BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH

TRƯƠNG THIẾT HÀ

THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ VÀ PHÂN BIỆT ĐỐI XỬ THEO GIỚI TÍNH TRONG LỰC LƯỢNG LAO ĐỘNG Ở VIỆT NAM

Chuyên ngành: Kinh tế Phát triển Mã số: 9310105

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ

TP.Hồ Chí Minh - Năm 2023

Công trình được hoàn thành tại:

Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh.

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Võ Tất Thắng

Phản biện 1: ........................................................................................

.............................................................................................................

Phản biện 2: .........................................................................................

.............................................................................................................

Phản biện 3: .........................................................................................

.............................................................................................................

Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp trường tại

.............................................................................................................

Vào hồi ……giờ……ngày……tháng…….năm……

Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện: ...................................................

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN

ĐẾN LUẬN ÁN

Vo, T. T., & Ha, T. T. (2021). Decomposition of gender bias in

enterprise employment: Insights from Vietnam. Economic

Analysis and Policy, 70, 182-194.

Thang T. Vo & Truong Thiet Ha (2022). Can international trade

increase female employment? Evidence from Vietnamese

enterprises. In Proceedings of The 4rd Asia Conference on

Business and Economic Studies (ACBES 2022) by University of Economics Ho Chi Minh City on 29th - 31st August 2022 at Ho Chi Minh City, Vietnam. UEH Publishing House.

Thang T. Vo & Thiet-Ha Truong (2023). Gender division of

household labor in Vietnam: Role of international trade and

fertility. Minor revision to Economic Analysis and Policy.

1

CHƯƠNG 1. GIỚI THIỆU

1.1. Bối cảnh nghiên cứu

Hiện nay, sự tham gia của lao động nữ, đặc biệt là phụ nữ đã

kết hôn, có xu hướng gia tăng liên tục (Cohen & Blanchi, 1999;

Goldin, 2021). Tuy nhiên, phụ nữ vẫn phải đối mặt với tình trạng

phân biệt đối xử theo giới tính trong thị trường lao động, và luôn

nhận được mức lương thấp hơn nam giới cùng trình độ (Doan và

cộng sự, 2023; McAllister, 1990). Đồng thời, công việc do lao động

nữ đảm nhận thường có địa vị thấp hơn lao động nam (Chaffins và

cộng sự, 2017), nên mức độ thỏa mãn công việc và phần thưởng vật

chất cũng ít hơn (Blau & Kahn, 2017). Hơn nữa, những nghiên cứu

trước đây đã chỉ ra rằng phụ nữ phải nỗ lực trong công việc hơn so

với nam giới (Bielby & Bielby, 1988), nhưng lại chịu nhiều rào cản

cơ hội thăng tiến trong sự nghiệp (ILO, 2015a).

Việc phụ nữ đảm nhận những công việc có trả lương thể hiện

sự thay đổi quan trọng trong vai trò giới theo tư tưởng bình đẳng hơn

(Presser, 1994); nhưng phân công lao động hộ gia đình đã không

thay đổi ở mức độ tương ứng (Brines, 1994), mặc dù thời gian làm

việc nhà của người chồng đã tăng (Presser, 1994). Người vợ vẫn giữ

trách nhiệm chính đối với việc nội trợ (Bianchi và cộng sự, 2000;

Coltrane, 2000). Trước đây đã có nhiều học giả nghiên cứu về vấn đề

phân công lao động hộ gia đình (Braun và cộng sự, 2008; Fuwa,

2004). Tuy nhiên, không nhiều nghiên cứu quan tâm đến khoảng

cách giới về tiền lương và thời gian làm việc giữa vợ và chồng, xét

trong tương quan với sự tham gia vào lực lượng lao động của phụ nữ.

Mặt khác, trong thương mại quốc tế, nam giới và nữ giới

đảm nhận nhiều vị trí quan trọng khác nhau. Nếu phân biệt đối xử về

giới không nhận được sự quan tâm đúng mức thì những đóng góp và

2

vai trò tác nhân kinh tế của người phụ nữ sẽ bị đánh giá thấp (UNDP,

2015). Trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng như hiện nay, vấn

đề này cần được nghiên cứu ở cả cấp độ doanh nghiệp hay cấp độ hộ

gia đình. Bởi lẽ, toàn cầu hóa được công nhận là động lực tăng

trưởng kinh tế và thay đổi xã hội (Chen và cộng sự, 2013). Tuy

nhiên, tự do hóa thương mại cũng đồng thời đưa đến những thách

thức lớn đối với các doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế thị

trường (Mertens, 2020). Theo đó, cách thức phản ứng của các doanh

nghiệp trước những điều kiện thị trường mới này sẽ ảnh hưởng trực

tiếp đến nguồn nhân lực, về năng suất và mức sống dân cư (Mertens,

2020). Nói cách khác, mở rộng thương mại quốc tế có thể có tác

động đến thị trường lao động nói chung (Busse, 2002; Slaughter,

2001), và đến từng cá nhân nói riêng tùy theo đặc điểm của cá nhân

đó, như là giới (Helpman và cộng sự, 2017; UNDP, 2015).

Bên cạnh đó, trong khi thương mại quốc tế được kỳ vọng là

một trọng những cách để làm giảm phân biệt đối xử đối với lao động

nữ (Juhn, Ujhelyi, & Villegas-Sanchez, 2013), mức sinh cao lại có

thể là một trong những lý do kiềm hãm sự tham gia của người nữ vào

thị trường lao động (Bloom, Canning, Fink, & Finlay, 2009), đặc biệt

là ở các nước đang phát triển, nơi thường có tỷ suất sinh cao (Agüero

& Marks, 2011; Heath & Jayachandran, 2016). Nguyên nhân của vấn

đề này là do truyền thống vai trò trung tâm của người mẹ trong xã

hội (Rindfuss & Brewster, 1996). Theo đó, người nữ phải quyết định

một trong hai lựa chọn: (1) đầu tư tiền cho con, nghĩa là gia tăng

cung lao động và dùng tiền kiếm được để sử dụng các dịch vụ chăm

sóc trẻ em; (2) đầu tư thời gian cho con, nghĩa là giảm cung lao

động, và dùng thời gian thay vì đi làm để chăm sóc con (Heath,

2017). Đây cũng là lý do nghiên cứu này cần được thực hiện.

3

Tóm lại, vấn đề nghiên cứu này ngày càng trở nên cấp thiết

trong bối cảnh Việt Nam hiện nay, khi quá trình hội nhập quốc tế

diễn ra mạnh mẽ đã tạo nhiều cơ hội nhưng đồng thời cũng đưa đến

những thách thức lớn đối với sự tham gia vào lực lượng lao động của

phụ nữ. Cho nên, việc xác định mối tương quan của thương mại quốc

tế và phân biệt đối xử về giới trong lực lượng lao động ở Việt Nam là

cần thiết.

1.2. Mục tiêu nghiên cứu

Mục tiêu nghiên cứu của luận án là xác định mối tương quan

giữa thương mại quốc tế và sự tham gia vào lực lượng lao động của

phụ nữ. Mục tiêu tổng quát này có thể được cụ thể hóa thành ba mục

tiêu như sau:

(1) Xác định nguyên nhân chênh lệch giới trong việc làm tại

các doanh nghiệp ở Việt Nam.

(2) Đánh giá tác động của thương mại quốc tế đến sự tham

gia vào lực lượng lao động của phụ nữ ở cấp độ doanh nghiệp Việt

Nam.

