
3
không có mối quan hệ giữa các nhóm phả hệ với đặc điểm hình thái, nguồn gốc của
câc mẫu nấm thu thập. Kết quả nghiên cứu này gợi ý đối với nấm gây bệnh đốm đen
hại lạc ở Nghệ An, các biện pháp quản lý bệnh có thể được áp dụng đồng loạt trên
toàn tỉnh và tạo hiệu quả phòng chống giống nhau.
1.5.2. Ý nghĩa thực tiễn
Đề tài đã xác định được các đặc điểm sinh học, dịch tễ đặc trưng của nấm, đánh
giá được thiệt hại năng suất do bệnh đốm đen gây ra đối với cây lạc và nghiên cứu biện
pháp phòng trừ bệnh một cách hệ thống. Kết quả nghiên cứu của đề tài đã khẳng định
được tầm quan trọng của bệnh đồng thời giải thích được sự gây bệnh của nấm P.
personata hại lạc trên đồng ruộng, tìm ra thời điểm xử lý bệnh hiệu quả, từ đó làm cơ
sở cho việc đề xuất và áp dụng các biện pháp phòng trừ nhằm giảm thiểu thiệt hại của
bệnh một cách hiệu quả, góp phần nâng cao năng suất và phẩm chất lạc.
PHẦN 2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. TÌNH HÌNH SẢN XUẤT LẠC TRÊN THẾ GIỚI VÀ Ở VIỆT NAM
Cây lạc đứng hàng thứ hai sau cây đậu tương trong số các cây trồng ngắn ngày
lấy dầu thực vật (cả về diện tích và sản lượng) và được trồng rộng rãi ở hơn 100 quốc
gia trên thế giới.
Theo số liệu của Tổ chức Nông Lương Thế giới (2013), từ năm 2000 đến
2012, cùng với sự gia tăng về năng suất, sản lượng lạc thế giới cũng tăng lên, đạt
cao nhất là 38,4 triệu tấn (năm 2008), sau đó giảm xuống cùng với sự tụt giảm
diện tích trồng, do đó sản lượng lạc năm 2010 chỉ đạt 35,9 triệu tấn (FAO, 2013).
Các nước có sản lượng lạc lớn nhất trong niên vụ 2011/2012 là Trung Quốc, Ấn Độ,
Nigeria và Mỹ. Trung Quốc là nước đứng đầu với 16,8 triệu tấn, tiếp theo là Ấn Độ với
5,78 triệu tấn và Việt Nam là nước đứng thứ 12 với sản lượng 0,47 triệu tấn (FAO, 2013).
Sản xuất lạc tại Việt Nam được phân bố ở hầu hết các vùng sinh thái nông
nghiệp với diện tích trồng lạc chiếm khoảng 28% tổng diện tích cây công nghiệp
hàng năm, tập trung chủ yếu ở các vùng như Duyên hải Nam Trung Bộ, Đồng bằng
sông Hồng, Trung du và miền núi phía Bắc và Bắc Trung Bộ.
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê Việt Nam (2013), trong vòng 10 năm từ
2002-2012, mặc dù diện tích giảm từ 246,7 nghìn ha (năm 2002) xuống còn 220,5
nghìn ha (năm 2012) nhưng sản xuất lạc ở Việt Nam đã có những bước chuyển biến
tích cực về năng suất, tăng từ 1,62 tấn/ha (năm 2002) lên 2,13 tấn/ha (năm 2012). Sản
lượng tăng từ 400,4 nghìn tấn (năm 2002) lên 470,6 nghìn tấn (năm 2012). Năm 2012,
năng suất lạc bình quân cả nước đạt cao nhất là 2,13 tấn/ha. Sản lượng lạc của cả nước
đạt cao nhất vào năm 2008 với 530,2 nghìn tấn (bảng 2.2).
2.2. NHỮNG NGHIÊN CỨU VỀ BỆNH ĐỐM ĐEN HẠI LẠC
Năm 1985, Ellis và Everhad khi kiểm tra mẫu bệnh ở Alabama và Nam
Carolina đã có kết luận rằng nấm bệnh thuộc loại Cercospora sp. và đặt tên là
Cercospora personatum. Hiện nay, tên nấm này được đổi thành Phaeoisariopsis
personata (giai đoạn vô tính) hay Mycosphaerella berkeleyi (giai đoạn hữu tính).