình. Vì vậy, có những ngƣời dù không trực tiếp tham gia phục vụ lễ hội, họ đóng

góp bằng vật chất với hình thức cúng vƣờn bằng tiền hay cúng gạo và những vật

phẩm khác phục vụ cho công tác nấu ăn thiết đãi khách hành hƣơng về dự lễ. Chính

điều này càng thắt chặt thêm mối quan hệ giữa các thành viên trong cộng đồng, sự

liên kết, dân chủ, bình đẳng và sức mạnh cố kết cộng đồng có ý nghĩa quan trọng

trong lễ hội Nghinh Ông nói riêng và lễ hội truyền thống của dân tộc nói chung. Ở

lễ hội, cá nhân dƣờng nhƣ bị xóa nhòa giữa cộng đồng mà thay vào đó là tinh thần

hòa nhập, hành động vì cộng đồng.

2.2.4. Giá trị nguồn lực văn hóa trong phát triển kinh tế - xã hội

- Tín ngưỡng truyền thống là hoạt động văn hóa tinh thần của nhân dân, giá

trị to lớn của tín ngưỡng truyền thống không chỉ ở phương diện văn hóa mà còn có

giá trị kinh tế, góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội của huyện đảo Kiên Hải phát

triển, đặc biệt là giáo dục ý thức bảo vệ môi trường qua các hoạt động văn hóa, tín

ngưỡng truyền thống.

Kiên Hải là một trong hai huyện đảo của tỉnh Kiên Giang, với nhiều hòn đảo

lớn nhỏ đầy vẻ hoang sơ và mang nét đẹp thiên nhiên đầy quyến rũ. Đảng bộ huyện

Kiên Hải đã xác định sau đánh bắt, nuôi trồng hải sản thì nền kinh tế mũi nhọn là

phát triển du lịch và lễ hội Cầu Ngƣ với tƣ cách là một nguồn tài nguyên du lịch

nhân văn, một sản phẩm du lịch văn hóa đặc biệt mang lại nguồn thu lớn cho ngành

kinh tế của huyện. Bản chất của du lịch là khám phá, tìm hiểu văn hóa, nhu cầu du

lịch là do nhu cầu văn hóa quyết định, trong đó sự mong muốn hiểu biết văn hóa,

giao lƣu, tìm hiểu phong tục tập quán, các giá trị văn hóa lại chứa đựng chủ yếu

trong lễ hội, vì thế lễ hội là động lực thúc đẩy hoạt động du lịch.

Ngày nay, một số hình thái tín ngƣỡng tôn giáo, ngoài giá trị về văn hóa

nghệ thuật, còn có giá trị về văn hóa du lịch, cũng là một dạng hoạt động văn hóa

của con ngƣời, mà thông qua đó, các giá trị văn hóa nghệ thuật truyền thống cộng

60

đồng đƣợc khởi nguồn và phát triển, sống động trong cuộc sống thời hiện đại. Dạng

hoạt động văn hóa này, một mặt, cũng nhằm thực hiện chức năng cao cả của văn

hóa là chức năng giáo dục, chức năng thẩm mỹ góp phần hoàn thiện con ngƣời, mặt

khác cũng là một cách thức giữ gìn các giá trị, di sản văn hóa. Điều này có nghĩa tín

ngƣỡng, tôn giáo còn mang trong mình một giá trị văn hóa đặc biệt - giá trị kinh tế,

tham gia vào sự phát triển xã hội.

- Trong các dạng của tài nguyên nhân văn, lễ hội truyền thống là tài nguyên

có giá trị phục vụ du lịch rất lớn, có tính hấp dẫn cao đối với du khách… Kinh

nghiệm cho thấy nơi nào bảo tồn và phát triển đƣợc những nét truyền thống trong

phần hội với những trò chơi mang tính dân gian thì lễ hội nơi đó có giá trị hơn, có

sức hấp dẫn hơn.

Theo đó, các lễ hội của cƣ dân biển Kiên Hải, với phần lễ hội đậm tính cổ

truyền rất có giá trị trong việc tạo sức hấp dẫn đối với du khách trong và ngoài

nƣớc. Phần lớn các lễ hội lại diễn ra tập trung trong thời gian mùa xuân, mùa của

hội hè. Bởi vậy, khi du khách đến với các bãi biển để hƣởng thụ môi trƣờng khí hậu

trong lành và cảm nhận vẻ đẹp của tự nhiên, thì đồng thời cũng cảm nhận đƣợc nét

đẹp của văn hóa biển truyền thống, thông qua việc tận mắt chứng kiến các lễ hội

ven biển. Với các du khách nƣớc ngoài, đây là một dịp giới thiệu, quảng bá văn hóa

dân tộc "trong lòng bè bạn", tạo điều kiện để họ hiểu về văn hóa Việt Nam và con

ngƣời Việt Nam; với du khách trong nƣớc thì sẽ thêm mến yêu những tài sản văn

hóa vật chất và tinh thần của cha ông gây dựng từ bao đời, mà con cháu ngày nay

đang tiếp nối và phát triển. Riêng phần nghi lễ với thuộc tính cơ bản là thiêng hàm

chứa những giá trị văn hóa truyền thống, giá trị thẩm mỹ và triết lý sâu sắc của cộng

đồng, sẽ có tác dụng truyền đạt nhận thức về văn hóa biển cho chính chủ nhân làm

ra nó.

- Lễ hội Cầu Ngư, ngoài việc đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng của nhân dân, là

dịp để bà con nhân dân trong và ngoài huyện tham gia các hoạt động giao lưu văn

hóa, tăng cường tình đoàn kết gắn bó của các dân tộc sinh sống trong cộng đồng,

còn là cơ hội quảng bá tiềm năng, thế mạnh về văn hóa - kinh tế của huyện Kiên

61

Hải, kết nối các tour du lịch.

Lễ hội Cầu Ngƣ ở Kiên Hải là một "bảo tàng sống" về văn hóa, là nơi sản

sinh, nuôi dƣỡng, bảo tồn, phát huy nền văn hóa dân tộc, là nơi sáng tạo lƣu giữ

những hình thức sinh hoạt văn hóa nghệ thuật đặc sắc và độc đáo, tạo nên những nét

văn hóa riêng của cƣ dân vùng Kiên Hải với những nội dung phong phú, bản sắc

riêng của vùng đất, tạo nên tính hấp dẫn, thu hút du khách ở nơi khác muốn đến

thƣởng thức, tìm hiểu, là tiềm năng của dịch vụ du lịch văn hóa.

Không giống với những lễ hội khác, phần hội trong lễ hội Nghinh Ông

thƣờng tổ chức các trò chơi dân gian miền biển, gắn với đời sống của ngƣ dân. Các

trò chơi mang tính chất vui chơi giải trí lành mạnh mang lại niềm vui cho ngƣời

chơi và cả ngƣời đến xem.

Vui chơi giải trí sau những ngày làm việc vất vả là nhu cầu tất yếu của con

ngƣời. Thực tế có rất nhiều hình thức vui chơi giải trí nhƣng chỉ có trong lễ hội thì

hoạt động đó mới thật sự có nhiều ý nghĩa. Đến với lễ hội Nghinh Ông, mọi ngƣời

đƣợc trở về với cội nguồn của dân tộc, vừa đƣợc đắm mình trong truyền thống đạo

lý uống nƣớc nhớ nguồn qua các nghi lễ vừa đƣợc vui chơi giải trí qua các hình

thức diễn xƣớng diễn ra trong lễ hội. Các hình thức diễn xƣớng này không chỉ đơn

thuần đáp ứng nhu cầu giải trí của ngƣời dân mà thông qua đó giáo dục nhân cách

sống cho con ngƣời.

2.2.5. Giá trị đáp ứng nhu cầu sinh hoạt văn hóa tinh thần của nhân dân

Tín ngƣỡng truyền thống một nhu cầu không thể thiếu đƣợc trong đời sống

tinh thần của nhân dân, đến với tín ngƣỡng truyền thống chúng ta hình nhƣ đƣợc

tắm mình trong dòng nƣớc mát đầu nguồn, tận hƣởng những giây phút thiêng liêng,

đƣợc sống trong những giờ phút giao cảm hồ hởi đầy tinh thần cộng đồng, con

ngƣời có thể phô bày những gì tinh túy, đẹp đẽ nhất của bản thân qua các cuộc thi

tài, qua các hình thức trình diễn nghệ thuật, cách thức ăn mặc lộng lẫy, đẹp đẽ khác

hẳn ngày thƣờng. Chính vì lẽ đó, tín ngƣỡng truyền thống đã đáp ứng cơ bản nhu

cầu của đời sống văn hóa tinh thần của con ngƣời. Ngƣời dân sau một thời gian lao

động sản xuất vất vả và muốn nghỉ ngơi, vui chơi, bù đắp thiếu hụt đều có nhu cầu

62

bổ sung nguồn năng lƣợng tiêu hao thông qua việc tham gia các tín ngƣỡng truyền

thống, ở đây họ đƣợc bù đắp, khám phá những điều mới mẻ, hấp dẫn của đời sống

văn hóa.

2.3. Những khó khăn, hạn chế trong thực hành tín ngƣỡng truyền thống

tiêu biểu của ngƣời dân huyện đảo Kiên Hải, tỉnh Kiên Giang

2.3.1. Cơ sở vật chất chưa đáp ứng yêu cầu phục vụ lễ hội, cơ sở hạ tầng

kỹ thuật chưa đáp ứng quy mô của lễ hội tín ngưỡng phục vụ nhu cầu tâm linh

Đình thần là nơi dựng di cốt Thần Nam Hải đƣợc xem là tài sản thiêng liêng

nhất của ngƣ dân. Đình thờ Nam Hải Đại Tƣớng Quân đƣợc lập đầu tiên vào năm

1900 tại Khóe Ông Xây, ấp Bãi Giếng, ban đầu chỉ là một ngôi đình nhỏ đƣợc dựng

bằng cây lá, sau đó đƣợc dời lên mũi Hà Bá thuộc ấp Bãi Giếng, xã Lại Sơn. Lần

thứ ba năm 1940 đƣợc dựng lại và gọi là Dinh Ông Nam Hải ở gần vị trí thờ hiện

nay. Năm 2003 Dinh Ông đƣợc trùng tu, tôn tạo lại khang trang, tôn nghiêm để

phục vụ cho việc thờ tự và đƣợc gọi là Lăng Ông Nam Hải.

