Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
CAO THỊ NHUNG
TÌNH HÌNH RUỘNG ĐẤT VÀ KINH TẾ NÔNG NGHIỆP HUYỆN YÊN BÁC TỈNH LẠNG SƠN NỬA ĐẦU THẾ KỶ XIX
Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam Mã số: 60.22.03.13 LUẬN VĂN THẠC SĨ NHÂN VĂN
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Đàm Thị Uyên
THÁI NGUYÊN - 2016
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
LỜ I CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứ u củ a riêng tôi, các số liê ̣u, kết quả
nghiên cứ u trong luâ ̣n văn là trung thực.
Thá i Nguyên, thá ng 4 năm 2016
Tá c giả luận văn
Cao Thị Nhung
XÁ C NHẬN
TRƯỞNG KHOA CÁN BỘ HƯỚ NG DẪN
PGS.TS. Đàm Thị Uyên PGS.TS. Hà Thi ̣ Thu Thuỷ
i
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
LỜI CẢM ƠN
Luận văn này được hoàn thành với sự giúp đỡ của các cơ quan: Sở Văn hóa
Thể thao và Du lịch tỉnh Lạng Sơn; Phòng Thống kê, Phòng Văn hóa Thể thao và Du
lịch huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn; Ủy ban nhân dân huyện Sơn Động, tỉnh Bắc
Giang đã giúp đỡ tôi trong quá trình khảo sát thực tế tại địa phương.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS. TS. Đàm Thị Uyên cùng các thầy
cô trong tổ Lịch sử Việt Nam – khoa Lịch sử trường Đại học Sư phạm – Đại học Thái
Nguyên đã chỉ bảo tận tình, động viên, khích lệ tôi trong thời gian học tập và hoàn
thành luận văn.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới bạn bè, đồng nghiệp và những
người thân trong gia đình đã giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và hoàn thành
luận văn
Thái Nguyên, tháng 4 năm 2016
Tác giả luận văn
Cao Thị Nhung
ii
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
MỤC LỤC
Lời cam đoan .................................................................................................................. i
Lời cảm ơn ..................................................................................................................... ii
Mục lục ........................................................................................................................ iii
Danh mục các chữ viết tắt ............................................................................................. iv
Danh mục các bảng ........................................................................................................ v
Danh mục các biểu đồ ................................................................................................... vi
MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1
1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ................................................................................ 2
3. Mục đích, đối tượng, phạm vi nghiên cứu ....................................................... 5
4. Nguồn tư liệu của đề tài .................................................................................... 5
5. Phương pháp nghiên cứu .................................................................................. 6
6. Đóng góp của đề tài .......................................................................................... 6
7. Cấu trúc của đề tài ............................................................................................ 7
Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ HUYỆN YÊN BÁC TỈNH LẠNG SƠN ........ 8
1.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên .................................................................. 8
1.1.1. Vị trí địa lý .................................................................................................. 8
1.1.2. Điều kiện tự nhiên ...................................................................................... 9
1.2. Dựng đặt và diên cách huyện Yên Bác .......................................................15
1.3. Các thành phần dân tộc trong huyện ...........................................................19
1.4. Tình hình chính trị - xã hội và văn hóa .......................................................26
1.4.1. Tình hình chính trị - xã hội .......................................................................26
1.4.2. Tình hình văn hóa .....................................................................................29
Chương 2: TÌNH HÌNH RUỘNG ĐẤT HUYỆN YÊN BÁ C TỈNH LẠNG SƠN NỬA ĐẦU THẾ KỶ XIX ...........................................................36
2.1. Vài nét về đi ̣a ba ̣ của huyện Yên Bác ..........................................................36
2.2. Yên Bác qua tư liệu địa bạ Gia Long 4 (1805)............................................42
iii
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 2.2.1. Tình hình ruộng đất huyện Yên Bác theo tư liệu địa bạ Gia Long 4 (1805) ....42
2.2.2. Tình hình sở hữu ruộng đất tư ..................................................................44
2.3. Yên Bác qua tư liệu địa bạ Minh Mệnh 21 (1840) ......................................54
2.3.1. Tình hình ruộng đất huyện Yên Bác theo tư liệu địa bạ Minh
Mệnh 21 (1840) .................................................................................................54
2.3.2. Tình hình sở hữu ruộng đất tư ..................................................................56
2.4. So sánh tình hình ruộng đất huyện Yên Bác nửa đầu thế kỷ XIX theo
địa bạ năm Gia Long 4 (1805) và địa bạ năm Minh Mệnh 21 (1840) ...............62
Chương 3: KINH TẾ NÔNG NGHIỆP HUYỆN YÊN BÁC TỈNH
LẠNG SƠN NỬA ĐẦU THẾ KỶ XIX ...........................................................72
3.1. Kinh tế .........................................................................................................72
3.1.1. Trồng trọt ..................................................................................................72
3.1.2. Chăn nuôi ..................................................................................................79
3.1.3. Kinh tế tự nhiên ........................................................................................81
3.2. Tô thuế .........................................................................................................83
3.3. Tín ngưỡng nông nghiệp .............................................................................86
KẾT LUẬN ........................................................................................................92
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................94
PHỤ LỤC
iv
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ĐHSP : Đại học Sư phạm
GD : Giáo dục
Gs : Giáo sư
KHXH : Khoa học Xã hội
M.s.th.t : Mẫu, sào, thước, tấc
Ví dụ: 3 mẫu 9 sào 10 thước 5 tấc 0 phân sẽ được viết tắt là 3.9.10.5.0
Nxb : Nhà xuất bản
PGS : Phó giáo sư
Tr : Trang
TS : Tiến sĩ
TTLTQG I : Trung tâm lưu trữ Quốc gia I
iv
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1: Thống kê tình hình ruộng đất huyện Yên Bác theo địa bạ Gia Long 4 (1805) ... 43
Bảng 2.2: Quy mô sở hữu ruộng tư theo địa bạ Gia Long 4 (1805) ............................ 44
Bảng 2.3: Bình quân sở hữu và bình quân thửa ........................................................... 46
Bảng 2.4: Sở hữu ruộng đất của phụ canh ................................................................... 47
Bảng 2.5: Quy mô sở hữu ruộng đất theo các nhóm họ năm 1805 ............................. 50
Bảng 2.6: Diện tích ruộng đất của các chức sắc (1805) .............................................. 52
Bảng 2.7: Sở hữu ruộng đất của các chức sắc ............................................................. 53
Bảng 2.8: Thống kê tình hình ruộng đất huyện Yên Bác qua địa bạ Minh Mệnh
21 (1840) .................................................................................................... 55
Bảng 2.9: Quy mô sở hữu ruộng tư theo địa bạ Minh Mệnh (1840) ........................... 56
Bảng 2.10: Bình quân sở hữu và bình quân thửa ......................................................... 57
Bảng 2.11: Quy mô sở hữu ruộng đất theo các nhóm họ năm 1840 ........................... 59
Bảng 2.12: Diện tích ruộng đất của các chức sắc (1840) ............................................ 61
Bảng 2.13: Quy mô sở hữu ruộng đất của các chức sắc theo địa bạ Minh Mệnh 21 (1840) ... 62
Bảng 2.14: Thống kê địa bạ của 12 xã có địa bạ có ở hai thời điểm 1805 và 1840 .... 63
Bảng 2.15: So sánh quy mô sở hữu ruộng đất ở hai thời điểm 1805 và 1840 ............. 63
Bảng 2.16: So sánh quy mô sở hữu ruộng đất của các dòng họ của 12 xã có địa
bạ ở hai thời điểm (1805 và 1840) ............................................................. 68
Bảng 2.17: So sánh tình hình sở hữu của các chức sắc của 12 xã có địa bạ lập ở
hai thời điểm (1805 và 1840) ..................................................................... 70
v
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
DANH MỤC CÁC BIỂU
Biểu đồ 2.1: Quy mô sở hữu ruộng tư của huyện Yên Bác năm 1805 ........................ 45 Biểu đồ 2.2: Quy mô sở hữu ruộng tư của huyện Yên Bác năm 1840 ........................ 57 Biểu đồ 2.3: Quy mô sở hữu ruộng đất của Yên Bác tại thời điểm 1805 và 1840 ...... 65
vi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Theo Luật đất đai năm 1993 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam:
“Đất đai là tài nguyên vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là thành phần
quan trọng hàng đầu của môi trường sống, là địa bàn phân bố các khu dân cư, xây
dựng các cơ sở kinh tế, văn hoá xã hội, an ninh quốc phòng”. Thật vậy, đất đai chính
là một món quà vô giá mà con người được thiên nhiên ban tặng. Nó đóng vai trò là
một trong những yếu tố to lớn quyết định sự tồn vong của mỗi quốc gia, dân tộc trên
thế giới nói chung và ở phương Đông nói riêng, trong đó có Việt Nam. Ở nước ta, đại đa
số cư dân sống chủ yếu bằng nghề trồng lúa, cho nên ruộng đất càng trở nên quan trọng
và quý giá hơn. Dân tộc Việt Nam không phải cho đến ngày nay mới được khẳng định
được tầm quan trọng ấy mà điều đó đã được chứng minh xuyên suốt trong cả chiều dài
lịch sử dân tộc.Với đặc điểm là một nước nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa, được
hưởng những ưu đãi mà thiên nhiên mang lại, có nhiều điều kiện thuận lợi cho việc phát
triển kinh tế nông nghiệp, ông cha ta từ thủa xa xưa đã biết gắn cuộc sống của mình với
ruộng đất, với nền nông nghiệp trồng lúa nước lâu đời. Do đó, ruộng đất và kinh tế nông
nghiệp luôn là một vấn đề quan trọng trong xã hội Việt Nam.
Trong thời kỳ phong kiến, các vương triều phong kiến Việt Nam nói chung và
vương triều Nguyễn nói riêng đều coi vấn đề ruộng đất có tầm quan trọng đặc biệt.
Bởi lẽ nhà nước quân chủ chuyên chế trung ương tập quyền có nắm chắc được ruộng
đất mới có cơ sở để thu tô thuế. Cùng với ruộng đất thì các vấn đề về thủy lợi, tập
quán sản xuất, sinh hoạt văn hóa, các mối quan hệ xã hội, cũng như sự phân hóa giai
cấp trong làng xã… là các yếu tố góp phần phản ánh tình hình kinh tế, xã hội của
nước ta qua các triều đại. Qua việc nghiên cứu tình hình ruộng đất và kinh tế nông
nghiệp sẽ giúp chúng ta hiểu biết rõ hơn về chính sách ruộng đất và thực trạng nông
nghiệp của từng địa phương. Từ đó góp phần giúp Nhà nước đề ra những biện pháp
khắc phục và phát triển cho phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh của từng vùng, miền
trên đất nước.
Yên Bác là một huyện nằm ở phía Đông Nam của tỉnh Lạng Sơn – nơi địa đầu
Tổ quốc. Vốn có truyền thống lịch sử và văn hóa lâu đời, cùng với vị trí địa lý là một
huyện miền núi biên giới phía Bắc, Yên Bác là nơi hội tụ của nhiều dân tộc anh em từ
các nơi khác đến. Họ cùng nhau chung sống hòa thuận, lao động cần cù, chịu khó,
1
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn chống giặc ngoại xâm, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Nghiên cứu về tình hình ruộng đất và kinh tế nông nghiệp huyện Yên Bác, tỉnh
Lạng Sơn nửa đầu thế kỷ XIX sẽ góp phần khôi phục lại bức tranh lịch sử về đời sống
kinh tế, chính trị, xã hội cũng như văn hóa của con người nơi đây. Đồng thời đóng
góp thêm những cơ sở khoa học góp phần vào việc thực hiện chính sách của Đảng,
Nhà nước trong đầu tư phát triển kinh tế, xã hội các tỉnh trung du miền núi phía Bắc
nói chung và huyện Yên Bác, tỉnh Lạng Sơn nói riêng trong giai đoạn hiện nay của
đất nước.
Việc tìm hiểu tình hình ruộng đất và kinh tế nông nghiệp tại một huyện miền
núi xa xôi của Tổ quốc trong một thời kỳ lịch sử cụ thể sẽ góp phần nhỏ đối với công
tác nghiên cứu lịch sử nói chung - ruộng đất nói riêng.
Từ việc tìm hiểu về tình hình ruộng đất và kinh tế nông nghiệp ở huyện Yên
Bác tỉnh Lạng Sơn nửa đầu thế kỉ XIX, chúng tôi hi vọng sẽ tái hiện được phần nào
bức tranh làng xã nơi đây.
Từ những lý do trên, chúng tôi quyết định chọn vấn đề: “Tình hình ruộng đất
và kinh tế nông nghiệp huyện Yên Bác tỉnh Lạng Sơn nửa đầu thế kỷ XIX” làm đề tài
luận văn thạc sĩ của mình
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Nghiên cứu về tình hình ruộng đất và kinh tế nông nghiệp của các triều đại
phong kiến Việt Nam nói chung và của triều Nguyễn nói riêng từ lâu đã thu hút được
nhiều sự quan tâm, chú ý của giới sử học.
Trong những năm cuối thập kỷ 50 và đầu thập kỷ 60 của thế kỷ XX, ở nước ta
xuất hiện nhiều công trình nghiên cứu, trong đó tiêu biểu là cuốn “Chế độ ruộng đất
và kinh tế nông nghiệp thời Lê sơ” của tác giả Phan Huy Lê do Nhà xuất bản Văn Sử
Địa, Hà Nội xuất bản năm 1959, gồm 214 trang. Cuốn sách này tập trung vào việc
trình bày những nét lớn về chính sách ruộng đất, nông nghiệp của nhà Lê sơ thế kỷ XV.
Kể từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, đây là cuốn sách đầu tiên chuyên về đề tài
này của giới nghiên cứu dựa trên cơ sở các bộ sử cũ của các sử gia phong kiến. Mặc dù
cuốn sách không đề cập đến tình hình ruộng đất và kinh tế nông nghiệp huyện Yên Bác
tỉnh Lạng Sơn nửa đầu thế kỷ XIX nhưng đây là một trong những tài liệu quan trọng để
chúng tôi so sánh đối chiếu giữa các thời kỳ trong quá trình nghiên cứu.
Tiếp theo, từ những năm cuối thập kỷ 70 và đầu thập kỷ 80 đến nay, nhiều
2
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn công trình nghiên cứu với quy mô lớn hơn trước xuất hiện, đã đánh dấu bước tiến mới
trong việc nghiên cứu vấn đề ruộng đất.
Trong tác phẩm “Tìm hiểu chế độ ruộng đất Việt Nam nửa đầu thế kỷ XIX”
của tác giả Vũ Huy Phúc, do Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội xuất bản năm
1979. Trong tác phẩm này, tác giả đã hệ thống hóa những chính sách lớn về ruộng đất
của nhà Nguyễn, các thiết chế và cơ cấu ruộng đất được hình thành từ chính sách đó,
đồng thời nêu ra những tác động và hậu quả của nó đối với yêu cầu phát triển của lịch
sử. Nội dung của tác phẩm không trực tiếp đề cập đến huyện Yên Bác, tỉnh Lạng Sơn
nhưng đây là một trong những tài liệu quan trọng giúp chúng tôi tìm hiểu về chế độ
ruộng đất của Việt Nam trong nửa đầu thế kỷ XIX.
Cuốn sách “Chế độ ruộng đất ở Việt Nam thế kỷ XI – XVIII” của tác giả
Trương Hữu Quýnh do nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội xuất bản. Cuốn sách
gồm 2 tập được xuất bản lần lượt vào năm 1982 và năm 1983. Tập 1 của cuốn sách
gồm 3 chương. Chương 1, tác giả nêu khung cảnh xã hội Đại Việt ở các thế kỷ XI –
XV, chương 2 trình bày chế độ ruộng đất ở các thế kỷ XI – XIV và chương 3 tác giả
trình bày diễn biến của chế độ ruộng đất của thế kỷ XV. Tập 2 của cuốn sách cũng
gồm 3 chương. Chương 1, tác giả nêu khung cảnh xã hội Việt Nam ở các thế kỷ XVI
– XVIII, chương 2 trình bày tình hình ruộng đất ở các thế kỷ XVI – XVII và chương
3 trình bày ruộng đất ở Đàng Ngoài nửa đầu thế kỷ XVIII. Qua đó, cuốn sách đã thể
hiện những nét chính về sự tiến triển của chế độ ruộng đất ở nước ta từ thế kỷ XI đến
thế kỷ XVIII, bước đầu vạch ra xu thế phát triển chủ yếu và tính chất kinh tế - xã hội
của nó. Cuốn sách được dựa trên cơ sở là các nguồn tư liệu phong phú bao gồm các
bộ chính sử và các nguồn tư liệu địa phương (văn bia, gia phả…). Cuốn sách tuy chưa
đề cập đến tình hình ruộng đất huyện Yên Bác, nhưng là tư liệu quan trọng để so sánh
chế độ ruộng đất ở Yên Bác nửa đầu thế kỷ XIX với các giai đoạn lịch sử trước.
Bên cạnh đó, tác phẩm “Tình hình ruộng đất nông nghiệp và đời sống nông
dân dưới triều Nguyễn” do Trương Hữu Quýnh và Đỗ Bang chủ biên, được Nhà xuất
bản Thuận Hóa, Huế xuất bản năm 1997. Các tác giả đã nghiên cứu một cách cụ thể,
rõ nét về các chính sách ruộng đất và nông nghiệp triều Nguyễn thông qua tài liệu địa
bạ. Đây là một trong những tài liệu quý giá giúp chúng tôi tìm hiểu về huyện Yên Bác
nửa đầu thế kỷ XIX thông qua tình hình ruộng đất nông nghiệp và đời sống nông dân
dưới triều Nguyễn.
3
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Trong việc tiến hành nghiên cứu nguồn tư liệu địa bạ ở các tỉnh phía Nam, tác
giả Nguyễn Đình Đầu đã công bố nhiều công trình có giá trị, tiêu biểu là cuốn “Chế
độ công điền công thổ trong lịch sử khẩn hoang lập ấp ở Nam kì lục tỉnh” do Nhà
xuất bản Trẻ xuất bản năm 1992, gồm 225 trang. Cuốn sách trình bày khá chi tiết vai trò
của nguồn tư liệu địa bạ và chế độ công điền công thổ trong quá trình khai hoang, lập ấp
ở Nam Kỳ. Qua đó giúp chúng tôi có thêm nguồn tư liệu để so sánh khi tìm hiểu về tình
hình ruộng đất và kinh tế nông nghiệp của huyện Yên Bác nửa đầu thế kỷ XIX.
Cuốn sách “Địa chí tỉnh Lạng Sơn” của Ủy ban nhân dân tỉnh Lạng Sơn, do
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia xuất bản năm 1999. Cuốn sách đã trình bày về vị trí địa
lý, lịch sử, địa giới, kinh tế, văn hóa, xã hội của cả tỉnh Lạng Sơn và các huyện trên địa
bàn tỉnh. Cuốn sách là một trong những tài liệu quan trọng giúp chúng tôi tìm hiểu một
cách khái quát những đặc điểm về lịch sử, vùng đất và con người huyện Yên Bác.
Cuốn sách“Thổ ty Lạng Sơn trong lịch sử” của tác giả Nguyễn Quang Huynh,
do Nhà xuất bản Văn hóa dân tộc, Hà Nội xuất bản năm 2011. Cuốn sách đã khái
quát về chế độ thổ ty trong lịch sử. Đồng thời trình bày vai trò, vị trí của các dòng họ
phiên thần, thổ ty ở Lạng Sơn đối với quê hương, đất nước. Đây là cuốn sách có giá
trị quan trọng giúp chúng tôi tìm hiểu chế độ thổ ty ở huyện Yên Bác trong lịch sử.
Ngoài ra còn có một số luận án có nội dung liên quan đến vấn đề ruộng đất.
Luận án “Công cuộc khẩn hoang thành lập huyện Kim Sơn (1829)” , Khoa
Lịch sử - Đại học sư phạm Hà Nội, 1999 của tác giả Đào Tố Uyên. Luận án đã chỉ ra
những điểm cơ bản và diễn biến của chế độ ruộng đất ở huyện Kim Sơn nửa đầu thế
kỷ XIX. Qua đó giúp chúng tôi có thêm tư liệu để so sánh khi nghiên cứu về tình hình
ruộng đất và kinh tế nông nghiệp huyện Yên Bác, tỉnh Lạng Sơn nửa đầu thế kỷ XIX.
Luận án “Chế độ ruộng đất và kinh tế nông nghiệp Việt Nam nửa đầu thế kỷ
XIX”, Đại học Tổng hợp Hà Nội, 1991 của tác giả Vũ Văn Quân. Luận án đã nghiên
cứu khá rõ nét về ruộng đất và kinh tế nông nghiệp nước ta nửa đầu thế kỷ XIX. Đây
cũng là một trong những tài liệu quan trọng khi nghiên cứu về tình hình ruộng đất và
kinh tế nông nghiệp huyện Yên Bác tỉnh Lạng Sơn nửa đầu thế kỷ XIX.
Luận án “Huyện Quảng Hòa (tỉnh Cao Bằng) từ khi thành lập đến giữa thế kỷ
XIX” của tác giả Đàm Thị Uyên do Nhà xuất bản Chính trị quốc gia xuất bản năm
2011. Luận án đã trình bày khái quát về vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, dân cư và
kinh tế xã hội của huyện Quảng Hòa, tỉnh Cao Bằng. Đồng thời, luận án cũng làm rõ
tình hình kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của huyện từ khi thành lập đến giữa thế kỷ
4
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn XIX. Đặc biệt, tác giả còn đi sâu nghiên cứu vấn đề ruộng đất và kinh tế nông nghiệp
huyện Quảng Hòa dưới triều Nguyễn. Luận án có đóng góp quan trọng trong việc
nghiên cứu vấn đề ruộng đất và kinh tế nông nghiệp miền núi, trong đó có huyện Yên
Bác, tỉnh Lạng Sơn.
Như vậy, cho đến nay chưa có một công trình nào đi sâu nghiên cứu “Tình
hình ruộng đất và kinh tế nông nghiệp huyện Yên Bác tỉnh Lạng Sơn nửa đầu thế kỷ
XIX”. Tuy vậy, các thành quả nghiên cứu của nhiều thế hệ đi trước chính là những ý
kiến gợi mở, những kinh nghiệm quý báu giúp chúng tôi có thể hoàn thành luận văn
thạc sĩ của mình.
3. Mục đích, đối tượng, phạm vi nghiên cứu
- Mục đích: Thực hiện đề tài “Tình hình ruộng đất và kinh tế nông nghiệp
huyện Yên Bác tỉnh Lạng Sơn nửa đầu thế kỷ XIX”, trên cơ sở các nguồn tư liệu khai
thác được, chúng tôi mong muốn góp phần phản ánh một cách khách quan, khoa học
về tình hình ruộng đất và kinh tế nông nghiệp huyện Yên Bác, tỉnh Lạng Sơn nửa đầu
thế kỷ XIX. Trên cơ sở nghiên cứu, tác giả đưa ra một số nhận xét về tình hình ruộng
đất và kinh tế nông nghiệp của huyện vào nửa đầu thế kỷ XIX.
- Đối tượng nghiên cứu: Tình hình ruộng đất và kinh tế nông nghiệp huyện
Yên Bác tỉnh Lạng Sơn nửa đầu thế kỷ XIX.
- Phạm vi nghiên cứu:
Phạm vi nội dung: Luận văn đề cập đến các vấn đề: Vị trí địa lý, điều kiện tự
nhiên, dân cư, đặc điểm kinh tế - xã hội của huyện trong quá khứ và hiện tại. Nội
dung chính cần làm rõ là tình hình sở hữu ruộng đất và kinh tế nông nghiệp của
huyện Yên Bác, tỉnh Lạng Sơn nửa đầu thế kỷ XIX.
Phạm vi thời gian: Nửa đầu thế kỷ XIX.
Phạm vi không gian: Các tổng, xã, thôn của huyện Yên Bác, tỉnh Lạng Sơn
nửa đầu thế kỷ XIX
4. Nguồn tư liệu của đề tài
- Thư tịch cổ: Các cuốn sách có đề cập đến nội dung nghiên cứu như: Đại Nam
nhất thống chí, Đại Nam thực lục, Đồng Khánh địa dư chí, Khâm định Đại Nam hội
điển sự lệ, Lịch triều hiến chương loại chí, Khâm định Việt sử Thông giám cương
mục,Vân đài loại ngữ …
Tiếp theo đó là các tài liệu nghiên cứu về ruộng đất và kinh tế nông nghiệp
5
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn như: Chế độ ruộng đất và kinh tế nông nghiệp thời Lê sơ, Địa bạ Hà Đông của Phan
Huy Lê và P.Brocheux, Tìm hiểu chế độ ruộng đất Việt Nam nửa đầu thế kỷ XIX của
Vũ Huy Phúc, Chế độ ruộng đất ở Việt Nam thế kỷ XI – XVIII của Trương Hữu
Quýnh, Tình hình ruộng đất, nông nghiệp và đời sống nông dân dưới triều Nguyễn
của Trương Hữu Quýnh và Đỗ Bang, Chế độ công điền công thổ trong lịch sử khẩn
hoang lập ấp ở Nam kì lục tỉnh (1992) của Nguyễn Đình Đầu, các luận án về ruộng
đất các tác giả Đào Tố Uyên, Đàm Thị Uyên, Vũ Văn Quân, Bùi Quý Lộ…
- Nguồn tư liệu địa phương: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Lạng Sơn, Địa chí tỉnh Lạng
Sơn, Thổ ty Lạng Sơn trong lịch sử, Địa chí tỉnh Bắc Giang…
- Nguồn tư liệu địa bạ: 17 địa bạ có niên đại Gia Long 4 (1805) và 13 địa bạ
có niên đại Minh Mệnh 21 (1840) của huyện được khai thác tại Trung tâm lưu trữ
Quốc gia I (Hà Nội). Đây là cơ sở quan trọng để tôi nghiên cứu và khôi phục lại bức
tranh làng xã huyện Yên Bác, tỉnh Lạng Sơn nửa đầu thế kỷ XIX.
- Nguồn tư liệu thực địa và điền dã: Thực hiện đề tài này, chúng tôi tiến hành
các cuộc thực địa tại huyện Yên Bác, quan sát địa hình, cảnh quan, tổ chức, hành
chính, đời sống văn hóa, xã hội… của nhân dân địa phương. Ngoài ra, còn có các tài
liệu truyền miệng, truyện kể, truyền thuyết, ca dao, tục ngữ địa phương… có đề cập
đến vấn đề ruộng đất và kinh tế nông nghiệp của huyện trong nửa đầu thế kỷ XIX.
5. Phương pháp nghiên cứu
Thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng phương pháp lịch sử và phương pháp
lôgic làm trọng tâm. Bên cạnh đó, đề tài được thực hiện dựa trên cơ sở thực tế là
nguồn tư liệu địa bạ triều Nguyễn, chúng tôi chú trọng đến khâu giám định, biên dịch
tư liệu chữ Hán, kết hợp với phân tích, định lượng để bóc tách và xử lý số liệu. Qua
đó, tiến hành so sánh, đối chiếu với các tư liệu khác có liên quan nhằm tìm hiểu chính
xác tình hình ruộng đất và kinh tế nông nghiệp của huyện Yên Bác. Đồng thời, việc
sử dụng các phương pháp nghiên cứu của khoa học xã hội và nhân văn như phương
pháp thống kê, đối sánh, phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương
pháp phân loại, phương pháp phê phán tư liệu… giúp chúng tôi làm rõ vấn đề nghiên
cứu của mình.
6. Đóng góp của đề tài
- Đề tài “Tình hình ruộng đất và kinh tế nông nghiệp huyện Yên Bác tỉnh
Lạng Sơn nửa đầu thế kỷ XIX” được thực hiện sẽ góp phần làm rõ tình hình ruộng đát
6
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn của huyện Yên Bác. Đồng thời, góp phần khôi phục lại phần nào bức tranh làng xã
huyện Yên Bác, tỉnh Lạng Sơn nửa đầu thế kỷ XIX.
- Đề tài góp phần tìm hiểu phong tục tập quán liên quan đến ruộng đất và nông
nghiệp của đồng bào các dân tộc huyện Yên Bác, tỉnh Lạng Sơn nửa đầu thế kỷ XIX.
- Đề tài lần đầu tiên công bố 30 tập địa bạ của huyện Yên Bác được khai thác
tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I Hà Nội. Trên cơ sở khai thác nguồn địa bạ cùng với
so sánh, đối chiếu về ruộng đất công, tư qua hai thời điểm 1805, 1840 đã rút ra một số
nhận xét bước đầu về tình hình ruộng đất của huyện Yên Bác nửa đầu thế kỷ XIX.
Qua đó góp thêm những gợi ý cho Sở Nông nghiệp, Sở Địa chính trong cách thức
quản lý đất đai.
- Đề tài cung cấp thêm những tư liệu có thể tham khảo trong nghiên cứu và
giảng dạy về vùng đất huyện Yên Bác, tỉnh Lạng Sơn.
7. Cấu trúc của đề tài
Đề tài được chia làm 3 phần: phần mở đầu, phần nội dung và phần kết luận.
Ngoài ra còn có tài liệu tham khảo và phần phụ lục.
Phần nội dung được chia làm 3 chương:
Chương 1: Khái quát về huyện Yên Bác, tỉnh Lạng Sơn
Chương 2: Tình hình ruộng đất ở huyện Yên Bác nửa đầu thế kỷ XIX
Chương 3: Kinh tế nông nghiệp huyện Yên Bác tỉnh Lạng Sơn nửa đầu thế kỷ XIX
7
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Chương 1
KHÁI QUÁT VỀ HUYỆN YÊN BÁC TỈNH LẠNG SƠN
1.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên
1.1.1. Vị trí địa lý
Yên Bác là một huyện miền núi, nằm ở phía Đông Nam của tỉnh Lạng Sơn.
Địa giới của huyện vào nửa đầu thế kỷ XIX đã được sách Đại Nam nhất thống chí
chép lại như sau: “Cách phủ 55 dặm về phía nam, đông tây cách nhau 58 dặm, nam
bắc cách nhau 98 dặm, phía đông đến địa giới châu Tiên Yên tỉnh Quảng Yên 25
dặm, phía tây đến địa giới châu Ôn 33 dặm, phía nam đến địa giới huyện Hoành Bồ
tỉnh Quảng Yên và địa giới huyện Lục Ngạn tỉnh Bắc Ninh 60 dặm, phía bắc đến địa
giới huyện Lộc Bình 38 dặm” [40, tr. 429-430].
Sách Đồng Khánh địa dư chí cũng có miêu tả chi tiết về vị trí xưa của huyện
Yên Bác: “Huyện lỵ ở phía đông thành tỉnh. Nguyên trước đóng ở phố Na Dương
tổng Đông Quan. (Sau khi bị phỉ cướp phá, không xây dựng lại, mà phố này thì dân
lưu tán không rõ tung tích). Phía nam giáp sơn phận huyện Lục Ngạn tỉnh Bắc Ninh.
Phía bắc giáp châu Lộc Bình và châu Tiên Yên tỉnh Quảng Yên. Phía đông giáp
huyện Hoành Bồ và châu Tiên Yên tỉnh Quảng Yên và huyện Đông Triều tỉnh Hải
Dương. Phía tây giáp địa phận châu Ôn. Từ địa giới phía nam ở xã Yên Động lên địa
giới phía bắc ở xã Sằn Viên, đi khoảng 2 ngày rưỡi. Từ địa giới phía đông ở xã Diên
Lạc sang địa giới phía tây ở xã Xuân Dương, đi khoảng 1 ngày” [55, tr. 619].
Theo cuốn Đất nước Việt Nam qua các đời: “Thời thuộc Pháp, huyện Yên
Bác, sau là huyện Sơn Động, đổi lệ vào tỉnh Bắc Giang mới đặt năm 1895” [1, tr.
219], “… tách huyện Yên Bác tỉnh Lạng Sơn về đặt làm châu Sơn Động…” [1, tr.
217]. Tuy nhiên, trong cuốn Địa danh và tài liệu lưu trữ về làng xã Bắc-Kỳ ghi chép
địa giới hành chính vào cuối thế kỷ XIX trở về trước và bản đồ hành chính hiện nay
thì còn một số xã (Quan Bản, Đông Quan, Sàn Viên, Lợi Bác, Xuân Dương, Lâm Ca,
Thái Bình) của huyện Yên Bác xưa hiện nay vẫn thuộc địa phận tỉnh Lạng Sơn.
Trải qua những biến động về lịch sử hành chính, địa giới của huyện Yên Bác cũng có những thay đổi. Hiện nay, huyện Yên Bác có diện tích khoảng 696 km2, nằm trong khoảng tọa độ địa lý 21018’ vĩ độ Bắc, 106049’ kinh độ Đông. Theo cuốn Địa
danh và tài liệu lưu trữ về làng xã Bắc-Kỳ, địa giới của Yên Bác hiện nay, một phần
8
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn thuộc địa phận huyện Sơn Động, tỉnh Bắc Giang gồm 8 xã: Phúc Thắng, Vĩnh
Khương, Hữu Sản, Lệ Viễn, An Bá, An Châu, Thái Bình, Lâm Ca (thuộc tổng Yên
Châu, Thái Bình, Lệ Viễn xưa) [19, tr. 46-48]; một phần thuộc địa phận huyện Lộc
Bình, tỉnh Lạng Sơn gồm 5 xã: Quan Bản, Đông Quan, Sàn Viên, Lợi Bác, Xuân
Dương (thuộc tổng Đông Quan xưa) [19, tr. 527-531]. Theo bản đồ hành chính hiện
nay, địa giới của Yên Bác, một phần thuộc địa phận huyện Sơn Động, tỉnh Bắc Giang
gồm thị trấn An Châu và 6 xã: Phúc Thắng, Vĩnh Khương, Hữu Sản, Lệ Viễn, An Bá,
An Châu (thuộc tổng Yên Châu, Lệ Viễn xưa); một phần thuộc địa phận huyện Lộc
Bình, tỉnh Lạng Sơn gồm 5 xã: Quan Bản, Đông Quan, Sàn Viên, Lợi Bác, Xuân
Dương (thuộc tổng Đông Quan xưa); một phần thuộc địa phận huyện Đình Lập, tỉnh
Lạng Sơn gồm 2 xã: Lâm Ca, Thái Bình (thuộc tổng Thái Bình xưa).
Với vị trí địa lý như vậy, Yên Bác luôn giữ vai trò là một vùng đất hiểm yếu,
có khả năng phát triển kinh tế - xã hội, là nơi giao lưu, trao đổi hàng hóa giữa các
vùng, tạo điều kiện thuận lợi cho cư dân tới đây làm ăn, sinh sống. Đồng thời thúc
đẩy quá trình tiếp xúc, giao thoa văn hóa giữa miền núi và đồng bằng.
1.1.2. Điều kiện tự nhiên
Yên Bác là huyện có cấu tạo địa chất lâu đời cách ngày nay hàng trăm triệu
năm, những hoạt động trong quá trình kiến tạo nhìn chung là hòa nhập với toàn bộ
khu vực Đông Bắc của Việt Nam và Trung Quốc. Địa hình tương đối phức tạp do
chịu tác động của các đợt vận động kiến tạo về địa lý, địa chất. Một phần Yên Bác
nằm trong vùng “máng trũng Thất Khê – Lộc Bình”. Nơi đây có nhiều cánh đồng
rộng như Lợi Bác – Na Dương. Địa hình dốc dần từ Đông Bắc xuống Tây Nam, độ
dốc khá lớn. Dạng địa hình chủ yếu là núi thấp và đồi. Ở các xã của Yên Bác thuộc
địa phận huyện Lộc Bình hiện nay nằm trong lưu vực sông Kỳ Cùng, độ cao trung
bình so với mặt nước biển 352m, địa hình chia thành 3 vùng rõ rệt: Vùng núi cao có
độ dốc > 200, chạy bao quanh huyện theo hình cánh cung, có độ cao trung bình từ 700
– 900m, trong đó có xã Lợi Bác; vùng đồi núi thấp có độ dốc từ 8 – 150, trong đó có
xã Quan Bản; và vùng thung lũng bằng gồm các xã chạy dọc theo Quốc Lộ 4B, một
phần chạy dọc theo sông Kỳ Cùng. Ở các xã thuộc địa phận huyện Sơn Động có độ
cao trung bình so với mặt nước biển là 450 m, độ dốc lớn, là đầu nguồn của sông Lục
Nam, ngoài ra còn có các cánh đồng nhỏ, hẹp nằm xen kẽ với những dải đồi núi. Sách
Đồng Khánh địa dư chí đã viết: “Yên Bác nhiều núi đất” [55, tr. 615]. “Các ngọn núi
9
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn đất liên tiếp nhau, đều chỉ do dân địa phương đặt ra tên gọi, không có núi nào nổi
tiếng” [55, tr. 620].
Yên Bác là huyện có nhiều sông, suối. Trên địa bàn huyện Sơn Động hiện nay
có một con sông chính chảy qua, đó là sông Lục Nam. Sông Lục Nam có nhiều tên
gọi: sông Minh Đức, sông Bè hay sông An Châu, sông Còng. Sách Đồng Khánh địa
dư chí chép: “Một sông nhỏ do các khe suối nhỏ ở hai tổng Lệ Viễn, Yên Châu huyện
Yên Bác hợp dòng chảy đến xã Yên Châu, gọi là sông Yên Châu, rồi chảy vào huyện
Lục Ngạn tỉnh Bắc Ninh” [55, tr. 598]. Sông Lục Nam bắt nguồn từ Đình Lập (Lạng
Sơn), chảy vào Sơn Động ở Hữu Sản qua địa phận Sơn Động dài khoảng 40km. Sông
Lục Nam hoà cùng núi rừng trùng điệp của vùng đông bắc tạo nên một thắng cảnh
hùng vĩ. Từ Hữu Sản đến Khe Rỗ (An Lạc), sông chảy theo hướng đông bắc – tây
nam, đến Lệ Viễn đổi hướng đông – tây chảy qua An Lập, An Châu, An Bá, Yên
Định rồi hợp lưu với ba nhánh sông khác, đó là:
Sông Rãng bắt nguồn từ xã Long Sơn chảy qua xã Dương Hưu, một phần xã
An Lạc, qua xã An Châu, gặp sông Lục Nam ở xã An Bá. Nhánh sông này dài
khoảng 26km.
Sông Cẩm Đàn, bắt nguồn từ khu vực 2 xã Thạch Sơn và Phúc Thắng, chảy
theo hướng Bắc Nam, dài 21 km, qua Yên Định và đổ về sông chính ở Cẩm Đàn.
Sông Tuấn Đạo hay còn gọi là sông Thanh Luận, bắt nguồn từ khu vực 2 xã
Thanh Sơn, Thanh Luận, dài 11 km.
Hiện tại, trên hệ thống sông Lục Nam đã xây dựng khoảng 170 công trình chủ
yếu là hồ, đập để phục vụ nước tưới cho các huyện: Sơn Động, Lục Ngạn, Lục Nam.
Lưu lượng nước hàng năm khoảng 1,86 tỷ m3. Ngoài ra, thác Ba Tầm tại xã Vĩnh
Khương, Sơn Động có nhiều cảnh đẹp và nguồn nước dồi dào.
Bên cạnh đó, trên địa bàn huyện Lộc Bình (bao gồm cả các xã của huyện Yên
Bác xưa: Quan Bản, Đông Quan, Lợi Bác, Sàn Viên, Xuân Dương) cũng nằm trong
hệ thống lưu vực sông Kỳ Cùng. Theo Đại Nam nhất thống chí: “Sông Kỳ Cùng cách
châu Lộc Bình 52 dặm về phía đông, phát nguyên từ ghềnh Trị Viện xã Đình Lập
châu Tiên Yên, tỉnh Quảng Yên, chảy quanh co 23 dặm làm sông Khuất Xá…” [40,
tr. 442]. Sách Đồng Khánh địa dư chí: “Ngoài ra, các khe suối khác ở hai tổng Thái
Bình và Đông Quan thì đổ vào sông Kỳ Cùng thuộc châu Lộc Bình” [55, tr. 620].
Đây là sông lớn nhất của tỉnh Lạng Sơn cũng như khu vực miền núi Đông Bắc nước
10
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn ta. Sông có chiều dài 243 km, diện tích lưu vực là 6.660 km2, trong đó phần nội tỉnh
là 6532 km2, chiếm gần 80% diện tích tự nhiên của Lạng Sơn.
