
ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN
BÙI XUÂN HÀO
NGHIÊN CỨU HÓA HỌC CÂY THUỐC VIỆT NAM CÓ
HOẠT TÍNH KHÁNG TẾ BÀO KHỐI U THỰC NGHIỆM
CÂY TÔ MỘC (CAESALPINIA SAPPAN L.) VÀ CÂY
HÀ THỦ Ô TRẮNG (STREPTOCAULON JUVENTAS
(LOUR.) MERR.)
Chuyên ngành: Hóa hữu cơ
Mã số: 62 44 27 01
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ HÓA HỌC
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH2013

Công trình đƣợc thực hiện tại:
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN TP. HCM
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:
1. PGS.TS. TRẦN LÊ QUAN
2. GS. TS. NGUYỄN MINH ĐỨC
Phản biện 1: PGS. TS. TRẦN HÙNG
Phản biện 2: PGS. TS. NGUYỄN NGỌC HẠNH
Phản biện 3: GS. TS. NGUYỄN KIM PHI PHỤNG
Phản biện độc lập 1: PGS. TS. PHẠM THÀNH QUÂN
Phản biện độc lập 2: PGS. TS. NGUYỄN THỊ THU HƢƠNG
Luận án sẽ được bảo vệ tại hội đồng chấm luận án cấp trường tại
trường Đại học Khoa học Tự nhiên Tp. Hồ Chí Minh
Vào hồi ……….giờ …….ngày ………tháng ……. năm 2013
Có thể tìm hiểu luận án tại:
- Thư viện Khoa học Tổng hợp Tp.HCM
- Thư viện trường ĐH Khoa học Tự nhiên Tp.HCM

DANH MỤC CÔNG TRÌNH
DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ
1. Bùi Xuân Hào, Nguyễn Thị Hồng Yến, Nguyễn Minh Đức, Trần
Lê Quan, Thành phần hóa học của rễ cây hà thủ ô trắng, Tạp chí
Phát triển KH
CN, Vol 12, No.10, 72-77 (2009).
2. Bùi Xuân Hào, Nguyễn Minh Đức, Trần Lê Quan, Thành phần
hóa học cao etyl acetat của lõi gỗ cây tô mộc (Caesalpinia
sappan L.), Tạp chí Hóa học, T.47 (4A), 343-346 (2009).
3. Bùi Xuân Hào, Nguyễn Minh Đức, Trần Lê Quan, Thành phần
hóa học cao etyl acetat của lõi gỗ cây tô mộc (Caesalpinia
sappan L.), Tạp chí Hóa học, T.48 (4B), 441-445 (2010).
4. Bùi Xuân Hào, Nguyễn Minh Đức, Trần Lê Quan, Thành phần
hóa học của rễ cây hà thủ ô trắng (Streptocaulon juventas Merr.),
Tạp chí Hóa học, T.49 (2ABC), 267-271 (2011).
5. Bùi Xuân Hào, Nguyễn Minh Đức, Trần Lê Quan, Thành phần
hóa học của rễ cây hà thủ ô trắng. Tạp chí Phát triển KH
CN,
Vol 14, No.T2, 28-35(2011).