Đình thần Nam Hải là một di tích lịch sử văn hóa đã đƣợc Nhà nƣớc xếp hạng tọa lạc trên khuôn viên rộng 4.510 m2 trên một ghềnh đá cao sát bãi Thiên Tuế

ngày đêm sóng vỗ rì rào. Đó là một vị trí cao ráo cặp sát biển, lƣng tựa vào vách

núi. Mỗi ban mai, vầng dƣơng từ biển nhô lên phủ cho cảnh vật một vầng hào

quang rực rỡ. Khung cảnh Đình Thần hài hòa giữa núi non, trời, biển... Chính cái

địa thế ấy đã khiến tâm hồn con ngƣời thanh thoát. Mặt chính của đình quay về

hƣớng Tây Nam. Đây là hƣớng để Ông dù có chết vẫn đƣợc quay nhìn về phía lòng

biển khơi bao la, nhìn thấy những dân chài đi biển để phù hộ cứu giúp khi họ cần

đến. Khi chọn đất và hƣớng xây cất, ngƣ dân cũng đã xem ngày rất kỹ để đắp móng.

Cổng đình đƣợc đúc bằng 2 trụ bê tông cấu trúc đơn giản, từ cổng đi vào khoảng

30m là đến những bậc tam cấp, đi hết những bậc tam cấp là lên đến đình. Kiến trúc

đình đơn giản, tƣờng xây gạch, mái lợp típ lô xi măng, nền lót gạch men có diện

tích 40m². Cách bài trí thờ bên trong đình: ở giữa thờ Nam Hải Đại tƣớng quân,

giữa bệ thờ xƣơng cốt cá Ông, bệ thờ đƣợc xây bằng gạch dán gạch men, phía bên

phải là bệ thờ Hữu ban, phía bên trái là bệ thờ Tả ban. Hai bệ thờ này cũng đƣợc

63

xây bằng gạch, bên ngoài dán gạch men, phía bên phải trên tƣờng là bảng công đức

ghi tên những ngƣời có công đóng góp xây dựng đình. Phía trƣớc đình đang xây

dựng ngôi nhà tiếp khách để sử dụng trong những ngày lễ hội, tiếp đến là bàn thờ

Ông Thiên, bàn thờ đƣợc xây dựng bằng gạch, phía bên dƣới có đặt một đỉnh cắm

nhang lớn, phía dƣới cũng cặp sát mé biển là miếu Thủy Long Công Chúa. Hiện vật

trong di tích gồm có một bộ lƣ, một cặp chân đèn, một chiếc trống gỗ.

Hiện trạng khu vực sân di tích chỉ rộng khoảng 50m² không đủ đáp ứng sức

chứa khi hành lễ. Phía trƣớc di tích có một khu đất trống có diện tích 1.118 m² của

một hộ dân (ông Ba Xây) chƣa đƣợc bồi hoàn giải phóng mặt bằng. Vào mỗi dịp lễ

hội diễn ra, chính quyền xã Lại Sơn phải thƣơng lƣợng với chủ đất nói trên để bố trí

lễ đài. Nếu đƣợc thu hồi khu đất nói trên có thể trồng cây xanh, làm sân lễ. Chủ đất

đã đồng ý mức giá bồi hoàn bằng giá trị khi mua là 5 cây vàng. Hiện tại khu đất tƣ

nhân này đã đƣợc đƣa vào diện tích khoanh vùng bảo vệ di tích, cấm xây dựng.

Ngoài ra kế bên lối đi vào di tích phía mép biển thuộc khu vực bãi Thiên Tuế có 13

hộ dân đang lấn chiếm làm nhà ở, cũng nằm trên diện tích đất quy hoạch bảo vệ di

tích. Nhƣ vậy tổng diện tích khoanh vùng bảo vệ di tích lăng Ông Nam Hải là: là 4.510 m2 (bao gồm mặt bằng di tích hiện tại + lô đất của ông Ba Xây + đất 13 hộ lấn chiếm + 1600 m2 là mặt biển quanh di tích).

Ngoài ra tại khu vực di tích hiện nay không có hàng rào bảo vệ. Nơi tiếp giáp

giữa di tích và biển là những khối đá tảng lớn, chông chênh, ngày đêm sóng xô

nhƣng chƣa có hệ thống đê kè bảo vệ. Di tích chƣa có cổng chính. Chƣa có một cầu

cảng. Vì vậy mỗi dịp lễ hội diễn ra, ngƣ dân tổ chức đoàn rƣớc cá Ông phải đi vòng

xuống bãi Thiên Tuế, xắn cao quần có khi ƣớt cả quần áo du khách làm giảm mỹ

quan và tính thiêng liêng cho nghi lễ. Di tích không có khu vực nhà bếp, nhà vệ

sinh, vào mỗi dịp lễ hội việc cấp nƣớc sinh hoạt vô cùng khó khăn, đoàn thanh niên

phải bố trí ngƣời canh trực đƣờng ống dẫn nhỏ từ các hộ dân ra khu vực di tích. Các

hộ dân lấn chiếm khu vực bảo vệ di tích sinh hoạt trong điều kiện nhà cửa tạm bợ,

phơi phóng bừa bãi, xả nƣớc thải và rác sinh hoạt trực tiếp ra bãi biển gây ô nhiễm.

Điều kiện vệ sinh môi trƣờng chƣa đảm bảo yêu cầu cho một lễ hội quy mô khoảng

64

3.000 ngƣời trở lên.

Thực tế mấy năm qua, nguồn thu tại di tích chƣa đảm bảo cho hoạt động lễ

hội và tích luỹ cho tu bổ di tích. Trong khi đó diện tích mặt bằng của khu di tích quá

hẹp. Nếu di tích đƣợc tu bổ khang trang hơn nữa, có những cơ sở vật chất, tiện nghi

phục vụ tốt hơn thì sẽ thu hút ngày càng nhiều du khách tới dự hội.

2.3.2. Nội dung phần lễ còn mang tính đơn sơ, chưa phong phú, đầy đủ

các nghi thức truyền thống

Lễ có vai trò là hạt nhân tạo ra hội, là biểu hiện tâm tƣởng trong lễ hội.

Dù muốn dù không khi khôi phục những lễ hội truyền thống đều phải duy trì tế lễ.

Tuy nhiên cần phải bảo đảm nghiêm trang và đủ lệ bộ, nghi thức. Xác định những

yếu tố cần kế thừa, loại bỏ, đồng thời cần văn bản hóa hình thức nghi lễ.

Qua khảo sát thực tế thấy rằng, nếu so với các tỉnh duyên hải miền Trung thì

các quy ƣớc liên quan đến lễ Nghinh Ông ở Lại Sơn không nghiêm ngặt bằng. Cụ

thể, những ngƣời tham gia vào việc hành lễ không bị ràng buộc phải kiêng kỵ về

giới tính, Chánh tế không cần phải ăn chay trong 07 ngày và ngủ tại lăng Ông nhƣ

những nơi khác. Hay “trƣớc khi vào hội 01 ngày phải cúng đảo ở bãi biển, trƣớc 03

ngày lập hƣơng án và bàn thờ”. Lễ nghinh Ông ở đây cũng đơn giản hơn nhiều nơi

khác. Về thành phần dự lễ nghinh Ông không có sự tham gia của các nhà sƣ. Ghe

thuyền không buộc sợi dây thả theo dòng nƣớc, cuối sợi dây có một mảnh giẻ tƣợng

trƣng chiếc áo Phật xé làm trăm mảnh nhƣ lễ nghinh Ông của ngƣ dân Bến Tre,

cũng không thấy các nhà sƣ tham gia lễ nghinh Ông nhƣ tại Vàm Láng (Tiền

Giang). Trong lễ nghinh Ông ở Lại Sơn không có tục “một thân hào cầm một con

gà mái sống ở trong tay và quay mặt vào bàn thờ khấn thần biển” và khi thấy một

cột nƣớc phun lên (cá ông xuất hiện hay Ông “lên vọi”) thì giết gà vịt, lợn sữa để

cúng thần vv… nhƣ ở vùng miền Trung.

Lễ hội Nghinh Ông nhìn chung đã phần nào đáp ứng đƣợc nhu cầu tín

ngƣỡng của ngƣ dân địa phƣơng. Song phần lễ chƣa hoàn chỉnh, còn thiếu các bài

văn tế nhƣ trong lễ Nghinh thần, Chánh tế với BÀI VĂN TẾ NAM HẢI ĐẠI

TƢỚNG QUÂN, văn tế trong lễ cầu siêu. Chúng cần phải đƣợc soạn có cảm xúc và

65

nhấn mạnh tính oai hùng. Nhìn chung lễ hội những năm qua vẫn chƣa có những

hình thức nghệ thuật hấp dẫn nhƣ sân khấu hóa các trò diễn gắn liền với nghề đánh

bắt và chế biến hải sản bằng các chƣơng trình ca múa, cải lƣơng, hoạt cảnh… để

nâng cao hiệu quả giáo dục truyền thống.

Về điểm này, trong kịch bản lễ hội chƣa đƣợc cho hoàn thiện, kể cả sắp xếp

lại trình tự các nghi thức đúng bài bản trên cơ sở tham khảo các lễ hội Nghinh Ông

ở tỉnh bạn và nghiên cứu các thƣ tịch cổ để đảm bảo tính thiêng liêng, đúng truyền

thống lễ hội. Các nghi thức còn quá giản lƣợc, có thể bổ sung thêm một số nghi

thức trong buổi chánh tế nhƣ cử Quốc thiều, thả chim câu (hoặc bóng bay) cầu

nguyện hòa bình, thả đèn hoa đăng, để ngƣ dân hóa trang thành các binh tôm tƣớng

cá, diễn các tích trò Cá Ông phù trợ cho bà con ngƣ phủ vv… Thực hiện nghi thức

dân hƣơng của các cấp lãnh đạo, khách mời, các đoàn thể để tỏ rõ sự quan tâm và

tôn trọng của chính quyền đối với đời sống văn hóa và phong tục của nhân dân. Để

bổ khuyết cho những phần này cần phải có lễ hội kịch bản hoàn chỉnh.

Những ngƣời đƣợc chọn vào đội tế phải là ngƣời có học thức, có đạo đức và

văn hóa đồng thời phải nắm đƣợc phong tục và thạo việc.

2.3.3. Nội dung phần hội còn đơn giản, thiếu hấp dẫn

Đã tổ chức đƣợc các trò chơi dân gian, tạo đƣợc không khí vui tƣơi cho lễ

hội. song nhìn chung các hoạt động trong phần hội còn đơn giản, chƣa thực sự hấp

dẫn. Cần khai thác và giữ gìn tính độc đáo của địa phƣơng các tục lệ đẹp trong khi

tế lễ và trong hội. Có thể bổ sung các trò chơi hội thao dân gian gần gũi với các yếu

tố văn hóa miền biển. Vì ngoài mục đích vui chơi giải trí, các trò diễn, trò chơi, các

cuộc thi tài trong hội không những làm cho nội dung lễ hội thêm phong phú hấp

dẫn, gần gũi với sinh hoạt đời thƣờng mà còn có tác dụng rèn luyện, kích thích trí

tuệ, rèn luyện thẩm mỹ, kỹ năng lao động, tinh thần thƣợng võ tạo nên con ngƣời

hữu ích cho xã hội. Vì vậy cần phải kết hợp các trò chơi mang tính dân gian với

hiện đại.