Nhìn chung, mật độ sông suối của huyện khá dày, nhiều sông suối nhỏ phân bố
ở nhiều xã, có tác dụng bồi đắp tạo ra những loại đất phù sa ngòi suối khá màu mỡ
thích hợp với nhiều loại cây trồng. Ngoài tác dụng bồi đắp phù sa, tạo ra những cánh
đồng phù sa hẹp, hệ thống sông ngòi của huyện còn là nguồn cung cấp nước tưới cho
sản xuất nông nghiệp và cung cấp nước sinh hoạt cho nhân dân địa phương. Tuy
nhiên, phần lớn là đầu nguồn nên lòng sông, suối hẹp, độ dốc lớn, lưu lượng nước
hạn chế, đặc biệt về mùa khô. Mùa mưa, lượng nước mưa nhiều có thể gây ra tình
trạng sạt lở, ngập úng gây thiệt hại cho hoa màu. Điều này yêu cầu công tác thủy lợi
phải luôn được coi trọng. Sách Đại Nam nhất thống chí viết: “Lại xét Dư địa chí của
Nguyễn Trãi chép: thiên hạ có 29 xứ ác thủy mà Lạng Sơn chiếm 5: 1) Ôn Châu, 2)
Thoát Lãng, 3) Văn Lan, 4) Thất Nguyên, 5) Yên Bác.” [40, tr. 446].
Đất đai của huyện khá đa dạng, phong phú với nhiều loại đất được phân bố ở
cả địa hình bằng và địa hình dốc, cho phép phát triển hệ sinh thái nông – lâm nghiệp
với nhiều loại cây trồng có giá trị, từ cây lương thực như lúa và rau màu trên các dải
đất phù sa dọc theo các sông suối, đến việc khai thác đất dốc trồng các loại cây ăn
quả và cây lấy gỗ. Toàn huyện có các nhóm đất chính:
Nhóm đất phù sa (P), gồm: đất phù sa được bồi trung tính ít chua, đất phù sa
được bồi chua, đất phù sa ngòi suối. Phân bố thành các dải nhỏ ven các suối trong
huyện, tập trung nhiều ở An Châu, Quan Bản, Đông Quan, Sàn Viên… Nằm trên địa
hình bằng phẳng (độ dốc từ 0 - 80). Đây là loại đất chủ yếu để cấy lúa, trồng cây rau
màu, lương thực…
Nhóm đất đỏ vàng (F), gồm: đất đỏ vàng trên đất sét và biến chất (Fs), là loại
đất có diện tích lớn nhất, phân bố ở hầu hết các xã trên địa bàn huyện, thích hợp trồng
cây ăn quả; Đất vàng nhạt trên đá cát (Fq), diện tích nhỏ, nhưng khá tập trung, phân
bố trên địa bàn rộng, ở các khu vực núi cao và đồi có độ dốc lớn thuộc các xã An
Châu, Vĩnh Khương... Loại đất này chủ yếu thích hợp cho phát triển rừng, một số ít
diện tích có thể trồng cây ăn quả; Đất nâu vàng trên phù sa cổ (Fp), diện tích nhỏ,
phân bố nhiều ở các xã Đông Quan, Sàn Viên… thích hợp với nhiều loại cây trồng
như cây ăn quả và các loại cây hoa màu ngắn ngày; Đất đỏ vàng biến đổi do trồng lúa
nước (Fl), diện tích nhỏ, phân bố trên các sườn thấp, tập trung ở các xã Quan Bản,
11
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn Đông Quan, Xuân Dương, Hữu Sản, An Châu… thích hợp cho trồng lúa, tuy nhiên,
hiện nay đang bị thoái hóa, bạc màu.
Nhóm đất mùn vàng đỏ trên núi (H) gồm đất mùn vàng nhạt trên đá cát (Hq),
phân bố ở độ cao 900m trở lên, được sử dụng vào trồng rừng.
Nhóm đất thung lũng do sản phẩm dốc tụ (D), phân bố rải rác ở các xã Đông
Quan, Sàn Viên… thích hợp cho trồng 2 vụ lúa năng suất khá cao.
Yên Bác nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, có 2 mùa rõ rệt. Về mùa lạnh (mùa khô), từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau, nhiệt độ trung bình từ 120 – 150C, có những lúc nhiệt độ xuống đến 50C, thậm chí tới 00C và dưới 00C. Số ngày có
sương mù và mưa phùn tương ứng 44,3 ngày và 31 ngày trong năm. Gió mùa Đông
Bắc lạnh thấu xương thịt kéo dài. Về mùa nóng (mùa mưa), từ tháng 5 đến tháng 10, nhiệt độ trung bình cao nhất 270C. Biên độ nhiệt độ giữa ngày và đêm tương đối lớn.
Ngày nắng nóng nhưng khi mặt trời lặn, màn đêm buông xuống, sự hạ nhiệt lớn cũng
làm cho mọi người cảm thấy dễ chịu và khoan khoái. Độ ẩm vào mùa hè đạt 70 –
80%. Lượng mưa trung bình năm phổ biến là 1.200 – 1.600 mm. Bên cạnh thuận lợi
là ít chịu ảnh hưởng của bão thì huyện cũng chịu những tác động xấu từ hiện tượng
thời tiết sương mù, sương muối và mưa phùn. “Đất này rất lạnh, nhiều gió mùa đông
bắc. Trong các triền núi mây mù bao phủ cho đến gần trưa mới tan. Đến giờ thân, giờ
dậu mây mù lại che phủ như cũ. Bốn mùa chỉ ba tháng mùa hè sương mù mới giảm
đi. Vì vậy, dân ở đây phần nhiều cảm bệnh lam chướng. Từ cuối thu về sau phần
nhiều là sương muối. Các tháng mùa đông rất lạnh, thỉnh thoảng có băng tuyết. Ban
đêm đổ nước vào chậu, vào liễn để ra phía trên cao ngoài trời, sáng hôm sau nước
đóng băng dày đến 5-6 phân, có khi dày cả tấc. Chỉ ở vùng giáp nước Thanh mới có
như thế, nhưng cũng không thường thấy. Còn khí hậu nắng mưa theo nông lịch thì
vẫn bình thường như các nơi khác. Tháng 4 hoặc thượng tuần tháng 5 xuống cấy,
tháng 8, tháng 9 gặt thóc. Đó là do khí hậu lạnh rét nên không cấy muộn” [55, tr.
597]. “Địa thế trong huyện đều là núi đất, rộng rãi thoáng đãng, nhưng nhiều gió
đông bắc. Cuối mùa thu và mùa đông nhiều sương rất lạnh. Ngoài ra mưa nắng nông
lịch cũng giống như các châu huyện khác” [55, tr. 620].
Sách Đại Nam nhất thống chí cũng chép: “Bốn mùa thường âm u, hàng năm
giá rét chiếm quá một nửa, mùa xuân mùa hạ mưa nhiều, sấm chớp thường nổi; mùa
thu mùa đông thường nắng, lại có gió bấc; mùa đông giá rét, nước đông, sương
12
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn xuống. Mỗi năm chỉ cấy một mùa, đầu mùa hè gieo mạ, tháng 5 cấy, cuối mùa thu
mới gặt. Hang núi mây mù, thấp nhiệt nung nấu. Khoảng tháng 3 tháng 9, nóng lạnh
thay đổi, lam chướng lại càng nặng. Người địa phương thường lấy sấm, mưa và nước
lũ để nghiệm công việc làm ruộng (năm nào mưa vào ngày mồng 3 tháng 3 thì năm
ấy mất mùa ngô đậu; mưa vào ngày mồng 6 tháng 6 thì mất mùa lúa, nhân dân sinh
nhiều bệnh tật; tháng 10 mưa lũ, thì năm sau không có gạo ăn)” [40, tr. 433-434].
Điều kiện tự nhiên cũng đã góp phần hình thành nên hệ sinh thái đa dạng,
phong phú. Bên cạnh các giống cây trồng vật nuôi được tăng lên đáng kể thì chất
lượng rừng cũng ngày càng tăng, đặc biệt là diện tích rừng trồng có trữ lượng gỗ
chiếm đa số, rừng tái sinh… góp phần đảm bảo cung cấp hàng hóa lâm sản cho nhu
cầu xã hội, bảo vệ vốn rừng, môi trường sinh thái, bảo vệ đất chống xói mòn, hạn chế
thiệt hại do thiên tai gây ra. Động vật có nhiều loài như khỉ, hươu, nai, lợn rừng…
Hiện nay, công tác chú trọng phát triển các loại cây ăn quả có giá trị kinh tế cao,
trồng rừng theo chương trình 327, chương trình phủ xanh đất trống đồi núi trọc ngày
càng được tăng cường.
Ngoài ra, huyện còn có rất nhiều sản vật. “Vải thổ, lụa sống, giày thổ, trúc đá,
trúc thổ sơn, cây móc, gỗ kỉ: 7 thứ này, huyện nào cũng có” [40, tr. 463]. Ghi chép về
sản vật lụa, trên bia Thủy Môn Đình dựng năm Cảnh Trị bát niên (1670) có chép:
“Tham đốc Châu Yên (Yên Bác) tước Lan Xuyên hầu Vi Phúc Quốc góp công đức 2
súc lụa” [12, tr. 363]. “Hạt kim anh: các huyện đều có. Cây kim anh leo vào các cây
khác, hạt như hạt dành dành. Người bản thổ dùng để nấu cao, gọi là cao kim anh, có
công dụng ích dương cố tinh. Các huyện giáp tỉnh Cao Bằng đều có” [40, tr. 463].
“Tiên mao: sơn phận các huyện đều có. Bản thảo gọi là hạt mao trảo; lại có một tên là
sâm bà la môn, lá như cỏ gianh, củ có một chi mà thẳng, to bằng ngón tay út, có rễ
ngắn và nhỏ phụ ở bên ngoài, vỏ thò sắc thâm vàng, thịt trắng vàng. Tháng 2, tháng 8,
hái về phơi khô để dùng. Dùng lâu, thân thể sẽ được nhẹ nhàng, nhưng tính hàn mới
nên dùng. Người thân thể phì nộn, chân hỏa vượng mà dùng thì lại có hại, vì tiên mao
có tính động hỏa” [40, tr. 464].
Về khoáng sản, Sách Đồng Khánh địa dư chí chép: rải rác các nơi trong bảy
châu huyện đều có [quặng vàng, quặng sắt] [55, tr. 597]. “Khoáng sản thì có mỏ
vàng, mỏ sắt” [55, tr. 615]. “Trước có mỏ vàng ở phố Na Dương, nay không còn”
[55, tr. 620], “mỏ vàng có ở Xuân Dương, nay bỏ” [40, tr. 463]. Ngoài ra còn có
13
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn đồng, chì, sắt, kẽm... nhưng số lượng ít. Nhìn chung, tài nguyên khoáng sản của
huyện nghèo cả về chủng loại và trữ lượng.
Hệ thống giao thông từng bước được cải thiện, đáp ứng nhu cầu đi lại, giao
lưu, vận chuyển hàng hóa trong huyện và giữa huyện Yên Bác với các vùng lân cận.
“Một đường nhỏ từ huyện lỵ cũ đi về phía đông nam, qua các tổng Thái Bình, Lệ
Viễn, qua đồn Yên Châu đến giáp địa phận huyện Lục Ngạn tỉnh Bắc Ninh, đi
khoảng 2 ngày. Một đường nhỏ từ huyện lỵ đi về phía bắc đến giáp địa phận châu
Lộc Bình, đi khoảng 2 giờ thìn. Một đường nhỏ từ huyện lỵ đi về phía tây nam, qua
các xã Đông Quan, Xuân Dương, đến giáp địa phận huyện Lục Ngạn tỉnh Bắc Ninh,
đi khoảng nửa ngày. Một đường nhỏ từ huyện lỵ đi về phía đông, qua xã Sằn Viên
đến giáp địa phận châu Tiên Yên tỉnh Quảng Yên, đi khoảng 1 ngày. Một đường nhỏ
từ đồn Yên Châu đến giáp giới huyện Hoành Bồ tỉnh Quảng Yên, đi khoảng 1 ngày”
[55, tr. 620]. “Một đường nhỏ từ thành tỉnh đi về phía đông, qua đồn Đồng Bộc
chuyển về phía đông nam, qua các đồn bảo ở Na Dương, Yên Châu huyện Yên Bác
đến giáp giới tỉnh Quảng Yên, đường núi qua các khe suối quanh co, đi mất khoảng 4
ngày rưỡi” [55, tr. 598]. “Một đường nhỏ từ phủ lỵ đi về phía đông, qua 2 tổng Sơn
Trang, Vân Thê đến đồn Đồng Bộc châu Lộc Bình, đi khoảng 1 ngày rưỡi. Lại từ đồn
Đồng Bộc châu Lộc Bình đi về phía đông rồi chuyển về phía đông nam đến đồn Na
Dương huyện Yên Bác, đi khoảng 1 ngày đường. Lại từ đồn Na Dương qua đồn Yên
Châu đến giáp địa giới huyện Lục Ngạn tỉnh Bắc Ninh, đi khoảng 1 ngày [55, tr. 616].
Gắn liền với hoạt động kinh tế, xã hội, quân sự của huyện có một số địa điểm
như về cửa quan và tấn sở có “bảo An Châu: cách huyện Yên Bác 60 dặm về phía
nam ở xã An Châu, giáp giới tỉnh Quảng Yên” [40, tr. 452]. Sách Đồng Khánh địa dư
chí chép: “Đồn Yên Châu: ở xã Yên Châu, huyện Yên Bác. Nơi đây có đường đi đến
huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Ninh, huyện Đông Triều, tỉnh Hải Dương và các châu
huyện Tiên Yên, Hoành Bồ, tỉnh Quảng Yên” [55, tr. 595]. “Đồn Na Dương: ở xã
Đông Quan, huyện Yên Bác, nơi đây có nhiều đường nhỏ đi đến vùng rừng núi châu
Tiên Yên, tỉnh Quảng Yên” [55, tr. 595]. Về chợ phố và đò cầu có chợ An Bài, bến
Thạch Thiết [40, tr. 456].
Như vậy, từ vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên của huyện cho thấy Yên Bác có
những điều kiện thuận lợi cho việc phát triển kinh tế nông nghiệp, lâm nghiệp,
thương nghiệp... Tuy nhiên, bên cạnh những ưu đãi mà thiên nhiên mang lại thì vẫn
14
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn còn những khó khăn như hạn hán, lũ lụt... gây ảnh hưởng xấu đến đời sống sinh hoạt
và sản xuất của nhân dân.
1.2. Dựng đặt và diên cách huyện Yên Bác
Trải qua các thời kỳ lịch sử của dân tộc, vùng đất Yên Bác luôn gắn bó hữu cơ
với cả nước trong quá trình dựng nước và giữ nước.
Thời kỳ Hùng Vương, khi nước Văn Lang - nhà nước sơ khai đầu tiên của Việt
Nam được thành lập, đất nước ta chia thành 15 bộ, Lạng Sơn (bao gồm cả địa phận
Yên Bác) thuộc bộ Lục Hải.
Thời kỳ Bắc thuộc, dưới đời Tần thuộc Tượng Quận, đời Hán thuộc quận Giao
Chỉ, đời Đường thuộc châu Giao.
Thời kỳ độc lập, trải qua các triều đại phong kiến, Yên Bác lần lượt thuộc các
đơn vị hành chính khác nhau. Thời Đinh, nước Đại Cồ Việt ra đời, nước ta chia làm
các đạo, đời Lê và đời Lý gọi là lộ, Lạng Sơn lúc ấy có tên là lộ Lạng Giang. Đến đầu
đời Trần, Lạng Sơn được gọi là lộ Lạng Châu, sau đổi là trấn Lạng Giang, đến năm
1397, trấn Lạng Giang được đổi thành trấn Lạng Sơn. Khi đó, Yên Bác thuộc trấn
Lạng Sơn. Năm 1407, nhà Minh xâm lược nước ta. Đất nước rơi vào ách đô hộ của
nhà Minh, Lạng Sơn trở thành một trong 16 phủ. Yên Bác khi ấy thuộc phủ Lạng
Sơn. Trong khởi nghĩa Lam Sơn chống quân xâm lược nhà Minh, Lê Lợi chia đất
nước thành 4 đạo, trấn Lạng Sơn được xếp vào Bắc đạo. Năm Thuận Thiên thứ
1(1428) đời Lê, Lê Lợi chia đất nước thành 5 đạo, Lạng Sơn vẫn thuộc về Bắc Đạo.
“Sau Lê Trung Hưng đổi gọi là trấn” [40, tr. 426]. Ban đầu, vào năm 1466, vua Lê
Thánh Tông cho vẽ bản đồ đất nước và đổi tên đơn vị hành chính, cả nước được chia
thành 12 đạo thừa tuyên. Sách Đồng Khánh địa dư chí chép: “Huyện Yên Bác: Năm
Quang Thuận 10 (1469) đời Lê Thánh Tông đặt châu Yên Bác là 1 trong 7 châu thuộc
phủ Trường Khánh thừa tuyên Lạng Sơn. Các đời sau đều giữ tên gọi đó” [55, tr
619]. Sách Đại Nam nhất thống chí cũng viết: “Đầu đời Lê đặt làm châu, phiên thần
họ Vi thế tập. Đầu bản triều vẫn theo như thế” [40, tr. 430]. Lúc này, Yên Bác được
gọi là châu. Về sau, nhà Lê lại bỏ đơn vị hành chính thừa tuyên, lập đơn vị hành
chính trấn. Thừa tuyên Lạng Sơn đổi thành trấn Lạng Sơn. “Bản triều năm Gia Long
thứ 1(1802) vẫn gọi là trấn, lãnh 1 phủ và 7 châu (phủ Tràng Khánh lãnh châu Ôn,
Lộc Bình, Thoát Lãng, Văn Uyên, Văn Quan, Thất Tuyền, Yên Bác)” [40, tr. 427].
“Tuy là những châu, huyện cùng một trấn hoặc gần nhau nhưng tổ chức đơn vị hành
15
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn chính cấp cơ sở lại khác nhau. Nơi thì chia thành sách, động, trang. Nơi thì có cấp
tổng rồi đến xã phường” [63, tr. 15]. Yên Bác được chia làm 4 tổng, gồm 14 xã (trước
đây có 18 xã, sau khi bị phỉ cướp phá, dân đinh lưu tán, còn 14 xã):
“1-Tổng Thái Bình, 2 xã:
1.Xã Thái Bình 2.Xã Lâm Ca
2-Tổng Đông Quan, 5 xã:
1.Xã Đông Quan 2.Xã Xuân Dương 3.Xã Quan Bản 4.Xã Lợi Bác
5.Xã Sàn Viên
3-Tổng Lệ Viễn, 4 xã:
1.Xã Lệ Viễn 2. xã Diên Lạc 3.Xã Vĩnh Khương 4.Xã Hữu Sản
4-Tổng Yên Châu, 3 xã:
1.Xã Yên Châu 2.Xã Yên Động 3.Xã Yên Bố” [55, tr. 619].
“Năm Minh Mệnh thứ 12, chia tỉnh hạt, đổi làm tỉnh, đặt 2 ty Bố chính và Án
sát, tuần phủ lãnh việc bố chính” [40, tr. 427]. Theo đó, trấn Lạng Sơn đổi làm tỉnh
Lạng Sơn. “Năm thứ 15, đổi 3 châu Yên Bác, Văn Quan và Thất Tuyền làm huyện”
[40, tr. 427]. Yên Bác được gọi là huyện từ đó. Sách Đồng Khánh địa dư chí cũng
chép về huyện Yên Bác: “Năm Minh Mệnh 15 (1834) đổi làm huyện, cho đến đời
Đồng Khánh không thay đổi” [55, tr. 619]. “Năm thứ 16, bắt đầu đặt lưu quan ở châu
và huyện (trước đây là thổ quan, nay đổi), thổ quan hiệp đồng làm việc. Năm thứ 17
đặt thêm phủ Tràng Định. Năm Tự Đức thứ 4, giảm bớt quan lại, Tràng Khánh kiêm
nhiếp huyện Yên Bác, phủ Tràng Định kiêm nhiếp châu Thoát Lãng” [40, tr. 427].
Như vậy, cho đến giữa thế kỷ XIX, tỉnh Lạng Sơn lãnh 2 phủ, 4 châu, 3 huyện, trong
đó có huyện Yên Bác.
Trong cuốn Đất nước Việt Nam qua các đời cũng có viết: “Tỉnh Lạng Sơn đặt
năm Minh Mệnh thứ 12 (1831) với chức Lạng Bằng (Lạng Sơn, Cao Bằng) tuần phủ;
năm thứ 15 đổi ba châu Yên Bác, Văn Quan, Thất Tuyền làm huyện; năm thứ 17 đặt
thêm phủ Tràng Định. Tỉnh Lạng Sơn gồm hai phủ: phủ Tràng Khánh với châu Lộc
Bình do phủ kiêm lý, Ôn Châu và huyện Yên Bác; phủ Tràng Định với Văn Uyên,
châu Thoát Lãng, huyện Văn Quan, huyện Thất Khê (trước là Thất Tuyền) do phủ
kiêm lý” [1, tr. 219].
Thời thuộc Pháp, sau khi đánh chiếm đất nước ta, năm 1888, thực dân Pháp
xếp tỉnh Lạng Sơn vào quân khu 12. Tháng 8/1891, thực dân Pháp bỏ quân khu để
16
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn thành lập các đạo quan binh. Lạng Sơn là nơi đóng thủ phủ của đạo quan binh thứ
hai, gồm 2 phủ (phủ Tràng Khánh và phủ Tràng Định), 2 huyện (huyện Yên Bác,
huyện Văn Quan) và 4 châu (Châu Lộc Bình, Châu Ôn, Châu Thoát Lãng, Châu Văn
Uyên). Sau này, huyện Yên Bác tách sang tỉnh Bắc Giang.
Ngày 5/11/1889, thực dân Pháp lập ra tỉnh Lục Nam bao gồm các huyện Lục
Ngạn, Bảo Lộc, Phượng Nhỡn và Yên Bác (Lạng Sơn). Sau một thời gian hoạt động,
thực dân Pháp thấy đơn vị hành chính tỉnh mới này không phù hợp, vì vậy ngày
8/9/1891, Toàn quyền Đông Dương ra Nghị định giải tán tỉnh Lục Nam. Sách Đồng
Khánh địa dư chí cũng chép về huyện Yên Bác trong khoảng thời gian này: Đầu đời
Thành Thái, năm 1890 tách về huyện Lục Nam mới thành lập. Nay thuộc huyện Sơn
Động tỉnh Bắc Giang [55, tr. 619].
Ngày 10/10/1895, Toàn quyền Đông Dương ký Nghị định thành lập tỉnh Bắc
Giang. Cuốn Đất nước Việt Nam qua các đời có viết: “Thời thuộc Pháp, năm 1895
tách phủ Lạng Giang lập thành tỉnh Bắc Giang, lỵ sở ở huyện Phất Lộc, đặt phân phủ
ở huyện Yên Thế; tách huyện Yên Bác tỉnh Lạng Sơn về đặt làm châu Sơn Động;
huyện Hữu Lũng đổi làm châu Hữu Lũng; năm 1905 tách các huyện Đông Anh, Kim
Anh, Đa Phúc vào tỉnh Vĩnh Yên” [1, tr. 217]. “Thời thuộc Pháp, huyện Yên Bác, sau
là huyện Sơn Động, đổi lệ vào tỉnh Bắc Giang mới đặt năm 1895” [1, tr. 219].
Ngày 13/2/1909, Toàn quyền Đông Dương ra Nghị định thành lập huyện Sơn
Động gồm ba tổng cắt ra từ huyện Lục Ngạn: Tổng Biển Động (được nhập thêm xã
Phúc Thắng thuộc tổng An Châu, huyện Yên Bác); Tổng Niêm Sơn (được sáp nhập
thêm toàn bộ đất đai đồn điền Schnaider nằm ven bờ sông Lục Nam thuộc tổng Trù
Hựu) và Tổng Hả Hộ, huyện lỵ đặt tại Biển Động.
Ngày 11/5/1917, Quyền Thống sứ Bắc Kỳ ra Nghị định sáp nhập huyện Yên
Bác vào huyện Sơn Động. Ngày 25/9/1919, huyện Sơn Động đổi thành châu Sơn
Động. Năm 1927, chính quyền thực dân Pháp tiến hành tổng điều tra dân số, châu
Sơn Động khi đó có 8 tổng, 53 xã, 15.342 nhân khẩu. Trong đó, một số xã thuộc
huyện Yên Bác trước đây được chia cắt vào 3 tổng: xã Phúc Thắng thuộc tổng Biển
Động; xã Hữu Sản, Lâm Ca, Lệ Viễn, Thái Bình, Vĩnh Khương thuộc tổng Đông
Đoàn; xã An Bố, An Châu thuộc tổng Tây Đoàn.
Đến trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, tỉnh Bắc Giang có 3 phủ (Lạng
Giang, Yên Thế, Lục Ngạn), 4 huyện (Việt Yên, Hiệp Hòa, Yên Dũng, Sơn Động), 1
17
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn châu (Hữu Lũng) với 63 tổng, 453 xã. Trong đó, Yên Bác nằm trong địa phận huyện
Sơn Động.
Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đơn vị hành chính cấp tổng bị bãi bỏ;
53 xã cũ của huyện Sơn Động hợp nhất lại thành 41 xã.
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, để thuận tiện cho việc chỉ đạo,
tháng 7/1947, Uỷ ban kháng chiến hành chính Liên khu I quyết định cắt các xã phía
đông huyện Sơn Động cùng 10 xã tả ngạn sông Lục Nam thuộc huyện Lục Ngạn sáp
nhập với huyện Hải Chi (Hải Ninh) thành lập châu Lục Sơn Hải trực thuộc tỉnh
Quảng Hồng. Tháng 12/1948, liên tỉnh Quảng Hồng chia thành tỉnh Quảng Yên và
đặc khu Hòn Gai. Đầu năm 1949, châu Lục Sơn Hải giải thể, huyện Sơn Động và 10
xã huyện Lục Ngạn đưa về tỉnh Quảng Yên. Ngày 17/2/1955, khu Hồng Quảng thành
lập, huyện Sơn Động và 10 xã huyện Lục Ngạn trở lại tỉnh Bắc Giang.
Ngày 21/1/1957, Thủ tướng Chính phủ ra Nghị định số 24/TTg chia hai huyện
Sơn Động, Lục Ngạn thành ba huyện Sơn Động, Lục Ngạn, Lục Nam. Ngày
21/8/1958, Bộ Nội vụ ra Nghị định số 254-NV chia xã Thanh Luận thành hai xã
Thanh Luận, Thanh Sơn; xã Vĩnh Khương thành hai xã Vĩnh Khương và Phú Cường
(nay là xã Vân Sơn).
Tại kỳ họp thứ 7, Quốc hội khoá II, Quốc hội đã ra Nghị quyết sáp nhập xã
Hữu Sản thuộc huyện Đình Lập, tỉnh Hải Ninh vào huyện Sơn Động, tỉnh Hà Bắc.
Ngày 1/10/1964, sáp nhập xã Hữu Sản thuộc huyện Đình Lập (tỉnh Hải Ninh) vào
huyện Sơn Động.
Ngày 30/1/1985, Hội đồng Bộ trưởng ra Quyết định số 21-HĐBT xã Phúc
Thắng sáp nhập vào xã Quế Sơn và trường bắn TB1; xã Thạch Sơn sáp nhập vào xã
Vân Sơn và trường bắn TB1.
Ngày 11/12/1991, Chính phủ ra Quyết định số 642-CP thành lập thị trấn An
Châu trên cơ sở điều chỉnh địa giới hành chính hai xã An Châu và An Lập.
Ngày 19/10/1993, tái lập xã Phúc Thắng trên cơ sở 2 xóm đã cắt về xã Quế
Sơn và phần diện tích còn lại do trường bắn TB1 bàn giao lại.
Đến nay, huyện Sơn Động có 2 thị trấn: Thị trấn An Châu, thị trấn Thanh Sơn
và 21 xã: Hữu Sản, An Lạc, Vân Sơn, Vĩnh Khương, Lệ Viễn, An Lập, An Châu, An
Bá, Yên Định, Cẩm Đàn, Chiên Sơn, Giáo Liêm, Quế Sơn, Phúc Thắng, Thạch Sơn,
Long Sơn, Dương Hưu, Thanh Luận, Tuấn Mậu, Bồng Am, Tuấn Đạo [22].
18
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Như vậy, mặc dù đã tách sang huyện Sơn Động, tỉnh Bắc Giang từ cuối thế kỷ
XIX, đầu thế kỷ XX, nhưng trên thực tế thì phạm vi của huyện Yên Bác nửa đầu thế
kỷ XIX hiện nay tương ứng với một phần địa giới hành chính huyện Sơn Động, tỉnh
Bắc Giang, một phần huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn và một phần huyện Đình Lập,
tỉnh Lạng Sơn.
1.3. Các thành phần dân tộc trong huyện
Vốn là vùng đất có lịch sử lâu đời, Yên Bác có nhiều dấu tích sinh sống của
người Việt cổ như ở xã An Châu đã để lại nhiều dấu vết của thời kỳ đồ đá cũ như rìu
đá, mũi nhọn, mảnh tước... và nhiều công cụ sản xuất và sinh hoạt khác. Theo sách
Đồng khánh địa dư chí: “Trong huyện chỉ có người Thổ (Tày), không có người Nùng.
Dân làm nghề trồng cấy, ít người buôn bán. Hai tổng Đông Quan, Thái Bình theo
phong tục người Thổ (Tày). Hai tổng Yên Châu, Lệ Viễn pha trộn phong tục người
Hán, áo quần thích nhuộm nâu. Về ngôn ngữ thì người dân đều hiểu tiếng Kinh. Về
hôn nhân thì không lấy vợ lấy chồng người cùng họ” [55, tr. 620]. Trải qua quá trình
hình thành và phát triển, nơi đây đã tiếp nhận thêm các dòng người thuộc các dân tộc
khác nhau từ nhiều nơi đến cư trú và sinh sống. Mỗi dân tộc có một bản sắc văn hóa
riêng, tạo nên sự phong phú, đa dạng trong thành phần dân cư của huyện. Có thể nói,
tiến trình phát triển của huyện gắn liền với lịch sử hình thành và phát triển của các
dân tộc nơi đây như Kinh, Tày, Nùng, Dao... Các dân tộc cùng nhau sinh sống, luôn
đoàn kết, gắn bó, chung sức đồng lòng để xây dựng cuộc sống và bảo vệ biên cương,
nơi địa đầu của Tổ quốc.
Theo số liệu thống kê dân số tính đến năm 2009, huyện Yên Bác có khoảng
33051 nhân khẩu, được phân bố theo các dân tộc sau:
Bảng 1.1: Thành phần các dân tộc huyện Yên Bác
STT Dân tộc Tỷ lệ % Ghi chú Số dân
1 Tày 13.674 41,37
2 Kinh 9.642 29,17
3 Nùng 6.578 19,90
4 Dao 2.463 7,45
5 Hoa 254 0,77
6 Sán chí 172 0,52
19
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
7 Các dân tộc khác 268 0,82
Nguồn: Theo Phòng thống kê huyện Sơn Động, Lộc Bình, Đình Lập năm 2009
Tổng cộng 33051 100%
Phần lớn các dân tộc trong huyện là Kinh, Tày, Nùng, Dao, Hoa thuộc các
nhóm ngôn ngữ Tày - Thái, Mông – Dao, Việt - Mường, Hán – Hoa.
Dân tộc Tày: Tày là một dân tộc đông nhất trong 53 dân tộc thiểu số của cả
nước. Trước đây, dân tộc Tày còn có tên gọi là “Tày Đeng” hay “Thổ”, là thành viên
trong cộng đồng các dân tộc nói ngôn ngữ Tày - Thái. Tộc danh Tày có lẽ bắt nguồn
từ dụng ý của cư dân chuyên nghề cày ruộng mà bộ nông cụ chủ yếu là cái cày, tiếng
Tày - Thái truyền thống gọi cái cày là “Mạc Thay” hay “Thây” rồi biến âm thành
Tày hay Thái. Từ thế kỷ XV, người Tày còn được gọi là người Thổ để phân biệt giữa
thổ quan địa phương với lưu quan người Kinh từ dưới xuôi lên. Lưu quan người Kinh
bị thổ hóa gọi là thổ lưu quan. Từ sau năm 1945, trong các văn bản đều thống nhất
tên gọi là Tày.
Trải qua quá trình lịch sử, với nhiều biến động chính trị, các bộ phận cư dân
Tày mới đã xuất hiện bên cạnh các dòng họ Tày bản địa. Trong Cao Bằng tạp chí
nhật tập, Bế Huỳnh đã chia người Tày thành bốn loại là Thổ ty (con cháu của công
thần thời Lê được phân công thế tập cai quản ở đây), Phụ đạo (người Tày bản địa
được triều đình phong làm phụ đạo), Thổ trước (dân Tày bản địa) và Biến Thổ (người
ở dưới cánh đồng hoặc đi việc vua, đi dạy học mà tới, dân xứ đến buôn bán cùng con
cháu bề tôi nhà Mạc, những người phò giúp Tây Sơn an trí ở đây…) [18, tr.2]. Dân
tộc Tày hiện nay là sự hợp thành của nhiều bộ phận. Bên cạnh bộ phận người Tày bản
địa thì có bộ phận người Kinh từ miền xuôi lên, họ sống lâu dài ở đây tạo nên hiện
tượng “Kinh già hóa Thổ”. Quá trình biến Thổ của tộc người Kinh diễn ra với ba
nhóm. Thứ nhất đó là những quan chức người Việt được cử lên cai trị miền núi hoặc
quân lính lên chinh chiến, đánh dẹp các cuộc nổi dậy ở miền núi, sau đã lưu lại lâu
dài. Họ mang theo vợ con, thân thuộc đi theo, chiêu dân lập ấp… sau đã Tày hóa.
Một bộ phận có chức quyền, là con cháu các công thần triều Lê, được điều lên trấn ải
biên cương, sau đó được phân phong thế tập (phiên thần) cai quản địa phương và nối
đời cai trị. Đến thời nhà Nguyễn đổi làm thổ ty, bãi bỏ lệ thế tập cai quản, nhưng cho
hưởng chế độ miễn trừ lao dịch. Thứ hai là do nguyên nhân tranh chấp giữa các thế
lực phong kiến, một số thế lực người Việt đã dựa vào miền núi để xây dựng lực lượng
20
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn cát cứ, về sau suy vi, dư đảng phải đổi tên họ, sống hòa hợp với cư dân địa phương,
tiêu biểu là thế lực nhà Mạc thế kỷ XVII. Đây là giai đoạn mà hiện tượng “Kinh già
hóa Thổ” diễn ra mạnh mẽ nhất. Thứ ba là bộ phận nhân dân miền xuôi do loạn lạc,
tránh sự áp bức bóc lột nặng nề của phong kiến, hoặc đi sơ tán… lên miền núi kiếm
ăn, buôn bán dạy học, lâu dần trở thành một bộ phận địa phương hóa. Đây là lực
lượng nhỏ nhưng diễn ra thường xuyên. Ngoài ra còn một bộ phận Tày, Nùng từ
Quảng Tây (Trung Quốc) sang lập nghiệp. Từ cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX,
dưới sự thống trị hà khắc của nhà Thanh, cùng với sự thất bại liên tiếp của các cuộc
khởi nghĩa nông dân, đặc biệt là phong trào nông dân Thái Bình Thiên Quốc (1851 –
1864) bị đàn áp nặng nề, việc làm ăn khó khăn, nhiều người đã bỏ quê sang Việt Nam
tìm vùng đất mới sinh cơ lập nghiệp, họ sống hòa nhập với cư dân bản địa.
Người Tày là cư dân bản địa sinh sống lâu đời và liên tục ở Yên Bác. Theo
khảo cứu lịch sử của dân tộc Tày qua truyền thuyết Cẩu chủa cheng vùa (Chín chúa
tranh vua), có ý kiến cho rằng vua Thục Phán An Dương Vương - người sáng lập ra
quốc gia Âu Lạc là người Tày cổ. Địa bàn cư trú của người Tày rất rộng, phần lớn ở
vùng trũng thuộc lưu vực các con sông lớn, các thung lũng có nhiều đồng ruộng. Họ
sống tập trung thành từng bản. Bản của người Tày gồm những gia đình nhỏ phụ
quyền thuộc các dòng họ khác nhau. Những dòng họ lớn trong bản thường là những
dòng họ có công khai phá đất đai, lập bản. Mỗi bản có ít thì vài chục hộ, nhiều thì
hơn một trăm nóc nhà. Sách Đồng Khánh địa dư chí có chép: “Ruộng tư của người
Thổ (Tày) thì không được bán đoạn, đất đai được cấp đều cho người dân. Người có
ruộng phải chịu lệ dao dịch (phu phen tạp dịch), tục gọi là lệ đầu điền” [55, tr. 596].
“Dân lấy việc cấy trồng làm chính. Nhà ở thì làm nhà sàn. Quần áo may bằng vải thổ
bố nhuộm màu xanh đen. Duy có hai tổng Yên Châu, Lệ Viễn châu Yên Bác cả nam
và nữ đều thích mặc vải nhuộm nâu. Năm tổng của châu Ôn, cùng tổng Hoài Viễn
châu Lộc Bình, tổng Yên Châu huyện Yên Bác có đền thờ thần. Các việc cưới xin,
tang ma đều theo phong tục địa phương, chất phác hủ lậu” [55, tr. 615]. (Hiện nay,
với hoạt động sinh sống chủ yếu bằng kinh tế nông nghiệp trồng lúa nước từ lâu đời,
kinh nghiệm canh tác của dân tộc Tày ngày càng phát triển. Ngoài ra, họ còn có các
hoạt động kinh tế nông nghiệp khác như ươm tơ, dệt lụa, nuôi gà, vịt, đào ao thả cá,
trồng cây công nghiệp, đặc biệt là cây thuốc lá, cây hồi... Các sản phẩm thủ công của
21
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn họ như vải lụa, bàn ghế làm bằng tre, trúc... có giá trị kinh tế cao trên thị trường trong
và ngoài nước).
Dân tộc Nùng: Trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc
Việt Nam, “tổ tiên của người Nùng chắc chắn đã tham gia vào việc thành lập nước
Âu Lạc của An Dương Vương Thục Phán - nhà nước đầu tiên ở Việt Nam” [26, tr. 8].
Có sự khẳng định như vậy vì ở thời cổ đại, vào thế kỷ III trước Công Nguyên có thể
chưa có sự phân chia rành mạch ở các dân tộc Tày, Nùng, Sán, Dáy... như hiện nay.
Sự thiên di của người Nùng vào nước ta từ rất sớm: Người Nùng ở Việt Nam có
chung nguồn gốc với người Nùng (nay là dân tộc Choang) ở Quảng Tây - Trung
Quốc. Vào cuối thế kỷ I trước Công nguyên, người Nùng đã có mặt ở Việt Nam
nhưng thời đó được gọi là người Tày. Những người mang tộc danh Nùng ở Việt Nam
mới di cư từ nam Trung Quốc vào Việt Nam cách đây khoảng 3 thế kỷ. Lịch sử còn
ghi tên tuổi của Nùng Trí Cao - người thủ lĩnh dòng họ Nùng, đã một thời (thế kỷ XI)
là thủ lĩnh của người Tày, Nùng ở vùng biên giới Việt - Trung. Tộc danh Nùng cũng
là một trong bốn dòng họ đông người và có thế lực lớn (Nùng, Hoàng, Chu, Vi) ở
vùng biên giới giữa Cao Bằng và Quảng Tây (Trung Quốc). Sau khi cuộc nổi dậy của
Nùng Trí Cao chống lại nhà Tống (960-1279) bị trấn áp, nhiều người thuộc dòng họ
Nùng đã chạy theo Nùng Trí Cao vào vùng Đặc Ma (Vân Nam, Trung Quốc) hoặc
chạy trốn vào rừng hoặc đổi họ thành họ Nông để tránh sự khủng bố của vương triều
nhà Tống. Về sau, từ tên gọi tộc họ đã chuyển thành tộc danh để chỉ tộc người sinh
sống trên lãnh thổ của họ Nùng trước kia. Những ngành Nùng mang tên phụ gắn liền
với tên địa phương cũ, nơi mà từ đó họ di cư đến nơi ở bây giờ như: Nùng Inh di cư
từ Long Anh đến, Nùng Phàn Slình (hay Nùng Phàn Sình) di cư từ Vạn Thành đến,
Nùng Cháo di cư từ Long Châu đến, Nùng An di cư từ An Kết đến, Nùng Quý Rỉn di
cư từ Quý Thuận đến, Nùng Lòi di cư từ Hạ Lôi đến, Nùng Tùng Slìn di cư từ Tùng
Thiện đến. Đây đều là những tên huyện ở các tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây… (Trung
Quốc ngày nay). [26, tr. 20].
