BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI

ĐỖ THỊ HƢỜNG TÍNH TRỮ TÌNH

TRONG TRUYỆN NGẮN IVAN BUNIN

Chuyên ngành : Văn học nƣớc ngoài

Mã số : 9220242

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

HÀ NỘI, 2019

Công trình đƣợc hoàn thành tại: TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Đỗ Hải Phong Phản biện 1: TSKH Phan Hồng Giang Viện Văn hóa nghệ thuật Quốc gia Việt Nam Phản biện 2: PGS.TS. Nguyễn Thị Mai Chanh Trường Đại học Sư phạm Hà Nội Phản biện 3: TS. Nguyễn Thị Thu Thủy Trường Đại học KHXHNV – Đại học Quốc gia Hà Nội

Luận án sẽ đƣợc bảo vệ trƣớc Hội đồng chấm luận án cấp Trƣờng họp tại Trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội vào hồi …..giờ … ngày … tháng… năm…

Có thể tìm hiểu luận án tại thƣ viện:

- Thƣ viện Quốc Gia, Hà Nội - Thƣ viện Trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội

DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 1. Đỗ Thị Hường (2016), “Từ Quý ông từ San Francisco đến, Những quả

táo Antonov và Say nắng nhìn về mô hình trần thuật trong truyện ngắn

của Ivan Bunin”, Tạp chí Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật, số 2

(42), tr.84-92.

2. Đỗ Thị Hường (2016), “Ivan Bunin trong văn học Nga Thế kỷ Bạc”, Tạp

chí Nghiên cứu Văn học, số 11 (537), tr.104-113.

3. Đỗ Thị Hường (2017), “Truyện ngắn Ivan Bunin từ góc nhìn văn hóa”,

Tạp chí Văn nghệ quân đội, số 7 (873), tr.106-110.

4. Đỗ Thị Hường (2018), “Nhận diện truyện ngắn Ivan Bunin trong truyện

ngắn Nga cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX”, Tạp chí Lý luận, phê bình

văn học, nghệ thuật, số 2, tr.111-118.

5. Đỗ Thị Hường (2018), “Tiểu nữ thần hay nhân vật nữ nổi loạn trong

truyện ngắn của Ivan Bunin”, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, số 6 (408),

tr.84-87.

6. Đỗ Thị Hường (2019), “Cảm quan trữ tình trong truyện ngắn của Ivan

Bunin”, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, số 1 (563), tr.77-91.

1

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

I.A. Bunin là nhà văn, nhà thơ Nga đầu tiên nhận giải Nobel Văn

học (1933). Được biết đến trước hết là một nhà thơ, nhưng giải Nobel trao

cho ông vì những sáng tác văn xuôi “kế tục truyền thống vĩ đại của kỷ

nguyên rực rỡ thế kỷ XIX ở những điểm khả thủ cho sự phát triển”, vì “tài

năng xuất chúng và siêu việt của riêng ông, nó làm nên dấu ấn của kiệt tác

cho văn nghiệp của ông” [Hallström P.(1933), “Award ceremony speech”].

Bunin trưởng thành trong giai đoạn “Phục Hưng” của văn chương

Nga – Thế kỷ Bạc với nhiều trường phái mới. Riêng ông vẫn trung thành

với chủ nghĩa hiện thực. Nhà văn “âm thầm” đổi mới nó bằng những kỹ

thuật và thủ pháp tự sự của “chủ nghĩa hiện đại”, gia thêm cho nó ấn tượng

và cảm xúc của một nhà thơ. Bởi vậy, các tác phẩm văn xuôi của ông, đặc

biệt là truyện ngắn giống như những bài thơ văn xuôi bề mặt thì nhẹ nhàng

thanh khiết nhưng lại chứa đựng “mạch ngầm trữ tình” bên trong. Chính

“mạch ngầm trữ tình” này khiến cho việc “tiếp cận” truyện ngắn của ông

không dễ dàng như thưởng thức chúng. Câu hỏi đặt ra ở đây là: Làm thế

nào để nổi bật cái hay, cái tài của nhà văn, làm thế nào để chỉ ra được chất

Bunin? Chúng tôi lựa chọn đề tài Tính trữ tình trong truyện ngắn của Ivan

Bunin vừa để bày tỏ tình yêu với văn học Nga và nhà văn Bunin, vừa để

gắng sức trả lời những câu hỏi khó khăn trên.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu của chúng tôi trong luận án này là làm sáng

tỏ tính trữ tình trong truyện ngắn Ivan Bunin, từ khái niệm tính trữ tình cho

đến những yếu tố biểu hiện tính trữ tình trong truyện ngắn (cả những yếu tố

thuộc về nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật); qua đó xác định mối

liên hệ của tính trữ tình với chiều sâu tư tưởng cũng như phong cách nghệ

2

thuật của nhà văn, xác định những đóng góp của Bunin cho sự phát triển

của văn học thế giới, cũng như tiếng vọng sáng tác của ông vào đời sống

văn học đương đại.

Để thực hiện được mục đích trên, chúng tôi đề ra những nhiệm vụ

cụ thể sau:

- Xác định những yếu tố tạo ấn tượng trữ tình trên bình diện tổ

chức ngôn từ, hình tượng sự vật như sự gia tăng xúc cảm, tăng cường nhạc

tính, thi vị hóa lời văn trong truyện ngắn Bunnin.

- Tìm hiểu đặc trưng biểu hiện của các dạng thức chủ thể trữ tình

(người kể chuyện, nhân vật) và những đối tượng chủ yếu khơi dậy xúc cảm

trữ tình trong truyện ngắn của Bunin; qua đó phần nào xác định cảm hứng

chủ đạo kết nối tác giả - nhân vật – người đọc trong tác phẩm.

- Làm sáng tỏ các mô thức thức cảm xúc – sự kiện, cũng như các

kiểu cốt truyện trữ tình trong tổ chức trần thuật của truyện ngắn Bunin; xác

định cảm thức bi hoài toát lên từ các truyện ngắn Bunin như nguồn mạch

trữ tình chủ yếu bắt nguồn từ cảm quan nghệ thuật của nhà văn; từ đó xác

định phong cách truyện ngắn trữ tình của nhà văn cũng như những đóng

góp của Bunin trong cách tân thể loại truyện ngắn.

3. Đối tƣợng, phạm vi tƣ liệu nghiên cứu

3.1. Đối tƣợng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của chúng tôi là truyện ngắn của nhà văn

Nga Ivan Bunin. Cụ thể hơn chúng tôi nghiên cứu tính trữ tình như một nét

đặc trưng cho phong cách truyện ngắn của nhà văn này.

3.2. Phạm vi tƣ liệu nghiên cứu

Suốt cuộc đời cầm bút, Bunin để lại 21 tập truyện ngắn và truyện

vừa. Trong đó chỉ có 34 truyện ngắn được dịch sang tiếng Việt. Trong luận

3

án, chúng tôi ưu tiên nghiên cứu những truyện ngắn tiêu biểu nhất cho

phong cách Bunin. Chúng tôi sử dụng các văn bản:

-Văn bản tiếng Nga: Бунин И.А. (2006) Полное собрание

сочинений в ХIII томах, “Воскресенье”, Москва [99]. Truyện ngắn của

Bunin tập trung ở các tập 1, 2, 3, 4, 5, 6 gồm 188 tác phẩm.

