NGÂN HÀNG NHÀ NƢỚC VIỆT NAM

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN NGÂN HÀNG

---------

ĐÀO THỊ HỒ HƢƠNG

HIỆU QUẢ ĐẦU TƢ CÔNG

TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY Ở VIỆT NAM

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ

Hà Nội, 2021

NGÂN HÀNG NHÀ NƢỚC VIỆT NAM

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN NGÂN HÀNG

---------

ĐÀO THỊ HỒ HƢƠNG

HIỆU QUẢ ĐẦU TƢ CÔNG

TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY Ở VIỆT NAM

Chuyên ngành: Tài chính – Ngân hàng

Mã số: 9.34.02.01

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học :

1. PGS.TS. Tô Kim Ngọc

2. PGS.TS. Nguyễn Thanh Phƣơng

Hà Nội, 2021

1

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, tư liệu sử dụng

trong luận án có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đúng quy định

Tác giả luận án

Đào Thị Hồ Hương

2

LỜI CẢM ƠN

Luận án là công trình nghiên cứu nghiêm túc của tác giả trong thời gian dài với sự

giúp đỡ của các cá nhân và tổ chức.

Trước hết, tác giả xin được gửi lời cảm ơn sâu sắc đến PGS.TS. Tô Kim Ngọc,

PGS.TS. Nguyễn Thanh Phương, những người đã trực tiếp hướng dẫn tác giả trong suốt thời

gian nghiên cứu.

Tác giả xin cảm ơn các Thầy, Cô của Học viện Ngân Hàng, Khoa Sau đại học đã tạo

điều kiện học tập và nghiên cứu cho nghiên cứu sinh.

Xin được chân thành cảm ơn các nhà khoa học, các anh chị ở các cơ quan tài chính,

khoa học công nghệ, viện nghiên cứu đã nhiệt tình giúp đỡ tác giả trong quá trình khảo sát

thực tế.

Xin chân thành cảm ơn cơ quan, đồng nghiệp, gia đình, bạn bè, đã tạo điều kiện,

động viên tác giả hoàn thành luận án

Tác giả luận án

Đào Thị Hồ Hương

3

LỜI MỞ ĐẦU

1.Tính cấp thiết của đề tài

Cuộc khủng hoảng tài chính 2007-2008 hay cuộc chiến đấu với bệnh dịch trong thời

gian qua đã đặt ra những vấn đề còn về việc phòng ngừa rủi ro cho nền kinh tế khi có bất

ổn. Một trong những công cụ dùng để tác động vào nền kinh tế để thay đổi đó chính là đầu

tư công. Đầu tư công nếu được thực hiện tốt sẽ là động lực phát triển kinh tế trong giai đoạn

chống lại những rủi ro do bệnh dịch gây ra. Chakraborty và Dabla- Norris (2011) vốn đầu tư

công tác động đến tăng trưởng kinh tế. Hay IMF (2015) cho rằng tác động kinh tế và xã hội

của đầu tư công phụ thuộc bởi hiệu quả đầu tư công.

Ở Việt Nam đầu tư công cho phát triển chiếm tỷ trọng không nhiều trong tổng chi

của Ngân sách Nhà nước (NSNN), tuy nhiên so với các quốc gia trong cùng khu vực thì tỷ

trọng này vẫn là cao. Điều đó cũng thể hiện rằng Nhà nước có tác động lớn đến sự phát triển

của nền kinh tế. Tuy nhiên hiệu quả đầu tư công ở Việt Nam hiện nay còn chưa cao. Theo

kết quả nghiên cứu của Phó Thị Kim Chi và cộng sự (2013), đầu tư công ở Việt Nam mới

chỉ có tác động đến tăng trưởng kinh tế trong ngắn hạn mà chưa có chiến lược để tác động

trong khoảng thời gian dài. Hay CIEM (2013) trong nghiên cứu Đầu tư công, Nợ công và

Mức độ bền vững của ngân sách ở Việt Nam đã khái quát về thực trạng đầu tư công và đánh

giá hoạt động đầu tư công của Việt Nam trong giai đoạn 2000-2012. Theo nghiên cứu của

CIEM thì hiệu quả đầu tư công ở Việt Nam chưa cao là do khung pháp lý chưa hoàn thiện

và việc phấp cấp đầu tư công ở Việt Nam là chưa hợp lý. Hay theo Vũ Thành Tự Anh

(2013), để nâng cao hiệu quả đầu tư công ở Việt Nam cần phải đưa ra một quy trình chuẩn.

Cũng theo Trần Kim Chung và cộng sự (2015), để cải thiện hiệu quả đầu tư công hiện nay ở

Việt Nam cần phải tập trung vào chiều sâu thay vì để dàn trải như hiện nay. Tuy có rất nhiều

nghiên cứu chỉ ra, Việt Nam hiện nay vẫn còn thiếu một quy trình chuẩn để giúp nâng cao

hiệu quả đầu tư công. Vì vậy, việc nghiên cứu “Hiệu quả đầu tư công trong giai đoạn hiện

nay ở Việt Nam” là hoàn toàn cần thiết.

2. Mục tiêu nghiên cứu

Mục tiêu chung: Hệ thống hoá lý luận và tổng kết kinh nghiệm quốc tế về hoạt động

quản lý đầu tư công, để làm căn cứ đánh giá thực trạng hiệu quả đầu tư công ở Việt Nam

trong giai đoạn 2007 -2019, từ đó đề xuất các giải pháp để thay đổi phương thức quản lý

đầu tư công ở Việt Nam trong thời gian tới.

4

Mục tiêu cụ thể:

Từ khoảng trống nghiên cứu đã nêu ở trên, để đánh giá hiệu quả của đầu tư công

trong giai đoạn 2007-2019, đề tài hướng đến ba mục tiêu sau:

-Hệ thống hoá và làm rõ những vấn đề lý luận về hiệu quả đầu tư công ở các khía

cạnh hiệu quả kinh tế, xã hội và môi trường.

- Đánh giá thực trạng hiệu quả đầu tư công của Việt Nam trong giai đoạn 2007-2019.

- Nghiên cứu các bài học kinh nghiệm về hoạt động đầu tư công của một số nước trên

thế giới.

- Đề xuất một số giải pháp và gợi ý chính sách để góp phần nâng cao hiệu quả đầu tư

công trong thời gian tới.

3. Câu hỏi nghiên cứu

- Những vấn đề lý luận về hiệu quả đầu tư công cần phải hệ thống và làm rõ lại là gì?

- Hiệu quả đầu tư công của Việt Nam trong giai đoạn 2007-2019 như thế nào?

- Các bài học kinh nghiệm từ hoạt động đầu tư công của một số nước trên thế giới rút

ra cho Việt Nam điều gì?

- Cần những giải pháp và gợi ý chính sách gì để góp phần nâng cao hiệu quả đầu tư

công trong thời gian tới?

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

-Đối tượng nghiên cứu: cơ sở lý thuyết và thực tiễn về hiệu quả đầu tư công.

-Phạm vi nghiên cứu: luận án đi sâu nghiên cứu hiệu quả đầu tư công ở Việt Nam từ

góc độ quản lý.

Luận án giới hạn pham vi thời gian để thu thập dữ liệu và nghiên cứu đánh giá hiệu

quả đầu tư công ở Việt Nam từ 2007-2019.

5. Phƣơng pháp nghiên cứu

Để hoàn thành được các mục tiêu nghiên cứu đã đề ra, luận án tiến hành phân tích và

thực hiện các nội dung sau:

- Sử dụng phương pháp kế thừa, phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa những lý luận về

hiệu quả đầu tư công trên các khía cạnh kinh tế, xã hội và môi trường; và hệ thống hóa

thành cơ sở lý luận về các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả đầu tư công.

- Áp dụng phương pháp kế thừa, phân tích tổng hợp về các kinh nghiệm từ hoạt động

đầu tư công của một số nước trên thế giới để rút ra bài học áp dụng cho Việt Nam về tăng

cường hiệu quả đầu tư công.

5

- Đánh giá thực nghiệm các hiệu quả đầu tư công lên nền kinh tế của Việt Nam trong

giai đoạn 2007-2019.