(3) Xem xét ảnh hưởng đồng thời của thương mại quốc tế và

mức sinh đến chênh lệch giới trong lực lượng lao động hộ gia đình ở

Việt Nam.

1.3. Đối tượng - phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu là sự tham gia vào lực lượng lao động

của phụ nữ.

Phạm vi nghiên cứu là cấp độ doanh nghiệp trong các ngành

chế biến, chế tạo và cấp độ hộ gia đình.

4

1.4. Phương pháp nghiên cứu

Luận án gồm ba mục tiêu riêng biệt, do đó luận án sẽ sử

dụng các phương pháp và các bộ dữ liệu khác nhau đối với từng mục

tiêu nghiên cứu, cụ thể như sau:

Đối với mục tiêu nghiên cứu cụ thể đầu tiên, luận án áp dụng

phương pháp Feasible Generalized Least Squares (FGLS), phương

pháp Oaxaca - Blinder (Blinder, 1973; Cotton, 1988; Oaxaca, 1973;

Oaxaca & Ransom, 1994), và dữ liệu từ “Khảo sát doanh nghiệp vừa,

nhỏ và siêu nhỏ của Việt Nam” trong giai đoạn 2011 – 2015.

Kế đó, bằng phương pháp Propensity Score Matching

(PSM), luận án giải quyết mục tiêu nghiên cứu cụ thể thứ hai, với dữ

liệu “Khảo sát doanh nghiệp vừa, nhỏ và siêu nhỏ của Việt Nam”.

Cuối cùng, tại mục tiêu nghiên cứu cụ thể thứ ba, luận án sử

dụng dữ liệu “Điều tra mức sống dân cư thực hiện bởi Tổng cục

Thống kê Việt Nam” và phương pháp Instrumental Variable (IV).

1.5. Kết cấu của luận án

Kết cấu nội dung nghiên cứu của luận án được thiết kế thành

06 chương:

Chương 1: Giới thiệu;

Chương 2: Cơ sở lý thuyết và tổng quan nghiên cứu;

Chương 3: Bài báo 1 - Chênh lệch giới trong việc làm tại các

doanh nghiệp Việt Nam;

Chương 4: Bài báo 2 - Thương mại quốc tế và sự tham gia

của lao động nữ tại các doanh nghiệp Việt Nam;

Chương 5: Bài báo 3 - Chênh lệch giới trong lực lượng lao

động hộ gia đình Việt Nam: Vai trò của thương mại quốc tế và mức

sinh;

Chương 6: Kết luận và kiến nghị.

5

CHƯƠNG 2. CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ

TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU

2.1. Một số khái niệm chính được sử dụng trong nghiên cứu

Nghiên cứu trình bày một số thuật ngữ chính, bao gồm: sự

tham gia vào lực lượng lao động của phụ nữ, phân biệt đối xử về giới

trong lực lượng lao động, chênh lệch giới, khoảng cách giới.

2.2. Kinh tế học phân biệt đối xử

Phân biệt đối xử về giới chịu ảnh hưởng bởi cạnh tranh thị

trường. Becker (1971) và Arrow (1973) lưu ý rằng trong một môi

trường cạnh tranh, dòng vốn sẽ chảy đến nơi có lợi nhuận nhiều hơn

(những doanh nghiệp ít phân biệt đối xử hơn) và trong dài hạn,

những doanh nghiệp phân biệt đối xử nhiều hơn sẽ bị đẩy ra khỏi thị

trường. Vì vậy, lý thuyết truyền thống về phân biệt đối xử lập luận

rằng sự cạnh tranh sẽ làm giảm phân biệt đối xử trong dài hạn thông

qua hiệu ứng lựa chọn; trong đó, chỉ những doanh nghiệp có lợi

nhuận cao nhất (đồng thời ít phân biệt đối xử nhất) sẽ tồn tại.

Tuy nhiên, tác động tổng thể của cạnh tranh đến phân biệt

đối xử tùy thuộc hiệu ứng co giãn và hiệu ứng theo quy mô

(Ederington và cộng sự, 2009). Với hiệu ứng co giãn, cạnh tranh lớn

hơn làm gia tăng độ co giãn của cầu với sản phẩm của doanh nghiệp,

do đó sẽ làm gia tăng chi phí của hành vi phân biệt đối xử, đưa đến

kết quả là nhiều lao động nữ được tuyển dụng hơn. Với hiệu ứng

theo quy mô, cạnh tranh gia tăng làm thu hẹp quy mô doanh nghiệp,

dẫn đến giảm chi phí của hành vi phân biệt đối xử và vì vậy doanh

nghiệp tuyển thêm nhiều lao động nam.

2.3. Phân biệt đối xử về giới trong lực lượng lao động

Một số nghiên cứu đã lý giải phân biệt đối xử về giới trong

lực lượng lao động thông qua trúc thị trường việc làm sẵn có, bao

6

gồm mức độ cạnh tranh của ngành đang xem xét, được nhận diện

thông qua phân tích đặc điểm ngành nghề (Aguayo-Tellez, Airola, &

Juhn, 2014; Chen và cộng sự, 2017), quy mô và thời gian hoạt động

của doanh nghiệp, thương mại quốc tế (Autor và cộng sự, 2013;

Chen và cộng sự, 2017; Contessi và cộng sự, 2014).

Phân biệt đối xử về giới trong lực lượng lao động còn chịu

tác động của những nhân tố khác, chẳng hạn như sự khác biệt thể

chất theo giới tính và chi phí cơ hội của việc sinh con, đại diện bằng

vốn bình quân lao động (Galor & Weil, 1996; Kimura & Yasui,

2010) hoặc lựa chọn giữa công việc và gia đình (Fofana và cộng sự,

2005; Lundberg & Startz, 1983; Oaxaca, 1973).

Mặt khác, sự phân biệt đối xử về giới trong thị trường lao

động xuất phát từ sự bất cân xứng thông tin (Altonji & Blank, 1999;

Arrow, 1973; Bergmann, 1971; Phelps, 1972). Ngoài ra, sự tham gia

của nhiều phụ nữ khác (Black, 1995) hoặc vốn xã hội cao hơn (Cain,

1986) sẽ giúp cải thiện thông tin tốt hơn.

Ngoài ra, vị thế của người nữ trong thị trường lao động phụ

thuộc vào khẩu vị phân biệt đối xử của người sử dụng lao động, bao

gồm văn hóa hành vi của họ, thể hiện qua chế độ đãi ngộ lao động tại

doanh nghiệp (Becker, 1971) hoặc giới tính của người chủ doanh

nghiệp hay người quản lý doanh nghiệp (Cornell & Welch, 1996;

Ederington và cộng sự, 2009).

2.4. Lý thuyết về khoảng cách giới, tỷ suất sinh và tăng trưởng

của Galor & Weil (1996)

Ba nội dung chính trong mô hình của Galor & Weil (1996)

cụ thể như sau: Đầu tiên, quyết định sinh con phụ thuộc vào mức

lương tương đối của phụ nữ và nam giới. Tiền lương cao hơn của

phụ nữ dẫn đến chi phí chăm sóc trẻ em gia tăng nhiều hơn so với

7

thu nhập của hộ gia đình, và do đó số lượng con của mỗi cặp vợ

chồng sẽ giảm. Bởi lẽ phụ nữ phải lựa chọn giữa việc chăm sóc con

và tham gia vào lực lượng lao động. Hai là, tỷ lệ tăng trưởng dân số

có tác động đến mức vốn bình quân lao động, nghĩa là một mức sinh

thấp hơn sẽ giúp gia tăng mức vốn bình quân lao động. Cuối cùng,

mức vốn bình quân lao động ảnh hưởng đến tiền lương tương đối của

nam và nữ. Vốn bình quân lao động cao hơn làm gia tăng tiền lương

tương đối của phụ nữ. Do đó, mức lương tương đối cao hơn không

chỉ là kết quả, mà còn là nguyên nhân của tăng trưởng kinh tế. Ba nội

dung này kết nối với nhau thành một vòng phản hồi.