Trong Kiến văn tiểu lục, Lê Quý Đôn cũng có nhắc đến nguồn gốc của dân tộc
Nùng: Giống người Nùng đều là người 12 thổ châu ở tiểu Trấn Yên, Quy Thuận,
Long Châu, Phù Châu, Thái Bình, Lôi Tử Thành và Hướng Vũ thuộc Trung Quốc,
làm nghề cày cấy, trồng trọt, cũng chịu thuế khóa, lao dịch, mặc áo vằn vải xanh, cắt
tóc, trắng răng, có người trú ngụ đã đến vài ba đời, đổi theo tập tục người Nam, quan
22
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn bản Thổ thường cấp cho họ một số ruộng làm khẩu phần, bắt họ chịu binh xuất. Các
xứ Lạng Sơn, Cao Bằng và Thái Nguyên đều có giống người này [10, tr. 334].
Sách Đồng Khánh địa dư chí chép: “Người Nùng tổ tiên từ Quảng Tây sang,
có hai loại. Loại thứ nhất là Nùng Anh, con trai con gái đều mặc áo ngắn ống tay
rộng, con trai cũng tết tóc, đàn bà con gái nhà giàu thường búi tóc cài trâm bạc, cổ áo
thêu hoa văn chỉ đỏ. Loại thứ hai gọi là Nùng Phàn Xình, con trai mặc áo dài tay áo
hẹp, con gái mặc áo ngắn. Người Nùng Phàn Xình không thích trang sức, tập tục
chuộng ở chung, vợ con anh em có khi đến hơn 20 người cùng chung một bếp, chung
tài sản với nhau, cho đến già cũng không tách ra lập nghiệp riêng. Lại có nhà ông cha
con cháu ba bốn đời vẫn ở chung với nhau” [55, tr. 596]. “Người Nùng thì phần nhiều
tiết kiệm chăm chỉ. Người Nùng lúc mới đến không có ruộng vườn, chuyên tâm ra
sức khai phá rừng núi để trồng trọt, cho nên ruộng vườn của người Thổ (Tày) đến
phần nửa đều thuộc về người Nùng” [55, tr. 596]. Người Tày, Nùng có nhiều phong
tục giống nhau. “Người Thổ (Tày), người Nùng đều tin thầy cúng, không tin y học,
hễ có bệnh thì xem bói ở bà đồng, tục gọi cô Then. Các thầy cúng (thầy Mo) gảy đàn
dân tộc, hát bài hát bằng tiếng dân tộc, rồi lẩm nhẩm đọc lời chú, một chốc gieo quả
bói rồi nói căn bệnh thuộc con quỉ nào, phải nhờ cô Then cầu đảo, khỏi bệnh hay
không phải nghe theo thầy cúng, không được uống thuốc bắc” [55, tr. 596].
Người Nùng thuộc ngôn ngữ Tày - Thái. “Người Nùng còn tự gọi mình là “cần
slửa đăm” (người áo đen). Người cùng cư trú xen kẽ với người Nùng và tự nhận là
“cần slửa khao” (người áo trắng) là người Tày” [26, tr. 11]. “Người Nùng, người Thổ
(Tày) ở đan xen nhau. Phong tục thuần phác, con người dũng cảm, nói tiếng dân tộc
(Tày, Nùng), không có chữ viết” [55, tr. 596]. Với nhiều phong tục gần gũi, người
Nùng khi đến Yên Bác đã nhanh chóng hòa hợp, đoàn kết với cư dân địa phương,
cùng nhau xây dựng, bảo vệ và phát triển huyện.
Dân tộc Kinh: Là dân tộc có số dân đông nhất trong 54 dân tộc trên đất nước
Việt Nam. Từ thời xa xưa, các dân tộc ven biển và hải đảo của khu vực Đông Nam Á
gọi người Kinh là “Kiao Chi”. Thời Bắc thuộc, nhà Hán phiên âm “Kiao Chi” thành
“Giao Chỉ”. Do đó, chúng đặt tên vùng đất Âu Lạc của ta thành bộ Giao Chỉ.
Vốn là người bản địa nhưng bộ phận người Kinh ở Yên Bác với số lượng ngày
càng phát triển cũng có nguồn gốc từ nhiều nơi. Trải qua thời gian, quá trình di cư
của người Kinh từ các nơi khác đến làm ăn, sinh sống diễn ra phổ biến. Do cuộc sống
23
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn đói khổ, thiên tai, mất mùa… xảy ra thường xuyên, họ phải bỏ quê hương đi phiêu
bạt, tìm kiếm những vùng đất mới. Dưới thời Lê, Nguyễn, có nhiều cuộc di cư của
người Kinh từ Thanh Hóa, Thái Bình, Nam Định, Hưng Yên… đến các tỉnh miền núi
đông bắc sinh sống, trong đó có Lạng Sơn, hình thành nên các xóm làng mới. Cùng
với đó là bộ phận quan lại do triều đình phong kiến cử lên làm quan ở miền núi dưới
tác động của chính sách “phiên thần” thời Lê và “lưu quan” thời Nguyễn. Họ đã
mang theo vợ con, thân tộc đến định cư. Dưới thời Pháp thuộc, trong các đồn điền,
hầm mỏ của chính quyền thực dân, người Pháp cũng mộ lao động người Kinh từ các
tỉnh miền xuôi lên làm việc. Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, sau các cuộc tản cư
kháng chiến của cán bộ, bộ đội và nhân dân lên miền núi, một bộ phận không trở về
mà ở lại sinh cơ lập nghiệp. Hiện nay, theo các chương trình kinh tế của Đảng và Nhà
nước, bộ phận người Kinh lên miền núi, trong đó có vùng đất Yên Bác, để sinh cơ lập
nghiệp, phát triển kinh tế vẫn ngày càng phổ biến.
Dân tộc Kinh sống xen kẽ với các dân tộc khác trong huyện. Họ thường sống
tập trung ở những nơi trung tâm của huyện, gần các trục đường lớn. Người Kinh từ
miền xuôi lên đã mang theo những phương thức canh tác, kinh nghiệm sản xuất,
phong tục tập quán của mình, hòa cùng với các dân tộc khác trong huyện, vừa giao
lưu, vừa tiếp thu tạo nên nét phong phú, đa dạng cho cuộc sống và văn hóa cư dân
miền núi.
Dân tộc Dao: Về nguồn gốc của dân tộc Dao nói chung và người Dao ở Yên
Bác nói riêng, cho đến nay trong dân gian vẫn còn lưu truyền rộng rãi câu chuyện
Bàn Hồ: Bàn Hồ là con long khuyển mình dài ba thước, lông đen vằn vàng mướt như
nhung, từ trên trời giáng xuống trần gian, được Bình Hoàng yêu quý nuôi trong cung.
Một hôm, Bình Hoàng nhận được chiến thư của Cao Vương, Bình Hoàng liền họp bá
quan văn võ để bàn mưu tính kế diệt họ Cao nhưng không ai tìm được kế gì. Trong
khi đó thì con long khuyển Bàn Hồ từ trong kim điện nhảy ra sân rồng quỳ lạy xin đi
giết Cao Vương. Trước khi Bàn Hồ ra đi, nhà vua có hứa nếu thành công sẽ gả công
chúa cho. Bàn Hồ bơi qua biển bảy ngày, bảy đêm mới tới nơi Cao Vương ở. Cao
Vương thấy con chó đẹp tới phủ phục trước sân rồng thì cho đó là điềm lành nên đem
vào cung nuôi. Nhân một hôm Cao Vương say rượu, Bàn Hồ cắn chết Cao Vương và
ngoạm lấy đầu đem về báo công với Bình Hoàng. Bàn Hồ lấy được cung nữ đem vào
núi Cối Khê (Chiết Giang - Trung Quốc) ở. Vợ chồng Bàn Hồ không bao lâu sinh
24
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn được 6 con trai và 6 con gái. Bình Hoàng ban sắc cho con cháu Bàn Vương thành 12
họ, riêng người con cả được lấy họ cha, còn các con thứ lấy tên làm họ, gồm các họ:
Bàn, Lan, Mãn, Uyển, Đặng, Trần, Lương, Tống, Phượng, Đối, Lưu, Triệu. Con cháu
Bàn Vương sinh sôi nảy nở mỗi ngày một nhiều và phân tán khắp nơi để sinh sống.
Như vậy, Bàn Hồ là một nhân vật thần thoại, được người Dao thừa nhận là “ông tổ”
của mình và được thờ cúng rất tôn nghiêm. Ngoài ra còn có nhiều ý kiến khác về
nguồn gốc của người Dao nhưng tất cả đều thống nhất một quan điểm: người Dao có
nguồn gốc từ Trung Quốc (các tỉnh như Quảng Châu, Quảng Tây, Vân Nam, Quý
Châu…), di cư sang Việt Nam qua nhiều con đường khác nhau, trong một quá trình
lâu dài, từ khoảng thế kỷ XIII. Yên Bác cũng là nơi trú ngụ của nhiều đồng bào người
Dao sinh sống. Người Dao tự gọi mình là “Kiềm Miền”, có nghĩa là “người rừng”.
Tuy nhiên đây chỉ là tên phiếm xưng mà họ tự gọi, còn trên thực tế thì người sống
trong rừng có rất nhiều, không hẳn chỉ có dân tộc Dao. Ngoài ra, các dân tộc khác còn
gọi họ với nhiều tên gọi khác như Mán, Động, Xá… Người Dao chia thành nhiều
nhóm khác nhau, dựa vào trang phục của họ như: Dao Đỏ, Dao Quần Chẹt, Dao
Thanh Y, Dao Thanh Phán, Dao Áo Dài, Dao Quần Trắng, Dao Tiền, Dao Lô Gang.
Họ sống hòa đồng, đoàn kết trong các bản, chủ yếu ở những vùng núi thấp, gần sông
suối. Hoạt động kinh tế chính cũng là trồng lúa nước, lúa nương, ngoài ra còn chăn
nuôi và trồng một số loại cây ăn quả. Cuộc sống vẫn còn nhiều khó khăn.
Dân tộc Hoa: Người Hoa di cư vào Việt Nam và đến Lạng Sơn từ nhiều tỉnh
của Trung Quốc như Quảng Tây, Quảng Đông, Phúc Kiến… Họ tự gọi mình là Hoa
hay Hán. Dân địa phương thường gọi họ là “người Khách”. Họ sang Việt Nam với
nhiều nguyên nhân và thời gian khác nhau, có thể do bị áp bức bóc lột từ triều đình
phong kiến, lánh nạn do các cuộc chiến tranh, thiên tai, hay do làm ăn buôn bán…
Người Hoa ở Yên Bác sống chủ yếu ở các phố chợ, họ làm nghề kinh doanh các mặt
hàng thủ công mỹ nghệ, đồ trang sức, lương thực, thực phẩm… Cũng có bộ phận
người Hoa sống dựa vào nghề trồng trọt, trồng lúa nước, chăn nuôi như các dân tộc
khác trong huyện.
Bên cạnh đó, còn có một số dân tộc khác sinh sống tại Yên Bác như Cao Lan,
Sán Chí, Sán Dìu, Mông… chiếm tỉ lệ nhỏ trong thành phần dân cư của huyện. Họ
chủ yếu di cư từ Trung Quốc đến và sinh sống cùng cư dân bản địa từ khá lâu.
25
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Các dân tộc ở Yên Bác dù có nguồn gốc, phong tục, tập quán, ngôn ngữ khác
nhau, dù là cư dân bản địa hay cư dân từ nơi khác đến, dù là đồng bằng hay miền núi
nhưng khi cùng chung sống với nhau thì các dân tộc đều đoàn kết, thương yêu, hòa
đồng, tương trợ lẫn nhau trong đời sống sản xuất, sinh hoạt và cùng nhau bảo vệ quê
hương, làng bản. Trong quá trình đó, họ tiếp thu, giao lưu và học hỏi lẫn nhau tạo nên
sự đa dạng và phong phú trong cuộc sống vật chất và tinh thần.
1.4. Tình hình chính trị - xã hội và văn hóa
1.4.1. Tình hình chính trị - xã hội
Với vị trí là vùng đất phên dậu của Tổ quốc, các tỉnh miền núi phía Bắc nói
chung và huyện Yên Bác tỉnh Lạng Sơn nói riêng luôn có vị trí quan trọng trong mọi
thời đại. Để quản lý được khu vực miền núi này, các triều đình phong kiến chủ yếu
dựa vào đội ngũ thổ tù thế tập và chế độ lưu quan. Từ thế kỷ X, triều Đinh cũng như
các triều đại phong kiến sau đó đã chú trọng phát triển lãnh thổ cả vùng đồng bằng và
trung du miền núi. Những người đứng đầu tộc người là người có công dẫn dắt tộc
người mình mở mang, khai hoang những vùng đất mới. Họ chi phối, thao túng mọi
hoạt động kinh tế, xã hội… của cư dân trong bản và được gọi là các “chúa đất”. Căn
cứ vào quy mô của bản mường và khu vực khống chế của “chúa đất” rộng hay hẹp
mà có hai loại là “quản chúa” và “quằng mường”. Cai quản một châu là quản chúa
hay chúa công. Cai quản một vùng mường tương đương một tổng hoặc một xã, được
nhà nước phong chức tước gọi là quằng mường. Các quằng mường là chức sắc của
triều đình, hàng năm có nghĩa vụ nộp cống. Nhìn chung, các thế lực thổ tù có quyền
lực lớn, nắm nhiều ruộng đất và là bộ phận thay triều đình cai quản vùng biên giới xa
xôi [15, tr. 23].
Dưới triều Lê, con cháu công thần triều Lê được điều lên trấn ải biên cương,
sau đó được phân phong thế tập, nối đời cai quản. Huyện Yên Bác “Đầu đời Lê đặt
làm châu, phiên thần họ Vi thế tập. Đầu bản triều vẫn theo như thế” [40, tr. 430]. Nhà
Nguyễn thành lập (1802) vẫn coi Bắc Hà là đất cũ của triều Lê. Các dòng họ thổ tù,
lang cun, lang đạo ở các trấn biên giới phía Bắc vốn hưởng nhiều ân sủng của nhà Lê.
Sau khi lên ngôi, Gia Long thực hiện chính sách “Phù Lê” và phong cho con cháu
nhà Lê làm diêm trợ công, đồng thời còn miễn thuế cho các phiên thần khai quốc thời
Lê. Chính sách này nhằm ngăn chặn những cuộc nổi dậy hay chống đối của các phiên
thần nhà Lê. Cùng với đó, Gia Long cũng có những chính sách nhằm can thiệp trực
26
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn tiếp vào quản lý làng xã ở miền núi, tiêu biểu là lập sổ đinh. Năm 1807, Gia Long
xuống chiếu cho xã dân các trấn, phủ, huyện từ chức sắc đến quản dân cho đến những
dân gia cư và ngụ cư hết thảy đều ghi vào sổ đinh. Dưới thời Minh Mệnh, chính sách
này tiếp tục được thực hiện rộng rãi. Qua đó, nhà Nguyễn đề ra các chính về thu thuế
(thân), sưu dịch, tuyển chọn quân lính và các chính sách xã hội khác, thực hiện ở cả
đồng bằng và miền núi xa xôi.
Trong khoảng 20 năm đầu thế kỷ XIX, chế độ phiên thần đối với các thổ tù
miền núi vẫn được duy trì, gọi là thổ quan. Trong bộ máy chính quyền thời Gia Long
còn đặt chức Man Phủ Sứ chuyên trách công việc phủ dụ lôi kéo các tộc người miền
núi. Việc thi hành các chính sách nhằm tăng cường sự quản lý của chính quyền trung
ương đến địa phương, đặc biệt là những vùng biên giới của Tổ quốc luôn được các vị
vua kế tục thực hiện ngày càng chặt chẽ. Nếu như thời Gia Long vẫn duy trì chế độ
phiên thần, thổ quan thì đến thời Minh Mệnh đã từng bước xóa bỏ, thay vào đó là
thực hiện biện pháp người Kinh và người Thổ cùng cai trị. Năm 1821, Minh Mệnh
đặt các chức cai châu, phó châu và lại mục chuyên quản các châu biên giới. Năm
1827, Minh Mệnh xóa bỏ chức quan: Tuyên úy đại sứ, Tuyên úy sứ, châu thảo sứ,
phòng ngự đồng tri, phòng ngự thiêm sự là các chức quan trao cho các thổ tù cai trị ở
miền núi được đặt ra từ đầu thời Nguyễn thay bằng các chức tri phủ, tri huyện, huyện
thừa như ở khu vực đồng bằng. Tuy nhiên, các viên quan này đều do người địa
phương phụ trách, có thêm chữ “Thổ” ở đằng trước (Thổ tri phủ, Thổ tri huyện, Thổ
tri châu...) [63, tr. 22-23]. Sách Đại Nam nhất thống chí có chép về huyện Yên Bác:
“Đầu đời Minh Mệnh đổi đặt thổ mục làm phó tri châu. Sau lại dùng thổ ty làm thổ tri
châu. Năm thứ 15 đổi châu làm huyện. Năm thứ 16 bắt đầu đặt lưu quan” [40, tr.
430]. Từ năm 1828, Minh Mệnh bắt đầu thực hiện chế độ lưu quan, cắt cử quan lại
người Kinh lên làm việc ở miền núi, thay thế cho vai trò của các thổ ty. Đồng thời,
năm 1828, Minh Mệnh thực hiện cuộc cải tổ bộ máy quản lý làng xã: Lập lý trưởng
thay cho xã trưởng, mỗi xã chỉ có một lý trưởng và tùy theo quy mô làng xã nếu số
đinh từ 50 – 149 thì đặt thêm một phó lý, trên 150 đinh thì đặt thêm hai phó lý. Việc
đặt lý trưởng và phó lý phải do dân làng bầu ra, được phủ huyện xét kỹ lại và bẩm lên
trên để cấp văn bằng, mộc triện. Năm 1829, Minh Mệnh bãi bỏ chế độ thế tập của các
thổ ty miền núi, chọn những người thanh liêm, tài năng, được lòng dân làm Thổ ty
các châu, huyện. Việc bãi bỏ chế độ thổ ty thế tập ở các trấn biên giới này được Minh
27
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn Mệnh giải thích rõ ràng (1831): “Lệ thế tập đời xưa là để đền công nhưng con cháu
công thần, nếu có người hư hỏng triều đình cũng phải truất bãi thì lại thương tổn đến
ân điển. Ví như nhà Hán phong tước hầu chỉ vạch núi thề sông mà thề nhưng mới chỉ
vài đời chỉ còn ba, bốn người thì sách thề cũng chỉ là hão. Chẳng gì bằng luận công
phong tước cho công thần ấy, còn con cháu thì tùy tài chức, thế là giữ cho trọn vẹn cứ
gì phải thế tập mới là đền công” [43, tr. 224]. Việc phân định chức vụ dựa trên số dân
cũng được quy định rõ ràng: “đinh từ 5.000 người, ruộng từ 500 mẫu trở lên thì đặt 1
Thổ tri châu, huyện đặt 1 Thổ tri huyện cùng thổ lại mục đều 1 người; đinh từ 100
người, ruộng từ 100 mẫu trở lên thì đặt 1 Thổ tri châu, huyện đặt 1 Thổ huyện thừa;
đinh điền không đủ 100 thì đặt 1 thổ lại mục” [42, tr. 862].
Cuộc cải cách của Minh Mệnh được tiến hành rộng rãi và thống nhất trong cả
nước. Ông coi đây là một phen quy hoạch lớn lao khiến cho nước nhà có phên dậu
giữ gìn. Mặt khác, chính sách lưu quan được thực hiện ở miền núi thể hiện sức mạnh
của triều đình từ trung ương đến địa phương, góp phần ổn định được miền biên cương
Tổ quốc. Tuy nhiên, chính sách này lúc đầu gặp rất nhiều khó khăn do ảnh hưởng đến
quyền lợi của các thổ tù địa phương. Đây cũng là một trong những nguyên nhân dẫn
tới nhiều cuộc nổi dậy của các thổ tù miền núi mà tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa của
Nông Văn Vân - thổ tù Bảo Lạc, diễn ra từ 1833 đến 1835 trên toàn tỉnh Cao Bằng và
lan ra cả các tỉnh lân cận, trong đó có Lạng Sơn. Để đối phó với tình trạng đó, trong
suốt thời gian từ 1828 đến 1837, Minh Mệnh đã khéo léo thực thi biện pháp huyện
châu nào khuyết thổ quan thì chọn một lưu quan bổ sung, còn thì giữ, chỉ đặt thêm
một chức lưu quan để cùng hiệp đồng với thổ quan mà làm việc. Do vậy, những năm
đầu thời Minh Mệnh, việc cai quản và chi phối đến các hoạt động của Yên Bác vẫn là
các thổ quan. Năm 1838, chế độ lưu quan mới được thực hiện triệt để. Dựa trên việc
khảo sát 13 địa bạ của huyện Yên Bác lập vào năm Minh Mệnh 21 (1840) cho thấy
chức lý trưởng, dịch mục đã hoàn toàn thay thế xã trưởng, sắc mục…, không thấy xuất
hiện phó lý. Cho đến 1844, dưới thời Thiệu Trị, nhà Nguyễn vẫn phải đặt lại chức thổ
quan ở các châu huyện biên giới phía Bắc. Và phải đến thời Tự Đức thì việc đặt thổ
quan mới bị bãi bỏ trong cả nước. Như vậy, việc thực hiện các chính sách này đã đặt
lưu quan ở xen lẫn với thổ quan để nhằm ràng buộc, giữ gìn lẫn nhau và mục đích
chính yếu đó là nhằm thu hẹp quyền lực của các thế lực thổ tù địa phương, thể hiện sức
28
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn mạnh của triều đình phong kiền nhà Nguyễn, đồng thời góp phần ổn định miền biên
cương của Tổ quốc.
Về hệ thống các đơn vị hành chính, khi Nguyễn Ánh mới xưng vương, “ở Đàng
Ngoài vẫn là trấn, phủ , huyê ̣n, xã, ở Đàng Trong thì trấn, dinh, huyê ̣n, xã. Sau đó , nhà Nguyễn nâng tổng thành một cấp hành chính trung gian giữa huyê ̣n và xã. Ngoài ra, 11 trấn Bắc Thành (tương ứng vớ i Bắc Bô ̣ ngày nay) đươ ̣c hơ ̣p thành mô ̣t tổ ng trấn, 5 trấn cực Nam hơ ̣p thành 1 tổ ng trấn go ̣i là Gia Đi ̣nh thành” [53, tr. 435]. Đến năm 1831 - 1832, để nhất thể hóa các đơn vi ̣ hành chính trong nướ c, Minh Mệnh bỏ hai tổng trấn, chia cả nước thành 31 tỉnh và một phủ Thừ a Thiên (trực thuô ̣c trung ương). Dướ i tỉnh có phủ , huyện, châu rồ i đến tổ ng, xã. Đứng đầu tỉnh là các chức Tổng đốc (phụ trách 2 - 3 tỉnh) và tuần phủ (phụ trách một tỉnh, dưới quyền Tổng đốc). Giúp
việc có hai ty là Bố chính sứ ty và Án sát sứ ti. “Theo thố ng kê năm 1840, cả nướ c có 90 phủ , 20 phân phủ , 379 huyê ̣n, 1742 tổ ng, 18265 xã, thôn, phường, ấp. Cách chia đơn vi ̣ hành chính này đươ ̣c giữ nguyên cho đến cuố i thờ i Nguyễn” [53, tr. 435]. Đơn vị cấp tổng, xã do tổng trưởng và xã trưởng đứng đầu. Ở miền núi, thực hiện xen kẽ
lưu quan và thổ quan. Về quân sự có chức lãnh binh. Quan chức địa phương đều do
trung ương bổ nhiệm và chịu trách nhiệm trước hai cấp: Tổng đốc - tuần phủ và
Trung ương. Hệ thống hành chính được thống nhất từ trung ương đến địa phương, thể
hiện quyền lực của nhà nước và quyền hành tối cao của nhà vua.
Mặc dù nhà Nguyễn đã có nhiều cố gắng trong việc thu hẹp quyền lực của các
thổ tù miền núi nhưng đến đầu thế kỷ XX, chế độ thổ tù vẫn được duy trì.
1.4.2. Tình hình văn hóa
Cùng với quá trình tồn tại và phát triển của huyện, Yên Bác tiếp nhận ngày
càng nhiều các luồng dân cư từ nơi khác đến, có thể là từ dưới xuôi lên hay từ Trung
Quốc sang, sống hòa nhập, hài hòa với cư dân bản địa. Trong quá trình chung sống
đó, mỗi dân tộc lại có những nét văn hóa riêng, góp phần tạo nên một nền văn hóa
phong phú, đa dạng cho mảnh đất huyện miền núi phía Bắc này.
Về làng bản, các tộc người ở Yên Bác thường sống định cư thành các làng
bản. Làng bản ở vùng thung lũng thường là bản lớn, có thể lên tới hàng trăm nóc nhà.
Nhưng ngược lại, ở những vùng núi cao, hiểm trở thì chỉ có trên dưới 10 nóc nhà.
Tùy theo điều kiện tự nhiên mà dân cư có thể đông hay thưa, tạo thành làng bản nhỏ
29
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn hay lớn. Mỗi làng bản có một địa vực cư trú, canh tác riêng và có sự hỗn cư, xen kẽ
của nhiều tộc người cùng sinh sống.
Về nhà ở, người Tày, Nùng có loại hình nhà cửa cổ truyền là nhà sàn. Đây
cũng chính là một trong những yếu tố cấu thành nên đặc trưng văn hóa của các tộc
người trong khu vực Đông Nam Á. Nhà sàn được làm từ những cây gỗ lớn, chắc,
thường có 4 mái với kết cấu vì đầu hồi, các bộ vì kèo, cột. Khi làm nhà, họ thường
phải chọn đất, xem ngày, xem hướng nhà (căn cứ vào địa hình, địa thế đất và tuổi của
chủ nhà). Việc bố trí trong ngôi nhà sàn cũng khá hợp lý. Cửa chính thường có cầu
thang lên xuống. Bố cục mặt sàn trong nhà có thể chia thành hai phần theo chiều
ngang hoặc chiều dọc tính từ của chính tùy theo tập quán của mỗi vùng. Trong đó,
bàn thờ luôn được đặt ở giữa, nơi trang trọng và linh thiêng nhất của ngôi nhà. Còn
hai bên là bố trí nơi tiếp khách và giường ngủ của các thành viên trong gia đình. Cho
đến đầu thế kỷ XX, người Tày, Nùng phần nhiều vẫn làm nhà sàn, tùy vào nhà giàu
hay nghèo mà lợp mái tranh hay mái ngói. Vách nhà thì trát vách hay che phên. Tầng
trên là người ở, tầng dưới nuôi súc vật và để nông cụ. Sách Đồng Khánh địa dư chí có
chép về nhà ở của dân tộc Tày, Nùng: “Làm nhà sàn để ở, người ở bên trên, trâu bò
gia súc ở dưới sàn” [55, tr. 596]. Hiện nay, ngôi nhà sàn có sự thay đổi về cả kết cấu
cũng như bố trí nội thất và vật liệu xây dựng nhà. Phổ biến là nhà sàn cột vuông, lợp
ngói, dưới gầm sàn hiện nay không còn dùng để nhốt trâu bò như trước. Ngoài ra còn
có nhà đất, chủ yếu là của người Việt. Nhà đất thường có 3 gian hay 5 gian làm bằng
tranh, tre, nứa, lá, trát vách. Vách được làm bằng đất trộn rơm và ở hai bên sườn trát
cao lên tận nóc. Tuy nhiên do nhiều cửa sổ nên nhà không bị thiếu ánh sáng.
Về trang phục, các tộc người ở Lạng Sơn nói chung và đặc biệt là người Tày,
Nùng ở Yên Bác nói riêng đều thích quần áo được nhuộm chàm. “Quần áo thích dùng
màu xanh, màu đen, áo ngắn quần dài” [40, tr. 434]. Nhuộm chàm do phụ nữ đảm
nhiệm. Nhuộm chàm có nguồn gốc từ xa xưa, là biểu tượng của núi rừng biên giới
phía Bắc. Người Tày, Nùng chủ yếu cắt may quần áo bằng vải bông tự dệt được
nhuộm chàm màu xanh đen hoặc xanh hồng. “Con trai con gái đều mặc quần áo thổ
bố màu xanh đen” [55, tr. 596]. Áo của nam giới là áo ngắn được may ghép bốn thân,
hai thân trước và hai thân sau xẻ ngực, hai bên nẹp áo đính hai hàng cúc vải, cổ tròn
cao, tay áo dài ống hẹp. Khi mặc, họ dùng thắt lưng buộc ra ngoài, chủ yếu mang tính
chất trang trí. Áo của phụ nữ gồm áo cánh ngắn và áo dài năm thân. Áo cũng được
30
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn may bằng loại vải bông nhuộm chàm hay để trắng, cổ áo đứng, tròn, thấp, khuy cài
sang nách phải. Đối với loại áo dài, tà áo được xẻ đến tận ngang hông, thuận tiện cho
việc đi lại, gấu áo dài quá gối. Khi mặc, họ kết hợp với vòng tay, vòng cổ, trâm cài
tóc, dây chuyền, các loại hoa tai… làm bằng vàng hoặc bạc tạo nên nét đẹp quý phái
cho người phụ nữ. Theo quan niệm dân gian, đeo đồ trang sức bằng bạc thì không bị
cảm gió, cảm nắng, có tác dụng bảo vệ sức khỏe. Qua trang phục sẽ phần nào phản
ánh về phong tục tập quán, môi trường sống và trình độ phát triển kinh tế, xã hội của
cư dân nơi đây.
Về ăn uống, nguồn lương thực, thực phẩm chính của cư dân huyện Yên Bác là
các sản phẩm từ những hoạt động sản xuất hàng ngày, chủ yếu là gạo tẻ. Ngoài ra còn
có ngô, khoai, sắn... và các loại rau quả như măng, đậu... ; các loại thủy sản như tôm,
cua, cá, ốc...; các loại thịt gia súc, gia cầm như thịt trâu, bò, lợn, gà, vịt, ngan... Đối
với người Nùng thì ngô được coi là món ăn phụ quan trọng nhất, thường được dùng
thay cơm [15, tr. 31]. Bữa ăn chính của cư dân nơi đây là bữa trưa và bữa tối, bữa ăn
phụ là bữa sáng và bữa chiều. Vốn là khu vực chịu ảnh hưởng của gió mùa Đông
Bắc, về mùa đông thời tiết lạnh, do vậy trong bữa ăn hàng ngày lượng thịt và mỡ
thường được dùng nhiều hơn. Bên cạnh đó, việc sống gần gũi, xen kẽ giữa các dân
tộc trong huyện đã tạo điều kiện cho sự tiếp thu, học hỏi các cách chế biến cũng như
ăn uống của nhau, tạo nên sự đa dạng, phong phú trong lĩnh vực ẩm thực. Ngoài các
món ăn ngon như vịt quay, lợn quay được chế biến với măng chua ngâm ớt, tỏi, mác
mật, ớt, hành, tiêu..., họ còn có nhiều loại quả ngon như na, quýt, mận... Trong các ngày
lễ tết cũng có nhiều loại bánh ngon như ở dưới đồng bằng: bánh chưng, bánh dày, bánh
khảo, chè lam... Về thức uống, họ sử dụng hai loại rượu chủ yếu là rượu cất (“lẩu sliêu”)
và rượu ủ (“lẩu van”), được dùng trong bữa ăn hàng ngày và các dịp lễ tết.
Trong cuộc sống hàng ngày, cư dân Yên Bác thường có nhiều nghi lễ khác
nhau, thể hiện nét văn hóa, phong tục tập quán đa dạng của vùng miền. “Về lễ tiết
hàng năm, như tiết Nguyên đán, tiết Thanh minh, gần giống phong tục người Kinh.
Tháng 6 tế thần Tiên nông gọi là thượng điền dán giấy trắng vào cành tre cắm trên
mặt ruộng, nói là để trừ chuột. Tiết Trung nguyên lễ tiên tổ, đốt áo mã ở đầu cổng,
nói là bố thí chúng sinh. Đến như việc đi lại lễ viếng, lễ mừng, tình ý rất là chân thật,
gần hợp với ý cổ nhân. Về hôn nhân, ngày rước dâu, nhà trai, nhà gái đều chọn lấy
một người đi làm bạn với cô dâu, chú rể, gọi là “dâu giả” “rể giả”. Đón dâu về đến
31
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn nhà, cô dâu chú rể lạy nhau, người trong họ đều mừng cho một quan tiền. Về kị lạp
thì nhà nào cúng riêng nhà nấy không có trưởng thứ khác nhau. Về lễ tang thì dùng
âm nhạc. Người có bệnh ít khi tìm thầy chữa thuốc, chỉ dùng đồng cốt cầu đảo, đó là
tục Man chưa thay đổi được” [40, tr. 434-435].
Về tín ngưỡng, tôn giáo thì trong các hình thức thờ cúng, thờ cúng tổ tiên là
quan trọng nhất. Theo quan niệm từ xa xưa, ông bà, cha mẹ sau khi chết, linh hồn
được siêu thoát và lên sống ở trên trời (thiên đường). Do vậy, con cháu để tưởng nhớ
về tổ tiên, ông bà, cha mẹ là gốc rễ của mình phải lập bàn thờ ở trong nhà để thờ
cúng. Theo đó, “Hàng năm phải cúng giỗ những người đã khuất, mời tổ tiên về chứng
giám, thụ hưởng lễ vật và phù hộ cho gia đình được bình yên, làm ăn phát đạt. Việc
thờ cúng tổ tiên phải theo đến chín đời (cửu tộc). Đồng bào Tày cúng tổ tiên vào
những ngày tết, đặc biệt là dịp cúng giỗ, khác với đồng bào Nùng lại cúng vào dịp lễ
sinh nhật. Bên cạnh việc thờ cúng tổ tiên, người Tày còn thờ Phật Bà Quan Âm
(Quan Âm Bồ Tát) và Hắc hổ huyền đàn, thờ Bà Mụ hay Mẹ Hoa (mẹ Bjóoc), thờ
Táo Quân, thờ tổ nghề, thờ thầy tào, then. Ngoài ra trong mỗi bản, người ta lập miếu
(thó) để thờ Thổ Công” [31, tr. 31]. Tín ngưỡng, tôn giáo nơi đây có sự ảnh hưởng
của Tam giáo (Nho, Phật, Đạo), nhưng về cơ bản trên nền tảng của các tín ngưỡng
dân gian thì các yếu tố đó được biến hóa cho phù hợp với điều kiện của địa phương
và trở thành sắc thái riêng. Ngoài tục thờ cúng tổ tiên, cư dân Yên Bác còn có tục thờ
Thổ Công, thờ Thành Hoàng, thờ các vị anh hùng dân tộc. Người Tày thờ Thổ công ở
miếu (hay còn gọi là Thó). Họ cho rằng lúc khai khẩn lập làng mới cần phải báo cáo
thần linh, nhờ thần linh phù hộ và vị thần này ra đời có trách nhiệm bảo vệ làng bản.
Có nơi còn gọi vị thần này là thần Thổ Địa gắn liền với câu nói trong dân gian “Tôm
mỳ thó, thà mỳ ngược”, nghĩa là “Đất có Thổ Công, sông có hà bá”. Miếu (Thó) có
thể là chung của cả bản, nhưng cũng có thể là của một gia đình hay một dòng họ.
Miếu là nơi rất linh thiêng, thường được đặt ở đầu làng dưới một gốc cây to, nơi có
nhiều người qua lại. Thành hoàng được coi là vị thần hộ mệnh cho cả bản và được
thờ ở đình. Đình là của cả bản, cả xã. Thờ Thành hoàng bắt nguồn từ truyền thống
“uống nước nhớ nguồn”, tưởng nhớ những người đã có công khai sơn phá thạch lập
nên làng bản, cầu mong mưa thuận gió hòa, con người khỏe mạnh. Việc thờ Thành
hoàng gắn với các thần tích nhất định, có khi là con người (người thật, người giả),
cũng có khi là con vật (rắn, thuồng luồng…). Chẳng hạn như ở xã Đông Quan, tổng
32
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn Đông Quan có thờ Thành hoàng làng Lý Đại vương Tôn Thần (nhân thần), xã Lợi
Bác (tổng Đông Quan) thờ Thành hoàng làng hiệu là Vi Văn Công chi thần (nhân
thần), xã Quan Bản (tổng Đông Quan) thờ Thành hoàng làng hiệu là Hoàng Quan Tả
và Mã Cung Khang (nhân thần, cùng thờ chung 1 đền và còn gọi là Thần Pò Nà Đình
và Pò Nà Trang), xã Sàn Viên (tổng Đông Quan) có thờ Thành hoàng làng Đô Đốc
Quận công Ngô Văn Tỵ (nhân thần) [13, tr. 336-349].
Sách Đồng Khánh địa dư chí chép: “Còn tục đền thờ thần, chùa thờ Phật thì
chỉ có rải rác ở mạn châu Ôn giáp tỉnh Bắc (tức Bắc Ninh), huyện Văn Quan giáp tỉnh
Thái (tức Thái Nguyên), cùng các huyện Thất Khê, Lộc Bình, Yên Bác. Nhưng việc
thờ cúng cũng đơn giản, không lấy gì làm sùng chuộng lắm. Không có tục lệ hương
ẩm. Việc cưới xin tang ma đều theo tập tục địa phương, quê mùa đơn giản, không lễ
nghi phiền phức. Nhà nào chỉ có con gái không có con trai thì cho con rể đến ở, ruộng
đất tài sản giao cho con rể quản lý thừa tự, anh em tộc thuộc bên họ nhà gái không có
quyền tranh chấp. Người Minh Hương ở riêng phố, quán, chuyên làm nghề buôn bán.
Tập tục đều theo nhà Thanh” [55, tr. 596]. “Xã Yên Châu có đền thờ thần, lễ vật cúng
tế nhiều thứ, có phần xa hoa tốn kém. Đền thờ rất tráng lệ” [55, tr. 620].
Đến nay, những đình, đền, chùa, miếu trước đây phần nào vẫn được giữ gìn,
tôn tạo và phát huy. Đình Đặng ở xã Vĩnh Khương được xây dựng để thờ phụng
Thành hoàng Lý Quảng Thông và Lý Quảng Phùng, là hai vị danh tướng thời Lý có
công chặn đánh giặc Tống. Lễ hội của đình được tổ chức từ mồng 7 đến mồng 9
tháng 1 Âm lịch hàng năm. Đình Chẽ thuộc thị trấn An Châu thờ Cao Sơn, Quý Minh
Đại vương, là hai vị danh tướng thời Vua Hùng thứ 18. Lễ hội của đình được tổ chức
vào 15 tháng 1, mồng 10 tháng 2, mồng 10 tháng 3, mồng 10 tháng 7 Âm lịch hàng
năm. Đền Vua Bà – miếu Đức Ông ở phía đông của làng Chẽ, phía trước là cánh
đồng An Châu và dãy núi Mặt Quỷ, phía sau là khúc sông An Châu. Lễ hội của đền
diễn ra hằng năm vào mùa xuân để tưởng nhớ Ngọc Dung công chúa, tức Mẫu Liễu
Hạnh và Quận công Vi Đức Lục – người có công theo Lê Lợi chống quân Minh. Tục
truyền, vị tướng này luyện quân ở khúc sông An Châu nên từ đó có tổ chức thi bơi
chải hàng năm vào ngày hội. Lễ hội ở đền Vua Bà – miếu Đức Ông mang tính chất lễ
hội vùng của quần thể cụm di tích: đình, đền, chùa, miếu thuộc thị trấn An Châu.