- Văn bản tiếng Việt:

+ I.A.Bunin, Tuyển tập tác phẩm, Nxb Lao động, H., 2002 (Phan

Hồng Giang giới thiệu, Hà Ngọc, Phan Hồng Giang, Thái Bá Tân, Hữu

Việt, Đoàn Tuấn dịch từ nguyên bản tiếng Nga).

+ Ivan Bunin, Những lối đi dưới hàng cây tăm tối, Nxb Văn học -

Nhã Nam, H., 2006. In lại từ Ivan Bunin, Tuyển tập truyện ngắn, Nxb Văn

học; H., 1987 (Hà Ngọc dịch và giới thiệu).

+ Ivan Bunin, Hơi thở nhẹ, Nxb Hội Nhà văn, H., 2006. In lại từ

Ivan Bunin, Nàng Lika, Nxb Tác phẩm mới, Hội Nhà văn Việt Nam, H.,

1988 (Phan Hồng Giang dịch và giới thiệu).

+ Truyện ngắn Bunin trên Tạp chí Văn học nước ngoài số 6/2003.

+ Truyện ngắn Bunin trên Tạp chí Văn học nước ngoài số 10/2011.

+ Truyện ngắn của Ivan Bunin trên internet (Nguyễn Thị Kim

Hiền dịch).

- Văn bản tiếng Anh:

+ Bunin I. (2007), Collected Stories, Ivan R.Dee Chicago

Publisher, Chicago, USA, (Graham Heltlinger translated).

+ Bunin I. (2008), Dark Avenues, Oneworld Classic publisher,

London, United Kingdom, (Hugh Aplin translated).

4. Phƣơng pháp nghiên cứu

Luận án triển khai hướng tiếp cận chủ đạo là tiếp cận hệ thống kết

hợp với tiếp cận lịch sử - văn hóa. Cơ sở lí thuyết cho nghiên cứu của

4

chúng tôi là vấn đề vừa mang tính chất khoa học vừa mang tính chất mĩ

học: tính trữ tình. Chúng tôi sử dụng cuốn sách của Остапцева В.Н. (2010)

- Лиризм русской прозы 30-х годов века (Ostaptxeva, Tính trữ tình của

văn xuôi Nga những năm 30 của thế kỷ XIX) làm cơ sở cho những lí giải về

thuật ngữ tính trữ tình. Truyện ngắn của Bunin dù đậm tính trữ tình, vẫn

thuộc thể loại tự sự. Bởi thế đối tượng đặc biệt này cần được soi chiếu từ

góc độ lí thuyết tự sự. Chúng tôi kết hợp vận dụng hướng nghiên cứu thi

pháp học với lí thuyết trần thuật học hiện đại làm nền tảng cho những

nghiên cứu của mình. Theo chúng tôi, việc sử dụng các lí thuyết này trong

việc nghiên cứu truyện ngắn của Ivan Bunin là hợp lí và khả thi, bởi những

truyện ngắn của Bunin, mặc dù được coi là tiếp nối truyền thống hiện thực

cổ điển của văn học Nga thế kỷ XIX, song vẫn rất mới mẻ và hiện đại.

5. Giới thuyết thuật ngữ

5.1. Thuật ngữ tính trữ tình

Để xác định nội hàm khái niệm tính trữ tình, người viết dựa vào nội

dung khái niệm tương đương trong các từ điển tiếng Nga (лиризм) và tiếng

Anh (lyricism) kết hợp với những dẫn giải của cuốn sách Tính trữ tình của

văn xuôi Nga những năm 30 của thế kỷ XIX. Từ đó chúng tôi nhận định tính

trữ tình là một phạm trù thẩm mĩ, một dạng đặc trưng đặc biệt của tư duy

nghệ thuật, trong đó nổi trội là nỗi xúc cảm thầm kín và riêng tư của con

người được thể hiện trực tiếp và cảm nhận một cách tương đối thống nhất

trong mối quan hệ đồng điệu tác giả - nhân vật - người đọc. Cụ thể hơn,

những tiêu chí của tính trữ tình trong tác phẩm gồm có: tình cảm, cảm xúc

là yếu tố quan trọng hàng đầu, nhân vật trữ tình nói về mình nhưng biểu lộ

được tất cả những gì thầm kín nhất, sâu sắc nhất, phổ quát nhất cho toàn

nhân loại, âm nhạc và nhịp điệu là thành tố không thể thiếu, thiên nhiên và

thế giới bên ngoài hòa hợp với thế giới bên trong tâm hồn con người và

5

quan trọng nhất là tác giả, trong tính chủ quan của mình “buộc phải hiểu

mình và làm mê đắm những người khác, làm mê đắm tất cả mọi người”,

cuốn người đọc vào dòng xúc cảm của mình và của nhân vật trong tác

phẩm. Sự thống nhất xúc cảm của ba chủ thể thẩm mỹ này làm nên sự

quyến rũ đậm tính trữ tình cho tác phẩm.

5.2. Đặc trƣng tính trữ tình trong truyện ngắn

Tính trữ tình trong truyện ngắn, là sự hòa hợp của yếu tố thơ trong

văn xuôi, của phương thức trữ tình trong phương thức tự sự, của cảm xúc

trong cốt truyện, tình huống, của âm điệu, nhịp điệu trong lời văn, của cái

chủ quan trong cái khách quan của hiện thực. Vì thế, cần làm rõ cả những

yếu tố trữ tình được biểu hiện trong tác phẩm (tình cảm chủ đạo, nhân vật,

ngôn ngữ...) và nguyên tắc liên kết, hòa hợp những yếu tố đó của tác giả.

Nhà nghiên cứu Ostavtxeva trong Tính trữ tình của văn xuôi Nga những

năm 30 của thế kỷ XIX cũng tổng kết những yếu tố làm nên tính trữ tình

cho tác phẩm văn xuôi nói chung và truyện ngắn nói riêng. Đó là: tính chủ

quan hay tính cá nhân; thiên nhiên và sự hợp nhất con người – thiên nhiên;

sự hài hòa giữa cái hữu hạn – cái vô hạn, giữa thời gian – vĩnh hằng,

khoảnh khắc – vĩnh cửu; cảm xúc và các mô thức cảm xúc; nhịp điệu (ngữ

âm, cú pháp, kết cấu khung); các thủ pháp âm nhạc; các ngụ ý, biểu tượng,

“âm bản” – “ý nghĩa ngầm” của văn bản.

6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài

- Ý nghĩa khoa học: Luận án sẽ đóng góp vào việc nghiên cứu

chuyên sâu một tác gia lớn của văn học thế giới - Ivan Bunin, góp phần mở

rộng và khơi sâu những nghiên cứu về văn học Nga ở Việt Nam. Thông

qua việc nghiên cứu tính trữ tình trong truyện ngắn của Bunin, luận án cho

thấy ý nghĩa của hiện tượng giao thoa, tổng hoà giữa các thể loại tự sự và

trữ tình như biểu hiện quan trọng trong khuynh hướng sáng tạo nghệ thuật

6

của chủ nghĩa hiện đại đầu thế kỷ XX, góp phần xác lập phương pháp

nghiên cứu tính trữ tình trong văn xuôi nước ngoài. Phương pháp, những

kết quả và kinh nghiệm nghiên cứu của luận án có thể ứng dụng vào nghiên

cứu văn xuôi trữ tình trong văn học Việt Nam.