2.5. Mối tương quan giữa thương mại quốc tế và phân biệt đối xử

về giới trong lực lượng lao động

Tác động của thương mại quốc tế đến phân biệt đối xử về

giới trong lực lượng lao động được xem xét thông qua tác động của

thương mại quốc tế đến sự tham gia của lao động nữ. Cơ chế tác

động theo hai hướng như sau:

Đối với hướng tiếp cận thứ nhất, Chen và cộng sự (2017)

trình bày cơ chế tác động của thương mai quốc tế đến sự tham gia

của lao động nữ thông qua mô hình ba yếu tố sản xuất chính, bao

gồm: (1) lao động thể chất (là yếu tố sản xuất mà chỉ lao động nam

mới có), (2) lao động trí óc (là yếu tố sản xuất mà lao động nam và

lao động nữ có năng lực như nhau), (3) vốn (là yếu tố sản xuất chỉ bổ

sung cho lao động trí óc). Tác giả lập luận rằng giá của yếu tố lao

động thể chất và lao động trí óc chịu ảnh hưởng không chỉ từ nhân tố

nội địa mà còn từ yếu tố sản xuất của các quốc gia đối tác thương

mại. Nếu mức vốn bình quân của quốc gia đối tác cao hơn so với

trong nước, thì thu nhập của lao động trí óc của quốc gia đối tác sẽ

cao hơn so với trong nước. Căn cứ định lý cân bằng giá nhân tố sản

8

xuất, giá của lao động trí óc trong nước sẽ tăng dưới điều kiện mở

cửa thương mại. Trong khi đó, giá lao động thể chất không đổi. Do

đó, thương mại quốc tế giúp cải thiện tiền lương tương đối của lao

động nữ so với lao động nam, quy mô lực lượng lao động nữ sẽ tăng;

kéo theo sự thay đổi khoảng cách giới trong hộ gia đình.

Đối với hướng tiếp cận thứ hai, lý thuyết của Winters (2002)

chứng minh ảnh hưởng của thương mại quốc tế đến vấn đề xóa đói

giảm nghèo phụ thuộc vào độ co giãn của nguồn cung lao động. Kết

nối lý thuyết này với sự tham gia vào lực lượng lao động của phụ nữ,

Winters & Martuscelli (2014) cho rằng tiền lương của phụ nữ - một

trong những yếu tố quan trọng quyết định tình trạng giàu nghèo của

một hộ gia đình - chịu ảnh hưởng bởi tự do hóa thương mại. Đồng

thời, trong bối cảnh nền kinh tế mở, phân biệt đối xử là tốn kém đối

với người sử dụng lao động (Becker, 1971). Khi đối mặt với áp lực

gia tăng từ cạnh tranh quốc tế làm cầu sản phẩm co giãn, các doanh

nghiệp sẽ cắt giảm chi phí liên quan đến phân biệt đối xử; vì vậy,

chênh lệch tiền lương theo giới giảm (Ederington và cộng sự, 2009),

hoặc doanh nghiệp chuyển hướng tuyển dụng thêm nhiều lao động

nữ (Krugman, 1979). Tất cả những điều này sẽ dẫn đến những thay

đổi trong khoảng cách giới tại các hộ gia đình.

2.6. Khung phân tích

Luận án thực hiện xem xét đồng thời lý thuyết kinh tế học về

phân biệt đối xử (Arrow, 1973; Becker, 1971; Phelps, 1972) và lý

thuyết về khoảng cách giới, mức sinh và tăng trưởng (Galor & Weil,

1996); xem xét ảnh hưởng của thương mại quốc tế đến sự tham gia

vào lực lượng lao động của người nữ qua kênh tiền lương và kênh

việc làm (lý thuyết của Winters (2002), mở rộng của Winters &

Martuscelli (2014), và chứng minh bởi Ederington và cộng sự (2009)

9

đối với thị trường cạnh tranh độc quyền, và Menon & Van der

Meulen Rodgers (2009) đối với thị trường độc quyền nhóm), hoặc

qua cân bằng giá nhân tố sản xuất giữa các quốc gia đối tác và trong

nước khi có chênh lệch về vốn (Chen và cộng sự (2017) mở rộng lý

thuyết của Galor & Weil (1996)).

Hình 2.4. Khung phân tích Nguồn: Tác giả đề xuất

10

CHƯƠNG 3. CHÊNH LỆCH GIỚI TRONG VIỆC LÀM TẠI

CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM

3.1. Giới thiệu

Nội dung chương này giải quyết mục tiêu nghiên cứu thứ

nhất, và đóng góp vào tổng quan nghiên cứu ở ít nhất bốn khía cạnh.

Thứ nhất, nghiên cứu cung cấp bằng chứng về phân biệt đối xử về

giới trong sự tham gia vào lực lượng lao động từ phía cầu trong thị

trường lao động; trong khi đó, hầu hết những nghiên cứu cùng chủ đề

trước đây đều tập trung vào khoảng cách giới trong chênh lệch tiền

lương. Thứ hai, nghiên cứu này bổ sung một tình huống nghiên cứu

ở quốc gia đang phát triển về sự tham gia của phụ nữ trong thị trường

lao động. Việt Nam là một tình huống thú vị vì quốc gia này có tỷ lệ

lao động nữ khá cao và bất bình đẳng giới vẫn còn tồn tại dù tương

đối thấp (IFC, 2017; WEF, 2021). Thứ ba, từ các vòng “khảo sát

doanh nghiệp vừa, nhỏ và siêu nhỏ của Việt Nam” trong giai đoạn

2011 - 2015, nghiên cứu đã xây dựng một dữ liệu bảng, để sử dụng

phân tích. Đây là cách xử lý dữ liệu hiếm được tiến hành trước đây.

Luận án không chỉ xác định những nhân tố ảnh hưởng đến sự tham

gia của lao động nữ, mà còn phân tích nguyên nhân các doanh

nghiệp có khuynh hướng thích sử dụng lao động nam hơn lao động

nữ. Thứ tư, phương pháp phân rã của Cotton (1988) và Oaxaca &

Ransom (1994) được sử dụng trong nghiên cứu này là phù hợp hơn

so với cách tiếp cận truyền thống của Oaxaca - Blinder. Từ đó,

phương pháp này không chỉ giúp đưa ra các ước lượng chính xác hơn

về các thành phần của chênh lệch, mà còn mô hình hóa trạng thái

thực của các tác động (Cotton, 1988).