6. Đóng góp mới của luận án

Về mặt lý luận:

-Luận án đã hệ thống hoá, bổ sung và làm rõ thêm về cơ chế quản lý đầu tư công,

trong đó: (i) xác định rõ các nguồn hình thành vốn đầu tư và nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả

đầu tư công; (ii) Luận án đưa ra một số chỉ tiêu để đánh giá hiệu quả đầu tư công về mặt

kinh tế, xã hội và môi trường. Các chỉ tiêu này được xây dựng dựa trên nền tảng của lý

thuyết quản lý đầu tư công và kinh nghiệm quốc tế (của các quốc gia có hiệu quả đầu tư

công tốt).

Về mặt thực tiễn:

Dựa vào khung phân tích, đánh giá luận án đã phân tích và đánh giá thực trạng hiệu

quả đầu tư công ở Việt Nam trên những nội dung như sau: (i) Hiệu quả đầu tư công ở Việt

Nam; (ii) Chỉ rõ những hạn chế của đầu tư công ở Việt Nam hiện nay.

6

CHƢƠNG 1

CƠ SỞ LUẬN VỀ HIỆU QUẢ ĐẦU TƢ CÔNG

1.1.TỔNG QUAN VỀ ĐẦU TƢ CÔNG

1.1.1. Khái niệm đầu tƣ công

Theo Keynes (1936), đầu tư công được coi như một công cụ tài chính, giúp chính

phủ có thể điều tiết lại suy thoái kinh tế. Bởi nó có khả năng kích thích tổng cầu và là chất

xúc tác để tăng thu nhập cho công chúng và do đó nó có thể giúp khôi phục nền kinh tế.

Vậy, Đầu tư công là hoạt động đầu tư của Nhà nước vào các chương trình, dự án

xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế- xã hội và đầu tư vào các chương trình, dự án phục vụ

phát triển kinh tế- xã hội.

1.1.2. Nội dung đầu tƣ công

Các hoạt động đầu tư công: Những hoạt động đầu tư của Nhà nước vào các chương

trình, dự án xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế- xã hội và đầu tư vào các chương trình, dự án

phục vụ phát triển kinh tế- xã hội.

Đối tượng đầu tư công là các chương trình mục tiêu, dự án phát triển kết cấu hạ tầng

kỹ thuật, kinh tế, xã hội, môi trường, quốc phòng, an ninh.

Lĩnh vực đầu tư công: (i) Đầu tư chương trình, dự án hạ tầng kinh tế- xã hội; (ii)

Đầu tư phục vụ hoạt động của cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, tổ chức chính trị, tổ

chức chính trị- xã hội; (iii) đầu tư và hỗ trợ hoạt động cung cấp sản phẩm, dịch vụ công ích;

(iv) Đầu tư của Nhà nước tham gia thực hiện theo hình thức đối tác công tư.

Nguồn vốn cho đầu tư công:

Vốn đầu tư từ nguồn ngân sách

Vốn đầu tư nguồn tư công trái quốc gia

Vốn đầu tư nguồn từ trái phiếu chính quyền địa phương

Vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA)

Vốn từ nguồn thu để lại

1.1.3. Vai trò đầu tƣ công

Vai trò của đầu tư công là để hỗ trợ việc cung cấp các dịch vụ công then chốt thông

qua xây dựng trường học, bệnh viện, nhà ở công cộng, và các hạ tầng xã hội khác. Đầu tư

công cũng giúp công chúng, các doanh nghiệp nắm bắt được cơ hội kinh tế thông qua việc

cung cấp các đầu mối kết cấu hạ tầng kinh tế như sân bay, bến cảng và các mạng lưới viễn

thông, vận tải, sản xuất và truyền tải điện, nước…

7

Một là, đầu tư công góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và đảm bảo an sinh xã hội.

Hai là, đầu tư công là công cụ điều hành kinh tế quan trọng, giúp chính phủ có thể

thực hiện các chính sách chu kỳ, khi nền kinh tế suy thoái, đầu tư khu vực tư nhân thoái lui,

đầu tư công sẽ tang lên để giảm nhẹ tính chu kỳ.

Ba là, đầu tư công làm gia tăng tổng cầu trong xã hội.

Bốn là, đầu tư công được sử dụng như một khoản “đầu tư mồi”, tạo cú huých và duy

trì động lực tăng trưởng.

1.2. HIỆU QUẢ ĐẦU TƢ CÔNG

1.2.1. Khái niệm hiệu quả đầu tƣ công

Trước tiên, nên xem xét về khái niệm của hiệu quả đầu tư: Theo Từ Quang Phương và

Phạm Văn Hùng (2013), hiệu quả đầu tư nói chung là phạm trù kinh tế biểu hiện quan hệ so

sánh giữa các kết quả kinh tế-xã hội đạt được của hoạt động đầu tư đối với các chi phí bỏ ra để

có các kết quả đó trong một thời kì nhất định.

Hiệu quả đầu tư có thể được phân loại theo các khía cạnh sau đây:

- Theo lĩnh vực hoạt động: Có hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội, hiệu quả kĩ thuật...

- Theo phạm vi tác động của hiệu quả: có hiệu quả đâu tư của các dự án, của mỗi doanh

nghiệp, của từng ngành, địa phương và toàn bộ nền kinh tế quốc dân.

- Theo phạm vi lợi ích: có hiệu quả tài chính và hiệu quả kinh tế-xã hội.

Hiệu quả đầu tư công có thể tính toán theo hiệu quả tuyệt đối là hiệu quả được tính

bằng hiệu số giữa kết quả và chi phí; hoặc tính theo hiệu quả tương đối được tính bằng tỷ số

giữa kết quả và chi phí.

. Theo đó, khi lợi ích thu được càng lớn tính trên một đơn vị chi phí hoặc chi phí

Nhà nước phải bỏ ra càng thấp tính trên một kết quả đầu ra (về mặt kinh tế/hoặc xã

hội/hoặc môi trường) thì hoạt động đầu tư công của nhà nước được xem là có hiệu quả.

1.2.2. Hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả đầu tƣ công

1.2.2.1. Chỉ số ICOR

Hệ số ICOR, là tỷ số đo chi phí cần để tạo ra một đồng GDP thì cần bao nhiêu vốn

đầu tư công được thể hiện tạo đẳng thức:

1.2.2.2. Chỉ số PIE-X

Chỉ số hiệu quả đầu tư công PIE-X là một cách đơn giản đo lường số lượng được tạo

8

ra trên tổng số vốn đầu tư công. Tuy nhiên để có thể so sánh, thì cần phải có một bộ cơ sở

dữ liệu trên thế giới đủ lớn để có thể xây dựng hiệu quả tốt nhất được gọi là đường ranh giới

hiệu quả. Cách thức thực hiện tính chỉ số hiệu quả đầu tư công PIE-X như sau:

Thứ nhất, các nước/ nền kinh tế phải xây dựng chỉ số đầu ra của sản phẩm đầu tư

công được gọi là chỉ số hạ tầng (infrastructure index) mà mỗi nền kinh tế có được trong một

khoảng thời gian nhất định (có thể là 1 năm).

Thứ hai, các nền kinh tế cũng phải tính tổng số vốn đầu tư công đã bỏ ra để đạt được

những chỉ tiêu nói trên.

Thứ ba, phân bổ các nền kinh tế nói trên lên một hệ trục toạ độ mà trục tung là chỉ số

đầu tư công, và trục hoành là số vốn đầu tư công bỏ ra.

1.2.3. Các nhân tố ảnh hƣởng tới hiệu quả đầu tƣ công

1.2.3.1. Các nhân tố vĩ mô

Thứ nhất, thể chế chính trị

Hệ thống thể chế chính trị đóng vai trò rất quan trọng trong việc quyết định đến hiệu

quả của các hoạt động đầu tư công. Đồng thời, hệ thống thể chế là một trong những yếu tố

quan trọng sẽ quyết định đến việc ra quyết định lựa chọn dự án, chất lượng quản lý và thực

hiện dự án, cũng như hiệu quả của việc đầu tư.

Thứ hai, các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô

Những yếu tố kinh tế vĩ mô có thể ảnh hưởng đến hiệu quả đầu tư công bao gồm: khả

năng tăng trưởng GDP trong khu vực thực hiện dự án; tình trạng lạm phát; tiền lương bình

quân; tỷ giá hối đoái; những lợi thế so sánh của khu vực so với những nơi khác.

Thứ ba, khung pháp lý đầu tư công

Mục tiêu của khung pháp lý là công cụ cung cấp danh sách kiểm tra các vấn đề chính

sách quan trọng để chính phủ tạo môi trường cho phép các loại hình đầu tư công và tăng

cường lợi ích phát triển đầu tư cho toàn xã hội.

