MỞ ĐẦU

Việt Nam đang trên con đường đổi mới, thực hiện công nghiệp hoá -

hiện đại hoá đất nước để theo kịp và hội nhập kinh tế với các nước trên thế

giới. Điều này đòi hỏi phải có một nguồn nhân lực dồi dào đủ năng lực trí tuệ,

xã hội phải có những con người có trình độ học vấn, hiểu biết mọi lĩnh vực.

Đào tạo ra những con người có sức khỏe, có trình độ cao về khoa học kĩ thuật

và công nghệ đáp ứng được yêu cầu của xã hội là nhiệm vụ của ngành giáo

dục. Vì thế nghị quyết TW2 khóa VIII năm 1996 và các nghị quyết, văn kiện

của Đảng trong các kì đại hội đã khẳng định “Giáo dục và đào tạo là nhân tố

quyết định tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội, đầu tư cho giáo dục và đào

tạo là đầu tư cho phát triển” do đó mục tiêu của giáo dục và đào tạo ở nước ta

đã xác định là “Đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức,

tri thức, sức khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập

dân tộc và chủ nghĩa xã hội, hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất

và năng lực công dân, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [Điều 2-

luật giáo dục 2012]. Vì vậy việc nâng cao sức khỏe thể chất cho thanh niên sẽ

góp phần làm tăng chất lượng nguồn nhân lực nhằm đáp ứng nhu cầu ngày

càng cao của xã hội.

“Sức khỏe là một trạng thái hoàn toàn thoải mái về thể chất, tinh thần

và xã hội chứ không phải chỉ là tình trạng không có bệnh hoặc tật nguyền”

(WHO). Như vậy, một cơ thể khỏe mạnh trước hết phải có thể chất tốt, sức

khỏe về mặt thể chất phản ánh một phần thực trạng sức khỏe nói chung và đặc

biệt liên quan chặt chẽ đến khả năng lao động và thẩm mỹ của con người. Do

đó vấn đề phát triển thể chất ở lứa tuổi học sinh, sinh viên là một trong những

vấn đề được quan tâm trong chiến lược phát triển nguồn nhân lực con người

của mỗi quốc gia.

1

“Giáo dục thể chất là môn học chính khoá thuộc chương trình giáo dục

nhằm cung cấp kiến thức, kỹ năng vận động cơ bản cho người học thông qua

các bài tập và trò chơi vận động, góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục toàn

diện cho học sinh, sinh viên” [Điều 20, Mục 2 - Luật Thể dục, thể thao 2006].

Để đạt được những mục tiêu này, vai trò cũng như chất lượng của giáo viên

giáo dục thể chất trong nhà trường là một yếu tố hết sức quan trọng, nhiệm vụ

của giáo viên giảng dạy môn Giáo dục thể chất là hướng dẫn học sinh tham

gia các bài tập thể dục nhằm nâng cao sức khỏe đồng thời phát hiện, đào tạo

các vận động viên năng khiếu.

Từ sau năm 1975 đến nay đã có một số tác giả tiến hành nghiên cứu trên

đối tượng sinh viên chuyên ngành Thể dục thể thao. Tuy nhiên những nghiên cứu

dọc về hình thái - thể lực của sinh viên sư phạm Thể dục thể thao giai đoạn từ 18

đến 21 tuổi chưa nhiều.

Xuất phát từ thực tế trên chúng tôi đã lựa chọn nghiên cứu đề tài

“Nghiên cứu sự phát triển cơ thể sinh viên khóa 43 trường Đại học sư

phạm TDTT Hà Nội từ năm 2010-2013” nhằm đạt các mục tiêu sau:

- Xác định thực trạng một số chỉ số hình thái - thể lực và chức năng

sinh lý của sinh viên K43 Trường Đại học sư phạm Thể dục thể thao Hà Nội

từ năm 2010-2013.

- Đánh giá mức độ phát triển thể chất của sinh viên K43 trường Đại học

sư phạm Thể dục thể thao Hà Nội sau bốn năm học tập.

2

CHƢƠNG 1

TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU HÌNH THÁI - THỂ LỰC, CHỨC NĂNG SINH

LÍ CƠ THỂ NGƢỜI

1.1.1. Những nghiên cứu trên thế giới

Hình thái và thể lực là những đặc điểm sinh học quan trọng, phản ánh

một phần thực trạng sức khỏe và đặc biệt liên quan chặt chẽ đến khả năng lao

động của con người. Vì vậy, đã từ lâu hình thái - thể lực được các nhà y học,

hình thái học quan tâm nghiên cứu.

Quyển sách đầu tiên viết về sự tăng trưởng chiều cao ở người

(Wachstum der Menschen in die Lange) của A.Stoeller được xuất bản ở

Magdeburg (Đức) vào năm 1729. Tuy nhiên, trong cuốn sách này chưa có các

số liệu đo đạc cụ thể. Nghiên cứu về sự tăng trưởng ở người thực sự được

trình bày trong luận án tiến sĩ của Christian Friedrich Jumpert ở Halle (Đức)

năm 1754, trong đó trình bày các số liệu đo đạc về cân nặng, chiều cao đứng

và các chỉ tiêu sinh học khác của một loạt bé trai, bé gái và thanh niên từ 1-25

tuổi tại các trại mồ côi Hoàng gia ở Berlin và một số nơi khác trên nước Đức.

Công trình này được xem là nghiên cứu cắt ngang đầu tiên về tăng trưởng ở trẻ

em [dẫn theo 30].

Nghiên cứu dọc đầu tiên về chiều cao đứng được thực hiện bởi

Philibert Guénneau de Monbeilard trên con trai của mình từ năm 1759 đến

năm 1777. Trong 18 năm liên tục, cậu bé được đo 2 lần mỗi năm, cách nhau 6

tháng. Đây là một trong số những nghiên cứu tốt nhất đã được tiến hành cho

đến nay và được trích dẫn trong các nghiên cứu về tăng trưởng trong suốt thế

kỷ XIX [dẫn theo 17].

3

Người đặt nền móng cho nhân trắc học hiện đại là nhà nhân trắc học

người Đức Rudolf Martin. Vào năm 1919, Rudolf Martin đã đề xuất các

phương pháp và dụng cụ đo đạc kích thước cơ thể người một cách hệ thống

qua hai tác phẩm “Giáo trình về nhân học” và “Kim chỉ nam đo đạc cơ thể và

xử lí thống kê” [dẫn theo 22]. Từ đó đến nay Nhân trắc học đã trở thành một

môn khoa học độc lập và ngày càng được ứng dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh

vực khác nhau như:tìm hiều các đặc trưng hình thái, chủng tộc của các cộng

đồng người (trong nhân chủng học), xác định những biến đổi hình thái cơ thể,

bệnh lý (trong y học), thiết kế công nghiệp (trong ecgonomi).

Năm 1925, R. Martin đưa ra phương pháp đánh giá mới về thể lực. Ông

lập bảng chuẩn nhiều đặc điểm hình thái cơ thể, đối với mỗi đặc điểm lại chia

làm nhiều loại. Phương pháp này sau đó được Stephenco bổ sung, ông coi

chiều cao đứng, cân nặng và vòng ngực là ba đặc điểm biến đổi độc lập trong

khi thực tế chỉ có chiều cao đứng là biến đổi độc lập còn cân nặng và vòng

ngực thì biến đổi phụ thuộc vào chiều cao đứng [dẫn theo 12].

Trong những năm 60 của thế kỉ XX,trong chương trình nghiên cứu sinh

học thế giới do UNESSCO chủ trì, nhân trắc học được đặc biệt chú ý và các

dụng cụ đo đạc nhân trắc học đã được chuẩn hóa và sản xuất ở nhiều nước.

Năm 1961, Nold và Volsuski nghiên cứu ảnh hưởng của hoàn cảnh địa lý đến

sự tăng trưởng chiều cao ở trẻ em. Cũng trong thời gian này, Graef và Cone

đã thống kê nhiều số liệu chứng minh rằng tình trạng dinh dưỡng và bệnh tật

ảnh hưởng rõ rệt đến sự gia tăng các kích thước và chỉ số cơ thể, đặc biệt là

chiều cao và cân nặng. Năm 1962, Baskirov đã xuất bản cuốn “Học thuyết về

sự phát triển thể lực con người” trong đó tác giả nêu một số quy luật phát

triển cơ thể dưới ảnh hưởng của những điều kiện sống khác nhau [dẫn theo

44].

4

Năm 1964, F.Vandervael một thầy thuốc người Bỉ đã viết cuốn sách

giáo khoa“Nhân trắc học”và đưa ra những nhận xét toàn diện về các quy luật

phát triển thể lực theo giới tính, lứa tuổi, nghề nghiệp và xây dựng các thang

phân loại thể lực theo các chỉ số đánh giá thể lực với các đặc trưng thống kê

trung bình cộng ( ) và độ lệch chuẩn (SD) [dẫn theo 29].

Cũng giống như chiều cao, cân nặng, vòng ngực là chỉ tiêu thường

được sử dụng trong các nghiên cứu cơ bản về hình thái người. Vòng ngực

được nghiên cứu từ những năm 20 của thế kỷ XIX, đến cuối thế kỉ XIXvòng

ngực trở thành một chỉ tiêu quan trọng để đánh giá thể lực sau chiều cao, cân

nặng.

Việc đánh giá thể lực chỉ dựa trên một trong các chỉ tiêu như cân nặng,

chiều cao đứng hay vòng ngực đều không cho kết quả mong muốn. Vì vậy,

người ta đã hợp nhất nhiều số đo vào một chỉ số chung để đánh giá thể lực.

Ban đầu là những chỉ số dùng 2 kích thước (cân nặng và chiều cao) như chỉ số

Broca, chỉ số Quetelet, chỉ số Kaup, Rohrer và Livi, v.v. sau đó là những chỉ

số được hợp nhất từ 3 kích thước trở lên như chỉ số Pignet, chỉ số Vervaek,

chỉ số Pimo, v.v. Nhìn chung, một chỉ số được xác định từ nhiều thông số

khác nhau thì chỉ số đó càng chính xác nhưng việc đo đạc và tính toán càng

cồng kềnh và phức tạp.

Trong thế kỉ XIX, các công trình nghiên cứu về nhân trắc học còn hạn

chế về số lượng, kích thước chưa thống nhất, phương pháp đo lường và các

tính toán thống kê còn đơn giản.

Trong vòng 50 năm trở lại đây, một số nước trên thế giới đã có nhiều

côngtrình nghiên cứu về nhân trắc học như: Đức, Pháp, Mĩ, Liên Xô, Nhật,

Rumani... Các công trình này đề cập nhiều tới sự tăng trưởng các kích thước

cơ thể và sự phát triển cơ thể của học sinh ở các lứa tuổi. Các nhà khoa học

nhận thấy trong thời gian gần đây, có sự gia tăng về các số đo cơ thể của

5

thanh thiếu niên. Đặc biệt tại các nước phát triển như Anh, Pháp, Mỹ, Nhật

các nhà khoa học đã xác định được một cách đầy đủ, hoàn thiện các chỉ số thể

lực để đánh giá thực trạng và mức tăng trưởng thể lực của dân tộc qua những

giai đoạn khác nhau [53, 56].

Một chỉ tiêu khác được nhiều nhà khoa học quan tâm là huyết áp động

mạch. Huyết áp động mạch được nghiên cứu từ thế kỉ XIX do nhiều tác giả

tiến hành. Huyết áp được Korotkov xác định bằng phương pháp đo gián tiếp,

phương pháp này hiện nay vẫn được dùng rất phổ biến. Kết quả nghiên cứu

của nhiều tác giả cho thấy, huyết áp của nam và nữ từ 5 tuổi trở nên đã có sự

khác biệt rõ, trong đó huyết áp của nam thường cao hơn của nữ và còn chịu

ảnh hưởng nhiều của môi trường sống [54, 55].

1.1.2. Những nghiên cứu tại Việt Nam

Hình thái - thể lực con người Việt Nam được nghiên cứu lần đầu năm

1875 do Mondiere thực hiện trên trẻ em. Vào những năm 30 của thế kỉ XX tại

Viện Viễn Đông Bác Cổ, sau đó là trường Đại học Y khoa Đông Dương (1936-

1944) đã xuất hiện một số công trình nghiên cứu về vấn đề này [dẫn theo 41].

Ở Việt Nam, từ lâu một số tác giả như Đỗ Xuân Hợp (1943), Trần Nhật

Úc (1959), Ngô Thế Phương (1960), Nguyễn Quang Quyền (1960-1975) đã

có những nghiên cứu có giá trị về thể lực người Việt Nam trưởng thành. Đặc

biệt, từ sau năm 1975 đã có nhiều công trình nghiên cứu về tầm vóc - thể lực

người Việt Nam trên các nhóm đối tượng như sinh viên, nông dân, công

nhân…với những phương pháp chuẩn xác đã đưa ra các kết quả đáng tin cậy

và có sức thuyết phục phần nào cho thấy sự thay đổi về hình thái, thể lực của

người Việt Nam theo thời gian [dẫn theo 22].

Sau hai Hội nghị về hằng số sinh học năm 1967 và 1972, một tập thể

các tác giả do giáo sư Nguyễn Tấn Gi Trọng chủ biên đã biên soạn cuốn

“Hằng số sinh học người Việt Nam” (1975). Trong công trình này, các tác giả

6

đã tập hợp đầy đủ nhất về các chỉ tiêu nhân trắc ở trẻ em và người trưởng

thành. Đây là công trình nghiên cứu thể hiện những chỉ số hình thái, thể lực

điển hình của người Việt Nam ở mọi lứa tuổi [43].

Năm 1986, cuốn “Atlat Nhân trắc học người Việt Nam trong lứa tuổi

lao động” là công trình nghiên cứu trên người trưởng thành do Giáo sư Võ

Hưng làm chủ biên được xuất bản. Đây là công trình nghiên cứu được tiến hành

từ năm 1981 đến 1984 trên 13.233 người (6.493 nữ và 6.730 nam) ở 15 tỉnh trên

cả ba miền Bắc, Trung, Nam. Năm nhóm tuổi được nghiên cứu là 17-19, 20-29,

30-39, 40-49 và 50-55 tuổi. Kết quả của công trình này được xem như là mẫu

chuẩn thứ hai sau “Hằng số sinh học, 1975”, tuy nhiên đây là công trình ứng

dụng vào ergonomie (thiết kế dụng cụ và nơi làm việc) nên đối tượng nghiên cứu

đa số là công nhân, tập trung chủ yếu là ở nhóm tuổi 30-39 do đó đối tượng ít

nhiều có sự chọn lọc, chưa mang tính đại diện [47].

Năm 1987, trong luận án phó tiến sĩ sinh học “Góp phần nghiên cứu

các đặc điểm hình thái thể lực người Việt lứa tuổi trưởng thành”, Trịnh Hữu

Vách đã nêu lên một số kết luận đáng chú ý trong quá trình nghiên cứu trên

4.510 người Việt và so sánh với 428 người Chill (Lâm Đồng) và người

Mường (Thanh Hóa), trong đó tác giả đặc biệt nhấn mạnh đến tình trạng thiếu

dinh dưỡng về cả chất lượng lẫn số lượng trong thời gian dài đã ảnh hưởng tới

tầm vóc, thể lực của người Việt Nam và hạn chế quy luật gia tăng theo thời

gian [45].

Năm 1979, Nguyễn Thị Đoàn Hương, Lê Tuyết Lan và Cs đã tiến hành

nghiên cứu thể lực của 767 sinh viên (476 nam và 300 nữ) có độ tuổi từ 18-26

của hai trường Đại học ở thành phố Hồ Chí Minh là Trường Đại học Y Dược

và Đại học Sư phạm kỹ thuật Thủ Đức. Kết quả cho thấy, có sự khác biệt về

một số chỉ số thể lực giữa sinh viên miền Nam so với “Hằng số sinh học,

1975”. Các số liệu cũng cho thấy có sự tăng trưởng vượt trội vào giai đoạn 18

7

lên 19 tuổi (từ năm thứ nhất lên năm thứ hai đại học) của một số chỉ số thể lực

[23].

Năm 1980-1990, Thẩm Thị Hoàng Điệp tiến hành nghiên cứu dọc trên

101 học sinh phổ thông ở Hà Nội từ 6-17 tuổi với 31 chỉ tiêu sinh học và đưa

ra nhận xét: chiều cao phát triển mạnh nhất lúc 11-12 tuổi ở nữ và 13-15 tuổi

ở nam, cân nặng phát triển mạnh nhất ở nữ lúc 13 tuổi và ở nam lúc 14 tuổi,

có sự gia tăng về chiều cao và cân nặng ở lứa tuổi học sinh. Quy luật phát

triển các đoạn chi phù hợp quy luật phát triển chiều cao, học sinh thành phố

có chiều cao lớn hơn so với học sinh vùng nông thôn [12].

Năm 1991, Đào Huy Khuê nghiên cứu cắt ngang gần 50 chỉ tiêu nhân

trắc và mô tả của 1.478 học sinh phổ thông 6 – 17 tuổi ở thị xã Hà Đông, bao

gồm các đặc điểm hình thái, bề dày lớp mỡ dưới da và đặc điểm phát dục. Tác

giả nhận thấy: hầu hết các chỉ tiêu hình thái tăng dần theo tuổi nhưng nhịp độ

tăng trưởng không đồng đều. Từ 6-9 tuổi các kích thước cơ thể của nam và

của nữ không có sự khác biệt rõ rệt. Từ 10-15 tuổi kích thước của nữ thường

vượt nam và đến 16-17 tuổi các kích thước của nam lại vượt lên trước nữ.

Ông cũng rút ra nhận xét, có sự gia tăng về chiều cao của người Việt Nam so

với các thập kỉ trước [24].

Năm 1995, Nguyễn Yên và cộng sự đã nghiên cứu trên 2.033 người

thuộc các lứa tuổi 1-5 và 18-55 tuổi của 3 nhóm dân tộc Việt, Mường, Dao ở

tỉnh Hà Tây. Tác giả kết luận tầm vóc, thể lực của người Việt tốt nhất, sau đến

người Mường và cuối cùng là người Dao [dẫn theo 30].

Nguyễn Hữu Chỉnh, Nguyễn Thế Hùng (1996) khi nghiên cứu, so sánh

thể lực của 495 sinh viên Đại học Y Hải Phòng (264 nam và 231 nữ) trong ba

năm, từ 1992-1994 đã kết luận: Thể lực của sinh viên Đại học Y Hải Phòng

trong các năm 1992-1994 có cải thiện so với thể lực người Việt Nam trưởng

8

thành trong “Hằng số sinh học, 1975”, thể lực của nam sinh viên phát triển

mạnh hơn nữ sinh viên cùng lứa tuổi [19].

Cũng theo Nguyễn Hữu Chỉnh,sinh viên lớp tuổi 18-25 ở khu vực Kiến

An, thành phố Hải Phòng vẫn có sự tăng trưởng. Song khác biệt về các chỉ số

sinh học giữa các lớp tuổi không có ý nghĩa thống kê [8].