11

3.2. Phương pháp và dữ liệu nghiên cứu

3.2.1. Xác định các nhân tố ảnh hưởng đến sự tham gia của lao

động nữ

Để nhận diện các nhân tố ảnh hưởng đến sự tham gia của nữ

giới vào lực lượng lao động, nghiên cứu sử dụng phương pháp

Feasible Generalized Least Squares (FGLS). Mô hình ước lượng có

dạng như sau:

𝑛 𝐹𝐿𝐹𝑃𝑖𝑡 = 𝛼 + ∑ 𝑗=1 Trong đó: 𝐹𝐿𝐹𝑃 là biến phụ thuộc thể hiện sự tham gia của

(7.1) 𝛽𝑗𝑋𝑗𝑖𝑡 + 𝜀𝑖𝑡

lao động nữ; đo lường bằng hai cách (số lượng lao động nữ và tỷ lệ

lao động nữ trên tổng số lao động);

j là biến giải thích thứ j; n là tổng số biến giải

thích; i là doanh nghiệp thứ i, t là năm (tương ứng năm 2011, 2013,

và 2015);

𝑋 là các biến giải thích, bao gồm: hoạt động xuất

khẩu, vốn bình quân lao động, đặc điểm ngành nghề, quy mô doanh

nghiệp và thời gian hoạt động, chế độ đãi ngộ lao động, giới tính và

vốn xã hội của người chủ sở hữu hoặc quản lý doanh nghiệp.

3.2.2. Ước lượng mức độ phân biệt đối xử với lao động nữ bằng

phương pháp phân rã

Luận án áp dụng phương pháp của Cotton (1988) và Oaxaca

& Ransom (1994) để so sánh sự tham gia của lao động nữ giữa

doanh nghiệp thuộc nhóm ngành thâm dụng lao động nữ và doanh

nghiệp thuộc nhóm ngành thâm dụng lao động nam; với các ước

(7.2)

𝐹 + 𝜀𝑖𝑡 𝐹 𝑀 𝑀 + 𝜀𝑖𝑡

𝐹 = 𝛼𝐹 + ∑ 𝑛 𝑗=1 𝑛 𝑀 = 𝛼𝑀 + ∑ 𝑗=1

(7.3) lượng tương tự phương trình (7.1) đối với mỗi nhóm cụ thể như sau: 𝐹𝑋𝑗𝑖𝑡 𝛽𝑗 𝑀𝑋𝑗𝑖𝑡 𝛽𝑗 𝐹𝐿𝐹𝑃𝑖𝑡 𝐹𝐿𝐹𝑃𝑖𝑡

12

Trong đó: Chỉ số trên F thể hiện doanh nghiệp thuộc nhóm ngành

thâm dụng lao động nữ, chỉ số trên M thể hiện doanh nghiệp thuộc

nhóm ngành thâm dụng lao động nam.

Từ (7.2) và (7.3) cho trước, ta có phần khác biệt trong sự

𝑗

𝑀 𝑀𝑋̅𝑗𝑖𝑡

𝐹 𝐹𝑋̅𝑗𝑖𝑡

. tham gia của lao động nữ được giải thích bởi hồi quy là ∑ 𝛽𝑗 ∑ 𝛽𝑗 𝑗 Với giả định doanh nghiệp thuộc nhóm ngành thâm dụng lao

𝐹(

𝐹(7.4)

𝑗

động nam là nhóm có phân biệt đối xử trong tuyển dụng lao động nữ,

𝐹) + ∑ 𝑋̅𝑗

𝑀 − 𝑋̅𝑗

𝐹𝑋̅𝑗𝑖𝑡 𝐹

− ∑ 𝛽𝑗 𝑗

𝑗

thì phần khác biệt giải thích được này bao gồm cả khác biệt do hệ số, 𝐹; và khác biệt trong giá trị trung bình của từng nhân tố, 𝑀và 𝛽𝑗 𝛽𝑗 𝑋̅𝑀và 𝑋̅𝐹; cụ thể. 𝑀𝑋̅𝑗𝑖𝑡 𝑀 ∑ 𝛽𝑗 𝑗

𝑀 − 𝛽𝑗 𝛽𝑗 𝐹) thể hiện sự khác biệt “do đặc 𝐹) thể hiện sự khác biệt “do hệ

𝑗

𝑋̅𝑗 𝑀( = ∑ 𝛽𝑗 𝑗 𝑀 − 𝑋̅𝑗 𝑀( 𝑋̅𝑗 𝑀 − 𝛽𝑗 𝐹( tính” giữa hai nhóm. ∑ 𝑋̅𝑗 𝛽𝑗 số” giữa hai nhóm.

Trong đó: ∑ 𝛽𝑗

Xuất phát từ giả định của Becker (1971) rằng nếu không tồn

tại phân biệt đối xử tại thị trường cạnh tranh hoàn hảo thì các nhóm

đối lập sẽ thay thế hoàn hảo cho nhau. Để tránh tình trạng định giá

sai nhóm có phân biệt đối xử và nhóm không có phân biệt đối xử, kết

𝑗

𝑀(𝛽𝑗

∗( = ∑ 𝛽𝑗 𝑗

hợp với các giả định khác, Cotton (1988) và Oaxaca & Ransom

𝐹) + ∑ 𝑋̅𝑗 𝑀 − 𝑋̅𝑗

𝑀 − (7.5)

𝐹)

𝑋̅𝑗

𝑗

𝑀 − 𝑋̅𝑗

(7.6)

𝑀(

𝑗

𝑋̅𝑗

𝑀 − 𝛽𝑗 𝛽𝑗

(1994) phát triển phương trình (7.4) như sau: 𝑀 𝑀𝑋̅𝑗𝑖𝑡 𝐹 𝐹𝑋̅𝑗𝑖𝑡 − ∑ 𝛽𝑗 ∑ 𝛽𝑗 𝑗 𝑗 ∗ − 𝛽𝑗 𝐹( ∗) + ∑ 𝑋̅𝑗 𝛽𝑗 𝛽𝑗 𝑗 𝛽∗ = 𝑓𝑀𝛽𝑀 + 𝑓𝐹𝛽𝐹 Với: Trong đó: 𝑓𝑀 và 𝑓𝐹 là tỷ lệ tham gia vào thị trường lao động của nam và nữ hàng năm bình quân giai đoạn 2009 - 2018 tại Việt 𝐹) là sự khác biệt do đặc tính của hai nhóm khi ∗( Nam. ∑ 𝛽𝑗 ∗) là những đặc tính được không có phân biệt đối xử. ∑ 𝑋̅𝑗

13

𝐹(

𝑗

∗ − 𝛽𝑗 𝛽𝑗

định giá thấp của các doanh nghiệp ngành thâm dụng lao động nam

(hay còn gọi là “chi phí” của các doanh nghiệp ngành thâm dụng lao 𝐹) là những đặc tính bị định giá cao của động nam). ∑ 𝑋̅𝑗 các doanh nghiệp ngành thâm dụng lao động nữ (tức “lợi thế” của

các doanh nghiệp ngành thâm dụng lao động nữ).

Tuy nhiên, Cotton (1988) và Oaxaca & Ransom (1994) bỏ

qua sự khác biệt do thay đổi hệ số chặn. Để đánh giá đầy đủ phần giải thích bởi phân biệt đối xử, nghiên cứu này tính toán 𝛼𝑀 − 𝛼𝐹, tương tự như cách thực hiện của Blinder (1973).