- Ý nghĩa thực tiễn: Luận án sẽ là công trình tham khảo hữu ích đối

với sinh viên, học viên các ngành ngữ văn cả trong quá trình nghiên cứu

khoa học, học tập và giảng dạy, góp phần vào công cuộc đổi mới nghiên

cứu và dạy học ngữ văn trong nhà trường. Đây cũng là tài liệu tham khảo

cho các giáo viên văn học trong việc mở rộng vốn tri thức về các nhà văn

Nga hiện đại, về văn học Nga thế kỷ XX. Từ đó, mở rộng vốn hiểu biết về

một nền văn học vĩ đại của thế giới cho đối tượng học sinh, bồi đắp tình

yêu thiên nhiên, văn hóa và cái đẹp, nuôi dưỡng sự phong phú của tâm hồn.

7. Đóng góp mới của luận án

Luận án là công trình đầu tiên đóng góp vào việc nghiên cứu một

cách hệ thống và chuyên sâu về truyện ngắn và đặc trưng phong cách

truyện ngắn của Ivan Bunin ở Việt Nam trên cơ sở kết hợp một cách mới

mẻ và hứa hẹn nhiều thành tựu của thi pháp học văn bản, trần thuật học

hiện đại và lí thuyết về tính trữ tình.

8. Cấu trúc luận án

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Phụ lục, luận án gồm 4 chương:-

Chương 1: Tổng quan vấn đề nghiên cứu

- Chương 2: Ấn tượng lời văn trữ tình

- Chương 3: Chủ thể và đối tượng trữ tình

- Chương 4: Cốt truyện trữ tình và cảm thức bi hoài

Phần Tài liệu tham khảo là danh mục 197 tài liệu.

9. Lƣu ý

Những văn bản ghi nguồn trích từ bộ Toàn tập Bunin bằng tiếng

Nga đều do chúng tôi tự dịch. Tương tự với những tài liệu tham khảo bằng

tiếng Nga và tiếng Anh được trích dẫn trong luận án.

7

CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1.1. Tình hình nghiên cứu về tính trữ tình trong văn xuôi Bunin

ở Nga

Điểm nhấn trong những công trình về Bunin (về cơ bản gồm có

nghiên cứu tiểu sử, nghiên cứu so sánh, nghiên cứu cảm quan nghệ thuật,

nghiên cứu văn xuôi Bunin) chính là những tư liệu cung cấp những gợi ý về

tính trữ tình trong văn xuôi Bunin nói chung và truyện ngắn nói riêng. Tuy

không nhiều nhưng đây là những tư liệu tham khảo rất quý với chúng tôi:

Văn học Nga giao thời thế kỷ (những năm 1890 đến đầu những năm 1920)

tập 1 (2000); Văn xuôi trữ tình của Bunin và sự phát triển của nó; Phạm

trù tính trữ tình trong văn xuôi của I.A.Bunin (khía cạnh ngôn ngữ) của

Luo Sichen (Ло Сычэнь), Tính trữ tình của văn xuôi Bunin trong con mắt

các nhà phê bình của R.Z.Khusainov, Tính trữ tình và sự tồn tại của sự thật

của văn xuôi Bunin thời kỳ đầu của Natalia A.Dudinova..., luận án của

Elena Vladimirovna Những hình thức và chức năng của tính trữ tình trong

văn xuôi I.A.Bunin những năm 1920 (2014), luận án của Kristian Shlegel

Hiện tượng học nghệ thuật của Ivan Bunin (2001). Nhìn chung, qua các tài

liệu nghiên cứu tiếng Nga, có thể thấy đã có một vài bài viết, công trình đề

cập đến các motif trữ tình, đến chất thơ trong văn xuôi, đến âm nhạc trong

văn xuôi của Bunin. Tuy nhiên, hầu hết các công trình đó, hoặc chỉ đề cập

tới tính trữ tình trong văn xuôi Bunin một cách khái quát, hoặc chỉ đi sâu

vào một khía cạnh đơn lẻ (chẳng hạn như ngôn ngữ), hoặc chỉ nghiên cứu

biểu hiện của tính trữ tình ở một giai đoạn nhỏ trong sáng tác văn xuôi của

Bunin. Vấn đề tính trữ tình trong truyện ngắn Bunin nhìn một cách toàn

diện trong toàn bộ hệ thống sáng tác Bunin qua các lớp ngôn từ, trần thuật,

nhân vật, căn nguyên tính trữ tình… vẫn đòi hỏi phải được đào sâu nghiên

cứu và diễn giải.

8

1.2. Tình hình nghiên cứu về tính trữ tình trong văn xuôi

Bunin ở phƣơng Tây

Các nhà nghiên cứu phương Tây đã đứng trên một bình diện

riêng để nhìn Bunin. Đặc biệt, họ rất nhạy cảm khi nói về mối liên hệ

của ông với những nhà văn trước và cùng thời; họ cũng rất chú trọng

đến những đề tài chính trong sáng tác của ông. Vấn đề ngôn ngữ đã

được đề cập tới. Tuy nhiên, yếu tố âm nhạc, chất trữ tình chưa được chỉ

ra và nghiên cứu trực tiếp.

1.3. Tình hình nghiên cứu về tính trữ tình trong văn xuôi Bunin

ở Việt Nam

Ở Việt Nam chưa có một cuốn chuyên luận nào viết về Ivan Bunin.

Những tài liệu chúng tôi thu thập được phần nhiều là những bài giới thiệu

ngắn gọn về tác giả và các tác phẩm được tuyển ở đầu các tập truyện ngắn

dịch, trong các từ điển văn học, một vài bài viết của các nhà nghiên cứu

trên các tạp chí văn chương và một số bản dịch các bài viết về Ivan Bunin

của một số nhà nghiên cứu nước ngoài. Trong khuôn khổ của một bài giới

thiệu các nhà nghiên cứu chỉ dừng ở mức đưa ra nhận định và đánh giá,

chưa đi sâu nghiên cứu tìm hiểu, phân tích về tính trữ tình, về chất nhạc,

nhịp điệu trong truyện ngắn của ông. Trong một số cuốn Giáo trình văn học

Nga, Bunin cũng chỉ được giới thiệu với dung lượng hạn chế. Gần đây, các

cuốn Giáo trình văn học Nga thế kỷ XX của Vũ Công Hảo và Văn học Nga

hải ngoại: Quá trình – Đặc điểm – Tiếp nhận của Phạm Gia Lâm có dành

dung lượng một chương để nói riêng về Bunin với những gợi ý rất quý về

truyện ngắn trữ tình (Vũ Công Hảo) và triết luận – trữ tình (Phạm Gia Lâm)

của nhà văn. Các khóa luận và luận văn Thạc sỹ chủ yếu nghiên cứu nghệ

thuật miêu tả (thiên nhiên, đồ vật, nhân vật). Đây đó có một vài trang các

tác giả luận văn nhắc đến âm nhạc nhưng chỉ dừng ở việc thống kê các loại

9

hình âm thanh thiên nhiên, sinh hoạt chứ chưa chỉ ra cụ thể đặc tính và nhịp

điệu của truyện ngắn. Vấn đề tính trữ tình cũng chưa được nghiên cứu.

Ở trên chúng tôi đã trình bày những nét cơ bản trong nghiên cứu

Bunin và truyện ngắn của ông qua các tài liệu tiếng Nga, tiếng Anh, tiếng

Việt chúng tôi thu thập và xử lý được. Kế thừa thành quả của những người

đi trước, kết hợp với những kiến giải của riêng mình, chúng tôi hi vọng sẽ

đem đến cho người đọc cái nhìn đầy đủ nhất về yếu tố làm nên bản sắc

truyện ngắn Bunin.

