
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong số các côn trùng gây hại lúa, rầy nâu Nivaparvarta lugens
(Stal) là một trong những tác nhân gây hại nguy hiểm nhất làm giảm
nghiêm trọng sản lượng lúa trồng ở hầu hết các nước trồng lúa trên
thế giới, nhất là ở các nước nhiệt đới (Bharathi và Chelliah, 1991;
Ikeda và Vaughan, 2006). Tại Việt Nam, những thiệt hại do loại côn
trùng này gây ra hàng năm làm giảm khoảng 20% tổng sản lượng
trồng trọt (Hà Huy Niên và Nguyễn Thị Cát, 2004). Chu kỳ bộc phát
của rầy nâu từ 12-13 năm và chu kỳ của đỉnh cao các đợt bộc phát
rầy nâu là 14 năm (Lê Hữu Hải, 2016). Chính vì vậy trong sản xuất
lúa phải luôn luôn chủ động phòng trừ rầy nâu. Biện pháp truyền
thống để diệt trừ rầy nâu là sử dụng thuốc diệt côn trùng. Tuy nhiên,
việc sử dụng tràn lan các loại thuốc trừ sâu để ngăn chặn nạn dịch
rầy nâu đã gây ra sự bùng phát của loại côn trùng này như kết quả
của sự thích nghi có chọn lọc. Trong số các biện pháp phòng trừ rầy
nâu hiện nay, giống kháng luôn là biện pháp hàng đầu (Hồ Văn
Chiến và ctv., 2015). Sử dụng giống kháng là biện pháp rẽ tiền, hiệu
quả lâu dài và đảm bảo an toàn cho môi trường sinh thái (Alam và
Cohen, 1998; Renganayaki và ctv., 2002). Chính vì vậy đề tài:
“Khai thác vật liệu khởi đầu cho công tác nghiên cứu chọn tạo
giống lúa kháng rầy nâu” được thực hiện nhằm tạo ra nguồn vật
liệu có khả năng kháng rầy nâu đáp ứng nhu cầu cấp thiết của sản
xuất tại ĐBSCL.
2. Mục tiêu của đề tài
Đề tài được tiến hành với 2 mục tiêu: đánh giá tính kháng rầy nâu
của tập đoàn dòng/giống thu thập được, phân nhóm di truyền và sử
dụng công nghệ chọn giống nhờ chỉ thị phân tử để tạo 2-3 dòng lúa