Tóm lại, nghiên cứu này phân rã chênh lệch giới trong việc

làm thành các thành phần như sau:

R

𝐹)

𝑗

𝑗

𝐹𝑋̅𝑗

𝑀 𝑀𝑋̅𝑗

= E + C + U − (𝛼𝐹 + ∑ 𝛽𝑗 E

)

𝐹)

∗) +

𝑗

𝑀 − 𝛽𝑗

∗ − 𝛽𝑗 𝛽𝑗

C

U

D = toàn bộ sự khác biệt = 𝛼𝑀 + ∑ 𝛽𝑗 = phần khác biệt do đặc tính khác nhau 𝐹 𝑀 − 𝑋̅ ∗(𝑋̅ = ∑ 𝛽𝑗 𝑗 𝑗 𝑗 = phần khác biệt do hệ số khác nhau 𝐹( 𝑀(𝛽𝑗 = CM + CF = ∑ 𝑋̅𝑗 ∑ 𝑋̅𝑗 𝑗 = phần khác biệt không giải thích được = 𝛼𝑀 − 𝛼𝐹 = phần khác biệt do phân biệt đối xử

= C + U

3.2.3. Dữ liệu nghiên cứu

Nghiên cứu này được thực hiện với dữ liệu từ “Khảo sát

doanh nghiệp vừa, nhỏ và siêu nhỏ của Việt Nam” được thực hiện

bởi UNU-WIDER phối hợp với các tổ chức trong và ngoài nước

(gồm: ILSSA, DoE và CIEM). Do đặc điểm của cuộc khảo sát này là

mẫu điều tra năm sau được lặp lại từ mẫu điều tra năm trước, đồng

thời thay thế ngẫu nhiên đối với các đơn vị đã ngừng hoạt động. Dữ

14

liệu khảo sát từng năm sẽ được nối lại thành một bộ dữ liệu tổng hợp

cho cả ba năm, và loại bỏ những doanh nghiệp không được khảo sát

lặp lại

Dữ liệu bảng sử dụng trong chương này bao gồm 1.720

doanh nghiệp với tổng số 5.160 quan sát cho cả 3 năm. Sau đó, để

đánh giá mức độ tác động của các nguyên nhân khác nhau đến khác

biệt trong sự tham gia của lao động nữ, dữ liệu nghiên cứu căn cứ số

lượng lao động nữ trung bình trong từng doanh nghiệp để phân loại

các doanh nghiệp thành hai nhóm, bao gồm: ngành thâm dụng lao

động nữ và ngành thâm dụng lao động nam.

3.3. Kết quả nghiên cứu

Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng phân biệt đối xử về giới trong

việc làm vẫn diễn ra trong các doanh nghiệp Việt Nam. So sánh giữa

doanh nghiệp ngành thâm dụng lao động nam và doanh nghiệp

ngành thâm dụng lao động nữ, phân biệt đối xử đã giải thích 26,11%

sự khác biệt về số lượng lao động nữ; và 87,78% sự khác biệt về tỷ lệ

lao động nữ so với tổng số lao động. Hoạt động xuất khẩu, đầu tư

vào vốn nhân lực, đặc điểm ngành nghề, quy mô và thời gian hoạt

động doanh nghiệp, giới tính và vốn xã hội của người chủ sở hữu

hoặc quản lý doanh nghiệp có ảnh hưởng cùng chiều với lao động nữ

trong doanh nghiệp; ngược lại, chế độ đãi ngộ lao động và vốn bình

quân lao động lại thể hiện tương quan ngược chiều.

15

CHƯƠNG 4. THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ VÀ SỰ THAM GIA

CỦA LAO ĐỘNG NỮ TẠI CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM

4.1. Giới thiệu

Nội dung chương này giải quyết mục tiêu nghiên cứu thứ

hai, và đóng góp vào chủ đề phân biệt đối xử về giới ở hai khía cạnh:

Thứ nhất, trong khi với hầu hết nghiên cứu trước đây tập trung vào

vấn đề khoảng cách giới về tiền lương, trọng tâm của nghiên cứu này

là việc làm. Thứ hai, nghiên cứu đưa ra bằng chứng về sự khác biệt

giữa các doanh nghiệp có hoặc không có hoạt động xuất khẩu, và

giữa các doanh nghiệp có mức độ hoạt động xuất khẩu khác nhau.

4.2. Phương pháp và dữ liệu nghiên cứu

4.2.1. Dữ liệu nghiên cứu

Nghiên cứu này được thực hiện với dữ liệu từ “Khảo sát

doanh nghiệp vừa, nhỏ và siêu nhỏ” của Việt Nam được thực hiện

bởi UNU-WIDER phối hợp với các tổ chức trong và ngoài nước.

Mẫu điều tra năm sau được lặp lại từ mẫu điều tra năm trước, đồng

thời thay thế ngẫu nhiên đối với các tổ chức đã ngừng hoạt động. Tác

giả lọc ra các doanh nghiệp được khảo sát trong cả ba năm; kết quả

bao gồm 1.720 doanh nghiệp được khảo sát lặp lại và 1.749 doanh

nghiệp thay thế mới.

Để phân tích chi tiết hơn về tác động của việc mở rộng hoạt

động xuất khẩu, các doanh nghiệp được khảo sát lặp lại sẽ được phân

loại thành bốn nhóm: (1) doanh nghiệp xuất khẩu thường xuyên -

doanh nghiệp xuất khẩu trong cả ba năm được khảo sát; (2) doanh

nghiệp xuất khẩu tương đối thường xuyên - doanh nghiệp xuất khẩu

hai trong số ba năm được khảo sát; (3) doanh nghiệp xuất khẩu ít

thường xuyên - doanh nghiệp xuất khẩu trong ít nhất một năm được

khảo sát; và (4) doanh nghiệp không xuất khẩu.

16

4.2.2. Phương pháp nghiên cứu

Nghiên cứu ứng dụng phương pháp Propensity Score

Matching (PSM) để ước tính tác động của thương mại quốc tế đến sự

tham gia của lao động nữ, với quy trình được thực hiện tuần tự theo

các bước sau:

Bước 1: Thực hiện hồi quy Probit để nhận diện những nhân

tố quyết định khả năng tham gia hoạt động xuất khẩu của doanh

nghiệp. Phương trình hồi quy được trình bày cụ thể như sau:

𝑛 Pr(𝐸𝑥𝑝𝑜𝑟𝑡𝑖𝑡 = 1) = 𝛽0 + ∑ 𝑗=1 𝑋𝑗𝑖𝑡 + 𝜀𝑖𝑡 Trong đó: 𝐸𝑥𝑝𝑜𝑟𝑡 biểu thị khả năng tham gia hoạt động xuất

(8.1) 𝛽𝑗

khẩu (1 = Doanh nghiệp có hoạt động xuất khẩu; 0 = Doanh nghiệp

không xuất khẩu).

j là biến giải thích thứ j; n là tổng số biến giải

thích; i là doanh nghiệp thứ i, t là năm (tương ứng 2011, 2013, và

2015).

𝑋 đại diện những nhân tố có thể ảnh hưởng đến

cả khả năng tham gia hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp và sự

tham gia của lao động nữ trong doanh nghiệp, bao gồm: vốn bình

quân lao động, đầu tư cho vốn nhân lực, đặc điểm ngành nghề, thời

gian và quy mô hoạt động của doanh nghiệp, chế độ đãi ngộ lao

động, giới tính và vốn xã hội của người chủ sở hữu hoặc quản lý

doanh nghiệp.

Bước 2: Xác định vùng hỗ trợ chung.

Bước 3: Khớp mỗi đối tượng tham gia với một hoặc một số

đối tượng không tham gia, dựa trên điểm xu hướng tương đương khi

so sánh, bằng phương pháp khớp Kernel Matching.