Thứ tư, các chiến lược, quy hoạch và kế hoạch

Các chiến lược, quy hoạch và kế hoạch là những quan điểm quan trọng để định hướng

cho các quyết định của chính phủ và để định hướng cho các quyết định đầu tư của các

ngành, lĩnh vực kinh tế.

Thứ năm, điều kiện tự nhiên

Ở những quốc gia có điều kiện tự nhiên khắc nghiệp cũng ảnh hưởng nặng đến hiệu

quả của đầu tư công.

9

1.2.3.2. Các nhân tố vi mô

Thứ nhất, hiệu quả quản lý đầu tư công

Hiệu quả quản lý đầu tư công là một trong những nhân tố tác động trực tiếp đến đầu tư

công. Thông thường khi xem xét hiệu quả đầu tư, người ta thường xem đến các chỉ số đánh

giá hiệu quả kinh tế nhưng thực chất hiệu quả quản lý đầu tư công phụ thuộc lớn vào các

khâu từ khâu hoạch định chính sách ban đầu, tức là khởi đầu quyết định cho sự xuất hiện

của dự án đầu tư công cho tới khâu lựa chọn, thực hiện và đánh giá, thẩm định dự án.

Thứ hai, mức độ minh bạch thông tin trong sử dụng vốn đầu tư công

Quốc gia nào có quy trình quản lý mua sắm chi tiêu công một cách công khai, minh

bạch, dựa trên đấu thầu công khai sẽ ngăn chặn được tình trạng sử dụng vốn đầu tư công sai

mục đích.

Thứ ba, vấn đề tham ô, tham nhũng

Khi xảy ra tham ô, tham nhũng thì sẽ dẫn đến hậu quả là: việc kiểm soát chi tiêu đầu

tư công sẽ càng gặp khó khăn, dự án được đầu tư khi chưa thực sự cần thiết đầu tư, dự án

được đầu tư với quy mô và công suất không phù hợp với nhu cầu thực tế, dự án được đầu tư

với yêu cầu kỹ thuật không phù hợp so với nhu cầu, dự án được đầu tư ở thời điểm và địa

điểm không hợp lý, thiết bị công trình của dự án có chất lượng thấp làm ảnh hưởng đến độ

an toàn và giảm tuổi thọ của dự án. Do đó, tham nhũng có thể bóp méo toàn bộ quá trình ra

quyết định liên quan đến ngân sách đầu tư.

Thứ tư, các nhân tố khác

Ngoài ra còn có một số các nhân tố khác cũng gây ảnh hưởng đến đầu tư công.

1.3. KINH NGHIỆM NÂNG CAO HIỆU QUẢ ĐẦU TƢ CÔNG CỦA MỘT SỐ

QUỐC GIA

1.3.1. Kinh nghiệm đầu tƣ công của một số quốc gia trên thế giới

1.3.1.1. Kinh nghiệm đầu tư công ở Hàn Quốc

Ở Hàn Quốc, vai trò của giám đốc điều hành vẫn còn bị hạn chế trong việc xem xét

các tài sản hoàn thành đối với các kế hoạch dự án. Các dự án đầu tư phải chịu sự kiểm toán

của tổ chức kiểm toán tối cao, bao gồm cả giá trị để kiểm toán tiền.

1.3.1.2. Kinh nghiệm đầu tư công ở Nhật Bản

Các cơ quan chức năng Nhật Bản hiện sử dụng nhiều phương pháp phân tích chi phí -

lợi ích để thẩm định hiệu quả của các dự án đầu tư công. Điều này giúp bảo đảm lựa chọn

được các dự án tốt hơn, nhất là trong bối cảnh nguồn lực đầu tư công hạn chế và các dự án

hạ tầng thường có quy mô lớn.

10

1.3.1.3. Kinh nghiệm đầu tư công ở Trung Quốc

Ở Trung Quốc, việc tổ chức giám sát các dự án đầu tư công được thực hiện thông

qua nhiều cấp, nhiều vòng giám sát khác nhau. Mục đích giám sát đầu tư của cơ quan Chính

phủ là đảm bảo đầu tư đúng mục đích, đúng dự án, đúng quy định và có hiệu quả.

1.3.2. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Từ kết quả tổng hợp về một số kinh nghiệm trong quản lý đầu tư công của các nước

Hàn Quốc, Nhật Bản và Trung Quốc, một số bài học kinh nghiệm rút ra cho Việt Nam để

tăng cường hiệu quả đầu tư công như sau:

 Định hướng đầu tư, xây dựng và sàng lọc bước đầu

 Lựa chọn dự án và ngân sách

 Về thẩm định dự án.

 Triển khai dự án

 Điều chỉnh dự án

 Đánh giá tổng hợp và đánh giá lại sau khi hoàn thành dự án

11

CHƢƠNG 2

THỰC TRẠNG HIỆU QUẢ ĐẦU TƢ CÔNG Ở VIỆT NAM

2.1.TỔNG QUAN ĐẦU TƢ CÔNG Ở VIỆT NAM

2.1.1. Quy mô, cấu trúc đầu tƣ công

2.1.1.1. Quy mô đầu tư công

(1) Theo đối tƣợng

a)Về tổng vốn đầu tƣ xã hội

Việt Nam đang theo đuổi mô hình tăng trưởng kinh tế chủ yếu dựa vào tăng vốn đầu

tư. Do vậy, giai đoạn 2007-2019 chứng kiến tổng giá trị vốn đầu tư toàn xã hội tăng 4,12 lần

từ 404,7 nghìn tỷ đồng năm 2006 lên 2.046,83 nghìn tỷ đồng năm 2018, và tốc độ tăng trưởng

trung bình là 8,65%/năm (giá so sánh năm 2010). Tốc tộ tăng trưởng có xu hướng chậm lại

bắt đầu tư năm 2011. Tốc độ tăng trưởng trung bình của giai đoạn 2006-2010 là 13,2%/ năm,

nhưng giai đoạn 2011-2019, con số này chỉ là 8,7%.

b) Tổng vốn đầu tƣ công

Giá trị vốn đầu tư công: Tuy không tăng mạnh như giai đoạn 2006 – 2010, nhưng từ

năm 2011 đến nay, chi đầu tư công liên tục tăng.

(2) Theo cấp độ quản lý

Trong giai đoạn 2007-2019, chi tiêu công của Việt Nam được phân cấp theo nguồn vốn

của Trung ương và địa phương. Nguồn chi tiêu công từ ngân sách trung ương, chiếm khoảng

50,7% (năm 2006) và có xu hướng giảm xuống còn 40,5% (năm 2019); nguồn chi tiêu công do

địa phương quản lý tăng từ 59,3% năm 2006 lên cao nhất vào năm 2019, đạt 59,5%.

2.1.1.2. Cấu trúc đầu tư công

Trong những năm qua, cơ cấu đầu tư công theo ngành, lĩnh vực đã có sự chuyển dịch

theo chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước, cũng như thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu

ngành kinh tế của Việt Nam theo hướng công nghiệp hoá- hiện đại hoá. Nguồn vốn đầu tư phát

triển xã hội được tập trung chủ yếu vào chi cho đầu tư xây dựng cơ bản, kế đến tích lũy tài sản

cố định dùng cho sản xuất.

Trong ngành giao thông vận tải: giao thông đường bộ chiếm khoảng 89% tổng chi

tiêu công của ngành. Mặc dù đường bộ chiếm đến trên 90% vận tải hành khách và 70% vận

tải hàng hóa, nhưng đó cũng là hình thức vận tải hàng hóa tốn kém nhất.

Trong ngành nông nghiệp: chính sách chú trọng đến đầu tư phát triển các công trình

thủy lợi lớn cho các diện tích chủ yếu để trồng lúa đã đảm bảo mục tiêu an ninh lương thực

nhưng lại tạo ra ít giá trị gia tăng.

12

2.1.2. Nguồn vốn đầu tƣ công

2.1.2.1. Nguồn thu từ ngân sách

Chính phủ đã dành ngân sách lớn cho đầu tư. Hàng năm, có khoảng hơn 187.969 tỷ đồng

ngân sách nhà nước (NSNN) chi cho đầu tư, chiếm tỷ trọng từ hơn 40% đến hơn 50% tổng chi

đầu tư công.