- Về nghệ thuật biểu diễn sân khấu, chƣa xây dựng đƣợc một chƣơng trình

66

kịch bản Lễ hội Nghinh Ông Nam Hải kết hợp với cảnh sinh hoạt, đánh bắt truyền

thống của ngƣ phủ. Tái hiện dƣới hình thức nghệ thuật múa rối, ghi sang đĩa CD

phục vụ các mùa lễ hội và quảng bá, tuyên truyền.

- Yếu tố kinh tế, thƣơng mại, du lịch trong dịp lễ hội trong những năm qua

chƣa đƣợc khai thác đúng mức. Khi nâng cấp lễ hội có thể bổ sung nhiều hoạt động

khác nhƣ tổ chức các tour du lịch leo núi, lặn biển ngắm san hô, tham quan nhà

thùng nƣớc mắm và các nghề thủ công, tổ chức các giải xe đạp leo núi, bóng chuyền

bãi biển, tổ chức giải bóng đá, liên hoan đờn ca tài tử, chiếu phim vv…

Tiểu kết chƣơng 2

Các hình thức thực hành tín ngƣỡng truyền thống của ngƣời dân huyện đảo

Kiên Hải, tỉnh Kiên Giang rất phong phú, trong đó có các thực hành tín ngƣỡng

nhƣ thờ Anh hùng dân tộc (Nguyễn Trung Trực); thờ cúng tổ tiên; thờ Bà Chúa

Xứ, Bà Mã Châu; Bà Cố Chủ; Bà Thƣợng. Đặc biệt là thực hành tín ngƣỡng thờ

Cá Ông - Thờ Thành hoàng ngƣ nghiệp thể hiện bản sắc riêng của cƣ dân huyện

đảo Kiên Hải.

Thực hành tín ngƣỡng truyền thống của cƣ dân huyện đảo Kiên Hải đã góp

phần quan trọng vào các giá trị tín ngƣỡng tâm linh, giá trị giáo dục truyền thống,

giá trị cố kết cộng đồng, giá trị nguồn lực văn hóa trong phát triển kinh tế - xã hội

của ngƣời dân.

của địa phƣơng và tỉnh Kiên Giang; đáp ứng giá nhu cầu sinh hoạt văn hóa tinh thần

Bên cạnh đó, việc thực hành tín ngƣỡng truyền thống của nhân dân huyện

đảo Kiên Hải còn có những khó khăn, hạn chế về cơ sở vật chất chƣa đáp ứng yêu

cầu phục vụ lễ hội; cơ sở hạ tầng kỹ thuật chƣa đáp ứng quy mô của lễ hội tín

ngƣỡng phục vụ du lịch tâm linh; sự thiếu hụt những nội dung của phần lễ mà yêu

cầu của một lễ hội Nghinh Ông chung phải có, vẫn còn mang tính đơn sơ, chƣa

phong phú, đầy đủ các nghi thức truyền thống; nội dung phần hội còn đơn giản,

thiếu hấp dẫn, chƣa thể hiện sự gắn bó. Ý nghĩa phần lễ chƣa tiếp cận với nhu cầu

67

phát triển các hoạt động dân gian mang bản sắc của địa phƣơng...

Chƣơng 3:

MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA VÀ CÁC GIẢI PHÁP BẢO TỒN, PHÁT HUY

GIÁ TRỊ TÍN NGƢỠNG TRUYỀN THỐNG TIÊU BIỂU CỦA NGƢỜI DÂN

TẠI HUYỆN ĐẢO KIÊN HẢI, TỈNH KIÊN GIANG HIỆN NAY

3.1. Một số vấn đề đặt ra

3.1.1. Xu hướng biến đổi niềm tin và thực hành tín ngưỡng truyền thống

Sự thay đổi niềm tin tín ngƣỡng của cƣ dân Kiên Hải bắt nguồn từ một số

nguyên nhân nhƣ do tuổi tác, do gặp biến cố trong cuộc sống và thay đổi nghề

nghiệp, do ngƣời dân ý thức cần phải “nhập gia tùy tục”.

Thực hành tín ngƣỡng của cƣ dân miền biển trong quá trình đô thị hóa vẫn

duy trì về cơ bản, song không phải không có những biến đổi nhất định. Niềm tin

trong tín ngƣỡng truyền thống đã có sự suy giảm ở các làng đánh cá của địa

phƣơng. Và đây cũng là một trong những nguyên nhân khiến việc thực hành tín

ngƣỡng của cƣ dân Kiên Hải nhƣ cúng bái, tham dự lễ hội, lễ cúng truyền thống có

chiều hƣớng suy giảm theo, ngoài những lý do khác nhƣ công việc bận rộn, không

hứng thú... Mặt khác, thực hành tín ngƣỡng ở Kiên Hải hiện nay có sự khác biệt giữa

các xã. So với xã Lại Sơn nay đã chuyển thành khu vực kinh doanh dịch vụ, du lịch,

xã Hòn Tre - nơi vẫn còn số đông dân theo nghề biển, việc thực hành tín ngƣỡng

thƣờng xuyên hơn, đông đảo hơn.

Đối tƣợng thờ cúng trong các cơ sở thờ tự tín ngƣỡng của cộng đồng cƣ dân

biển Kiên Hải đã có sự thay đổi, dù không đáng kể. Một số vị thần không còn cơ sở

thờ tự nên không đƣợc thờ cúng và dần mờ nhạt trong tâm thức ngƣời dân biển.

Không gian tín ngƣỡng đã bị xáo động mạnh mẽ với một số biểu hiện cụ thể là: Sự

thu hẹp không gian cơ học; sự dịch chuyển không gian; một số không gian thiêng

biến mất. Sự thay đổi này xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau nhƣ do công

tác quy hoạch vùng dân cƣ của chính quyền địa phƣơng, do ngƣời dân lấn chiếm...

Về cơ bản, kiến trúc cũng nhƣ bố cục, bài trí trong các nơi thờ tự ở Kiên Hải

68

hiện nay vẫn giữ nguyên theo kiểu truyền thống. Tuy nhiên, một số cơ sở thờ tự tín

ngƣỡng đƣợc xây lại hoặc xây mới thì ít nhiều đã mang những nét kiến trúc khác

trƣớc.

Xu hƣớng chủ đạo hiện nay trong thực hiện các nghi lễ cúng tế là đơn giản

hóa, thể hiện sự thu hẹp về thời gian, duy trì hoặc thu nhỏ quy mô tổ chức, bỏ bớt

một số tiểu lễ, cũng nhƣ không cầu kỳ, câu nệ trong lễ vật dâng cúng và lựa chọn

ngƣời thực hành nghi lễ.

3.1.2. Tác động của cơ chế thị trường trong các hoạt động lễ, hội của tín ngưỡng

Trên thực tế, sự phát triển của kinh tế thị trƣờng, tác động của hiện đại hóa

nông thôn đã khiến đời sống xã hội ở huyện đảo Kiên Hải đang thay đổi theo hƣớng

ngày càng phát triển. Sự phát triển của đời sống hiện đại làm cho một số yếu tố của

văn hóa tín ngƣỡng truyền thống của cộng đồng có chiều hƣớng không còn thích

hợp nữa. Mặt khác, nhiều lễ nghi tín ngƣỡng của ngƣời dân trở thành sức nặng khi

đòi hỏi vật chất vƣợt quá sự cố gắng của họ... Lớp ngƣời xƣa đã từng tham gia tổ

chức các hoạt động tín ngƣỡng theo thời gian đã mất đi hoặc đều đã ở độ tuổi “xƣa

nay hiếm”. Vì thế, kho tàng về vốn sống, sự hiểu biết về nếp sống, phong tục tập

quán và đặc biệt là quy tắc xã hội - vốn văn hóa cổ truyền đặc sắc bị mai một. Cho

nên, phần lớn các hình thức tế lễ và hội đã bị biến dạng để thích nghi với điều kiện,

hoàn cảnh. Nhiều phong tục tốt đẹp đã bị lƣợc bỏ, nhiều nghi thức đã đƣợc đơn giản

hóa, thậm chí phần nghi thức rƣớc kiệu và lễ tế chỉ là sự mô phỏng để ngƣời đƣơng

thời mƣờng tƣợng lễ hội xƣa. Từ đó dẫn dến một số sinh hoạt tín ngƣỡng mang tín

chất đơn điệu, hình thức, không có lễ nghi tƣởng niệm tôn nghiêm để giáo dục ý

thức truyền thống cho mọi ngƣời, mà nhiều trò chơi mang tính chất “cờ bạc trá

hình” và sự hỗn loạn trong các dịch vụ ăn theo đã lấn át nét văn hóa truyền thống.

Việc tái tạo các hoạt động tín ngƣỡng truyền thống kéo theo sự tái tạo các di

tích lịch sử văn hóa nhƣ đình, chùa, miếu, đền, lễ hội tổ chức hàng năm... đƣợc diễn

ra trong bối cảnh nền kinh tế thị trƣờng hiện nay với nhiều mặt tiêu cực của nó đã

làm mất đi cái bản chất thực sự của các hoạt động tín ngƣỡng truyền thống. Có công

trình tín ngƣỡng ở Kiên Hải tu sửa theo lối chắp vá hoặc không đúng với kết cấu,

69

bài trí vốn có của nó theo kiểu kiến trúc dân gian ban đầu. Việc tái tạo các hoạt

động này chƣa có sự quan tâm, trách nhiệm, đúng mức của các cơ quan chức năng

để khắc phục những hạn chế, những phát sinh không đúng hƣớng trong quá trình tái

tạo nhƣ việc trùng tu di tích hay xây dựng các di tích cần sự hỗ trợ của các nhà

nghiêm cứu, các nhà khoa học, chuyên môn, không thể thay đổi.