Trong hai năm 1998 và 1999, Vũ Thị Thanh Bình và Cs đã nghiên cứu

các chỉ tiêu hình thái, thể lực và chức năng sinh lý của sinh viên K30 trường

Cao đẳng sư phạm thể dục TW1 và kết luận: sinh viên trường Cao đẳng sư

phạm thể dục TW1 có thể lực tốt hơn sinh viên các trường đại học khác và

thuộc loại tốt so với thanh niên Việt Nam nói chung. Những khác biệt này là

do đặc trưng về thể lực của sinh viên năng khiếu Thể dục thể thao và tác động

của việc rèn luyện thể chất ở cường độ cao [2, 3].

Năm 2003, Mai Văn Hưng nghiên cứu trên sinh viên một số trường đại

học phía Bắc Việt Nam cho thấy, vẫn có sự tăng trưởng về hình thái và một số

chỉtiêu sinh lý ở độ tuổi 18-25. Chiều cao đứng của nam đạt giá trị cao nhất là

năm 23 tuổi và nữ là năm 21 tuổi, sinh viên Đại học Sư phạm Hà Nội II có

chiều cao và trọng lượng trung bình lớn nhất, tiếp đó là sinh viên Đại học Sư

phạm Hà Nội I và thấp nhất là sinh viên Đại học Hồng Đức.Tác giả giải thích

sự khác biệt này là do điều kiện kinh tế - xã hội. Điểm đáng chú ý là các chỉ

tiêu về chức năng của hệ tuần hoàn và hệ hô hấp của sinh viên ở 3 trường

không có sự khác biệt [22].

Năm 2001, dự án điều tra, đánh giá thực trạng thể chất và xây dựng hệ

thống tiêu chuẩn thể lực chung của người Việt Nam do Ủy ban khoa học Thể

dục thể thao chủ trì đã tiến hành điều tra giai đoạn I với 13 kích thước hình

thái và chỉ số thể lực được nghiên cứu trên 47.846 người Việt Nam từ 6-20

tuổi ở cả ba miền Bắc, Trung, Nam trong đó có 8.400 sinh viên có độ tuổi từ

18-20 thuộc 17 trường Đại học, Cao đẳng, Trung học chuyên nghiệp. Kết quả

9

điều tra cho thấy, chiều cao trung bình của nam, nữ 20 tuổi tại thời điểm năm

2001 đã tăng lần lượt là 6,14 cm và 4,88 cm so với số liệu về chiều cao trong

“Hằng số sinh học, 1975”. Cân nặng trung bình cũng tăng lần lượt là 8,19 kg

và 3,02 kg. Trên cơ sở kết quả điều tra, Ủy ban Thể dục thể thao đã đề ra hệ

thống tiêu chuẩn đánh giá mức độ phát triển thể chất cho mọi đối tượng nhân

dân theo tuổi và giới tính. Hệ thống tiêu chuẩn này có giá trị sử dụng trong

vòng 10 năm [48].

Sau khi hoàn thành giai đoạn I, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban TDTT

đã có quyết định số 1532/2002/QĐ-UBTDTT, ngày 27 tháng 9 năm 2002

giao cho Viện Khoa học TDTT tiếp tục triển khai giai đoạn II “Điều tra, đánh

giá thực trạng thể chất và xây dựng hệ thống tiêu chuẩn thể lực chung của

người Việt Nam từ 21-60 tuổi”. Điều tra giai đoạn II thực hiện trên 31.125

người từ 21-60 tuổi trong đó tập trung vào giai đoạn 21-40 tuổi. Dựa trên kết

quả điều tra, dự án đã xây dựng hệ thống tiêu chuẩn đánh giá thể chất cho

người Việt Nam từ 21 đến 60 tuổi đồng thời lựa chọn được những chỉ tiêu cơ

bản để xây dựng tiêu chuẩn rèn luyện thân thể cho tất cả các nhóm đối tượng

[49].

Năm 2003, trong khuôn khổ đề tài “Phân tích thực trạng hình thái, thể

lực của nam thanh niên Việt Nam qua số liệu khám tuyển quân, tuyển sinh từ

1987-2003”, Trần Thị Trung Chiến, Lê Quang Bách và Cs đã tiến hành

nghiên cứu tầm vóc, thể lực của 334.728 thanh niên từ 17-27 tuổi trong đó

nghiên cứu hồi cứu là 314.289 người và nghiên cứu cắt ngang là 20.439

người. Kết quả nghiên cứu cho thấy tầm vóc, thể lực của thanh niên trong

nghiên cứu đã tăng lên một cách rõ rệt qua từng thời kì, tuy nhiên chỉ số BMI

không có sự khác biệt giữa các lứa tuổi và giữa các giai đoạn [44].

Năm 2003, Bộ Y tế đã công bố cuốn sách “Các giá trị sinh học người

Việt Nam bình thường thập kỷ 90 - thế kỷ XX” [1]. Các vấn đề về tầm vóc,

10

thể lực được quan tâm đặc biệt với các đề mục: “Các chỉ tiêu nhân trắc người

trưởng thành miền Bắc Việt Nam”, “Nghiên cứu sự phát triển cơ thể lứa tuổi

đến trường phổ thông 6-18 tuổi”, “Đặc điểm phát triển thể lực của trẻ dưới 6

tuổi”, “Một số chỉ tiêu nhân trắc được điều tra ở Hải Phòng”, “Đánh giá một

số chỉ tiêu nhân trắc của trẻ em và người cao tuổi ở nông thôn Thái Bình” [5].

Năm 2005, trong luận án tiến sĩ Y học “Nghiên cứu một số đặc điểm

hình thái, thể lực, dinh dưỡng người Việt trưởng thành ở một số tỉnh đồng

bẳng Bắc Bộ”, Trần Sinh Vương đã đưa ra một số kết luận khi nghiên cứu

7.968 người (3.769 nam và 4.199 nữ) có độ tuổi từ 16 trở lên thuộc 5 tỉnh,

thành phố và 3 Trường đại học ở đồng bằng Bắc Bộ: Các kích thước nhân

trắc, các chỉ số thể lực, dinh dưỡng ở cả hai giới đều tăng dần theo tuổi và đạt

mức cao nhất ở nhóm tuổi 40-49. Chiều cao cơ thể đạt đỉnh cao nhất vào tuổi

20-21 với nữ và 21-22 tuổi với nam, so với số liệu trong “Hằng số sinh học,

1975”chiều cao trung bình nam thanh niên tăng 5 cm và nữ tăng 4 cm [50].

Năm 2009, Nguyễn Trường An khi nghiên cứu giá trị của vòng cánh

tay và vòng đùi trong đánh giá suy dinh dưỡng đã tiến hành điều tra trên 662

sinh niên Đại học Y Dược Huế có độ tuổi từ 18-25 trong đó có 348 nam và

318 nữ. Tác giả kết luận có sự khác biệt về chiều cao, cân nặng, vòng cánh

taygiữa nam và nữ, tuy nhiên vòng đùi của nam và nữ khác biệt không có ý

nghĩa thống kê. Kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra được hệ số tương quan giữa

vòng cánh tay và vòng đùi với chỉ số BMI. Ngưỡng kết luận suy dinh dưỡng

là vòng cánh tay< 24 cm với nam và < 22 cm với nữ, vòng đùi là < 49 cm với

cả hai giới [1].

Năm 2010, Nguyễn Đức Hinh cùng nhóm nghiên cứu của Trường Đại

học Y Hà Nội đã tiến hành nghiên cứu trên 15.051 người từ 6 tuổi trở lên

sống tại hai 4 quận, huyện của Hà Nội trong đó lứa tuổi từ 20-24 có 2990

người (1377 nam và 1613 nữ). Theo nghiên cứu này, ở giai đoạn từ 20-24

11

tuổi, chiều cao trung bình của nam giới là 166,97 ± 5,69 cm và của nữ là

155,53 ± 4,75 cm. Tuy nhiên,chiều cao của nam giới sống tại 4 quận, huyện

có sự khác biệt. Trong đó, nam sống tại quận Hoàn Kiếm có chiều cao lớn

nhất, cụ thể là 169,93 cm. Cũng theo nghiên cứu này, chiều cao đạt mức tối

đa ở tuổi 23 với nam và tuổi 21với nữ [17].

Chiều cao là một đặc điểm sinh học vô cùng quan trọng, mỗi dân tộc

đều có một khung chiều cao nhất định, nó được xác định trong quá trình hình

thành các đặc điểm cơ thể. Theo Nguyễn Quang Quyền và Cs (1975) thanh

niên Việt Nam lớp tuổi 18-25 có chiều cao đứng của nam đạt 159,0 ± 5,0 cm

và nữ đạt 150,0 ± 4,0 cm. Chiều cao của nam lớn hơn của nữ trung bình là 9

cm. Đây là mức chênh lệch phổ biến của nhiều quần thể người trên thế giới.

Tuy nhiên, không chỉ có khác biệt về chiều cao giữa nam và nữ mà giữa các

dân tộc thuộc các vùng miền khác nhau cũng có sự khác biệt. Sự khác biệt

này là do ảnh hưởng của môi trường sống đến sự tăng trưởng và phát triển cơ

thể người trong các giai đoạn khác nhau [dẫn theo 22].

Theo tổng điều tra dinh dưỡng năm 2010 của Bộ Y Tế, mặc dù chiều

cao của thanh niên Việt Nam 22-26 tuổi đã được cải thiện đáng kể nhưng so

với các nước trong cùng khu vực thanh niên Việt Nam vẫn thuộc loại “thấp,

còi”. Chiều cao trung bình của thanh niên Việt Nam thấp hơn nhiều so với

tiêu chuẩn của Tổ chức Y tế thế giới. Cụ thể chiều cao nam, nữ thanh niên lần

lượt là 163,7cm và 153 cm, thấp hơn so với tiêu chuẩn của Tổ chức Y tế thế

giới đề nghị là 13,1 cm và 10,7 cm [6].

12

Bảng 1.1. Chiều cao trung bình của thanh niên Việt Nam

và một số nước trên thế giới [6].

Chiều cao trung bình (cm) Năm điều Độ tuổi Quốc gia Nam Nữ tra

Úc 181,4 169,5 2002 18-24

Trung Quốc 170,2 158,6 2004 17-20

Ấn Độ 173,0 165,0 2005 20

Nhật Bản 171,5 158,0 2006 19

Malaysia 168,4 157,7 2008 25-34

Philippin 164,9 155,6 2005 20

Singapore 170,6 160,0 2003 17-25

Hàn Quốc 173,9 161,1 2006 19

Thái Lan 167,5 157,3 20 1991-1995

Việt Nam 163,7 153,0 22-26 2010

Chiều cao thanh niên Việt Nam thấp nhất trong khu vực Đông Nam Á,

thấp hơn rất nhiều khi so sánh với một số nước phát triển ở khu vực châu Á.

Cùng với chiều cao đứng, cân nặng cũng là một trong những chỉ tiêu

thông dụng để đánh giá hình thái, thể lực. Cân nặng có liên quan mật thiết với

chiều cao và phụ thuộc nhiều vào tình trạng dinh dưỡng của cơ thể. Các công

trình nghiên cứu trước đây cũng cho thấy, cân nặng thay đổi theo quy luật

giống như tăng trưởng chiều cao, cân nặng tăng dần theo tuổi sau đó giảm

xuống ở các lớp tuổi cao. Dân cư các vùng khác nhau cũng có sự khác biệt về

khối lượng trung bình [11, 13, 49, 50].

Vòng ngực là một chỉ tiêu đánh giá thể lực thường được dùng trong

nghiên cứu, vòng ngực còn giúp phần nào đánh giá được chức năng hô hấp

của cơ thể. Đặc điểm chung của tất cả các đối tượng là kích thước vòng ngực

13

trung bình phát triển cao nhất ở giai đoạn từ 16-25 tuổi đối với nữ và 26-40

tuổi đối với nam. Ở các giai đoạn sau đó kích thước vòng ngực giảm dần. Các

số liệu về vòng ngực trung bình trong nghiên cứu của các tác giả cũng không

hoàn toàn giống nhau [dẫn theo 22].

Kích thước vòng ngực hít vào hết sức tỉ lệ thuận với vòng ngực trung

bình, chỉ số này ở giai đoạn từ 18-25 tuổi với nam là 80,0  4,0 cm và của nữ

là 76,0  4,0 cm [dẫn theo 22]. Theo nghiên cứu của Trịnh Văn Minh và Cs, ở

lứa tuổi 24 vòng ngực trung bình ở nam là 82,44  3,58 cm và ở nữ là 74,89 

4,06 cm. Chỉ số Pignet của nam ở lứa tuổi này là 36,38  6,38 và của nữ là

36,50  6,54 31. Như vậy, so với “Hằng số sinh học, 1975” thì chỉ số Pignet

của nam và nữ sai khác không lớn. Chỉ số BMI cũng được đề cập tới trong

nhiều công trình, theo nghiên cứu của Trịnh Văn Minh và Cs thì chỉ số BMI

của nam 24 tuổi là 18,78  1,50 và của nữ là 19,13  1,67 31.

“Các chỉ tiêu nhân trắc, hình thái, thể lực người miền Bắc Việt Nam

trưởng thành trong thập niên 90” do Trịnh Văn Minh và Cs thực hiện cho

thấy, ở lớp tuổi thanh niên sau tuổi dậy thì, các kích thước vẫn tiếp tục phát

triển. Nam giới có chiều cao, cân nặng và các kích thước liên quan đến thể

lực, cụ thể là với hoạt động cơ bắp luôn cao hơn nữ. Trong khi đó, các chỉ số

khác có liên quan đến dinh dưỡng, khối mỡ, chỉ số Pignet thì ở nữ lại cao hơn

so với nam giới 31.

Với dự án “Điều tra cơ bản một số chỉ tiêu sinh học người Việt Nam

bình thường thập kỉ 90- Thế kỷ thứ XX” do trường Đại học Y Hà Nội chủ trì

với sự tham gia của hàng loạt các nhà khoa học ở 7 trường Đại học Y và 8

Viện, Bệnh viện trung ương. Dự án đã tiến hành nghiên cứu 11 nhóm chỉ tiêu

sinh học của người Việt Nam sống ở 19 tỉnh, thành phố thuộc cả ba miền Bắc,

Trung, Nam. Riêng nhóm chỉ tiêu hình thái, thể lực, dinh dưỡng do Giáo sư

Trịnh Văn Minh làm chủ nhiệm đề tài đã tiến hành nghiên cứu trên 43.991

14

người (21.443 nam và 22.548 nữ). Mỗi đối tượng được đo 10 kích thước nhân

trắc cơ bản và 4 chỉ số hình thái - thể lực, dinh dưỡng được tính toán. Theo

kết quả dự án này, chiều cao trung bình của nam, nữ thanh niên giai đoạn 20-

24 tuổi lần lượt là 163,72 ± 4,67 cm và 153,00 ± 4,32 cm. Sau tuổi dậy thì,

chiều cao vẫn tiếp tục phát triển, tới 19-20 tuổi với nữ, 21-22 tuổi với nam

chiều cao chững lại và đạt tối đa ở tuổi 25 với cả hai giới. Cân nặng trung

bình của nam, nữ thanh niên 20-24 tuổi lần lượt là 52,11 ± 4,70 kg và 44,60 ±

4,22 kg. Cân nặng đạt mức tối đa ở nhóm tuổi 40-49, sau đó giảm dần trong

đó miền Nam giảm chậm nhất, miền Trung giảm nhanh nhất. Cũng theo

nghiên cứu này chỉ số Pignet của người Việt Nam trưởng thành đã tăng lên so

với số liệu trong “Hằng số sinh học, 1975” song chỉ số Pignet ở cả nam và nữ

vẫn thuộc loại yếu [11].

Nhìn chung, các công trình nghiên cứu về hình thái - thể lực của học

sinh, sinh viên Việt Nam khá phong phú. Tuy các kết quả nghiên cứu về các

chỉ số này có sự khác biệt ít nhiều nhưng tất cả các nghiên cứu đều chỉ ra

rằng: các chỉ số về hình thái, thể lực đều biến đổi theo lứa tuổi và mang các

đặc điểm giới tính.

Năm 1989, Thẩm Thị Hoàng Điệp đã nghiên cứu về sự phát triển chiều

cao, vòng đầu và vòng ngực của hơn 8000 người Việt Nam từ 1 đến 55 tuổi ở

cả ba miền Bắc, Trung, Nam. Tác giả đã rút ra kết luận: chiều cao trung bình

của nam trưởng thành là 163 cm và của nữ là 158 cm, chiều cao của nam tăng

nhanh đến 18 tuổi còn nữ tăng nhanh đến 14 tuổi. Vòng ngực trung bình của

nam trưởng thành là 78-80 cm, vòng đầu là 55-56 cm và của nữ tương ứng là

79 cm và 54-55 cm [13].

Bên cạnh việc nghiên cứu các chỉ số về hình thái và thể lực các nhà

hình thái học cũng nghiên cứu về các chỉ số sinh lý như các chỉ số hô hấp,

tuần hoàn, thần kinh…

15

Tần số tim và huyết áp động mạch được nghiên cứu khá sớm trên nhiều

đối tượng khác nhau. Trong công trình “Hằng số sinh học, 1975” kết quả

nghiên cứu chỉ ra rằng tần số tim của nam, nữ trưởng thành trung bình là 70-

80 lần/ phút [43].

Các kết quả nghiên cứu về huyết áp động mạch người Việt Nam của

Trịnh Bỉnh Dy trình bày trong cuốn “Về những thông số sinh học trên người

Việt Nam ” cho thấy: huyết áp của người Việt Nam không những thấp mà còn

tăng chậm theo tuổi [dẫn theo 22]. Trong “Hằng số sinh học, 1975” huyết áp

tâm thu của người trưởng thành dao động từ 90-140 mmHg và huyết áp tâm

trương là 50-90 mmHg [43].

Theo tác giả Phạm Thị Minh Đức, huyết áp tâm thu bình thường có trị

số là 90-110 mmHg, nếu trên 140 mmHg được coi là tăng huyết áp và dưới

90 là hạ huyết áp. Huyết áp tâm trương bình thường có trị số là từ 50-70

mmHg, nếu vượt quá 90 mmHg được coi là tăng huyết áp và dưới 50 mmHg

là hạ huyết áp [14].

Các công trình nghiên cứu trên học sinh phổ thông cho thấy, huyết áp

động mạch tăng dần theo tuổi [27]. Nghiên cứu trên những người trưởng

thành cho thấy, huyết áp động mạch khác nhau ở các chủng tộc, môi trường

sống và khí hậu trong khu vực [11, 22, 28].

Năm 1993, Đoàn Yên và Cs dựa vào kết quả nghiên cứu tần số tim và

huyết áp của người Việt Nam cho rằng: sau khi sinh tần số tim và huyết áp

động mạch biến đổi có tính chất chu kì. Huyết áp động mạch tăng đến 18 tuổi,

sau đó ổn định đến 49 tuổi rồi lại tăng lên. Tần số tim giảm dần đến 25 tuổi và

ổn định đến 69 tuổi [dẫn theo 33].