CHƢƠNG 2. ẤN TƢỢNG LỜI VĂN TRỮ TÌNH

Với bất kỳ một tác phẩm văn học nào, đặc biệt là tác phẩm trữ tình,

ngôn từ luôn giữ vai trò cực kỳ quan trọng. Ngôn từ là lớp ấn tượng bề mặt

tác động đến người đọc trước tiên. Với chúng tôi, “nét duyên” trong ngôn

ngữ giản dị mà chính xác và giàu giá trị biểu đạt, biểu cảm của Bunin chính

là ấn tượng trữ tình đầu tiên không thể không nhắc tới khi tiếp xúc với kho

tàng truyện ngắn của nhà văn. Ấn tượng đó được tạo nên từ các thủ pháp

gia tăng sức biểu cảm cho lời văn, tăng cường nhạc tính và thi vị hoá hệ

thống từ vựng trong truyện ngắn.

2.1. Gia tăng biểu cảm lời văn

2.1.1. Cảm xúc hóa đối thoại

Trong truyện ngắn của Bunin, chúng tôi nhận thấy số lượng các đối

thoại tương tác xã hội đơn thuần xuất hiện rất ít, và nếu có xuất hiện thì

cũng là những đối thoại rất ngắn. Nhân vật gặp gỡ ngắn ngủi, trao đổi với

nhau những thông tin hết sức vắn tắt và cơ bản, nhưng ấn tượng, cảm xúc

lại hết sức lớn lao và mãnh liệt. Khi ấy, đối thoại tương tác xã hội đã

10

nhường chỗ cho đối thoại giãi bày cảm xúc. Sự chuyển đổi các dạng đối

thoại trong cùng một tác phẩm đã tăng thêm tính chất trữ tình và “mềm

mại” cho tác phẩm. Đó chính là biểu hiện cảm xúc hóa đối thoại, gia tăng

chất trữ tình cho lời văn.

2.1.2. Độc thoại hóa đối thoại và phối cảm lời kể với lời độc thoại

Trong nhiều truyện ngắn của nhà văn Nga, ông để cho nhân vật có

những phút giây sống hoàn toàn với con người mình. Đó là khi họ tự đối

diện với bản thân, tự bộc lộ tâm sự chất chứa trong lòng. Nhưng dường như

nhân vật của Bunin rất ngại tự mình giãi bày, đối thoại với chính mình. Họ

chỉ “dám” làm việc ấy một cách gián tiếp: viết thư, viết nhật ký hay kín đáo

gửi gắm tâm sự qua lời của người kể chuyện. Thực chất sự phổ biến của cả

hai dạng thức lời văn này thể hiện khuynh hướng độc thoại hóa đối thoại,

phối cảm lời kể với lời độc thoại gia tăng sức biểu cảm cho lời văn trong

truyện ngắn Bunin.

2.2. Tăng cƣờng nhạc tính lời văn

2.2.1. Phép điệp tạo nhạc tính

Đọc truyện ngắn của Bunin, thậm chí qua bản dịch, người đọc sẽ

cảm thấy rất thích thú và ngạc nhiên với những câu văn, đoạn văn, thậm chí

có những tác phẩm có âm điệu du dương như lời hát, nhịp nhàng như lời

thơ. Đó là bởi nhà văn đã sử dụng phép điệp ngữ âm – cú pháp (điệp âm,

từ ngữ, tổ chức câu) tạo ra những câu văn xuôi mượt mà và ngân nga:

“Кукушка выскакивает из часов и насмешливо-грустно кукует над

тобою в пустом доме. И понемногу в сердце начинает закрадываться

сладкая и странная тоска...” [99 – tập 1; tr. 417). Không chỉ điệp ngữ

âm – cú pháp, nhiều truyện ngắn của Bunin được xây dựng theo lối điệp kết

cấu ngữ đoạn. Các dạng thức điệp kết cấu ngữ đoạn cũng khá đa dạng:

11

Những giấc mơ của Trang là sự lặp lại đến ba lần kết cấu đan xen hiện thực

– giấc mơ, kết cấu tuần hoàn đầu cuối tương ứng (Rusya, Ở một phố thân

quen, Ida, Galia Ganskaya…); kết cấu đối thoại đăng đối (Trên biển đêm

khuya, Bình cà phê thứ hai, Sự trả thù, Mẹ đỡ đầu…), kết cấu “chương

hồi”… Trong truyện ngắn Bunin còn phổ biến hiện tượng điệp hình tượng

sự vật. Có những hình ảnh, thanh âm, hương vị cứ trở đi trở lại trong kí ức

nhân vật như dấu ấn lưu giữ quá khứ, tạo nên những ám ảnh nghệ thuật

khôn nguôi. Ở những tác phẩm như Những quả táo Antonov, Chiếc cốc đời,

Cỏ gày, Hoa hồng Ierikhon, Những cây thông, Con đường mới, Đôi hài…

chúng được kết cấu theo lối tạo dựng biểu tượng hàm chứa xúc cảm trữ tình

của nhà văn, từ đó lôi cuốn rung động trữ tình nơi người đọc.

2.2.2. Lời văn xen thơ, nhạc

Nhạc tính trong tác phẩm của Bunin không chỉ được tạo nên từ thủ

pháp điệp ngữ âm – cú pháp, ngữ đoạn – tổ khúc hay điệp hình tượng sự

vật, ở nhiều tác phẩm, Bunin chủ động đưa những câu hát, bài thơ vào tác

phẩm văn xuôi tạo ra những bản nhạc thấm đậm hương vị trữ tình. Phải kể

đến Bản Ballad, Bài hát của Chúa, Nơi đất khách, Ngày thứ Hai chay tịnh,

Meliton, Chiếc cốc đời… Những câu hát, lời thơ trong truyện ngắn của

Bunin chủ yếu là những lời ca yêu đương giãi bày tình yêu lứa đôi, trong

đó có cả những thi phẩm của các nhà thơ cổ điển Nga Fet, Lermontov… Ở

nhiều tác phẩm những lời hát còn như một niềm mơ ước, một khát khao,

một lời tâm sự những mong vơi bớt nỗi buồn. Đặc biệt, những lời hát này

thường mang âm hưởng dân ca Nga lúc thì rộn rã du dương, lúc lại buồn bã

da diết: Tanka, Cuộc đời tươi đẹp, Những cây thông…

12

2.3. Thi vị hóa ngôn từ

2.3.1. Phong vị dân gian

Bunin có khuynh hướng chuyển tải trường từ vựng và những kết

hợp ngôn từ mang phong vị dân gian vào những truyện ngắn của mình như

một cách thi vị hóa xúc cảm trữ tình hướng tới thể hiện tinh thần cội nguồn

dân tộc. Những yếu tố văn hóa dân gian Nga trong tác phẩm của Bunin khá

phong phú, nhất là những tác phẩm viết về đề tài nước Nga và đề tài người

nông dân. Đó có thể là những tác phẩm có sự xuất hiện của những nhân vật

quen thuộc của truyện cổ tích hoặc thần thoại Nga, cũng có thể là sự xuất

hiện của những bài ca dân gian, những thành ngữ cổ của Nga hay Ukraina,

những lối nói dân gian quen thuộc (bông phèng, bóng gió, nhắc nhở…) hay

có những tác phẩm tác giả đi vào miêu tả cuộc sống và lối suy nghĩ, tâm

hồn, niềm tin của những người mugic và những người phụ nữ Nga.