3.1.3. Vấn đề nhận thức về trách nhiệm của hệ thống chính trị và nhân

dân đối với nhiệm vụ giữ gìn, phát huy các giá trị văn hóa, tín ngưỡng truyền

thống, lễ hội

Các cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị -

xã hội trên địa bàn huyện đã nhận thức đƣợc vai trò của tín ngƣỡng truyền thống, lễ

hội đối với sự phát triển của địa phƣơng. Tổ chức triển khai, quán triệt trong nội bộ

đảng và các tầng lớp nhân dân trên địa bàn huyện về các chủ trƣơng, quan điểm của

Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nƣớc về tín ngƣỡng, tôn giáo. Hỗ trợ xây dựng

tủ sách pháp luật cho các xã trong huyện; tổ chức Hội thi tìm hiểu kiến thức tôn

giáo và pháp luật về tín ngƣỡng, tôn giáo cho cán bộ, công chức trong huyện. Công

tác quản lý nhà nƣớc về tín ngƣỡng, tôn giáo đƣợc thực hiện theo quy định của pháp

luật. Thời gian qua, nhiều tín ngƣỡng, lễ hội, cơ sở tín ngƣỡng đã đƣợc khôi phục

hoạt động và có chiều hƣớng phát triển, đa dạng hóa các loại hình hoạt động. Nhìn

chung, các hoạt động tín ngƣỡng cơ bản tuân thủ pháp luật, góp phần nâng cao đời

sống tinh thần của một bộ phận nhân dân. Bên cạnh đó, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc,

các đoàn đoàn thể huyện, xã cũng thƣờng xuyên vận động đồng bào tín ngƣỡng, tôn

giáo tích cực thực hiện tốt chính sách, pháp luật về tín ngƣỡng, tôn giáo của Đảng

và Nhà nƣớc. Các cuộc vận động, phong trào thi đua yêu nƣớc, xã hội, từ thiện

đƣợc phát động rộng rãi, đƣợc ngƣời dân hƣởng ứng nhƣ: “Toàn dân đoàn kết xây

dựng đời sống văn hóa ở khu dân cƣ”, “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới,

đô thị văn minh”…

Tuy nhiên, công tác tuyên truyền, phổ biến chƣa đƣợc thƣờng xuyên, liên

tục; một số cán bộ, công chức chƣa hiểu hết đƣợc tinh thần của Luật Tín ngƣỡng,

tôn giáo; tổ chức bộ máy làm công tác quản lý nhà nƣớc về tín ngƣỡng, tôn giáo chƣa

70

đƣợc kiện toàn đồng bộ, số lƣợng và chất lƣợng chƣa thật sự đáp ứng yêu cầu; chƣa

có sự phối hợp chặt chẽ giữa các ngành, các cấp trong quản lý hoạt động tín ngƣỡng,

tôn giáo.

3.1.4. Vấn đề nâng tầm, mở rộng quy mô, phạm vi, chất lượng của tín

ngưỡng truyền thống, lễ hội để phục vụ phát triển du lịch, kinh tế, văn hóa, xã

hội của địa phương

Kiên Hải với điều kiện thiên nhiên ƣu đãi nên là huyện có nhiều lợi thế về

tiềm năng phát triển du lịch văn hóa, tâm linh, trong đó có lễ hội tín ngƣỡng truyền

thống cũng là một lợi thế lớn trên lĩnh vực đó. Tuy nhiên, những năm gần đây việc

tận dụng lễ hội này để quảng bá và phát triển du lịch chƣa đƣợc địa phƣơng quan

tâm đúng mức, nếu làm tốt vấn đề này chắc chắn sẽ thu hút lƣợng khách du lịch

ngày càng đông đảo hơn nữa trong những ngày lễ hội.

Hiện nay nhu cầu du lịch kết hợp tham quan đình, chùa, lăng, miếu... của

ngƣời dân ngày càng phát triển. Đặc biệt là ngƣời ta đến với tín ngƣỡng, lễ hội

nhằm để thỏa mãn nhu cầu chiêm bái, cúng giỗ và cầu mong gia đình, dòng họ an

khang, thịnh vƣợng, quanh năm may mắn.

Bên cạnh đó, giá trị văn hóa tâm linh của tín ngƣỡng, lễ hội trong đời sống

xã hội hiện nay còn thể hiện ở chỗ con ngƣời luôn hƣớng tới cái chân-thiện-mỹ, cái

cao cả mà con ngƣời luôn ƣớc vọng tôn thờ, trong đó có cả niềm tin tôn giáo tín

ngƣỡng. Một điều chắc chắn rằng đứng trƣớc tổ tiên, thần linh không một ngƣời nào

cầu mong ƣớc nguyện điều xấu xa có hại cho ngƣời khác, có hại cho cộng đồng.

Khi trở về thế giới tâm linh, họ luôn mong muốn và tin tƣởng vào sự chứng giám và

phù hộ của thần linh vì sự trung thực, thành tâm của họ. Vì vậy, những nghi lễ, tín

ngƣỡng trong lễ hội đã giúp con ngƣời thoả mãn nhu cầu về đời sống tâm linh.

Tín ngƣỡng, lễ hội truyền thống của huyện đảo Kiên Hải cũng chứa đựng

truyền thống văn hóa phong phú kết hợp với hệ thống di tích lịch sử, cảnh quan

thiên nhiên đẹp đẽ kỳ thú của huyện đảo, là những lời mời gọi thiết tha khách du

lịch đến với biển, đến với tín ngƣỡng, lễ hội. Ngành du lịch không thể không khai

thác tín ngƣỡng, lễ hội truyền thống với tƣ cách là một nguồn tài nguyên du lịch

71

nhân văn, một sản phẩm du lịch văn hóa đặc biệt mang lại nguồn thu lớn cho ngành

kinh tế du lịch. Thế giới đang hƣớng đến một sự phát triển bền vững, một nền công

nghiệp sạch, trong đó du lịch chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng. Bản chất của du

lịch là khám phá, tìm hiểu văn hóa, nhu cầu du lịch là do nhu cầu văn hóa quyết

định, trong đó sự mong muốn hiểu biết văn hóa, giao lƣu, tìm hiểu phong tục tập

quán, các giá trị văn hóa lại chứa đựng chủ yếu trong tín ngƣỡng, lễ hội truyền

thống, vì thế tín ngƣỡng, lễ hội truyền thống là động lực thúc đẩy hoạt động du lịch.

Tín ngƣỡng, lễ hội truyền thống không phải chỉ là tiềm năng du lịch nội địa

mà còn là tiềm năng du lịch quốc tế, tín ngƣỡng, lễ hội truyền thống cùng với hệ

thống di sản văn hóa và cảnh quan thiên nhiên đã là một nguồn lực cho phát triển

kinh tế du lịch. Bên cạnh đó, tín ngƣỡng, lễ hội cùng với hệ thống di sản văn hóa

góp phần tạo lập các mối quan hệ kinh tế với nƣớc ngoài, thông qua du lịch, việc

tìm hiểu các phong tục tập quán, truyền thống văn hóa tạo nên sự hiểu biết tin cậy

lẫn nhau, tạo lập mối quan hệ ngoại giao với đối tác nƣớc ngoài gia tăng. Đồng thời

hệ thống lễ hội và di sản văn hóa Việt Nam là một tiềm năng du lịch để thu hút đầu

tƣ nƣớc ngoài phát triển tại Việt Nam.

3.2. Các giải pháp bảo tồn và phát huy những giá trị tín ngƣỡng

truyền thống tiêu biểu của ngƣời dân tại huyện đảo Kiên Hải, tỉnh Kiên

Giang hiện nay

3.2.1. Giải pháp về phát triển kinh tế, xã hội tạo điều kiện để thực hiện tốt

sinh hoạt tín ngưỡng trong các lễ hội

Công tác bảo tồn và phát huy các giá trị của tín ngƣỡng trong các lễ hội

không thể tách rời khỏi chiến lƣợc quy hoạch phát triển kinh tế xã hội của địa

phƣơng và Chƣơng trình quốc gia xây dựng nông thôn mới, tất cả phải đƣợc tiến

hành đồng bộ trên cơ sở tôn trọng, giữ gìn không gian văn hóa truyền thống của địa

phƣơng.

Muốn có đời sống tinh thần vui tƣơi thì trƣớc hết đời sống vật chất phải no

đủ, dƣ giả. Nhƣ Bác Hồ đã nhắc nhở cán bộ: làm sao cho đồng bào có tín ngƣỡng,

tôn giáo đáp ứng cả nhu cầu vật chất và tinh thần “phần xác no ấm, phần hồn thong

72

dong”. Ông cha ta thƣờng dạy “có thực mới vực đƣợc đạo”. Chính vì thế cần phải tập

trung phát triển kinh tế đi đôi với việc chăm lo các vấn đề xã hội. Đảm bảo đáp ứng

nhu cầu về kinh tế sẽ giúp nhân dân có điều kiện hƣớng về đời sống tâm linh và

hƣởng thụ văn hóa.

Song song với các hoạt động tuyên truyền giáo dục phải gắn với phong trào

nhân dân chăm lo phát triển kinh tế ở địa phƣơng, coi đó là chiến lƣợc lâu dài, là

tiền đề củng cố và phát triển các lĩnh vực khác. Làm chuyển biến nhận thức để xây

dựng một đời sống vật chất, tinh thần phong phú hơn.

Tập trung khai thác, phát triển du lịch và các ngành dịch vụ vốn đang đƣợc

coi là tiềm năng, thế mạnh của huyện một cách có hệ thống. Xem xét ảnh hƣởng

của lễ hội đến việc thúc đẩy du lịch tâm linh, du lịch văn hóa; những hình thức

mua sắm, tiêu dùng của du khách; tổ chức hội chợ quảng bá, giới thiệu các sản

phẩm thủ công mỹ nghệ, những đặc sản của địa phƣơng. Qua đó, thu hút sự đầu tƣ

của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nƣớc góp phần đƣa Kiên Hải phát triển

ngày càng bền vững.

Để khai thác tín ngƣỡng, lễ hội truyền thống - nguồn tài nguyên để phát triển

du lịch, đòi hỏi lễ hội phải tạo đƣợc sự hấp dẫn mang tính riêng biệt đặc thù, với

những nội dung, hình thức phong phú mang đậm sắc thái địa phƣơng, phải trở thành

“tài sản văn hóa đặc trƣng” của huyện đảo Kiên Hải mới có thể thu hút sự quan tâm

ngày càng tăng của du khách ngoài cộng đồng. Để làm đƣợc điều đó, các cơ quan

chức năng của huyện cần nghiên cứu những giá trị đặc trƣng của địa phƣơng mình

và phải thể hiện tốt những đặc trƣng đó trong sinh hoạt lễ hội. Phải gắn lễ hội với

các hoạt động du lịch, phải mở rộng không gian lễ hội thành những sinh hoạt văn

hóa liên huyện, liên vùng. Có nhƣ thế mới biến lễ hội thành sản phẩm du lịch độc

đáo, tiềm năng sinh động của du lịch văn hóa tâm linh, nó gắn với các công trình

kiến trúc đình, đền, các món ăn, các trang phục truyền thống, các sản phẩm đặc sản

của địa phƣơng… Thực tế du lịch càng phát triển càng thúc đẩy các hoạt động tín

ngƣỡng, lễ hội, và tín ngƣỡng, lễ hội càng gắn kết với du lịch, càng thúc đẩy ngành

73

du lịch phát triển. Vì vậy, phát triển lễ hội đồng nghĩa với phát triển du lịch.