Hàng năm, hội Đình làng Chẽ - An Châu được dân làng tổ chức để tưởng nhớ các vị
thần, các vị anh hùng dân tộc đã có công với quê hương đất nước. Hội được khai mạc
33
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn từ sau mồng 10 tháng giêng tại các nơi thờ tự: Khu vực chính Đình Chẽ, khu vực
Miếu Đức Ông, khu vực Đền Vua Bà và khu tổ chức thi bơi chải trên đoạn sông An
Châu chảy qua làng Chẽ. Tại đây, dân làng chuẩn bị đầy đủ đồ tế lễ, cờ quạt, kiệu, đồ
rước, nghi trượng, thuyền chải… thu hút rất đông dân trong làng và các địa phương
khác đến tham gia. Hội được bắt đầu bằng những hồi trống cất lên, sau là nghi lễ rước
kiệu từ Đình vào Miếu Đức Ông và tại đây, người đại diện đọc lời tế khai hội và đọc
bài hịch đánh giặc của Đức Ông. Nội dung bài hịch thường ngày được chép lên một
lá cờ màu đỏ treo ở phía sau tượng Đức Ông.
“… Đức Ông xưa phù lê Thái Tổ,
Khởi nghĩa quân tự ở Lam Sơn
Chốn huấn luyện thủy binh lục chiến
Nghe hịch vua kêu gọi toàn dân…
Thu hoàng ân nơi đây đánh giặc,
…
Khi từ trần anh linh hiển thánh,
Đền từ hương hỏa mấy ngàn thu.”
Sau khi tế xong ở Miếu Đức Ông, đoàn rước kiệu quay về tổ chức tế ở đình,
sau đó tổ chức tế ở nghè Chải để vào hội bơi chải. Lễ tế chải diễn ra nhưn một thủ tục
ra quân trước giờ xuất trận. Sau lễ tế, hội bơi chải bắt đầu. Ngoài ra, lễ hội còn có
nhiều trò chơi đan xen như thi bắn cung, nỏ, chọi gà, đấu vật, hát sli, lượn… Tại các
miếu Thổ Công ở xã Quan Bản, những nghi lễ cúng bái được diễn ra vào mồng 2
tháng 1, mồng 3 tháng 3, 14 tháng 7 Âm lịch hàng năm, lễ vật chủ yếu là gà, bánh
chưng hay đồ nếp, rượu...
Đầu triều Nguyễn, vấn đề giáo dục đối với người nông dân còn khó khăn. Đến
thời Minh Mệnh, với việc thực hiện chính sách “giáo hóa” đã góp phần mở mang dân
trí cho cả bộ phận dân cư các vùng miền núi.
“Người Thổ (Tày), người Nùng đều tin thầy cúng, không tin y học, hễ có bệnh
thì xem bói ở bà đồng, tục gọi cô Then. Các thầy cúng (thầy Mo) gảy đàn dân tộc, hát
bài hát bằng tiếng dân tộc, rồi lẩm nhẩm đọc lời chú, một chốc gieo quẻ bói rồi nói
căn bệnh thuộc con quỉ nào, phải nhờ cô Then cầu đảo, khỏi bệnh hay không phải
nghe theo thầy cúng, không được uống thuốc bắc” [55, tr. 596]. Do đó, sức khỏe
người dân, nhất là người già, trẻ em không được đảm bảo.
34
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Tiểu kết: Huyện Yên Bác, tỉnh Lạng Sơn là một huyện miền núi có lịch sử lâu
đời. Trải qua thời gian cùng với những thăng trầm lịch sử của dân tộc, địa giới hành
chính, thành phần dân cư cũng như tình hình kinh tế, văn hóa của huyện có nhiều
biến đổi. Bên cạnh những khó khăn nhất định thì huyện cũng có nhiều thuận lợi về
điều kiện tự nhiên, con người góp phần phát triển kinh tế của huyện. Với thành phần
dân cư do nhiều bộ phận hợp thành như Tày, Nùng, Kinh, Dao…, họ chung sống
đoàn kết, gắn bó với nhau, cùng nhau xây dựng, phát triển và bảo vệ quê hương, góp
phần tạo nên bản sắc văn hóa đa dân tộc phong phú và sinh động, trong đó đặc biệt là
văn hóa dân tộc Tày. Hiện nay, nhờ có sự quan tâm, hỗ trợ, đầu tư của Đảng và Nhà
nước mà tình hình kinh tế, xã hội của huyện ngày càng có bước phát triển đáng kể,
đời sống của người dân thì từng bước được nâng cao
35
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Chương 2
TÌNH HÌNH RUỘNG ĐẤT HUYỆN YÊN BÁ C TỈNH LẠNG SƠN NỬA ĐẦU THẾ KỶ XIX
2.1. Vài nét về đi ̣a ba ̣ của huyện Yên Bác
“Đố i vớ i mô ̣t vương triều dựa trên nền tảng kinh tế căn bản là nông nghiê ̣p lú a nướ c thì viê ̣c nắm la ̣i toàn bộ ruô ̣ng đất của từ ng vù ng, miền và cả nướ c là mô ̣t yêu cầu rất quan tro ̣ng. Có nắm đươ ̣c số ruô ̣ng đất thực thì Nhà nướ c mớ i đề ra đươ ̣c chính sách thuế ruô ̣ng đất phù hơ ̣p. Thuế ruô ̣ng là nguồ n thu quan tro ̣ng, lớ n nhất; nhằ m duy trì các hoạt đô ̣ng củ a bô ̣ máy nhà nướ c.” [64, tr. 183]. Việc nắ m được tình hình ruô ̣ng đất cò n giú p Nhà nước chủ đô ̣ng đề ra các chính sách xã hô ̣i như chính sách cấp ruô ̣ng lô ̣c điền, huệ điền đố i vớ i các công thần; lương điền, cấp ruô ̣ng cho những người đi lính ở các làng xã; chính sách quân điền và chính sách khuyến khích việc khai hoang phục hóa ruộng đất, nhằ m khôi phu ̣c và phát triển sản xuất nông nghiê ̣p trong nướ c. Song muố n thực thi đươ ̣c các chính sách đó thì đều phải dựa vào các cuố n sổ điền ba ̣, đi ̣a ba ̣… Một trong số những nguồ n tư liệu đă ̣c biê ̣t quan tro ̣ng làm căn cứ để Nhà nướ c kiểm soát tình hình đất đai của các vùng, miền trên cả nước chính là đi ̣a ba ̣.
“Địa bạ là văn bản chính thức về địa giới cù ng diện tích và các loại hình sở hữu ruộng đất của làng xã, được lập trên sự khám đạc và xác nhận của chính quyền, dùng làm cơ sở cho việc quản lý ruộng đất và thu tô thuế của nhà nước. Có thể đi ̣nh nghĩa một cách tổ ng quát về đi ̣a ba ̣ như vâ ̣y, tuy mỗi thờ i và mỗi nơi, tên go ̣i và quy cách địa ba ̣ có khác nhau.” [21, tr. 7].
Về hình thứ c, địa bạ là văn bản viết tay (tả văn) thuộc văn bản hành chính pháp quy do chức sắc làng xã viết. Nội dung chủ yếu của nó là kê khai rõ số ruộng
đất hiện có của bổn xã (bao gồm diện tích, đông tây tứ cận, chủ sở hữu, loại ruộng
đất…). Nếu như sổ điền bạ cập nhật đầy đủ hơn tình hình ruộng đất của làng xã thì chỉ cần mô ̣t tâ ̣p địa bạ, người ta có thể lên được một tấm bản đồ địa lý hình thể, nông
nghiệp, kinh tế, xã hội (cơ cấu sở hữu) của cả làng. Bởi vì địa bạ là một quyển sổ ghi
chép và mô tả thật rõ ràng, từ tổng quát đến chi tiết, địa phận của làng. Trước hết,
phải xưng danh, thuộc hệ thống hành chính tổng huyện phủ tỉnh nào, vị trí đông tây
nam bắc đến đâu, tổng số ruộng đất thực canh cũng như hoang nhàn kể cả hồ ao rừng
núi. Sau đó, phân tích từng loại hạng ruộng đất, mỗi sở điền hay thổ, rộng bao nhiêu,
36
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn trồng trọt gì, vị trí đông tây nam bắc thế nào, thuộc quyền sở hữu của ai, nếu là của
công thì cũng phải ghi rõ công điền công thổ, hay quan điền quan thổ [21, tr. 35-36].
Trong lịch sử Việt Nam, lần đầu tiên Nhà nước cho lập sổ kê khai ruộng đất là
vào năm 1092 dướ i thờ i Lý, bấy giờ gọi là điền tịch. Thời Lê, ngay sau kháng chiến chống Minh thắng lợi, năm 1428, Lê Thái Tổ đã lệnh cho các địa phương trong cả
nước điều tra, xem xét ruộng đất và lập sổ điền bạ. Quốc triều hình luật cũng quy định cứ bốn năm làm lại sổ điền bạ một lần. Các thế kỷ sau, việc lập và tu bổ địa bạ
tiếp tục được thực hiện trong nhiều năm. Tuy nhiên, hiện nay chỉ còn rất ít địa bạ
trước thế kỷ XIX.
Hai sưu tập địa bạ lớn nhất của nước ta hiện nay, một được bảo quản tại Viện
Nghiên cứu Hán – Nôm và một tại Trung tâm Lưu trữ quốc gia I (Hà Nội). Ngoài ra, vẫn còn một khối lượng đáng kể địa bạ rải rác lưu trữ ở các cơ quan nghiên cứu ở
trung ương, cũng như các địa phương, và nhất là trong nhân dân mà hiện nay chúng
ta chưa có điều kiện thống kê, sưu tầm được. Tổ ng cô ̣ng hai kho đi ̣a ba ̣ ở Viê ̣n Nghiên cứu Hán – Nôm và Trung tâm Lưu trữ Quố c gia I có 10.570 tâ ̣p vớ i 18.519 địa bạ củ a các làng (xã/thôn/phườ ng/ấp/tra ̣i…). Trong số đó có mô ̣t số làng xã có hai đi ̣a bạ vớ i hai niên đa ̣i khác nhau. Đây thực sự là mô ̣t kho tư liê ̣u đồ sô ̣ và vô cù ng quý giá để nghiên cứ u lịch sử nông thôn và đô thị Việt Nam trên nhiều phương diê ̣n. Sưu tầm địa bạ tại Viện Nghiên cứu Hán – Nôm do Viê ̣n Viễn đông bác cổ Pháp (Ecole Francaise d’ Extrême-Orient, EFEO) tiến hành trước năm 1945. Sưu tập này hầu hết là những bản sao từ các làng xã quản lý. Số địa bạ đó được đóng thành
526 tập, mỗi tập có từ một đến nhiều địa bạ, tổng cộng là 1.635 địa bạ, phân bố ở 94
huyện (trước Cách mạng). Trong tổng cộng 526 tập, có 35.331 tờ, tức 70.662 trang,
trung bình mỗi địa bạ có 21,5 tờ, tức 43 trang [21, tr. 10]. Trong số 1.635 địa bạ có 20
địa bạ không ghi niên đại, 2 địa bạ thế kỷ XVII (1694, 1695), 1 địa bạ thế kỷ XVIII
(1723), 4 địa bạ thời Tây Sơn (1790: 3, 1791: 1), còn lại 1.608 địa bạ là địa bạ đời
Nguyễn (1802-1945), chiếm 98,3% tổng số địa bạ của sưu tập này, trong đó 59,6%
địa bạ mang niên đại Gia Long 4 (1805), những năm 1831,1832,1834,1837 dưới triều
Minh Mệnh (1820-1840) mỗi năm có trên dưới 5% địa bạ. Thời Pháp thuộc, có 130
địa bạ (7,9%) mang niên đại từ 1884 đến 1899 và 110 địa bạ (6,7%) mang niên đại từ
1900 đến 1914 [21, tr. 11-12].
37
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Bộ sưu tập địa bạ tại Trung tâm Lưu trữ quốc gia I là những bản chính do triều
đình Nguyễn quản lý. Số địa bạ này được đóng thành 10.044 tập, nhiều tập có hai địa
bạ trở lên, tổng cộng là 16.884 địa bạ, phân bố ở tất cả các trấn, tỉnh trên toàn quốc:
Bắc Kỳ (từ Ninh Bình trở ra): 4.296 tập với 8.704 địa bạ; Trung Kỳ (từ Thanh Hóa
đến Bình Thuận): 5.246 tập với 6.465 địa bạ; Nam Kỳ: 484 tập với 1.715 địa bạ.
Dung lượng toàn bộ kho địa bạ tại Trung tâm Lưu trữ quốc gia I trên dưới một triệu
trang. Theo thố ng kê, 83% đi ̣a ba ̣ mang niên đa ̣i năm 1805 (Gia Long 4) là năm triều Nguyễn tiến hành lâ ̣p đi ̣a ba ̣ trên đất Bắc Hà. Tiếp theo đó, đi ̣a ba ̣ năm 1832 (Minh Mệnh 13), 1837 (Minh Mệnh 18) và 1840 (Minh Mệnh 21) chiếm gần 15%. Cò n những năm khác từ thờ i Gia Long (1802 – 1819) đến đờ i Duy Tân (1907 – 1916) chỉ có 173 đi ̣a ba ̣, chiếm tỉ lê ̣ 2%.
Quản lý nông thôn là trọng tâm của quản lý đất nước, trong đó đất đai có ý nghĩa quan trọng. Vì vâ ̣y, “một trong những biện pháp khá thiết thực để kiểm tra, kiểm soát và quản lý ruộng đất ở các lãng xã, trên cơ sở đó Nhà nước tiến hành tính
thuế và thu thuế là việc nhà Nguyễn bắt các làng xã phải làm địa bạ (sổ ruộng)” [64,
tr. 223]. Triều Nguyễn thành lâ ̣p từ năm 1802 thì năm sau, năm 1803, đã sai lâ ̣p la ̣i đi ̣a ba ̣ các trấn ở Bắc Hà. Năm Gia Long thứ 3 (1804), chiếu chỉ viết: “Ruộng lấy sổ làm căn cứ; thuế lấy ruộng làm sai đẳng. Sổ không định thì thuế không đều, đó không
phải là ý của tiên vương phân biệt ruộng đất để định phú thuế. Vậy hạ lệnh phàm
ruộng của dân, ruộng chiêm ruộng mùa, số mẫu, sào, thước tấc, tọa lạc nơi nào, đều
đem thực số biên vào sổ” [41, tr. 583]. “Từ Nghê ̣ An, Thanh Hó a đến các trấn Bắ c Thành nay phải sứ c xuố ng cho các phủ , huyê ̣n tổ ng, xã trong ha ̣t chiểu theo ruô ̣ng chiêm, ruô ̣ng mù a và ruô ̣ng chiêm mù a 2 vu ̣ trong xã mà kê khai mẫu, sào, thướ c, tấc, ở xứ sở nào và 4 bên đông tây, cướ c chú rõ ràng, làm sổ để nô ̣p. Viê ̣c làm sổ ruô ̣ng này rất quan tro ̣ng, cần phải cố gắng làm cho cẩn thâ ̣n, chớ có sao lãng” [38, tr. 119 ]. Theo đó , các xã thuô ̣c tổ ng, huyê ̣n đều phải chiểu theo ruô ̣ng vu ̣ chiêm, vu ̣ mù a và ruô ̣ng hai vu ̣ chiêm mù a ở trong xã mà kê khai cu ̣ thể số mẫu, sào, thướ c, tấc, to ̣a la ̣c ở xứ đồ ng nào; bố n phía Đông, Tây, Nam, Bắc giáp đâu; cướ c chú rõ ràng ghi thực vào sổ . “Các địa ba ̣ này đươ ̣c hoàn thành vào năm 1805. Sau đó triều Nguyễn tiếp tu ̣c lâ ̣p la ̣i đi ̣a ba ̣ các tỉnh cò n la ̣i, riêng Nam Kỳ đến năm 1836 mớ i tiến hành đo đa ̣c ruô ̣ng đất lâ ̣p đi ̣a ba ̣. Đây là năm lâ ̣p đi ̣a ba ̣ đầu tiên củ a Nam Kỳ, trướ c đó các thôn ấp tự kê khai ruô ̣ng đất để nô ̣p thuế. Đến năm 1836, nó i chung trên pha ̣m vi toàn
38
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn quố c, trừ miền nú i rừ ng xa xôi, các làng xã (và các đơn vi ̣ tương đương như thôn, ấp, tra ̣i, sở , phườ ng, nâ ̣u, thuyền…) đều có đi ̣a ba ̣” [21, tr. 8].
Cũng như các đi ̣a phương khác, viê ̣c lâ ̣p đi ̣a ba ̣ ở huyê ̣n Yên Bác, tỉnh La ̣ng Sơn vào nử a đầu thế kỷ XIX cũng được triều Nguyễn đă ̣c biê ̣t chú tro ̣ng. Các đi ̣a ba ̣ này hiê ̣n đang được lưu trữ ta ̣i Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I (Hà Nô ̣i) vớ i tổ ng số 30 đi ̣a ba ̣ mang ký hiê ̣u từ Q3284 đến Q3313, trong đó 17 đi ̣a ba ̣ có niên đa ̣i năm Gia Long 4 (1805) và 13 địa ba ̣ có niên đa ̣i năm Minh Mê ̣nh 21 (1840).
Bảng 2.1: Thống kê địa bạ huyện Yên Bác năm 1805 và năm 1840
Gia Long 4 Ký Minh Mệnh Tên tổng Tên xã Ký hiệu (1805) hiệu 21 (1840)
1. Phúc Thắng + Q3303 + Q3304 An Châu 2. An Châu + Q3284 + Q3285 (Yên 3. U Đông + Q3287 Châu) 4. An Bố + Q3305 + Q3306
5. Sàn Viên + Q3291 + Q3290
6. Xuân Dương + Q3286
7. Bất Bác + Q3288 Đông 8. Lợi Bác + Q3289 Quan 9. Quan Bản + Q3294 + Q3295
10. Đông Quan + Q3293 + Q3292
11. Mâu Duệ + Q3296 + Q3297
12. Thái Bằng (Thái Thái + Q3298 Bình) Bằng
(Thái 13. Thạch Nham + Q3309 + Q3308
Bình) 14. Lân Ca (Lâm Ca) + Q3307
15. Hằng Sản (Hữu Sản) + Q3301 + Q3302
16. Diên Lạc + Q3312 + Q3313 Lệ Viễn 17. Vĩnh Khương + Q3299 + Q3300
18. Lệ Viễn + Q3310 + Q3311
39
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Tổng 18 17 13
Nguồn: Thống kê địa bạ huyện Yên Bác, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I, Hà Nội
Trong tổ ng số 30 xã, có 12 xã đươ ̣c lâ ̣p đi ̣a ba ̣ trong hai thờ i điểm Gia Long 4 và Minh Mê ̣nh 21, đó là: An Châu, Sàn Viên (hay còn gọi là Sằ n Viên, đầu thờ i Nguyễn là xã Sằn Khê [55, tr.619]), Đông Quan, Quan Bản, Mâu Duệ, Vĩnh Khương, Hằng Sản (hay còn gọi là Hữu Sản, từ đờ i Thiê ̣u Tri ̣ trở về trướ c là xã Hằng Sản, từ đầu đờ i Tự Đức (1848) kiêng đồ ng âm chữ Hằng (tên hú y me ̣ vua Tự Đứ c), đổ i là Hữu Sản [55, tr.619 ]), Phúc Thắng, An Bố , Tha ̣ch Nham, Lê ̣ Viễn, Diên La ̣c. Các địa bạ trong cả nướ c nó i chung cũng như đi ̣a ba ̣ huyê ̣n Yên Bác, tỉnh La ̣ng Sơn nó i riêng đều có bố cu ̣c chung gồ m 4 phần. Bố cục địa bạ huyện Yên Bác như sau:
Phần thứ nhất, xác đi ̣nh đi ̣a phâ ̣n củ a làng xã vớ i tên go ̣i, vi ̣ trí hành chính thuộc tổng, huyện (Yên Bác), tỉnh (Lạng Sơn) cù ng giáp giớ i bố n phía nam, bắc, đông, tây. Ghi rõ họ tên của những người kê khai gồm sắc mục, xã trưởng, thôn
trưởng... cùng toàn xã (ghi rõ địa danh xã, tổng, huyện, phủ, tỉnh).
Phần thứ hai, kê khai rõ diê ̣n tích ruộng đất của làng xã gồm toàn bộ ruộng đất
tư, trong đó có bao nhiêu diện tích ruộng đất canh tác (thực trưng), ruộng đất của các
họ, đất phụ canh, không có ruông đất công, lưu hoang, thổ trạch, viên trì… Đối với
ruộng đất canh tác, phân loại theo chất lượng của đất thành loại một, loại hai, loại ba
và số vụ gieo trồng mỗi năm là vụ thu.
Phần thứ ba, kê khai từng thửa ruộng đất với những thông tin về diện tích, vị
trí, giáp giới bốn phía đông, tây, nam, bắc, phân loại ruộng đất, họ tên người chủ sở
hữu và những người có ruộng đất phụ canh thì ghi rõ quê quán và diện tích sở hữu phụ canh của người đó. Phần này chiếm đến 90% số trang địa bạ.
Phần thứ tư là phần thủ tục hành chính gồm sự xác nhận địa bạ có bao nhiêu
tờ, lời cam kết kê khai chính xác về diện tích cũng như các loại ruộng đất, và cuối
cùng là ngày, tháng, năm lập địa bạ (ghi theo niên hiệu của vua trị vì) cùng chữ ký
hay điểm chỉ của chức dịch cấp làng xã (Lý trưởng, Hương mục, Hương trưởng…) và
tổng (Cai tổng), chữ ký và dấu triện vuông của những người chịu trách nhiệm cấp
phủ, huyện, trấn hay tỉnh và Bộ hộ.
Như vậy, địa bạ là một tư liệu vô cùng quan trọng. Nghiên cứu địa bạ huyện
Yên Bác, có thể thấy rõ hơn tình hình ruộng đất cũng như sở hữu ruộng đất của huyện
ở nửa đầu thế kỷ XIX.
40
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Trong nửa đầu thế kỷ XIX, nền kinh tế Việt Nam vẫn dựa trên hoạt động sản
xuất nông nghiệp là chủ yếu. Chính vì vậy, ngay sau khi thành lập, nhà Nguyễn cũng
giống như các triều đại phong kiến khác ở Việt Nam trước đây, triều đình đã đề ra
những biện pháp phù hợp nhằm giải quyết vấn đề ruộng đất cho nông dân trong các
làng xã. Trong chiếu ban hành năm Gia Long nguyên niên (1802) đã quy định về vấn
đề sở hữu ruộng đất bị bỏ hoang trong thời kỳ loạn lạc và việc canh tác lại. “Theo đó,
phàm các ruộng đất công hay tư đã bị chính quyền thời Tây Sơn đem cấp cho người
khác thì tùy theo ruộng, đất, hồ ao công hay tư, phải trả lại cho chủ cũ hay làng xã
được quản nghiệp và cày cấy, rồi chiếu theo đẳng hạng để đánh thuế. Riêng các ruộng
đất tư sản của nhà Tây Sơn cùng với công điền, công thổ, quan trại của nhà Lê do
chính quyền Tây Sơn chiếm dụng, thì đều sung làm ruộng đất công” [2, tr. 27]. Bên
cạnh đó, trong bộ luật Hoàng triều luật lệ được ban hành năm 1815, ở Điều 84, pháp
luật triều Nguyễn quy định: Tại những nơi dân cư phải phiêu tán vì loạn lạc, nếu sau
này họ trở về nguyên quán mà trong nhà không có đủ người để canh tác như xưa, thì
nhà nào cày cấy thật sự bao nhiêu cho phép được theo diện tích ấy mà nộp thuế.
Nhưng nếu chiếm dụng quá nhiều ruộng đất mà làm không hết, phải bỏ hoang, thì bị
phạt 30 roi (nếu bỏ hoang từ 3 đến 10 mẫu). Nếu diện tích bỏ hoang tăng thêm 10
mẫu nữa thì tội sẽ gia tăng thêm một bậc nhưng tối đa cũng chỉ đến 80 trượng, số
ruộng đất bỏ hoang ấy bị đem sung công. Ngược lại, nếu là xã có đinh nhiều mà
ruộng ít thì cho phép được làm đơn xin cấp các ruộng đất hoang ở những khu vực lân
cận để cày cấy, quan ty sở tại sẽ chiếu theo khả năng canh tác thực mà cấp ruộng đất
cho. Đối với những ruộng đất nhà nước không sử dụng nữa hoặc mới được bồi trúc
thì nhà nước cho phép được nhập vào làm ruộng đất công làng xã. Trong điều 90,
Luật Gia Long quy định về việc lén lút cày cấy ruộng đất công làng xã. Theo đó,
phàm những kẻ cậy quyền thế lén lút cày cấy gieo trồng hoặc cướp chiếm hoa lợi nơi
ruộng công của làng xã, nếu bị phát hiện sẽ bị phạt cứ mỗi mẫu trở xuống là 50 roi,
thêm 5 mẫu thì phạt thêm một bậc tội, nhưng tối đa là 100 trượng; đối với loại ruộng
xấu thì được giảm 1 bậc tội (tức là 40 roi và tối đa là 90 trượng) cho truy thu những
hoa lợi mà họ đã cướp chiếm trên ruộng đất công làng xã để trả về cho làng xã [2, tr.
28-29]. Dưới thời vua Minh Mệnh năm 1822 quy định, đối với các ruộng xuất phòng
(tức ở những nơi đóng đồn binh) bị bỏ hoang từ lâu năm thì cho phép được sát nhập
vào các làng xã lân cận để làm thành công điền, đem cho các xã dân cày cấy. Đến
41
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn năm Minh Mệnh thứ 8 (1827) còn quy định đối với những dòng sông cũ đã được bồi
lấp và có thể cày cấy thì cho phép sát nhập vào các làng xã lân cận để chia cho xã dân
canh tác và nộp thuế cho nhà nước. Năm Minh Mệnh thứ 17 (1836), nhà vua một lần
nữa quy định, đối với đất lở và đất bồi cho phép dân các xã có đất bị lở xuống sông
được phép khai khẩn những bãi tân bồi do phù sa của những nơi đất lở và bồi thành
để làm thành công điền bản xã. Mặt khác, để bảo vệ ruộng đất công làng xã, nhà nước
đã ra lệnh cấm không được bán đứt hay cầm cố ruộng đất công làng xã. Chẳng hạn,
lệnh cấm ban hành vào năm 1803 nêu rõ: “Theo lệnh cũ thì công điền, công thổ cho
dân gian, quân cấp đem bán riêng là có tội” [2, tr. 28], “nếu xã thôn nào trái lệnh cấm,
quen thói cũ, mua bán riêng với nhau, việc phát giác ra thì người mua nhầm bị mất
tiền gốc, người làm văn khế, người cùng đứng tên trong văn khế và những người làm
chứng đều bị trị tội nặng, ruộng đất đem bán trong văn khế vẫn phải truy trả cho dân
trong xã; lại theo lệ, lấy một mẫu ruộng để thưởng cho người tố cáo, được hưởng hoa
lợi trong thời gian 3 năm” [2, tr. 28-29].
Mặc dù, các vị vua triều Nguyễn đã có rất nhiều cố gắng nhưng ở nử a đầu thế kỉ XIX, tình hình ruô ̣ng đất – tư liê ̣u sản xuất chính củ a nông nghiê ̣p và là nền tảng kinh tế chủ yếu củ a xã hội vẫn đă ̣t ra hàng loa ̣t khó khăn, do hậu quả của các cuộc chiến tranh liên miên suốt thế kỷ XVIII, xã hội không ổn định, dân cư phiêu tán, làm
cho nền kinh tế bị suy sụp vì “lâu năm binh hóa, dân lực tiêu hao”, thêm vào đó “thuế
phiền dịch nặng”, nạn kiêm tính ruộng đất “biến công vi tư” của quan lại, cường hào,
địa chủ ngày càng trầm trọng, ruộng đất bỏ hoang không người cày cấy, thủy lợi
không được quan tâm, lũ lụt, hạn hán xảy ra thường xuyên… là những gánh nặng đè
lên vai người nông dân.
2.2. Yên Bác qua tư liệu địa bạ Gia Long 4 (1805)
2.2.1. Tình hình ruộng đất huyện Yên Bác theo tư liệu địa bạ Gia Long 4 (1805)
Tình hình ruộng đất của cả nước diễn ra dưới sự phát triển mạnh mẽ ruộng đất tư hữu, ruộng đất huyện Yên Bác, tỉnh Lạng sơn cũng nằm trong tình trạng chung đó. Theo Đại Nam nhất thống chí, tổng diện tích ruộng đất công tư của toàn tỉnh Lạng
Sơn là “7.664 mẫu” [40, tr. 436] nhưng không ghi rõ diện tích đất của từng huyện là bao nhiêu. Trong Đồng Khánh địa dư chí đã có chép ruộng đất của huyện Yên Bác như sau: “Số ruộng thực thu thuế: 396 mẫu 5 sào 8 thước 9 tấc. Vâng chiếu kiểm tra huyện hạt năm Tự Đức thứ 5 (1852) số đinh của người Thổ (Tày) là 249 người, số
ruộng tư thực thu thuế 796 mẫu 2 sào 10 thước 6 tấc 3 phân. Sau khi bị phỉ cướp phá, dân đinh lưu tán chưa trở về, ruộng vườn bỏ hoang không khai khẩn. Năm Tự Đức
42
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn thứ 27 (1874) khám tra lại số đinh hiện trở về, số ruộng hiện khai khẩn như trên” [55,
tr. 619]. Các nguồn tài liệu này đã phần nào giúp chúng ta có cái nhìn tổng quát về
ruộng đất huyện Yên Bác lúc bấy giờ.
Theo Phan Huy Chú trong Lịch triều Hiến chương loại chí thì chỉ có trấn Sơn
Nam Hạ là có nhiều ruộng công: “Nước ta duy có trấn Sơn Nam Hạ là rất nhiều
ruộng và đất bãi công, phép quân cấp chỉ nên làm ở xứ ấy là phải, còn các xứ khác thì
các hạng ruộng công không có mấy” [4, tr. 70].
Sự phân hóa trong chế độ sở hữu ruộng đất ở nước ta nửa đầu thế kỷ XIX là
kết quả của sự vận động lịch sử. Tuy nhiên, mức độ và tính chất phân hóa ruộng đất
của các địa phương là khác nhau, dựa vào đặc điểm riêng của từng vùng, miền. Cùng
trong tình trạng chung đó của cả nước, chế độ sở hữu ruộng đất huyện Yên Bác thời
Gia Long 4 (1805) cũng có sự phân hóa lớn. Theo thống kê địa bạ huyện Yên Bác
thời kỳ này thì tình hình đó được thể hiện thông qua 17 địa bạ của 17 xã của huyện
Yên Bác như sau:
Bảng 2.2: Thống kê tình hình ruộng đất huyện Yên Bác
Đơn vị tính: Mẫu.sào.thước.tấc.phân (m.s.th.t.p)
theo địa bạ Gia Long 4 (1805)
Tư điền (m.s.th.t)
Phụ canh (m.s.th.t)
Công điền (m.s.th.t)
Tên tổng
Tên xã
Thổ trạch, viên trì (m.s.th.t)
Tổng diện tích ruộng đất
Thực trưng
3.9.10.5.0
An Châu
Đông Quan
Thái Bằng (Thái Bình)
Lệ Viễn
Phúc Thắng An Châu U Đông An Bố Sàn Viên Xuân Dương Bất Bác Quan Bản Đông Quan Mâu Duệ Thái Bằng Thạch Nham Lân Ca Hằng Sản Diên Lạc Vĩnh Khương
3.9.10.5.0 113.9.05.3.0 113.9.05.3.0 42.7.00.0.0 42.7.00.0.0 113.7.12.0.0 113.7.12.0.0 67.6.00.0.0 67.6.00.0.0 2.1.03.0.0 2.1.03.0.0 54.3.00.0.0 54.3.00.0.0 36.0.13.0.0 36.0.13.0.0 36.0.00.0.0 36.0.00.0.0 4.0.03.0.0 4.0.03.0.0 48.9.06.0.0 48.9.06.0.0 7.1.07.5.0 7.1.07.5.0 56.6.00.0.0 56.6.00.0.0 36.5.01.5.0 36.5.01.5.0 32.9.00.0.0 32.9.00.0.0 15.5.00.6.0 15.5.00.6.0
Lưu hoang
29.0.00.0.0 81.0.12.0.0
43
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
58.8.01.5.0 58.8.01.5.0 730.9.03.9.0 730.9.03.9.0
Lệ Viễn Tổng
100%
100%
36.8.00.0.0 146.8.12.0.0 20%
Nguồn: Theo thống kê 17 địa bạ Gia Long 4 (1805), Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I, Hà Nội
Bảng số liệu trên cho thấy ruộng đất của 17 xã thuộc huyện Yên Bác, tỉnh
Lạng Sơn nửa đầu thế kỷ XIX đã hoàn toàn không có ruộng đất công, toàn bộ số
ruộng đất thuộc sở hữu tư nhân (tư điền) chiếm 100% diện tích ruộng đất của cả
huyện. Tổng có nhiều ruộng tư nhất là tổng An Châu (hơn 271 mẫu), ít nhất là tổng
Thái Bằng (hơn 115 mẫu). Xã có nhiều ruộng tư nhất là xã An Châu (113.9.05.3.0),
thuộc tổng An Châu. Xã có ít ruộng tư nhất là xã Xuân Dương (2.1.03.0.0), thuộc
tổng Đông Quan. Qua đây, ta có thể thấy tùy thuộc vào đặc điểm địa hình riêng của
từng nơi mà số ruộng tư được phân bố ở các xã và các tổng trong huyện Yên Bác là
khác nhau.
2.2.2. Tình hình sở hữu ruộng đất tư
- Ruộng tư (tư điền)
Trên cơ sở phân tích 17 địa bạ huyện Yên Bác nhận thấy trong tổng số diện
tích 730.9.03.9.0 thì toàn bộ là tư điền thực trưng, có phụ canh, không có lưu hoang,
không có thổ trạch, viên trì, không có chủ nữ. Trong đó, sự phân bố diện tích tư điền
ở các xã không đều nhau: Ở xã An Châu (tổng An Châu) có tổng diện tích ruộng tư
điền là 113.9.05.3.0 (41,70%) , trong khi đó xã Phúc Thắng chỉ có 3.9.10.5.0
(1,11%). Và trong các xã, quy mô sở hữu ruộng đất tư hữu lớn với mức độ sở hữu của
các chủ là không đều nhau. Mức độ sở hữu của các chủ được thể hiện qua bảng thống
kê sau:
Đơn vị tính: Mẫu.sào.thước.tấc. phận (m.s.th.t.p)
Bảng 2.3: Quy mô sở hữu ruộng tư theo địa bạ Gia Long 4 (1805)
Số chủ Diện tích (m.s.th.t)
Quy mô sở hữu Dưới 1 mẫu 31 Tỷ lệ (%) 15,12 15.9.11.5.0 Tỷ lệ (%) 2,18
1 - 3 mẫu 93 45,37 117.7.05.6.0 24,31
3 - 5 mẫu 45 21,95 179.9.01.8.0 24,61
5 - 10 mẫu 21 10,24 145.6.07.5.0 20,03
10 - 20 mẫu 13 6,34 161.6.07.5.0 22,03
44
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
20 - 30 mẫu 2 0,98 50.0.00.0.0 6,84
Nguồn: Theo thống kê 17 địa bạ Gia Long 4 (1805), Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I, Hà Nội
Tổng 205 100 730.9.03.9.0 100
Biểu đồ 2.1: Quy mô sở hữu ruộng tư của huyện Yên Bác năm 1805
Qua bảng số liệu và biểu đồ, có thể thấy quy mô và mức độ sở hữu tư điền.
Số chủ có mức sở hữu dưới 1 mẫu là 31 chủ, chiếm 15,12% tổng số chủ và sở
hữu 15.9.11.5.0, chiếm 2,18% tổng diện tích ruộng đất.
Chiếm đa số trong huyện là các chủ có mức sở hữu ruộng từ 1 - 5 mẫu với 138
chủ, chiếm 67,32% tổng số chủ và sở hữu 356.6.07.4.0, chiếm 48,92% tổng diện tích
ruộng đất.
Có 21 chủ có mức sở hữu ruộng đất từ 5 - 10 mẫu, chiếm 10,24% tổng số chủ
và sở hữu 145.6.07.5.0, chiếm 20,03% tổng diện tích ruộng đất.
Có 15 chủ có mức sở hữu từ 10 - 30 mẫu, chiếm 7,32% tổng số chủ và sở hữu
211.6.07.5.0, chiếm 28,87% tổng diện tích ruộng đất. Trong đó, số chủ có mức sở
hữu từ 20 - 30 mẫu chỉ có 2 chủ, chiếm 0,98% tổng số chủ và chỉ sở hữu 50 mẫu,
chiếm 6,84% tổng số diện tích.
Nếu lấy mức sở hữu 5 mẫu làm giới hạn xác định chủ ruộng khá giả thì số chủ
ruộng thuộc loại sở hữu này là 17,56% (36 người), số ruộng mà họ sở hữu chiếm
48,9% tổng diện tích ruộng đất (trên 356 mẫu).
45
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Nhìn chung, các số liệu trên cho thấy trên bình diện chung, Yên Bác là huyện
có mức độ tập trung ruộng đất không cao. Sở hữu ruộng đất của các chủ ở thời điểm
này thuộc loại vừa và nhỏ.
Sở hữu bình quân mô ̣t chủ ở Yên Bác là 3.8.06.7.0. Xã có mứ c sở hữu bình
quân cao nhất là xã Lân Ca (11.3.03.0.0) thuô ̣c tổng Thái Bằng; thấp nhất là xã Phú c Thắng (0.3.09.1.0) thuô ̣c tổ ng An Châu. Cụ thể từng xã như sau:
Bảng 2.4: Bình quân sở hữu và bình quân thửa
Đơn vị tính: Mẫu.sào.thước.tấc.phân (m.s.th.t.p)
Số thửa Số chủ Tên xã, thôn Ruộng tư ghi trong địa bạ (m.s.th.t) Diện tích có thể tính sở hữu (m.s.th.t) Bình quân 1 thửa (m.s.th.t) Bình quân sở hữu 1 chủ (m.s.th.t)
I - Tổng An Châu
1. Phúc Thắng 3.9.10.5.0 3.9.10.5.0 11 0.3.09.1.0 11 0.3.09.1.0
2. An Châu 113.9.05.3.0 113.9.05.3.0 29 3.6.13.6.0 28 4.0.10.3.0
3. U Đông 42.7.00.0.0 42.7.00.0.0 18 2.5.00.8.0 5 8.5.06.0.0
4. An Bố 113.7.12.0.0 113.7.12.0.0 24 4.7.06.1.0 16 7.1.01.6.0
II - Tổng Đông Quan
5. Sàn Viên 67.6.00.0.0 67.6.00.0.0 31 2.1.12.0.0 31 2.1.12.0.0
6. Xuân Dương 2.1.03.0.0 2.1.03.0.0 5 0.4.03.6.0 3 0.7.01.0.0
7. Bất Bác 54.3.00.0.0 54.3.00.0.0 19 2.8.08.6.0 18 3.0.02.5.0
8. Quan Bản 36.0.13.0.0 36.0.13.0.0 23 1.5.10.3.0 10 3.6.01.3.0
9. Đông Quan 36.0.00.0.0 36.0.00.0.0 37 0.9.10.9.0 36 1.0.00.0.0
III - Tổng Thái Bằng (Thái Bình)
10. Mâu Duệ 4.0.03.0.0 4.0.03.0.0 3 1.3.05.0.0 2 2.0.01.5.0
11. Thái Bằng 48.9.06.0.0 48.9.06.0.0 6 8.1.08.5.0 5 9.7.13.2.0
12. Thạch Nham 7.1.07.5.0 7.1.07.5.0 3 2.3.12.5.0 3 2.3.12.5.0
13. Lân Ca 56.6.00.0.0 56.6.00.0.0 7 8.0.12.8.0 11.3.03.0.0 5
IV - Tổng Lệ Viễn
14. Hằng Sản 36.5.01.5.0 36.5.01.5.0 10 3.6.07.6.0 6 6.0.12.7.0
15. Diên Lạc 32.9.00.0.0 32.9.00.0.0 25 1.3.02.4.0 9 3.6.08.3.0
16. Vĩnh Khương 15.5.00.6.0 15.5.00.6.0 24 0.6.06.9.0 9 1.7.03.4.0
46
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 17. Lệ Viễn
58.8.01.5.0 58.8.01.5.0 15 3.9.03.7.0 8 7.3.07.6.0
Nguồn: Theo thống kê 17 địa bạ Gia Long 4 (1805,) Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I, Hà Nội Với tổ ng diê ̣n tích là 730.9.3.9 phân tán trên 290 thử a ruô ̣ng, bình quân sở hữu của một thửa ruộng là 2.7.11.8. Xã có bình quân thử a ruô ̣ng cao nhất là xã Thái Bằng (8.1.8.5) thuộc tổng Thái Bằng và thấp nhất là xã Phú c Thắng (0.3.9.1) thuô ̣c tổ ng An Châu. Qua tình hình sở hữu bình quân về ruô ̣ng đất, cũng như bình quân về thử a và sự phân bố ruộng đất trong các lớp sở hữu, ta có thể thấy: Kết cấu sở hữu ruô ̣ng đất ở Yên Bác nử a đầu thế kỷ XIX đang trong quá trình tâ ̣p trung ruô ̣ng đất vào tay giai cấp thống trị.