17

Bước 4: Tính toán tác động can thiệp trung bình đối với

nhóm can thiệp (Average effect of Treatment for the Treated – ATT)

𝐴𝑇𝑇𝑡 = 𝐸(𝐹𝐿𝐹𝑃1𝑖𝑡 − 𝐹𝐿𝐹𝑃0𝑖𝑡|𝐸𝑥𝑝𝑜𝑟𝑡𝑖𝑡 = 1)

= 𝐸(𝐹𝐿𝐹𝑃1𝑖𝑡|𝐸𝑥𝑝𝑜𝑟𝑡𝑖𝑡 = 1) − 𝐸(𝐹𝐿𝐹𝑃0𝑖𝑡|𝐸𝑥𝑝𝑜𝑟𝑡𝑖𝑡 = 1) (8.2) Trong đó: 𝐹𝐿𝐹𝑃1và 𝐹𝐿𝐹𝑃0 lần lượt đại diện cho sự tham gia của phụ nữ vào lực lượng lao động (đo lường bằng hai cách: (1) số

bằng công thức sau:

lượng lao động nữ; hoặc (2) tỷ lệ lao động nữ trên tổng số lao động).

Quy trình tiến hành đánh giá tác động bằng PSM sẽ được

thực hiện lần lượt như sau: so sánh giữa doanh nghiệp xuất khẩu

thường xuyên và doanh nghiệp không xuất khẩu; hoặc so sánh giữa

doanh nghiệp xuất khẩu tương đối thường xuyên và doanh nghiệp

không xuất khẩu; hoặc so sánh giữa doanh nghiệp xuất khẩu ít

thường xuyên và doanh nghiệp không xuất khẩu.

4.3. Kết quả nghiên cứu

Luận án cho thấy hoạt động tiêu thụ sản phẩm ở thị trường

nước ngoài của doanh nghiệp sẽ giúp làm gia tăng sự tham gia của

lao động nữ. Bên cạnh đó, nếu doanh nghiệp mở rộng hoạt động xuất

khẩu, thì tình trạng phân biệt đối xử về giới trong việc làm sẽ được

cải thiện. Vì vậy, các chính sách giải quyết việc làm và bình đẳng

giới về việc làm trong tương lai nên thực hiện song song với các

chính sách khuyến khích thúc đẩy doanh nghiệp mở rộng thị trường

nước ngoài.

18

CHƯƠNG 5. CHÊNH LỆCH GIỚI TRONG LỰC LƯỢNG

LAO ĐỘNG HỘ GIA ĐÌNH VIỆT NAM: VAI TRÒ CỦA

THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ VÀ MỨC SINH

5.1. Giới thiệu

Nội dung chương này giải quyết mục tiêu nghiên cứu thứ ba.

Đóng góp chính của luận án tại chương này thể hiện ở ít nhất ba khía

cạnh. Thứ nhất, nghiên cứu thực hiện đánh giá đồng thời tác động

của thương mại quốc tế và mức sinh đến khoảng cách giới về tiền

lương và thời gian làm việc tại các hộ gia đình ở một nước đang phát

triển. Thứ hai, chỉ số đo lường mức độ tham gia vào thương mại

quốc tế ở cấp độ hộ gia đình - đề xuất bởi Vo & Nguyen (2021) - đã

khắc phục được nhược điểm của các bộ chỉ số về tự do thương mại

quốc tế trước đây vì đo lường được khả năng đáp ứng của hộ gia

đình trước các cơ hội mới do thương mại quốc tế mang lại (Cavallo

& Frankel, 2008; Squalli & Wilson, 2011). Thứ ba, việc sử dụng

nhiều bộ dữ liệu VHLSS giai đoạn 2002 - 2016 (thời gian ghi nhận

hầu hết các chính sách cải cách thương mại của Việt Nam) giúp so

sánh ảnh hưởng của mở cửa thương mại và mức sinh tại những thời

điểm khác nhau, đặc biệt là trước và sau khủng hoảng toàn cầu năm

2008.

5.2. Phương pháp và dữ liệu nghiên cứu

5.2.1. Đo lường chỉ số mức độ tham gia vào thương mại quốc tế

của hộ gia đình

Bằng dữ liệu về các đối tác thương mại và thuế xuất nhập

khẩu, Vo & Nguyen (2021) đã tính toán chỉ số mức độ tham gia và

thương mại quốc tế của hộ gia đình với các bước thực hiện như sau:

Xây dựng chỉ số cầu lao động do xuất khẩu đối với ngành i

trong năm t (ký hiệu là 𝐿𝐷𝑖𝑡):

19

(9.1) 𝐿𝐷𝑖𝑡 = 𝐸𝑥𝑝𝑜𝑟𝑡𝑖𝑡 − 𝐸𝑥𝑝𝑜𝑟𝑡𝑖𝑡−1

Trong đó: 𝐸𝑥𝑝𝑜𝑟𝑡𝑖𝑡 là giá trị xuất khẩu của ngành i trong năm t

𝐸𝑥𝑝𝑜𝑟𝑡𝑖𝑡−1là giá trị xuất khẩu của ngành i trong năm t – 1 Tất cả các hộ gia đình đều giống nhau đối với cầu lao động

trong xuất khẩu của ngành i. Tuy nhiên, quyết định của hộ gia đình

có tham gia vào thị trường lao động hay không tùy thuộc vào khả

năng đáp ứng của họ trước cơ hội được tạo bởi tự do hóa thương

mại. Ngoài ra, khoảng cách từ nhà họ đến khu vực thành thị - nơi xảy

ra hầu hết các hoạt động thương mại - có thể tác động đến quyết định

này. Do đó, Vo & Nguyen (2021) đã lấy trọng số cầu lao động bằng

tỷ lệ thành viên hộ hoạt động trong ngành i và khoảng cách từ hộ đến

khu vực thành thị. Các cú sốc thương mại quốc gia được chuyển hóa

thành cú sốc thương mại của hộ gia đình, Vo & Nguyen (2021) đề

𝑖

𝑊𝑜𝑟𝑘𝑒𝑟𝑖ℎ𝑡 𝑇𝑜𝑡𝑎𝑙𝑊𝑜𝑟𝑘𝑒𝑟ℎ𝑡

1 𝐷𝑖𝑠𝑡𝑎𝑛𝑐𝑒ℎ𝑡

(9.2) xuất đây là chỉ số mức độ tham gia vào thương mại quốc tế của hộ gia đình tính theo giá trị xuất khẩu (ký hiệu là 𝐻𝐻𝐸𝑥𝑝𝑜𝑠𝑢𝑟𝑒𝐸𝑋ℎ𝑡): 𝐻𝐻𝐸𝑥𝑝𝑜𝑠𝑢𝑟𝑒𝐸𝑋ℎ𝑡 = ∙ ∑ 𝐿𝐷𝑖𝑡 ∙

Trong đó: 𝐷𝑖𝑠𝑡𝑎𝑛𝑐𝑒ℎ𝑡 là khoảng cách từ hộ gia đình h đến khu vực thành trị trong năm t; 𝑊𝑜𝑟𝑘𝑒𝑟𝑖ℎ𝑡 là số thành viên hộ gia đình h hoạt động trong ngành i trong năm t; 𝑇𝑜𝑡𝑎𝑙𝑊𝑜𝑟𝑘𝑒𝑟ℎ𝑡 là tổng số thành viên của hộ gia đình h trong năm t

