
3
Phương pháp bi ký học: Phương pháp này giúp xác định các yếu tố liên quan đến văn bản văn bia như:
niên đại, tác giả văn bản, thời điểm tạo tác, tính chân ngụy của văn bản, giá trị văn bản…
Phương pháp mục lục học: Là một phương pháp nghiên cứu của ngành văn hiến học cổ điển
và được áp dụng rộng rãi trong ngành khoa học lưu trữ hiện đại. Mục lục học (Bibliography) bao gồm
các thao tác như: biên mục, sắp xếp, phân loại văn bản, xác định thiện bản... Áp dụng phương pháp
mục lục học để đối chiếu các bộ Thư mục thác bản văn khắc với nhau, loại bỏ những văn bản trùng lặp
và tìm ra thiện bản. Thêm nữa, phương pháp này còn giúp phân loại, biên mục nội dung cho tổng số
văn bia cần phải khai thác, sử dụng phục vụ đề tài nghiên cứu.
Các phương pháp định tính và định lượng trong khoa học xã hội: Đây là nhóm các phương
pháp được nhiều ngành nghiên cứu Khoa học Xã hội sử dụng. Trong khoa học để hiểu được đặc tính
của một sự vật, hiện tượng chúng ta cần lượng hóa và đặc tính hóa đối tượng nghiên cứu trên cơ sở tập
hợp mẫu nghiên cứu đã được lựa chọn. Trong nghiên cứu này các phương pháp định tính và định
lượng sẽ giúp chúng ta thống kê thư mục, tính toán niên đại, tính toán số tài sản cung tiến, thể hiện sự
phân bố của bia Hậu theo không gian từ đó chỉ ra các đặc tính của bia Hậu tại địa bàn nghiên cứu.
Phương pháp điền dã Nhân học: Đây là phương pháp đặc thù của ngành nghiên cứu Nhân học.
Phương pháp này giúp chúng tôi sưu tầm thêm những văn bia mới phát lộ chưa có trong lưu trữ của
VNCHN. Kiểm chứng lại vị trí của văn bia trong không gian tồn tại thực tế. Thông qua các phương
pháp khác của ngành Nhân học như quan sát – tham dự, phỏng vấn sâu, phỏng vấn bán cấu trúc… sẽ
thu thập thêm dữ liệu thông tin về tục thờ cúng Hậu và các sinh hoạt tín ngưỡng quanh nó để minh họa
cho đề tài nghiên cứu.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là tất cả các văn bia có nội dung liên quan đến tục thờ cúng
Hậu xuất hiện trên địa bàn tỉnh Thái Bình hiện nay. Thác bản VKHN trên địa bàn tỉnh Thái Bình đã
được Viện Viễn Đông bác cổ Pháp (EFEO) sưu tầm, in rập vào đầu thế kỷ 20 là 331 văn bia. Từ năm
1992 đến năm 2008, Viện Nghiên cứu Hán Nôm đã sưu tầm ở hơn 80% số xã phường trên địa bàn tỉnh
Thái Bình và thu được 1327 văn bia.. Ngoài ra, chúng tôi còn sưu tầm trên thực tế địa bàn nghiên cứu
thêm 06 văn bia Hậu chưa được cả EFEO và VNCHN sưu tầm.
4.2 Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu về mặt địa lý là địa bàn tỉnh Thái Bình hiện nay. Tỉnh Thái Bình là một tỉnh
duyên hải thuộc khu vực đồng bằng châu thổ sông Hồng. Trong lịch sử, đây là nột khu vực địa lý
tương đổi ổn định, nằm gọn trong hạ lưu tam giác châu thổ sông Hồng và sông Luộc.
Phạm vi nghiên cứu về mặt thời gian của tư liệu văn bia có niên đại từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XX.
Chúng tôi xác định văn bia do chúng tôi sưu tầm là ST.01 Vô đề tạo dựng năm 1586 tại chùa Nghinh Phúc,
xã Quỳnh Hải, Quỳnh Phụ là văn bia Hậu sớm nhất của Thái Bình. Do đó, chọn phạm vi thời gian giới hạn
trên từ thế kỷ XVI. Năm 1980 là năm niên đại của văn bia Hậu N°29681 Canh thân niên bi ký 庚申年碑記
tại địa phận Thôn Mỹ Lộc, xã Việt Hùng, Vũ Thư. Đó là niên đại muộn nhất của văn bia Hậu tỉnh Thái Bình.
Do đó, chọn giới hạn thời gian dưới là thế kỷ XX.
Phạm vi nghiên cứu về nội dung: luận án sẽ đi sâu vào nghiên cứu xác định số lượng văn bia
Hậu của tỉnh Thái Bình; tiến hành phân loại theo không gian, thời gian, nội dung và hình thức của
nhóm tư liệu này; nghiên cứu các vấn đề nội dung mà văn bia Hậu phản ánh như: thực hành tôn giáo-
tín ngưỡng, đời sống kinh tế-xã hội, sinh hoạt văn hóa làng xã… gắn với bối cảnh lịch sử địa phương
mà nhóm văn bia này được tạo dựng.
5. Những đóng góp mới cho khoa học của luận án
Có thể coi đây là nghiên cứu đầu tiên về toàn thể các loại hình văn bia Hậu trên một phạm vi địa
bàn cấp tỉnh. Nó sẽ cung cấp một cái nhìn khách quan, khoa học về diễn tiến hình thành, phát triển của
văn bia Hậu cũng như tục thờ cúng Hậu tại một địa phương cụ thể, đồng nhất về mặt văn hóa và dân cư.
+Luận án này đã đóng góp vào việc nghiên cứu tư liệu văn bia của tỉnh Thái Bình. Đây là một
“mảnh đất” còn trống vắng, chưa được khai thác trong các nghiên cứu khoa học xã hội về địa phương
và nền khoa học xã hội nước nhà.