3.2.2. Giải pháp về tuyên truyền, giáo dục đường lối chính sách của Đảng,

pháp luật của Nhà nước về tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và tự do

không tín ngưỡng, tôn giáo

Có những hình thức tuyên truyền, giáo dục đƣờng lối chính sách của Đảng,

pháp luật của Nhà nƣớc về tôn trọng quyền tự do tín ngƣỡng, tự do không tín

ngƣỡng. Đồng thời tìm cách để ngƣời dân hiểu và nhận thức đƣợc ranh giới giữa

sinh hoạt tín ngƣỡng với các hoạt động mê tín dị đoan. Ngày nay, trong lĩnh vực tín

ngƣỡng, các hoạt động mê tín dị đoan vẫn đang có xu hƣớng đan xen vào các hoạt

động tín ngƣỡng và các lễ hội dân gian. Vì vậy, cần đấu tranh ngăn chặn các hoạt

động mê tín dị đoan.

Tạo sự chuyển biến nhận thức của các ban, ngành, đoàn thể các cấp, về nội

dung và ý nghĩa hoạt động tín ngƣỡng, lễ hội; chú trọng tuyên truyền các giá trị lịch

sử văn hóa cũng nhƣ những quy định của pháp luật có liên quan, kịp thời chỉ đạo và

uốn nắn các biểu hiện lệch lạc, làm cho việc tổ chức tín ngƣỡng, lễ hội ngày càng

văn minh, thực sự trở thành ngày hội văn hóa của nhân dân, góp phần tích cực vào

sự phát triển kinh tế xã hội của địa phƣơng.

Cần coi trọng công tác giáo dục pháp luật, tổ chức việc tuyên truyền, phổ

biến các văn bản pháp luật có liên quan đến văn hóa, quản lý văn hóa và tín ngƣỡng,

lễ hội nhất là các văn bản pháp luật mới ban hành. Phòng Văn hóa phối hợp với các

ngành chức năng và địa phƣơng, cơ sở cần tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền sâu rộng

bằng nhiều hình thức và nội dung phong phú góp phần giới thiệu, phổ biến các giá

trị tín ngƣỡng, lễ hội huyện đảo Kiên Hải đặc sắc, quảng bá tiềm năng văn hóa, du

lịch của huyện Kiên Hải nói riêng và tỉnh Kiên Giang nói chung.

Đẩy mạnh hƣớng dẫn tuyên truyền về ý nghĩa của tín ngƣỡng, lễ hội gắn với

việc giới thiệu, tôn vinh công trạng của các vị thần đƣợc thờ tại di tích và các khu

vực tổ chức tín ngƣỡng, lễ hội. Thƣờng xuyên tuyên truyền nội dung mang tính phổ

biến, giáo dục pháp luật, hành vi lối sống, cách ứng xử văn hóa... để không chỉ

ngƣời tổ chức tín ngƣỡng, lễ hội mà cả ngƣời tham gia tín ngƣỡng, lễ hội hiểu đƣợc

74

giá trị di sản văn hóa, nắm đƣợc quy định quản lý để tự điều chỉnh thông qua hành

vi cụ thể; hạn chế đƣợc các biểu hiện tiêu cực trong tín ngƣỡng, lễ hội... Đồng thời,

chính quyền địa phƣơng nên có kế hoạch lồng ghép tuyên truyền các nội dung trên

vào phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa", Ủy ban Mặt trận

Tổ quốc Việt Nam và các đoàn hể chính trị, xã hội của các cấp trong huyện tuyên

truyền, vận động nhân dân thực hiện quyền tự do tín ngƣỡng, tôn giáo, thực hiện tín

ngƣỡng truyền thống của huyện trong cuộc vận dộng “Toàn dân đoàn kết xây dựng

nông thôn mới, đô thị văn minh” và coi đó là nhiệm vụ chủ yếu của địa phƣơng

nhằm góp phần xây dựng nếp sống văn hóa lễ hội; nâng cao nhận thức, sự hiểu biết, ý

thức trách nhiệm, tự giác giữ gìn nơi thờ tự, bảo vệ môi trƣờng tự nhiên - xã hội của

nhân dân trong các di tích lịch sử - văn hóa gắn với tổ chức tín ngƣỡng, lễ hội.

Trƣớc hết cần đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền nhằm nâng cao nhận

thức của ngƣời dân về vai trò của tín ngƣỡng, lễ hội đối với việc xây dựng nền văn

hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Chú trọng công tác tuyên truyền để

ngƣời dân hiểu rõ những giá trị văn hóa, lịch sử của tín ngƣỡng, lễ hội, trân trọng và

tích cực chủ động phát huy các giá trị đó trong đời sống cộng đồng hiện nay. Cần

biên soạn các tƣ liệu về lịch sử hình thành tín ngƣỡng, lễ hội, quy mô, hình thức tổ

chức tín ngƣỡng, lễ hội nhằm giới thiệu cho nhân dân trong cộng đồng cũng nhƣ du

khách tham dự tín ngƣỡng, lễ hội. Bên cạnh đó là việc khôi phục lại các trò chơi, trò

diễn có nhiều giá trị văn hóa trong tín ngƣỡng, lễ hội. Phải hiểu đƣợc ý nghĩa, giá trị

của tín ngƣỡng, lễ hội, hiểu đƣợc thế nào là thuần phong mỹ tục, là truyền thống thì

ngƣời dân mới có ý thức gìn giữ và phát huy vốn tinh hoa văn hóa đó. Cùng với các

hoạt động trên, chúng ta quan tâm tuyên truyền giáo dục nâng cao nhận thức cho

cộng đồng kiên quyết đấu tranh với các hiện tƣợng tiêu cực tại tín ngƣỡng, lễ hội và

các hoạt động mê tín dị đoan, các tệ nạn xã hội khác. Cần tích cực tuyên truyền vận

động nhân dân tham gia quản lý tín ngƣỡng, lễ hội, khơi dậy trong ngƣời dân tính

cố kết cộng đồng của tín ngƣỡng, lễ hội. Giúp họ nhận thức về nét đẹp của lễ hội từ

đó họ sẽ góp phần giữ gìn, chung tay góp sức bảo tồn các giá trị nhân văn của tín

ngƣỡng, lễ hội. Cần thƣờng xuyên nêu các gƣơng ngƣời tốt, việc tốt trong việc tham

75

gia tổ chức và quản lý tín ngƣỡng, lễ hội, đăng tải trên các phƣơng tiện truyền thông

đại chúng, trên cơ sở góp phần làm cho ngƣời dân ý thức về quyền lợi và nghĩa vụ

của họ tự giác tham gia tín ngƣỡng, lễ hội. Công tác tuyên truyền để nhân dân hiểu

rõ những giá trị văn hóa, lịch sử của tín ngƣỡng lễ hội đƣợc xem là biện pháp hàng

đầu trong việc bảo tồn và phát huy các giá trị của tín ngƣỡng, lễ hội trong đời sống

hiện nay.

Tiếp tục đẩy mạnh công tác thông tin, giáo dục, truyền thông những quy

định của pháp luật liên quan đến tín ngƣỡng, lễ hội. Đổi mới công tác tuyên truyền

phong phú về nội dung, đa dạng về hình thức, đặc biệt là phƣơng thức giới thiệu,

quảng bá trên hệ thống truyền thanh tại các tín ngƣỡng, lễ hội; cần nâng cao nhận

thức của mọi ngƣời dân về giá trị lịch sử, văn hóa của tín ngƣỡng, lễ hội huyện

đảo Kiên Hải trong đời sống văn hóa tinh thần, từ đó có ý thức đề cao việc thực

hiện pháp luật và tự giác thực hiện nếp sống văn minh trong tín ngƣỡng, lễ hội

truyền thống.

Tạo sự chuyển biến nhận thức của các cấp ủy đảng, chính quyền, ban, ngành,

đoàn thể về trách nhiệm quản lý lễ hội, đặc biệt là trong tổ chức thực hiện có hiệu

quả Chỉ thị số 27-CT/TW, ngày 12-01-1998 của Bộ Chính trị về việc thực hiện nếp

sống văn minh trong việc cƣới, việc tang, lễ hội; Chỉ thị số 14/1998/CT-TTg, ngày 28-3-

1998 của Thủ tƣớng Chính phủ về thực hiện nếp sống văn minh trong việc cƣới,

việc tang và lễ hội. Kịp thời uốn nắn các biểu hiện lệch lạc, làm cho tín ngƣỡng, lễ

hội ngày càng văn minh, thật sự trở thành ngày hội văn hóa của nhân dân, góp phần

tích cực vào sự phát triển kinh tế - văn hóa của địa phƣơng.

3.2.3. Giải pháp về nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân

Cùng với việc phát triển kinh tế, xã hội cần tập trung đầu tƣ nâng cao đời

sống vật chất và tinh thần cho nhân dân. Mục đích của giải pháp này là khi đời sống

vật chất của ngƣời dân đƣợc no đủ, trình độ dân trí ngày càng cao thì ngƣời dân

càng làm chủ đƣợc cuộc sống trƣớc những tác động của thiên nhiên, sinh hoạt lễ

hội, tín ngƣỡng là nhu cầu văn hóa, tinh thần và sự phân giữa cái đúng, cái sai, cái

hay, cái dở... để rồi tự giác thải loại những hiện tƣợng tiêu cực và phát huy những

76

yếu tố tích cực trong tín ngƣỡng dân gian ở địa phƣơng. Việc khôi phục các giá trị

của lễ hội truyền thống ở đây nhằm phát huy giá trị của tín ngƣỡng dân gian nhƣ:

tính hƣớng thiện, đạo lý uống nƣớc nhớ nguồn, tinh thần cố kết cộng đồng... Khi

con nhang đệ tử nói riêng, ngƣời dân địa phƣơng nói chung đi vào đình, chùa hay

bất cứ một công trình tín ngƣỡng nào đó đều thành tâm và sự thành tâm này chính

là tấm lòng chân thành của con ngƣời kính mộ các vị thánh thần, hƣớng họ tới

những tình cảm cao đẹp, lối sống có tình, có nghĩa, có lòng vị tha, ở hiền gặp lành...