Ngoài ra, Vo & Nguyen (2021) còn sử dụng thuế quan để đại

𝑊𝑜𝑟𝑘𝑒𝑟𝑖ℎ𝑡 𝑇𝑜𝑡𝑎𝑙𝑊𝑜𝑟𝑘𝑒𝑟ℎ𝑡

1 𝑇𝑎𝑟𝑖𝑓𝑓𝑀𝐹𝑁𝑖

1 𝐷𝑖𝑠𝑡𝑎𝑛𝑐𝑒ℎ𝑡

(9.3) ∙ diện chỉ số mức độ tham gia vào thương mại quốc tế của hộ gia đình (ký hiệu là 𝐻𝐻𝐸𝑥𝑝𝑜𝑠𝑢𝑟𝑒𝑇𝑅ℎ𝑡): 𝐻𝐻𝐸𝑥𝑝𝑜𝑠𝑢𝑟𝑒𝑇𝑅ℎ𝑡 = ∙ ∑ 𝑖

Trong đó: 𝑇𝑎𝑟𝑖𝑓𝑓𝑀𝐹𝑁𝑖là giá trị trung bình của thuế suất tối huệ quốc áp dụng cho mặt hàng ngành i của Việt Nam xuất khẩu

20

sang Trung Quốc, Mỹ, Nhật Bản và Hàn Quốc - bốn đối tác thương

mại lớn của Việt Nam giai đoạn 2010 - 2020.

5.2.2. Phương pháp hồi quy

Do biến mức sinh - một trong hai biến giải thích chính của

mô hình - bị nội sinh, nghiên cứu này sử dụng kết hợp hồi quy

Instrumental Variable và phương pháp Tobit, phù hợp dữ liệu nghiên

cứu bị lọc (censored) và lớn hơn hoặc bằng 0, nhằm xem xét tác

động của thương mại quốc tế và/hoặc mức sinh đến khoảng cách giới

trong lực lượng lao động hộ gia đình.

𝐹𝐸𝑅𝑇𝐼𝐿𝐼𝑇𝑌ℎ𝑡 = 𝛼 + 𝛽1𝐼𝑉1ℎ𝑡 + 𝛽2𝐼𝑉2ℎ𝑡 + 𝛽3𝑇𝑅𝐴𝐷𝐸ℎ𝑡 + 𝛽4𝑍ℎ𝑡 + 𝜀1ℎ𝑡(9.4) Trong đó: FERTILITY là mức sinh, tính bằng (i) số lượng con (đại diện bằng biến 𝐹𝐸𝑅𝑇𝐼𝐿𝐼𝑇𝑌1), và (ii) số lượng con dưới 6 tuổi (đại diện bằng biến 𝐹𝐸𝑅𝑇𝐼𝐿𝐼𝑇𝑌2). Đây là các biến bị nội sinh, được giải quyết bằng hai biến công cụ, là tổ hợp giới tính các con và giới tính của con đầu, để xử lý nội sinh. Như vậy, 𝐼𝑉1 và 𝐼𝑉2 lần lượt đại diện cho hai biến công cụ nêu trên trong mô hình hồi quy giai

Mô hình hồi quy giai đoạn 01 có dạng như sau:

đoạn 01.

TRADE là chỉ số mức độ tham gia vào thương mại

quốc tế của hộ gia đình; với hai cách đo lường cụ thể, bao gồm: (1)

chỉ số tham gia vào thương mại quốc tế của của hộ gia đình tính theo

giá trị hàng hóa xuất khẩu (đại diện bằng biến HHExposureEX);

hoặc (2) chỉ số tham gia vào thương mại quốc tế của hộ gia đình tính

theo thuế quan (đại diện bằng biến HHExposureTR).

Z là các biến kiểm soát bao gồm: tuổi và bình

phương tuổi của người vợ và người chồng (Coen-Pirani và cộng sự,

2010), trình độ học vấn của người vợ (Besamusca và cộng sự, 2015;

Coen-Pirani và cộng sự, 2010; Hare, 2016; Keats, 2018; Lincove,

21

2008), trình độ học vấn của người chồng (Coverman, 1985;

Spierings và cộng sự, 2010), sống cùng với người có thể chăm hộ

con (ví dụ như ông bà, hoặc người giúp việc) (Guo và cộng sự, 2018;

Heath, 2017), thu nhập của người chồng (Angrist & Evans, 1998;

Chiappori, 1992; Kleven và cộng sự, 2009; Malathy, 1994), và nghề

nghiệp của người chồng (nhằm tránh tình trạng bỏ sót biến, do nghề

nghiệp người chồng có thể có tương quan đối với thu nhập của họ).

h là hộ gia đình thứ h, t là năm (tương ứng 2002,

2004, 2006, 2008, 2010, 2012, 2014 và 2016).

Mô hình hồi quy giai đoạn 02 có dạng như sau: 𝐺𝐺ℎ𝑡 = 𝛼 + 𝛽1𝐹𝐸𝑅𝑇𝐼𝐿𝐼𝑇𝑌ℎ𝑡 + 𝛽2𝑇𝑅𝐴𝐷𝐸ℎ𝑡 + 𝛽3𝑍ℎ𝑡 + 𝜀ℎ𝑡 (9.5) Trong đó: GG là biến phụ thuộc thể hiện khoảng cách giới trong sự

tham gia vào lực lượng lao động của nữ giới, được đo lường bằng hai

cách là (i) tỷ lệ tiền lương thực tế theo giờ của chồng so với vợ (đại diện bằng biến 𝐺𝐺1), (ii) tỷ lệ giờ làm việc trung bình trong vòng 30 ngày gần thời điểm khảo sát nhất của chồng so với vợ (đại diện bằng biến 𝐺𝐺2); để xem xét hai kênh tác động của thương mại quốc tế đến việc làm và tiền lương theo Winters (2002). Tiền lương và số giờ làm

việc cũng là hai đơn vị đo lường phổ biến (tham khảo Albanesi &

Olivetti (2016); Attanasio và cộng sự (2008);

Do nghiên cứu xem xét một cách độc lập hai biến phụ thuộc

và hai biến giải thích chính liên quan đến thương mại quốc tế, nên sẽ

có bốn mô hình hồi quy được trình bày. Phương trình (9.5) được viết

lại một trong bốn cách như sau: 𝐺𝐺1ℎ𝑡 = 𝛼 + 𝛽1𝐹𝐸𝑅𝑇𝐼𝐿𝐼𝑇𝑌ℎ𝑡 + 𝛽2𝐻𝐻𝐸𝑥𝑝𝑜𝑠𝑢𝑟𝑒𝐸𝑋ℎ𝑡 + 𝛽3𝑍ℎ𝑡 + 𝜀ℎ𝑡 (9.6) 𝐺𝐺1ℎ𝑡 = 𝛼 + 𝛽1𝐹𝐸𝑅𝑇𝐼𝐿𝐼𝑇𝑌ℎ𝑡 + 𝛽2𝐻𝐻𝐸𝑥𝑝𝑜𝑠𝑢𝑟𝑒𝑇𝑅ℎ𝑡 + 𝛽3𝑍ℎ𝑡 + 𝜀ℎ𝑡 (9.7) 𝐺𝐺2ℎ𝑡 = 𝛼 + 𝛽1𝐹𝐸𝑅𝑇𝐼𝐿𝐼𝑇𝑌ℎ𝑡 + 𝛽2𝐻𝐻𝐸𝑥𝑝𝑜𝑠𝑢𝑟𝑒𝐸𝑋ℎ𝑡 + 𝛽3𝑍ℎ𝑡 + 𝜀ℎ𝑡 (9.8) 𝐺𝐺2ℎ𝑡 = 𝛼 + 𝛽1𝐹𝐸𝑅𝑇𝐼𝐿𝐼𝑇𝑌ℎ𝑡 + 𝛽2𝐻𝐻𝐸𝑥𝑝𝑜𝑠𝑢𝑟𝑒𝑇𝑅ℎ𝑡 + 𝛽3𝑍ℎ𝑡 + 𝜀ℎ𝑡 (9.9)