2.1.2.2. Nợ công

Thực thế cho thấy, đã có khá nhiều nghiên cứu quốc tế về ngưỡng nợ công gây tác động

tiêu cực tới nền kinh tế của một quốc gia. Số liệu nợ công từ Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF) cho

thấy, nếu so sánh với các nền kinh tế mới nổi và đang phát triển khác, nợ công của Việt Nam có

tốc độ tăng nhanh hơn rất nhiều. Trong giai đoạn 2000 - 2019, từ chỗ có tỷ trọng nợ công/GDP

thấp nhất trong nhóm nước đang phát triển, nợ công của Việt Nam đã tăng vọt lên. Thậm chí

trong những năm gần đây Việt Nam đã vượt lên nhóm đứng đầu nợ công cao vào năm 2016 với

tỷ lệ dư nợ 63,6%/GDP (WB&GVN, 2017).

2.1.2.3. Nguồn vay nợ/ ODA

Theo thống kê của World Bank (2017) giai đoạn từ năm 2006 – 2016, nguồn vốn ODA

vào Việt Nam tăng mạnh chủ yếu ở các năm từ 2011 – 2014 (cao hơn so với giai đoạn từ

2006 – 2010), và có xu hướng giảm dần từ 2015- 2016, cụ thể ở hình 2.10. Nguyên nhân được

đánh giá là do: giai đoạn từ 2001 – 2005, các nhà tài trợ nước ngoài cam kết và ký kết các

khoản viện trợ nhưng không được triển khai. Điển hình, giai đoạn này 411,24 tỷ USD đã được

cam kết viện trợ cho Việt Nam, tuy nhiên chỉ có 7,877 tỷ USD được giải ngân. Đến giai đoạn

từ năm 2011-2015 mức giải ngân đã được cải thiện đáng kể với 27,78 tỷ USD được cam kết

và 22,32 tỷ USD được giải ngân

2.2. THỰC TRẠNG HIỆU QUẢ ĐẦU TƢ CÔNG Ở VIỆT NAM

2.2.1. Hệ số ICOR của đầu tƣ công

Trong nhiều năm qua, Việt Nam đã theo đuổi mô hình tăng trưởng chủ yếu dựa vào

tăng vốn đầu tư, đặc biệt là đầu tư từ khu vực nhà nước. Theo Trần Nguyễn Ngọc Anh Thư

& Lê Hoàng Phong (2014) thì tỷ lệ vốn đầu tư/GDP tăng rất mạnh mẽ từ lúc nền kinh tế mở

cửa đến nay trong khi tốc độ tăng trưởng chỉ dao động quanh mức 6-8%. Tỷ lệ vốn đầu

tư/GDP chỉ từ mức 26,4% trong giai đoạn 1991- 1995, tăng lên trên 40% cho giai đoạn

2006-2010, đặc biệt là đạt đỉnh năm 2007 ở mức 46,52% GDP, thuộc loại cao nhất khu vực

Đông Á và Đông Nam Á. Tuy nhiên, xu hướng đầu tư công chỉ mới giảm trong giai đoạn từ

2011 – 2019.

Vốn đầu tư toàn xã hội tăng mạnh chủ yếu là do đầu tư công (chiếm tỷ trọng cao

13

nhất) tăng rất mạnh mẽ, giữ mức trên 53% trong suốt cả thập kỷ từ 1996-2005. Trong giai

đoạn 2006-2010 xuống còn 39,1% và tiếp tục giảm còn 38,4% trong giai đoạn 2011-2019

(Bảng 2.2). Hệ số Vốn đầu tư công/GDP luôn chiếm tỷ lệ cao và tăng mạnh hơn các thành

phần vốn đầu tư từ khu vực kinh tế ngoài quốc doanh trong nước và khu vực FDI. Tuy

nhiên, kết quả lại cho thấy hiệu quả đầu tư công luôn thấp hơn hiệu quả đầu tư toàn nền

kinh tế và các khu vực đầu tư còn lại khi đánh giá thông qua chỉ số ICOR thể hiện ở Hình

2.14 và Hình 2.15. Trong đó giai đoạn 2011 - 2019, khoảng cách giữa hệ số ICOR của Vốn

đầu tư công so với các thành phần còn lại khá cao, cao hơn so với giai đoạn 2006-2010.

2.2.2. Các chỉ tiêu hiệu quả đầu tƣ công của Việt Nam ( Public investment efficiency

index- PIE-X )

2.2.2.1. Hiệu quả chi đầu tư công cho cơ sở hạ tầng

(1) Hiệu quả chi đầu tƣ công cho cơ sở hạ tầng giao thông vận tải

(a) Chỉ số về khối lƣợng cơ sở hạ tầng giao thông vận tải.

Trong ngành giao thông vận tải, riêng lĩnh vực giao thông đường bộ chiếm khoảng

79% tổng chi tiêu công của ngành. Chi tiêu công cho các lĩnh vực đường thủy nội địa,

hàng hải và đường sắt tương đối thấp trong khi chi phí vận tải theo km của những phương

thức vận tải trên thấp hơn rất nhiều so với đường bộ.

Mạng lưới giao thông thủy giai đoạn từ 2007 – 2017 đã tăng trưởng khác chận với

tốc độ tăng trưởng bình quân 3,66%/năm. Phần lớn đường thủy có tải trọng chủ yếu là dưới

50 tấn chiếm 58,4%; trọng tải từ 51 tấn - 100 tấn chiếm 15,2%; trọng tải từ 101 tấn - 500 tấn

chiếm 12,7%; trọng tải từ 501 tấn - 1000 tấn chỉ đạt 6,4% và trọng tải từ 1001 tấn trở lên chỉ

khoảng 7,6%.

(b) Đánh giá mức độ gia tăng chi đầu tƣ công và sự thay đổi về khối lƣợng cơ sở

hạ tầng giao thông

Đầu tư công của Chính phủ trong ngành giao thông chưa được cân đối khi quá ưu

tiên đầu tư mới so với việc duy tu bảo dưỡng. Theo đánh giá của WB&GVN (2017 ), tổng

chi đầu tư cho duy tu bảo dưỡng đường giao thông mới chỉ chiếm khoảng 18% tổng chi

tiêu ngành giao thông trong năm 2012.

Theo đánh giá về năng năng lực canh tranh quốc gia, thì cơ sở hạ tầng của Việt Nam

được xếp hạng 79 với điểm số 3.9 (hình 2.20), chỉ cao hơn một số nước trong khu vực Đông

Nam Á là Lào, Phillipines và Campuchia.

14

(2) Chỉ số hiệu quả đầu tƣ cho lĩnh vực sản xuất điện năng

(a) Các chỉ số về sản lƣợng điện

Việt Nam không có điện nguyên tử, thủy điện có khoảng gần 20.000 MW, tuốc bin khí

khoảng 10.000 MW, khí hóa lỏng và khí đồng hành số lượng thì hạn chế… Do đó phát điện

bằng nhiệt điện than vẫn đứng số 1 trong hệ thống năng lượng của cả nước. Hiện nay nhiệt điện

than chiếm tỷ trọng 40% toognr sản lượng điện của cả nước, khoảng hơn 20.000 MW. Phát

triển nhiệt điện than là việc làm tất yếu, bắt buộc và rất khoát phải làm, không có còn đường

nào khác. Có điều nếu phát điện bằng nhiệt điện than nhiều người sẽ băn khoăn vấn đề phát thải

CO2 và xỉ than.

Tổng năng lượng sản xuất tăng 7,9%/năm trong giai đoạn 2001-2005 cùng với sự tăng

trưởng của các dạng năng lượng như than, dầu thô, khí, năng lượng phi thương mại. Giai đoạn

2006-2010 tốc độ tăng của năng lượng sản xuất chỉ đạt 2%/năm (Nguyễn Khoa Diệu Hà, 2010).

Tổng năng lượng sơ cấp cung cấp tăng 7,1% trong giai đoạn 2001-2010. Tỷ trọng tham gia của

các dạng năng lượng trong tổng năng lượng sơ cấp cung cấp là: 10,3% của dầu, 23% của than,

13% của khí, 22,9% của năng lượng phi thương mại, điện 10,3%, sản phẩm dầu 20,5%. Điện

sản xuất tăng trung bình 14,3%/năm trong giai đoạn 2001-2010. Cơ cấu sản xuất điện đã có sự

thay đổi mạnh trong thập kỷ qua: giảm dần thủy điện và tăng cường nguồn điện từ nhiệt điện

khí và turbin khí từ 16,4% lên 44,5%; nhiệt điện than tăng từ 11,8% lên 17,9%; và các loại điện

được phát từ các nguồn năng lượng khác và nhập khẩu.