Tổng cộng 730.9.03.9.0 730.9.03.9.0 290 2.7.11.8.0 205 3.8.06.7.0
- Sở hữu ruộng đất của phụ canh
Bảng 2.5: Sở hữu ruộng đất của phụ canh
Đơn vị tính: Mẫu.sào.thước.tấc.phân (m.s.th.t.p)
Diện tích Tỉ lệ Tỉ lệ Tên tổng Tên xã Số chủ phụ canh (%) (%) (m.s.th.t)
U Đông 3 20 29.0.00.0.0 19,86 An Châu An Bố 9 60 81.0.12.0.0 55,48
Lệ Viễn 3 20 36.8.00.0.0 24,66 Lệ Viễn
Nguồn: Theo thống kê 17 địa bạ Gia Long 4 (1805), Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I, Hà Nội Trên cơ sở phân tích nguồ n tư liê ̣u đi ̣a ba ̣ năm Gia Long 4 (1805) cò n cho thấy huyê ̣n Yên Bác nử a đầu thế kỷ XIX có hiê ̣n tươ ̣ng phu ̣ canh. Phu ̣ canh là hiê ̣n tươ ̣ng
Tổng 15 100 146.8.12.0.0 100
ngườ i ngoài xã có ruô ̣ng đất trong làng, ngườ i củ a xã, thôn này có ruô ̣ng đất trên đi ̣a phâ ̣n củ a thôn, xã lân câ ̣n, cũng có khi ở mô ̣t thôn thuô ̣c tổ ng, huyê ̣n khác. Tổ ng diê ̣n tích phu ̣ canh củ a cả huyê ̣n là 146.8.12.0.0. Trong đó ở xã U Đông (tổ ng An Châu) có diê ̣n tích phu ̣ canh là 29 mẫu củ a 3 ngườ i thuô ̣c xã An Châu, ở xã Lê ̣ Viễn (tổ ng Lê ̣ Viễn) có diê ̣n tích phu ̣ canh là 36.8.00.0.0 củ a 3 ngườ i thuô ̣c xã An Châu, ở xã An Bố (tổ ng An Châu) có diê ̣n tích phu ̣ canh là 81.0.12.0.0 củ a 9 ngườ i thuô ̣c xã An Châu. Ví du ̣ như trườ ng hơ ̣p củ a Nông Hữu Thái ngườ i xã An Châu, tổ ng An Châu có
47
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn ruô ̣ng 3.0.12.0.0 ta ̣i xã An Bố , tổ ng An Châu; Nông Hữu Thuần ngườ i xã An Châu, tổ ng An Châu có ruô ̣ng 25.6.00.0.0 ta ̣i xã Lệ Viễn, tổng Lệ Viễn. Và qua địa bạ Gia
Long 4 (1805), ta nhận thấy rằng vào thời điểm này chỉ có người của xã An Châu là
có diện tích phụ canh ở các xã khác. Lý giải điều này cũng có thể là do người xã An
Châu có thế lực lớn hoặc do dân xã đông, trong khi diện tích ruộng đất làng xã lại
không đủ để canh tác dẫn đến việc phụ canh ở các xã lân cận. Hoặc phải chăng do
quá trình tư hữu hó a ruô ̣ng đất trên quy mô lớ n diễn ra ma ̣nh mẽ đã dẫn đến tình tra ̣ng mua bán, cầm cố ruô ̣ng đất trở nên phổ biến, ta ̣o điều kiê ̣n cho ngườ i có sở hữu nhỏ đi tìm kiếm thêm ruô ̣ng đất ngoài pha ̣m vi làng xã của mình.
Trong tổng số diê ̣n tích phụ canh là 146.8.12.0.0 của 15 chủ (đều là người
thuộc xã An Châu), thì xã An Bố , tổ ng An Châu có diện tích phụ canh và số chủ phụ
canh lớn nhất với 81.0.12.0.0 của 9 chủ. “Điều này cũng nói lên một thực tế nửa đầu
thế kỷ XIX, hiện tượng phụ canh vẫn còn khá phổ biến. Ruộng đất không chỉ mang ý
nghĩa “mưu sinh” mà còn là “hàng hóa” để trao đổi qua lại giữa những người nông
dân với nhau, giữa những người nông dân với địa chủ cường hào. Tuy nhiên, không
phải sự mua bán nào cũng công bằng bởi trong xã hội lúc này đã xuất hiện nạn chấp
chiếm ruộng đất, không ít cường hào ép buộc người dân phải cầm cố hoặc bán đứt
ruộng đất cho chúng” [15, tr. 47]. Trước tình hình xã hội trong nước như vậy, người
nước ngoài khi đến Việt Nam cũng đã nhận xét rằng: “Giai cấp tốt là những người
làm ruộng, giai cấp xấu xa nhất là các quan lại... Lừa dối vua để hưởng ân huệ, áp
bức dân để lấy của, buôn bán pháp luật để làm giàu trên lưng của những người bất
hạnh” [51, tr.157]. Ngoài ra, trong nhân gian cò n lưu truyền nhiều câu tục ngữ nói về
bọn tham quan, quan lại như: “Ốc nào ốc chẳng ăn cặn” (Hoi tầu ná kin ngầu), có ý
nói quan nào chẳng ăn hối lộ [24, tr.65].
- Chất lượng đất đai
Địa bạ còn là nguồn tư liệu cung cấp thông tin về chất lượng ruộng đất và thời
vụ cấy cày của các xã. Theo địa bạ năm Gia Long 4 (1805), chất lượng ruộng đất của
huyện Yên Bác được chia làm 3 loại: loại 1, loại 2, loại 3. Tất cả ruộng đất đều là thu
điền. Việc phân chia đẳng hạng các loại ruộng như vậy thể hiện tính tốt, xấu của từng
48
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn loại ruộng. Theo đó, ở các xã đều có các phần ruộng xấu, tốt khác nhau. Ruộng hạng
nhất (loại 1) là loại ruộng tốt nhất, sau đó lần lượt đến hạng nhì (loại 2), hạng ba (loại 3).
Trong tổng số 730.9.03.9.0 tư điền thực canh của huyện Yên Bác thì có 173.8.14.3.0
ruộng loại 1 (chiếm 23,70%), 225.9.3.0.0 ruộng loại 2 (chiếm 30,82%)và
331.0.01.6.0 ruộng loại 3 (chiếm 45,48%). Nương bãi ở miền núi thuộc loại hình
nương định canh, được sử dụng lâu dài và mang tính tư hữu. Ở Yên Bác cũng vậy,
nương bãi ở ven sông, nằm quanh chân núi đá vôi trong các thung lũng hoặc sườn
dốc với nhiều loại cây trồng chủ yếu như lúa, ngô, khoai, đậu tương, bông, mía…
Mặc dù đặc điểm chung của miền núi là vùng đồi núi khô cằn với diện tích đất đồi
lớn, hình thức ruộng bậc thang, nương rẫy là chủ yếu và số lượng diện tích ruộng loại
3 luôn lớn nhất nhưng huyện Yên Bác vẫn có đến 173.8.14.3.0 ruộng loại 1, chiếm
23,70% tổng diện tích ruộng đất, là ruộng màu mỡ, nhiều phù sa. Điều này chứng tỏ
nơi đây là một trong những vùng đất có điều kiện phát triển kinh tế nông nghiệp của
tỉnh lúc bấy giờ.
- Sở hữu ruô ̣ng đất củ a các nhó m ho ̣
Mô ̣t trong những vấn đề quan tro ̣ng gó p phần đi vào nghiên cứ u tình hình
nông thôn, làng xã Viê ̣t Nam chính là các thông tin về dò ng ho ̣. Dòng họ là toàn thể
những người có cùng huyết thống với nhau, ngoài ra cò n bao gồ m cả người có quan
hệ thân tộc với nhau thông qua hôn nhân. Mỗi dòng họ thường bắt nguồn từ một vi ̣
thủy tổ, đó thườ ng là người có công “khai sơn phá thạch”, khởi đầu cho dòng họ tại
một địa vực nhất định. Từ đó , dò ng ho ̣ sinh sôi nảy nở , phát triển, bao gồ m nhiều chi
ngành, thế hê ̣ nố i tiếp nhau. Có thể nó i, dò ng ho ̣ là mố i liên kết bền vững nhất trong
tổ chứ c cô ̣ng đồ ng làng xã Viê ̣t Nam. Khi nghiên cứu về nông thôn Việt Nam nói
chung và làng bản miền núi nói riêng, vấn đề dòng họ thân tộc là một trong những
trọng tâm. Trải qua thờ i gian, mố i quan hê ̣ dò ng ho ̣ ngày càng trở nên chă ̣t chẽ, gắn
kết các gia đình tiểu nông thành mô ̣t khố i. Và mô ̣t trong những cơ sở ta ̣o nên sự gắn
kết đó chính là vấn đề sở hữu ruô ̣ng đất. Tuy nhiên, nếu chỉ dựa vào những thông tin
ghi trong đi ̣a ba ̣ thì chưa thể khẳng đi ̣nh rằng những ngườ i có cù ng ho ̣ và đê ̣m nhất
thiết phải là những ngườ i cù ng dò ng ho ̣. Vớ i khái niê ̣m “nhó m ho ̣”, chú ng tôi đưa ra
49
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn dù ng để chỉ tâ ̣p hơ ̣p những dò ng ho ̣ có chung tên go ̣i đầu tiên, chẳng ha ̣n như nhó m
ho ̣ Dương, ho ̣ Đă ̣ng, ho ̣ Nông… Trên cơ sở thố ng kê đi ̣a ba ̣ năm Gia Long 4 (1805),
chú ng tôi đã thố ng kê đươ ̣c các nhó m ho ̣ cũng như quy mô sở hữu như sau:
Bảng 2.6: Quy mô sở hữu ruộng đất theo các nhóm họ năm 1805
Đơn vị tính: Mẫu.sào.thước.tấc.phân (m.s.th.t.p)
STT Họ Số chủ Tỉ lệ (%) Tỷ lệ (%)
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 26 28 Bế Cổ Chu Dương Đặng Đinh Đồng Giáp Hà Hoàng Lang Lăng Lâm Lê Lệnh Lô Lộc Lương Lưu Lý Ma Nông Ngọc Ngô Nguyễn Phạm Phùng Tăng 9 3 3 1 2 6 1 1 17 37 1 1 3 1 3 1 1 6 1 3 2 28 2 1 24 2 4 1 Diện tích (m.s.t.t) 23.7.01.5.0 11.4.00.0.0 9.4.00.0.0 1.0.00.0.0 2.0.00.0.0 54.1.07.0.0 3.8.00.0.0 12.7.00.0.0 26.3.03.0.0 115.1.04.0.0 0.4.00.0.0 2.3.00.0.0 5.2.10.6.0 1.5.00.0.0 9.0.03.0.0 6.8.06.0.0 5.4.00.0.0 21.8.05.0.0 1.8.00.0.0 6.2.00.0.0 6.0.00.0.0 156.7.14.3.0 9.7.00.0.0 1.5.00.0.0 102.3.02.0.0 0.7.00.0.0 10.7.00.0.0 3.0.00.0.0 3,24 1,56 1,23 0,14 0,27 7,49 0,52 1,74 3,56 15,73 0,05 0,32 0,68 0,21 1,23 0,93 0,74 2,98 0,25 0,85 0,82 21,44 1,33 0,21 14,98 0,09 1,46 0,41 4,39 1,46 1,46 0,49 0,98 2,93 0,49 0,49 8,29 18,05 0,49 0,49 1,46 0,49 1,46 0,49 0,49 2,93 0,49 1,46 0,98 13,66 0,98 0,49 11,71 0,98 1,95 0,49
50
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Tống Thường Trần
15.4.00.0.0 87.6.07.5.0 10.5.00.0.0 730.9.03.9.0 0,98 17,04 1,46 100 2,11 11,99 1,44 100 2 35 3 205
29 30 31 Tổng 31 nhóm họ Nguồn: Theo thống kê 17 địa bạ Gia Long 4 (1805), Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I, Hà Nội Thống kê địa bạ 17 xã củ a huyê ̣n Yên Bác, tỉnh La ̣ng Sơn tính đến năm 1805
có 31 nhó m ho ̣ khác nhau trên tổ ng số 205 chủ sở hữu. Nếu tính trung bình thì mỗi ho ̣
có xấp xỉ 7 chủ sở hữu. Tuy nhiên, số lươ ̣ng chủ sở hữu trong các nhó m ho ̣ không
đồ ng đều. Họ chiếm số lượng lớn nhất là nhóm ho ̣ Hoàng (37 người), chiếm 18,05%
tổng số chủ, nhóm họ Thườ ng (35 người), chiếm 17,04 % tổng số chủ và nhóm ho ̣
Nông (28 ngườ i), chiếm 13,66% tổng số chủ, các nhóm họ còn lại phần lớn mỗi họ
tập trung từ 1 đến 10 người. Có một số nhóm họ chỉ có một chủ như các nhóm họ
Dương, Đồ ng, Giáp, Lang, Lăng, Lê, Lô, Lô ̣c, Lưu, Ngô, Tăng.
Xét về quy mô sở hữu của các nhó m ho ̣ ở Yên Bác vào thờ i điểm này, ta thấy
mứ c độ sở hữu ruộng đất giữa các nhóm họ cũng có sự chênh lệch lớn. Bên cạnh
nhóm họ có diện tích sở hữu lớn như họ Nông vớ i 28 người, sở hữu tới 156.7.14.3.0
về ruộng đất, chiếm 21,44%, hay ho ̣ Hoàng vớ i 37 ngườ i, sở hữu tớ i 115.1.4.0 về
ruô ̣ng đất, chiếm 15,73% thì có những nhóm họ có diện tích sở hữu ruộng đất nhỏ
như họ Lang chỉ có 1 ngườ i sở hữu 0.4.00.0.0 về ruô ̣ng đất, chiếm 0.05%, hay ho ̣
Pha ̣m có 2 ngườ i, sở hữu 0.7.00.0.0 về ruộng đất, chiếm 0,09%. Tuy nhiên, nếu đi
vào xem xét cụ thể mức sở hữu bình quân của mỗi chủ trong từng nhóm họ thì có sự
trái chiều. Mô ̣t nhóm họ có diện tích sở hữu lớn nhưng chưa hẳn có diện tích sở hữu
bình quân từng người cao và ngược lại. Điều này có thể chứng minh qua ví du ̣ sau:
Họ Nông với số nhân khẩu là 28 người, số diện tích sở hữu lớn nhất nhưng bình quân
sở hữu chỉ có hơn 5 mẫu. Trong khi họ Giáp chỉ có 1 chủ mà sở hữu tới 12.7.00.0.0
Vi ̣ trí củ a các nhó m ho ̣ lớ n có vi ̣ trí quan tro ̣ng trong làng xã đương thờ i và
ngày càng phát triển theo thờ i gian. “Sự phát triển củ a kinh tế hàng hó a trong thờ i kỳ
phong kiến hâ ̣u kỳ chưa đủ sứ c làm suy yếu quan hê ̣ ho ̣ hàng. Ngươ ̣c la ̣i dướ i tác
du ̣ng củ a tư tưở ng Nho giáo, củ a chính sách thố ng tri ̣ củ a nhà nướ c phong kiến thì
51
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn mố i quan hê ̣ này la ̣i đươ ̣c thắt chă ̣t nhiều hơn, ràng buô ̣c nhiều hơn. Nhà nướ c phong
kiến dựa vào tông tô ̣c, ho ̣ hàng để thố ng tri ̣, lơ ̣i du ̣ng tông tô ̣c làm chỗ dựa cho vương
quyền. Sự kết hơ ̣p này ta ̣o ra những danh gia vo ̣ng tô ̣c có uy quyền lớ n ta ̣i đi ̣a
phương” [56, tr.56].
- Tình hình sở hữu ruô ̣ng đấ t củ a cá c chứ c sắ c Chứ c sắc là những người có chức quyền trong làng xã, là đại diện cho triều đình phong kiến ở địa phương. Chức sắc bao gồm hai loại là chức dịch và sắc mục. Chức dịch
là bộ phận chức sắc quản lý làng xã nằm trong hệ thống tổ chức hành chính của nhà
nước, được nhà nước công nhận chính thức như lý trưởng, xã trưởng, tả bạ, tri thu… Còn
sắc mục là những người được làng xã cử ra đại diện cho cộng đồng, tiêu biểu cho bộ máy
tự quản của làng xã như: hương mục, hương lão, dịch mục.
Qua thố ng kê đi ̣a ba ̣ Gia Long 4 (1805) cho thấy có 56 chứ c sắc, bao gồ m: 24
sắc mu ̣c, 10 thôn trưở ng, 6 khán thủ , và 16 xã trưở ng.
Đơn vị tính: Mẫu.sào.thước.tấc.phân (m.s.th.t.p)
Bảng 2.7: Diện tích ruộng đất của các chức sắc (1805)
Chức vị Số người có ruộng/ tổng số Diện tích sở hữu (m.s.th.t) Tỉ lệ (%) Diện tích bình quân (m.s.th.t) Sắc mục 21/24 87,5 61.2.14.5 2.5.8.1
Thôn trưởng 10/10 100 60.5.7.5 6.0.8.2
Khán thủ 6/6 100 22.3.1.6 3.7.2.7
Xã trưởng 13/16 81,25 47.3.0.0 2.9.8.4
Nguồn: Theo thống kê 17 địa bạ Gia Long 4 (1805), Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I, Hà Nội
Tổng 50/56 89,29 191.4.8.6 3.4.2.8
Từ bảng số liê ̣u trên cho thấy dướ i thờ i Gia Long 4 (1805), huyê ̣n Yên Bác có
4 chứ c sắc: Sắc mu ̣c, thôn trưở ng, khán thủ và xã trưở ng. Tuy nhiên, không phải tất
cả các chứ c sắc đều có thế lực kinh tế: có 6/56 vi ̣ chứ c sắc không có tên trong danh sách chủ ruô ̣ng, nghĩa là không có diê ̣n tích ruô ̣ng đất tư hữu, chiếm 10,71%. Các chứ c sắc cò n la ̣i đều có ít nhiều ruô ̣ng đất, nhưng số lươ ̣ng diê ̣n tích có sự khác nhau, không đồ ng đều giữa các chứ c sắc. Bảng số liê ̣u cho thấy, sắc mu ̣c có số lươ ̣ng nhiều nhất và cũng sở hữu diê ̣n tích ruô ̣ng đất lớ n nhất là 61.2.14.5.0. Nhưng điều đó không
52
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn đồ ng nghĩa vớ i viê ̣c bình quân sở hữu ruô ̣ng đất củ a từ ng sắc mu ̣c là cao nhất. Trên tổ ng số bình quân sở hữu củ a mỗi chứ c sắ c là 3.4.02.8.0 thì thực tế cho thấy, bình quân sở hữu ruô ̣ng đất củ a thôn trưở ng mớ i là cao nhất (6.0.8.2) và số ngườ i có ít ruô ̣ng đất nhất là khán thủ la ̣i có bình quân sở hữu cao thứ hai (3.7.02.7.0), trong khi bình quân sở hữu củ a sắc mu ̣c chỉ là thấp nhất (2.5.08.1.0).
Bảng 2.8: Sở hữu ruộng đất của các chức sắc
Đơn vị tính: Mẫu.sào.thước.tấc.phân (m.s.th.t.p)
theo địa bạ Gia Long 4 (1805)
Số chủ
< 1 mẫu 1 - 3 mẫu 3 - 5 mẫu 5 - 10 mẫu
10 - 20 mẫu
Chức vụ
Không có ruộng
3 (12,5%)
2 (8,33%)
12 (50%)
4 (16,67)
3 (12,5%)
Sắc mục
24 (%)
1.0.00.3.0 24.3.10.0.0 14.1.00.0.0 21.8.01.5.0
2 (20%)
3 (30%)
3 (30%)
2 (20%)
Thôn trưởng
10 (%)
3.9.00.0.0 12.2.00.0.0 21.1.01.5.0 23.3.06.0.0
2 (33,33%)
1 (16,67%)
1 (16,67%)
2 (33,33%)
Khán thủ
6 (%)
1.0.00.0.0. 2.8.10.6.0 3.6.00.0.0 14.8.06.0.0
3 (18,75%)
8 (50%)
2 (12,5%)
2 (12,5%)
1 (6,25%)
Xã trưởng
16 (100%)
12.5.00.0.0 7.1.00.0.0 13.4.00.0.0 14.3.00.0.0
6 (10,71%)
4 (7,14%)
23 (41,07%)
10 (17,86%)
10 (17,86%)
3 (5,36%)
Tổng
56 (100%)
2.0.03.0.0 43.6.05.6.0 37.0.00.0.0 71.1.09.0.0 37.6.06.0.0
Nguồn: Theo thống kê 17 địa bạ Gia Long 4 (1805), Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I, Hà Nội
Trong tổ ng số 56 chứ c sắc vớ i tổ ng sở hữu là 191.4.08.6.0 thì số chức sắc sở
hữu từ 1 - 3 mẫu nhiều hơn cả, có 23 chức sắc, chiếm 41,07% tổng số chức sắc. Số
chức sắc sở hữu từ 5 – 10 mẫu có 10 chức sắc nhưng diện tích sở hữu lớn nhất
(71.1.09.0.0, chiếm 37,17% tổng diện tích sở hữu của các chức sắc). Có thể nó i, trong
thờ i gian này, các chứ c sắc nắ m phần lớ n diê ̣n tích ruô ̣ng đất trong tay. Bên ca ̣nh đó ,
la ̣i có các chứ c sắc mă ̣c dù có chứ c quyền nhưng không có ruô ̣ng đất. Như đã nêu ở
53
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn trên, số lươ ̣ng chứ c sắc không có ruô ̣ng đất trong huyê ̣n là 6/56 chứ c sắc, chiếm
10,71% tổng số chức sắc. Các chứ c sắc không có ruô ̣ng đất đó là: Sắ c mu ̣c Trần Đình
Dâ ̣t thuô ̣c xã Tha ̣ch Nham, tổ ng Thái Bằng; sắc mu ̣c Thườ ng Giáp Tro ̣ng thuô ̣c xã
Bất Bác, tổ ng Đông Quan; sắc mu ̣c Lương Đình và xã trưở ng Lương Đình Quái
thuô ̣c xã U Đông, tổ ng An Châu; xã trưở ng Nông Văn Cẩm thuô ̣c xã Sàn Viên, tổ ng
Đông Quan; xã trưở ng Thườ ng Kim Thanh thuô ̣c xã Phú c Thắng, tổ ng An Châu.
Hiện tượng này có thể do những người này khi đảm nhận chức vụ thì họ vẫn chưa
trở thành người chủ sở hữu của gia đình. Theo phong tục của người Tày, Nùng ở
địa phương khi con trai đã kết hôn thì bố mẹ phân chia tài sản ruộng đất cho ra ở riêng
nhưng vẫn chưa tách phần sở hữu được chia ra khỏi địa bạ ruộng đất chung của gia
đình. Cũng có thể do đây là những trường hợp đi ở rể. Ở đây, chúng ta không phân biệt
một cách rõ ràng giữa bộ phận chức dịch và sắc mục trong làng xã song bằng những
phân tích nêu trên thì có thể thấy đội ngũ sắc mục có quyền lực kinh tế thông qua quyền
sở hữu ruộng đất tư lớn hơn hẳn so với các chức dịch. Xã trưởng đứng đầu đơn vị hành
chính cơ sở, nhưng do tính tự quản của cộng đồng làng xã nên cũng phải tôn trọng các
sắc mục và chấp hành những nghị quyết của hội đồng sắc mục về những hoạt động của
cộng đồng làng xã. Điều này thể hiện một phần mối quan hệ giữa “làng” và “ nước”,
giữa “lệ làng” và “phép nước”, và thực tế cũng đã cho thấy có đôi khi “phép vua thua lệ
làng”. Diện tích ruộng đất nằm phần lớn trong tay đội ngũ chức sắc làng xã, chi phối trực
tiếp đến quyền lực chính trị ở nông thôn.
2.3. Yên Bác qua tư liệu địa bạ Minh Mệnh 21 (1840)
2.3.1. Tình hình ruộ ng đ ấ t huyệ n Yên Bác theo tư liệ u đ ị a bạ
Minh Mệ nh 21 (1840)
Trên cơ sở các chính sách ruộng đất có từ thời Gia Long, để nhằm ổn định và
kiểm soát chặt chẽ hơn nữa tình hình ruộng đất của từng vùng miền trong cả nước, sau
khi lên ngôi, Minh Mệnh đã thực hiện nhiều chủ trương, chính sách mạnh tay, can thiệp
sâu hơn vào vấn đề ruộng đất đang trong quá trình tư hữu hóa ngày càng mạnh. Một
54
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn trong những chủ trương đó là việc ban hành chính sách quân điền. Các chính sách đó đã
được thực hiện, tuy không thể chấm dứt được hoàn toàn nhưng đã làm chậm lại phần nào
đó quá trình tư hữu hóa ruộng đất ở nửa đầu thế kỷ XIX.
Để tiếp tục tìm hiểu diễn biến tình hình ruộng đất huyện Yên Bác trong khoảng
35 năm (nửa đầu thế kỷ XIX), chúng tôi sử dụng địa bạ của 13 đơn vị làng xã có địa bạ
năm Minh Mệnh 21 (1840). Qua việc thống kê, xử lý số liệu trong 13 tập địa có niên đại
Minh Mệnh 21 (1840), các loại ruộng đất của Yên Bác được phân bố như sau:
Bảng 2.9: Thống kê tình hình ruộng đất huyện Yên Bác
Đơn vị tính: Mẫu.sào.thước.tấc.phân (m.s.th.t.p)
qua địa bạ Minh Mệnh 21 (1840)
Phụ canh (m.s.th.t)
Tư điền (m.s.th.t)
Công điền (m.s.th.t)
Tên tổng Tên xã
Thổ trạch, viên trì (m.s.th.t)
Tổng diện tích ruộng đất
Thực trưng
An Châu
Đông Quan
Phúc Thắng 10.4.10.5.0 10.4.10.5.0 128.9.05.3.0 128.9.05.3.0 An Châu 115.7.12.0.0 115.7.12.0.0 An Bố 77.1.00.0.0 77.1.00.0.0 Sàn Viên 63.3.00.0.0 63.3.00.0.0 Lợi Bác Quan Bản 37.0.13.0.0 37.0.13.0.0 Đông Quan 46.0.00.0.0 46.0.00.0.0
Lưu hoang
5.0.00.0.0
Mâu Duệ
7.0.03.0.0 7.0.03.0.0
Thạch Nham 10.6.07.5.0 10.6.07.5.0
Thái Bằng (Thái Bình)
45.5.01.5.0 45.5.01.5.0 39.9.00.0.0 39.9.00.0.0
Lệ Viễn
28.0.00.6.0 28.0.00.6.0
Hằng Sản Diên Lạc Vĩnh Khương Lệ Viễn
58.8.01.5.0 58.8.01.5.0 668.5.09.9.0 668.5.09.9.0
Tổng
100%
100%
5.0.00.0.0 0,75%
Nguồn: Theo thống kê 13 địa bạ Minh Mệnh 21 (1840), Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I, Hà Nội
55
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Từ bảng thống kê trên ta thấy: Cho đến tận năm 1840, tức là sau khi các triều
đại nhà Nguyễn lên ngôi được 38 năm (1802 – 1840), diện tích tư điền vẫn chiếm
100% tổng diện tích cả huyện, không có tư thổ, công thổ, không có chủ nữ, không có
lưu hoang. Dưới thời Minh Mệnh, nếu như tỉ lệ ruộng tư trên cả nước là 82,92% [35,
tr. 159], thì tỉ lệ ruộng tư của huyện Yên Bác vẫn chiếm tới 100% , toàn bộ là tư điền thực
trưng. Tuy nhiên, sự phân bố diện tích tư điền là không đều giữa các xã: Xã An Châu, tổng
An Châu có diện tích tư điền lớn nhất (128.9.05.3.0), chiếm19,16% tổng diện tích ruộng
đất; xã Mâu Duệ, tổng Thái Bằng có diện tích tư điền nhỏ nhất (7.0.03.0.0), chiếm
1,05% tổng diện tích ruộng đất.
2.3.2. Tình hình sở hữu ruộng đất tư
- Ruộng tư (tư điền)
Căn cứ vào số liệu của 13 địa bạ Minh Mệnh 21 (1840), có thể thấy được số
lượng chủ của 13/30 xã cùng mức độ sở hữu của họ theo quy mô sở hữu như sau:
Đơn vị tính: Mẫu.sào.thước.tấc.phân (m.s.th.t.p)
Bảng 2.10: Quy mô sở hữu ruộng tư theo địa bạ Minh Mệnh (1840)
Quy mô Tỷ lệ Diện tích Tỷ lệ Số chủ sở hữu (%) (m.s.th.t) (%)
Dưới 1 mẫu 27 13,24 14.5.10.5.0 2,20
1 - 3 mẫu 72 35,29 120.4.00.0.0 18,01
3 - 5 mẫu 79 38,73 290.7.05.3.0 43,49
5 - 10 mẫu 19 9,31 129.0.07.6.0 19,27
10 - 20 mẫu 6 2,94 88.2.01.5.0 13,20
20 - 30 mẫu 1 0,49 25.6.00.0.0 3,83
Nguồn: Theo thống kê 13 địa bạ Minh Mệnh 21 (1840), Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I, Hà Nội
Tổng 204 100 668.5.09.9.0 100
56
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Biểu đồ 2.2: Quy mô sở hữu ruộng tư của huyện Yên Bác năm 1840
Phân tích số liệu trên, ta thấy: Số người sở hữu dưới 1 mẫu có 27 chủ (chiếm
13,24%), sở hữu 14.5.10.5.0 (chiếm 2,20%). Tập trung chủ yếu là từ 1 đến 5 mẫu với 151
chủ (chiếm 74,02%), sở hữu 411.1.05.3.0 (chiếm 61,50%). Từ 5 đến 10 mẫu có 19 chủ
(chiếm 9,31%), sở hữu 129.0.07.6.0 (chiếm 19,27%). Từ 10 đến 20 mẫu có 6 chủ (chiếm
2,94%), sở hữu 88.2.01.5.0 (chiếm 13,20%). Còn từ 20 đến 30 mẫu chỉ có 1 chủ (chiếm
0,49%), sở hữu 25.6.00.0.0 (chiếm 3,83%).
Như vậy, với tình trạng sở hữu tư điền của Yên Bác năm 1840 là 204 chủ sở hữu có
tổng diện tích sở hữu lên tới 668.5.09.9.0thì mức sở hữu bình quân của một chủ cụ thể
như sau:
Đơn vị tính: Mẫu.sào.thước.tấc.phân (m.s.th.t.p)
Bảng 2.11: Bình quân sở hữu và bình quân thửa
Tên xã, thôn Số thửa Số chủ
Ruộng tư ghi trong địa bạ (m.s.th.t) Diện tích có thể tính sở hữu (m.s.th.t) Bình quân 1 thửa (m.s.th.t) Bình quân sở hữu 1 chủ (m.s.th.t)
I - Tổng An Châu
1. Phúc Thắng 10.4.10.5.0 10.4.10.5.0 15 0.6.14.7.0 15 0.6.14.7.0
2. An Châu 128.9.05.3.0 128.9.05.3.0 36 3.5.12.2.0 35 3.6.12.5.0
3. An Bố 115.7.12.0.0 115.7.12.0.0 28 4.1.05.2.0 10 11.5.11.7.0
II - Tổng Đông Quan
4. Sàn Viên 77.1.00.0.0 77.1.00.0.0 33 2.3.05.4.0 31 2.4.13.0.0
57
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 5. Lợi Bác
63.3.00.0.0 63.3.00.0.0 21 3.1.00.0.0 21 3.1.00.0.0
6. Quan Bản 37.0.13.0.0 37.0.13.0.0 24 1.5.06.7.0 9 4.1.03.1.0
7. Đông Quan 46.0.0.0 46.0.00.0.0 39 1.1.11.9.0 39 1.1.11.9.0
III - Tổng Thái Bằng (Thái Bình)
8. Mâu Duệ 7.0.03.0.0 7.0.03.0.0 2.3.06.0.0 2.3.06.0.0 3 3
9. Thạch Nham 10.6.07.5.0 10.6.07.5.0 1.5.03.2.0 3.5.07.5.0 7 3
IV - Tổng Lệ Viễn
10. Hằng Sản 45.5.01.5.0 45.5.01.5.0 13 3.5.00.1.0 10 4.5.07.6.0
11. Diên Lạc 39.9.00.0.0 39.9.00.0.0 23 1.7.05.2.0 11 3.6.04.0.0
12. Vĩnh Khương 28.0.00.6.0 28.0.00.6.0 26 1.0.11.5.0 3.5.00.0.0 8
13. Lệ Viễn 58.8.01.5.0 58.8.01.5.0 14 4.2.00.1.0 6.5.05.1.0 9
Nguồn: Theo thống kê 13 địa bạ Minh Mệnh 21 (1840), Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I, Hà Nội
Tổng cộng 668.5.09.9.0 668.5.09.9.0 282 2.3.10.6.0 204 3.2.11.5.0
Từ bảng số liệu trên cho thấy: Bình quân chủ sở hữu của một chủ nhiều nhất là
xã An Bố, tổng An Châu với 11.5.11.7.0, ít nhất là xã Phúc Thắng, tổng An Châu với
0.6.14.7.0. Với quy mô và diện tích như vậy, có thể nói các xã thuộc huyện Yên Bác
có diện tích ruộng đất thuộc loại vừa và nhỏ.
- Sở hữu ruộng đất của phụ canh
Trong 204 chủ sở hữu ở trên, chúng tôi thống kê thấy có 203 chủ sở hữu là
phân canh, chiếm 99,51%, còn lại chỉ có 1 chủ sở hữu (chiếm 0,49%) là phụ canh.
Nếu như ở 17 xã có địa bạ niên đại Gia Long 4 (1805) có đến 15 người phụ canh với
tổng diện tích phụ canh là 146.8.12.0 thì ở 13 xã có địa bạ niên đại Minh Mệnh 21
(1840) chỉ có 1 phụ canh với diện tích là 5.0.00.0.0. Đó là Nông Quang Đường, người
xã An Châu, tổng An Châu có ruộng (5.0.00.0.0) tại xã An Bố, tổng An Châu. Như
vậy, đến năm 1840, số lượng phụ canh đã giảm đi rất nhiều.
- Chất lượng ruộng đất
58
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Cũng như các huyện miền núi phía bắc, đến năm Minh Mệnh 21 (1840), ruộng
đất Yên Bác chủ yếu là ruộng loại 3 (tam đẳng) với diện tích là 351.0.10.6.0, chiếm
52,54% tổng diện tích ruộng đất và chủ yếu là ruộng vụ thu. Bên cạnh đó, số lượng
ruộng đất thuộc loại 1 và 2 cũng chiếm tỉ lệ khá cao, trong đó, ruộng loại 1 là
138.2.14.3.0, chiếm 20,66%; ruộng loại 2 là 179.2.00.0.0, chiếm 26,80%. Loại 1 là
loại ruộng tốt nhất, nhiều phù sa, màu mỡ. Điều này cho thấy ruộng đất của huyện
Yên Bác tuy chủ yếu là ruộng loại 3 khô cằn, kém màu mỡ nhưng so với một số
huyện miền núi khác như huyện Chiêm Hóa (tỉnh Tuyên Quang) chỉ có ruộng loại 3
(1494.3.11.3.0), không có loại nhất và nhì [14, tr. 27] thì huyện Yên Bác vẫn là huyện
có nhiều tiềm năng và thuận lợi cho việc phát triển kinh tế nông nghiệp với 20,66%
ruộng loại 1 và 26,80% ruộng loại 2.
- Sở hữu ruộng đất của các nhóm họ
Cũng như trong thống kê địa bạ Gia Long 4 (1805), ở địa bạ Minh Mệnh 21
(1840) chúng tôi thống kê thành các nhóm họ theo quy ước căn cứ vào chữ đầu tiên
của tên người chủ sở hữu. Theo đó, có 204 chủ sở hữu tư điền của Yên Bác thuộc 26
họ khác nhau và được phân bố như sau:
Đơn vị tính: Mẫu.sào.thước.tấc.phân (m.s.th.t.p)
Bảng 2.12: Quy mô sở hữu ruộng đất theo các nhóm họ năm 1840
Diện tích STT Số chủ Tỉ lệ (%) Tỷ lệ (%) Họ (m.s.t.t)
Bế 1 10 4,90 34.3.01.5.0 5,63
Chu 2 4 1,96 11.7.00.0.0 1,75
Đinh 3 1 0,49 5.5.00.0.0 0,82
Đỗ 4 1 0,49 2.1.00.0.0 0.31
Giáp 5 1 0,49 3.0.00.0.0 0,45
Hà 6 19 9,31 44.2.03.0.0 6,61
Hoàng 7 27 13,24 76.3.00.0.0 11,41
Hứa 8 1 0,49 1.1.00.0.0 0,16
Lâm 9 1 0,49 7.2.10.6.0 1,08
Lê 10 2 0,98 3.2.00.0.0 0,48
59
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
11 Lệnh 5 2,45 14.5.03.0.0 2,17
12 Lô 3 1,47 11.4.00.0.0 1,71
13 Lộc 9 4,41 10.0.00.0.0 1,50
14 Lương 8 3,92 21.1.10.5.0 3,16
15 Lưu 2 0,98 6.5.00.0.0 0,97
16 Lý 3 1,47 6.5.00.0.0 0,97
17 Nông 27 13,24 119.2.00.3.0 17,83
18 Ngọc 1 0,49 5.4.00.0.0 0,81
19 Nguyễn 23 11,27 140.5.03.5.0 21,03
20 Phạm 1 0,49 5.5.00.0.0 0,82
21 Phan 2 0,98 0.9.00.0.0 0,13
22 Phùng 4 1,96 9.5.00.0.0 1,42
23 Phương 1 0,49 3.0.00.0.0 0,45
24 Tống 3 1,47 7.4.00.0.0 1,11
25 Thường 41 20,11 87.1.07.5.0 13,03
26 Trần 4 1,96 31.2.00.0.0 4,67
Nguồn: Theo thống kê 13 địa bạ Minh Mệnh 21 (1840), Trung tâm Lưu trữ Quốc Gia I, Hà Nội
Tổng 204 100 668.5.09.9.0 100
Từ bảng số liệu trên có thể thấy, đến thời Minh Mệnh, tổng số các nhóm họ là
26 với 204 chủ. Nhìn chung, sự phân bố số lượng chủ sở hữu và diện tích sở hữu giữa
các nhóm họ là không đều, chỉ số trung bình là (204 : 26) gần 8 chủ sở hữu/1 nhóm
họ. Tuy nhiên, theo thống kê, chỉ có 8 nhóm họ (Bế, Hà, Hoàng, Lộc, Lương, Nông,
Nguyễn, Thường) là có số chủ sở hữu lớn hơn chỉ số trung bình đó, và thậm chí chỉ
riêng số người thuộc các nhóm họ Bế, Hà, Hoàng, Nông, Nguyễn, Thường thì đã
chiếm hơn nửa tổng số chủ tư điền (147 người = 72,06%) và chiếm tới 75,54% tổng
diện tích sở hữu. Bên cạnh đó một số nhóm họ chỉ có 1 chủ sở hữu như nhóm họ
Đinh, Đỗ, Giáp, Hứa, Lâm, Ngọc, Phạm, Phương. Nếu xét về mức độ sở hữu của các
nhóm họ, ta thấy không phải cứ nhóm họ có đông người là đã có mức sở hữu lớn.