2.3.2. Vẻ đẹp ngôn từ của đức tin và tư tưởng

Đọc truyện ngắn Bunin chúng tôi nhận thấy ở nhiều tác phẩm nhà

văn có xu hướng đối thoại với những nhà cổ điển Nga và với các tôn giáo

lớn trên thế giới. Đối thoại tư tưởng với những nhà văn “nặng ký” nhất về

tầm tư tưởng trong thời đại hoàng kim của văn học Nga như Turghenev,

Dostoevsky, Tolstoy... không chỉ cho thấy sự khác biệt về tư tưởng của

Bunin với những nhà văn này, mà còn là minh chứng cho khuynh hướng

gia tăng tính trữ tình - triết luận trong hệ thống ngôn từ truyện ngắn của

Bunin. Với hệ thống ngôn từ mang đậm dấu ấn tư tưởng Phật giáo, Đạo

giáo, Thiên Chúa giáo, Hồi giáo, Bunin đã làm phong phú thêm cho những

truyện ngắn giàu xúc cảm cảm tính của mình, gia thêm cho chúng những

sắc điệu triết luận vừa thần bí vừa thiêng liêng, vừa sâu lắng vừa hài hước.

Những đối thoại tư tưởng như vậy làm cho nhiều truyện ngắn xúc cảm của

Bunin mang nặng suy tư về nhân thế, bản thể và đức tin của con người.

13

CHƢƠNG 3. CHỦ THỂ VÀ ĐỐI TƢỢNG TRỮ TÌNH

Chủ thể trữ tình hay chủ thể xúc cảm trong truyện ngắn Bunin có

thể là người kể chuyện (narrator), đồng thời có thể là nhân vật chính (hero),

nhân vật với “vai trò” chủ thể hành động và cảm nhận (actor) [39; tr. 249].

Trong truyện ngắn của Bunin, đối tượng mà các chủ thể trữ tình đau đáu

hướng tới qua các câu chuyện của mình, suy cho cùng, là những hình ảnh

ấn tượng của nước Nga thiêng liêng có thể đang chìm vào quá vãng, mà

không thể mất đi trong tâm tưởng, hay những người con gái Nga đẹp như

biểu tượng nữ tính vĩnh hằng, dù đa phần bất hạnh.

3.1. Chủ thể trữ tình - ngƣời kể chuyện “chủ quan”

3.1.1. Người kể chuyện toàn tri “thâu tóm” cảm xúc

Ở truyện ngắn của Bunin, người kể chuyện ngôi thứ ba thường bao

giờ cũng là toàn tri, có thể biết hết những gì tồn tại bên ngoài nhân vật và

cả thế giới xúc cảm bên trong nhân vật, “thâu tóm” các mạch cảm xúc của

các chủ thể trữ tình, hướng vào cảm hứng chủ đạo của tác phẩm. Người kể

chuyện toàn tri thâu tóm cảm xúc xuất hiện trong đa số truyện ngắn của

Bunin (57/100 truyện được khảo sát). Sau Cách mạng nhân vật người kể

chuyện này chủ yếu xuất hiện trong những truyện ngắn mini hầu như không

có cốt truyện nhằm mục đích biểu lộ dòng xúc cảm đồng thời triển khai

mạch triết luận: Sách, Nhà mồ, Người mù, Âm nhạc, Hy vọng, Marya,…

Điểm đặc biệt là truyện kể từ ngôi thứ ba của Bunin không tạo ấn tượng

gián cách với nhân vật, người đọc, ngược lại nó tập trung tạo ấn tượng giao

cảm trữ tình (khác Chekhov).

3.1.2. Người kể chuyện ngôi thứ nhất – nhân vật “trải nghiệm”

cảm xúc

Trong các sáng tác của Bunin, số lượng các tác phẩm được viết ở

ngôi thứ nhất, xưng “tôi” rất nhiều (35/100 truyện được khảo sát), đặc biệt

14

là những sáng tác sau Cách mạng tháng Mười. Duờng như khi sống và làm

việc ở nước ngoài, nhà văn chủ yếu viết về những trải nghiệm của mình.

Nhân vật “tôi” – trí thức, nghệ sĩ, quý tộc kể về câu chuyện của chính anh

ta (Những quả táo Antonov, Natali, Con quạ, Canh khuya, Cuộc đời tươi

đẹp, Ngày thứ Hai chay tịnh, Mùa thu lạnh, Một truyện tình nho nhỏ, Ở một

phố thân quen, Kavkaz…) để hoài nhớ nước Nga, hoài nhớ những kỷ niệm

tình yêu và cả những buồn đau. Trong những truyện ngắn này, người kể

chuyện là nhân vật nam chính – nhân vật tình yêu trong tác phẩm tự kể câu

chuyện tình của mình. Bởi thế, xúc cảm trong những câu chuyện được kể là

những xúc cảm được nhân vật trực tiếp trải nghiệm. Chúng tôi gọi người kể

chuyện trong những sáng tác này là người kể chuyện ngôi thứ nhất – nhân

vật “trải nghiệm” cảm xúc.

3.1.3. Luân chuyển người kể chuyện, thống nhất xúc cảm

Trong những truyện ngắn của Bunin, có những tác phẩm xuất hiện

hai người kể chuyện: người kể chuyện từ ngôi thứ ba toàn tri dẫn dắt mở

đầu, sau đó tới lượt nhân vật chính trong tác phẩm tự kể câu chuyện của

mình (8/100 truyện được khảo sát). Shmid khi phân tích sự luân chuyển ba

lớp người kể chuyện trong Tập truyện ông Belkin của Pushkin đã gọi đó là

sự xuất hiện của những người kể chuyện đa tầng, và lối kể chuyện ấy được

coi là lối kể đa tầng [Шмид B. (2003), Нарратология; tr. 80]. Theo chúng

tôi, so với Pushkin, lối kể đa tầng của Bunin có sự linh hoạt hơn về mặt

biểu cảm. Hơi thở nhẹ, Đứa con trai, Một truyện tình nho nhỏ, Galia

Ganskaya, Rusya,… là những truyện như thế. Cá biệt, có tác phẩm, câu

chuyện có sự chuyển đổi giữa người kể chuyện ngôi thứ nhất gián tiếp

(người nghe chuyện – tác giả dùng ngôi “chúng tôi”) và người kể chuyện

ngôi thứ nhất trực tiếp xưng “tôi”, người trực tiếp kể lại câu chuyện. Ida là

tác phẩm tiêu biểu nhất cho lối kể này.

15

3.2. Nƣớc Nga trong miền hoài niệm

3.2.1. Thiên nhiên Nga trong vẻ đẹp vĩnh hằng

Thiên nhiên Nga bốn mùa đi vào trang văn của Bunin thanh tân và

nguyên bản: những cánh đồng rất Nga, thảo nguyên bao la, vầng trăng dịu

dàng in bóng trên nền tuyết trắng mênh mông, những cây bạch dương vàng

rực, hương táo thơm, tiếng chim họa mi... Những bức tranh ấy không chỉ

đẹp mà còn thấm đẫm xúc cảm yêu thương. Thiên nhiên cũng là liều thuốc

tâm trạng của nhà văn. Nhìn thiên nhiên mọi buồn đau của con người như

ngưng đọng lại, khuất sâu đi, và con tim dường như cũng thanh thản hơn,

thậm chí có những lúc hân hoan trở lại. Những bức tranh thiên nhiên trong

Những quả táo Antonov, Bi kí, Giấc mơ mùa đông, Cỏ gầy, Meliton, Mối

tình đầu (từ thời thơ ấu), Mùa xuân cuối cùng… đều nằm trong số những

bức tranh thiên nhiên đẹp nhất của văn học Nga.