22

5.2.3. Dữ liệu nghiên cứu

Nghiên cứu sử dụng bộ dữ liệu “Điều tra mức sống dân cư”

được tiến hành bởi Tổng cục Thống kê Việt Nam với sự hỗ trợ của

UNDP và WB. Để phù hợp với lý thuyết của Galor & Weil (1996)

khi xem xét quyết định của hộ gia đình giữa việc sinh con và cung

lao động, dữ liệu được lọc chỉ giữ lại những hộ gia đình có đầy đủ vợ

và chồng. Mặt khác, nhiều cá nhân trong mẫu có làm việc, nhưng lại

bị thiếu dữ liệu về tiền lương. Do đó, nghiên cứu sử dụng phương

pháp Multiple Imputation (MI) điền các giá trị bị khuyết với 20 vòng

lặp, để có được bộ dữ liệu đầy đủ.

Từ bộ dữ liệu điều tra mức sống dân cư giai đoạn 2002 –

2016, sau khi thực hiện MI, nghiên cứu tính toán tất cả các biến được

sử dụng trong mô hình; ngoại trừ biến thương mại quốc tế sử dụng

dữ liệu được cung cấp bởi Vo & Nguyen (2021).

5.3. Kết quả nghiên cứu

Luận án cho thấy việc có con nhỏ ngăn cản người nữ tham

gia vào thị trường lao động, mặc dù thương mại quốc tế đã tạo ra

nhiều việc làm hơn cho họ. Tỷ lệ thời gian làm việc của người vợ so

với chồng chỉ tăng lên nếu con đã qua 6 tuổi. Khi đó, cả thương mại

quốc tế và mức sinh đều làm giảm khoảng cách giới về thời gian làm

việc. Ngoài ra, những yếu tố khác có tác động đến sự tham gia của

lao động nữ có thể kể đến là thu nhập và học vấn của người chồng,

và việc sống chung với người có khả năng hỗ trợ chăm sóc trẻ khi

người mẹ đi làm.

23

CHƯƠNG 6. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

6.1. Đề xuất gợi ý một số chính sách

Kết quả nghiên cứu tại chương 3 hàm ý rằng các giải pháp

trong tương lai nên tập trung vào vấn đề tăng cường xúc tiến, mở

rộng thị trường xuất khẩu cho doanh nghiệp; cải thiện hiệu quả hoạt

động của các hiệp hội ngành nghề, với các giải pháp thu hút thêm

nhiều hội viên mới. Hơn nữa, các ưu đãi hỗ trợ doanh nghiệp mở

rộng quy mô hoạt động sản xuất kinh doanh cũng mang lại nhiều lợi

ích cho các lao động nữ. Đồng thời, các chính sách nhằm thay đổi

định kiến giới nên được tăng cường; thông qua thực hiện các hoạt

động nâng cao nhận thức bằng các khóa học và các minh chứng cụ

thể về những người đã chống lại được các thiên kiến tiêu cực. Đồng

thời, việc phụ nữ khởi sự kinh doanh cũng góp phần quan trọng trong

tạo thêm nhiều việc làm cho lao động nữ; vì vậy, công tác tăng

cường hỗ trợ tài chính và tập huấn cho các doanh nghiệp do nữ làm

chủ hoặc quản lý là hết sức cần thiết. Bên cạnh đó, kết quả nghiên

cứu tại chương 4 đề xuất các chính sách giải quyết việc làm và bình

đẳng giới về việc làm trong tương lai nên được thực hiện song song

với các chính sách khuyến khích thúc đẩy doanh nghiệp tăng cường

tham gia hoạt động thương mại quốc tế.

Cuối cùng, kết quả nghiên cứu tại chương 5 cho thấy các giải

pháp hỗ trợ cho phụ nữ trong hoàn thành thiên chức làm mẹ cũng

như tái sản xuất sức lao động cần được tiếp tục thúc đẩy; trong đó,

chú trọng các chương trình nuôi dưỡng trẻ em và nhà giữ trẻ với giá

cả phải chăng và dễ tiếp cận. Ngoài ra, một số hoạt động can thiệp

nhằm khuyến khích phân chia việc chăm sóc gia đình và gánh nặng

công việc cần được triển khai. Mặt khác, cần tạo điều kiện cho nữ

giới và trẻ em gái tiếp cận giáo dục và được đào tạo kỹ năng.

24

6.2. Hạn chế và hướng nghiên cứu tiếp theo

Một trong những hạn chế của luận án là về khung thời gian

phân tích và số liệu thu thập trong quá trình thực hiện. Cụ thể

chương 3 có dữ liệu mới nhất là năm 2015. Điều này tuy không ảnh

hưởng đến kết quả nghiên cứu và hàm ý chính sách đề xuất từ nghiên

cứu; nhưng các khuyến nghị đưa ra có thể lạc hậu so với thực tế.

Đồng thời, nội dung nghiên cứu tại chương 4 chỉ mới xem xét được

việc duy trì hoạt động xuất khẩu qua tối đa ba thời kỳ; trong khi, việc

sử dụng bộ dữ liệu có thời gian dài hơn sẽ giúp kiểm định tốt hơn.

Mặt khác, trên cơ sở tham khảo các nghiên cứu trước đây,

luận án lập luận giả thuyết rằng tỷ lệ lao động nữ trên tổng số lao

động sẽ dự đoán được tình trạng phân biệt đối xử về việc làm trong

doanh nghiệp; tương tự, tỷ lệ thời gian làm việc giữa chồng và vợ

phản ánh vấn đề phân công lao động trong hộ gia đình. Tuy nhiên,

việc lập luận này tồn tại nhiều hạn chế. Vì không tìm được những

công cụ đo lường tốt hơn, nên luận án này vẫn sử dụng những biến

phụ thuộc trên, như cách thực hiện của các tác giả trước đây, nhưng

sẽ hết sức cẩn trọng khi đưa ra các nhận định; đồng thời, lưu ý các

nghiên cứu trong thời gian tới lựa chọn biến phù hợp hơn.

Bên cạnh đó, các nghiên cứu chủ đề phân công lao động

trong hộ gia đình tập trung phân tích ba khía cạnh quan trọng dẫn

đến tình trạng bất bình đẳng giữa vợ và chồng, bao gồm sự phụ thuộc

nguồn lực, thời gian sẵn có và tư tưởng về giới (Braun và cộng sự,

2008; Calasanti & Bailey, 1991). Tuy nhiên, do hạn chế về dữ liệu,

vấn đề tư tưởng về giới chưa được đề cập đến trong nghiên cứu này.

Vì vậy, gợi ý hướng nghiên cứu tương lai là mở rộng phân tích

khoảng cách giới về tiền lương và thời gian làm việc trong hộ gia

đình trên cơ sở xem xét những nhận thức liên quan đến giới.