1
MỞ ĐẦU
Đã từ lâu, người ta biết được rằng, ung thư là một trong những căn bệnh
hiểm nghèo, và sự di căn tế bào ung thư là nguyên nhân gây ra tử vong cho
bệnh nhân. Thông thường, ung thư được điều trị bởi phẫu thuật, xạ trị và
hóa trị, tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, sau khi điều trị, các khối u vẫn
tiếp tục phát triển và di căn do các tế bào ung thư không bị tiêu diệt hoàn
toàn. Các tia phóng xạ và hầu hết các thuốc dùng điều trị ung thư thường có
tác dụng phụ, gây tổn hại đến các tế bào lành của cơ thể; chúng cũng
thường gây ra những hậu quả nghiêm trọng như rụng tóc, ức chế sự hoạt
động của tủy xương, gây nôn mửa... Vì thế, các loại thuốc hỗ trợ điều trị
ung thư hữu hiệu vẫn đang được tìm kiếm. Ngày nay, các hợp chất thiên
nhiên có tác dụng ức chế sự phát triển của khối u vẫn đang được sử dụng và
cho kết quả điều trị tốt, chẳng hạn như các alkaloid từ cây dừa cạn, taxol từ
cây thông đỏ, các alkaloid từ cây trinh nữ hoàng cung... Năm 2011, tác giả
Marie Jensen và cộng sự cho biết trong những năm gần đây, các hợp chất
dẫn xuất cardenolid và các hợp chất bán tổng hợp từ các dẫn xuất
cardenolid được xem như là các “ứng cử viên” xuất sắc dùng để điều trị
bệnh ung thư phổi.
Với mong muốn đóng góp một phần nhỏ vào việc tìm hiểu thành phần hóa
học và hoạt tính sinh học cây thuốc ở Việt Nam, luận án này giới thiệu một
số kết quả nghiên cứu về khảo sát thành phần hóa học và thử nghiệm hoạt
tính sinh học của các chất cô lập được từ cây hà thủ ô trắng và cây tô mộc;
là hai cây thuốc đã được các nhà khoa học Việt Nam và Nhật Bản khảo sát
sơ bộ, đã cho thấy là dịch chiết metanol của rễ cây hà thủ ô trắng và lõi gỗ
thân cây tô mộc đều có độc tính đối với các dòng tế bào ung thư phổi, ung
thư cổ tử cung…
Nội dung chính của luận án bao gồm:
- Cô lập các hợp chất tinh khiết từ rễ cây hà thủ ô trắng và lõi gỗ thân
cây tô mộc.
- Xác định cấu trúc hóa học của các hợp chất cô lập được.
- Thử nghiệm độc tính tế bào trên các hợp chất tinh khiết cô lập được.

2
ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN
Trong phần cô lập các hợp chất cardenolid tinh khiết từ cao metanol của rễ
cây hà thủ ô và cao etyl acetat của lõi gỗ thân cây tô mộc, chúng tôi đã đạt
được các kết quả như sau:
Từ dịch chiết metanol của bột rễ thô cây hà thủ ô trắng, đã cô lập được 16
hợp chất dẫn xuất cardenolid tinh khiết, trong đó, có 3 hợp chất mới đã
được kiểm tra bằng phần mềm Scifinder vào tháng 03 năm 2012. Các hợp
chất mới là:
14
-Hydroxycard-20(22)-enolid 3-O-[
-D-glucopyranosyl-(16)-
-
D-glucopyranosyl-(14)-
-D-2-O-acetyldigitalosid].
1
,14
-Dihydroxycard-20(22)-enolid 3-O-[
-D-glucopyranosyl-
(14)-
-D-digitalosid].
5
,14
-Dihydroxycard-20(22)-enolid 3-O-[
-D-glucopyranosyl-
(16)-
-D-glucopyranosid].
Bốn hợp chất lần đầu tiên được cô lập từ dịch chiết metanol của bột rễ cây
hà thủ ô trắng là:
Digitoxigenin 3-O-
-glucopyranosid.
Acovenosigenin A 3-O-β-D-glucopyranosid.
Periplogenin 3-O-[
-D-glucopyranosyl-(14)-
-D-cymaropyranosid].
Periplogenin 3-O-[
-D-glucopyranosyl-(14)-
-D-2-O-
acetyldigitalopyranosid].
Đã thử nghiệm sàng lọc sơ bộ độc tính tế bào của 20 hợp chất cô lập được,
theo phương pháp SRB trên ba dòng tế bào ung thư, bao gồm ung thư phổi
NCI–H460, ung thư cổ tử cung Hela và ung thư vú MCF–7. Kết quả thử
nghiệm sơ bộ hoạt tính gây độc tế bào cho thấy, hầu hết các hợp chất cô lập
được đều có độc tính tế bào đối với ba dòng ung thư trên. Ngoài ra, với các
hợp chất cô lập được có khối lượng đủ lớn, chúng tôi đã thử nghiệm độc
tính tế bào của các chất này trên dòng tế bào ung thư phổi NCI–H460 để
tìm giá trị IC50. Các giá trị IC50 của các hợp chất cardenolid đều nhỏ cho
thấy các hợp chất này có độc tính mạnh đối với dòng tế bào ung thư phổi
NCI–H460. Các thử nghiệm hoạt tính sinh học của các hợp chất dẫn xuất
cardenolid và homoisoflavonoid cô lập được trên ba dòng tế bào ung thư
nói trên là các thử nghiệm mới, lần đầu tiên được thực hiện đối với các hợp
chất này.