(b) Đánh giá mức độ chi đầu tƣ công cho lĩnh vực sản xuất năng lƣợng

Xét trong tổng chi tiêu công của cả nước, riêng lĩnh vực sản xuất điện, khí đốt, nước

nóng và điều hòa không khí giai đoạn 2006 – 2019 chiếm khoảng 59.585 tỷ đồng/năm.

Chiếm khoảng 13,7% tổng đầu tư công cả nước, xếp thứ 3 trong các lĩnh vực có tỷ lệ chi

tiêu cao nhất. Tỷ trọng đầu tư công cho lĩnh vực này tăng mạnh vào giai đoạn từ 2009 –

2013. Vì đây là giai đoạn GDP của Việt Nam có tốc độ tăng trưởng khá cao, bình quân đạt

6,11%/năm. Do đó nhu cầu năng lượng điện cho sản xuất là rất lớn. Sản lượng điện thương

phẩm sản xuất giai đoạn 2006 – 2019 tăng trưởng bình quân 10,4%/năm. Trong khi đó, chi

đầu tư cho sản xuất điện, khí đốt tăng bình quân 9,97%/năm. Giai đoạn từ 2010-2013, và

2017-2019, tốc độ tăng sản lượng điện sản xuất vượt trội so với tốc độ chi đầu tư công cho

sản xuất điện, khí đốt.

(3) Chỉ số mức độ gia tăng đầu tƣ công/ mức độ tiếp cận nƣớc sạch

Theo Tổng cục Thủy lợi, tính đến hết năm 2016, tỷ lệ người dân khu vực nông thôn được

15

sử dụng nước hợp vệ sinh đạt khoảng 87,5%. Tuy nhiên, chỉ có khoảng 49% cư dân nông thôn

được tiếp cận nước sạch theo Quy chuẩn QC 02/BYT của Bộ Y tế. Hiện cả nước mới có 43,5%

dân số được cấp nước từ công trình cấp nước tập trung, còn 56,5% phải sử dụng nước từ các công

trình cấp nước nhỏ lẻ.

(4) Đầu tƣ công trong lĩnh vực y tế:

Tỷ lệ chi cho y tế của Việt Nam đặc biệt cao trong điều kiện thu nhập như hiện nay.

Ngân sách của Chính phủ chỉ chiếm khoảng một nửa tổng mức chi, nhưng tỷ lệ chi tiêu cao

cho y tế từ tiền túi của người dân cũng là một quan ngại về chính sách công, do tác động của

nó đối với người nghèo và các lý do khác. Trong tương lai, áp lực phải tiếp nhận những chi

phí đó vào công quỹ có thể sẽ ngày càng lớn. Áp lực chi phí càng trở nên nghiêm trọng khi

Việt Nam chuẩn bị bước vào giai đoạn dân số già đi nhanh chóng, nhanh hơn nhiều so với

hầu hết các quốc gia khác. Tại hầu hết các quốc gia thu nhập cao, chi tiêu công chiếm đến

gần 75% tổng chi, và tỷ lệ đó dựa trên căn cứ kinh tế vững chắc: người dân không biết khi

nào họ sẽ bị ốm đau và phải chịu phí tổn bao nhiêu khi rơi vào hoản cảnh đó, sau khi ốm

đau, họ cũng không thể có thông tin để nhận định về việc phải được chăm sóc ở đâu, cần

những hình thức điều trị gì, và liệu có thể tin tưởng bác sỹ hay không. Qua đó ta có thể thấy

kỳ vọng lớn về vai trò quan trọng của chi tiêu của Chính phủ trong lĩnh vực y tế.

(5) Chỉ số đánh giá hiệu quả đầu tƣ công với xoá đói giảm nghèo

Từ năm 2007- 2014, hiệu quả của đầu tư công ảnh hưởng đến tỷ lệ giảm nghèo ở Việt

Nam không được ổn định. Khi mà để đẩy mạnh xóa đói giảm nghèo thì chi phí xã hội phải đầu

tư ngày càng nhiều và khá tốn kém. Điển hình, năm 2004, khi đầu tư công tăng 1% thì tỷ lệ hộ

nghèo giảm còn 0,86%, nhưng đến năm 2010, tỷ lệ hộ nghèo chỉ giảm 0,12%. Năm 2012, tỷ lệ

hộ nghèo giảm tăng lên 0,77% và năm 2014, tỷ lệ hộ nghèo giảm tăng lên 1,84% Như vậy,

chứng tỏ đầu tư công của Việt Nam đã có nhiều sự nỗ lực và cố gắng nhưng hiệu quả xóa

đói giảm nghèo mới chỉ đạt về mặt số lượng chứ chưa phải chất lượng.

(6) Chỉ số hiệu quả đầu tƣ công với lĩnh vực giáo dục

Nhìn chung, chỉ có năm 2009-2012 do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế nên

nguồn vốn chi cho giáo dục giảm so với những năm trước đó. Nhưng xét trong cả giai đoạn

2006-2019, nguồn vốn đầu tư công đã chi cho giáo dục và đào tạo có tỷ lệ ngày càng tăng cả

về số tương đối lẫn tỷ trọng. Điều đó chứng tỏ rằng, nhà nước đang ngày càng quan tâm hơn

đến vấn đề giáo dục, đây chính là tiền đề để tăng cường chất lượng nguồn nhân lực cho

tương lai.

16

2.3. ĐÁNH GIÁ CHUNG HIỆU QUẢ ĐẦU TƢ CÔNG Ở VIỆT NAM

2.3.1. Những kết quả đạt đƣợc

Một là, quy mô chi tiêu đầu tư công đã được mở rộng liên tục để hỗ trợ cho tăng

trưởng kinh tế trong thời kỳ này.

Hai là, tái cơ cấu đầu tư công đã được thực hiện theo đúng định hướng, tỷ trọng đầu

tư công trong tổng đầu tư toàn xã hội và trên GDP đã giảm dần.

Ba là, cơ cấu đầu tư công đã dần được chuyển dịch sang những ngành bảo đảm tính

bền vững của tăng trưởng mặc dù dự chuyển dịch này vẫn còn chậm.

Bốn là, lĩnh vực y tế đã được quan tâm đầu tư để cải thiện chất lượng sức khỏe người dân.

2.3.2. Tồn tại và nguyên nhân

2.3.2.1. Tồn tại

Thứ nhất, hệ số ICOR của Việt Nam và so sánh với các quốc gia khác

Thực trạng trong nhiều năm qua Việt Nam đã theo đuổi mô hình tăng trưởng dựa vào

đầu tư công. Hệ số vốn đầu tư công/ GDP luôn chiếm tỷ trọng cao trong tổng số vốn đầu tư

toàn xã hội. Tuy nhiên nếu tính ICOR trung bình qua các năm từ 2011-2019 thì thấy rằng hệ số

ICOR ở Việt Nam giai đoạn này khá cao 6,25% nhưng tốc độ tăng trưởng trung bình giai đoạn

này mới chỉ đạt 6,3%. Nếu tính như vậy trung bình 1 đồng đầu tư công giúp GDP tăng được

0,42 đồng. Mặc dù để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thì yếu tố vốn đầu tư đóng vai trò quan

trọng, nhưng hiệu quả và chất lượng sử dụng vốn lại thấp và chiều hướng đi xuống, được thể

hiện thông qua chỉ số ICOR. ICOR có xu hướng tăng lên trong giai đoạn từ 2007-2009. Nếu so

sánh với các quốc gia trong cùng khu vực thì ICOR của Việt Nam gần gấp đôi, điều đó có nghĩa

là hiệu suất đầu tư của Việt Nam chỉ bằng một nửa của họ. Hiệu suất đầu tư của Việt Nam thấp

phần lớn là do đầu tư khu vực nhà nước thấp, thể hiện ICOR đầu tư vốn ngân sách rất cao.

Thứ hai, chỉ số đo lường hiệu quả đầu tư công PIE-X

+ chỉ số đầu tư công với cơ sở hạ tầng giao thông vận tải.