Năm 1996, Trần Đỗ Trinh và Cs khi nghiên cứu các chỉ tiêu sinh học

người Việt Nam từ 15 tuổi trở lên sống tại 20 tỉnh thành phố thuộc 7 vùng địa

lý khác nhau đã kết luận: huyết áp tăng dần theo tuổi, giai đoạn 18-25 tuổi

16

huyết áp tăng chậm lại rồi tương đối ổn định ở tuổi trung niên. Huyết áp của

nam thường cao hơn của nữ [dẫn theo 22].

Năm 2002, Nguyễn Văn Mùi và Cs đã nghiên cứu tần số tim và huyết

áp động mạch trên 182 vận động viên một số môn thể thao ở Hải Phòng. Các

kết quả cho thấy, huyết áp tâm thu và huyết áp tâm trương ở cả nam và nữ đều

thấp hơn so với người bình thường cùng lứa tuổi và nằm trong giới hạn bình

thường. Trong số này, nhóm vận động viên bơi lội có huyết áp thấp hơn cả.

Tần số tim ở các vận động viên đều thấp hơn so với thanh niên cùng lứa tuổi.

Nhóm vận động viên bắn súng có tần số thấp nhất, điều này chứng tỏ việc rèn

luyện các môn thể thao có ý nghĩa rất quan trọng với chức năng của hệ tim

mạch [32].

Kết quả nghiên cứu của các tác giả đều khẳng định, tần số tim và huyết

áp động mạch biến đổi có tính chất chu kì. Tần số tim giảm dần, huyết áp

động mạch tăng dần theo tuổi nhưng mức độ thay đổi không đều qua các thời

kì. Tần số tim và huyết áp động mạch chịu ảnh hưởng của điều kiện sống,

trạng thái tâm lí và hoạt động Thể dục thể thao.

Như vậy, các chỉ số hình thái - thể lực và chức năng sinh lý một số cơ

quan đã được nhiều tác giả nghiên cứu. Các kết quả nghiên cứu đã xây dựng

được các “hằng số” và cho thấy sự biến đổi của chúng theo quá trình phát

triển cá thể. Tuy nhiên sự biến đổi các chỉ số này trên đối tượng sinh viên

chuyên ngành giáo dục thể chất vẫn còn ít được nghiên cứu.

1.2. KHÁI QUÁT VỀ ĐẶC ĐIỂM SINH TRƢỞNG, PHÁT TRIỂN VÀ ẢNH

HƢỞNG CỦA HOẠT ĐỘNG THỂ DỤC THỂ THAO ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN

CƠ THỂ LỨA TUỔI THANH NIÊN

1.2.1. Một số nét về sinh trƣởng và phát triển cơ thể lứa tuổi thanh niên

Một trong những đặc điểm cơ bản của cơ thể sống là quá trình sinh

trưởng và phát triển diễn ra liên tục từ lúc trứng mới thụ tinh cho đến khi

17

trưởng thành, bao gồm nhiều giai đoạn khác nhau về tính chất và đặc điểm.

Sinh trưởng là sự biến đổi về số lượng và kích thước tế bào, phát triển là sự

tổng hợp các biến đổi liên tục về chất, những biến đổi về hình thái và chức

năng của tất cả các cơ quan trong cơ thể từ khi sinh ra cho đến khi trưởng

thành. Hai quá trình đó có mối liên hệ mật thiết với nhau, bổ sung cho nhau

để cơ thể tăng trưởng về tầm vóc và thể lực. Quá trình sinh trưởng và phát

triển diễn ra không đều theo lứa tuổi, mỗi giai đoạn có những đặc điểm khác

nhau về hình thái, sinh lí khác nhau [25, 26]. Chính vì vậy, người ta đã phân

chia quá trình phát triển cơ thể thành các giai đoạn khác nhau

Bunak V.V phân chia các thời kì phát triển cơ thể người dựa vào các

dấu hiệu hình thái và nhân chủng. Gundobin N.P. và Arshavski I.A. chia ra

các thời kì phát triển dựa vào bậc học của học sinh, v.v. Theo đó, các tác giả

cũng chưa hoàn toàn thống nhất về cách phân chia các giai đoạn phát triển cơ

thể người [dẫn theo 30].

Năm 1965, Viện Hàn lâm Sư phạm Liên Xô đưa ra cách phân chia các

thời kì phát triển của con người. Họ cho rằng, về mặt sinh lý không có cơ sở

đầy đủ để định ra các mốc rõ ràng giữa các thời kỳ phát triển. Theo cách phân

chia này thời kỳ thanh niên được tính từ 17-21 tuổi với nam và 16-20 tuổi với

nữ [dẫn theo 27]. Tuy nhiên, các cách phân chia này đều chỉ mang tính chất

tương đối, mức độ khác biệt giữa các thời kì có thể không thực sự rõ ràng.

Lứa tuổi thanh niên là thời kì tiếp theo của tuổi dậy thì, là giai đoạn đầu

của tuổi trưởng thành. Theo một số tác giả, lứa tuổi thanh niên là giai đoạn từ

19-25 tuổi [34]. Ở giai đoạn này sự phát triển thể chất của con người đã đạt

mức hoàn thiện. Sự tăng chiều cao trong giai đoạn này chủ yếu do kích thước

xương ống dài ra.

Đặc điểm chung của cơ thể trưởng thành là các cơ quan đã phát triển

hoàn thiện, hoạt động chức năng ổn định và dần đạt hiệu quả tối ưu [52]. Giai

18

đoạn thanh niên có đặc điểm là tốc độ phát triển chiều cao chậm lại, mỗi năm

tăng trung bình không quá 1-2 cm. Khối lượng cơ tăng nhiều so với giai đoạn

trước. Các đặc điểm giới tính thứ cấp phát triển tới mức tối đa, cấu tạo và

chức năng của não đạt đến độ hoàn chỉnh. Tầm vóc cơ thể phát triển cân đối

[34].

Khối lượng não đạt mức tối đa, chất lượng nơron thần kinh tốt do quá

trình myelin hóa cao độ. Số lượng xinap của các tế bào thần kinh đảm bảo cho

liên lạc rộng khắp, chi tiết, linh hoạt giữa vô số các kênh làm cho hoạt động

của não bộ trở nên nhanh, nhạy, chính xác [35].

Lứa tuổi thanh niên cũng là lứa tuổi phát triển ổn định, đồng đều về hệ

thống cơ, xương, khớp. Các tố chất về thể lực như sức mạnh, sức bền, sức

nhanh, độ linh hoạt, dẻo dai đều phát triển mạnh nhờ sự phát triển ổn định của

các yếu tố nội tiết cũng như sự tăng trưởng của các hormon giới tính. Hoạt

động nhận thức của sinh viên là hoạt động trí tuệ thực sự, căng thẳng, cường

độ cao và có tính lựa chọn rõ rệt. Các thao tác trí tuệ phát triển ở trình độ cao,

có sự phối hợp nhịp nhàng, tinh tế, uyển chuyển [35].

1.2.2. Ảnh hưởng của hoạt động Thể dục thể thao đến sự phát triển cơ thể

lứa tuổi thanh niên

Tốc độ tăng trưởng và phát triển của thanh niên phụ thuộc vào nhiều

yếu tố cũng như phụ thuộc vào hoàn cảnh sống. Một trong những yếu tố ảnh

hưởng lớn đến tốc độ tăng trưởng và phát triển ở thanh niên chính là hoạt

động tập luyện thể dục thể thao (TDTT). Tập luyện TDTT thường xuyên sẽ

đem lại những biến đổi theo hướng thích nghi có lợi cho cơ thể, sự biến đổi

đó được biểu hiện cụ thể qua các kích thước hình thái, chỉ số thể lực và chức

năng sinh lý.

Ở những người luyện tập TDTT thường xuyên một cách có hệ thống,

bộ xương sẽ có những biến đổi rõ nét. Các mấu xương to ra làm chỗ bám

19

vững chắc cho các cơ, xương chắc sẽ dày lên, cấu trúc các bè xương thay đổi

để phù hợp với lực tác dụng vào xương. Các hốc ở xương xốp cũng mở rộng

hơn so với những người không tập luyện TDTT. Các bài tập TDTT làm cho

thuộc tính cơ học của xương được nâng cao, tăng cường sức chống đỡ khi bị

bẻ gập, uốn cong, kéo giãn, vặn xoắn. Ảnh hưởng của hoạt động TDTT lên

cấu trúc, hình thái của xương được biểu hiện rõ nét ở những vận động viên

chuyên nghiệp, đặc biệt là vận động viên thành tích cao [10].

Hoạt động TDTT thường xuyên còn ảnh hưởng đến hoạt động của

khớp, làm tăng tính linh hoạt và độ bền vững của các khớp. Sụn khớp dày lên,

đặc biệt là sụn ở các diện khớp tiếp xúc rộng do đó giảm áp lực cho khớp, nhờ

đó khớp ít bị chấn thương [10].

Với người bình thường, khối lượng cơ chiếm khoảng 40% khối lượng

cơ thể nhưng với những người tập luyện TDTT thường xuyên trọng lượng cơ

có thể chiếm tới 50% cân nặng cơ thể. Điều này là do khi tập TDTT thường

xuyên, quá trình trao đổi chấtvà khả năng sử dụng oxi của cơ tăng lên. Sợi cơ

trở nên dày hơn, thiết diện ngang và thể tích cơ tăng. Khối lượng các tơ cơ và

hàm lượng các chất dự trữ năng lượng cao hơn so với cơ của người bình

thường [10].

Sự khác biệt giữa người luyện tập TDTT thường xuyên và người không

luyện tập TDTT còn được thể hiện qua những biến đổi của hệ tuần hoàn. Với

người bình thường, khối lượng quả tim khoảng 260-300 g còn với những vận

động viên đẳng cấp, nhất là với vận động viên sức bền thì khối lượng quả tim

có thể lên đến 450-490 g [18]. Những người tập luyện TDTT liên tục trong

thời gian dài, tần số tim có xu hướng giảm, nhu cầu sử dụng oxi của cơ tim

giảm xuống, huyết áp động mạch cũng giảm so với những người không tập

luyện TDTT. Tần số tim trong yên tĩnh của vận động viên các môn thể thao

20

sức bền, ưa khí thường thấp hơn so với vận động viên các môn thể thao sức

mạnh và sức nhanh [40].

Quá trình hô hấp ở người diễn ra là do hoạt động của cơ hoành, cơ gian

sườn và các nhóm cơ vùng bụng. Hoạt động TDTT làm tăng cường chức năng

vận động của các cơ này, làm chu vi lồng ngực và độ giãn nở ngực tăng lên.

Với người bình thường, chênh lệch kích thước vòng ngực khi hít vào hết sức

và thở ra hết sức là khoảng 5-7 cm nhưng với vận động viên mức chênh lệch

này có thể lên đến 8-13 cm [18].

Như vậy, có nhiều cách phân chia khác nhau về các giai đoạn phát triển

cơ thể.Mỗi cách phân chia dựa trên những đặc điểm nhất định. Tuy nhiên,

ranh giới giữa các thời kì không thực sự rõ rệt, mức độ khác nhau không lớn.

Quá trình sinh trưởng và phát triển ở thanh niên diễn ra theo những quy luật

nhất định phụ thuộc vào yếu tố di truyền, môi trường sống, chế độ sinh hoạt,

tập luyện cũng như đặc thù của từng môn thể thao. Việc xác định được các

quy luật này sẽ làm cơ sở cho các biện pháp tác động nhằm nâng cao thể lực

và trí tuệ cho thanh niên.

21

Chƣơng 2

ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1.ĐỐI TƢỢNG NGHIÊN CỨU

2.1.1. Đặc điểm của đối tượng khảo sát trong nghiên cứu

Đối tượng được khảo sát trong nghiên cứu là sinh viên hệ đại học khóa

43 Trường Đại học Sư phạm Thể dục thể thao Hà Nội. Tất cả các sinh viên

trong nghiên cứu đều khỏe mạnh, không có dị tật bẩm sinh.

Tuổi của các đối tượng nghiên cứu được tính theo quy ước chung của

Tổ chức Y tế thế giới (WHO) và của Việt Nam.

2.1.2. Phương pháp chọn mẫu và cỡ mẫu

Sử dụng công thức chọn mẫu [36]:

(1-/2).s² ∆2

t2 n =

Trong đó: n là tổng số đối tượng cần điều tra.

t1-α/2 là hệ số tin cậy, bằng 1,96 với độ tin cậy α = 95%.

s là độ lệch chuẩn, theo các nghiên cứu trước đây lấy s = 4,63.

∆ là sai số cho phép, lấy bằng 0,5

Thay vào công thức trên tính được n = 329 đối tượng. Trên thực tế, sau

khi loại bỏ các đối tượng không đáp ứng tiêu chuẩn và để tăng tính tin cậy, số

sinh viên tham gia nghiên cứu của chúng tôi trong năm 2010 là 401 sinh viên,

năm 2011 và 2013 số sinh viên tham gia nghiên cứu là 400 (do có 1 sinh viên

thôi học).

2.1.3. Phân bố của đối tượng nghiên cứu

Nghiên cứu được thực hiện trên sinh viên hệ Đại học khóa 43 Trường

Đại học Sư phạm Thể dục thể thao Hà Nội trong ba năm 2010, 2011 và 2013.

22

Phân bố các đối tượng được nghiên cứu theo tuổi và giới tính thể hiện trong

bảng 2.1.

Bảng 2.1. Phân bố của đối tượng nghiên cứu theo tuổi và giới tính

Giới tính

Tổng Nam Nữ Năm

N % N %

336 83,80 65 16,20 401 2010

335 83,75 65 16,25 400 2011

335 83,75 65 16,25 400 2013

Bảng 2.1 cho thấy, năm 2010 tổng số sinh viên tham gia trong nghiên

cứu là 401 sinh viên, trong đó có 336 nam và 65 nữ. Đến năm 2011 và 2013

do có 1 sinh viên thôi học nên tổng số sinh viên tham gia nghiên cứu là 400

em, trong đó có 335 nam và 65 nữ. Do nghiên cứu được tiến hành trên đối

tượng sinh viên chuyên ngành Thể dục thể thao nên phân bố đối tượng có đặc

trưng riêng: trường chủ yếu là nam sinh viên, nữ sinh viên chỉ chiếm tỉ lệ nhỏ

do đó số lượng nam sinh viên trong từng năm nhiều hơn số lượng nữ sinh.

Để hạn chế sai số thô, ở thời điểm bắt đầu nghiên cứu là năm 2010

chúng tôi chỉ tiến hành nghiên cứu trên những sinh viên đủ 18 tuổi (tính đến

ngày điều tra). Những sinh viên không đáp ứng tiêu chuẩn sẽ bị loại bỏ.

2.1.4. Thời gian nghiên cứu

Nghiên cứu được thực hiện từ tháng 9-11/2010, tháng 9-11/2011 và

tháng 9-11/2013.

2.2. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.2.1. Các chỉ tiêu nhân trắc trong nghiên cứu

- Các chỉ tiêu hình thái:

23

+ Chiều cao đứng

+ Cân nặng

+ Vòng ngực hít vào hết sức

+ Vòng ngực thở ra hết sức

+ Vòng ngực trung bình

+ Vòng cánh tay phải co

- Chỉ số BMI

- Chỉ số Pignet

- Các chỉ tiêu về thể lực:

+ Lực bóp tay thuận

+ Lực cơ lưng.

- Các chỉ tiêu về sinh lí:

+ Nhịp tim

+ Huyết áp động mạch.

2.2.2. Phương pháp xác định các chỉ tiêu

2.2.2.1. Các chỉ tiêu hình thái - thể lực

Các chỉ tiêu hình thái, thể lực được xác định theo các phương pháp

được dùng phổ biến trong nghiên cứu y sinh học gồm [37, 39]:

Chiều cao đứng: được xác định ở tư thế đứng thẳng trên nền phẳng, hai

gót chân sát vào nhau, mắt nhìn thẳng, đồng thời đảm bảo 4 điểm: chẩm,

lưng, mông, gót chạm vào thước đo. Tư thế đứng thẳng được xác định khi

đuôi mắt và lỗ tai ngoài cùng ở trên đường thẳng nằm ngang, song song với

mặt bàn chân. Chiều cao đứng được đo bằng thước đo nhân trắc học Martin

do Nhật Bản sản xuất có độ chính xác đến 1mm.

Cân nặng: Sử dụng cân đồng hồ TANITA do Nhật Bản sản xuất với

độ chính xác đến 0,1 kg. Cân được đặt ở vị trí ổn định và bằng phẳng. Cân

được kiểm tra và hiệu chỉnh trước khi cân, đo xa bữa ăn. Khi đo, đối tượng

24

chỉ mặc quần áo mỏng, không đi giầy dép đứng lên vị trí giữa bàn cân và đọc

kết quả khi cân đứng yên, đơn vị kg, tính đến mức 0,1 kg.

Vòng ngực hít vào hết sức(VNHVHS): được đo bằng thước dây không

co giãn, chia đến 0,1cm. Vòng ngực được đo ở tư thế thẳng đứng, vòng thước

quấn quanh ngực, phía sau vuông góc với cột sống sát mỏm xương bả vai,

phía trước qua mũi ức, sao cho mặt phẳng do thước dây tạo ra song song với

mặt đất. Đo khi đối tượng hít vào hết sức

Vòng ngực thở ra hết sức (VNTRHS): Cách đo và vị trí đo giống như

với VNHVHS nhưng đo khi đối tượng thở ra hết sức.

Vòng ngực trung bình (VNTB): được tính bằng trung bình cộng giữa

VNHVHS và VNTRHS.

Vòng cánh tay phải co (VCTPC): được đo bằng thước dây không co

giãn, chia đến 0,1cm. Vòng thước dây qua chỗ to nhất của cánh tay (thường là

ở giữa mỏm khuỷu và mỏm cùng vai), đo khi gấp chặt cẳng tay vào cánh tay

(đo sát da không qua lớp vải ở tay áo). Đọc kết quả và ghi số cm với 1 số lẻ.

Lực bóp tay thuận: được đo bằng Máy đo lực bóp tay điện tử GRIP –D

do Nhật Bản sản xuất. Xác định tay thuận là tay thường dùng để thực hiện các

động tác quan trọng trong cuộc sống như ném, cầm, nắm…tay thuận thường

mạnh hơn tay không thuận. Đối tượng đứng dạng hai chân bằng vai, tay thuận

cầm lực kế đưa thẳng sang ngang tạo góc 45 độ so với trục dọc cơ thể. Tay

không cầm lực kế duỗi thẳng, song song với thân người. Bàn tay cầm lực kế,

mặt đồng hồ của lực kế hướng ra phía trước. Các ngón tay ôm chặt thân lực

kế và bóp mạnh hết sức trong vòng hai giây, đồng hồ sẽ hiện lên chỉ số.