Cần nghiên cứu nâng cao “tính thiêng” của lễ thức để ngƣời dân có thể thỏa

mãn nhu cầu hƣởng thụ văn hóa tâm linh của họ. Qua đó khơi dậy và phát huy

truyền thống văn hóa, đạo đức của địa phƣơng bằng chính việc duy trì một cách nề

nếp, quy cũ, bài bản tín ngƣỡng dân gian. Thông qua các hoạt động tín ngƣỡng

này đã rút ngắn dần khoảng cách giữa các giai cấp, tầng lớp, dân tộc tạo nên sự

giao thoa giữa các luồng mạch văn hóa ở các địa phƣơng trong tỉnh và các tỉnh

trong khu vực.

Xây dựng môi trƣờng văn hóa cho các hoạt động văn hóa - xã hội diễn ra tại các

đình, đền, chùa, miếu... Có trách nhiệm bảo tồn và giữ gìn các di sản văn hóa tín

ngƣỡng nhƣ các di tích lịch sử văn hóa, các danh lam thắng cảnh, các tranh trƣợng thờ,

đồ thờ, hoành phi câu đối, thần tích, sắc phong… theo Luật Di sản văn hóa. Có ý thức

khai thác tín ngƣỡng truyền thống về phƣơng diện văn hóa, xã hội góp phần làm phong

phú thêm kho tàng văn hóa dân gian ở Kiên Hải và đời sống tinh thần của nhân dân.

Làm cho các hoạt động tín ngƣỡng và lễ hội không mâu thuẫn với sự phát triển của xã

hội hiện đại.

Trong hoạt động tín ngƣỡng cũng nhƣ các lễ hội trong xu hƣớng phát triển

và thay đổi hiện nay cần chú ý sự thay đổi một cách hợp lý không làm mất đi tín

chất truyền thống và tính đặc trƣng của lễ hội và nền văn hóa địa phƣơng, theo

phƣơng châm: phần Lễ trang trọng thuần túy tạo đƣợc tình cảm tín ngƣỡng nhƣng

không sa vào các hoạt động mê tín, hủ tục; phần Hội mang đậm tính nhân văn,

nhƣng phải có sự hấp dẫn và lôi cuốn.

Tín ngƣỡng, lễ hội truyền thống là sản phẩm của quần chúng vì vậy chủ thể

77

tổ chức lễ hội dân gian là quần chúng nhân dân, chính quyền các cấp trong huyện

không làm thay vai trò tổ chức mà chỉ đóng vai trò quản lý, tạo điều kiện cho tổ

chức và hoạt động lễ hội của nhân dân đƣợc thuận lợi hơn, bảo đảm văn minh và

trật tự an toàn cho quá trình thực hiện và triển khai tín ngƣỡng, lễ hội. Chính vì vậy,

việc tổ chức và quản lý tín ngƣỡng, lễ hội nên theo định hƣớng của cấp ủy đảng,

chính quyền định hƣớng hỗ trợ để quần chúng nhân dân thông qua các tổ chức đoàn

thể của mình chủ động trong việc tổ chức lễ hội sao cho vừa kế thừa những nét đẹp

truyền thống, vừa tiếp thu yếu tố mới một cách hợp lý vào sinh hoạt lễ hội, làm sao

để ngƣời dân thực sự là chủ thể của những sáng tạo văn hóa trong sinh hoạt tín

ngƣỡng thông qua lễ hội của mình.

3.2.4. Giải pháp về xây dựng môi trường văn hóa xã hội lành mạnh ở các

công trình tín ngưỡng

Xây dựng môi trƣờng văn hóa xã hội lành mạnh ở các công trình tín

ngƣỡng. Mục đích của giải pháp này là tạo ra một môi trƣờng của tín ngƣỡng

truyền thống lành mạnh trong lễ hội và những nghi thức thờ cúng trong tín

ngƣỡng, từ đó giảm mạnh những yếu tố tích cực, mê tín dị đoan trong xã hội. Hiện

nay, công tác tuyên truyền, hƣớng dẫn cho ngƣời dân hiểu rõ giá trị truyền thống

trong gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong lễ hội còn nhiều hạn chế,

dẫn tới sự thiếu trách nhiệm và ý thức của một bộ phận ngƣời dân khi tham gia và

phục vụ lễ hội, nhất là trong thực hiện nếp sống văn minh, giao tiếp ứng xử, vệ

sinh môi trƣờng. Tính tôn nghiêm và những nét đẹp văn hóa, những giá trị, bản

sắc của các lễ hội đang bị giảm sút và có nguy cơ bị xói mòn, do các tệ nạn lôi kéo

khách hành hƣơng tham gia trò chơi cá cƣợc, cờ bạc, bói toán, móc túi, tình trạng

vi phạm trật tự, an toàn xã hội vẫn xảy ra. Hiện tƣợng thiếu lành mạnh nhƣ bán

sách tƣớng số, tử vi, bán hàng rong, tranh giành bán vé dịch vụ xuất hiện tại nhiều

khu vực tổ chức lễ hội. Nhiều du khách còn có những biểu hiện lệch lạc, thiếu

hiểu biết đặt tiền vào tƣợng thờ. Một hiện tƣợng khá phổ biến ở các lễ hội là xả

rác tùy tiện, bẻ cành cây lộc, thắp hƣơng đốt vàng mã quá nhiều, bất chấp quy

78

định của ban tổ chức lễ hội.

3.2.5. Giải pháp về kết hợp giữa biện pháp tuyên truyền và giáo dục với

biện pháp tổ chức, quản lý hành chính

Kết hợp giữa biện pháp tuyên truyền và giáo dục với biện pháp tổ chức, quản

lý hành chính. Tuyên truyền, giáo dục cho quần chúng nhân dân nhận thức đƣợc hai

mặt trong hoạt động tín ngƣỡng từ đó họ có thái độ đối xử đúng đắn và tôn trọng

quyền tự do tín ngƣỡng. Tín ngƣỡng truyền thống là sản phẩm của con ngƣời cho

nên bản thân tín ngƣỡng không có yếu tố tích cực hay tiêu cực mà chỉ do con ngƣời

sử dụng hay đối xử với nó nhƣ thế nào.

Quán triệt sâu sắc và thực hiện quan điểm của Đảng: “cốt lõi của công tác

tôn giáo là công tác vận động quần chúng” trong quá trình thực hiện giải pháp tuyên

truyền thuyết phục và xử lý vi phạm hành chính trong tổ chức lễ hội truyền thống ở

địa phƣơng. Trên cơ sở đó, giải quyết những vấn đề tín ngƣỡng, tâm linh phải thực

sự khéo léo và linh hoạt. Đồng thời, trên cơ sở quy định của Hiến pháp và Luật Tín

ngƣỡng, tôn giáo cần điều chỉnh, bổ sung và hoàn thiện những quy chế, quy định về

hoạt động lễ hội, việc cúng tế ở các nơi thờ tự… tại địa bàn huyện Kiên Hải để bảo

đảm thực hiện quyền tự do tín ngƣỡng, tôn giáo của ngƣời dân địa phƣơng.

Chính quyền các cấp cũng cần phải xử phạt nghiêm khắc đối với những

trƣờng hợp vi phạm nghiêm trọng, thƣờng xuyên, có tính hệ thống các chính sách

của Nhà nƣớc về tự do tín ngƣỡng và lợi dụng tự do tín ngƣỡng.

Tăng cƣờng công tác quản lý hành chính còn là việc tăng cƣờng hơn nữa

chất lƣợng công tác cán bộ làm công tác tôn giáo, văn hóa, đặc biệt là cán bộ ở cơ

sở hoạt động trong lĩnh vực tín ngƣỡng, tôn giáo.

3.2.6. Giải pháp về tăng cường công tác đào tạo và tổng kết thực tiễn về tín

ngưỡng truyền thống ở địa phương

Tăng cƣờng công tác đào tạo, bồi dƣỡng nghiệp vụ cho cán bộ làm công tác

văn hóa, tôn giáo, đồng thời không ngừng tổng kết thực tiễn về thực hành tín

ngƣỡng truyền thống ở địa phƣơng. Mục đích của giải pháp này là đào tạo đội ngũ

cán bộ về tín ngƣỡng, tôn giáo; làm rõ các vấn đề đặt ra từ sinh hoạt tín ngƣỡng, tôn

79

giáo nói chung, tín ngƣỡng truyền thống ở địa phƣơng nói riêng và đƣa ra hƣớng

giải quyết. Từ đó giúp cho cơ quan quản lý, các cơ sở thờ tự và các địa phƣơng đƣa

ra những nhận định, chủ trƣơng, chính sách… sát với thực tế hiện tại của mình.

Cần có đội ngũ chuyên viên nghiên cứu chuyên sâu, nắm rõ những thuộc

tính, yếu tính, cũng nhƣ ý nghĩa căn cốt từng loại tín ngƣỡng, tôn giáo. Cán bộ làm

công tác tín ngƣỡng, tôn giáo phải đi sâu, đi sát vào thực tiễn, bám cơ sở, gần gũi

với nhân dân; phải nắm bắt, hiểu biết đa dạng về tín ngƣỡng, tôn giáo, trên cơ sở đó

chuyên sâu vào các loại hình tín ngƣỡng dân gian. Bởi trên thực tế, trong việc tổ

chức, quản lý tín ngƣỡng, lễ hội hiện nay còn những biểu hiện lệch lạc, nhƣng khi

đƣợc khoác lên lớp áo tín ngƣỡng, thì lại là vấn đề hết sức nhạy cảm, phức tạp.

3.3. Một số kiến nghị

3.3.1. Đối với các bộ, ngành ở Trung ương

- Nghiên cứu soạn thảo các văn bản, tài liệu về tín ngƣỡng truyền thống của

ngƣời Việt và của các dân tộc trên đất nƣớc Việt Nam.

- Xây dựng và hoàn thiện cơ chế, chính sách đối với tín ngƣỡng truyền thống.

Xem xét điều chỉnh chế độ đãi ngộ chính sách đối với cán bộ phụ trách công tác tín

ngƣỡng, tôn giáo.

3.3.2. Đối với cấp ủy, chính quyền, các ban ngành tỉnh, địa phương

- Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh Kiêng Giang cần có sự định hƣớng đúng đắn

hoạt động tín ngƣỡng truyền thống, nhằm tránh những biến động tiêu cực trong xu

hƣớng biến đổi chung hiện nay.