Thực tế cho thấy, trong 26 nhóm họ thì nhóm họ Thường có số chủ sở hữu đông nhất,
chiếm 20,10% (41 người) nhưng chỉ sở hữu 13,03% (87.1.07.5.0) diện tích ruộng đất,
trong khi đó, nhóm họ Nguyễn chỉ có số chủ sở hữu chiếm 11,27% (23 người) nhưng
lại có diện tích sở hữu cao nhất, chiếm tới 21,03% (140.5.03.5.0). Còn nếu xét về
60
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn bình quân sở hữu của mỗi chủ trong từng nhóm họ thì không phải cứ nhóm họ nào có
diện tích sở hữu lớn hơn là đã có bình quân sở hữu cao hơn. Trên thực tế, trong 26
nhóm họ, nhóm họ Nguyễn (với bình quân sở hữu là 6.1.01.4.0/1 chủ sở hữu) có diện
tích sở hữu lớn nhất nhưng về bình quân sở hữu thì cao nhất lại là nhóm họ Lâm
(7.2.10.6.0/1 chủ sở hữu) và nhóm họ có diện tích sở hữu ít nhất (0.9.00.0.0) đồng
thời có bình quân sở hữu thấp nhất là nhóm họ Phan (0.4.07.5.0/1 chủ sở hữu).
- Tình hình sở hữu ruộng đất của các chức sắc
Thời Minh Mệnh có sự thay đổi về bộ máy quản lý làng xã. Thông qua cải
cách, Minh Mệnh bỏ chức xã trưởng, thay bằng chức lý trưởng. Trong làng xã chỉ
còn hai chức: Lý trưởng và dịch mục. Theo đó, nhà nước cho các xã thôn, các phường
đều đặt một lý trưởng, định số 50 người trở lên thì đặt thêm một phó lý trưởng, định
số 150 người trở lên thì đặt thêm hai phó lý trưởng. Đều lấy người vật lực, cần cán
làm cho, do cai tổng cùng dân làng đồng tử bầu cử, phủ huyện xét kỹ lại, bẩm lên trấn
để cấp văn bằng và mộc triện. Trách nhiệm của lý trưởng hết sức nặng nề, hoàn toàn
chịu trách nhiệm trước nhà nước về quản lý làng xã, thực hiện mọi nghĩa vụ về tô
thuế, phu phen, tạp dịch. Ở Yên Bác cũng vậy, chức xã trưởng được thay bằng chức
lý trưởng, bên cạnh đó còn có chức dịch mục để giúp việc. Dịch mục là những người
được dân xã cử ra, tiêu biểu cho bộ máy tự quản ở làng xã. Mặc dù thay đổi về tên
gọi nhưng trên thực tế các chức sắc này trong làng xã vẫn là bộ phận có địa vị kinh tế
và chính trị lớn.
Ở huyện Yên Bác có 27 chức sắc, bao gồm: 12 lý trưởng và 15 dịch mục.
Đơn vị tính: Mẫu.sào.thước.tấc.phân (m.s.th.t.p)
Bảng 2.13: Diện tích ruộng đất của các chức sắc (1840)
Chức vị
Số người có ruộng/ tổng số
Tỉ lệ (%)
Lý trưởng
12/12
Diện tích sở hữu (m.s.th.t) 69.7.05.0.0
Diện tích bình quân (m.s.th.t) 5.8.01.6.0
100
Dịch mục
14/15
52.8.03.1.0
3.5.03.2.0
93,33
Tổng
26/27
122.5.08.1.0
4.5.05.8.0
96,30
Nguồn: Theo thống kê 13 địa bạ Minh Mệnh 21 (1840), Trung tâm Lưu trữ Quốc Gia I, Hà Nội
Qua bảng số liệu, ta thấy: Trên tổng số 27 chức sắc thì có 1 vị chức sắc không
có ruộng đất, chiếm 3,70% tổng số chức sắc của cả huyện, đó là dịch mục Nông
Trọng Thanh, người xã Diên Lạc, tổng Lệ Viễn. Điều này chứng tỏ không phải tất cả
các chức sắc đều có thế lực kinh tế như nhau. Bộ phận lý trưởng tuy có số lượng ít
hơn (12 người, chiếm 44,44% tổng số chức sắc) nhưng lại có diện tích sở hữu lớn hơn
61
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn (69.7.05.0.0, chiếm 56,56% tổng diện tích sở hữu của các chức sắc), bình quân sở
hữu cao hơn (5.8.01.6.0). Còn bộ phận dịch mục thì có số lượng nhiều hơn (15 người,
chiếm 55,56% tổng số chức sắc, trong đó có 1 người không có ruộng) nhưng diện tích
sở hữu lại nhỏ hơn (52.8.03.1.0, chiếm 43,44% tổng diện tích sở hữu của các chức
sắc), bình quân sở hữu cũng thấp hơn (3.5.03.2.0).
Bảng 2.14: Quy mô sở hữu ruộng đất của các chức sắc
Đơn vị tính: Mẫu.sào.thước.tấc.phân (m.s.th.t.p)
theo địa bạ Minh Mệnh 21 (1840)
Số chủ <1 mẫu 1 - 3 mẫu 3 - 5 mẫu 5 - 10 mẫu 10 - 20 mẫu Chức vị Không có ruộng
1 (8,33%) 2 (16,67%) 5 (41,66%) 2 (16,67%) 2 (16,67%) Lý trưởng 12 (%) 0.8.10.5.0 5.2.00.0.0 20.6.08.0.0 11.9.00.0.0 31.1.01.5.0
1 (6,67%) 2 (13,33%) 7 (46,66%) 3 (20%) 1 (6,67%) 1 (6,67%) Dịch mục 15 (%) 1.1.00.0.0 14.9.00.0.0 11.7.07.5.0 7.2.10.6.0 17.8.00.0.0
1 (3,70%) 3 (11,11%) 9 (33,33%) 8 (29,64%) 3 (11,11%) 3 (11,11%) Tổng 27 (100%)
1.9.10.5.0 20.1.00.0.0 32.4.00.5.0 19.1.10.6.0 48.9.01.5.0 Nguồn: Theo thống kê 13 địa bạ Minh Mệnh 21 (1840), Trung tâm Lưu trữ Quốc Gia I, Hà Nội
Số liệu trên cho thấy trong tổng số 27 chức sắc với tổng sở hữu là 122.5.08.1.0
thì số chức sắc sở hữu từ 1 - 3 mẫu nhiều hơn cả, có 9 chức sắc, chiếm 33,33% tổng
số chức sắc, sở hữu 20.1.00.0.0. Số chức sắc sở hữu từ 10 – 20 mẫu có 3 chức sắc
nhưng diện tích sở hữu lớn nhất (48.9.01.5.0, chiếm 39,34% tổng diện tích sở hữu của
các chức sắc). Ngoài ra, số lượng chức sắc sở hữu dưới 3 mẫu thì có 25% là của lý
trưởng, 59,99% của dịch mục, còn sở hữu trên 3 mẫu thì có tới 75% thuộc về lý trưởng, 33,34% của dịch mục. Điều này cho thấy bộ phận lý trưởng có nhiều người
nằm trong lớp người khá giả hơn là bộ phận dịch mục. Số chức sắc có sở hữu trên 10 mẫu chiếm 11,11% (16,67% lý trưởng, 6,67% dịch mục). Số lượng chức sắc không có ruộng đất chỉ có 1 người như đã trình bày ở trên.
2.4. So sánh tình hình ruộng đất huyện Yên Bác nửa đầu thế kỷ XIX theo địa bạ năm Gia Long 4 (1805) và địa bạ năm Minh Mệnh 21 (1840)
62
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Trên cơ sở phân tích địa bạ của huyện Yên Bác lập vào hai thời điểm khác
nhau (Gia Long 4 và Minh Mệnh 21) đã giúp tái hiện được phần nào bức tranh toàn
cảnh về chế độ ruộng đất ở nơi đây trong từng thời điểm cụ thể. Để có cái nhìn rõ nét
hơn về sở hữu ruộng đất của huyện, đồng thời thấy được sự thay đổi về quy mô cũng như tình hình sở hữu ruộng đất trong khoảng 35 năm nửa đầu thế kỷ XIX, chúng tôi
sử dụng địa bạ của 12/30 xã có địa bạ ở hai thời điểm Gia Long 4 và Minh Mệnh 21
để so sánh, đối chiếu. Cụ thể như sau:
Bảng 2.15: Thống kê địa bạ của 12 xã có địa bạ có ở hai thời điểm 1805 và 1840 Đơn vị tính: Mẫu.sào.thước.tấc.phân (m.s.th.t.p)
Năm Gia Long 4 (1805)
Năm Minh Mệnh 21 (1840)
Tên xã, thôn
3.9.10.5.0 113.9.05.3.0 113.7.12.0.0
10.4.10.5.0 128.9.05.3.0 115.7.12.0.0
67.6.00.0.0 36.0.13.0.0 36.0.00.0.0
77.1.00.0.0 37.0.13.0.0 46.0.00.0.0
Mâu Duệ Thạch Nham
4.0.03.0.0 7.1.07.5.0
7.0.03.0.0 10.6.07.5.0
Hằng Sản Diên Lạc Vĩnh Khương Lệ Viễn
STT I - Tổng An Châu Phúc Thắng 1 An Châu 2 3 An Bố II - Tổng Đông Quan Sàn Viên 4 Quan Bản 5 Đông Quan 6 III - Thái Bằng (Thái Bình) 7 8 IV - Tổng Lệ Viễn 9 10 11 12 Tổng cộng
36.5.01.5.0 32.9.00.0.0 15.5.00.6.0 58.8.01.5.0 526.2.09.9.0
45.5.01.5.0 39.9.00.0.0 28.0.00.6.0 58.8.01.5.0 605.2.09.9.0
Nguồn: Thống kê địa bạ 12 xã của huyện Yên Bác năm 1805, 1840, Trung tâm Lưu trữ Quốc Gia I, HN Sau 35 năm, tính từ năm 1805 đến 1840, tổng diện tích ruộng đất của 12 xã đã
tăng lên 79 mẫu. Trong đó, toàn bộ vẫn là tư điền thực trưng. Điều này cho thấy quá
trình tư hữu hóa ruộng đất vẫn diễn ra mạnh mẽ trong giai đoạn này. Những chính
sách cùng với các cố gắng của nhà Nguyễn nhằm tăng quỹ đất công trong cả nước đã
không phát huy tác dụng ở huyện miền núi Yên Bác này.
- Tình trạng sở hữu ruộng đất tư
Để thấy rõ hơn sự biến đổi trong mức độ sở hữu của các chủ tư hữu, chúng tôi
lập bảng so sánh sau:
Bảng 2.16: So sánh quy mô sở hữu ruộng đất
ở hai thời điểm 1805 và 1840
63
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Đơn vị tính: Mẫu.sào.thước.tấc.phân (m.s.th.t.p)
Năm Gia Long 4 (1805) Năm Minh Mệnh 21 (1840)
Quy mô Diện tích sở hữu Diện tích sở hữu Số chủ Số chủ sở hữu m.s.th.t m.s.th.t % % % %
14.8.09.5.0 14.5.10.5.0 27 29 Dưới 1 mẫu 17,16% 2,81% 14,75% 2,40%
126.7.05.1.0 104.1.00.0.0 63 74 1 - 3 mẫu 43,79% 24,09% 34,42% 17,19%
167.9.01.3.0 250.2.05.3.0 68 42 3 - 5 mẫu 24,85% 31,92% 37,16% 41,32%
106.2.07.5.0 122.5.07.6.0 18 16 5 - 10 mẫu 9,47% 20,17% 9,84% 20,31%
84.9.01.5.0 88.2.01.5.0 6 7 10 - 20 mẫu 4,14% 16,14% 3,28% 14,55%
25.6.00.0.0 25.6.00.0.0 1 1 20 - 30 mẫu 0,59% 4,87% 0,55% 4,23%
Nguồn: Thống kê địa bạ 12 xã của huyện Yên Bác năm 1805, 1840, Trung tâm Lưu trữ Quốc Gia I, HN
169 526.2.09.9.0 183 605.2.09.9.0 Tổng 100% 100% 100% 100%
64
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Biểu đồ 2.3: Quy mô sở hữu ruộng đất của Yên Bác tại thời điểm 1805 và 1840
Sau 35 năm, sở hữu ruộng đất của huyện Yên Bác có những chuyển biến sau:
Bình quân sở hữu ruộng đất của một chủ ở Yên Bác cuối năm Minh Mệnh 21
(1840) là 3.3.01.1.0, nếu so sánh với bình quân sở hữu ruộng đất của một chủ thời điểm
năm Gia Long 4 (1805) là 3.1.02.1.0 thì rõ ràng bình quân sở hữu ruộng đất của một chủ ở
giai đoạn cuối thời Minh Mệnh lớn hơn 0.1.14.0.0.
Phân tích các bảng số liệu trên có thể thấy:
Năm 1840, thời Minh Mệnh 21, tổng số chủ sở hữu ruộng đất tăng lên so với năm
Gia Long 4 (1805) là 14 người (từ 183 lên 169), nhưng sự gia tăng đó không phân bố đồng
đều cho các lớp sở hữu.
Sang thời Minh Mệnh, lớp chủ sở hữu dưới một mẫu giảm 2,41% và giảm 0,41%
về diện tích. Bình quân sở hữu của một chủ tăng từ 0.5.01.8.0 lên 0.5.05.9.0 (tăng 0.0.4.1).
Lớp chủ sở hữu từ 1 – 3 mẫu giảm 9.37% và tăng 6.9% về diện tích. Bình
quân sở hữu của một chủ giảm từ 1.7.01.8.0 xuống còn 1.6.07.8.0 (giảm 0.9.00.0.0).
Lớp chủ sở hữu từ 3 – 5 mẫu tăng 12.31% và tăng 9.4% về diện tích. Bình
quân sở hữu giảm từ 3.9.14.6.0 xuống còn 3.6.11.9.0 (giảm 0.3.2.7).
Lớp chủ sở hữu từ 5 – 10 mẫu tăng 0.37% và tăng 0.14% về diện tích. Bình
quân sở hữu ruộng đất tăng từ 6.6.06.0.0 lên 6.8.01.2.0 (tăng 0.1.10.2.0).
Lớp chủ sở hữu từ 10 – 20 mẫu giảm 0,86% và giảm 1.59% về diện tích. Bình
quân sở hữu ruộng đất tăng từ 12.1.04.5.0 lên 14.7.00.2.0 (tăng 2.5.10.7.0).
65
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Lớp chủ sở hữu từ 20 – 30 mẫu ở mỗi thời kỳ chỉ có 1 chủ, sở hữu 25 mẫu 6
sào. Thời Gia Long 4 (1805) là Nông Hữu Thuần. Thời Minh Mệnh 21 (1840) là
Nông Hữu Xuân.
- Sở hữu ruộng đất của phụ canh
Từ địa bạ Gia Long 4 (1805) đến địa bạ Minh Mệnh 21 (1840), mặc dù tổng số
chủ tư hữu ruộng đất nói chung tăng 14 người, nhưng riêng về các chủ phụ canh thì
lại giảm (từ 15 người xuống còn 1 người). Theo đó, diện tích sở hữu của phụ canh
cũng giảm (từ 146.8.12.0.0 xuống còn 5.0.00.0.0). Hình thức phụ canh được phản ánh
trong địa bạ của huyện Yên Bác ở cả hai thời điểm không phải là hiện tượng riêng
biệt của địa phương này mà đây là một hiện tượng khá phổ biến ở nước ta đầu thế kỷ
XIX. Những người thuộc xã, tổng này có thể mua ruộng đất ở xã, tổng khác và ngược
lại. Địa bạ ở cả hai thời điểm cho thấy các chủ phụ canh ở Yên Bác đều là người xã
An Châu (tổng An Châu) có diện tích phụ canh ở các xã, tổng khác như xã U Đông
(tổng An Châu), xã An Bố (tổng An Châu), xã Lệ Viễn (tổng Lệ Viễn).
- Chất lượng ruộng đất
Ở cả hai thời điểm Gia Long 4 (1805) và Minh Mệnh 21 (1840), cũng giống
như các huyện miền núi khác, ruộng đất ở huyện Yên Bác có cả 3 loại ruộng nhưng
nhiều hơn là ruộng loại 3 và là ruộng vụ thu (thu điền). Cụ thể là:
+ Thời Gia Long 4 (1805), ruộng loại 1: 123.2.14.3.0; ruộng loại 2:
159.9.00.0.0; ruộng loại 3: 243.0.10.6.0.
+ Thời Minh Mệnh 21 (1840), ruộng loại 1: 123.2.14.3.0; ruộng loại 2:
159.9.00.0.0; ruộng loại 3: 322.0.10.6.0.
Diện tích ruộng đất thuộc loại 1 (nhiều phù sa, màu mỡ) mặc dù ít nhưng vẫn
còn tồn tại trong cả hai thời điểm. Đây là điểm thuận lợi của Yên Bác trong việc sản
xuất kinh tế nông nghiệp nói riêng và phát triển kinh tế nói chung.
- Sở hữu ruộng đất của các nhóm họ
Trong vòng 35 năm, tình hình sở hữu ruộng đất theo các nhóm họ của Yên
Bác có nhiều biến đổi, phản ánh phần nào sự biến động của xã hội đương thời. Từ
những số liệu riêng lẻ về sở hữu ruộng đất tư của từng chủ sở hữu, chúng tôi lập bảng
thống kê so sánh quy mô sở hữu ruộng đất của các nhóm họ qua hai thời điểm lịch sử
(Gia Long 4 và Minh Mệnh 21) để thấy được sự tăng giảm của số chủ và mức độ sở
hữu ruộng đất của từng nhóm họ.
66
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
67
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Đơn vị tính: Mẫu.sào.thước.tấc.phân (m.s.th.t)
Bảng 2.17: So sánh quy mô sở hữu ruộng đất của các dòng họ của 12 xã có địa bạ ở hai thời điểm (1805 và 1840)
STT
Họ
M 21 9 11 9 3 20 86 4 2 1 9 6 5 21 1 1 9 89 142 0 5 58 3
T 5 0 0 0 0 0 0 6 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 3 0 0 5 0
S 7 4 4 8 8 6 1 2 3 5 0 8 4 8 8 5 7 7 1 7 7 3 5
Bế 1 Chu 2 Cổ 3 Đinh 4 Đỗ 5 Đồng 6 Giáp 7 Hà 8 Hoàng 9 Hứa 10 Lâm 11 Lăng 12 Lê 13 Lệnh 14 Lô 15 Lộc 16 Lương 17 Lưu 18 Lý 19 Ngô 20 21 Ngọc 22 Nguyễn Nông 23 Phạm 24 Phan 25 26 Phùng 27 Thường 28 29
Tống Trần
M 31 5 5 2 3 38 63 1 7 3 14 11 8 21 6 6 5 139 119 0 1 77 7 27
Năm Minh Mệnh 21 (1840) T S 5 3 0 7 0 5 0 1 0 0 0 2 0 3 0 1 6 2 0 2 0 5 0 4 0 0 5 1 0 5 0 5 0 4 5 2 3 2 0 9 0 0 5 1 0 4 0 2
Số chủ = % 7 = 4,14 3 = 1,78 3 = 1,78 4 = 2,37 1 = 0,59 15 = 8.88 30 = 17,75 2 = 1,18 1 = 0,59 1 = 0,59 3 = 1,78 1 = 0,59 1 = 0,59 6 = 3.55 1 = 0,59 1 = 0,59 2 = 1,18 21 = 12,43 30 = 17,75 2 = 1,18 3 = 1,78 30 = 17,75 1 = 0,59 169 = 100%
Năm Gia Long 4 (1805) P 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0
Th 01 00 00 07 00 00 13 10 00 00 03 06 00 05 00 00 00 02 14 00 00 07 00 526.2.09.9.0
Tổng
Tỉ lệ (%) 4,12 1,79 2,17 1,86 0,72 3,91 16,36 0,80 0,44 0,29 1,71 1,29 1,03 4,14 0,34 0,29 1,84 16,94 27,00 0,13 1,08 11,08 0,67 100%
Số chủ = % 9 = 4,92 2 = 1,09 1 = 0,55 1 = 0,55 1 = 0,55 17 = 9,29 22 = 12,02 1 = 0,55 1 = 0,55 2 = 1,09 5 = 2,73 3 = 1,64 8 = 4,37 8 = 4,37 2 = 1,09 3 = 1,64 1 = 0,55 22 = 12,02 27 = 14,75 2 = 1,09 1 = 0,55 38 = 20,76 3 = 1,64 3 = 1,64 183 = 100%
Th 1 0 0 0 0 3 0 0 10 0 3 00 00 10 00 00 00 03 00 00 00 07 00 00 605.2.09.9.0
P
Tỉ lệ (%) 5,17 0,94 0,91 0,35 0,50 6,28 10,41 0,18 1,19 0,53 2,40 1,88 1,32 3,49 1,07 1,07 0,89 22,98 19,67 0,15 0,17 12,74 1,22 4,49 100%
Nguồn: Thống kê địa bạ 12 xã của huyện Yên Bác năm 1805, 1840, Trung tâm Lưu trữ Quốc Gia I, Hà Nội
68
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Bảng số liệu trên cho thấy, từ năm 1805 đến năm 1840, xét về số chủ và số họ
thì đều có chiều hướng gia tăng, thêm 14 chủ sở hữu và thêm 1 họ (thời Gia Long có
23 nhóm họ, sang thời Minh Mệnh có 24 nhóm họ), song nếu đi vào xem xét cụ thể
thì số lượng chủ tăng nhanh hơn số họ, hay nói cách khác, bình quân số chủ trong các
nhóm họ năm Gia Long 4 (1805) là khoảng 7,3 người (169 : 23), trong khi đó năm
Minh Mệnh 21 (1840) là khoảng 7,6 người (183 : 24).
Sang thời Minh Mệnh, không còn các nhóm họ Lăng, Ngô, Đồng, Cổ, Phạm
nhưng lại xuất hiện thêm các nhóm họ Tống, Đỗ, Hứa, Lý, Giáp, Phan. Lý giải về
điều này, có thể là do sau một thời gian định cư, sinh sống, họ nhận thấy điều kiện
làm ăn khó khăn, vì với đặc điểm địa hình của một huyện miền núi thì đây là miền
thượng du, hiểm trở, rắn rết ma quỷ thường làm hại cho người. Thứ hai là do tình
hình chính trị không ổn định, đến thời Minh Mệnh, cả nước nổi lên nhiều cuộc khởi
nghĩa nông dân. Tiêu biểu trong thời kỳ này là cuộc khởi nghĩa của Nông Văn Vân ở
Tuyên Quang năm 1833 – 1835, hoạt động ở nhiều tỉnh thành như Lạng Sơn, Cao
Bằng, Thái Nguyên, Phú Thọ, Quảng Ninh, Bắc Giang [28, tr. 178].
Thời Gia Long 4 (1805), các nhóm họ lớn nhất là nhóm họ Hoàng, Thường,
Nông, Nguyễn, chiếm 65,68% về số chủ, với diện tích sở hữu là 71,38%. Trong đó,
họ Nông là họ lớn nhất về số chủ (17,75%) và có diện tích sở hữu lớn nhất (27%).
Đến thời Minh Mệnh 21 (1840), các nhóm họ lớn nhất vẫn là nhóm họ Nông,
Nguyễn, Thường, Hoàng, chiếm 59,55% về số chủ, với diện tích sở hữu là 65,8%.
Trong đó, họ lớn nhất về số chủ là họ Thường (38 chủ), chiếm 20,76%, còn họ có sở
hữu diện tích lớn nhất là họ Nguyễn, chiếm 22,98% tổng diện tích ruộng đất.
- Tình hình sở hữu ruộng đất của các chức sắc
Thông qua nguồn tư liệu địa bạ ở cả hai thời điểm, chúng ta có thể thấy: Dưới
thời Gia Long 4 (1805), hệ thống chức sắc gồm có sắc mục, thôn trưởng, khán thủ, xã
trưởng. Đến thời Minh Mệnh 21 (1840), với cuộc cải cách hành chính trong cả nước,
hệ thống chức sắc chỉ còn lại hai bộ phận, đó là lý trưởng và dịch mục. Để thấy được
tình hình sở hữu của các chức sắc ở mỗi thời điểm lịch sử, chúng tôi tiến hành thống
kê số liệu trên cơ sở 12 xã có địa bạ ở hai thời điểm Gia Long 4 (1805) và Minh
Mệnh 21 (1840) theo bảng so sánh sau:
69
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Đơn vị tính: Mẫu.sào.thước.tấc.phân (m.s.th.t.p)
Bảng 2.18: So sánh tình hình sở hữu của các chức sắc của 12 xã có địa bạ lập ở hai thời điểm (1805 và 1840)
Chức
Năm Gia Long 4 (1805)
Năm Minh Mệnh 21 (1840)
vị
Chức
Không
Không
vị
10 - 20
Dưới 1
Dưới 1
1 – 3
10 - 20
3 - 5 mẫu 5 - 10 mẫu
1 - 3 mẫu 3 - 5 mẫu 5 - 10 mẫu
ruộng
ruộng
mẫu
mẫu
mẫu
mẫu
mẫu
đất
đất
Sắc
1
10
1
1
5
2
2
4
2
Lý
1
mục
0.3.00.0.0
16.3.10.0.0
14.1.00.0.0
13.4.00.0.0
0.8.10.5.0
2.2.00.0.0
20.6.08.0.0
11.9.00.0.0
31.1.01.5.0
trưởng
(%)
Thôn
2
6
3
1
1
2
2
3
1
Dịch
1
trưởng
3.9.00.0.0
8.2.00.0.0
21.1.01.5.0
10.4.00.0.0
mục
1.1.00.0.0
11.9.00.0.0
11.7.07.5.0
7.2.10.6.0
17.8.00.0.0
(%)
1
2
1
2
Khán
1.0.00.0.0
2.8.10.6.0
3.6.00.0.0
14.8.06.0.0
thủ (%)
Xã
5
2
1
1
trưởng
2
7.5.00.0.0
7.1.00.0.0
6.4.00.0.0
14.3.00.0.0
(%)
9
8
3
18
3
7
8
3
3
2
Tổng
Tổng
1
3
1.3.00.0.0
30.5.10.6.0
33.0.00.0.0
55.7.07.5.0
24.7.00.0.0
1.9.10.5.0
14.1.00.0.0
32.4.00.5.0
19.1.10.6.0
48.9.01.5.0
(100%)
Nguồn: Thống kê địa bạ 12 xã của huyện Yên Bác năm 1805, 1840, Trung tâm Lưu trữ Quốc Gia I, Hà Nội
70
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Bảng số liệu trên cho thấy, số lượng chức sắc thời Minh Mệnh 21 (1840) ít
hơn so với thời Gia Long 4 (1805). Trong 12 xã có địa bạ ở cả hai thời điểm thì hầu
hết các chức sắc đều có ruộng tư. Thời Gia Long, các chức sắc chiếm 25,44% về số
chủ (43 người) và chiếm 27,57% diện tích sở hữu (145.3.03.1.0). Sang thời Minh
Mệnh, các chức sắc chiếm 13,66% về số chủ (25 người) và 19,27% diện tích sở hữu
(116.5.07.1.0).
Về mức độ sở hữu thì giữa các lớp chủ sở hữu có sự thay đổi: lớp sở hữu từ 3
đến 5 mẫu và lớp sở hữu từ 10 đến 20 mẫu có sự gia tăng, từ 20,93% lên 32% và
4,65% lên 12%; lớp sở hữu từ 1 đến 3 mẫu và lớp sở hữu từ 5 đến 10 mẫu có sự suy
giảm, từ 41,86% xuống 28% và từ 18,60% xuống 12%. Trong đó, phần lớn các chức
sắc có quy mô sở hữu tập trung từ 1 đến 5 mẫu.
Bên cạnh những chức sắc có ruộng còn có những chức sắc không có ruộng. Số
lượng chức sắc không có ruộng có chiều hướng giảm, từ 6,98% (1805) xuống còn
4% (1840). Mặc dù thời Gia Long 4 (1805) có số chủ và diện tích sở hữu lớn hơn
nhưng xét về số diện tích ruộng đất tập trung trong tay địa chủ khá giả thì thời Minh
Mệnh 21 (1840) lại cao hơn: ở thời Gia Long 4 là 23,26% đến thời Minh Mệnh 21 là
24%. Nhìn chung, các chức sắc vẫn là bộ phận có sở hữu lớn về ruộng đất trong các
làng xã.
Tiểu kết: Thông qua tư liệu địa bạ huyện Yên Bác nửa đầu thế kỷ XIX, chúng
ta có thể thấy rõ được phần nào bức tranh toàn cảnh nông thôn của một huyện miền
núi vùng đông bắc, phên dậu của Tổ quốc. Ở Yên Bác, 100% diện tích là ruộng tư,
ruộng đất công hoàn toàn không có. Chênh lệch này thể hiện sự thắng thế tuyệt đối
của bộ phận sở hữu tư nhân. Ngay từ khi thành lập cho đến thời Minh Mệnh, các vua
nhà Nguyễn đã thực hiện nhiều biện pháp nhằm mở rộng diện tích đất công trong cả
nước. Tuy nhiên, Yên Bác với đặc điểm là một huyện miền núi biên giới phía Bắc,
nơi mà vai trò của các dòng họ thổ ty còn có những ảnh hưởng nhất định trong làng
xã thì những cố gắng đó của nhà nước vẫn chưa thể thực hiện được một cách có hiệu
quả. Điều này được thể hiện rõ qua tư liệu địa bạ Yên Bác năm Gia Long 4 (1805) và
năm Minh Mệnh 21 (1840). Qua đó cho thấy, quy mô sở hữu tư nhân là không lớn,
chủ yếu là sở hữu vừa và nhỏ. Trong đó, phần lớn ruộng đất tập trung vào tay một số
nhóm họ lớn như Hoàng, Thường, Nông, Nguyễn. Các nhóm họ cũng có sự chênh
71
lệch rõ rệt cả về số chủ và diện tích sở hữu. Toàn bộ ruộng đất đều là tư điền thực
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn trưng. Chất lượng đất đai chủ yếu là thuộc loại 3 và là thu điền. Không có lưu hoang
và không có chủ sở hữu là nữ.
Chương 3
KINH TẾ NÔNG NGHIỆP HUYỆN YÊN BÁC TỈNH LẠNG SƠN
NỬA ĐẦU THẾ KỶ XIX
3.1. Kinh tế
3.1.1. Trồng trọt
Vốn là một huyện miền núi biên giới phía Bắc, Yên Bác với đặc điểm địa hình
có sự xen kẽ giữa các dải đồi núi có độ cao trung bình hoặc thấp, giữa đồi núi và các
thung lũng có đất đai màu mỡ ven sông, suối. Bên cạnh đó là sự phong phú về tài
nguyên đã tạo điều kiện cho Yên Bác phát triển kinh tế nhiều ngành nghề, đặc biệt là
kinh tế nông nghiệp.
Yếu tố quan trọng cho sự phát triển của nông nghiệp đó là ruộng đất. Tục ngữ
Tày có câu “Nà cúa háng mường” (ruộng đất là của hàng mường). Mỗi tổng, huyện
được xác định bởi ranh giới riêng biệt, dù trong không gian rộng hẹp khác nhau
nhưng ruộng đất vẫn là của chung. Tuy nhiên, trải qua biến động về lịch sử, sở hữu tư
nhân về ruộng đất đã xuất hiện và ngày càng trở thành một hiện tượng phổ biến ở
Việt Nam thế kỷ XIX.
Ruộng có thể chia làm hai loại là ruộng nước và ruộng chờ mưa. Thứ nhất là
ruộng chờ mưa (nà lèng). Theo thống kê tư liệu địa bạ, ruộng đất huyện Yên Bác nửa
đầu thế kỷ XIX chủ yếu là ruộng loại 2, loại 3, loại ruộng chờ mưa. Do vậy, đất đai
của huyện không có nhiều đất màu mỡ, ruộng phần lớn là chân ruộng cao, khô, thích
hợp với lúa thu, không thích hợp với lúa hè. Vì thế, để canh tác một cách có hiệu quả
thì phải chú trọng công tác thủy lợi và tận dụng các hệ thống sông, suối, nhất là
những vùng đất thấp, thung lũng, gần sông suối. Thứ hai là ruộng nước (nà nặm), là
loại ruộng sẵn có nguồn nước tại chỗ. Loại ruộng này rất thuận tiện cho việc trồng lúa
nước nhưng số lượng diện tích lại không có nhiều.
Trong quá trình canh tác và đúc rút kinh nghiệm, cư dân Yên Bác đã hình
thành nên quy trình sản xuất lúa nước qua nhiều khâu, từ khai phá ruộng, làm đất,
gieo mạ, cấy lúa, chăm bón đến thu hoạch kết hợp với các biện pháp thủy lợi, sử dụng
72
các công cụ lao động thích hợp nhằm tăng năng suất cây trồng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Kĩ thuật làm đất, với đặc điểm vùng núi, địa hình mấp mô, nên ruộng đất canh
tác vùng này mang tính chất ruộng bậc thang là chủ yếu. Bên cạnh đó, cũng có những
nơi đất đai tương đối bằng phẳng. Nếu ở vùng đất cao việc khai phá đất hoang thành
đất ruộng thì mất nhiều công sức. Cư dân phải đào đất thành những khoanh dài trên
đồi (tùy vào địa hình mà diện tích mỗi khoanh có thể khác nhau), phía trên san xuống
phía dưới, rồi đắp thành bờ phía ngoài để giữ nước. Các ruộng tiếp theo bên dưới cũng
làm như vậy. Tuy nhiên, ruộng bậc thang ở các sườn dốc, dễ bị trôi màu (do mưa) làm
cho đất màu ngày càng mỏng và khô cằn. Vì vậy, khâu làm đất cần phải được chú trọng,
quan tâm. Đối với các ruộng ở cả hai địa hình đều phải phát cỏ, đắp bờ cẩn thận để giữ
nước. Tục ngữ dân gian có câu “Nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống”. Do đó, nguồn
nước là vô cùng quan trọng. Đối với những ruộng đã canh tác nhiều vụ, sau khi thu
hoạch, nếu đất và rạ khô thì họ sẽ đốt rạ để cung cấp thêm chất dinh dưỡng cho đất, mặt
khác còn giúp loại trừ được phần nào các sâu bọ hại lúa. Còn nếu đất và rạ đều ướt thì họ
sẽ cày úp thân rạ xuống đất tạo cho đất thêm sự màu mỡ hơn.
Sau khi đã làm sạch ruộng, cư dân bắt đầu tiến hành cày ải, phơi đất vào thời
điểm trước tết Âm lịch. Theo tập quán có từ lâu đời, cày ải có vai trò quan trọng làm
cho đất thêm nguồn dinh dưỡng, đất được phơi khô, vừa hết cỏ, vừa diệt được sâu bọ
có trong đất, vừa làm cho đất khô, tơi, khi gặp trời mưa, đất sẽ “nhừ” thuận lợi cho
canh tác. Người Tày, Nùng có câu “Thây nà bươn lạp, thư háp nắc” (cày ruộng
tháng chạp, gánh nặng vai) [56, tr. 88].
Trước khi gieo cấy, ruộng được cày đi bừa lại nhiều lần. Tục ngữ Tày có câu:
“Nhiều lượt bừa chắc thóc, nhiều lượt chày gạo trắng thêm”. Hơn nữa, theo kinh
nhiệm của đồng bào cho biết: “Cày ruộng lập đông, thóc lúa đầy đồng, nặng trĩu bờ
trên, bờ dưới” [15, tr. 80]. Sau đó, họ tiến hành bón lót (có thể là phân chuồng, lá cây
thân mềm băm nhỏ hoặc phân hóa học), dàn đều phân trong ruộng và cuối cùng là đợt
bừa kĩ để chuẩn bị cấy. Đối với ruộng chờ mưa là những ruộng bậc thang, thường thì
dựa vào nguồn nước mưa nên chỉ cấy được một vụ, không làm hệ thống thủy lợi. Vì
vậy, nhiều khu ruộng loại này có năm phải bỏ không hoặc nếu cấy rồi gặp hạn hán thì
kết quả thu hoạch cũng không cao, có khi mất trắng.
Công cụ làm đất chủ yếu vẫn dùng cày, bừa, cuốc, thuổng, dao... và dùng sức
trâu kéo. Tùy theo mỗi loại ruộng và chất đất khác nhau mà cư dân sử dụng công cụ
73
và quy trình kĩ thuật phù hợp. Công cụ sản xuất phổ biến đồng bào Tày, Nùng là
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn chiếc cày chìa vôi, bừa đơn và bừa đôi, liềm, hái, cuốc, máng hay giá đập lúa, quạt
hòm… Các công cụ có thể do tự tay người nông dân làm ra, trừ những lưỡi bằng kim
khí thì do thợ chuyên môn sản xuất. Những thợ rèn, thợ đúc lưỡi cày phần lớn là
người Nùng hay người Hoa. Cày được làm từ loại gỗ tốt, lưỡi cày bằng gang, được
đúc to bản và dày, bắp cày to, phù hợp với các loại đất ở miền núi. Thân cày dài
1,15m, bắp cày thẳng dài 1,50m. Một chiếc cày truyền thống có trọng lượng nặng
khoảng 8kg, thân dài 1,75m, bắp dài 1,40m hình cong, lưỡi cày làm bằng gang dài
0,37m. Loại cày này có thể lật đất sang cả hai bên rất phù hợp với những loại ruộng
khô của những vùng thung lũng nhỏ, hẹp. Đối với những ruộng trũng, nhiều bùn lầy,
họ dùng bừa để dìm cỏ thối rồi cấy, nếu không cày bừa được thì dùng cuốc, cuốc úp
đất xuống hoặc dùng trâu bò sục nát bùn rồi cấy. Có thể dùng cuốc hoặc dao để vạc
bờ và phát các cây bụi xung quanh bờ.
Về thời vụ, yếu tố thời vụ có ý nghĩa vô cùng quan trọng, liên quan tới năng
suất cây trồng. Nếu không gieo cấy đúng thời vụ, không những giảm năng suất thu
hoạch và có khi còn mất trắng. Theo Đại Nam nhất thống chí: “Mỗi năm chỉ cấy một
mùa, đầu mùa hè gieo mạ, tháng 5 cấy, cuối mùa thu mới gặt. Hang núi mây mù, thấp
nhiệt nung nấu. Khoảng tháng 3, tháng 9, nóng lạnh thay đổi, lam chướng lại càng
nặng. Người địa phương thường lấy sấm, mưa và nước lũ để nghiệm công việc làm
ruộng (năm nào mưa vào ngày mồng 3 tháng 3 thì năm ấy mất mùa ngô đậu; mưa vào
ngày mồng 6 tháng 6 thì mất mùa lúa, nhân dân sinh nhiều bệnh tật; tháng 10 mưa lũ,
thì năm sau không có gạo ăn)” [40, tr. 433, 434]. Sách Đồng Khánh địa dư chí cũng
chép: “Khí hậu nắng mưa theo nông lịch thì vẫn bình thường như các nơi khác.
Tháng 4 hoặc thượng tuần tháng 5 xuống cấy, tháng 8, tháng 9 gặt thóc. Đó là do khí
hậu rét nên không cấy muộn” [55, tr. 597].
Để có được ruộng mạ tốt thì việc chọn giống là rất cần thiết. Thóc được chọn
làm giống được lấy từ những ruộng lúa tốt, đều cây, bông dài, hạt tròn, mẩy. Những
bông lúa được chọn, bó thành từng bó rồi phơi khô, treo trên sàn nhà hoặc gác bếp để
tránh ẩm, mốc. Họ quan niệm rằng “Tốt giống tốt má, tốt mạ tốt lúa”. Đất để gieo mạ
phải là khu ruộng màu mỡ, được cày bừa kỹ càng, phân bón cẩn thận. Ruộng làm mạ
thường được dùng cố định qua nhiều vụ, theo kinh nghiệm “khoai đất lạ, mạ đất
quen”. Trước khi gieo mạ họ thường mang thóc ngâm vào nước một đêm hoặc hơn,
74
rồi vớt ra ủ cho nẩy mầm. Nếu thời tiết rét phải ủ kỹ hơn. Mỗi ngày dội nước ấm một
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn đến hai lần. Khi hạt đã nảy mầm, họ chang chải ruộng mạ và bắt đầu gieo hạt. Đồng
bào thường gieo mạ vào tháng 3 Âm lịch. Do thời tiết tháng 3 vẫn còn lạnh trên ruộng
mạ phải có nước để giữ ấm cho cây. Có nơi để nước sâu 5 – 7 phân để tránh chim
chóc phá hoại. Khi hạt thóc giống đã bén rễ, mọc được khoảng một đốt ngón tay thì
họ tháo nước đi. Công đoạn chăm mạ cũng rất quan trọng bởi “Quan chướng chả,
gỏa chướng nà” (khôn chăm mạ, dại chăm lúa).