Không được bóp giật cục hay thêm các động tác trợ giúp của thân người hoặc

động tác thừa. Thực hiện hai lần, nghỉ 15 giây giữa hai lần thực hiện. Lấy kết

quả lần cao nhất, chính xác đến 0,1 kg. Sau mỗi lần đo, ấn nút để mặt đồng hồ

hiển thị số 0.

25

Lực cơ lưng: được đo bằng Lực kế cơ lưng (TAKEI PHYSICAL

FITNESS TEST) do Nhật bản sản xuất. Đối tượng đặt hai chân lên thanh

ngang của lực kế và tỳ sát xuống mặt đất. Thân hơi gập về trước, hai chân

thẳng, hai tay nắm lấy hai tay cầm dùng sức mạnh của tay, chân và chủ yếu là

lưng để kéo hai tay cầm lên phía trên. Khi kéo tay cầm, hai tay và đầu gối

duỗi thẳng. Đo hai lần với sự cố gắng tối đa, lấy kết quả đo cao nhất hiển thị

trên mặt đồng hồ lực kế. Sau mỗi lần đo, ấn nút để mặt đồng hồ hiển thị số 0.

Chỉ số BMI( Body Mass Index) được tính theo công thức:

Trong đó:

W: Khối lượng cơ thể (kg)

H: Chiều cao đứng (m)

Bảng 2.2. Phân loại theo chỉ số BMI [theo 6]

BMI Phân loại

<16 Suy dinh dưỡng độ III

16-16,99 Suy dinh dưỡng độ II

17-18,45 Suy dinh dưỡng độ I

18,50-22,99 Bình thƣờng

23-24,99 Thừa cân

25-29,99 Béo phì độ I

30-34,99 Béo phì độ II

>35 Béo phì độ III

26

Chỉ số pignet được tính theo công thức:

Pignet = Chiều cao đứng (cm) - [Cân nặng (kg) + Vòng ngực trung bình (cm)]

Bảng 2.3. Phân loại thể lực theo chỉ số Pignet [38]

Chỉ số Pignet Phân loại

<23 Cực khỏe

23 – 28,9 Rất khỏe

29– 34,9 Khỏe

35 – 41 Trung bình

41,1 – 47 Yếu

47,1 – 53 Rất yếu

>53 Cực yếu

2.2.2.2. Phƣơng pháp nghiên cứu các chỉ tiêu về sinh lý

Tần số tim và huyết áp:đo bằng máy đo huyết áp bắp tay tự động

LAICA BM 2001 do Italia sản xuất.

Khi đo đối tượng không cử động, không nói chuyện trong quá trình đo.

Ngồi thẳng lưng, hai chân không vắt chéo. Quấn bao cao su vào bắp tay, đối

tượng ngồi thoải mái, thẳng lưng, sao cho vị trí máy ở ngang tim và thư giãn.

Ấn START để máy đo tự động, khi máy hiện kết quả huyết áp và tần số mạch

ghi lại và lấy kết quả trung bình của 3 lần đo.

2.2.3. Phương pháp xử lí số liệu

Các số liệu thu thập được nhập vào máy và được xử lý bằng toán thống

kê, phần mềm SPSS. Các giá trị thống kê gồm giá trị trung bình (X), độ lệch

chuẩn (SD), hệ số tin cậy (t).

27

Các số liệu nghiên cứu được kiểm định theo tiêu chuẩn “t-test” theo

phương pháp Student - Fisher của hàm phân bố chuẩn và so sánh giữa các

nhóm đối tượng trong nghiên cứu theo giới tính, theo tuổi và so sánh với

nghiên cứu của các tác giả khác.

Xử lý số liệu theo phương pháp thống kê sinh học trên máy tính bằng

chương trình SPSS 16.0.

28

Chƣơng 3

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ BÀN LUẬN

3.1.Các chỉ tiêu hình thái - thể lực

3.1.1. Chiều cao

Chiều cao là một trong những giá trị sinh học cơ bản nhất phản ánh sự

tăng trưởng và phát triển của cơ thể người. Chiều cao biến đổi độc lập và biểu

hiện khối lượng cơ - xương. Các nghiên cứu về lĩnh vực này cho thấy, chiều

cao thay đổi theo lứa tuổi, theo giới tính và chịu ảnh hưởng của môi trường

sống.

Kết quả chiều cao được trình bày trong bảng 3.1

Bảng 3.1: Chiều cao (cm) của sinh viên theo từng năm và theo giới tính

Chiều cao (cm)

Nam (1) Nữ (2) Năm

p (1-2) - n Tăng n Tăng

2010 336 170,07±4,06 - 65 161,50±3,27 - 8,57 <0,05

2011 335 171,59±6,67 1,52 65 162,87±3,82 1,37 8,72 <0,05

2013 335 172,83±4,26 1,24 65 163,70±3,76 0,83 9,13 <0,05

Chung 171,50±4,99 0,92 162,69 ±3,61 0,73 8,81

p <0,05 <0,05

Các số liệu trong Bảng 3.1 cho thấy, chiều cao của sinh viên tăng dần

từ năm 2010 đến 2013, cụ thể chiều cao của nam năm 2010 là 170,07 ± 4,06

29

cm đến năm 2013 là 172,83 ± 4,26 cm, chiều cao của nữ năm 2010 là 161,50

± 3,27cm đến năm 2013 là 163,70 ± 3,76 cm. Mức tăng chiều cao trung bình

hàng năm ở nam là 0,92 cm và ở nữ là 0,73 cm. Chiều cao trung bình của nam

lớn hơn của nữ là 8,81 cm, khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05).

Hình 3.1.Chiều cao của sinh viên theo từng năm và theo giới tính

Hình 3.1 cho thấy sự tăng trưởng chiều cao của sinh viên trong nghiên

cứu tuân theo tuổi và theo tính quy luật tăng trưởng. Có sự khác biệt về mức

tăng trưởng chiều cao của nam, nữ trong giai đoạn 2010-2011 so với giai đoạn

2011-2013 (p<0,05).

Khi so sánh với nghiên cứu của Mai Văn Hưng [22], Vũ Thị Thanh

Bình [2, 3], Trịnh Văn Minh [31] thì chiều cao của sinh viên trong nghiên cứu

của chúng tôi đều cao hơn (khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,05).

30

Hình 3.2. So sánh chiều cao của nam giai đoạn 18-21 tuổi

theo một số tác giả

Hình 3.3. So sánh chiều cao của nữ giai đoạn 18-21 tuổi theo một số tác giả

Nhìn chung, chiều cao và mức tăng trưởng chiều cao của sinh viên

trong nghiên cứu của chúng tôi cao hơn so với chiều cao của sinh viên cùng

nhóm tuổi trong nghiên cứu của Mai Văn Hưng, Trịnh Văn Minh, Vũ Thị

Thanh Bình. Mức chênh lệch chiều cao giữa các nhóm tuổi cũng thể hiện rõ

ràng hơn.

31

So sánh chiều cao của sinh viên trong nghiên cứu với chiều cao của

sinh viên K30 Trường ĐHSP TDTT Hà Nội (trước đây là Cao đẳng Thể dục

thể thao TWI ) trong nghiên cứu của Vũ Thị Thanh Bình [2, 3] thì chiều cao

của sinh viên trong nghiên cứu của chúng tôi cũng cao hơn, chứng tỏ sau 13

năm hình thái của sinh viên khi thi tuyển vào trường đã có sự cải thiện rõ rệt.

(Chiều cao trung bình của nam sinh viên K30 là 166,7 ± 4,5 cm và của nữ là

156,6 ± 4,1 cm). So sánh với nghiên cứu của Nguyễn Đình Chung [9] trên

sinh viên Đại học TDTT I thì chiều cao nam ở hai trường tương đương nhau,

nữ trong nghiên cứu của chúng tôi cao hơn nữ sinh viên Đại học TDTTT I

(Chiều cao trung bình của nam sinh viên Đại học TDTT I là 171,14 ± 13,83

cm và của nữ là 160,55 ± 14,08 cm)

Chiều cao và mức tăng trưởng chiều cao của sinh viên trong nghiên cứu

của chúng tôi cao hơn so với kết quả về chiều cao trong điều tra thể chất

người Việt Nam của Viện Khoa học TDTT năm 2001 [48] (khác biệt có ý

nghĩa thống kê với p < 0,05).

Bảng 3.2. So sánh chiều cao của sinh viên trong nghiên cứu với kết quả

điều tra của Viện khoa học TDTT năm 2001

Chiều cao (cm)

Nam Nữ

Điều tra của Điều tra của Trong nghiên Trong Viện khoa học Viện khoa học Tuổi cứu nghiên cứu TDTT TDTT

170,07 ± 4,06 164,85 ± 5,28 161,50 ± 3,27 153,47 ± 5,28 18

171,59 ± 6,67 164,88 ± 5,41 162,87 ± 3,82 153,66 ± 4,98 19

32

Điều tra thể chất nhân dân do Viện khoa học TDTT thực hiện trên

49.786 người Việt Nam từ 6 đến 20 tuổi trong đó có 8.400 sinh viên có độ

tuổi từ 18-20 ở 17 trường đại học, cao đẳng và trung học chuyên nghiệp trên

địa bàn thành phố Hà Nội, Hồ Chí Minh, Nghệ An, Thanh Hóa, Thái Nguyên

vàĐà Nẵng

Bảng 3.2 cho thấy chiều cao và mức tăng trưởng chiều cao của nam và

nữ sinh viên trong nghiên cứu qua từng năm đều cao hơn so với chiều cao

nam và nữ sinh viên thuộc nhóm tuổi tương ứng trong điều tra của Viện khoa

học TDTT năm 2001.

Hình 3.4. So sánh chiều cao của nam trong nghiên cứu so với kết quả điều tra

của Viện khoa học TDTT năm 2001

Chiều cao của nam sinh viên qua từng năm trong nghiên cứu đều cao

hơn so với kết quả chiều cao nam sinh viên trong điều tra của Viện khoa học

TDTT. Chiều cao của nam sinh viên năm 2010 (18 tuổi), năm 2011 (19 tuổi)

trong nghiên cứu của chúng tôi lần lượt là: 170,07 ± 4,06 cm, 171,59 ± 6,67

cm, cao hơn so với chiều cao nam nhóm tuổi tương ứng trong điều tra của

Viện khoa học TDTT năm 2001 là: 164,85 ± 5,28 cm, 164,88 ± 5,41 cm.

33

Chiều cao của nam trong nghiên cứu cao hơn nhiều so với nam sinh viên

trong điều tra của Viện khoa học TDTT là do nam trong nghiên cứu khi thi

tuyển đầu vào Trường ĐHSP TDTT Hà Nội đã phải đạt chuẩn về chiều cao

tối thiểu là 165 cm.

Hình 3.5. So sánh chiều cao của nữ trong nghiên cứu so với kết quả điều tra của Viện khoa học TDTT năm 2001

Tương tự nam sinh viên, chiều cao và mức tăng trưởng chiều cao của

nữ trong nghiên cứu cũng cao hơn so với chiều cao nữ sinh viên ở nhóm tuổi

tương ứng trong điều tra của Viện khoa học TDTT. Chiều cao của nữ sinh

viên năm 2010 (18 tuổi), năm 2011 (19 tuổi), trong nghiên cứu của chúng tôi

lần lượt là: 161,50 ± 3,27 cm, 162,87 ± 3,82 cm, cao hơn so với chiều cao nữ

thuộc nhóm tuổi tương ứng trong điều tra của Viện khoa học TDTT năm 2001

là: 153,47± 5,28 cm, 153,66 ± 4,98 cm. Chiều cao của nữ trong nghiên cứu

cao hơn nhiều so với nữ trong điều tra của Viện khoa học TDTT là do nữ

trong nghiên cứu khi thi tuyển đầu vào Trường ĐHSP TDTT Hà Nội đã phải

đạt chuẩn về chiều cao tối thiểu là 155 cm.

Sự chênh lệch về chiều cao trung bình của sinh viên trong nghiên cứu

so với điều tra của Viện khoa học TDTT năm 2001 có thể lí giải do chiều cao

là một trong số những tiêu chuẩn về mặt hình thể khi xét tuyển đầu vào của

34

trường. Mặt khác do đặc thù của trường năng khiếu chuyên ngành TDTT nên

quá trình tập luyện TDTT thường xuyên cũng có những ảnh hưởng nhất định

đến sự tăng trưởng chiều cao.

Nếu so sánh chiều cao trung bình của sinh viên trong nghiên cứu vào

năm 2010 (18 tuổi) với tiêu chuẩn của thanh niên Việt Nam 18 tuổi trong

“Tiêu chí phát triển thể lực, tầm vóc người Việt Nam giai đoạn 2011-2030”

(Đề án 641) [42], thì trong đề án 641 tiêu chí phát triển chiều cao của nữ năm

2020 và 2030 lần lượt là 156 cm và 157,5 cm, của nam tương ứng là 167 cm

và 168,5 cm. Điều này cho thấy chiều cao trung bình của sinh viên nam và nữ

trong nghiên cứu vào năm 2010 đã vượt xa tiêu chí phát triển thanh niên Việt

Nam năm 2030, chứng tỏ tiêu chuẩn về chiều cao khi xét tuyển đầu vào của

trường đã lựa chọn được những sinh viên có hình thể rất tốt.

Sự chênh lệch khá lớn về chiều cao trung bình của sinh viên trong

nghiên cứu so với điều tra của Viện khoa học TDTT năm 2001 và “Tiêu chí

phát triển thể lực, tầm vóc người Việt Nam giai đoạn 2011-2030” có thể lí

giải là do phần lớn những sinh viên thi vào Trường ĐHSP TDTT Hà Nội đều

là những em có năng khiếu chuyên ngành thể thao, có tố chất phát triển thể

lực. Khi được tuyển chọn vào trường, được luyện tập TDTT thường xuyên

trong điều kiện cơ sở vật chất tốt, đúng phương pháp đã giúp sinh viên có

điều kiện phát triển về mặt thể chất nhanh hơn so với các nhóm đối tượng

khác.

Như vậy có thể thấy, chiều cao đứng của nam và nữ sinh viên trong

nghiên cứu ở giai đoạn 2010-2013 (từ 18-21 tuổi) tuân theo quy luật tăng

trưởng ở người Việt Nam, tăng đều ở cả hai giới với mức tăng trung bình

hàng năm của nam là 0,93 cm và của nữ là 0,72 cm. Giai đoạn 2010-2011 có

tốc độ tăng trưởng nhanh hơn với mức tăng trung bình của nam là 1,52 cm và

của nữ là 1,37 cm. Chiều cao trung bình của sinh viên trong nghiên cứu cao

hơn so chiều cao trung bình trong nghiên cứu của một số tác giả, trong điều

tra của Viện khoa học TDTT năm 2001 và cao hơn so với “Tiêu chí phát triển

35

thể lực, tầm vóc người Việt Nam giai đoạn 2011-2030” ở nhóm tuổi tương

ứng.

3.1.2. Cân nặng

Cùng với chiều cao đứng, cân nặng là một chỉ số quan trọng có mặt

trong hầu hết các công trình điều tra nghiên cứu cơ bản về hình thái và thể lực

của con người. Cân nặng liên quan đến nhiều kích thước khác nhau nên

thường dùng để đánh giá sự phát triển cơ thể. Đối với một cơ thể người bình

thường trong giai đoạn tăng trưởng, cân nặng thường xuyên tăng lên nhưng

không đồng đều qua các thời kì.

Kết quả nghiên cứu cân nặng của sinh viên K43 Trường ĐHSP TDTT

Hà Nội được trình bày trong bảng 3.3.

Bảng 3.3. Cân nặng (kg) của sinh viên theo từng năm và theo giới tính

Cân nặng (kg)

Nam (1) Nữ (2)

Năm - p (1-2) n Tăng n Tăng

2010 336 59,81 ± 5,74 - 65 49,90 ± 3,70 - 9,91 <0,05

2011 335 61,16 ± 4,79 1,35 65 51,12 ± 4,81 1,22 10,04 <0,05

2013 335 62,19 ± 4,19 1,03 65 51,60 ± 3,49 0,48 10,59 <0,05

Chung 61,25 ± 4,90 0,79 50,87 ± 4,00 0,57 10,25

p <0,05 <0,05

Kết quả trong Bảng 3.3 cho thấy: tương tự như chiều cao đứng, cân

nặng trung bình của sinh viên tăng dần từ năm 2010 đến năm 2013, cụ thể cân

nặng của nam sinh viên tăng từ năm 2010 là 59,8 ± 5,20 kg đến năm 2013 là

63,19 ± 4,19 kg, cân nặng của nữ sinh viên tăng từ năm 2010 là 49,9 ± 3,70

36

kg đến năm 2013 là 51,60 ± 3,49 kgvới mức tăng trung bình hàng năm của

nam là 0,79 kg và của nữ là 0,57 kg.

Có sự khác biệt về mức tăng trưởng cân nặng của nam, nữ trong giai

đoạn 2010-2011 so với giai đoạn 2011-2013 (p<0,05). Cân nặng trung bình

của nam lớn hơn của nữ là 10,25 kg, khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05).

Hình 3.6. Cân nặng của sinh viên theo từng năm và theo giới tính

Kết quả nghiên cứu cho thấy, trong giai đoạn 2010-2013 cân nặng của

sinh viên trong nghiên cứu tuân theo quy luật tăng trưởng cân nặng của người

Việt Nam, tuy nhiên mức tăng cân nặng trung bình của nam cao hơn của nữ

(khác biệt có ý nghĩa thống kê p<0,05). Cũng giống như chiều cao, cân nặng

và mức tăng cân nặng trung bình của nam và nữ trong nghiên cứu đều cao

hơn trong nghiên cứu của một số tác giả khác như Mai Văn Hưng [22], Trịnh

Văn Minh [31].

37

Hình 3.7. So sánh cân nặng của nam giai đoạn 18-21 tuổi theo một số tác giả

Hình 3.8. So sánh cân nặng của nữ giai đoạn 18-21 tuổi theo một số tác giả

Nhìn chung, cân nặng của sinh viên trong nghiên cứu của chúng tôi cao

hơn so với sinh viên cùng nhóm tuổi trong nghiên cứu của Mai Văn Hưng

[22], Trịnh Văn Minh [31]. Mức chênh lệch cân nặng giữa các nhóm tuổi

cũng thể hiện rõ ràng hơn. So sánh cân nặng của sinh viên trong nghiên cứu

với cân nặng của sinh viên K30 Trường ĐHSP TDTT Hà Nội (trước đây là

Cao đẳng Sư phạm Thể dục thể thao TWI) trong nghiên cứu của Vũ Thị

Thanh Bình [2] thì cân nặng của sinh viên trong nghiên cứu của chúng tôi

38

cũng cao hơn, chứng tỏ sau 13 năm hình thái của sinh viên khi thi tuyển vào

trường đã có sự cải thiện rõ rệt. (Cân nặng trung bình của nam sinh viên K30

là 57,7 ± 4,2 kg và của nữ là 50,3 ± 4,6 kg).