Đối với ngành giao thông thì tỷ lệ phân chia nguồn vốn đầu tư công chưa hợp lý. Ngành

giao thông vận tải đã giành 79% tổng số vốn đầu tư công của ngành để chi cho giao thông

đường bộ. Số còn lại được phân bổ cho giao thông đường thuỷ và giao thông đường sắt. Tuy

nhiên, người dân vẫn phải bỏ ra chi phí rất lớn để được sử dụng đường cao tốc, cầu…Chi phí

này cao hơn rất nhiều so với các quốc gia trong cùng khu vực. Mặt khác, mặc dù được đầu tư

với số lượng vốn đầu tư công khá lớn nhưng mật độ đường cao tốc ở Việt nam vẫn còn khá

khiêm tốn so với mặt chung của các quốc gia khác.

17

Hơn nữa, dù bỏ khoản chi phí cao để giành cho giao thông đường bộ nhưng chi phí bảo

trì giành cho những công trình này còn khiêm tốn nên tình trạng đường xá, cầu hỏng gây tại nạn

làm cho số tai nạn tăng cao. Cho đến những năm gần đây, khi có chỉ thị của Nhà nước đã có

quỹ giành cho bảo trì đường bộ. Quỹ này từ khi sinh ra luôn hoạt động hết công suất nhưng tỷ

lệ tai nạn giao thông ở Việt nam trong giai đoạn vừa có không có xu hướng giảm nhiều.

Bên cạnh đó việc phân chia tỷ lệ giữa giao thông đường bộ và giao thông đường thuỷ,

đường sắt bất hợp lý gây lãng phí cho toàn xã hội. Bởi hiện nay đa số người dân buộc phải sử

dụng đường bộ để vận chuyển hàng hoá. Mà chi phí để vận chuyển hàng hoá bằng đường bộ

cao hơn 90% so với đường thuỷ và đường sắt.

Trong quá trình triển khai các dự án thì ngành giao thông vận tải chưa thực hiện đúng

quy trình của luật đầu tư công nên mới có các tình trạng là cho triển khai xây dựng dự án nhưng

không thông qua đấu thầu công khai mà áp dụng phương án chỉ định thầu. Với việc làm như

vậy là một trong những nguyên nhân dẫn đến hậu quả gây lãng phí nguồn vốn đầu tư, nguồn

vốn được các nhà thầu sử dụng không hiệu quả do năng lực có hạn như do không có năng lực

thi công nên rất nhiều các công trình bị chậm tiến độ. Khi bị chậm tiến độ sang năm sau sẽ làm

cho giá nguyên liệu tăng và từ đó đẩy giá vốn của công trình tăng cao thêm nữa.

Như vậy, đối với ngành giao thông vận tải thì không chỉ là số vốn phân bổ chưa hợp lý

giữa các ngành mà còn tồn tại tình trạng sử dụng vốn đầu tư công chưa hiệu nên gây ra tình

trạng thất thoát vốn, tham ô, tham nhũng vốn đầu tư công.

+ chỉ số đầu tư công cho lĩnh vực sản xuất năng lượng

Tổng ngành được nhận từ ngân sách giai đoạn 2006-2019 với số vốn đầu tư công

khoảng 59.585 tỷ đồng/ năm. Chiếm khoảng 13,7% tổng đầu tư công trong cả nước. Tuy nhiên

theo đánh giá của các chuyên gia dự kiến trong thời gian tới ngành điện sẽ cần số vốn nhiều hơn

nữa để tăng năng suất sản xuất. Hơn nữa cũng phải nhìn vào thực tế thấy rằng sản lượng điện

thưởng phẩm sản xuất trung bình mỗi năm tăng trưởng là 10,4%/ năm nhưng chi đầu tư cho sản

xuất điện của nhà nước bình quân mới chỉ đạt 9,97%/ năm. Với nguồn như vậy thì ngành sản

xuất điện, khí đốt vẫn bị rơi vào tình trạng thiếu vốn. Khi thiếu vốn, xã hội vẫn không đủ điện,

khí đốt để phục vụ phát triển tăng trưởng sẽ làm ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế vì vậy cần

phải có kế hoạch phân bổ đầu tư công giưã các ngành kinh tế một cách phù hợp hơn nữa.

+ chỉ số gia tăng đầu tư công/ mức độ tiếp cận nước sạch

Việc ô nhiễm nguồn nước tại khu vực nông thôn do thiếu hạ tầng cơ sở, xả nước thải sản

xuất công nghiệp, nông nghiệp, chăn nuôi và nước thải sinh hoạt, rác thải ra thẳng ao, hồ không

18

qua xử lý đã làm người nông dẫn bị thiếu nước sạch sinh hoạt. Tỷ lệ người dân ở các thành phố

lớn được sử dụng nước đạt vệ sinh mới chiếm 90%, còn ở khu vực nông thôn là 41%. Lý do để

xảy ra tình trạng này là do các công trình thực sự chưa có sự tập trung cao do bị ảnh hưởng bởi

những công trình kém hiệu quả.

+ chỉ số đầu tư công cho lĩnh vực y tế

Việt Nam lại có tình trạng là trung bình khoảng 43% chi tiêu cho y tế là dành cho dược

phẩm, con số này cao hơn rất nhiều so với các quốc gia trong cùng khu vực và trên thế giới.

Điều này do giá dược phẩm cao và biến động, trong khi các chi phí khác ngoài dược phẩm chưa

được tính đầy đủ trong giá dịch vụ y tế gây ra tình trạng người dân đi khám bệnh phải bỏ ra một

khoản chi phí khá lớn để mua thêm thuốc làm lãng phí cho dân.

Việt Nam lại có tình trạng là trung bình khoảng 43% chi tiêu cho y tế là dành cho dược

phẩm, con số này cao hơn rất nhiều so với các quốc gia trong cùng khu vực và trên thế giới.

Điều này do giá dược phẩm cao và biến động, trong khi các chi phí khác ngoài dược phẩm chưa

được tính đầy đủ trong giá dịch vụ y tế gây ra tình trạng người dân đi khám bệnh phải bỏ ra một

khoản chi phí khá lớn để mua thêm thuốc.

+ chỉ số đầu tư công cho lĩnh vực giáo dục

Tỷ lệ vốn đầu tư công của ngành giáo dục giành cho khối tiểu học chiếm tỷ trong khá

cao. Trong khi đầu tư vào khối đại học và đào tạo nghề còn hạn chế vì vậy dẫn đến chất

lượng lao động đủ để phục vụ cho nhu cầu nguồn nhân lực của xã hội còn hạn chế. Cơ cấu

chi này đã dẫn đến chất lượng giáo dục thấp. Học sinh tốt nghiệp còn hạn chế về tư duy

sang tạo, kỹ năng thực hành, năng lực vận dụng những kiến thức và kỹ năng cần thiết để hội

nhập. Đó cũng là nguyên nhân gây ảnh hưởng đến việc thiếu hụt lao động bậc cao. Tình

trạng thất nghiệp ở nhóm lao động trẻ tang do năng lực không phù hợp với công việc. Nó là

nguyên nhân lớn ảnh hưởng đến năng suất lao động của việt Nam trong tương lai.

+ chỉ số đầu tư công với xoá đói giảm nghèo

Chỉ số xoá đói giảm nghèo được đánh giá là thực hiện khá tốt nhưng vẫn chưa bền vững.

Trong quá trình thực hiện chính sách đầu tư để xóa đói giảm nghèo giai đoạn 2011 – 2019

vẫn còn những sự chồng chéo và không tập trung. Đó là: sự chồng chèo và thiếu gắn kết

trong hệ thống chương trình và chính sách giảm nghèo. Có một thực trạng dễ thấy là, mặc

dù có rất nhiều các chương trình, chính sách dành cho công dân của Việt Nam nói chung và

người nghèo nói riêng nhưng theo thống kê của Bộ Lao động và Thương Binh, Xã hội thì

người nghèo đang gặp những hạn chế trong việc tiếp cận và hưởng thụ các dịch vụ xã hội cơ

19

bản. Ví dụ trong lĩnh vực giáo dục, y tế, theo báo của UBDP về an sinh xã hội cho biết

nhóm 20% giảu nhất hưởng 45% các trợ cấp về y tế, nhóm 20% nghèo chỉ nhận được 7%,

nhóm 20% giảu hưởng 35% trợ cấp giáo dục, trong khi nhóm 20% nghèo chỉ nhận được

15%. Như vậy, người nghèo đang phải chịu cảnh đói trên nhiều phương diện. Mặt khác, một

số hộ thoát nghèo có nguy cơ rủi ro tái nghèo trở lại.