- Tăng cƣờng công tác quản lý Nhà nƣớc đối với hoạt động của tín ngƣỡng

nói chung và tín ngƣỡng truyền thống nói riêng. Hiện nay việc quản lý các cơ sở

tín ngƣỡng còn bỏ ngõ, chƣa thống nhất về mặt quản lý nhà nƣớc của các cơ quan

chức năng. Cần có sự liên kết, phối hợp chặt chẽ với các cơ quan, ban, ngành của

tỉnh nhƣ: Ban Dân vận Tỉnh ủy, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy, Sở Nội vụ (Ban Tôn

giáo), Sở Văn hóa - Thể thao, Sở Du lịch, Công an tỉnh, Bảo tàng tỉnh và Ban

Quản lý di tích và các phòng văn hóa thể thao, phòng tôn giáo các huyện, thành

phố. Thiết lập mạng lƣới làm công tác văn hóa - tín ngƣỡng - tôn giáo thật chặt

80

chẽ từ tỉnh đến cơ sở.

- Quan tâm nghiên cứu và quản lý về các loại tín ngƣỡng truyền thống tránh

tình trạng nhƣ hiện nay chỉ chú trọng đến công tác tôn giáo mà xem nhẹ mảng tín

ngƣỡng truyền thống. Trong quản lý văn hóa với quản lý tín ngƣỡng, không nên

phân biệt rạch ròi, bởi giữa văn hóa và tín ngƣỡng thƣờng đan xen, kết hợp với nhau

trong một thể thống nhất.

- Cần quan tâm đến công tác bảo vệ, tôn tạo và sử dụng các cơ sở thờ tự của

hình thức tín ngƣỡng này. Tạo điều kiện cho một số đình, đền, chùa, miếu… trong

tỉnh đang bị xuống cấp, đƣợc trùng tu, tôn tạo theo quy định của Luật Di sản văn

hóa, Pháp lệnh Tín ngƣỡng, tôn giáo, tránh tình trạng phá vỡ kiến trúc vốn có của

nó. Đất đai các di tích cần đƣợc bảo vệ, các công trình kiến trúc, các tài liệu, hiện

vật cần đƣợc bảo quản, lƣu giữ, phục vụ cho công các nghiên cứu và giáo dục

truyền thống.

- Tăng cƣờng bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống của dân

tộc gắn với xây dựng đời sống văn hóa cơ sở. Đẩy mạnh quảng bá, giới thiệu tiềm

năng phát triển kinh tế - xã hội của địa phƣơng nhằm thu hút ngày càng nhiều nhà

đầu tƣ và du khách đến tham quan, tìm hiểu hơn về Kiên Giang.

3.3.3. Đối với các đình, đền, chùa, miếu

- Ban Quản lý di tích địa phƣơng cần có sự quản lý toàn diện cả phần lễ,

phần hội. Công khai minh bạch tài chính, kinh phí thu chi, các khoản cúng tiền,

công đức, quyên góp… Nêu cao tinh thần tự giác và trách nhiệm cá nhân, tránh

làm ảnh hƣởng xấu đến uy tín vốn có hiện nay. Đẩy mạnh các hoạt động từ thiện,

đóng góp vào các phong trào của địa phƣơng, đƣa tín ngƣỡng gần gũi với thực

tiễn đời sống.

- Có phƣơng thức tuyên truyền cho nhân dân hiểu rõ hơn về thần tích, thân

thế, sự nghiệp cũng nhƣ những giá trị văn hóa, tín ngƣỡng dân gian. Xây dựng

những quy ƣớc, quy định của di tích để khách thập phƣơng hiểu đúng và thực hành

81

nghiêm túc.

Tiểu kết chƣơng 3

Trong chƣơng này, tác giả tập trung làm rõ những vấn đề đối với việc thực

hành tín ngƣỡng truyền thống tiêu biểu tại huyện đảo Kiên Hải. Cho thấy, tín

ngƣỡng truyền thống trên địa bàn huyện đang có chiều hƣớng phát triển thiên lệch,

xa rời dần bản sắc và ít hoặc không còn phù hợp với điều kiện mới, gây ảnh hƣởng

không nhỏ đến tâm lý con ngƣời hiện đại.

Để bảo tồn và phát huy giá trị tín ngƣỡng truyền thống trên địa bàn huyện,

cần phải đẩy mạnh phát triển kinh tế, xã hội tạo điều kiện để thực hiện tốt sinh hoạt

tín ngƣỡng trong các lễ hội; tuyên truyền, giáo dục đƣờng lối chính sách của Đảng,

pháp luật của Nhà nƣớc về tôn trọng quyền tự do tín ngƣỡng, tự do không tín ngƣỡng;

nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân; xây dựng môi trƣờng văn hóa

xã hội lành mạnh ở các công trình tín ngƣỡng; kết hợp giữa biện pháp tuyên truyền

và giáo dục với biện pháp tổ chức, quản lý hành chính; tăng cƣờng công tác đào tạo

và nghiên cứu khoa học về tín ngƣỡng truyền thống và một số kiến nghị đối với các

bộ, ngành, trung ƣơng; đối với cấp ủy, chính quyền, các ban ngành tỉnh, địa phƣơng

82

và đối với các đình, đền, chùa, miếu.

KẾT LUẬN

Tín ngƣỡng truyền thống ra đời, tồn tại và phát triển trong suốt chiều dài lịch sử

dựng nƣớc và giữ nƣớc của dân tộc Việt Nam; là một hoạt động sinh hoạt văn hóa tinh

thần, tín ngƣỡng truyền thống không thể thiếu trong sinh hoạt văn hóa tinh thần của

ngƣời dân lao động. Tín ngƣỡng truyền thống cũng nhƣ tôn giáo là nhu cầu tinh thần của

tuyệt đại đa số các thành phần cƣ dân ở nƣớc ta. Vì vậy, cần phát huy mặt tích cực và

hạn chế mặt tiêu cực trong sinh hoạt tín ngƣỡng, tăng cƣờng củng cố khối đại đoàn kết

toàn dân tộc.

Tín ngƣỡng truyền thống đang đƣợc tiếp nối, nhằm đề cao đạo lý “uống nƣớc

nhớ nguồn, ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, mang đậm nét nhân văn của dân tộc. Giữ gìn

và phát huy tín ngƣỡng truyền thống trong giai đoạn hiện nay, vừa là dịp để giáo

dục và nâng cao nhận thức của ngƣời dân đối với các giá trị tín ngƣỡng truyền

thống, khơi dậy lòng yêu nƣớc, lòng tự hào dân tộc, tinh thần đoàn kết, làm cho

những nét cổ truyền, “cái đẹp xƣa” đƣợc sống lại. Đồng thời tạo đƣợc sân chơi lành

mạnh để nâng cao đời sống tinh thần cho nhân dân và tạo cơ hội cho ngành du lịch,

thƣơng mại của ngƣời dân huyện đảo Kiên Hải nói riêng, cả nƣớc nói chung phát

triển bền vững.

Ngày nay, dƣới chính sách tự do tín ngƣỡng, tôn giáo của Đảng và Nhà nƣớc

ta, tín ngƣỡng truyền thống cần đƣợc bảo tồn, phát huy và không những là đúng về

phƣơng diện chính sách mà còn phù hợp với lòng dân. Nhƣng vấn đề là phải có

định hƣớng đúng, xây dựng cơ chế, những quy định pháp lý cụ thể, phù hợp để phát

huy đƣợc vai trò tích cực cũng nhƣ hạn chế những xu hƣớng tiêu cực của nó.

Thông qua đề tài “Tín ngưỡng truyền thống của người dân tại huyện đảo

Kiên Hải” hy vọng đóng góp một phần vào quá trình nghiên cứu tín ngƣỡng truyền

thống của địa phƣơng, các nghi thức, lễ nghi thờ cúng, nét đặc trƣng của tín ngƣỡng

cũng nhƣ lễ hội. Nhằm giữ gìn và phát huy những giá trị tốt đẹp của loại hình tín

ngƣỡng này và những tác động của nó đến đời sống xã hội của nhân dân thông qua

hoạt động tín ngƣỡng, lễ hội. Qua đó, giới thiệu, quảng bá để ngƣời dân, khách du

lịch hiểu rõ hơn về mảnh đất và con ngƣời của huyện đảo Kiên Hải, tỉnh Kiên

83

Giang./.