Khi mạ đã đến ngày cấy, người dân có thể nhổ mạ, bó thành từng bó rồi đem
đi cấy. Bón phân được chia làm 2 giai đoạn là bón lót trước khi cấy, bón thúc khi làm
cỏ (ủ phân súc vật, phân bắc hoặc phân xanh để bón lúa). Vì đất cằn nên phải bón
nhiều phân để cây lúa mang lại năng suất cao. Cùng với việc bón phân, đồng bào còn
đúc kết kinh nghiệm thời gian làm cỏ, sục bùn để cây lúa phát triển tốt. Sau khi cấy
được khoảng 20 – 40 ngày, cư dân làm cỏ lần thứ nhất bằng cách sục bùn. Nếu ruộng
có nhiều cỏ dại thì phải làm cỏ lần thứ hai. Sau khi cạo sạch cỏ, lấp bùn lên cỏ, phải
tiến hành tháo nước ra khỏi ruộng để ruộng khô nứt rồi tháo nước vào nhằm mục đích
làm chết cỏ và giúp cây cứng hơn. Khi lúa sắp ra đòng thì bón thúc bằng phân chuồng
hoai mục để cây sinh trưởng tốt. Khi cây lúa trổ đòng thì không bón phân nữa để
tránh lúa bị lép và sâu bệnh.
Một số kinh nghiệm chăm sóc lúa xuất phát từ việc quan sát hiện tượng tự
nhiên được cư dân từ lâu đã đúc kết thành các câu tục ngữ và phương ngôn. Để cây
lúa có năng suất cao thì người dân phải: “Trông trời, trông đất, trông mây – trông
mưa, trông nắng, trông ngày, trông đêm”; “fạ mà bươn chiêng phjêng lắt phjêng lí, fạ
mạ bươn nhì đẩy tì đai” (Tháng giêng có sấm, khắp nơi được mùa, tháng hai có sấm,
nơi được, nơi không). Hay “Quăng lếch la noòng, quằng toòng la lẹng” (Vòng sắt – màu
trời xám thì lụt, vòng đồng – màu trời vàng da cam thì hạn) [15, tr. 84].
Và cho đến khi vụ thu hoạch đến mọi nhà, mọi người xuống đồng gạt lúa, đem
thóc về nhà. Thời gian thu hoạch trong khoảng từ tháng 8 đến tháng 10 Âm lịch. Lúa
sau khi gặt được bó lại thành từng bó nhỏ, mỗi bó gồm 4 – 5 nắm. Dụng cụ để thu
hoạch là liềm, hái. Vận chuyển bằng quang treo, đòn gánh… Lúa có thể gánh về nhà
hoặc đập ngay trên ruộng sau khi gặt. Dụng cụ đập lúa là máng đóng bằng gỗ (loỏng).
Hoặc có thể cho trâu quần trên sân cho đến khi thóc rụng hết ra khỏi rơm. Thóc được
75
loại sạch rơm rác, phơi trên sân cho khô rồi dùng quạt tay hoặc quạt hòm cho sạch hết
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn những hạt thóc lép. Sau đó cho vào bồ cất trữ. Khi ăn thì đem giã thành gạo trắng để
nấu cơm [56, tr. 91].
Thủy lợi: Trong canh tác nông nghiệp trồng lúa nước, công tác thủy lợi chiếm
vị trí đặc biệt quan trọng. Nguồn nước tưới cho nông nghiệp ở Yên Bác chủ yếu là từ
hệ thống sông, suối cùng với các khe, mạch chạy ngang dọc các cánh đồng. Đồng bào
có nhiều kinh nghiệm trong việc khơi mương, đào phai, đắp đập, xây dựng hệ thống
guồng tưới nước và máng dẫn nước để tưới những trà ruộng bậc thang, kể cả những
mảnh ruộng cheo leo trên các sườn núi. Mương được đào từ đầu nguồn, đào đến đâu
thì cư dân lại tháo nước thử độ dốc đến đó. Nhiều con mương đưa nước từ trên cao
xuống, có những quãng phải bắc máng (hay “lìn”) bằng tre nứa đưa nước từ sườn đồi
bên kia. Máng dẫn nước được làm bằng thân cây gỗ, cây cọ, chủ yếu là cây mai khoét
rỗng ruột [11, tr. 50]. Thông thường, người ta đắp đập ngăn một khúc suối để nâng
cao mặt nước lên, gọi là “phai nà” (ao ruộng), đưa nước chảy vào mương. Các mương
phai chỉ có thể dẫn nước lên một chiều cao nhất định. Muốn đưa nước lên cao hơn,
người ta sử dụng sức nước sẵn có của mương phai để làm chạy các con nước “cọn
nặm” tức là các nguồn nước hay bánh xe nước. Nhờ đó, kỹ thuật làm cọn nước vẫn
được truyền từ đời này qua đời khác. Và nhờ những cọn đưa nước, dẫn nước mà
người nông dân giảm được bao công sức nhọc nhằn [15, tr. 82].Cọn nước được làm
bằng những vật liệu tự nhiên như tre, gỗ, nứa, mây… có hình bánh xe, đường kính
rộng hẹp khác nhau trên dưới chục mét tùy thuộc vào sự cao thấp của mặt ruộng so
với mặt nước sông hay suối. Ở cánh có những cánh quạt cản nước vào các ống bương
đựng nước buộc chếch ở ngoài vành bánh xe, nước chảy đầy bánh quay, đưa nước
vào ống bương và khi ống bương quay lên phía trên tự đổ vào máng dẫn nước đặt
ngang và nước theo các ống máng chảy vào ruộng. Cọn nước chỉ tưới cho các vùng
ruộng gần sông suối. Các ruộng ở xa phải đào mương dẫn nước. Cọn không chỉ trở
thành hình ảnh quen thuộc của bản làng miền núi, mà còn là nông cụ đắc lực trong
sản xuất nông nghiệp và là nét văn hoá đặc trưng của đồng bào Tày, Nùng nơi đây.
Nương rẫy: Ngoài việc canh tác trên ruộng nước thì kinh tế nương rẫy có vai
trò quan trọng đối với đời sống của cư dân nơi đây. Nương rẫy có hai loại chính là
nương bằng và nương dốc. Nương bằng là khoảng đất bằng phẳng, có thể dùng cày,
bừa làm đất, có thể canh tác lâu dài. Các soi, bãi ven sông, suối cũng thuộc loại hình
76
này. Do bằng phẳng, ít bị rửa trôi nên nương bằng có thể canh tác được nhiều vụ.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn Người Tày sau khi trồng lúa 1 – 2 vụ thì chuyển sang trồng ngô, rất ít khi bỏ. Nương
dốc, không dùng được cày, bừa trong canh tác, phải dùng cuốc, không sử dụng được
lâu dài, chỉ sử dụng nhiều lắm 2 – 3 vụ, sau đó lại phải bỏ hóa, vì đất không được
chăm bón nhiều mà chỉ dựa vào độ dốc của đất, thường bị rửa trôi nên đất nhanh bạc
màu, phù hợp với loại hình du canh, du cư. Ngoài ra, còn có một loại hình nương rẫy
khác, có thể gọi là loại hình thổ canh hốc đá. Đây là một loại hình sản xuất nông
nghiệp có phương thức canh tác phát triển cao và có những đặc điểm khác với loại
hình nương ở vùng núi đất. Vì thổ canh hốc đá được tiến hành ở vùng cao, trên những
sườn núi đá vôi và trong những thung lũng nhỏ hẹp không có hoặc ít nước và không
thể khai phá làm ruộng được, địa hình khó khăn nên đồng bào Tày, Nùng, Mông ở
các vùng ấy chỉ có thể khai phá làm rẫy để trồng ngô, mạch ba góc và các loại hoa
màu khác. Loại nương hốc đá canh tác rất khó, nhưng có thể làm được tương đối lâu
dài do có đá che chắn chống xói mòn, vẫn giữ được độ màu cho đất nương.
Quy trình canh tác nương rẫy cũng được tiến hành theo một chu trình khép
kín: Tìm chọn đất, phát, đốt, dọn, làm đất, gieo trồng, chăm sóc và cất trữ sản phẩm.
Tìm chọn đất là công việc đầu tiên và cũng rất quan trọng. Chất lượng đất
quyết định trực tiếp đến năng suất mùa màng. Để đảm bảo cho việc đi lại thuận tiện,
đồng thời hạn chế sự xói mòn, rửa trôi đất và có thể canh tác trong thời gian dài thì cư
dân địa phương luôn tìm và chọn vị trí làm nương ở những nơi có địa hình ít dốc,
tương đối bằng phẳng. Khu vực canh tác nương rẫy thường là rừng già có nhiều mùn,
tơi, xốp. Khu đất thịt sẽ được trồng lúa, còn khu đất cát pha thì trồng các cây hoa màu
như ngô khoai, bí…
Sau khi tìm được khu đất tốt, họ tiến hành phát, đốt. Đây là hai khâu tất yếu
tiếp theo. Họ phát nương bằng dao quắm và rìu sắt. Phương pháp canh tác là “đao
canh hỏa chủng” (cày bằng dao, đốt cỏ bằng lửa rồi gieo hạt), “đao canh hỏa nậu”
(cày bang dao, bừa bằng lửa) hay “hỏa canh” (cày bằng lửa). Đây là những cách gọi
mô phỏng cách làm nương rẫy, dùng dao phát cỏ, dọn cỏ để đốt, rồi sau đó chọc lỗ tra
hạt. Họ thường phát nương, dọn đất trước 1 – 2 tháng rồi mới gieo hạt (khoảng tháng
12 hay tháng 1 Âm lịch). Việc phát nương được tiến hành từ thấp lên cao, từ những
cây bụi đến các cây to. Trong khoảng thời gian 1 – 2 tháng phơi đất, họ chọn những
ngày nắng để đốt cỏ. Đốt từ cao xuống thấp để hạn chế mức thấp nhất hiện tượng
77
cháy rừng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Làm đất và gieo hạt được tiến hành sau khi đốt cỏ từ 5 – 7 ngày để cho đất
nguội hẳn. Họ thu dọn những cành cây còn sót lại và chặt những rễ cây to dưới đất.
Đối với rừng già hoặc rừng tái sinh, đất tơi xốp, có thể tiến hành tra hạt được ngay
sau khi đốt dọn xong. Họ tra hạt bằng cách chọc lỗ trên nền đất phủ đầy tro đó.
Thường thì người đàn ông chọc lỗ, người phụ nữ theo sau tra hạt rồi dùng chân lấp
lỗ. Các loại cây trồng trên nương như lúa, ngô, lạc, đậu, các loại rau xanh… Còn đối
với những nương đã làm đến lần thứ hai, thứ ba thì sau khi thu hoạch, người dân chỉ
cắt ngọn đối với lúa và bẻ bắp đối với ngô và để cây tự hoai mục. Người Tày làm đến
hai ba vụ lúa rồi sẽ chuyển sang trồng ngô, còn người Dao thì thường khi thấy đất bạc
màu thì họ sẽ đi khai phá vùng nương rẫy mới.
Chăm sóc và bảo vệ: Từ khi gieo trồng cho đến khi thu hoạch, cư dân sẽ làm
cỏ 1 – 2 lần. Công cụ để dọn cỏ là nạo, cuốc, dao. Đối với những nương mới khai phá
thì ít cỏ, chỉ cần làm một lần. Những nương cũ, họ phải làm cỏ 2 – 3 lần, thường làm
lúc sau khi gieo 1 tháng và trước khi ngô, lúa sắp ra bắp, ra đòng. Để trông coi nương
rẫy, họ phải buộc các ống tre, gõ mõ… gây tiếng động để xua đuổi chim, thú, có khi
họ dựng lều ở tại đó để trông coi.
Thu hoạch và cất giữ: Đến mùa thu hoạch, họ tập trung gia đình lên nương.
Thu hoạch ngô tháng 9 và lúa vào tháng 10. Ngô được bó vỏ ngay tại bãi rồi đem về
để lên gác bếp, khi dùng mới lấy xuống tỉa. Lúa được cắt ngang thân bằng liềm, để
thành từng bó, phơi khô một vài ngày rồi đập tiếp tục phơi khô rồi cho vào bồ cất trữ.
Bên cạnh nghề nông nghiệp trồng lúa nước, cư dân địa phương còn biết trồng
bông, dệt vải làm quần áo, nhuộm chàm, nuôi tằm kéo sợi. Những công việc này đều
do người phụ nữ trong gia đình đảm nhiệm từ khâu trồng bông – thu hái bông – bật
bông – kéo sợi – dệt vải – nhuộm chàm – cắt khâu cho đến nuôi trồng thành sản
phẩm. Mỗi năm vào tháng giêng Âm lịch cư dân lại hái dâu nuôi tằm, đến cuối năm
thì được thu hoạch. Ngoài phục vụ cho hoạt động sinh hoạt, người nuôi tằm còn phải
góp cùng với các huyện khác trong tỉnh cho đủ trên dưới 40 – 50 cân để nộp lên bộ.
Ngoài ra, cư dân còn có nghề làm chiếu, nghề trồng mía làm đường, nấu mật... Các
hoạt động thủ công nghiệp này chỉ là nghề phụ, nó được tiến hành trong lúc nông
nhàn và bó hẹp trong phạm vi gia đình, mang tính tự cung, tự cấp. Cư dân vẫn chủ
78
yếu tập trung vào sản xuất nông nghiệp là chính.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Việc trao đổi hàng hóa ở chợ được họp thành phiên theo các ngày quy định.
Tại phiên chợ, họ mang nông sản, sản phẩm thủ công, lâm thổ sản... của nhà mình ra
chợ bán để đổi lấy những mặt hàng cần thiết cho sản xuất và đời sống của gia đình.
Sự trao đổi hàng hóa này diễn ra trong huyện, trong tỉnh và có thể ở cả miền giáp
biên. Nói chung, quy mô phiên chợ rộng hay hẹp còn phụ thuộc vào số lượng dân cư
và giao thông đi lại giữa các vùng miền.
3.1.2. Chăn nuôi
Từ xa xưa, để duy trì cuộc sống, con người đã biết đến săn bắt và hái lượm.
Trải qua quá trình vận động và tiến hóa, những hoạt động này của con người phát
triển lên thành trồng trọt và chăn nuôi. Đây là hai nguồn sống chính của cư dân nông
nghiệp. Vì vậy khi nói đến hoạt động kinh tế nông nghiệp thì trước hết là trồng trọt và
tiếp đến phải là chăn nuôi. Việc chăn nuôi chủ yếu để phục vụ cho sản xuất nông
nghiệp và cải thiện bữa ăn trong cuộc sống hàng ngày.
Nuôi trâu, bò: Việc nuôi trâu, bò có vai trò hết sức quan trọng trong hoạt động
sản xuất nông nghiệp ở khu vực miền núi nói chung và huyện Yên Bác tỉnh Lạng Sơn
nói riêng. Dân gian cũng đã có câu “con trâu là đầu cơ nghiệp”. Người Tày, Nùng
nuôi trâu bò chủ yếu để sử dụng vào việc cày bừa, kéo xe. Bò dùng để cày ở ruộng
khô, còn trâu khỏe hơn thì cày dưới ruộng lầy. Theo kinh nghiệm dân gian, trâu để
cày phải chọn con có dáng đẹp, chân trước phải cao, đuôi dài vừa phải, sừng to mập.
Việc nuôi trâu bò cũng rất đơn giản. Hàng ngày có thể thả rông tự kiếm ăn, tối đến
lùa về. Trước đây, gia súc, gia cầm đều ở dưới gầm nhà sàn. Hiện nay đã có phân biệt
khu chuồng trại với khu nhà ở riêng. Vì thường chăn thả tự do nên cư dân buộc cổ
con trâu đầu đàn một cái mõ để dễ tìm. Muốn cho trâu khỏi sứt mũi, họ thường xâu
bằng cành hóp, làm sẹo mũi nhỏ, phòng khi vướng không bị tuột khỏi mũi. Nhiều nơi
sau mùa cấy, đồng bào nhốt trâu ở các thung lũng trong khe núi để khỏi chăn dắt.
Trâu, bò ở miền núi thường béo tốt do có nhiều đồng cỏ. Cùng với trâu thì bò cũng
được cư dân nơi đây nuôi thả vì “Tò mò giỏ vỏ khỏ” (con bò nâng đỡ kẻ khó). Tiền
vốn để nuôi một con bò ít hơn con trâu, hơn nữa bò lại dễ nuôi và sinh sản tốt hơn
trâu. Vì bò là vật chịu cạn tốt mà ở vùng núi cao hiếm nước. Vì vậy nên việc nuôi bò
cũng rất phổ biến, trung bình mỗi gia đình có một con.
Bên cạnh đó, cũng có một số gia đình nuôi ngựa, chủ yếu dùng để cưỡi và
79
chuyên chở hàng hóa, nông phẩm. Mỗi khi ra đồng hay lên nương, cư dân thường
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn mang ngựa theo vừa để chăn vừa để thồ nông phẩm hay củi. Một số gia đình nuôi
ngựa một mặt để phục vụ sản xuất nông nghiệp, mặt khác để kinh doanh ngựa thồ
hay bán thịt. Ngoài ra, ngựa còn được đem đi chợ phiên để buôn bán. Nhiều mặt hàng
của nước Thanh, trong đó có ngựa cũng được đem sang bán ở nước ta. Theo kinh
nghiệm dân gian, muốn chọn ngựa tốt thì chọn con bụng dài, thót bụng, chân dài, cao,
tai vểnh, khoáy cân đối [15, tr. 88].
Nuôi lợn: Lợn là động vật có giá trị kinh tế cao, thường được nuôi phổ biến
trong các gia đình. Nó cung cấp thịt ăn, lấy mỡ sử dụng trong việc nấu ăn hàng ngày
hay trong các dịp lễ tết, hội hè… Việc lấy giống và để giống được tiến hành chủ yếu
bằng phương pháp tạp giao của đàn. Khi lợn con đã được 2 tháng tuổi, cư dân thường
mang bán ở chợ phiên.Theo kinh nghiệm của nhân dân, những con lợn hay ăn, chóng
lớn là những con chân cao, to, vai nở, mõm ngắn, đuôi dài, mập, lông thưa, da bóng
mỡ. Trước đây, cách nuôi phổ biến vẫn là thả rông, sau đó chuyển dần sang nuôi nhốt
chuồng để tiện vỗ béo và tận dụng nguồn phân bón.
Nuôi gà, vịt: Đây cũng là những loài gia cầm được chăn nuôi phổ biến và đem
lại hiệu quả kinh tế cao cho người nông dân. Nuôi gà, vịt để lấy trứng đem ra chợ
bán, đồng thời còn là nguồn thực phẩm quan trọng trong cuộc sống hàng ngày để cải
thiện bữa ăn, trong đám cưới, tang ma, giỗ tết hoặc thăm hỏi người ốm... Thông
thường, người dân nuôi gà trống thiến để phục vụ nghi lễ, thờ cúng, để ăn Tết Âm
lịch, biếu tết bố, mẹ... Hầu như gia đình nào cũng nuôi gà, vịt dù ít hay nhiều. Những
gia đình khó khăn cũng nuôi ít nhất 5 – 10 con vịt để dùng trong Rằm tháng 7. Theo
phong tục địa phương, trong ngày này chỉ ăn thịt vịt, không ăn thịt gà. Ngoài ra, việc
nuôi gà, vịt cũng rất đơn giản. Các gia đình thường nuôi vịt đàn vào lúc làm cỏ ruộng
và sau vụ gặt để tận dụng những thức ăn sẵn có như sâu, cua, ốc, cá... hoặc nhặt thóc
rơi vãi ngoài đồng ruộng. Đồng thời, chúng giúp sục bùn lên làm cho đất ruộng thêm
màu mỡ.
Nuôi cá: Đây là một trong những nghề truyền thống của cư dân Yên Bác. Do điều
kiện tự nhiên có nhiều sông, suối, ao, hồ nên việc nuôi thả cá có nhiều thuận lợi. Có hai
hình thức: thả cá ở ao và thả cá ở ruộng. Việc nuôi cá ruộng đã trở thành tập quán.
Mặc dù khá phát triển nhưng chăn nuôi vẫn chỉ được coi là nghề phụ. Việc chăn
nuôi một số động vật ăn ngũ cốc như lợn, gà, vịt phát triển hơn các loài khác. Chăn nuôi
80
lệ thuộc nhiều vào nguồn lương thực thu hoạch từ trồng trọt. Chăn nuôi chủ yếu để phục
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn vụ sản xuất nông nghiệp, cung cấp thực phẩm cho con người, phục vụ cho các công việc
cúng bái, lễ nghi… Bên cạnh đó, tình hình chăn nuôi ở Yên Bác vẫn chỉ bó hẹp trong
phạm vi nhỏ bé, cùng với kinh tế trồng trọt còn lạc hậu, đòi hỏi cư dân nơi đây vẫn phải
dựa vào hoạt động kinh tế tự nhiên để góp phần ổn định đời sống.
3.1.3. Kinh tế tự nhiên
Thông qua các hoạt động sắn bắn, hái lượm, người dân Yên Bác đã tạo thêm
được nguồn thu nhập quan trọng cho gia đình, phục vụ đời sống sinh hoạt hàng ngày.
Đây là hoạt động kinh tế khai thác chủ yếu từ thiên nhiên. Nước ta nằm trong vùng
khí hậu nhiệt đới gió mùa đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển mạnh mẽ của
các loài động, thực vật. Từ đó góp phần thúc đẩy mạnh mẽ nhu cầu khai thác tự nhiên
của con người nhằm phục vụ, cải thiện cuộc sống.
Hái lượm: Ngoài các hoạt động sản xuất nông nghiệp là chính, cư dân trong
huyện còn tiến hành hái lượm trong những khi rỗi việc đồng ruộng. Sản phẩm thu hái
là những thức ăn, thực vật có sẵn trong tự nhiên, đôi khi còn là sản phẩm của các loài
động vật như mật ong, nhộng, trứng chim, trứng kiến, các loại nhuyễn thể như ốc,
hến, cua đá, trai trai… Họ thu lượm những sản phẩm có sẵn trong tự nhiên theo mùa,
có khi là các loại rau củ quả có nhiều chất bột như củ mài, củ dong…, có ý nghĩa đối
với đời sống, nhất là vào những tháng giáp hạt hay những năm mất mùa; có khi là các
loại rau rừng như rau muối, rau sam, rau má, chua me, lá khoai môn…; các loại măng
rừng, nấm rừng, mộc nhĩ cũng rất phổ biến. Vào mùa xuân, họ thường đi hái măng
vầu, mùa hè thì hái măng tre. Măng được chế biến theo nhiều cách: ăn tươi, phơi khô
hoặc muối chua. Các loại tre, nứa, giang cũng được thu lượm về để hỗ trợ cho các
hoạt động kinh tế nông nghiệp như làm lạt buộc, làm cán cuốc, cán xẻng, khung che
mạ… Các sản phẩm thu hái về được phân loại, dùng trong các bữa ăn hàng ngày của
gia đình hoặc dùng để phục vụ việc chăn nuôi. Ngoài ra, trên rừng còn có nhiều các
loại cây gỗ lớn, gỗ quý đem lại lợi ích kinh tế cao. Bên cạnh đó, với các hệ thống
đường sông, suối, đường bộ đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc đi lại cũng như vận
chuyển, chuyên chở sản phẩm khai thác được của cư dân.
Săn bắt, săn bắn: Hoạt động săn bắn, săn bắt thú rừng cũng rất phổ biến. Công
việc này được thực hiện khi nông nhàn để cải thiện bữa ăn, tiêu khiển sau vụ mùa hay
để diệt trừ thú rừng phá hoại mùa màng. Các loài thú để sắn bắn, săn bắt rất đa dạng,
81
phong phú, là các loài thú sống trong rừng như: hươu, nai, hổ, báo, gà rừng, hoẵng,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn chim, thỏ… Vũ khí được sử dụng bao gồm cạm, bẫy, nỏ, súng đạn, súng kíp, cung
tên…, đôi khi mũi tên có tẩm độc, thuốc mê dùng trong các cuộc săn với những con
thú lớn. Bẫy cũng có nhiều loại to nhỏ khác nhau. Bẫy nhỏ dùng để bẫy chim, sóc,
thỏ… Bẫy to có cửa sập, bên trong có đặt mồi nhử. Hoặc lớn hơn là họ đào các hố
sâu lớn, rồi phủ lá cây, ít cành khô bên trên miệng hố để con mồi không phát hiện,
khi chạy ngang qua sẽ bị sập xuống hố, có thể dùng chuông làm báo hiệu nếu có thú
sập bẫy. Ngoài ra, bẫy cần bật cũng được dùng phổ biến với nguyên tắc dùng sức bật
của cần tre để bắt hoặc giết con mồi. Tre khi uốn cong tạo ra thế năng mạnh. Người ta
lợi dụng thế năng đó để rút dây thòng lọng, thắt cổ hoặc buộc chân con vật hoặc bật
các thanh tre kẹp con vật, phóng lao hoặc tên giết con vật [56, tr. 100]. Các loại bẫy
được sử dụng phổ biến và đem lại hiệu quả cao.
Cách thức săn bắn có hai loại: Săn đuổi và săn rình. Săn đuổi mang tính tập
thể, được thực hiện phổ biến sau các vụ gặt, khi thấy có dấu chân thú rừng về phá
hoại mùa màng trên nương thì các thôn, bản tổ chức các đội săn, vào rừng săn bắt.
Hoặc khi biết một khu rừng nào đó có muông thú, họ tổ chức một cuộc đi săn tập thể.
Ban đầu, họ chia nhau ra canh gác ở các khu vực, có vũ khí, thường là súng. Sau đó,
những người khác cùng lùa chó vào rừng để săn. Khi có ai phát hiện ra con thú trước,
họ sẽ thổi tù và báo hiệu cho mọi người, và khi con vật đã bị bắn chết, họ cũng thổi tù
để báo hiệu. Trong các buổi đi săn đuổi gà gô, chim trĩ ở những vùng đồi tranh, họ
lùa chó vào bãi tranh xua chim bay lên và bố trí người quan sát hò reo trên các nẻo
cho tới khi chim kiệt sức không bay được nữa thì dùng tay bắt lấy một cách dễ dàng. Sản
phẩm thu được sẽ được chia cho các thành viên tham gia săn thú. Săn rình mang tính
chất cá thể, họ tự đi săn một mình bằng súng, nỏ hoặc cung tên khi phát hiện nơi nào có
chân thú ra ăn các loại rau quả rụng hoặc thú ra uống nước ở các khe lạnh, suối thì người
săn rình sẵn chờ thú đến là bắn. Họ có thể săn bằng cách núp vào một bụi cây, có khi làm
một chiếc lều nhỏ để núp, đợi con thú đến thì dùng súng hay nỏ bắn.
Sản phẩm thu được sau các cuộc đi săn được phân chia theo nguyên tắc chung.
Tất cả những người tham gia cuộc săn đều được chia phần thịt. Trong đó, người có
súng, có chó săn, người theo vết chân con thú được chia thêm một phần thịt riêng.
Ngoài ra, người nào bắn chết con thú tại chỗ được hưởng thêm chiếc sỏ, người nào tái
82
bắn, tức là bắn chết con thú đã bị thương thì được hưởng thêm chiếc khoanh cổ. Khi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn bắn chết một con Sơn Dương, mỗi người đều tranh thủ lấy cho bằng được một ít tiết
đựng vào ống nứa để hòa rượu uống, thứ mà họ cho là rất bổ [15, tr. 91].
Tùy thuộc vào số lượng con thú săn bắn được mà những người tham gia được
chia nhiều hay ít. Thịt thú rừng đem về chủ yếu dùng để ăn, cải thiện bữa ăn hàng
ngày. Nếu có nhiều mà ăn không hết thì đem sấy để dành. Ngoài ra, các bộ phận quý
như bao tử, nhung, cũng đem sấy để ngâm rượu uống hoặc để nấu cháo ăn. Chân
hươu nai phơi khô đem ninh là một món sơn hào quý giá. Họ dùng xương hươu, nai,
khỉ, sơn dương, nhất là xương hổ, báo để nấu cao dùng làm thuốc bổ trị các chứng
bệnh đau gân cốt. Cao được nấu cô đặc, cắt ra thành từng miếng vừa, được cất đi ăn
dần hoặc dùng để ngâm rượu cũng rất tốt.
Ở Yên Bác, ngoài việc sắn bắn, hái lượm lúc nông nhàn, cư dân còn có nghề
đánh bắt cá. Do địa bàn có nhiều sông, suối nên hoạt động đánh bắt cá cũng trở nên
phổ biến nhằm tạo thêm nguồn hàng hóa trao đổi, cải thiện bữa ăn gia đình. Các công
cụ dùng để đánh bắt cá chủ yếu là vó, đó, chài, lưới, nơm… Chúng được sử dụng
thích hợp với mỗi loại cá và mỗi mùa nước khác nhau. Vò bè thường được kéo vào
ban đêm khi mùa nước cạn, nước ít chảy. Vó đặt chủ yếu vào mùa nước lũ, nơi nước
quẩn. Chài, đó được dùng để đánh cá quanh năm nhưng theo kinh nghiệm lâu đời thì
đánh chài, đó vào lúc chập tối hoặc rạng sáng sẽ được nhiều cá hơn. Lưới nổi được
giăng ở sông để đánh cá ăn nổi. Lưới chìm có nhiều chân chì và ít phao hơn lưới nổi,
dùng để đánh cá ăn chìm. Đồng bào còn đánh cá bằng hom. Họ thường ngăn suối và
đặt hom quanh miệng, ngược dòng nước chảy để cá theo dòng nước tự chui vào hom.
Hom được đan bằng tre, có nắp hình chóp hở để cá vào mà không ra được. Cách thức
đánh bắt cá rất đa dạng, phong phú nhưng vẫn mang tính chất thủ công, hiệu quả
chưa cao.
Vào nửa đầu thế kỷ XIX, hoạt động kinh tế tự nhiên luôn góp phần đảm bảo
nguồn thu nhập cho các gia đình, hỗ trợ nông nghiệp, cải thiện đời sống tự cung tự
cấp của bộ phận dân cư nơi đây. Cho đến hiện nay, hoạt động này đang dần thu hẹp,
một mặt do các hoạt động thu hái, săn bắn của số lượng dân cư ngày càng lớn khiến
cho số lượng thực vật, động vật bị giảm nhiều, mặt khác do hoạt động đốt rừng làm
nương rẫy của cư dân cũng làm cho vốn rừng bị thu hẹp, nhiều loài mất nơi cư trú.
83
3.2. Tô thuế
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
“Thuế ruô ̣ng là nguồ n thu quan tro ̣ng, lớ n nhất; nhằ m duy trì các hoa ̣t đô ̣ng củ a bô ̣ máy nhà nướ c.” [64, tr. 183]. Đặc biệt, với một đất nước lấy nông nghiệp là ngành kinh tế chủ đạo như đất nước ta thì việc thu tô thuế ruộng đất càng trở nên cần
thiết. Đây là nguồn thu nhập chính của Nhà nước và cũng là nguồn cấp lương chính
cho các quan lại, do nhà nước đề ra và được thực hiện chặt chẽ dưới các triều đại
phong kiến Việt Nam nói chung và triều đại Nguyễn nói riêng.
Cũng giống như các triều đại phong kiến trước, ngay từ khi thành lập, Nhà
Nguyễn đã ban hành nhiều điều lệ về thuế nhằm tạo điều kiện cho việc thu thuế trong
cả nước. Ngay trong quá trình tiến đánh Tây Sơn, khi chiếm được vùng nào, Gia
Long đã cho thực hiện việc thu thuế hay miễn thuế. Năm 1802, sau khi thống nhất đất
nước, Gia Long hạ lệnh miễn thuế năm đó cho các trấn từ Nghệ An ra Bắc. Năm
1803, Gia Long chính thức định lại phép tô thuế, biểu tô thuế ruộng đất công làng xã
được ban hành. Năm Gia Long thứ 2 (1803), ra nghị định thuế ruộng đất công tư để
dân có thể đóng góp chính thức, nhà nước có ngạch thuế nhất định, làm phép thường
lâu dài [56, tr. 82]. Gia Long chia cả nước thành 4 khu vực để định thuế với mức độ
khác nhau:
Khu vực 1 gồm: các phủ Quảng Bình, Triệu Phong, Điện Bàn, Thăng Hoa
Quảng Ngãi, Quy Nhơn, Phú Yên, Bình Hòa, Diên Khánh.
Khu vực 2 gồm: các địa phương Nghệ An, Thanh Hóa, Sơn Tây, Kinh Bắc,
Hải Dương, Sơn Nam Thượng, Sơn Nam Hạ, phủ Phụng Thiên.
Khu vực 3 gồm: Quảng Yên, Hưng Hóa, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Tuyên
Quang, Cao Bằng.
Khu vực 4 gồm: Bình Thuận, Gia Định, Định Tường, Long Xuyên, Kiên
Giang [25, tr. 162].
Theo đó, mức thuế của huyện Yên Bác (tỉnh Lạng Sơn) thuộc khu vực 3, quy
định cụ thể như sau:
Hạng nhất nộp 50 bát/mẫu đối với ruộng đất công, 20 bát/mẫu đối với ruộng tư.
Hạng nhì nộp 42 bát/mẫu đối với ruộng đất công, 20 bát/mẫu đối với ruộng tư.
Hạng ba nộp 25 bát/mẫu đối với ruộng đất công, 10 bát/mẫu đối với ruộng tư
84
[25, tr. 162].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Theo đó, huyện Yên Bác với 100% là ruộng tư nên mức thuế mà nhân dân sẽ
phải đóng là: Ruộng hạng nhất (loại 1): 20 bát/mẫu, ruộng hạng nhì (loại 2): 20 bát/
mẫu, ruộng hạng ba (loại 3): 10 bát/mẫu.
Thời Minh Mệnh, chia cả nước làm ba khu vực:
Khu vực 1 (như thời Gia Long).
Khu vực 2 (từ Nghệ An ra Bắc)gồm: Nghệ An, Thanh Hóa, Sơn Tây, Kinh
Bắc, Hải Dương, Sơn Nam Thượng, Sơn Nam Hạ, phủ Phụng Thiên, Quảng Yên,
Hưng Hóa, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Cao Bằng.
Khu vực 3 (như khu vực 4 thời Gia Long) [25, tr. 163].
Theo đó, mức thuế của huyện Yên Bác (tỉnh Lạng Sơn) thuộc khu vực 2, quy
định cụ thể như sau:
Hạng nhất nộp 80 thăng/mẫu đối với ruộng đất công, 26 thăng/mẫu đối với
ruộng tư.
Hạng nhì nộp 56 thăng/mẫu đối với ruộng đất công, 20 thăng/mẫu đối với ruộng tư.
Hạng ba nộp 33 thăng/mẫu đối với ruộng đất công, 13 thăng/mẫu đối với ruộng
tư [25, tr. 163].
Thuế đất công mỗi mẫu 6 tiền, tiền gạo cước 1 tiền. Thuế đất tư: Đất làm nhà,
ao, vườn mỗi mẫu 1 tiền, thuế 2 tiền. Đinh tráng nộp mỗi người 1 quan hai tiền thuế
thân, tiền đầu quan 1 tiền, dân binh già cả nộp 1 nửa. Năm Minh Mệnh 20 (1839),
theo nghị chuẩn cho 6 tỉnh ở biên giới Bắc Kỳ, ngạch thuế nhân đinh, đinh tráng mỗi
người cả năm tiền thuế thân là 1 quan tiền, tiền sưu 1 tiền; dân đinh già ốm chịu 1
nửa, các tiền tập dịch gạo cước và tiền cửa đình đều bãi bỏ [11, tr. 61-62]. Ngoài ra,
nhà Nguyễn còn thu các loại thuế khác như thuế khai thác mỏ, thuế cửa khẩu…
Trong Đồng Khánh địa dư chí có ghi về thuế của Yên Bác như sau:
“Thuế thân cả năm nộp bằng tiền: 135 quan 2 tiền.
Thuế ruộng:
- Nộp bằng tiền: 59 quan 4 tiền 51 đồng tiền
- Nộp bằng thóc: 144 hộc 25 bát 8 vốc
Vâng chiếu kiểm tra huyện hạt năm Tự Đức (1852) thuế thân cả năm là 278
quan 8 tiền 30 đồng. Thuế ruộng nộp bằng tiền 119 quan, nộp bằng thóc: 276 hộc 33
85
bát 1 vốc 5 lẻ” [55, tr. 619].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Chính sách tô thuế của nhà Nguyễn đã có những điều chỉnh về tô thuế cho phù
hợp với tình hình của các địa phương.
3.3. Tín ngưỡng nông nghiệp
Từ xa xưa, con người đã có quan niệm “vạn vật hữu linh”, do đó, ngoài việc thờ
cúng, tin tưởng vào sự tồn tại của các vị thần linh – lực lượng siêu nhiên, họ còn tổ
chức những nghi lễ, nghi thức để cầu mưa, cầu nắng, cầu an, cầu phúc… Và đặc biệt,
đối với các cư dân miền núi với sản xuất nông nghiệp là chính thì điều kiện thiên
nhiên, thời tiết là những yếu tố đóng vai trò quyết định đến cuộc sống của con người
nơi đây. Do vậy, việc tiến hành các nghi lễ, nghi thức, tín ngưỡng nông nghiệp đối
với họ là vô cùng quan trọng.
Các nghi lễ nông nghiệp thường phong phú, đa dạng và được thể hiện dưới nhiều
hình thức khác nhau, được thực hiện vào các thời điểm thích hợp trong mùa vụ.
Lễ hội lồng tồng (hội xuống đồng). Lễ hội này được gọi bằng nhiều thuật ngữ
khác nhau: “lồng thồng”, “lồng tổng”, “lùng tùng”, “lồng thổng”, “slồng thồng”...,
tất cả đều có nghĩa là xuống đồng. Đối với cư dân miền núi, từ khi gieo hạt xuống
ruộng nương, họ chỉ biết trông chờ vào sự phù hộ của các lực lượng siêu nhiên. Do
đó, có thể nói lễ hội Lồng Tồng được ra đời với nguồn gốc từ sự cầu mùa. Đây là lễ
hội được tổ chức vào dịp đầu xuân, nhất là tháng Giêng với mục đích tế Thần Nông,
cầu một năm mưa thuận, gió hòa, được mùa màng. Lễ hội này có ý nghĩa cầu mùa và
cố kết cộng đồng nên phạm vi tổ chức là do các làng bản tự đóng góp tổ chức, thời
gian từ một buổi đến hai, ba ngày tùy thuộc từng địa phương cụ thể. Lễ hội được diễn
ra ở sân đình hoặc tại khu ruộng bằng phẳng, giữa cánh đồng hay trên gò đồi, nơi
thuận tiện cho việc hành lễ và vui hội. Lễ hội thường được tổ chức vào 3 ngày 13, 14,
15 tháng Giêng. Lễ hội có hai phần chính: phần lễ tế và phần hội.
Phần lễ tế, người Tày quan niệm rằng mỗi vùng đất có một thổ công, mỗi cánh
đồng (xứ đồng) có một Thần Nông cai quản. Vì vậy ở mỗi một làng bản có một ngôi
đình nhỏ hoặc miếu để thờ Thần Nông. Đình này do dân làng đóng góp xây dựng và
giao cho một người thuộc dòng họ có thế lực, có chữ nghĩa (thường là Chánh Tổng,
Lý Trưởng…) trông coi. Người này còn được gọi là trùm trưởng có trách nhiệm
chính trong buổi tế lễ hàng năm. Đình được xây dựng giữa đồng hoặc ở chân núi đá,
nơi gần mỏ nước. Hàng năm tổ chức lễ tế Thần Nông tại đình. Ngoài ra, bộ phận để
86
điều hành buổi lễ thường là một tổ chức bao gồm pú mo, trưởng bản, các bậc lão
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn niên… Đó là những người có uy tín trong bản (trước đây, việc này do các thổ ty và
những người có chức sắc điều hành. Trưởng bản tổ chức họp dân, có sự tham dự của
pú mo. Cuộc họp diễn ra trước vài hôm để phân công công việc cụ thể, từ khâu lấy
cây, chuẩn bị đồ cúng tế đến việc chia các tổ điều hành trò chơi. Tất cả được phân
công và giao nhiệm vụ chặt chẽ. Đồ lễ tế do dân bản đóng góp một phần gồm một
con lợn được khiêng đến tận đình, làm sạch để úp bụng tế sống và các lễ vật khác như
xôi, bánh kẹo, rượu, hương và tiền giấy cắt từ giấy bản. Một số lễ vật cúng tế gồm:
bánh khảo (“sla cao”), bánh bỏng (“pẻng ngô”, “thốc théc”, “khẩu sli”),bánh chè
lam (“pẻng khinh”), bánh chưng (“pẻng tổm”), gà cúng, lợn tế… Ông trùm trưởng sẽ
là người thắp hương lễ bài và đọc bài văn tế Thần Nông.