Cân nặng trung bình của sinh viên trong nghiên cứu cao hơn so với kết

quả về cân nặng trong điều tra thể chất người Việt Nam của Viện khoa học

TDTT năm 2001 (khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,05).

Bảng 3.4. So sánh cân nặng của sinh viên trong nghiên với kết quả

điều tra của Viện khoa học TDTT năm 2001

Cân nặng (kg)

Nam Nữ

Điều tra của Điều tra của Trong nghiên Trong Viện khoa học Viện khoa học Tuổi cứu nghiên cứu TDTT TDTT

45,7 ± 4,80 59,81± 5,74 53,15 ± 6,88 49,90 ± 3,70 18

61,16 ± 4,79 53,16 ± 5,71 51,30 ± 4,81 45,77 ± 5,03 19

62,19 ± 4,19 54,40 ± 5,93 51,60 ± 3,49 47,20 ± 5,32 21

Điều tra thể chất nhân dân do Viện khoa học TDTT thực hiện trên

49.786 người Việt Nam từ 6 đến 20 tuổi trong đó có 8.400 sinh viên có độ

tuổi từ 18-20 ở 17 trường đại học, cao đẳng và trung học chuyên nghiệp. Bảng

3.4 cho thấy cân nặng và mức tăng cân nặng của nam và nữ sinh viên trong

nghiên cứu qua từng năm đều cao hơn so với cân nặng của nam và nữ sinh

viên thuộc nhóm tuổi tương ứng trong điều tra của Viện khoa học TDTT năm

2001 [48].

39

Hình 3.9. So sánh cân nặng của nam trong nghiên so với kết quả

điều tra của Viện khoa học TDTT năm 2001

Cân nặng và mức tăng cân nặng của nam trong nghiên cứu qua từng

năm đều cao hơn nhiều so với cân nặng của sinh viên ở nhóm tuổi tương ứng

trong điều tra thể chất của Viện khoa học TDTT. Cân nặng của nam sinh viên

18 tuổi, 19 tuổi và 21 tuổi trong nghiên cứu của chúng tôi lần lượt là: 59,81 ±

5,74 kg, 61,16 ± 4,79 kg và 62,19 ± 4,19 kg cao hơn so với cân nặng của nam

thuộc nhóm tuổi tương ứng trong điều tra của Viện khoa học TDTT năm 2001

là: 53,15 ± 6,88 kg, 53,16 ± 5,71 kg và 54,40 ± 5,93 kg. Cân nặng của nam

trong nghiên cứu cao hơn nhiều so với cân nặng nam sinh viên trong điều tra

của Viện khoa học TDTT là do nam trong nghiên cứu khi thi tuyển đầu vào

Trường ĐHSP TDTT Hà Nội đã phải đạt chuẩn về cân nặng tối thiểu là 55 kg.

40

Hình 3.10. So sánh cân nặng của nữ trong nghiên so với kết quả điều tra

của Viện khoa học TDTT năm 2001

Mặc dù cân nặng của nữ sinh viên thấp hơn so với nam sinh viên trong

cùng nhóm tuổi nhưng cân nặng của nữ sinh viên trong nghiên cứu của chúng

tôi cũng cao hơn so với kết quả cân nặng của nữ sinh viên trong điều tra của

Viện khoa học TDTT năm 2001. Cân nặng nữ sinh viên 18 tuổi, 19 tuổi và 21

tuổi trong nghiên cứu của chúng tôi lần lượt là: 49,9 ± 3,70 kg, 51,3 ± 4,81 kg

và 51,60 ± 3,49 kg cao hơn so với cân nặng nữ thuộc nhóm tuổi tương ứng

trong điều tra của Viện khoa học TDTT năm 2001 là: 45,76 ± 4,80 kg, 45,77

± 5,03 kg và 47,20 ± 5,32 kg. Cân nặng của nữ trong nghiên cứu cao hơn

nhiều so với nữ sinh viên trong điều tra của Viện khoa học TDTT là do nữ

trong nghiên cứu khi thi tuyển đầu vào Trường ĐHSP TDTT Hà Nội đã phải

đạt chuẩn về cân nặng tối thiểu là 45 kg.

Cũng giống như chiều cao, mức tăng cân nặng của sinh viên trong

nghiên cứu của chúng tôi cao hơn nhiều so với kết quả cân nặng trong nghiên

cứu của Mai Văn Hưng [22], Trịnh Văn Minh [31], Vũ Thị Thanh Bình [2, 3]

41

và trong điều tra của Viện khoa học TDTT năm 2001 [48]. Sự khác biệt này

là do sinh viên trong nghiên cứu khi thi tuyển đầu vào đã phải đạt những tiêu

chuẩn nhất định về cân nặng cộng với ảnh hưởng của chế độ dinh dưỡng và

luyện tập TDTT thường xuyên.

Như vậy, tương tự như chiều cao đứng, cân nặng của nam và nữ sinh

viên trong nghiên cứu ở giai đoạn 2010-2013 (18-21 tuổi) tuân theo quy luật

tăng trưởng ở người Việt Nam, tăng đều ở cả hai giới, với mức tăng trung

bình hàng năm của nam là 0,79 kg và của nữ là 0,57 kg. Giai đoạn 2010-2011

(18-19 tuổi) có mức độ tăng trưởng cân nặng nhanh cao hơn giai đoạn 2011-

2013. Mức tăng cân nặngcủa sinh viên trong nghiên cứu cao hơn so với mức

tăng cân nặng trong điều tra của Viện khoa học TDTT năm 2001 và cao hơn

so với kết quả cân nặng trong nghiên cứu của Vũ Thị Thanh Bình, Trịnh Văn

Minh, Mai Văn Hưng.

3.1.3. Các vòng ngực

Số đo các vòng ngực là những chỉ tiêu quan trọng để đánh giá sự phát

triển thể chất. Các chỉ tiêu này liên quan trực tiếp đến thể tích phổi, thể hiện

khả năng hô hấp của cơ thể trong tình trạng sức khỏe bình thường.

3.1.3.1. Vòng ngực hít vào hết sức

Vòng ngực hít vào hết sức (VNHVHS) đo khi đối tượng hít vào tận lực

phản ánh khả năng dãn nở lồng ngực. VNHVHS chịu ảnh hưởng của tập

luyện và lao động, được dùng trong một số chỉ số phát triển cơ thể (ví dụ

Q.V.C). Kết quả đo VNHVHS của sinh viên trong nghiên cứu của chúng tôi

được trình bày trong bảng 3.5.

42

Bảng 3.5.Vòng ngực hít vào hết sức (cm) của sinh viên theo từng năm và theo giới tính

Vòng ngực hít vào hết sức(cm)

Nam (1) Nữ (2) Năm p(1-2) - n Tăng n Tăng

2010 336 85,96 ± 4,05 - 65 80,02 ± 2,23 - 5,94 <0,05

2011 335 87,70 ± 3,80 1,74 65 81,27 ± 3,71 1,25 6,43 <0,05

2013 335 90,01 ± 3,25 2,31 65 83,09 ± 3,05 1,82 6,92 <0,05

Chung 87,89 ± 3,70 1,35 81,46 ± 3,06 1,02 6,43

<0,05 <0,05 P

Các số liệu trong Bảng 3.5 cho thấy, VNHVHS của sinh viên nam và

nữ tăng dần từ năm 2010 đến 2013, cụ thể VNHVHS của nam tăng từ năm

2010 là 85,96 ± 4,05 cm đến 2013 là 90,01 ± 3,25 cm và của nữ tăng từ năm

2010 là 80,02 ± 2,23 cm đến năm 2013 là 83,09 ± 3,05 cm. Mức tăng trung

bình hàng năm của nam là 1,35 cm/năm và của nữ là 1,02 cm/năm. VNHVHS

trung bình của nam cao hơn nữ 6,43 cm, khác biệt có ý nghĩa thống kê

(p<0,05).

43

Hình 3.11.Vòng ngực hít vào hết sức của sinh viên theo từng năm

và theo giới tính

Khi so sánh với nghiên cứu của Mai Văn Hưng [22], Trịnh Văn Minh

[31], Trần Sinh Vương [50] chúng tôi thấy VNHVHS trong nghiên cứu của

chúng tôi cao hơn hẳn và mức tăng VNHVHS qua các giai đoạn cũng thể hiện

rõ ràng hơn.

Hình 3.12. Vòng ngực hít vào hết sức của nam 18-21 tuổi

theo nghiên cứu của một số tác giả

44

Hình 3.13. Vòng ngực hít vào hết sức của nữ 18-21 tuổi

theo nghiên cứu của một số tác giả

Nhìn chung, VNHVHS và mức tăng trưởng VNHVHS của sinh viên

trong nghiên cứu cao hơn so với kết quả nghiên cứu của một số tác giả khác

trên cùng một nhóm tuổi. Tuy nhiên, khi so sánh VNHVHS của sinh viên

trong nghiên cứu của chúng tôi với VNHVHS của sinh viên trường Đại học

TDTT I trong nghiên cứu của Nguyễn Kim Xuân [56] thì VNHVHS trong

nghiên cứu của chúng tôi thấp hơn (VNHVHS của sinh viên trường Đại học

TDTT I với nam là 87,30± 5,29 cm và nữ là 83,30± 3,59 cm) có thể là do

trường Đại học TDTT I là trường đào tạo vận động viên chuyên nghiệp nên

sinh viên có thể chất tốt hơn so với sinh viên trường ĐHSP TDTT Hà Nội.

Có thể kết luận, VNHVHS của sinh viên trong nghiên cứu tăng dần từ

năm 2010 đến 2013. VNHVHS của nam cao hơn của nữ, VNHVHS tăng dần

là do quá trình tập luyện TDTT đã có ảnh hưởng nhất định đến khả năng hô

hấp, các cơ hô hấp được tăng cường dẫn tới thể tích lồng ngực khi hít vào hết

sức tăng lên. VNHVHS trong nghiên cứu của chúng tôi cao hơn so với kết

quả nghiên cứu của một số tác giả nhưng thấp hơn so với VNHVHS của sinh

viên trường Đại học TDTT I.

45

3.1.3.2 Vòng ngực thở ra hết sức

Vòng ngực thở ra hết sức (VNTRHS) đo khi đối tượng thở ra tận lực

làm cho lồng ngực xẹp lại nhỏ nhất. VNTRHS cũng chịu ảnh hưởng của tập

luyện và lao động. Kết quả đo VNTRHS của sinh viên được trình bày trong

bảng 3.6.

Bảng 3.6.Vòng ngực thở ra hết sức (cm) của sinh viên theo từng năm và theo giới tính

Vòng ngực thở ra hết sức (cm)

Nam (1) Nữ (2) Năm p(1-2) - n Tăng n Tăng

2010 336 79,17 ± 7,01 - 65 75,56 ± 2,32 - 3,61 <0,05

2011 335 80,73 ± 4,23 1,56 65 76,21 ± 3,27 0,65 4,72 <0,05

2013 335 83,58 ± 3,55 2,65 65 78,01 ± 4,71 1,80 5,57 <0,05

Chung 81,17 ± 4,93 1,47 76,59 ± 3,43 0,82 4,64

<0,05 <0,05 p

Các số liệu trong Bảng 3.6 cho thấy, trong giai đoạn 2010-2013

VNTRHS của sinh viên tăng liên tục theo tuổi cụ thể như sau: VNTRHS của

nam tăng từ năm 2010 là 79,17 ± 7,01 cm đến 2013 là 83,58 ± 3,55 cm và của

nữ tăng từ năm 2010 là 75,56 ± 2,32 cm đến năm 2013 là 78,01 ± 4,71 cm.

Mức tăng trung bình hàng năm của nam là 1,47 cm/năm và của nữ là 0,82

cm/năm. VNTRHS trung bình của nam cao hơn nữ 4,64 cm, khác biệt có ý

nghĩa thống kê (p<0,05).

46

Hình 3.14.Vòng ngực thở ra hết sức của sinh viên theo từng năm

và theo giới tính

Khi so sánh với nghiên cứu của Trần Sinh Vương [50], Trịnh Văn

Minh [11], chúng tôi thấy VNTRHS của sinh viên trong nghiên cứu cao hơn

hẳn. Tuy nhiên, khi so sánh VNTRHS của sinh viên trong nghiên cứu của

chúng tôi với VNTRHS của sinh viên trường Đại học TDTT I trong nghiên

cứu của Nguyễn Kim Xuân [56], Nguyễn Đình Chung [11] thì VNTRHS của

sinh viên trong nghiên cứu của chúng tôi thấp hơn.

Cũng giống như chiều cao và cân nặng, trong giai đoạn 18-21 tuổi sự

thay đổi của VNTRHS và VNHVHS là khá lớn, khác biệt về VNTRHS,

VNHVHS theo giới tính là có ý nghĩa thống kê. Vòng ngực của nam sinh viên

tăng nhiều hơn so với nữ sinh viên. Điều này là do sự thay đổi chiều cao, cân

nặng và chế độ luyện tập các môn thể thao có liên quan trực tiếp đến sự thay

đổi kích thước vòng ngực.

3.1.3.3. Độ giãn nở ngực

Sự chênh lệch giữa VNHVHS và VNTRHS gọi là độ giãn nở ngực. Độ

giãn nở ngực thể hiện khả năng giãn nở của lồng ngực khi hít vào hết sức và

47

thở ra hết sức, độ giãn nở ngực lớn chứng tỏ khả năng hô hấp tốt, với thanh

niên Việt Nam độ giãn nở ngực trung bình là 5-7 cm. Độ giãn nở ngực được

tính theo công thức:

Độ giãn nở ngực = VNHVHS – VNTRHS [18]

Kết quả độ giãn nở ngực của sinh viên trong nghiên cứu được thể hiện

trong bảng 3.7.

Bảng 3.7. Độ giãn nở ngực (cm) của sinh viên theo từng năm và theo giới tính

Độ giãn nở ngực (cm)

Nam (1) Nữ (2) Năm - p(1-2) n n

2010 336 6,79 ± 2,96 4,46 ± 0,09 2,33 <0,05 65

2011 335 6,98 ± 0,43 5,07 ± 0,44 1,92 <0,05 65

2013 335 6,44 ± 0,30 5,07 ± 1,66 1,38 <0,05 65

Chung 6,74 ± 1,23 4,88 ± 0,37 1,86

Kết quả Bảng 3.7 cho thấy, độ giãn nở ngực trung bình giai đoạn 2010-

2013 của nam sinh viên là 6,74 ± 1,23 cm và nữ sinh viên là 4,88 ± 0,37 cm.

Độ giãn nở ngực trung bình của nam và nữ sinh viên trong nghiên cứu phù

hợp với độ giãn nở ngực trung bình của thanh niên Việt Nam. Độ giãn nở

ngực của nam cao hơn độ giãn nở ngực của nữ với mức chênh lệch trung bình

là 1,86 cm, khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05).

Các kết quả nghiên cứu trên đây cho thấy, sự thay đổi về kích thước

VNTRHS, VNHVHS diễn ra một cách đổng bộ với các kích thước hình thái

khác như chiều cao, cân nặng. VNTRHS và VNHVHS của cả nam và nữ sinh

viên trong nghiên cứu đều cao hơn so với trong nghiên cứu của các tác giả

48

khác. Độ giãn nở ngực trung bình của sinh viên trong nghiên cứu với nam là

6,74 ± 1,23 cm và nữ là 4,88 ± 0,37 cm cho thấy khả năng hô hấp khá tốt.

Điều này là do sinh viên được tuyển chọn vào Trường ĐHSPTDTT Hà Nội có

thể lực tốt hơn so với sinh viên các trường đại học khác cộng với việc luyện

tập các môn thể thao thường xuyên với cường độ lớn đã có ảnh hưởng nhất

định đến sự tăng trưởng kích thước vòng ngực và khả năng hô hấp của cơ thể.

3.1.3.4 Vòng ngực trung bình (VNTB)

Vòng ngực trung bình được tính bằng số trung bình cộng của vòng

ngực hít vào hết sức và vòng ngực thở ra hết sức.

Kết quả VNTB của sinh viên K43 Trường ĐHSP TDTT Hà Nội được

thể hiện trong bảng 3.8.

Bảng 3.8.Vòng ngực trung bình (cm) của sinh viên

theo từng năm và theo giới tính

Vòng ngực trung bình (cm)

Nam (1) Nữ (2) Năm - n Tăng n Tăng

2010 336 82,55 ± 5,53 - 65 77,79 ± 2,32 - 3,61

2011 335 84,21 ± 4,02 1,66 65 78,73 ± 4,27 0,94 4,72

2013 335 86,78 ± 3,55 2,56 65 80,51 ± 3,25 1,79 5,57

Chung 84,53 ± 4,35 2,06 78,90 ± 3,23 1,34 4,64

Kết quả VNTB được dùng chủ yếu để tính chỉ số Pignet. VNTB của

sinh viên trong nghiên cứu cũng tuân theo quy luật phát triển của VNHVHS

và VNTRHS, VNTB tăng dần từ năm 2010 đến 2013 với mức tăng trung bình

của nam là 2,06 cm và của nữ là 1,34 cm.

49

Hình 3.15. Vòng ngực trung bình của sinh viên theo từng năm

và theo giới tính

Cũng giống như kết quả VNHVHS và VNTRHS, VNTB của nam và

nữ sinh viên trong nghiên cứu cao hơn so với kết quả VNTB trong nghiên cứu

của Trịnh Văn Minh [11], Mai Văn Hưng [22].

Hình 3.16. Vòng ngực trung bình của nam 18-21 tuổi theo một số tác giả

50

Hình 3.17. Vòng ngực trung bình của nữ 18-21 tuổi theo một số tác giả

Có thể kết luận, VNTB của sinh viên trong nghiên cứu tăng dần từ năm

2010 đến 2013. VNTB của nam cao hơn của nữ, VNTB và mức tăng trưởng

VNTB của sinh viên trong nghiên cứu của chúng tôi cao hơn so với kết quả

nghiên cứu VNTB của Trịnh Văn Minh [11], Mai Văn Hưng [22] trên cùng

một nhóm tuổi.

3.1.4.Vòng cánh tay phải co

Các vòng cơ ở chi biểu hiện sự phát triển của ba yếu tố: xương, cơ và tổ

chức mỡ dưới da. Như vậy, đo các vòng cơ ở chi cho phép ta đánh giá tình

trạng phát triển cơ thể nói chung và nhất là tình trạng tập luyện và dinh dưỡng

của cơ thể. Vòng cánh tay thể hiện sự phát triển cơ bắp cánh tay, vòng cánh

tay thể hiện sự khác biệt giới tính và được dùng trong một số chỉ số thể lực (ví

dụ QVC).

Kết quả nghiên cứu vòng cánh tay phải co của sinh viên được trình bày

ở bảng 3.9.