3.2.2. Điền trang – thế giới của kỷ niệm

Nhiều truyện ngắn của Bunin trước năm 1917 gắn với bối cảnh

nước Nga với những nét đẹp văn hóa trang trại, nông thôn cổ truyền. Có thể

kể đến những tác phẩm như: Những quả táo Antonov, Cỏ gầy, Meliton, Tania,

Natali, Styopa, Mùa xuân cuối cùng, Tanka… Trong những tác phẩm này, bối

cảnh chủ đạo là những khu điền trang của các địa chủ, những căn nhà gỗ nông

dân đặc trưng của nước Nga. Ở đây, nếp sống giao hòa với thiên nhiên, yêu lao

động và nhất là đời sống tinh thần văn hóa văn nghệ phong phú đã được tái

hiện sinh động. Ở đây còn có những mối tình chốn làng quê trong trẻo, nên thơ

với dư vị ngọt ngào nhưng cũng đầy tiếc nuối.

3.3. Vẻ đẹp nữ vĩnh hằng

3.3.1. Những bức chân dung “ấn tượng”

Các nhân vật nữ của Bunin thường được khắc họa bằng một vài nét

vẽ tươi mát và đẹp đẽ. Họ thường được nhận ra bởi mái tóc, màu mắt, đôi

bàn tay, xiêm áo quyến rũ hay hương thơm ấn tượng. Với một số nhân vật,

16

Bunin miêu tả họ trong nét quyến rũ của vẻ đẹp thân thể với những đường

nét thanh tân và làn da mịn màng. Những bức chân dung chấm phá ấy hết

sức duyên dáng và có hồn. Có lẽ, vẻ đẹp nữ ấn tượng là một trong những

nét quyến rũ đặc biệt không thể phủ nhận của văn xuôi Bunin. Người đọc

chắc chắn không thể quên những bức chân dung của Olia Merserskaia,

Natali, Galia Ganskaya, Tania hay những nhân vật “nàng” trong Ngày thứ

hai chay tịnh, Say nắng, Những tấm danh thiếp…

3.3.2. Những tâm hồn Nga cứu rỗi

3.3.2.1. Tình yêu cứu rỗi

Các nhân vật nữ, đặc biệt là nhân vật nữ tình yêu trong truyện ngắn

Bunin, đều là những người trẻ, kể cả những mối tình thoáng qua. Thế

nhưng, những nhân vật trẻ trung ấy lại có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối

với các nhân vật nam, cứu rỗi tâm hồn họ. Mối tình với các cô gái để lại

dấu ấn đậm sâu đến mức các chàng trai suốt đời không thể quên: Một

truyện tình nho nhỏ, Natali, Ở một phố thân quen, Tania, Stepa, Rusya,

Natali, Những tấm danh thiếp, Say nắng, Canh khuya…

3.3.2.2. Lí tưởng cứu rỗi

Trong những truyện ngắn của Bunin có những nhân vật nữ còn trẻ

nhưng đã có lí tưởng rất cao cả: từ bỏ hạnh phúc cá nhân để theo đuổi lí

tưởng tôn giáo. Đó là khát vọng cứu rỗi, là khát vọng hướng tới cái vĩnh

cửu tuyệt đối của con người. Và điểm đặc biệt là, khát vọng ấy, lí tưởng ấy

lại được xây dựng trong hình thức của một câu chuyện tình đầy kỳ bí và

hấp dẫn. Ở đây, chúng tôi muốn nói tới tác phẩm Ngày thứ Hai chay tịnh

của nhà văn. Nhân vật “nàng” trong truyện ngắn sau khi hiến dâng “con

người trần tục” cho người mình yêu để đền đáp tấm chân tình của chàng đã

bỏ đi tu. Đó là hành động dâng mình cho Đức Mẹ, từ bỏ cứu chuộc một con

người để cứu chuộc và bảo vệ cho mọi người, cho nước Nga, bởi nàng

mang trong mình khát vọng của Thánh nữ.

17

CHƢƠNG 4. CỐT TRUYỆN TRỮ TÌNH VÀ CẢM THỨC BI HOÀI

4.1. Những mô thức cảm xúc – sự kiện

4.1.1. Cảm xúc tiếc nuối– dòng chảy hoài niệm

Ở xa quê hương, nhà văn tiếc nhớ rất nhiều thứ: vẻ đẹp đã qua giờ

chỉ còn vang bóng của chốn thôn quê, những điền trang Nga, sự lạc quan,

vô tư lự của những người dân Nga hồn hậu, cái đẹp rực rỡ thanh xuân của

những cô gái tuổi đôi tám, mối tình đẹp đẽ mà câm nín và thậm chí là cảm

giác hối hận tiếc nuối vì đã vô tình giết chết cái đẹp… Và những cảm xúc

tiếc nuối này đều đến từ những câu chuyện viết về nỗi hoài nhớ quá khứ

qua hồi tưởng của nhân vật. Những tác phẩm tiêu biểu cho motif cảm xúc

này có thể kể đến: Những quả táo Antonov, Bà lão, Galia Ganskaya, Ida, Ở

một phố thân quen, Canh khuya, Mối tình đầu, Quán trọ ven sông…

4.1.2. Cảm xúc mãnh liệt – khoảnh khắc “hiện tại”

Truyện ngắn khoảnh khắc là truyện ngắn lấy cơ sở là một sự kiện,

một thời điểm, một thời khắc ngắn ngủi trong cuộc đời các nhân vật. Câu

chuyện được kể lại ngay tại thời điểm nó xảy ra. Bởi thế tất cả những cung

bậc cảm xúc đều ở cấp độ mãnh liệt nhất: yêu mãnh liệt, buồn vô hạn, giận

hờn ghê gớm… Trong những thời khắc ấy nhân vật khóc, cười, yêu, ghét

và bộc lộ tâm trạng, thái độ, tình cảm cũng như suy nghĩ của mình. Những

khoảnh khắc cảm xúc mãnh liệt nhất trong sáng tác của Bunin đa phần đều

là những khoảnh khắc tình yêu: khoảnh khắc chia li, khoảnh khắc say nắng,

khoảnh khắc tình tự… Các tác phẩm tiêu biểu phải kể đến: Lần gặp gỡ cuối

cùng, Canh khuya, Say nắng, Những tấm danh thiếp…

4.1.3. Cảm xúc “an phận” – vòng đời “tĩnh lặng”

Chúng tôi gọi những tác phẩm viết về cuộc đời, số phận của các

nhân vật chính theo một trật tự tuyến tính hầu như không đan xen quá khứ,

hiện tại, không có sự kiện gây đột biến tạo ra bước ngoặt cho câu chuyện là

18

những tác phẩm được viết theo mô hình sự kiện dòng chảy cuộc đời. Trong

những câu chuyện này hầu hết các nhân vật đều an phận và bằng lòng với

cuộc đời của mình, dù cuộc đời ấy với một số người không được như ý họ.