Đi kèm với sự phát triển của nền kinh tế như hiện nay, nếu đầu tư công không tiếp tục

phát sinh tốt vai trò của mình thì khoảng cách giảu nghèo sẽ ngày càng gia tăng, khiến cho sự

phân hoá giàu nghèo ngày càng trở nên nghiêm trọng. Sự phân hoá này không chỉ thể hiện theo

vùng, theo khu vực mà nó còn được thể hiện ngay cả trong cùng khu vực, từng vùng.

2.3.2.2. Nguyên nhân của các tồn tại trên

Thứ nhất là, hệ thống khung pháp lý cho đầu tư công chưa đồng bộ

Cơ chế khuyến khích, ưu đãi đầu tư và quản lý đầu tư chưa hợp lý; khuyến khích và

ưu đãi đầu tư còn dàn trải, chưa có mục tiêu và điều kiện ràng buộc rõ ràng, cụ thể; chưa

hướng được đầu tư vào các ngành công nghệ cao, ngành có lợi thế cạnh tranh, có tác động

và đóng góp lớn cho tăng trưởng kinh tế.

Thứ hai, cơ chế đánh giá, giám sát đầu tư công thiếu hiệu quả

Cơ chế giám sát, kiểm tra thực hiện đầu tư công chưa được chú trọng đúng mức. Tuy

đã thực hiện phân cấp mạnh trong cơ chế quản lý vốn đầu tư, song chế độ thông tin báo cáo,

kiểm tra, giám sát trong một số khâu chưa được điều chỉnh tương xứng, nên công tác thống

kê, tổng hợp, đánh giá gặp nhiều khó khăn. Công tác kiểm tra, thanh tra, kiểm toán của các

cơ quan nhà nước chưa thường xuyên, chưa liên tục, hiệu quả công tác giám sát còn thấp.

Thứ 3, Thiếu minh bạch và trách nhiệm giải trình trong quản lý và sử dụng vốn

đầu tư công. Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư công còn kém

 Dẫn chứng theo báo cáo của Kiểm toán Nhà nước, kỷ cương, kỷ luật ngân sách

không nghiêm khi tình trạng các đơn vị sử dụng ngân sách chi tiêu lãng phí không giảm.

Hiện công khai các quỹ còn rất hạn chế, nhất là các quỹ huy động từ nhân dân. Do

đó, Luật Ngân sách nhà nước lần này cần phải có quy định công khai đối với các quỹ này từ

dự toán, việc sử dụng, và quyết toán sau đó.

Thứ tư, thiếu bộ chỉ tiêu đánh giá hiệu quả đầu tư công

Hiện vẫn chưa có tiêu chí đánh giá hiệu quả kinh tế- xã hội- môi trường của dự án

đầu tư khi xem xét cấp phép và phân bổ vốn cho dự án. Trên thực tế, muốn nâng cao hiệu

quả đầu tư công thì các chương trình, dự án đầu tư công phải được xác định, cụ thể hoá ý

20

tưởng, chuẩn bị và phải được đánh giá trước khi đưa ra quyết định lựa chọn dự án đầu tư

Thứ năm, chưa tận dụng tối đa hợp tác công tư(PPP) để giảm gánh nặng cho

NSNN

Mô hình PPP là việc nhà nước và tư nhân cùng phối hợp thực hiện để cung cấp cơ sở

hạ tầng, dịch vụ công trên cơ sở hợp đồng dự án được ký kết. Việc thay đổi cơ cấu chi tiêu

NSNN theo hướng giảm bớt chức năng “nhà nước kinh doanh” đồng thời tăng cường chức

năng “ nhà nước phúc lợi” nhà nước nên thực hiện “xã hội hoá” việc gánh vác các chi phí

cho phúc lợi công. Bởi các dự án đầu tư công thường đòi hỏi nguồn vốn lớn, thậm chí có thể

vượt khả năng vốn NSNN.

21

CHƢƠNG 3

GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ĐẦU TƢ CÔNG CỦA VIỆT NAM

3.1. ĐỊNH HƢỚNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ CƠ CẤU VỐN ĐẦU TƢ CÔNG

ĐẾN NĂM 2026

3.1.1. Định hƣớng phát triển kinh tế đến năm 2026 và tầm nhìn đến năm 2031

 Tỉ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ chiếm khoảng 85% trong GDP.

 Giá trị sản phẩm công nghệ cao và sản phẩm ứng dụng công nghệ cao đạt khoảng

45% trong tổng GDP.

 Yếu tố năng suất tổng hợp đóng góp vào tăng trưởng đạt khoảng 35%; giảm tiêu

hao năng lượng tính trên GDP 2,5 - 3%/năm.

 Thực hành tiết kiệm trong sử dụng mọi nguồn lực. Chỉ tiêu Hiệu quả sử dụng vốn

đầu tư (ICOR) định hướng đến năm 2020 là ≤ 5; Bội chi ngân sách Nhà nước/GDP: <4%;

Nợ của Chính phủ/GDP < 55,0% ; Nợ nước ngoài/GDP <50,0%.

 Kết cấu hạ tầng tương đối đồng bộ, với một số công trình hiện đại. Tỉ lệ đô thị hoá

đạt trên 45%. Số xã đạt tiêu chuẩn nông thôn mới khoảng 50%.

Theo Nghị quyết Hội nghị Trung ương V cũng đã xác định các mục tiêu cụ thể, trong

đó “chú trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả kinh doanh trong khu vực kinh tế tư nhân.

Phấn đấu đến năm 2020 có ít nhất 1 triệu doanh nghiệp, thực tế, tính tới ngày 31/12/2018 cả

nước đã có 714.000 doanh nghiệp đang hoạt động, tức đạt khoảng 71,4% kế hoạch đề ra (Bộ

Kế hoạch và Đầu tư, 2019.

Ngoài ra, kinh tế trong nước hiện vẫn đang được định hướng phát triển theo Quyết

định Số: 622/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ký ngày 10/5/2017 về việc ban hành kế

hoạch hành động quốc gia thực hiện chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững.

Cụ thể một số định hướng đến 2031 như sau:

 Giảm ít nhất một nửa tỷ lệ nghèo theo tiêu chí nghèo đa chiều của quốc gia.

 Duy trì tăng trưởng GDP bình quân đầu người 4 - 4,5%/năm và tăng trưởng GDP

hàng năm trung bình từ 5 - 6%.

 Xây dựng cơ sở hạ tầng có khả năng chống chịu cao, thúc đẩy công nghiệp hóa

bao trùm và bền vững, tăng cường đổi mới

 Xây dựng các thể chế minh bạch, hiệu quả và có trách nhiệm giải trình ở tất cả các cấp.

22

3.1.2. Tái cơ cấu vốn đầu tƣ công định hƣớng đến năm 2026

Mục tiêu chung: Tổ chức thực hiện hiệu quả kế hoạch đầu tư công trung hạn gắn với

kế hoạch tài chính trung hạn và kế hoạch vay, trả nợ công; phấn đấu đạt tỷ lệ giải ngân vốn

đầu tư công hàng năm trên 90%; tiếp tục đổi mới, hoàn thiện thể chế quản lý đầu tư công

trong tất cả các khâu của quy trình quản lý đầu tư công, nâng cao hiệu quả và tính bền vững

của đầu tư công. Định hướng tỷ trọng vốn đầu tư nhà nước bình quân đạt khoảng 10 - 11%

GDP đến năm 2025. Trong đó đẩy mạnh thu hút tối đa, quản lý và sử dụng có hiệu quả các

nguồn vốn đầu tư phát triển theo hướng đẩy mạnh xã hội hóa đầu tư, mở rộng các hình thức

đầu tư.

3.1.3. Cải cách Luật Quản lý nợ công

Để siết chặt hơn về các khoản nợ công của quốc gia, Quốc hội đã ban hành Luật

Quản lý nợ công số 20/2017/QH14 có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2018, đây là một bước

tiến quan trọng, mạnh mẽ trong quản lý nợ công (QLNC) của Việt Nam.

3.2. GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ VỐN ĐẦU TƢ CÔNG Ở VIỆT NAM

3.2.1. Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về quản lý và sử dụng vốn đầu tƣ công

Quốc hội đã ban hành Luật NSNN 2015 đã có cơ chế phân cấp quản lý NSNN từ

Trung ương đến địa phương, nhưng việc kiểm tra, giám sát chưa dược chặt chẽ các nguồn

NSNN vì vậy đã dẫn đến bội chi NSNN.