51

Bảng 3.9. Vòng cánh tay phải co (cm) của sinh viên theo từng năm và theo giới tính

Vòng cánh tay phải co (cm)

Nam (1) Nữ (2) Năm p(1-2) - n Tăng n Tăng

2010 336 28,81 ± 1,80 - 65 25,81 ± 1,63 - 3,00 <0,05

2011 335 29,45 ± 1,78 0,64 65 26,37 ± 1,72 0,56 3,08 <0,05

2013 335 31,17 ± 2,11 1,72 65 27,58 ± 2,08 1,21 3,59 <0,05

Chung 29,80 ± 1,89 0,79 26,60 ± 1,96 0,59 3,22

>0,05 >0,05 p

Số liệu trong bảng 3.9 cho thấy, nhìn chung VCTPC của sinh viên tăng

nhẹ từ năm 2010 đến năm 2013, cụ thể VCTPC của nam tăng từ năm 2010 là

28,81 ± 1,80 cm đến năm 2013 là 31,17 ± 2,11 cm, VCTPC của nữ tăng từ

năm 2010 là 25,81 ± 1,63 cm đến năm 2013 là 27,58 ± 2,08 cm. Mức tăng

trung bình hàng năm của nam là 0,79 cm và của nữ là 0,59 cm.

VCTPC của nam lớn hơn của nữ là 3,22 cm, khác biệt có ý nghĩa thống

kê (p<0,05). Điểm đáng chú ý là không có sự khác biệt về mức tăng trưởng

VCTPC của nam, nữ trong giai đoạn 2010-2011 so với giai đoạn 2011-2013

(p>0,05).

52

Hình 3.18. Vòng cánh tay phải co của sinh viên theo từng năm

và theo giới tính

Kết quả VCTPC của sinh viên trong nghiên cứu cao hơn so với VCTPC

của thanh niên Việt Nam lứa tuổi 20-24 trong nghiên cứu của Trịnh Văn

Minh [11] (VCTPC của nam là 27,35 ± 1,80 cm và của nữ là 24,39 ± 1,66

cm), sự khác biệt này có thể lí giải là do sinh viên được tuyển chọn vào

trường năng khiếu chuyên ngành TDTT là những em đạt các tiêu chuẩn nhất

định về mặt hình thái, thể lực. Đa số các em đều có sự luyện tập TDTT

thường xuyên trước khi vào trường nên các cơ ở vùng cánh tay phát triển hơn

so với những người bình thường.

Như vậy có thể thấy, kích thước VCTPC ở cả nam và nữ sinh viên

trong nghiên cứu vẫn có sự tăng trưởng với mức tăng trung bình hàng năm

của nam là 0,79 cm và của nữ là 0,59 cm. Có thể lí giải do quá trình luyện tập

các môn thể thao chuyên sâu như bóng rổ, bóng bàn, bóng ném, cầu lông,

quần vợt…đã có sự tác động tích cực nhất định đến quá trình phát triển các

bắp cơ ở vùng cánh tay.

53

3.1.5. Chỉ số Pignet

Chỉ số Pignet bao gồm 3 kích thước, là hiệu số giữa chiều cao đứng với

tổng cân nặng và vòng ngực trung bình. Chỉ số này càng nhỏ, sự phát triển cơ

thể càng tốt.Tuy nhiên chỉ số Pignet có lợi đối với người béo và thiệt đối với

nguời cao vì người cao thì chỉ số này sẽ lớn.

Kết quả nghiên cứu về chỉ số Pignet của sinh viên được trình bày trong

bảng 3.10.

Bảng 3.10. Chỉ số Pignet của sinh viên theo từng năm và theo giới tính

Chỉ số pignet

Nam (1) Nữ (2) Năm

- p(1-2) n n

2010 336 27,71 ± 7,21 33,81 ± 2,75 -6,10 <0,05 65

2011 335 26,22 ± 5,72 33,02 ± 5,26 -6,80 <0,05 65

2013 335 23,86 ± 3,48 31,59 ± 2,98 -7,73 <0,05 65

Chung 25,72 ± 5,46 32,91 ± 3,62 -7,19

Kết quả ở Bảng 3.10 cho thấy, cùng với các chỉ tiêu hình thái khác, chỉ

số Pignet cũng tốt dần lên theo từng năm. Trong giai đoạn 2010-2013 chỉ số

Pignet ở cả nam và nữ có sự dao động nhẹ, năm 2010 chỉ số Pignet ở nam là

27,71 ± 7,21 ở nữ là 33,81 ± 2,75. Đến năm 2013, chỉ số Pignet của nam là

23,86 ± 3,48 và của nữ là 31,59 ± 2,98. Mức chênh lệch chỉ số Pignet trung

bình của nam và nữ là 7,19. Khác biệt lớn nhất về chỉ số Pignet giữa nam và

nữ là năm 2013 (chênh lệch 7,73) và thấp nhất ở năm 2010 (chênh lệch 6,10).

Khác biệt về chỉ số Pignet giữa nam nữ trong cùng giai đoạn có ý nghĩa

thống kê (p<0,05).

54

Hình 3.19. Chỉ số Pignet của sinh viên theo từng năm và theo giới tính

Khi so sánh với bảng đánh giá chỉ số Pignet chuẩn của người Việt Nam

của Nguyễn Quang Quyền có thể nhận thấy, ở nam sinh viên trong cả ba năm

đều thuộc loại rất khỏe. Ở nữ, mặc dù chỉ số Pignet có tăng lên nhưng trong

cả 3 năm đều có chỉ số Pignet thuộc loại khỏe.

Khi so sánh với các nghiên cứu của các tác giả khác trên đối tượng sinh

viên cùng lớp tuổi chúng tôi nhận thấy, so với nghiên cứu của Mai Văn Hưng

[22], Vũ Thị Thanh Bình [2], Trịnh Văn Minh [31], chỉ số Pignet của sinh

viên trong nghiên cứu của chúng tôi tốt hơn hẳn.

55

Bảng 3.11. Chỉ số Pignet của sinh viên giai đoạn 18-21 tuổi

theo nghiên cứu của một số tác giả

Chỉ số Pignet

Giới Tác giả 18 21

Tuổi 19 Mai Văn Hưng (2001) 36,35  4,04 33,86  3,33 33,28  4,29 Trịnh Văn Minh (1996) 38,61  7,09 35,06  7,26 32,13  7,34 Nam

31,7  6,2

Vũ Thị Thanh Bình (1998) Mai Văn Hưng(2001) 40,66  6,29 37,63  5,10 36,54  5,59 Trịnh Văn Minh (1996) 36,35  8,36 31,86  8,28 32,77  8,44 Nữ

34,0  6 Vũ Thị Thanh Bình (1998)

Bảng 3.11 cho thấy kết quả chỉ số Pignet của nam và nữ trong các

nghiên cứu của Mai Văn Hưng, Vũ Thị Thanh Bình, Trịnh Văn Minh đều xếp

loại khỏe và trung bình. Sự khác biệt về chỉ số Pignet giữa sinh viên trong

nghiên cứu của chúng tôi với sinh viên trong các nghiên cứu này có liên quan

với đặc thù của sinh viên được tuyển chọn vào trường năng khiếu TDTT. Mặc

dù Vũ Thị Thanh Bình nghiên cứu trên sinh viên K30 Trường ĐHSP TDTT

Hà Nội nhưng chỉ số Pignet của cả nam và nữ sinh viên trong nghiên cứu đều

xếp loại khỏe, chứng tỏ sau 13 năm sinh viên K43 trong nghiên cứu của

chúng tôi đã có sự cải thiện đáng kể về thể lực, đặc biệt thể hiện ở chỉ số

Pignet của nam sinh viên.

Như vậy, đánh giá về thể lực của nam và nữ sinh viên trong nghiên cứu

dựa vào chỉ số Pignet theo thang phân loại của Nguyễn Quang Quyền cho

thấy: Trong cả ba năm nghiên cứu, thể lực của nam sinh viên thuộc loại rất

khỏe, thể lực của nữ sinh viên tuy đã tăng lên nhưng vẫn thuộc loại khỏe.

56

3.1.6. BMI

Kết quả nghiên cứu BMI của sinh viên được trình bày trong bảng 3.12.

Bảng 3.12. BMI của sinh viên theo từng năm và theo giới tính

BMI

Nam (1) Nữ (2) Năm p (1-2) n n

2010 336 20,42 ± 1,41 18,90 ± 1,13 <0,05 65

2011 335 20,86 ± 1,55 19,43 ± 1,26 <0,05 65

2013 335 20,96 ± 0,98 19,20 ± 0,92 <0,05 65

Chung 20,76 ± 1,30 19,19 ± 1,12

Kết quả ở Bảng 3.12 cho thấy chỉ số BMI của sinh viên nam và nữ ở cả

3 năm nghiên cứu đều tương đối ổn định, mặc dù có dao động nhẹ. Cụ thể ở

nam sinh viên năm 2010 có BMI là 20,42 ± 1,41 kg/m ² và năm 2013 là 20,96

± 0,98 kg/m ² còn BMI của nữ năm 2010 là 18,90 ± 1,13 kg/m ² và năm 2013

là 19,20 ± 0,92 kg/m ². Khác biệt về chỉ số BMI giữa nam và nữ trong cùng

giai đoạn có ý nghĩa thống kê (p<0,05).

57

Hình 3.20. BMI của sinh viên theo từng năm và theo giới tính

BMI trung bình trong giai đoạn này ở nam đạt 20,76 ± 1,30 kg/m ² và ở

nữ đạt 19,19 ± 1,12 kg/m ². Dựa trên tiêu chuẩn phân loại ở bảng 2.2 có thể

thấy, BMI của sinh viên nam và nữ trong nghiên cứu đều thuộc loại bình

thường. Điều này cho thấy chế độ dinh dưỡng của sinh viên khá tốt.

Khi so sánh với nghiên cứu của các tác giả khác trên đối tượng sinh

viên cùng lớp tuổi kết quả của chúng tôi cao hơn nghiên cứu của Mai Văn

Hưng [22], Trịnh Văn Minh [31] và tương đương với Vũ Thị Thanh Bình [2]

trên sinh viên K30 Trường ĐHSP TDTT Hà Nội (trước đây là trường Cao

đẳng Sư phạm TDTT TWI)

Bảng 3.13. BMI giai đoạn 18-21 tuổi theo nghiên cứu của một số tác giả

BMI

Giới Tác giả 21 18

Nam

Nữ

Mai Văn Hưng (2001) Trịnh Văn Minh (1996) Vũ Thị Thanh Bình (1998) Mai Văn Hưng(2001) Trịnh Văn Minh (1996) Vũ Thị Thanh Bình(1998) Tuổi 19 18,98  1,61 19,35  1,60 19,54  1,30 18,64  1,56 19,01  1,47 19,46  1,53 20,6  1,3 18,37  1,77 19,00  1,86 19,25  1,86 18,80  1,63 19,18  1,55 19,02  1,52 20,5  1,5

58

Cũng như chỉ số Pignet, BMI của sinh viên trong nghiên cứu của chúng

tôi tốt hơn trong nghiên cứu của các tác giả khác, sự khác biệt này có liên

quan với đặc thù của sinh viên được tuyển chọn vào trường.

Như vậy có thể kết luận, trong cả ba năm nghiên cứu BMI của cả nam

và nữ sinh viên đều tương đối ổn định mặc dù có sự dao động nhẹ, BMI của

cả nam và nữ trong ba năm nghiên cứu đều nằm trong giới hạn bình thường

với BMI trung bình của nam đạt 20,76 ± 1,30 kg/m ² và của nữ đạt 19,19 ±

1,12 kg/m ².

3.1.7. Lực bóp tay thuận

Kết quả nghiên cứu lực bóp tay thuận của sinh viên được trình bày

trong bảng 3.14.

Bảng 3.14. Lực bóp tay thuận của sinh viên theo từng năm và theo giới tính

Lực bóp tay thuận (kg)

Nam Nữ Năm p (1-2) - n Tăng n Tăng

2010 336 44,64 ± 7,27 - 65 30,48 ± 3,79 14,16 <0,05

2011 335 46,56 ± 6,14 1,92 65 31,66 ± 4,12 1,18 14,90 <0,05

2013 335 48,97 ± 5,64 2,41 65 34,19 ± 5,27 2,53 14,78 <0,05

Chung 48,04 ± 6,15 1,44 34,78 ± 3,20 1,24 14,76

<0,05 <0,05 p

Các số liệu trong Bảng 3.14 cho thấy LBTTcủa sinh viên tăng dần từ

năm 2010 đến năm 2013, cụ thể LBTT của nam tăng từ năm 2010 là 44,64 ±

7,27 kg đến năm 2013 là 48,97 ± 5,64 kg, LBTT của nữ tăng từ năm 2010 là

59

30,48 ± 3,79 kg đến năm 2013 là 34,19 ± 5,27 kg. Mức tăng trung bình hàng

năm với nam là 1,44 kg và nữ tăng 1,24 kg.

Giai đoạn 2010-2011 LBTT tăng nhanh hơn giai đoạn 2011-2013, khác

biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,05.

Hình 3.21. Lực bóp tay thuận của sinh viên theo từng năm và theo giới tính

LBTT của nam lớn hơn của nữ là 14,76 kg, khác biệt có ý nghĩa thống

kê (p < 0,05). So với quy định về đánh giá và phân loại thể lực học sinh, sinh

viên của Bộ Giáo dục [5], LBTT của nam và nữ sinh viên trong nghiên cứu

đều thuộc mức đạt và tốt.

LBTT của sinh viên trong nghiên cứu cao hơn LBTT sinh viên Đại học

Kinh tế Quốc dân trong nghiên cứu của Giang Thị Khánh Vân [46] nhưng

thấp hơn LBTT của sinh viên Đại học TDTT I trong nghiên cứu của Nguyễn

Kim Xuân [51].

LBTT của sinh viên trong nghiên cứu của chúng tôi cao hơn so với kết

quả LBTT của sinh viên trong điều tra thể chất người Việt Nam của Viện

khoa học TDTT năm 2001 [48] (khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,05).

60

Bảng 3.15. So sánh LBTT của sinh viên trong nghiên cứu với kết quả điều tra

của Viện khoa học TDTT năm 2001

Lực bóp tay thuận (kg)

Nam Nữ

Điều tra của Điều tra của Tuổi Trong Viện khoa học Trong Viện khoa học

nghiên cứu TDTT năm nghiên cứu TDTT năm

2001 2001

18 44,64 ± 7,27 43,90 ± 6,50 30,48 ± 3,79 28,96 ± 5,08

19 46,56 ± 6,14 44,44 ± 6,17 31,66 ± 4,12 29,15 ± 4,91

Bảng 3.15 cho thấy LBTT của nam và nữ sinh viên trong nghiên cứu qua

từng năm đều vượt trội hơn hẳn so với LBTT của nam và nữ sinh viên thuộc

nhóm tuổi tương ứng trong điều tra của Viện khoa học TDTT năm 2001.

Hình 3.22. So sánh lực bóp tay thuận của nam trong nghiên cứu với kết quả

điều tra của Viện khoa học TDTT năm 2001

61

LBTT của nam sinh viên qua từng năm trong nghiên cứu đều cao hơn

hẳn so với điều tra của Viện khoa học TDTT. LBTT của nam sinh viên năm

2010 (18 tuổi), năm 2011 (19 tuổi) trong nghiên cứu của chúng tôi lần lượt là:

44,64 ± 7,27 kg, 46,56 ± 6,14 kg, cao hơn so với LBTT của nam nhóm tuổi

tương ứng trong điều tra của Viện khoa học TDTT năm 2001 là: 43,90 ± 6,50

kg, 44,44 ± 6,17 kg. LBTT của nam trong nghiên cứu của chúng tôi cao hơn

nhiều so với LBTT của nam sinh viên trong điều tra của Viện khoa học TDTT

là do nam trong nghiên cứu khi thi tuyển đầu vào Trường ĐHSP TDTT Hà

Nội đã phải đạt chuẩn về thể lực nhất định.

Mặc dù LBTT của nữ sinh viên thấp hơn so khá nhiều với nam sinh viên

trong cùng nhóm tuổi nhưng LBTT của nữ sinh viên trong nghiên cứu của chúng

tôi cũng tăng tốt hơn so với điều tra của Viện khoa học TDTT năm 2001.

Hình 3.23. So sánh lực bóp tay thuận của nữ trong nghiên cứu với kết quả

điều tra của Viện khoa học TDTT năm 2001

Tương tự nam sinh viên, LBTT và mức tăng LBTT của nữ trong nghiên

cứu cũng cao hơn hẳn so với LBTT của nữ sinh viên ở nhóm tuổi tương ứng

trong điều tra của Viện khoa học TDTT. LBTT của sinh viên nữ năm 2010

62

(18 tuổi), năm 2011 (19 tuổi), trong nghiên cứu của chúng tôi lần lượt là:

30,48 ± 3,79 kg, 31,66 ± 4,12 kg cao hơn so với LBTT của nữ sinh viên thuộc

nhóm tuổi tương ứng trong điều tra của Viện khoa học TDTT năm 2001 là:

28,96 ± 5,08 kg, 29,15 ± 4,91 kg. LBTT của nữ trong nghiên cứu cao hơn

nhiều so với nữ sinh viên trong điều tra của Viện khoa học TDTT là do nữ

trong nghiên cứu khi thi tuyển đầu vào Trường ĐHSP TDTT Hà Nội đã phải

đạt chuẩn về thể lực nhất định.

So sánh LBTT của sinh viên trong nghiên cứu vào năm 2010 (18 tuổi)

với tiêu chuẩn của thanh niên Việt Nam 18 tuổi trong “Tiêu chí phát triển thể

lực, tầm vóc người Việt Nam giai đoạn 2011-2030” (Đề án 641) [42] thì

LBTT của sinh viên nam trong nghiên cứu tại thời điểm năm 2010 cao hơn

mục tiêu phát triển thể lực nam thanh niên Việt Nam năm 2020 (LBTT nam

năm 2020 là 45 kg và năm 2030 là 48 kg), với nữ sinh viên LBTT xấp xỉ đạt

mục tiêu phát triển thể lực nữ thanh niên Việt Nam năm 2030 (LBTT nữ năm

2020 là 30 kg và năm 2030 là 34 kg).

Sự chênh lệch khá lớn về LBTT của sinh viên trong nghiên cứu so với

điều tra của Viện khoa học TDTT năm 2001và so với“Tiêu chí phát triển thể

lực, tầm vóc người Việt Nam giai đoạn 2011-2030” có thể do các tiêu chuẩn

thể lực khi tuyển chọn đầu vào và trong quá trình học sinh viên được luyện

tập các môn thể thao chuyên sâu như bóng ném, bóng rổ, bóng bàn, quần vợt,

cầu lông…dẫn tới sức mạnh của các cơ ở cánh tay và bàn tay tăng nhanh vượt

trội.