Tiêu biểu cho mô hình này của Bunin là những truyện ngắn: Cuộc đời tươi

đẹp, Cỏ gầy, Chiếc cốc đời, Mùa thu lạnh, Con quạ,…

4.1.4. Vòng tuần hoàn cảm xúc – sự kiện

Trong những sáng tác của Bunin, dòng sự kiện dường như tĩnh tại,

êm đềm, ít đột biến và cảm xúc của người đọc đối với tác phẩm ấy về cơ

bản không có sự thay đổi. Tuy nhiên trong một số truyện ngắn, những xúc

cảm của người đọc được biến đổi theo sự biến đổi của dòng chảy sự kiện:

trước và sau khi sự kiện đột biến trong tác phẩm xảy ra, nhân vật, và cả

người đọc đã có sự thay đổi trong cảm xúc, trong cách nhìn nhận về nhân

vật. Quý ông từ San Francisco đến, Đứa con trai, Hơi thở nhẹ, Một truyện

tình nho nhỏ, Zoyka và Valeria… tiêu biểu cho mô hình trần thuật trên.

4.2. Cốt truyện hành trình tâm trạng

4.2.1. Chuỗi cốt truyện tâm trạng tuyến tính

Cốt truyện tâm trạng tuyến tính là những tác phẩm được viết theo

dòng thời gian tuyến tính của sự kiện và tâm trạng nhân vật, không hoặc

hầu như không có sự đan xen, xáo trộn của quá khứ, hiện tại, tương lai. Với

43/100 tác phẩm được khảo sát, các tác phẩm có cốt truyện tâm trạng tuyến

tính này khá phong phú trong việc tổ chức sự kiện và cốt truyện: cốt truyện

tâm trạng tuyến tính đơn chiều (Những quả táo Antonov, Cuộc đời tươi

đẹp, Chiếc cốc đời, Mẹ đỡ đầu, Lần gặp gỡ cuối cùng, Meliton, Klara…),

cốt truyện tâm trạng tuyến tính song song với hai dạng thức: song song

tương đồng (Ở Paris, Một truyện tình nho nhỏ, Zoyka và Valeria,

Kavkaz…) và tương phản (Hơi thở nhẹ, Quý ông từ San Francisco đến,

Đứa con trai, Con quạ, Ngày thứ Hai chay tịnh…). Sự xuất hiện của các

19

dạng thức song song trong cốt truyện tuyến tính cho thấy sáng tạo của

Bunin trong việc làm mới cốt truyện tuyến tính truyền thống.

4.2.2. Chuỗi cốt truyện tâm trạng phi tuyến tính

Chuỗi cốt truyện tâm trạng phi tuyến tính là những tác phẩm trong

đó các sự kiện tạo tâm trạng được sắp xếp không theo trật tự tuyến tính

thông thường. Các sự kiện ấy thường có sự đan xen với quá khứ, thậm chí

ở một số truyện, có sự hình dung về tương lai. Và qua những sự đan xen ấy,

những tâm trạng, những số phận nhân vật được hiện lên gần như song song,

đồng thời với nhau. Kiểu cốt truyện hành trình tâm trạng phi tuyến tính (với

22/100 truyện được khảo sát) cũng được kết cấu song song với hai dạng cơ

bản: phi tuyến tính nguyên nhân – kết quả (Những lối đi dưới hàng cây sẫm

tối, Ida, Galia Ganskaya…) và phi tuyến tính lắp ghép (với sự xuất hiện

của giấc mơ - Cỏ gầy, Những giấc mộng của Trang, Canh khuya, Ở một

phố thân quen…). Đây là cách Bunin tạo ra sự hấp dẫn mới mẻ cho những

truyện ngắn pha màu sắc hoài niệm, lấy quá khứ làm trọng tâm cảm xúc.

Bởi thế cho nên, hoài niệm, nỗi nhớ, kí ức trong tác phẩm của ông mang

những diện mạo rất riêng, rất độc đáo.

4.2.3. Chuỗi cốt truyện tâm trạng phi sự kiện

Bunin có những tác phẩm rất ngắn, trong đó ông chỉ miêu tả một

bức chân dung, tái hiện lại một cuộc trò chuyện ngắn, hay ghi lại một nét

tâm trạng, một dòng xúc cảm chợt đến trước một sự vật hoặc hiện tượng

nào đó (35/100 truyện được khảo sát). Sự kiện được xuất hiện gần như rất

mờ nhạt, thậm chí bằng không. Bởi thế, chúng tôi gọi những truyện ngắn

này là những truyện ngắn có cốt truyện phi sự kiện. Thậm chí có thể coi

bản thân tác phẩm là những “tự sự trữ tình ngoại đề” hết sức đặc biệt: Bức

chân dung, Một trăm Rupee, Viên ngọc lục bảo, Chó sói, Marya, Thần

tượng, Âm nhạc, Trẻ và Già, Hoa hồng Ierikhon… Những câu chuyện tâm

20

trạng phi sự kiện như vậy đã tạo nên một nét độc đáo cho văn nghiệp của

Bunin. Dường như, sẽ đến lúc văn xuôi trở về với bản nguyên thi ca của nó,

và sự kiện không còn là một thứ gì quan trọng nhất nữa, chỉ có xúc cảm,

xúc cảm trữ tình và đôi khi triết lí là cái còn ở lại.

4.3. Cảm thức bi hoài – nguồn mạch trữ tình truyện ngắn Bunin

Cảm thức bi hoài (elegism, элегическое) được chúng tôi hiểu

không phải như một thuật ngữ âm nhạc, mà như “một trong những mô

thức nghệ thuật, hình thái thẩm mĩ sinh nghĩa...”. Cái đẹp bi hoài – đó là

“sắc đẹp biệt li” (Pushkin) của khoảnh khắc một đi không trở lại, trong hoài

niệm về cái đẹp ấy, cái “tôi” nén lại, xoá bỏ mọi ranh giới sự kiện, mãnh

liệt hướng về hạt nhân nhân cách, hạt nhân chủ quan của tồn tại bản thể, trở

thành chính mình”[Тамарченко Н.Д. (2008), Поэтика, словарь

актуальных терминов; tr.302]. Truyện ngắn của Bunin thấm đẫm chính

cảm thức bi hoài ấy. Cảm thức bi hoài chính là phương thức nhà văn sử

dụng để vĩnh cửu hóa sự tồn tại của cái đẹp, tình yêu, khoảnh khắc. Cảm

thức bi hoài trong truyện ngắn của Bunin hiện hữu trong hai dạng thức: sự

mất mát/ sự chia ly và cái chết.

4.3.1. Cái đẹp và cảm thức bi hoài

Hơi thở nhẹ là một trong những truyện ngắn không thể không kể

đến khi nói về truyện ngắn của Bunin. Olia mười lăm tuổi nhưng đã đẹp

rực rỡ, vẻ đẹp yêu kiều quyến rũ. Cũng vì cái đẹp và sự “cá tính” của mình

Olia cuối cùng giã từ cõi thế, để lại bí mật quyến rũ của một người con gái

đẹp: hơi thở nhẹ. Không chỉ có Hơi thở nhẹ, ở nhiều tác phẩm khác của

Bunin, những người con gái đẹp đa phần đều bất hạnh: Natali, Rusya, Galia

Ganskaya, Valeria, Klara và nhiều nhân vật “nàng” khác… Như vậy, với

Bunin, cái Đẹp luôn luôn song hành cùng cái Bi. Nhưng đổi lại, những cái

Đẹp ấy luôn bất tử, dù chỉ trong khoảnh khắc.

