
3
CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU VỀ CĂNG THẲNG
NGUỒN NƯỚC VÀ GIỚI THIỆU VỀ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
1.1 Căng thẳng nước và các nghiên cứu về căng thẳng nước trên thế giới
1.1.1 Một số khái niệm về căng thẳng nguồn nước
Cạn kiệt nguồn nước: Theo Luật TNN 2023 là sự suy giảm nghiêm trọng về số
lượng nước, làm cho nguồn nước không còn khả năng khai thác, sử dụng [6].
An ninh nguồn nước (Water Security): là việc bảo đảm số lượng, chất lượng nước
phục vụ dân sinh trong mọi tình huống, đáp ứng NCSDN cho các hoạt động phát
triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, môi trường và giảm thiểu rủi ro, tác
hại từ các thảm họa do con người và thiên nhiên gây ra liên quan đến nước [6].
Khan hiếm nước (Water Scarcity): Theo UN Glolal Compact: Khan hiếm nước
là sự dồi dào hoặc thiếu hụt nguồn tài nguyên nước ngọt, nó là hàm số của lượng
nước tiêu thụ của con người so với lượng tài nguyên nước ở một khu vực nhất
định [11]. Sự khan hiếm nước đề cập đến sự dồi dào hoặc thiếu hụt nguồn tài
nguyên nước ngọt, nó là hàm số của lượng nước tiêu thụ của con người so với
lượng tài nguyên nước ở một khu vực nhất định. Khan hiếm nước đề cập đến tình
trạng thiếu nước tạm thời, đột ngột do sự gián đoạn cụ thể trong hệ thống cấp
nước, nó thường gay gắt và tức thời hơn sự căng thẳng nước.
Căng thẳng nguồn nước (Water Stress): Theo UN Glolal Compact-The CEO
Water Mandate: Căng thẳng nguồn nước (CTN) đề cập đến khả năng hoặc sự
thiếu hụt khả năng đáp ứng nhu cầu nước ngọt của con người và sinh thái . So
với tình trạng khan hiếm, CTN là một khái niệm bao hàm và rộng hơn. Nó xem
xét một số khía cạnh vật lý liên quan đến tài nguyên nước, bao gồm sự sẵn có
của nguồn nước; chất lượng nước; khả năng tiếp cận nguồn nước nghĩa là liệu
người dân có thể sử dụng nguồn cung cấp nước sẵn có hay không và dòng chảy
môi trường [11]. Sự CTN phát triển dần dần theo thời gian khi nhu cầu vượt quá
nguồn cung trong một khu vực, nó xuất phát từ các yếu tố mang tính hệ thống và
đòi hỏi các giải pháp lâu dài về công tác quản lý nguồn nước và cơ sở hạ tầng tốt
hơn.