Có thể kết luận, LBTT của sinh viên trong nghiên cứu vẫn có sự tăng

trưởng qua từng năm với mức tăng trung bình hàng năm của nam là 1,44 kg

và nữ là 1,24 kg. Khác biệt về LBTT và mức tăng trưởng LBTT giữa nam và

nữ trong cùng một lớp tuổi thể hiện rõ rệt, LBTT của nam lớn hơn của nữ là

14,76 kg. LBTT và mức tăng trưởng LBTT của sinh viên trong nghiên cứu

63

vẫn có sự tăng trưởng qua từng năm là do sinh viên khi tuyển chọn vào

trường đã có thể lực rất tốt cộng với việc luyện tập thường xuyên các môn thể

thao như bóng rổ, bóng ném, cầu lông, quần vợt…đã khiến sức mạnh của các

cơ ở cánh tay và bàn tay tăng dần qua từng năm.

3.1.8. Lực cơ lƣng

Kết quả nghiên cứu lực cơ lưng của sinh viên được trình bày trong bảng 3.16.

Bảng 3.16. Lực cơ lưng của sinh viên theo từng năm và theo giới tính

Lực cơ lƣng (kg)

Nam Nữ Năm p(1-2) - n Tăng n Tăng

2010 336 120,02 ± 12,79 - 65 82,17 ± 5,12 - 37,85 <0,05

2011 335 123,80 ± 13,58 3,78 65 84,19 ± 6,38 2,02 39,61 <0,05

2013 335 128,95 ± 13,44 5,15 65 86,93 ± 5,67 2,74 40,02 <0,05

Chung 123,82 ± 13,27 2,98 84,43 ± 5,72 1,59 39,83

p <0,05 <0,05

Các số liệu cho thấy, nhìn chung LCL của sinh viên tăng dần từ năm

2010 đến năm 2013, cụ thể LCL của nam tăng từ năm 2010 là 120,02 ± 12,79

kg đến năm 2013 là 128,95 ± 13,44 kg, LCL của nữ tăng từ năm 2010 là

82,17 ± 5,12 kg đến năm 2013 là 86,93 ± 5,67 kg. Mức tăng trung bình hàng

năm với nam là 2,98 kg và nữ tăng 1,59 kg.

64

Hình 3.24. Lực cơ lưng của sinh viên theo từng năm và theo giới tính

LCL của nam lớn hơn của nữ là 39,83 kg. Khác biệt về LCL giữa nam

và nữ cùng một giai đoạn có ý nghĩa thống kê (p< 0,05).

Có thể kết luận, trong giai đoạn 2010-2013 LCL của nam và nữ sinh

viên trong nghiên cứu vẫn có sự tăng trưởng với mức tăng LCL trung bình

hàng năm của nam là 2,98 kg và của nữ là 1,59 kg. Lực cơ lưng của nam cao

hơn của nữ 39,83 kg, mức tăng LCL của nam cũng lớn hơn nhiều so với mức

tăng LCL của nữ có thể lí giải là do LCL là kết quả tổng hợp của lực kéo các

cơ ở lưng, các cơ ở bàn tay, cánh tay và các cơ vùng chân. Lực kéo của các cơ

này ở nam thường cao hơn ở nữ cộng với quá trình tập luyện TDTT thường

xuyên đã làm LCL của nam tăng nhanh hơn nữ.

3.2. Một số chỉ tiêu sinh lý

3.2.1.Tần số tim

Kết quả nghiên cứu về tần số tim của sinh viên nam và nữ theo từng năm

được trình bày trong bảng 3.17.

65

Bảng 3.17. Tần số tim (nhịp/phút) của sinh viên

theo từng năm và theo giới tính

Tần số tim (nhịp/phút)

Nam Nữ Năm p(1-2) - n Giảm n Giảm

2010 336 72,46 ± 5,58 - 65 74,31 ± 4,47 - -1,85 <0,05

2011 335 69,07 ± 4,40 3,39 65 71,19 ± 3,91 3,12 -2,12 <0,05

2013 335 65,27 ± 4,88 3,80 65 67,58 ± 3,48 3,61 -2,31 <0,05

Chung 68,93 ± 4,95 2,40 71,63 ± 3,95 2,24 -2,09

<0,05 <0,05 p

Các số liệu trong Bảng 3.17 cho thấy, từ năm 2010 đến năm 2013 tần

số tim của sinh viên nam và nữ đều giảm dần, cụ thể tần số tim của nam năm

2010 là 72,46 ± 5,58 nhịp/phút đến năm 2013 giảm còn 65,27 ± 4,88

nhịp/phút, tần số tim của nữ năm 2010 là 74,31 ± 4,47 nhịp/phút đến năm

2013 giảm còn 67,58 ± 3,48 nhịp/phút. Mức giảm trung bình hàng năm của

nam là 2,40 nhịp và của nữ là 2,24 nhịp. Tần số tim trung bình của nam là

68,93 4,95 nhịp/phút và của nữ là 71,03 3,95 nhịp/phút.

66

Hình 3.25.Tần số tim của sinh viên theo từng năm và theo giới tính

Kết quả nghiên cứu cho thấy trong cùng một lớp tuổi bao giờ tần số tim

của nam cũng thấp hơn của nữ. Kết quả này phù hợp với kết quả tần số tim

trong “Hằng số sinh học, 1975”, trong nghiên cứu của Mai văn Hưng [22],

Phạm Gia Khải [11]. Kết quả tần số tim của sinh viên trong nghiên cứu cũng

tương đương với kết quả nghiên cứu của Lê Hữu Hưng trên sinh viên Đại học

TDTT I [20, 21]. Tần số tim giảm dần theo từng năm là do kết quả của quá

trình tập luyện TDTT một cách có hệ thống đã làm cho hệ tim mạch có những

biến đổi nhằm thích nghi với lượng vận động, hiệu suất hoạt động của tim

tăng lên, tính đàn hồi của thành mạch tốt hơn. Hoạt động của hệ tim mạch tiết

kiệm và hiệu quả hơn để đáp ứng đầy đủ nhu cầu về oxi và máu cho các hoạt

động thể lực. Do đó, tần số tim khi yên tĩnh cũng có sự thay đổi theo hướng

tiết kiệm năng lượng hơn thể hiện ở tần số tim của vận động viên hay những

người tập TDTT thường xuyên có xu hướng thấp hơn so với những người

bình thường.

Có thể kết luận, tần số tim của sinh viên trong nghiên cứu giảm dần qua

từng năm với mức giảm trung bình hàng năm của nam là 2,40 nhịp và của nữ

67

là 2,24 nhịp, tần số tim của nam luôn thấp hơn so với nữ. Điều này phù hợp

với quy luật hoạt động tuần hoàn ở những người tập luyện TDTT.

3.2.2. Huyết áp động mạch

Kết quả nghiên cứu huyết áp tâm thu của sinh viên theo từng năm và

theo giới tính được trình bày trong bảng 3.18.

Bảng 3.18. Huyết áp tâm thu (mmHg) của sinh viên theo từng nămvà theo giới tính

Huyết áp tâm thu (mmHg)

Nam Nữ Năm p(1-2) - n Tăng n Tăng

2010 336 118,24 ± 4,46 - 65 115,88 ± 4,21 - 2,36 <0,05

2011 335 118,70 ± 4,32 0,46 65 116,48 ± 4,18 0,60 2,22 <0,05

2013 335 119,02 ± 3,62 0,32 65 116,97 ± 4,52 0,49 2,05 <0,05

Chung 118,57 ± 4,31 0,26 116,44 ± 4,31 0,36 2,13

p <0,05 <0,05

Qua kết quả số liệu Bảng 3.18 có thể thấy huyết áp tâm thu của sinh

viên nam và nữ đều khá ổn định, chỉ tăng nhẹ qua các năm. Mức tăng trung

bình hàng năm của nam là 0,26 mmHg và của nữ là 0,36mmHg. Huyết áp tâm

thu trung bình ở nam sinh viên là 118,57 ± 4,31 mmHg và ở nữ sinh viên là

116,44 ± 4,31 mmHg. Khác biệt về huyết áp tâm thu của nam, nữ trong giai

đoạn 2010-2011 so với giai đoạn 2011-2013 có ý nghĩa thống kê (p<0,05).

68

Hình 3.26. Huyết áp tâm thu của sinh viên theo từng năm và theo giới tính

Hình 3.26 cho thấy trong cùng một lớp tuổi huyết áp tâm thu của nam

cao hơn của nữ. Khác biệt về huyết áp tâm thu giữa nam và nữ sinh viên trong

cùng giai đoạn có ý nghĩa thống kê với p < 0,05. Kết quả huyết áp tâm thu của

sinh viên trong nghiên cứu cao hơn so với huyết áp tâm thu của sinh viên Đại

học TDTT I trong nghiên cứu của Lê Hữu Hưng [20, 21].

Kết quả nghiên cứu huyết áp tâm trương của sinh viên theo từng năm

và theo giới tính được trình bày trong bảng 3.19.

Bảng 3.19. Huyết áp tâm trương (mmHg) của sinh viên

theo từng năm và theo giới tính

Huyết áp tâm trƣơng (mmHg)

Nam Nữ - Năm p(1-2) n Giảm n Giảm

2010 336 76,22 ± 4,01 - 74,97 ± 4,29 - 1,25 <0,05 65

2011 335 75,31 ± 3,99 74,01 ± 4,00 0,96 1,30 <0,05 65 0,91

2013 335 74,08 ± 3,55 73,30 ± 3,88 0,71 0,78 <0,05 65 1,23

Chung 75,46 ± 3,94 74,09 ± 4,06 0,56 1,11 0,71

p <0,05 <0,05

69

Số liệu trong Bảng 3.19 cho thấy, huyết áp tâm trương của sinh viên

nam và nữ đều giảm nhẹ theo từng năm. Mức giảm trung bình hàng năm của

nam là 0,71 mmHg và của nữ là 0,56 mmHg. Huyết áp tâm trương trung bình

ở nam sinh viên là 75,46 ± 3,94 mmHg và ở nữ sinh viên là 74,09 ± 4,06

mmHg.

Hình 3.27. Huyết áp tâm trương của sinh viên theo từng năm và theo giới tính

Trong cùng một lớp tuổi huyết áp tâm trương của nam cao hơn của nữ.

Có sự khác biệt về huyết áp tâm trương giữa nam và nữ sinh viên trong cùng

giai đoạn (p < 0,05). Kết quả huyết áp tâm trương của sinh viên trong nghiên

cứu cao hơn so với huyết áp tâm trương của sinh viên Đại học TDTT I trong

nghiên cứu của Lê Hữu Hưng [20, 21].

Huyết áp tâm trương giảm nhẹ trong giai đoạn 2010-2013 (18-21 tuổi)

ở cả nam và nữ nhưng vẫn nằm trong giới hạn bình thường của người Việt

Nam và phù hợp với quy luật tuần hoàn của những người luyện tập TDTT

thường xuyên.

Có thể kết luận: trong giai đoạn 2010-2013, huyết áp tâm thu ở cả nam

và nữ đều tăng nhẹ qua từng năm với mức tăng trung bình hàng năm của nam

là 0,39 mmHg và của nữ là 0,55 mmHg. Huyết áp tâm trương giảm nhẹ theo

từng năm. Mức giảm trung bình hàng năm của nam là 0,71 mmHg và của nữ

70

là 0,56 mmHg. Sự thay đổi huyết áp tâm thu và huyết áp tâm trươngcủa sinh

viên trong nghiên cứu tương đương với kết quả nghiên cứu trên sinh viên Đại

học TDTT I của Lưu Quang Hiệp [15, 16].

Như vậy có thể thấy, việc luyện tập một cách thường xuyên với cường

độ cao các bài tập thể dục, thể thao đã ảnh hưởng lớn tới cơ thể, làm cho hoạt

động của hệ tim mạch có những biến đổi thích nghi nhằm đáp ứng nhu cầu

oxy, hoạt động của cơ tim tăng cường. Kết quả là hoạt động của hệ tim mạch

trong trạng thái nghỉ ngơi cũng thay đổi.

Có thể thấy, khi so sánh với kết quả nghiên cứu hình thái - thể lực và

chức năng sinh lý của các tác giả khác trên sinh viên cùng lứa tuổi thì kết quả

nghiên cứu của chúng tôi có cao hơn, giai đoạn 2010-2011 các chỉ tiêu và chỉ

số về hình thái, thể lực của cả nam và nữ sinh viên tăng mạnh, giai đoạn

2011-2013 các chỉ tiêu, chỉ số này tăng chậm và khá ổn định. Điều này có thể

do đặc thù môi trường học tập ở Trường ĐHSP TDTT Hà Nội sinh viên phải

rèn luyện thể chất với cường độ cao, trong thời gian nhất định đã có tác động

tích cực làm cải thiện thể chất của sinh viên. Đặc biệt khi sinh viên bước vào

năm thứ nhất (năm 2010) do môi trường sống thay đổi khá nhiều, các ức chế

tinh thần trước đó (do lo lắng thi vào đại học…) được giải tỏa cộng với chế độ

luyện tập TDTT với cường độ lớn diễn ra khá thường xuyên do đó các chỉ số

về hình thái, thể lực đã tăng lên một cách đáng kể. Sau giai đoạn này những

thay đổi do hoàn cảnh mới đem lại không còn nữa cộng với quy luật phát triển

cá thể nên tốc độ tăng trưởng chậm và đi vào ổn định. Sự thay đổi các chỉ số

về thể lực qua rèn luyện còn thể hiện qua hoạt động của hệ tuần hoàn

71

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

Qua quá trình nghiên cứu sự phát triển cơ thể của sinh viên K43

Trường Đại học Sư phạm Thể dục thể thao Hà Nội từ năm 2010 đến 2013,

chúng tôi rút ra một số kết luận và kiến nghị như sau:

Kết luận

Các chỉ tiêu hình thái của sinh viên nam và nữ trong nghiên cứu đều

tăng dần từ năm 2010 đến năm 2013. Giai đoạn 2010-2011 có tốc độ tăng

trưởng nhanh hơn. Giai đoạn 2011-2013, tốc độ tăng trưởng các kích thước

hình thái có xu hướng chậm dần ở hai giới. Trong cùng giai đoạn, các chỉ tiêu

hình thái của nam đều cao hơn các chỉ tiêu hình thái của nữ, khác biệt có ý

nghĩa thống kê với p<0,05.

Trong 3 năm nghiên cứu, chỉ số Pignet của nam sinh viên thuộc mức

rất khỏe và của nữ thuộc mức khỏe. Chỉ số BMI của cả nam và nữ trong 3

năm đều thuộc loại trung bình. Khác biệt về chỉ số BMI và chỉ số Pignet giữa

nam và nữ trong cùng giai đoạn có ý nghĩa thống kê p<0,05.

Lực bóp tay thuận và lực kéo cơ lưng tăng dần từ năm 2010 đến 2013.

Khác biệt về lực bóp tay thuận và lực kéo cơ lưng giữa nam và nữ trong cùng

giai đoạn có ý nghĩa thống kê p<0,05.

Từ năm 2010 đến 2013, tần số tim giảm dần ở cả nam và nữ.Trong

cùng lứa tuổi nhịp tim của nam luôn thấp hơn của nữ. Khác biệt có ý nghĩa

thống kê với p<0,05. Huyết áp của nam và nữ sinh viên trong nghiên cứu khá

ổn định, mặc dù có dao động nhẹ. Huyết áp tâm thu tăng nhẹ, huyết áp tâm

trương giảm nhẹ qua từng năm. Trong cùng lứa tuổi, huyết áp của nam luôn

cao hơn của nữ. Khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,05.

72

Kiến nghị

1. Mặc dù các chỉ tiêu, chỉ số hình thái - thể lực, chức năng sinh lý của

sinh viên K43 Trường Đại học Sư phạm Thể dục thể thao Hà Nội giai đoạn

2010-2013 vẫn có sự tăng trưởng và đã được cải thiện đáng kể so với các

nghiên cứu trước đây trên sinh viên chuyên ngành Thể dục thể thao nhưng

một số chỉ tiêu về hình thái vẫn thấp hơn so với Trường Đại học Thể dục thể

thao I. Do đó cần tăng cường các hoạt động giao lưu, thi đấu với sinh viên các

trường Thể dục thể thao khác; đầu tư kinh phí cho việc cải tạo cơ sở vật chất,

sân bãi, dụng cụ tập luyện…tạo cho sinh viên có điều kiện luyện tập tốt nhất.

2. Giai đoạn 18-21 tuổi vẫn có sự tăng trưởng về các chỉ tiêu, chỉ số

hình thái - thể lực, chức năng sinh lý. Đặc biệt dưới tác động của rèn luyện

thể chất các chỉ tiêu, chỉ số này được nâng cao rõ rệt, do đó kiến nghị với các

trường đại học khác cần chú trọng đến nội dung Giáo dục thể chất, tăng

cường nhận thức cho sinh viên về vai trò của hoạt động Thể dục thể thao,

thiết kế các bài tập và hoạt động thể thao ngoại khóa một phù hợp nhằm nâng

cao sức khỏe cho sinh viên.

3. Cần mở rộng nghiên cứu theo hướng so sánh sự phát triển hình thái -

thể lực, chức năng sinh lý của sinh viên thể thao thuộc các chuyên ngành khác

nhau để tìm ra quy luật phát triển cơ thể. Từ đó đưa ra các tiêu chuẩn lựa chọn

vận động viên năng khiếu cho các chuyên ngành thể thao khác nhau.

73

TÀI LIỆU THAM KHẢO

TIẾNG VIỆT

1. Nguyễn Trường An (2009),“Giá trị của vòng cánh tay và vòng đùi trong

đánh giá suy dinh dưỡng của thanh niên 18-25 tuổi”, Tạp chí khoa học,

Đại học Huế, (55), Tr. 15-26.

2. Vũ Thị Thanh Bình, Đào Ngọc Dũng (1998), “Nghiên cứu các chỉ tiêu

hình thái thể lực và chức năng sinh lý của sinh viên K30 Trường Cao đẳng

sư phạm thể dục TWI”, Tuyển tập nghiên cứu khoa học Giáo dục thể chất,

sức khỏe trong trường học các cấp, Nxb Thể dục thể thao, Hà Nội, Tr.115-

117.

3. Vũ Thị Thanh Bình, Đào Ngọc Dũng, Phạm Khắc Học (1999), “Tiếp tục

nghiên cứu các chỉ tiêu hình thái và sinh lý của sinh viên Trường Cao đẳng

Sư phạm thể dục TWI”, Thông báo khoa học Trường Cao đẳng sư phạm

thể dục TWI (99), Hà Tây, Tr.55-63.

4. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2008), Quyết định số 53/2008/QĐ BGDĐT ngày

18/9/2008, Quy định về đánh giá và phân loại thể lực học sinh, sinh viên

5. Bộ Y tế (2003), Các giá trị sinh học người Việt Nam bình thường thập

niên 90 thế kỷ XX, Nxb Y học, Hà Nội.

6. Bộ Y tế (2010), Tổng điều tra dinh dưỡng 2009-2010, Nxb Y học, Hà Nội.

7. Nguyễn Hữu Chỉnh (1998), “Một số chỉ số nhân trắc cư dân huyện An

Hải, thành phố Hải Phòng”, Kỷ yếu công trình nghiên cứu khoa học, T1,

Nxb Y học, Hà Nội, Tr.24-31.