21

4.3.2. Tình yêu trong cảm thức bi hoài

Một điểm đặc biệt rất dễ nhận thấy trong các sáng tác về đề tài tình

yêu của Bunin đó là tình yêu thường gắn liền với cái chết. Hay nói cách

khác, các nhân vật tình yêu thường chết khi kết thúc tác phẩm. Có lẽ, với

Bunin, phương thức duy nhất để giúp tình yêu sống mãi, để nó không bị

héo hon theo tháng ngày của những va chạm thường nhật là sự chia ly mãi

mãi. Thêm nữa, trong những truyện ngắn tình yêu của Bunin, tình yêu

không chỉ xuất hiện trong bộ cánh trong trẻo, thuần khiết đơn thuần của

tinh thần; không chỉ mang màu sắc lý tưởng, siêu phàm mà rất trần thế,

đậm chất sắc dục của con người, đặc biệt là những truyện ngắn sau Cách

mạng tháng Mười.

4.3.3. Khoảnh khắc cảm thức bi hoài

Nhà văn dành nhiều ưu ái của mình cho những sự kiện khoảnh

khắc, những truyện ngắn của ông sau này chủ yếu là những truyện ngắn

được xây dựng từ những ấn tượng, khoảnh khắc trong quá khứ. Những

khoảnh khắc tưởng như thoáng qua ấy lại có sức mạnh lớn lao, làm thay đổi

không chỉ tâm trạng, tình cảm của nhân vật trong tác phẩm, mà còn làm

biến đổi hoàn toàn diễn biến cốt truyện cũng như tâm lý đón đợi của người

đọc. Bản thân Bunin cũng có những suy nghĩ rất độc đáo về khoảnh khắc,

về quá khứ, về những vấn đề vĩnh cửu của con người trong thời đại nhiều

biến động. Điểm đặc biệt là những suy nghĩ này gắn bó thú vị với tôn giáo.

22

KẾT LUẬN

1. Ivan Bunin là một cây bút đặc biệt của nền văn học Nga. Xuất

thân quý tộc và “kiên định” lối sáng tác mang hơi thở “cổ điển” của nước

Nga nhưng những tác phẩm của Bunin vẫn rất hiện đại, ấn tượng và mang

sức cuốn hút riêng. Giống như những nhà văn tiền bối Puskin, Turgenhev,

Chekhov…Bunin viết về con người, cảnh vật, sinh hoạt thường ngày của

nước Nga; nhưng những trang viết của ông được kết nối bằng xúc cảm hoài

nhớ của một con người đau đáu hướng về Tổ quốc từ phương xa.

2. Ở Bunin, xúc cảm đã trở thành sợi dây kết nối hình tượng nhân

vật chủ đạo với tác giả và người đọc. Ở ông, lần đầu tiên trong văn học

Nga, cụ thể là truyện ngắn, khoảnh khắc trở thành vĩnh cửu, ấn tượng trở

thành vẻ đẹp biểu trưng. Ở ông, kí ức giữ một vai trò quan trọng trong cuộc

sống của con người. Đó là thứ nhân loại ngày nay luôn khát khao tìm về. Ở

ông, dù cảm thức bi hoài luôn hiện hữu và song hành cùng cái Đẹp, Tình

yêu, Khoảnh khắc nhưng cảm thức bi hoài ấy chính là phương thức để cái

Đẹp, để Tình yêu, để Khoảnh khắc được giữ lại đúng thời điểm đẹp nhất và

mãi mãi còn lại trong thế giới tinh thần của con người. Đó là sự vĩnh cửu!

3. Đóng góp của Bunin không chỉ ở xúc cảm về những gì thuộc về

nước Nga, kí ức hay sự giao thoa của cái Bi với những phạm trù tinh thần

ấn tượng khác của con người. Với lối kể chuyện tinh tế giàu xúc cảm thể

hiện qua cách lựa chọn sự kiện, cốt truyện, người kể chuyện kết hợp với

ngôn ngữ giàu nhạc điệu Bunin đã tạo ra một thứ văn xuôi như thơ đầy

quyến rũ. Những sự kiện được Bunin lựa chọn, đích đến của cốt truyện đều

hướng tới mục tiêu lưu giữ vẻ đẹp của thế giới, đặc biệt thế giới tinh thần

con người một cách ấn tượng nhất. Bởi thế, Bunin càng ngày càng có xu

hướng giản tiện tối đa sự kiện thực tế, gia tăng sự kiện tâm trạng, lưu giữ

khoảnh khắc cũng như những triết lý đầy trữ tình bằng hành động gợi nhớ,

sự hoài niệm, bằng ký ức thông qua một hình thức văn xuôi ngắn gọn, súc

23

tích nhưng đầy ắp cảm xúc – truyện ngắn “Bi kí”. Thực tế, sự giao thoa thể

loại (ở đây là văn xuôi và thơ trong truyện ngắn) là một xu hướng mang

dấu ấn của thời đại Bạc. Tuy nhiên, người đọc vẫn có thể nhìn thấy những

nét sáng tạo rất riêng của Bunin. Có thể nói cảm quan vĩnh cửu hóa những

nét đẹp “chỉ còn vang bóng” của cuộc đời đã khiến truyện ngắn Bunin vừa

giống như một bản bi ca, lại vừa giống như một bản hoan ca về mọi sự tồn

tại trong thế giới. Cái nhìn táo bạo về cuộc đời và sự cách tân đặc biệt của

Bunin đối với truyện ngắn đã khu biệt ông với những nhà văn trữ tình nhất

của văn học Nga. Có thể nói, Bunin đã trở thành cầu nối của văn học Nga

cổ điển và hiện đại.

4. Truyện ngắn của Bunin không đơn thuần là một truyện ngắn trữ

tình chỉ gói gọn trong nó ý nghĩa toát lên từ nhân vật hay sự kiện, ngôn từ

trong tác phẩm. Truyện ngắn của Bunin còn là một văn bản “liên văn bản”

độc đáo. Có những truyện ngắn người đọc tìm thấy những tác phẩm hội họa

thuần khiết và ấn tượng về thiên nhiên, về người con gái Nga thanh tân,

quyến rũ. Có những truyện ngắn đưa người đọc đến với không khí thơ ca

cổ điển Nga với những vần thơ của Fet, Lermontov… Có những truyện

ngắn người đọc lại được sống cùng âm nhạc dân gian Nga lúc da diết ngọt

ngào, lúc rộn rã tươi vui, hay âm nhạc cổ điển thế giới đầy du dương, lãng

mạn… Và có cả những truyện ngắn người đọc cảm nhận được không khí

đối thoại đầy cởi mở nhưng cũng rất thành kính của Bunin với Lev

Tolstoy, với Dostoievsky, với Turghenev và những cây bút khác… Có thể

nói đó cũng là một “cái được” rất lớn nữa của người đọc khi bước vào thế

giới nghệ thuật của truyện ngắn Bunin.

5. Nghiên cứu tính trữ tình trong truyện ngắn của Bunin thực sự là

một thử thách lớn lao với chúng tôi bởi thế giới truyện ngắn nói riêng và

văn xuôi Bunin nói chung vẫn còn khá “bí mật” đối với người Việt Nam.

Chúng tôi, trong những cố gắng của mình chắc chắn chưa thể làm thỏa mãn

24

tất cả những ai yêu và hiểu Bunin. Nhưng chúng tôi tin rằng, qua những

hiểu biết của mình được trình bày trong luận án chắc chắn chúng tôi cũng ít

nhiều có được sự đồng tình. Và chúng tôi cũng hi vọng những nghiên cứu

bước đầu của mình sẽ có giá trị gợi mở cho những nghiên cứu tiếp sau này

về cây bút Nga hải ngoại đầy tinh tế và sâu sắc này.