Ngày hội được mở đầu bằng nghi lễ tế Thần Nông. Khi mặt trời mọc là lúc
rước mâm tồng ra làm lễ. Đi đầu là bảy thanh niên trai tráng khỏe mạnh, mỗi người
cầm trên tay một cành lá cây vừa đi vừa vung vẩy với quan niệm là để đuổi tà khí, rủi
ro. Tiếp sau là đoàn múa lân, thầy cúng và các mâm lễ vật được các thiếu nữ đội lên
đầu. Khi cỗ được bày xong, vị trùm trưởng làm lễ cúng, tế thần. Sau đó, ban tổ chức
cử một bô lão khỏe mạnh, giỏi nghề nông, con cháu đông vui hòa thuận xuống cầy
một đường cày tượng trưng, mở màn cho một năm lao động sản xuất mới. Trong buổi
lễ tế việc đồng áng của bản do ông trùm trưởng quyết định từ việc gieo mạ tới việc
cấy của bản. Riêng việc gieo mạ phải căn cứ vào thời tiết từng năm mà quy định. Nếu
lập xuân sớm thì gieo sớm và ngược lại. Cho nên ngày gieo mạ có thể trước hoặc sau
ngày tế thần. Còn ngày cấy có thể căn cứ vào ngày gieo mạ mà quy định.
Tiếp đến là phần hội với nhiều trò vui nhộn. Trước hết là màn thi cấy lúa
nhanh của các cô gái với phần thưởng có thể là những chiếc nón là rất đẹp. Sau đó là
các trò chơi như: trò “sĩ, nông, công, thương” (kén rể), múa kì lân chúc phúc cả nhà,
múa sư tử, múa võ, ném còn đôi giao duyên, thi ném vòng, kéo co, bắn nỏ, đấu cờ
người, thi hát, hát lượn, đánh khăng…
Như vậy, lễ hội Lồng Tồng là lễ hội xuống đồng, lễ hội cầu mùa mang tính
chất phồn thực với các nghi lễ, bao chứa các hoạt động tín ngưỡng dân gian với nội
dung chào mừng mùa xuân mới, mừng vụ mùa đã qua, cầu cho vụ mùa sau tươi tốt,
con người khỏe mạnh, bản làng bình an. Lễ hội Lồng Tồng mang đậm ý nghĩa xã hội
87
và giá trị nhân văn.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Lễ cúng tắm lá lúa (“Toọc bổn dào bâu khẩu”) là một lễ chính của người Tày
trong nông nghiệp. Lễ thường diễn ra vào tháng 4 hoặc tháng 5 âm lịch, khi cây lúa
đã bén rễ lên xanh. Lễ cúng tắm lá lúa được thực hiện với mục đích cầu cho cây lúa
phát triển tốt tươi, trĩu bông, nặng hạt. Phạm vi tổ chức không lớn, chỉ một nhóm gia
đình thân tín có chung ruộng, chung bãi nhưng không quá chục gia đình hoặc một
nhóm họ tổ chức. Người cúng lễ phải là người già cả, có uy tín trong dòng họ. Đồ lễ
được chuẩn bị chu đáo, đặt ở cánh đồng chỗ nhiều ruộng nhất. Lễ vật gồm hương,
vàng mã, hình nộm âm dương và một cái thủ lợn. Mâm bằng lá chuối gấp uốn đặt
trên gốc cây, đồ cúng là những thứ không dùng đến như một đoạn ruột non còn sống,
thịt làm bằng lát củ nâu, cơm là bát trấu… nhằm để trừ ma quỷ hại người, hại lúa. Ở
mâm cỗ chính có đặt một bài lễ cúng “cầu thần, cầu bụt”, “cúng hồn lúa”, “cúng tắm
lá lúa”. Lễ tắm lá lúa là một nghi lễ phản ánh sự nâng niu, hi vọng cây lúa tốt tươi của
người nông dân. Đây là một trong những nghi lễ quan trọng trong hệ thống các nghi
lễ nông nghiệp của người Tày.
Lễ đón mùa hoa màu mới: Vào ngày lễ này, các gia đình người Mông thường
làm bánh, thịt một con gà, cắt một chùm hoa bằng giấy và mang theo ba chén rượu ra
ngoài nương ngô để thắp hương. Chùm hoa làm bằng giấy với đủ các màu được treo
trên cây ngô với ước muốn ngô sẽ ra thật nhiều hoa. Chủ nhà thay mặt gia đình làm lễ
cúng ngay trên nương để cầu cho một vụ hoa màu mới được bội thu. Trong ngày này
có đặc trưng là món bánh ngải. Bánh được làm gần giống với bành dày, có màu xanh
đặc trưng của thiên nhiên. Bánh là ngải được làm từ gạo nếp nương, lá ngải, nhân
bánh là đường phên màu vàng. Bánh ngải ăn mát, dễ ăn, vị lạ, là đặc trưng ở nơi đây.
Lễ lên đồng (“Roọng khoăn vài” – gọi vía trâu): Dân làng tổ chức lễ lên đồng,
hay còn gọi là lễ xo lộc (xin lộc) vào ngày mồng 6 tháng 6 hàng năm sau vụ mùa vất
vả, cũng là lúc nông nhàn.
Tục ngữ Tày có câu:
“Pẻng tải vài rằng
Pẻ chưng vài hảy”
Nghĩa là:
Bánh gai trâu cười
88
Bánh trưng trâu khóc [15, tr. 100].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Quy mô buổi lễ có thể là do một bản hoặc vài ba bản góp tiền chung mua lễ
vật để tổ chức. Buổi tế lễ được tiến hành tại một gốc cây đa, cây đề hoặc một cụm tre
to. Tại đó, họ dựng một cái lán tạm thời hoặc đơn giản hơn chỉ đặt một chiếc bàn
hoặc một chiếc chõng để đặt lễ vật. Lễ vật để cúng sống là một con trâu mộng hoặc
một con lợn và các lễ vật khác như trong cúng Thần Nông ở lễ hội Lồng Tồng. Ông
chủ tế lễ là ông trùm trưởng có uy tín trong làng. Trâu được chọn để cúng sống là con
trâu khỏe mạnh, được chăm sóc rất cẩn thận. Họ làm bánh gai và nấu cháo gạo nếp,
tắm rửa cho trâu sạch sẽ rồi cho trâu ăn bánh, cháo và cỏ non. Người ta gắn trên hai
sừng trâu những mảnh giấy nhỏ, viết chữ Hán. Buổi lễ diễn ra rất nghiêm trang,
nghiêm túc. Nội dung những lời cúng chủ yếu nói lên lòng biết ơn của con người với
trâu. Phần nữa là cầu mong cho trâu khỏe mạnh, sinh sôi, đông đúc, biết vâng lời chủ,
không phá mùa màng. Sau buổi lễ, dân bản sẽ mổ lợn, tập trung ăn bữa cơm vui vẻ
rồi chia phần (xin lộc) mang về. Về thực chất, đây cũng là hình thức lễ cầu mùa. Lễ
gọi vía trâu là một tục lệ hay phản ánh sự trân trọng, yêu thương và biết ơn con vật
của người nông dân. Con trâu là “đầu cơ nghiệp” và có vai trò quan trọng trong đời
sống sản xuất nông nghiệp của con người.
Lễ mừng mùa (“Kin khẩu mấu” – Lễ ăn cơm mới): Nghi lễ này thường được
tổ chức vào ngày 15 tháng 8 Âm lịch hàng năm. Đây là nghi lễ nông nghiệp chào đón
mùa thu hoạch mới nên còn được gọi là tết cơm mới, có ý nghĩa cầu mùa, mừng mùa.
Đây là nghi lễ được tiến hành trong phạm vi gia đình. Phần lễ thường là các món ăn
được chế biến từ sản phẩm do gia đình làm ra. Mâm lễ thường được sửa soạn nhiều
đồ ăn với mong muốn cúng tạ trời phật, tổ tiên đã phù hộ cho gia đình một vụ mùa tốt
đẹp. Do đó, phần lớn các món ăn trong lễ này đều chế biến từ những sản phẩm tự
gieo trồng, chăn nuôi được như gà, vịt, rau củ quả, bầu, bí… Riêng gạo dùng để nấu
cơm hôm ấy phải là gạo mới hoàn toàn. Có nơi người ta chỉ hái mươi bông lúa non về
hấp ở miệng nồi có tính chất tượng trưng. Bên cạnh đó, những món ăn quý, cầu kỳ
cũng được chế biến với ý nghĩa đặc biệt như món xôi trám với mong muốn vụ mùa
bội thu, xôi gấc cho mọi sự tốt lành, xôi nhộng ong cầu cho may mắn, tốt lành… Các
món ăn được chế biến nhiều còn có ý nghĩa rằng hứa hẹn một năm sung túc, dồi dào
cả về trồng trọt và chăn nuôi cho mỗi gia đình. Sau khi bày xong cơm cúng, chủ gia
đình khấn lạy trước bàn thờ tạ ơn tổ tiên và các gia thần đã phù hộ, cầu mong thần
89
linh tiếp tục phù giúp cho các công việc sau này của gia đình. Phần lễ kết thúc, người
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn ta mang những bông lúa đã hấp trong nồi cơm cắm vào các bát hương hay cài trên
vách bàn thờ. Sau đó dọn cơm để mọi người trong gia đình cùng hưởng lộc. Mâm
cơm này không để khách lạ ăn cùng. Lễ cơm mới được tổ chức trong nhà với ý nghĩa
trả ơn tổ tiên đã phù hộ cho mùa màng tươi tốt, nay đã được thu hoạch.
Lễ diệt sâu bọ: Đây cũng là một nghi lễ nông nghiệp phổ biến, được diễn ra
vào ngày mồng 5 tháng 5 Âm lịch hàng năm. Họ thắp hương các loại quả chua chát
rồi ăn với mong muốn diệt trừ các loại sâu bọ gây hại.
Lễ hội Nàng Hai (Nàng Trăng): Đây cũng là một lễ hội lớn thuộc tín ngưỡng
nông nghiệp, cầu mong mùa màng tươi tốt, mưa thuận gió hòa. Quan niệm dân gian
cho rằng, trên cung trăng có Mẹ Trăng và các cô gái đẹp chuyên lo lắng và bảo vệ
mùa màng cho người dân dưới trần gian. Lễ hội Nàng Hai có sự khác biệt với lễ hội
Lồng Tồng, đó là được tổ chức vào ban đêm, những đêm có trăng và lễ hội được diễn
ra dưới nghi thức xuất nhập hồn. Thông qua lễ hội, mời Nàng Hai xuống trần gian để
ban phước lành cho dân bản.
Nghi thức xuất nhập hồn có hai hình thức: Bói toán và cầu mùa. Hình thức bói
toán được tổ chức vào những đêm trăng sáng với tục xuất nhập hồn gián tiếp từ hai cô
gái ngồi sở (ngồi đồng) truyền sang hình nộm thông qua các quy ước về động tác.
Hình thức cầu mùa kéo dài trên dưới 50 ngày, thường tổ chức vào mùa xuân, chủ yếu
vào tháng 2 và 3 Âm lịch. Cách thức chủ yếu là cúng xuất hồn hai nàng Gường và Sở
(ngồi đồng) để nhập hồn Nàng Hai. Nghi thức này trong lễ hội Nàng Hai mang tính
chất của tín ngưỡng nguyên thủy. Ban đầu, dân làng chọn một bà then chủ trì, được
gọi là “nàng cả”, hai cô gái đẹp để làm “gường” và “sở”, gường mặc áo màu vàng, sở
mặc áo màu hồng và hơn chục nam nữ thanh niên tham gia múa hát, cùng hai thiếu
niên là “cu tiễn” đội khăn đỏ, thắt lưng đỏ, tay cầm cành trúc treo lủng lẳng cái túi
nhỏ có tua đựng trầu vỏ… lập thành đoàn lên thiên đình đón Mẹ Trăng. Dân làng
dựng rạp trên một đám ruộng hay khu đất cao ráo. Trong rạp có đặt bàn thờ. Bàn thờ
có treo một tấm vải đỏ hoặc đen, trên vải có thêu hay vẽ hình mặt trăng lưỡi liềm màu
trắng. Ngoài ra, trong rạp đặt ban thờ còn có cắm các loại hoa rừng “bjoóc lồm” và
“bjoóc khảo quang”. Trước bàn thờ treo nhiều vàng mã, hoa giấy, chim én giấy và có
một dãy bàn bày lễ vật cúng (gà luộc, rượu, xôi nếp, bỏng nếp và nhiều loại bánh
khác nhau…). Trước bàn thờ, bà then làm phép hỏi thăm cho đoàn lên thiên giới, cầu
90
các Mẹ Nàng chuyên trách để xin thóc giống, cây giống, cá giống, xin nhốt kỹ sâu bọ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn để chúng không xuống phá hoại mùa màng… Đồng thời đây cũng là nơi cho Mẹ
Trăng và tiên nữ nhập vào để xuống trần gian dự lễ hội. Dân trong vùng mang lễ vật
đến cúng bái, cầu xin một năm làm ăn thuận lợi. Lễ hội kết thúc bằng nghi thức: một
cụ già trong bản tung bỏng nếp theo một hướng nhất định với ý nghĩa cầu cho sự phát
triển của mùa màng [60, tr. 217].
Tiểu kết: Trên cơ sở nghiên cứu về kết cấu kinh tế của huyện Yên Bác cho thấy
nông nghiệp là ngành kinh tế chính, trong đó nghề nông trồng lúa nước là chủ đạo.
Kết hợp với điều kiện tự nhiên và kinh nghiệm canh tác lúa nước từ lâu đời, cư dân
Yên Bác đã để lại đến ngày nay những giá trị văn hóa trong sản xuất cũng như trong
đời sống. Nhân dân đã kết hợp với các hoạt động sản xuất nông nghiệp khác như
trồng các loại hoa màu, cây ăn quả, chăn nuôi động vật, cùng với kinh tế tự nhiên đã
góp phần cải thiện phần nào cuộc sống vốn còn nhiều khó khăn ở vùng núi. Bên cạnh
việc phải đối phó lại với những khắc nghiệt của thiên nhiên, họ đã rất cần cù, chịu
khó, kiên trì và sáng tạo lao động để khắc phục khó khăn. Họ còn có những giá trị
văn hóa tinh thần độc đáo gắn liền với kinh tế trồng trọt thể hiện qua các tín ngưỡng,
lễ hội truyền thống mang đậm bản sắc văn hóa tộc người, cầu mong mưa thuận gió
91
hòa, cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho con người ở nơi đây .
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
KẾT LUẬN
1. Vốn là một vùng đất thuộc miền núi giáp biên của Tổ quốc, Yên Bác có
truyền thống lịch sử, văn hóa lâu đời. Với vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên tương đối
thuận lợi, nơi đây sớm trở thành nơi hội tụ của nhiều dân tộc anh em, có điều kiện phát
triển kinh tế nhiều ngành nghề. Trải qua quá trình lịch sử lâu dài, dòng người từ nhiều đổ
về, từ Trung Quốc xuống hay từ dưới xuôi lên rồi dẫn đến hiện tượng “Kinh già hóa
Thổ” ngày càng phổ biến. Họ đã chọn nơi đây làm nơi sinh cơ lập nghiệp, ổn định cuộc
sống. Họ cùng nhau chung sống đoàn kết, gắn bó, hòa nhập tạo nên một Yên Bác đa
dạng, phong phú về cả các ngành nghề kinh tế, xã hội và văn hóa tộc người.
2. Thông qua tư liệu địa bạ ở hai thời điểm Gia Long 4 (1805) và Minh Mệnh
21 (1840), chúng tôi thấy rằng tình hình sở hữu ruộng đất của huyện có đặc điểm nổi
bật nhất là sự thắng thế của sở hữu tư nhân. Ruộng đất tư chiếm 100%, ruộng đất
công hoàn toàn “vắng bóng”, không có lưu hoang, không có thổ trạch, viên trì. Điều
này phần lớn do nạn chấp chiếm ruộng đất thành của tư của quan lại, cường hào ngày
càng phổ biến và một khi vai trò của các thổ ty miền núi còn có những ảnh hưởng
nhất định thì những cố gắng của các vị vua triều Nguyễn nhằm mở rộng diện tích
ruộng đất công cũng khó thực hiện được. Tuy nhiên, quy mô sở hữu tư không lớn và
không ổn định, chủ yếu là sở hữu vừa và nhỏ. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng đó là
do truyền thống kế thừa mang tính chia đều, công bằng cho con cái, cùng với việc
bán chác, cầm cố… làm nên hiện tượng tập trung và phân tán ruộng đất diễn ra
thường xuyên. Theo phong tục địa phương, khi con trai lập gia đình, bố mẹ cho ra ở
riêng và lại một lần phân chia ruộng đất, nên ruộng đất từ một khối thống nhất liên
tục bị xé nhỏ. Chất lượng ruộng đất chủ yếu là loại 2 và loại 3, thu điền. Tuy nhiên,
với tổng diện tích đất loại 1 và loại 2 chiếm trên 50% đã tạo điều kiện thuận lợi cho
việc phát triển kinh tế nông nghiệp, góp phần cải thiện đời sống cho người dân Yên
Bác nói riêng và khu vực miền núi phía Bắc nước ta nói chung.
3. Về quy mô sở hữu ruộng đất của các nhóm họ là không đều. Qua so sánh
hai thời kỳ Gia Long 4 (1805) và Minh Mệnh 21 (1840), các nhóm họ lớn tập trung
trong tay nhiều ruộng đất là Hoàng, Thường, Nông, Nguyễn và ngày càng tăng, luôn
chiếm trên 50% tổng số các họ. Đội ngũ chức sắc là người có quyền lực và nắm trong
tay phần lớn diện tích ruộng đất của huyện. Tuy nhiên cũng có những chức sắc không
92
có ruộng. Có thể do những người chức sắc đó khi được đảm nhận chức vụ vẫn chưa
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn trở thành người chủ sở hữu của gia đình vì chưa tách riêng ra khỏi đại gia đình chung
của bố mẹ hoặc có thể do đây là những trường hợp đi ở rể. Mặc dù vậy, họ vẫn là
hàng ngũ có chức quyền và thế lực lớn trong vùng.
4. Ở Yên Bác đều có hiện tượng phụ canh. Phu ̣ canh là hiê ̣n tươ ̣ng ngườ i củ a một thôn, xã này có ruộng đất trên đi ̣a phâ ̣n củ a một thôn, xã khác trong cùng một tổng, huyện, cũng có khi trên đi ̣a phâ ̣n của mô ̣t thôn, xã thuô ̣c tổ ng, huyê ̣n khác. Sự tồn tại của diện tích phụ canh đã trở thành “hàng hóa” trao đổi qua lại giữa các thôn, xã
và cả những người thuộc các tổng khác nhau. Song đến thời Minh Mệnh, diện tích phụ
canh lại giảm mạnh cả về số lượng chủ và diện tích ruộng đất sở hữu, chứng tỏ cư dân
huyện Yên Bác ngày càng gắn bó với đồng ruộng, tính tự trị của mỗi làng ngày càng
chặt chẽ.
5. Chính sách tô thuế được áp dụng đối với Yên Bác cũng giống như các địa
phương miền núi phía Bắc khác. Tuy mức thuế không cao, nhưng đó vẫn là gánh
nặng của người nông dân khi họ phải thực hiện các nghĩa vụ phu phen, tạp dịch đối
với triều đình.
6. Nước ta là một nước nông nghiệp. Tại Yên Bác, cư dân coi nông nghiệp là
loại hình kinh tế cơ bản. Qua quá trình sản xuất lâu đời, họ đúc rút được nhiều kinh
nghiệm canh tác, sớm hình thành một nền nông nghiệp thâm canh phát triền khá
cao, làm cho năng suất ngày càng tăng. Mặc dù thiên nhiên còn nhiều khắc nghiệt
nhưng nhờ sự cần cù, chịu khó, cùng việc kết hợp với các hoạt động trồng trọt, chăn
nuôi, kinh tế tự nhiên cũng đem lại nhiều nguồn lợi lớn. Ruộng đất thời kỳ này luôn
giữ một vai trò quan trọng đối với cư dân Yên Bác trong sản xuất. Đời sống tâm linh
của cư dân cũng ngày càng phong phú cùng với các tín ngưỡng, lễ hội dân gian để
cầu mong những điều tốt đẹp làm cho con người có niềm tin trong cuộc sống, góp
93
phần tạo nên nét độc đáo của một nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đào Duy Anh (1994), Đất nước Việt Nam qua các đời, Nxb Thuận Hóa, Huế.
2. Huỳnh Công Bá (2009), “Chế định về tài sản ruộng đất trong pháp luật triều
Nguyễn”, Tạp chí Khoa học, (51), tr. 27-29.
3. Nguyễn Đức Châu, Nguyễn Tuấn Chung (1994), Ông cha ta bảo vệ biên giới, Nxb
Công an nhân dân, Hà Nội.
4. Phan Huy Chú (1960), Lịch triều hiến chương loại chí, tập III, Nxb Sử học, Hà Nội.
5. Phan Huy Chú (2006), Lịch triều hiến chương loại chí, tập I, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
6. Phan Huy Chú (2006), Lịch triều hiến chương loại chí, tập II, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
7. Nguyễn Tiến Đạt (2013), Huyện Bạch Thông (Bắc kạn) nửa đầu thế kỷ XIX, luận
văn Thạc sĩ Lịch sử, Trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên.
8. Bế Viết Đẳng, Nguyễn Khắc Tụng, Nông Trung, Nguyễn Nam Tiến (1971),
Người Dao ở Việt Nam, Nxb Khoa học, Hà Nội.
9. Nguyễn Đình Đầu (1992), Chế độ công điền công thổ trong lịch sử khẩn hoang
lập ấp ở Nam kì lục tỉnh, Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí Minh.
10. Lê Quý Đôn (1977), Kiến văn tiểu lục, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
11. Phùng Hoàng Đông (2015), Châu Thoát Lãng tỉnh Lạng Sơn nửa đầu thế kỷ XIX,
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử, Trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên.
12. Hoàng Giáp – Hoàng Páo (2012), Văn hóa Lạng Sơn Địa dư chí – Văn bia – Câu
đối, Nxb Văn hóa – Thông tin.
13. Hoàng Giáp – Hoàng Páo (2013), Văn hóa Lạng Sơn Thần tích – Thần sắc, Nxb
Văn hóa – Thông tin.
14. Nguyễn Thị Hà (2010), Huyện Chiêm Hóa - Tuyên Quang nửa đầu thế kỷ XIX,
luận văn Thạc sĩ Lịch sử, Trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên.
15. Nguyễn Thanh Huế (2015), Sở hữu ruộng đất và kinh tế nông nghiệp huyện
Thạch An (tỉnh Cao Bằng) nửa đầu thế kỉ XIX, Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại
học Sư phạm Thái Nguyên.
16. Nguyễn Văn Huyên, Hoàng Hoa Toàn, Lương Văn Bảo (1996), Nguồn gốc lịch sử
tộc người ở vùng biên giới phía Bắc Việt Nam, Đại học Thái Nguyên.
17. Nguyễn Quang Huynh (2011), Thổ ty Lạng Sơn trong lịch sử, Nxb Văn hóa dân
94
tộc, Hà Nội.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 18. Bế Huỳnh, Cao Bằng tạp chí nhật tập, Tư liệu Viện Dân tộc học, KH: TLD. 271.
19. Vũ Thị Minh Hương, Nguyễn Văn Nguyên, Phillippe papin (1999), Địa danh và
tài liệu lưu trữ về làng xã Bắc Kỳ, Viện Viễn Đông Bác cổ, Nxb Văn hóa thông
tin- Cục lưu trữ Nhà Nước.
20. Phan Huy Lê (1959), Chế độ ruộng đất và kinh tế nông nghiệp thời Lê sơ, Nxb
Văn Sử Địa, Hà Nội.
21. Phan Huy Lê, (2005), Đi ̣a bạ cổ Hà Nội, huyê ̣n Thọ Xương, Vĩnh Thuận, Nxb Hà Nô ̣i. 22. Lịch sử hình thành tên gọi và quá trình phát triển địa giới hành chính huyện Sơn
Động, Trang thông tin điện tử huyện Sơn Động tỉnh Bắc Giang,
http://sondong.bacgiang.gov.vn/node/3942, ngày 09/09/2013.
23. Lã Văn Lô, Đặng Ngiêm Vạn (1968), Sơ lược giới thiệu các nhóm dân tộc Tày,
Nùng, Thái ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
24. Lã Văn Lô, Hà Văn Thư (1984), Văn hóa Tày- Nùng, Nxb văn hóa, Hà Nội.
25. Nguyễn Cảnh Minh (Chủ biên), Đào Tố Uyên, Võ Xuân Đàn (2008), Giáo trình
Lịch sử Việt Nam, tập III, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
26. Hoàng Nam (1992), Dân tộc Nùng ở Việt Nam, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
27. Nguyễn Quang Ngọc (1998), Biến đổi cơ cấu xã hội Việt Nam trong lịch sử, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
28. Nội các triều Nguyễn (1993), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, tập II, Nxb
Thuận Hóa.
29. Nội các triều Nguyễn (1993), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, tập III, Nxb
Thuận Hóa, Huế.
30. Nội các triều Nguyễn (1993), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, tập IV, Nxb
Thuận Hóa, Huế.
31. Hoàng Văn Páo (2011), Lễ hội Lồng Thồng của người Tày ở Lạng Sơn, Nxb Văn
hóa dân tộc.
32. Vũ Huy Phúc (1979), Tìm hiểu chế độ ruộng đất Việt Nam nửa đầu thế kỷ XIX,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
33. Vũ Văn Quân (1991), Chế độ ruộng đất và kinh tế nông nghiệp Việt Nam nửa
95
đầu thế kỉ XIX, Đại học Tổng hợp Hà Nội.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 34. Quốc sử quán triều Nguyễn (1963), Đại Nam thực lục, tập III, Nxb GD, HN.
35. Quốc sử quán triều Nguyễn (1964), Đại Nam thực lục chính biên - đệ nhị kỉ, tập
IX, Nxb Khoa học, Hà Nội.
36. Quốc sử quán triều Nguyễn (2005), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, tập II,
Nxb Thuận Hóa, Huế.
37. Quốc sử quán triều Nguyễn (2005), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, tập III,
Nxb Thuận Hóa, Huế.
38. Quốc sử quán triều Nguyễn (2005), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, tập IV,
Nxb Thuận Hóa, Huế.
39. Quốc sử quán triều Nguyễn (2005), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, tập V,
Nxb Thuận Hóa, Huế.
40. Quốc sử quán triều Nguyễn (2006), Đại Nam nhất thống chí, tập IV, Nxb Thuận
Hóa, Huế.
41. Quốc sử quán triều Nguyễn (2007), Đại Nam thực lục, tập I, Nxb GD, HN.
42. Quốc sử quán triều Nguyễn (2007), Đại Nam thực lục, tập II, Nxb GD, HN.
43. Quốc sử quán triều Nguyễn (2007), Đại Nam thực lục, tập III, Nxb GD, HN.
44. Quốc sử quán triều Nguyễn (2007), Đại Nam thực lục, tập IV, Nxb GD, HN.
45. Quốc sử quán triều Nguyễn (2007), Đại Nam thực lục, tập V, Nxb GD, HN.
46. Quốc sử quán triều Nguyễn (2007), Đại Nam thực lục, tập VI, Nxb GD, HN.
47. Quốc sử quán triều Nguyễn (2007), Đại Nam thực lục, tập VII, Nxb GD, HN.
48. Quốc sử quán triều Nguyễn (2007), Đại Nam thực lục, tập VIII, Nxb GD, HN.
49. Trương Hữu Quýnh (1982), Chế độ ruộng đất ở Việt Nam từ thế kỷ XI - XVIII,
tập I, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
50. Trương Hữu Quýnh (1983), Chế độ ruộng đất ở Việt Nam từ thế kỷ XI - XVIII,
Tập 2, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
51. Trương Hữu Quýnh, Đỗ Bang (1997), Tình hình ruộng đất nông nghiệp và đời
sống nông dân dưới triều Nguyễn, Nxb Thuận Hóa, Huế.
52. Trương Hữu Quýnh, Nguyễn Cảnh Minh (1999), Lịch sử Việt Nam từ nguyên
thủy đến 1858, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.
53. Trương Hữu Quýnh, Đinh Xuân Lâm, Lê Mậu Hãn (2009), Đại cương li ̣ch sử
96
Viê ̣t Nam toà n tập từ thờ i nguyên thủy đến năm 2000, Nxb Giáo du ̣c Viê ̣t Nam.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 54. Dương Thị The, Phạm Thị Thoa (1981), Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỷ XIX
(thuộc các tỉnh từ Nghệ Tĩnh trở ra), Nxb KHXH, Hà Nội.
55. Ngô Đức Thọ, Nguyễn Văn Nguyên, Philip Papin (2003), Đồng khánh địa dư chí,
tập 1, Nxb Thế giới, Hà Nội.
56. Hoàng Xuân Trường, Sở hữu ruộng đất và kinh tế nông nghiệp ở huyện Đại Từ
(Thái Nguyên) nửa đầu thế kỷ XIX, Luận văn Thạc sĩ Lịch sử, Trường Đại học Sư
phạm Thái Nguyên.
57. Ủy ban nhân dân tỉnh Lạng Sơn (1999), Địa chí tỉnh Lạng Sơn, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội
58. Đào Tố Uyên (1999), Công cuộc khẩn hoang thành lập huyện Kim Sơn (1829),
Khoa Lịch sử - Đại học sư phạm Hà Nội.
59. Đàm Thị Uyên (2007), Chính sách dân tộc của các triều đại phong kiến, Nxb
Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
60. Đàm Thị Uyên (2011), Huyện Quảng Hòa (tỉnh Cao Bằng) từ khi thành lập đến
nửa đầu thế kỉ XIX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
61. Viện Dân tộc học (1987), Một số vấn đề kinh tế- xã hội các tỉnh miền núi phía
Bắc, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
62. Trần Quốc Vượng (1993), Trong văn hóa dân gian Cao Bằng, Nxb Thông tin-
Văn hóa Cao Bằng.
63. Trần Thị Thanh Xuyên (2015), Kinh tế, văn hóa huyện Trấn Yên tỉnh Yên Bái thế
kỷ XIX, Luận văn Thạc sĩ Lịch sử, Trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên.
64. Trương Thị Yến (chủ biên) (2013), Lịch sử Việt Nam, tập 5, Nxb Khoa học xã
97
hội, Hà Nội.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
TƯ LIỆU ĐỊA BẠ
65. An Bố xã địa bạ Gia Long 4, TTLTQG, KH 3305.
66. An Bố xã địa bạ Minh Mệnh 21, TTLTQG , KH 3306.
67. An Châu xã địa bạ Gia Long 4, TTLTQG, KH 3284..
68. An Châu xã địa bạ Minh Mệnh 21, TTLTQG, KH 3285.
69. Bất Bác xã địa bạ Gia Long 4, TTLTQG, KH 3288.
70. Diên Lạc xã địa bạ Gia Long 4, TTLTQG, KH 3312.
71. Diên Lạc xã địa bạ Minh Mệnh 21, TTLTQG, KH 3312.
72. Đông Quan xã địa bạ Gia Long 4, TTLTQG, KH 3293.
73. Đông Quan xã địa bạ Minh Mệnh 21, TTLTQG, KH 3292.
74. Hằng Sản xã địa bạ Gia Long 4, TTLTQG, KH 3301.
75. Hằng Sản xã địa bạ Minh Mệnh 21, TTLTQG, KH 3302.
76. Lân Ca xã địa bạ Gia Long 4, TTLTQG, KH 3307.
77. Lệ Viễn xã địa bạ Gia Long 4, TTLTQG, KH 3310.
78. Lệ Viễn xã địa bạ Minh Mệnh 21, TTLTQG, KH 3311.
79. Lợi Bác xã địa bạ Minh Mệnh 21, TTLTQG, KH 3289.
80. Mâu Duệ xã địa bạ Gia Long 4, TTLTQG, KH 3296.
81. Mâu Duệ xã địa bạ Minh Mệnh 21, TTLTQG, KH 3297.
82. Phúc Thắng xã địa bạ Gia Long 4,TTLTQG, KH 3303.
83. Phúc Thắng xã địa bạ Minh Mệnh 21, TTLTQG, KH 3304.
84. Quan Bản xã địa bạ Gia Long 4, TTLTQG, KH 3294.
85. Quan Bản xã địa bạ Minh Mệnh 21, TTLTQG, KH 3295.
86. Sàn Viên xã địa bạ Gia Long 4, TTLTQG, KH 3291.
87. Sàn Viên xã địa bạ Minh Mệnh 21, TTLTQG, KH.
88. Thạch Nham xã địa bạ Gia Long 4, TTLTQG, KH 3309.
89. Thạch Nham xã địa bạ Minh Mệnh 21, TTLTQG, KH 3308.
90. Thái Bằng xã địa bạ Gia Long 4, TTLTQG, KH 3298.
91. U Đông xã địa bạ Gia Long4, TTLTQG, 3287.
92. Vĩnh Khương xã địa bạ Gia Long 4, TTLTQG, KH 3299.
93. Vĩnh Khương xã địa bạ Minh Mệnh 21, TTLTQG, KH 3300.
98
94. Xuân Dương xã địa bạ Gia Long 4, TTLTQG, KH 3286.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
TƯ LIỆU ĐIỀN DÃ
Nghề STT Họ và tên Tuổi Địa chỉ nghiệp
90 Chu Quế Ngân 40 Cán bộ Phòng kiểm kê, Bảo tàng tỉnh Lạng Sơn
28 Phòng Nghiệp vụ, Sở văn hóa tỉnh 91 Nguyễn Thị Thắm Cán bộ Lạng Sơn
92 Nguyễn Bá San 50 Cán bộ Ban Quản lý di tích tỉnh Lạng Sơn
Hoàng Thị Thanh 40 93 Cán bộ Thư viện tỉnh Lạng Sơn Thủy
94 Phạm Văn Thương 60 Làm ruộng Xã Đông Quan, huyện Lộc Bình
95 Hứa Hữu Hảo 47 Cán bộ Phòng Văn hóa , huyện Lộc Bình
96 Đỗ Công Trung 35 Cán bộ UBND huyện Lộc Bình
97 Âu Thị Hưng 26 Kinh doanh Xã Quan Bản, huyện Lộc Bình
98 Vũ Thị Hồng Hà 30 Cán bộ Xã Vĩnh Khương, huyện Sơn Động
99 Tô Văn Chi 56 Kinh doanh Xã Phúc Thắng, huyện Sơn Động
99
100 Nguyễn Thị Duyên 45 Kinh doanh Xã An Châu, huyện Sơn Động
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
PHỤ LỤC
5
1
2
4
3
6
8
7
9
10
11
12
13
14
15
1. Gieo mạ 2. Cấy lúa 3. Làm cỏ 4. 5. Thu hoạch lúa
6. Làm đất 7. Vun ngô 8. Bãi ngô 9. 10. Thu hoạch ngô
11. Ruộng khoai lang 12. Ruộng Khoai tây 13. Ruộng đỗ 14. Ruộng lạc 15. Ruộng sắn
KINH TẾ NÔNG NGHIỆP
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Nguồn: Tác giả chụp và sưu tầm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
LÀNG BẢN, NHÀ CỬA
1
2
3
4
7
5
6
8
9
10
11
12
1. 2. 3. 4. Nhà sàn người Tày
9. 10. Nhà sàn người Thái
5. 6. Nhà sàn người Nùng
11. Nhà sàn người Dao
7. 8. Nhà sàn người Mường
12. Bản làng người Sán Chí
Nguồn: Tác giả chụp và sưu tầm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
TRANG PHỤC
2 1 3
4 6 5
1, 2. Dân tộc Tày
6. Dân tộc Mường
3. Dân tộc Sán Chí
7, 8. Dân tộc Thái
4,5. Dân tộc Nùng
9. Dân tộc Mông
7 9 8
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Nguồn: Tác giả chụp và sưu tầm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
ĐỀN, MIẾU, CHÙA, ĐÌNH
1
2
3
4
5
6
7
8
9
11
12
10
1. Đền Vua Bà – TT An Châu
5. 6. 7. 8 Đình – Chùa Chẽ – An Châu
9. 10. 11. 12. Đình Đặng – Vĩnh Khương
2. 3. 4. Miếu Thổ Công – Quan Bản
Nguồn: Tác giả chụp và sưu tầm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
LỄ HỘI LỒNG TỒNG
3
1
2
4
5
7
8
6
11
12
9
10
1. Khai mạc lễ hội
5. Thi cấy lúa
9. Múa lân
2. Rước lễ
6. Thi múa hát
10. Múa võ
3. Lễ tế
7. Chơi kéo co
11. Đấu cờ người
4. Cày ruộng
8. Chơi ném còn
12. Chơi đánh đu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Nguồn: Tác giả chụp và sưu tầm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
ĐỊA BẠ XÃ PHÚC THẮNG NĂM GIA LONG 4 (1805)
Tên làng, xã: xã Phúc Thắng
Tổng: An Châu
Ký hiệu: 3303
Niên hiệu: Gia Long 4 (1805)
Số tờ: 6 tờ
Vị trí:
Đông: Giáp xã Thạch Nham
Tây: Giáp huyện Lục Ngạn, phủ Lạng Giang, tỉnh Bắc Ninh.
Nam: Giáp xã Quế Sơn, huyện Lục Ngạn, phủ Lạng Giang, tỉnh Bắc Ninh.
Bắc: Giáp xã Xa Lý, huyện Lục Ngạn, phủ Lạng Giang, tỉnh Bắc Ninh.
Tổng diện tích ruộng đất: 3m.9s.10th.5t.0p
Tư điền: 3m.9s.10th.5t.0p
Loại 1: 0m.9s.10th.5t.0p
Loại 2: 1m.0s.0th.0t.0p
Loại 3: 2m.0s.0th.0t.0p
Không có thổ trạch viên trì
Chức sắc:
+ Sắc mục: Phạm Văn Lã
+ Xã trưởng: Thường Kim Xích
+ Thôn trưởng: Đinh Văn Phũ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
ĐỊA BẠ XÃ PHÚC THẮNG NĂM MINH MỆNH 21 (1840)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn Tên làng, xã: xã Phúc Thắng
Tổng: An Châu
Ký hiệu: 3304
Niên hiệu: Minh Mệnh 21 (1840)
Số tờ: 7 tờ
Vị trí:
Đông: Giáp xã Thạch Nham
Tây: Giáp huyện Lục Ngạn, phủ Lạng Giang, tỉnh Bắc Ninh.
Nam: Giáp xã Quế Sơn, huyện Lục Ngạn, phủ Lạng Giang, tỉnh Bắc Ninh.
Bắc: Giáp xã Xa Lý, huyện Lục Ngạn, phủ Lạng Giang, tỉnh Bắc Ninh.
Tổng diện tích ruộng đất: 10m.4s.10th.5t.0p
Tư điền: 10m.4s.10th.5t.0p
Loại 1: 0m.9s.10th.5t.0p
Loại 2: 1m.0s.0th.0t.0p
Loại 3: 8m.5s.0th.0t.0p
Không có thổ trạch, viên trì
Chức sắc:
+ Lý trưởng: Lương Trung Đạt
+ Dịch mục: Hà Kim Đường
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
N Ơ S N Ơ S N Ơ S N Ơ S
N Ơ S G N Ạ L H N Ỉ T H N Í H C H N À H Ồ Đ N Ả B
Nguồn: Địa chí Lạng Sơn
(Nguồn: Địa chí Lạng Sơn)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Nguồn: Tác giả
PHẠM VI YÊN BÁC NỬA ĐẦU THẾ KỶ XIX