1. Toan Ánh (1992), Nếp cũ tín ngưỡng Việt Nam, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

2. Nguyễn Chí Bền (2011), Góp phần nghiên cứu văn hóa dân gian Việt Nam, Tập

1, Khoa học xã hội, Hà Nội

3. Phan Kế Bính (1997), Việt Nam phong tục, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh,

Thành phố Hồ Chí Minh

4. Bộ Văn hóa-Thông tin (2001), Quyết định số 39/2001/QĐ-BVHTT, ngày 23-8-

2001 về việc ban hành Quy chế lễ hội, Hà Nội

5. Đoàn Văn Chúc 1997: Văn hóa học. - H.: Nxb Văn hóa - Thông tin

6. C.Mác và Ph.Ăng toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, 1995, t3, tr12

7. C. Mác - Ph. Ăngghen, V.I. Lê nin (2001), Bàn về tôn giáo và chủ nghĩa vô

thần, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội

8. Chính phủ (2009), Quyết định số 581/2009/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ

về chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2020, Hà Nội

9. Nguyễn Thị Kim Doan (2003), Những lễ hội Việt Nam tiêu biểu, Nxb Văn hóa -

Thông tin, Hà Nội

10. Lê Tiến Dũng (2011), Văn hóa cội nguồn sức mạnh Việt Nam, Nxb Văn hóa -

Thông tin, Hà Nội

11. Nguyễn Đăng Duy, Văn hóa tâm linh, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội

12. Nguyễn Đăng Duy (2001), Các hình thái tín ngƣỡng tôn giáo ở Việt Nam, Nxb

Văn hóa Thông tin, tr221

13. Cảnh Dƣơng (1998), "Phát huy những nét đẹp văn hóa trong lễ hội cổ truyền",

Văn hóa Thông tin, (1), tr. 26

14. Nguyễn Hồng Dƣơng - Phùng Đạt Văn (2009), Tín ngưỡng tôn giáo và xã hội

15. Đảng bộ huyện Kiên Hải (2010), Lịch sử Đảng huyện Kiên Hải, tr45

dân gian, Nxb Từ điển Bách khoa

16. Ngọc Hà (2011), Tín ngưỡng phong tục và những kiêng kỵ trong dân gian, Nxb

84

Văn hóa - Thông tin

17. Mai Văn Hai - Mai Kiệm (2005), Xã hội học văn hóa, Nxb Đại học Quốc gia

Hà Nội, Hà Nội

18. Mai Thanh Hải (2005), Tìm hiểu tín ngưỡng truyền thống Việt Nam

19. Nguyễn Hữu Hiếu (2011), Tìm hiểu văn hóa tâm linh Nam Bộ, Nxb Thanh niên,

Hà Nội

20. Lê Nhƣ Hoa, Văn hóa vì sự phát triển xã hội, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội

21. Nguyễn Quốc Hùng (2015), "Vai trò của cộng đồng trong bảo tồn và phát huy

giá trị di sản văn hóa", Di sản văn hóa, (1), tr. 21-26

22. Nguyễn Thế Hùng và cộng sự (2014), "Bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn

hóa biển đảo", Di sản văn hóa, (4), tr. 17-20

23. Nguyễn Đắc Hƣng (2010), Văn hóa Việt Nam giàu bản sắc, Nxb Chính trị quốc

gia, Hà Nội

24. Tô Karep (1994), Các hình thức tôn giáo sơ khai và sự phát triển của chúng,

Nxb Chính trị Quốc gia

25. Đinh Gia Khánh (2007), Văn hóa dân gian - văn hóa, tuyển tập, tập 3, Nxb

Giáo dục, Hà Nội

26. Đinh Gia Khánh, Cù Huy Cận (1995), Các vùng văn hóa Việt Nam, Nxb Văn

học, Hà Nội

27. Đinh Gia Khánh, Lê Hữu Tầng (chủ biên) (1993), Lễ hội truyền thống trong đời

sống xã hội hiện đại, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội

28. Vũ Ngọc Khánh (2004), Văn hóa Việt Nam những điều học hỏi, Nxb Văn hóa -

Thông tin, Hà Nội

29. Vũ Ngọc Khánh (2008), Lễ hội Việt Nam, Nxb Thanh niên

30. Vũ Ngọc Khánh (2012), Việt Nam phong tục toàn biên, Nxb Văn hóa - Thông

tin, Hà Nội

31. Vũ Ngọc Khánh, Phạm Minh Thảo (2002), Linh Thần Việt Nam, Nxb Văn hóa -

Thông tin, Hà Nội

32. Vũ Nhƣ Khôi (2011), Văn hóa giữ nước Việt Nam những giá trị đặc trưng, Nxb

85

Chính trị quốc gia, Hà Nội

33. Kiên Giang lịch sử, phát triển và kết nối (2012), Nxb, Công ty Văn hóa trí

tuệ Việt

34. Nguyễn Quang Lê (2003), Văn hóa ẩm thực trong lễ hội truyền thống Việt Nam,

Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội

Hà Nội

35. Lễ hội truyền thống trong đời sống xã hội hiện đại (1993), Nxb Khoa học xã hội,

36. Nguyễn Kim Loan (chủ biên) (2014), Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa Việt

Nam, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội

37. Luật Tín ngƣỡng, tôn giáo số 02/2016/QH14, 18/11/2016, tr1

38. Thu Linh, Đặng Văn Lung (1984), Lễ hội truyền thống và hiện đại, Nxb Văn

hóa, Hà Nội

39. Nguyễn Thăng Long và cộng sự (2014), Lễ hội cộng đồng: truyền thống và biến

đổi, Nxb Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh

40. Nguyễn Đức Lữ (2005), Góp phần tìm hiểu tín ngưỡng dân gian Việt Nam, Nxb

Tôn giáo

41. Hồ Chí Minh (2005), Văn hóa văn nghệ cũng là một mặt trận, Nxb Văn nghệ

Thành phố Hồ Chí Minh

42. Hoàng Nam (2005), Một số giải pháp quản lý lễ hội dân gian, Nxb Văn hóa dân

tộc, Hà Nội

43. Sơn Nam (1992), Đình miếu và lễ hội dân gian, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh,

Thành phố Hồ Chí Minh

44. TS Trần Văn Nam và cộng sự (2013), Lễ hội dân gian đồng bằng sông Cửu

Long, NXB Phương Đông, tr.110-117

45. Phan Ngọc (2002), Bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Văn học, Hà Nội

46. Nhiều tác giả (2000), Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam, Nxb Văn hóa dân tộc,

Hà Nội

47. Nhiều tác giả (2004), Văn hóa dân gian - một chặng đường nghiên cứu, Nxb

86

Khoa học xã hội, Hà Nội

48. Nguyễn Thị Phƣợng (1990), "Lễ hội cổ truyền nhìn từ góc độ văn hóa tâm

linh", Nghiên cứu văn hóa nghệ thuật, (2)

49. Dƣơng Văn Sáu (2004), Lễ hội Việt Nam trong sự phát triển du lịch, Trƣờng

Đại học Văn hóa Hà Nội

50. Dƣơng Tấn Phát (1986), Tìm hiểu Kiên Giang, Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng

51. Trần Quang Phúc (2013), Giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, Nxb Lao động,

Hà Nội

52. Thạch Phƣơng, Lê Trung Vũ (1995), 60 lễ hội truyền thống Việt Nam, Nxb

Khoa học xã hội, Hà Nội

53. Hà Văn Tăng - Trƣơng Thìn (1999), Tín ngưỡng mê tín, Nxb Thanh Niên

54. Ngô Hữu Thảo, Bài giảng Tín ngưỡng thờ anh hùng dân tộc Việt Nam

55. Nguyễn Phƣơng Thảo (1994), Văn hóa dân gian Nam Bộ, Nxb Giáo dục,

Hà Nội

56. Huỳnh Quốc Thắng, Lễ hội dân gian ở Nam Bộ, Nxb Văn hóa - Thông tin,

Hà Nội

57. Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật Hà Nội (2000), Kho tàng lễ hội và cổ truyền Việt

Nam, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội

58. Trần Ngọc Thêm (1998), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội

59. Trƣơng Thìn (2010), 101 điều cần biết về tín ngưỡng và phong tục Việt Nam,

Nxb Thời Đại

60. Bùi Thiết (2000), Từ điển Lễ hội Việt Nam, Nxb Văn hóa - Thông tin

61. Ngô Đức Thịnh (2001), Tín ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng ở Việt Nam, Nxb

Khoa học xã hội, Hà Nội

62. Ngô Đức Thịnh (2007), Về tín ngưỡng và lễ hội cổ truyền, Nxb Văn hóa -

Thông tin

63. Ngô Đức Thịnh (2010) (chủ biên), Những giá trị văn hóa truyền thống Việt

Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội

64. Đỗ Thị Minh Thùy (2006), Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề văn hóa trong phát

87

triển, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội

65. Đoàn Huyền Trang (2009), Lễ hội văn hóa du lịch Việt Nam, Nxb Lao động,

Hà Nội

66. Nguyễn Thị Thu Trang (2015), "Một số vấn đề đặt ra với lễ hội truyền thống",

Di sản văn hóa, (3), tr. 81-83

67. Nguyễn Thị Thu Trang (2015), "Một số vấn đề đặt ra với lễ hội truyền thống",

68. Trƣơng Thìn (2010), 101 điều cần biết về tín ngưỡng và phong tục Việt Nam Nxb

Thời Đại

Di sản văn hóa, (3), tr. 81-83

69. Trích theo sách Gia Định Thành thông chí

70. Trích theo Portron Klian, Hà Tiên địa phƣơng chí, 1929

71. Vƣơng Trí Trung (2009), Phong tục nghi lễ văn hóa xưa và nay, Nxb Hà Nội,

Hà Nội.

72. Đặng Nghiêm Vạn (2008), Lý luận về tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt

Nam, Nxb Tôn giáo, tr8

73. Vĩnh Xuyên (2008), Truyền thuyết dân gian Kiên Giang, Nxb Văn nghệ Thành

phố Hồ Chí Minh

74. Vĩnh Xuyên (2009), Tìm hiểu địa danh di tích lịch sử văn hóa Việt cổ Kiên

Giang, Nxb Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh

75. PGS TS Lê Văn Yên và cộng sự (2011), Hỏi-Đáp về Lễ hội truyền thống Việt

88

Nam, NXB Chính trị Quốc gia, tr.122-124

PHỤ LỤC

MỘT SỐ HÌNH ẢNH MINH HỌA

Cảnh chính quyền cùng người dân lên tàu làm lễ Nghinh Ông

(

tại xã Hòn Sơn, huyện Kiên Hải

Đoàn tàu nối đuôi nhau Nghinh Ông ra khơi trong phần Lễ

tại xã Lại Sơn, huyện Kiên Hải

90

(

Đình thần Nam Hải tại xã Lại Sơn, huyện Kiên Hải

(

Dinh Ông Nam Hải tại xã Hòn Tre, huyện Kiên Hải

91

Ngôi Dinh Ông Nam Hải tại xã Hòn Tre, huyện Kiên Hải

Bộ xương cá Voi được trưng bày trong Dinh Ông

tại xã Hòn Tre, huyện Kiên Hải

Cổng đình Lăng Ông Nam Hải được xây dựng mới

92

Tàu cá kéo về Cảng Hòn Sơn tham dự lễ hội Nghinh Ông

Tàu đánh cá, cùng ghe thuyền neo đậu tại cầu cảng Hòn Sơn

dự lễ hội Nghinh Ông ở Kiên Hải - Kiên Giang

Đại biểu các chức sắc, học trò lễ và bà con nhân dân

dự Lễ hội Nghinh ông ở Kiên Hải - Kiên Giang

Nghi lễ cung thỉnh các vị thần, cầu an, cầu siêu,

93

lễ chánh tế Nam Hải Đại Tướng Quân

Nghi lễ cung thỉnh các vị thần, cầu an, cầu siêu,

lễ chánh tế Nam Hải Đại Tướng Quân

Miếu Bà Cố Chủ Hòn Lại Sơn

Mặt trước của miếu nhìn ra biển, lưng tựa vào dãy núi

94

với đỉnh cao nhất tên đầy “liêu trai” Ma Thiên Lãnh

Sau nhiều lần trùng tu, ngôi miếu được xây dựng kiên cố

Bên trong được trang trí trang nghiêm, thậm chí có người còn tôn vinh

bà là “Chúa xứ nương nương”. Nhưng bao trùm vẫn là nét truyền thống dân tộc với liễn đối bằng chữ quốc ngữ

95

Bàn thờ được trang trí rất trang nghiêm và cầu kỳ

Ông Nguyễn Văn Xinh, Phó Trưởng Ban Quản lý miếu Bà Cố Chủ Hòn Sơn

thành kính thắp hương lên bàn thờ chính

Cốt thờ Bà Cố Chủ

96

Không chỉ có người tại chỗ mà bà con từ nhiều nơi cũng đến cúng viếng rất trang trọng. Trong ảnh là hiện vật người dân cúng bà

Đền thờ Nguyễn Trung Trực ở Hòn Sơn

97