Mặc dù hiện nay đã xây dựng các kế hoạch chi tiêu công trung hạn. Nhưng vẫn cần

phải tăng cường kiểm soát chặt chẽ chi tiêu công để không vượt ngưỡng gây ra tác động tiêu

cực đến tăng trưởng kinh tế

Cần áp dụng hệ thống giám sát và chi tiêu công (M&E) vào tổng chi tiêu công và

phải lồng ghép xuyên suốt mục tiêu phát triển bền vững

3.2.2. Cải thiện cơ chế giám sát, đưa ra quy trình đánh giá hiệu quả đầu tư công

 Nâng cao năng lực quản lý đầu tư, hiệu lực và hiệu quả công tác giám sát, đánh giá

hiệu quả đầu tư Nhà nước; Chỉ định cơ quan đầu mối phối hợp và chịu trách nhiệm cuối

cùng trong kiểm tra. giám sát và đánh giá hiệu quả kinh tế xã hội của các dự án đầu tư nói

riêng và đầu tư Nhà nước nói chung.

3.2.3. Xây dựng bộ tiêu chí đánh giá hiệu quả đầu tƣ công

Cần phải ban hành các tiêu chí thẩm định, lựa chọn dự án đầu tư bằng vốn NSNN, tiêu chí

đánh giá hiệu quả kinh tế-xã hội của dự án đầu tư; cơ chế phân bố vốn đầu tư Nhà nước theo

hướng đầu tư tập trung, chất lượng và hiệu quả, phục vụ thúc đẩy hoặc dẫn dắt chuyển dịch

cơ cấu kinh tế. Ngoài ra, cần thực hiện đánh giá đầu tư công theo các chuẩn của thế giới, để

23

có sự so sánh trực quan, đúng đắn với các nước. Đồng thời, các tiêu chí đánh giá hiệu quả

đầu tư công phải được phổ biến và hướng dẫn để các bộ, ngành, địa phương hiểu đúng đắn

và có thể áp dụng thống nhất

3.2.4. Tăng cƣờng tính minh bạch thông tin trong việc sử dụng vốn đầu tƣ công. Kiểm

soát chặt chẽ các nguồn vốn vay

Để nâng cao hiệu quả đầu tư công, trước hết phải khắc phục các nguyên nhân dẫn tới

yếu kém đã nêu ở trên, cần thực hiện một số biện pháp sau:

 Chính phủ cần sớm nâng cấp hoặc xây dựng mới hệ thống thông tin điện tử về

kinh tế vĩ mô, về mua sắm, đầu tư công, về công tác đấu thầu. Để thông tin được nhanh

chóng cập nhật và minh bạch thôn tin, hạn chế lợi ích nhóm.

 Minh bạch ngân sách nhà nước theo thông lệ quốc tế: Cần tăng cường tính minh

bạch và phù hợp với thông lệ quốc tế trong cách trình bày và báo cáo NSNN, làm nền tảng

cho việc ra quyết định chính sách kịp thời, đánh giá hiệu quả hoạt động dịch vụ công và

chính sách thu, chi tiêu công, nâng cao trách nhiệm giải trình và hội nhập quốc tế.

3.2.5. Tăng cƣờng huy động nguồn vốn tƣ nhân trong đầu tƣ công

 Thay đổi cơ cấu chi tiêu ngân sách theo hướng giảm bớt chức năng “nhà nước

kinh doanh” và đồng thời tăng cường chức năng “nhà nước phúc lợi”:

+ Thực hiện “xã hội hóa” việc đầu tư kinh doanh (BT, BOT, PPP), thay vì “xã hội

hóa” việc gánh vác các chi phí cho phúc lợi công.

+ Chuyển hướng chi tiêu ngân sách nhiều hơn cho phúc lợi (giáo dục, y tế, nhà

ở, an sinh).

Các dự án đầu tư công thường đòi hỏi nguồn vốn đầu tư rất lớn, thậm chí có thể vượt

khả năng vốn ngân sách nhà nước. Cho nên, việc huy động các nguồn lực tài chính từ khu

vực tư nhân tham gia vào các chương trình, dự án đầu tư công là rất quan trọng góp phần cải

thiện, nâng cao hiệu quả đầu tư công.

3.3. ĐIỀU KIỆN VÀ LỘ TRÌNH THỰC HIỆN CÁC GIẢI PHÁP

Để đảm bảo phát triển kinh tế ổn định, bền vững, và tăng cường hiệu quả đầu tư công

trong thời gian tới. Luận án đề xuất lộ trình tái cơ cấu như sau đối với chính sách tăng

trưởng, tài chính công và đầu tư công thực hiện cụ thể như sau:

 Tăng cường chất lượng đầu tư công thông qua tái cơ cấu vốn đầu tư công, cụ thể

cần xem xét tăng cường tỷ lệ chi đầu tư cho phát triển cho giai đoạn 2025 và định hướng

đến 2030.

24

 Cấp bách thay đổi các quy trình, thủ tục giải ngân đầu tư công, nhất là các dự án

có liên quan đến nguồn vốn vay ODA, vốn vay nước ngoài. Định hướng đến năm 2025 đảm

bảo có thể giải ngân trên 80% dự toán NSNN mỗi năm.

 Cần xây dựng cơ chế hoặc chế tài về việc sử dụng vốn đầu tư công để xác định rõ

trách nhiệm của các cơ quan, bộ ngành, người đứng đầu các đơn vị nhận và sử dụng nguồn

vốn đầu tư công; xây dựng cơ chế hoặc chế tài liên quan đến công tác lập dự toán các dự án

đầu tư công (nhất là các dự án đầu tư cơ sở hạ tầng) về việc đội vốn chi phí thực hiện dự án

đầu tư công, đồng thời để hạn chế cơ chế xin-cho trong việc cấp, phát dự án đầu tư công và

vốn đầu tư công.

 Nâng cấp, và xây dựng hệ thống thông tin điện tử (chính phủ điện tử) để theo dõi,

giám sát các dự án đầu tư công.

 Tăng cường phổ biến Luật Quản lý nợ công QH/2018 để đảm bảo 100% cán bộ có

liên quan đến quản lý nợ công và đầu tư công từ Trung ương đến địa phương nắm rõ những

đổi mới của Luật này.

 Tăng cường đào tạo toàn diện về công tác thẩm định dự án cho Bộ KH&ĐT, Bộ

Tài chính và các đơn vị bộ, ngành, đặc biệt ở các cấp chính quyền địa phương. Để đảm bảo

cán bộ có năng lực đáp ứng áp dụng các hướng dẫn chuẩn trong quy trình đề xuất, lập và

thẩm định các dự án đầu tư công một cách chặt chẽ về kinh tế và bền vững tài chính cho dự

án và tiết kiệm ngân sách địa phương.

 Nên có đơn vị độc lập (thuê chuyên gia giám định nước ngoài) để đánh giá về hiệu

quả thực hiện các dự án đầu tư công, hiệu quả của phân bổ và sử dụng vốn đầu tư công. Để

hạn chế tình trạng thiếu minh bạch, đội vốn dự án, thất thoát lãng phí vốn trong đầu tư công

ngày càng diễn biến phức tạp

 Tập trung xây dựng dứt điểm và đồng bộ một số công trình kết cấu hạ tầng trọng

điểm. Hỗ trợ (trong khuôn khổ thể chế kinh tế thị trường) một số ngành, lĩnh vực, dự án mũi

nhọn có tác động lan tỏa về mặt công nghệ.

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ

CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

1. Đào Thị Hồ Hương (2019). Để nâng cao hiệu quả đầu tư công. Tạp chí kinh tế và dự

báo số 29 tháng 9, trang 24 – 28

2. Đào Thị Hồ Hương (2019). Để thúc đẩy giải ngân đầu tư công tại Thành phố Hồ Chí

Minh. Tạp chí kinh tế và dự báo số 29 tháng 9, trang 47 - 49

3. Đào Thị Hồ Hương (2019). Đầu tư công của doanh nghiệp: Thực trạng và giải pháp.

Tạp chí kinh tế và dự báo số 29 tháng 10, trang 37 - 39

4. Đào Thị Hồ Hương (2019). Cơ cấu lại đầu tư công: Kết quả và những vấn đề đặt ra.

Tạp chí kinh tế và dự báo số 29 tháng 11, trang 12 – 15