8. Nguyễn Hữu Chỉnh (1998), “Một số nhận xét về các chỉ số thể lực và hình

thái của sinh viên khu vưc Kiến An, Hải Phòng”, Tuyển tập nghiên cứu

khoa học Giáo dục Thể chất, sức khỏe trong trường học các cấp, Nxb

TDTT Hà Nội, Tr.192-199.

74

9. Nguyễn Đình Chung (2007) “Nghiên cứu một số chỉ tiêu hình thái của

sinh viên trường Đại học Thể dục thể thao I”, Tạp chí khoa học thể thao,

(2), Tr. 19-28.

10. Trần Thị Hạnh Dung, Quách Văn Tỉnh (2010), Giải phẫu học Thể dục thể

thao, Nxb TDTT, Hà Nội.

11. Đại học Y Hà Nội (2000), Báo cáo toàn văn dự án Điều tra cơ bản một số

chỉ tiêu sinh học người Việt Nam bình thường ở thập kỉ 90, Nxb Y học, Hà

Nội.

12. Thẩm Thị Hoàng Điệp (1992), Đặc điểm hình thái và thể lực học sinh một

số trường phổ thông cơ sở Hà Nội. Luận án PTS khoa học y dược, Trường

Đại học Y khoa Hà Nội, 1992.

13. Thẩm Thị Hoàng Điệp, Nguyễn Quang Quyền, Vũ Huy Khôi và cs

(1996), “Một số nhận xét về phát triển chiều cao, vòng đầu, vòng ngực của

người Việt Nam từ 1-55 tuổi”, Kết quả bước đầu nghiên cứu một số chỉ

tiêu sinh học người Việt Nam, Nxb Y học, Hà Nội, Tr.68-71.

14. Phạm Thị Minh Đức (1998), “Huyết áp động mạch”, Chuyên đề sinh lý

học T1, Nxb Y học, Hà Nội, Tr.51-60.

15. Lưu Quang Hiệp, Vũ Chung Thủy, Nguyễn Hùng Cường, Ngô Sách Thọ

(2006), “Đặc điểm các chỉ số chức năng tâm - sinh lý của sinh viên năm

thứ 3 Trường Đại học TDTT I”, Tuyển tập nghiên cứu khoa học TDTT

năm 2006, Nxb TDTT I, Hà Nội, Tr.415-421.

16. Lưu Quang Hiệp, Vũ Chung Thủy, Nguyễn Hùng Cường (2007), “Đặc

điểm các chỉ số chức năng tâm - sinh lý của sinh viên năm thứ 4 Trường

Đại học TDTT I”, Tuyển tập nghiên cứu khoa học TDTT năm 2006, Nxb

TDTT I, Hà Nội, Tr.357-365.

17. Nguyễn Đức Hinh (2010), “Nghiên cứu một số chỉ tiêu sinh học người

sống ở Hà Nội năm 2010”, Nxb Đại học Y Hà Nội.

75

18. Nông Thị Hồng (2005), Y học thể dục thể thao, Nxb Đại học Sư phạm Hà

Nội.

19. Nguyễn Thế Hùng, Nguyễn Hữu Chỉnh (1996), So sánh thể lực của sinh

viên Đại học Y Hải Phòng vào và ra trường trong ba năm (1992-1994). Kết

quả bước đầu nghiên cứu một số chỉ tiêu sinh học người Việt Nam, Nxb Y

học, Hà Nội, Tr.86-90.

20. Lê Hữu Hưng (2006), “Nghiên cứu diễn biến chức năng tim mạch của

sinh viên khóa 39 Trường Đại học TDTT I sau 3 năm tập luyện”, Tuyển

tập nghiên cứu khoa học TDTT năm 2006, Nxb TDTT, Hà Nội, Tr.467-

472.

21. Lê Hữu Hưng (2007), “Nghiên cứu diễn biến chức năng tim mạch của

sinh viên khóa 39 Trường Đại học TDTT I sau 4 năm tập luyện”, Tuyển

tập nghiên cứu khoa học TDTT năm 2007, Nxb TDTT, Hà Nội, Tr.382-

389.

22. Mai Văn Hưng (2003), Nghiên cứu một số chỉ số sinh học và năng lực trí

tuệ của sinh viên một số Trường đại học phía bắc Việt Nam, Luận án Tiến

sĩ sinh học, Trường Đại học sư phạm Hà Nội.

23. Nguyễn Thị Đoàn Hương, Lê Thị Tuyết Lan, Trần Liên Minh (1979),

“Một số đặc điểm về thể lực của sinh viên học tại thành phố Hồ Chí Minh,

1979”, Kết quả bước đầu nghiên cứu một số chỉ tiêu sinh học người Việt

Nam, Nxb Y học, Hà Nội, 1996, Tr.93-96.

24. Đào Huy Khuê (1991), Đặc điểm về kích thước hình thái, về sự tăng

trưởng và phát triển cơ thể của học sinh phổ thông 6 -17 tuổi thị xã Hà

Đông, tỉnh Hà Sơn Bình, Luận án PTS Sinh học, Trường Đại học Tổng

hợp Hà Nội.

25. Tạ Thuý Lan, Trần Thị Loan (2010), Giải phẫu sinh lý, Nxb Đại học Sư

phạm, Hà Nội.

76

26. Tạ Thúy Lan, Trần Thị Loan (2011), Sinh lí học trẻ em, Nxb Giáo dục, Hà

Nội.

27. Trần Thị Loan (2002), “Nghiên cứu một số chỉ số thể lực và trí tuệ của

học sinh từ 6-17 tuổi tại quận Cầu Giấy - Hà Nội”, Luận án Tiến sĩ Sinh

học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.

28. Đào Mai Luyến (2001), “Nghiên cứu một số chỉ số sinh học của người

Êđê và người Kinh định cư ở Đăklắk”, Luận án Tiến sĩ Y học, Học viện

Quân y Hà Nội.

29. Nguyễn Thị Mậu (1995), Một số nhận xét về thể lực và tình trạng dinh

dưỡng của trẻ em dưới 5 tuổi ở 2 xã tỉnh Thái Bình, Luận văn tốt nghiệp

Bác sỹ chuyên khoa cấp II, Trường Đại học Y Hà Nội.

30. Trần Thị Minh (2010), “Đặc điểm hình thái, thể lực và dậy thì của học

sinh 9-17 tuổi dân tộc Kinh và Thái ở tỉnh Điện Biên“, Luận văn Thạc sĩ

Sinh học, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, ĐHQG Hà Nội.

31. Trịnh Văn Minh, Trần Sinh Vương, Ngô Thị Kim và cs (1998), “Các chỉ

tiêu nhân trắc hình thái thể lực người Miền Bắc Việt Nam trưởng thành

trong thập niên 90”, Kỷ yếu công trình nghiên cứu khoa học T1, Nxb Y

học, Hà Nội, Tr.1-15.

32. Nguyễn Văn Mùi, Nguyễn Quỳnh Thơ, Tô Như Khuê (2002), “Nghiên

cứu đặc điểm mạch, huyết áp và điện tim của vận động viên ở một số môn

thể thao gắng sức”, Tạp chí Sinh lý học, 6 (2), Tr.51-56.

33. Nguyễn Thị Bích Ngọc (2013), “Nghiên cứu một số chỉ tiêu sinh học và

nặng lực trí tuệ của học sinh miền núi từ 11 đến 17 tuổi tỉnh Vĩnh Phúc và

Phú Thọ”, Luận án Tiến sĩ Sinh học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.

34. Vũ Thị Nho (1999), “Những đặc điểm phát triển tâm lý tuổi học sinh đầu

tuổi thanh niên”, Tâm lý học phát triển, Nxb ĐHQG Hà Nội, Tr.116-122.

77

35. Vũ Thị Nho (1999), “Những đặc điểm phát triển tâm lý cơ bản của thanh

niên sinh viên (từ 19 đến 25 tuổi)”, Tâm lý học phát triển, Nxb ĐHQG Hà

Nội, Tr.137-149.

36. Đào Ngọc Phong (2002), “Thống kê ứng dụng trong nghiên cứu y học”,

Nxb Y học, Hà Nội.

37. Phạm Tuấn Phượng (1994), Đo đạc thể hình, Nxb TDTT, Hà Nội.

38. Nguyễn Quang Quyền, Nhân trắc học và sự ứng dụng nghiên cứu trên

người Việt Nam, Nxb Y học, Hà Nội, 1974.

39. Nguyễn Xuân Sinh (1999), Giáo trình phương pháp nghiên cứu khoa học

thể dục thể thao, Nxb TDTT, Hà Nội.

40. Phạm Thị Thiệu (2005), Sinh lý học Thể dục thể thao, Nxb TDTT, Hà

Nội.

41. Nguyễn Thị Thoa (2011), “Nghiên cứu một số chỉ số thể lực và trí tuệ của

sinh viên một số chuyên ngành Trường Đại học Sư phạm TDTT Hà Nội”,

Luận văn Thạc sĩ Sinh học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.

42. Thủ tướng chính phủ (2011), Quyết định số 641/TTg ngày 28/04/2011,

Đề án tổng thể phát triển thể lực, tầm vóc người Việt Nam giai đoạn 2011

– 2030.

43. Nguyễn Tấn Gi Trọng, Vũ Triệu An, Trần Thị Ân (1975), Hằng số sinh

học người Việt Nam, Nxb Y học, Hà Nội.

44. UBDSGĐ&TE (2003), “Phân tích thực trạng hình thái, thể lực của nam

thanh niên Việt Nam qua số liệu khám tuyển quân, tuyển sinh từ 1987-

2003”. Nxb Học Viện Quân Y.

45. Trịnh Hữu Vách (1987), Góp phần nghiên cứu các đặc điểm hình thái

thể lực người Việt lứa tuổi trưởng thành, Luận án PTS Sinh học, Đại học

Tổng hợp Hà Nội.

78

46. Giang Thị Khánh Vân (2006), “Đánh giá sự phát triển thể lực của sinh

viên Trường Đại học Kinh tế Quốc Dân - Hà Nội”, Tuyển tập nghiên cứu

khoa học TDTT năm 2006, Nxb TDTT, Hà Nội, Tr.300-308.

47. Viện nghiên cứu Bảo hộ lao động (1986), Atlat nhân trắc học người Việt

Nam trong lứa tuổi lao động, Nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.

48. Viện Khoa học TDTT (2003), Thực trạng thể chất người Việt Nam từ 6

đến 20 tuổi (thời điểm 2001), Nxb TDTT, Hà Nội.

49. Viện Khoa học TDTT (2005), Điều tra đánh giá thực trạng thể chất và

xây dựng hệ thống tiêu chuẩn thể lực chung của người Việt Nam, giai

đoạn II, từ 21 đến 60 tuổi, Nxb TDTT, Hà Nội.

50. Trần Sinh Vương (2005), “Nghiên cứu một số đặc điểm hình thái, thể lực,

dinh dưỡng người Việt trưởng thành ở một số tỉnh đồng bẳng Bắc Bộ”,

Luận án Tiến Sĩ Y học, Trường Đại học Y Hà Nội.

51. Nguyễn Kim Xuân,“Bước đầu nghiên cứu một số chỉ tiêu về hình thái, thể

lực của sinh viên trường Đại học TDTT I”, Tuyển tập nghiên cứu khoa

học TDTT năm 2004, Nxb TDTT, Hà Nội, Tr. 103-109.

52. Nguyễn Văn Yên (2000), Sinh học người, Nxb ĐHQG Hà Nội.

TIẾNG ANH

53. Bickman. E, Henriksson G.K (1988), Skeletal muscle characteristic on

children 9-15 yearls old: force, relaxation rate contraction time, Clinical

physiology, England, pp. 521-527.

54. Mc Donald, D.A (1974), Blood flow in arteries. 2nd Edition, Vol 2.

Williams & Wilkins, Bantimore.

55. Rodkiewicz, C.M (1983), Arteries and arterial blood flow. Springer -

Verlag, New York.

56. Wilmorre T.H, Behnke A.R (1969), Anthropometric estimation of body

density and lean body weight in young men, J.appl physiol, pp. 25-27.

79

Phụ lục: CÁC BẢNG SO SÁNH

Bảng 4.1. Chiều cao đứng (cm) của thanh niên Việt Nam giai đoạn 18-21 tuổi

theo nghiên cứu của các tác giả khác nhau ( .

Giới Tác giả Tuổi 19 21

Nam

Nữ

Vũ Thị Đào (2015) Mai Văn Hưng (2001) Lê Nam Trà (2000) Trịnh Văn Minh (1996) Vũ Thị Đào (2015) Mai Văn Hưng(2001) Lê Nam Trà (2000) Trịnh Văn Minh (1996) 18 170,07  4,06 162,96  6,67 163,45  4,75 163,54  5,18 161,50  3,27 153,04  4,58 152,77  4,2 153,10  4,63 171,59  6,67 172,83  4,26 164,15  5,75 164,47  5,35 163,44  4,64 163,85  4,76 163,80  5,45 164,99  5,58 162,87 3,82 163,70  3,76 154,27  3,40 155,31  4,97 152,97  4,34 153,04  4,53 153,58  5,07 154,29  5,18

Bảng 4.2. Cân nặng (kg) của thanh niên Việt Nam giai đoạn 18-21 tuổi theo

nghiên cứu của các tác giả khác nhau ( .

Giới Tuổi 19 21

Nam

Nữ

Tác giả Vũ Thị Đào (2015) Mai Văn Hưng (2001) Lê Nam Trà (2000) Trịnh Văn Minh (1996) Vũ Thị Đào (2015) Mai Văn Hưng(2001) Lê Nam Trà (2000) Trịnh Văn Minh (1996) 18 59,81  5,74 50,41  5,59 49,71  4,84 49,17  5,57 49,90  3,70 43,04  4,39 43,84  4,14 43,95  4,59 61,16  4,79 62,19  4,19 52,16  4,96 52,86  5,57 50,72  4,61 52,16  4,75 50,23  5,52 51,52  5,82 51,12  4,81 51,60  3,49 45,23  4,42 46,45  4,62 44,5  4,0 44,87  4,04 44,91  4,93 45,14  4,80

80

Bảng 4.3. VNTB (cm) của thanh niên Việt Nam giai đoạn 18-21 tuổi theo

nghiên cứu của các tác giả khác nhau ( .

Giới Tác giả 18 21

Tuổi 19 82,55 ± 5,53 84,21 ± 4,02 86,78 ± 3,55 76,20  5,82 78,13  6,20 78,33  5,62

Nam 78,7  5,2 79,5  3,5 79,3  4,4

75,08  4,77 77,38  4,32 79,37  4,41 77,79 ± 2,32 78,73 ± 4,27 80,51 ± 3,25 69,34  8,04 71,41  7,58 72,32  6,65

Nữ 66,7  2,5 70,1  4,3 68,9  4,4

Vũ Thị Đào (2015) Mai Văn Hưng (2001) Nguyễn Thị Đoàn Hương (1979) Lê Nam Trà (2000) Vũ Thị Đào (2015) Mai Văn Hưng(2001) Nguyễn Thị Đoàn Hương (1979) Lê Nam Trà (2000) 72,61  5,75 76,0  5,86 75,68  6,1

Bảng 4.4. VNHVHS (cm) của thanh niên Việt Nam giai đoạn 18-21 tuổi theo

nghiên cứu của các tác giả khác nhau ( .

Giới Tác giả 18 21

Vũ Thị Đào (2015)

Tuổi 19 85,96 ± 4,05 87,70 ± 3,80 90,01  3,25 80,79  4,25 82,11  4,60 82,05  5,58

Nam 80,33  3,98 81,57  4,16 83,23  4,06

84,4  5,4 84,3  3,6 84,4  4,8

Mai Văn Hưng (2001) Trịnh Văn Minh (1996) Nguyễn Thị Đoàn Hương (1979) Vũ Thị Đào (2015) 80,02  2,23 81,27  3,71 83,09  3,05

Mai Văn Hưng(2001)

Nữ 73,87  3,56 75,07  3,05 76,11  2,57 72,32  3,88 73,02  4,12 73,86  3,91

70,2  2,8 72,8  4,4 72,1  3,8 Trịnh Văn Minh (1996) Nguyễn Thị Đoàn Hương (1979)

81

Bảng 4.5. Chỉ số Pignet của thanh niên Việt Nam giai đoạn 18-21 tuổi theo

nghiên cứu của các tác giả khác nhau ( .

Giới Tác giả 18 21

Tuổi 19 27,71 ± 7,21 26,22 ± 5,72 23,86 ± 3,48 36,35  4,04 33,86  3,33 33,28  4,29

Nam 36,9  6,3 37,8  8,6 37,7  6,7

31,7  6,2 33,81 ± 2,75 33,02 ± 5,26 31,59 ± 2,98 40,66  6,29 37,63  5,10 36,54  5,59

Nữ 45,2  6,5 39,3  12,2 42,6  6,8

Vũ Thị Đào (2015) Mai Văn Hưng (2001) Nguyễn Thị Đoàn Hương (1979) Vũ Thị Thanh Bình (1998) Vũ Thị Đào (2015) Mai Văn Hưng(2001) Nguyễn Thị Đoàn Hương(2001) Vũ Thị Thanh Bình(1998) 34,0  6

Bảng 4.6. Chỉ số BMI của thanh niên Việt Nam giai đoạn 18-21 tuổi theo

nghiên cứu của các tác giả khác nhau ( .

Giới Tác giả 18 21

Vũ Thị Đào (2015) Mai Văn Hưng (2001) Nam

Vũ Thị Thanh Bình (1998) Vũ Thị Đào (2015) Mai Văn Hưng(2001) Nữ

Vũ Thị Thanh Bình(1998) Tuổi 19 20,42 ± 1,41 20,86 ± 1,55 20,96 ± 0,98 19,35  1,60 18,93 1,52 19,54 1,30 20,6  1,3 18,90 ± 1,13 19,43 ± 1,26 19,20 ± 0,92 19,00  1,86 19,04 1,81 19,25  1,86 20,50  1,50

82

Bảng 4.7. Huyết áp của thanh niên Việt Nam giai đoạn 18-21 tuổi theo nghiên cứu của các tác giả khác nhau (mmHg)

Huyết áp tâm thu Huyết áp tâm trƣơng Tác giả Nam Nữ Nam Nữ

118,24 115,88 76,22  4,01 74,97  4,26 Vũ Thị Đào (2015)

119,23  11,12 114,59  10,13 75,67  8,16 72,81  9,19

117,5  10 116 12,0 73,8  8,6 70,1  8,7 Mai Văn Hưng (2001) Đào Mai Luyến (1999)

118,1  11,1 112,4  8,0 69,6  6,7 68,2  5,9 Vũ Thị Thanh Bình (1998)

122,0  14,0 119,0  15,0 76,0  12,0 75,0  11,0 Trần Đỗ Trinh (1995)

83

MỘT SỐ HÌNH ẢNH TRONG NGHIÊN CỨU

84

85