ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

-------------------------------------

TRẦN THỊ HẠNH HIÊN TAI BIẾN TỰ NHIÊN VÀ KHẮC PHỤC CỦA NHÀ NGUYỄN Ở NỬA ĐẦU THẾ KỶ XIX

LUẬN VĂN THẠC SỸ LỊCH SỬ

HÀ NỘI - 2009

- 1 -

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

-------------------------------------

TRẦN THỊ HẠNH HIÊN

TAI BIẾN TỰ NHIÊN VÀ KHẮC PHỤC CỦA NHÀ NGUYỄN Ở NỬA ĐẦU THẾ KỶ XIX

Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam

Mã số: 60.22.54

LUẬN VĂN THẠC SỸ LỊCH SỬ

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Vũ Văn Quân

HÀ NỘI – 2009

- 2 -

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Mục đích, ý nghĩa và yêu cầu của đề tài

1.1. Mục đích

Tai biến tự nhiên có tác động lớn đến đời sống mọi mặt của một đất

nước. Thực tế lịch sử đã chứng minh, dù phát triển đến trình độ tiên tiến đến

đâu thì ở nhiều mặt con người vẫn phải phụ thuộc vào tự nhiên. Từ ước mơ

ngàn đời có thể đối phó, chế ngự được những thiên tai khắc nghiệt, sự hung

hãn của trời – đất để sinh tồn và phát triển, là đến ý thức phải biết tôn trọng tự

nhiên, dựa vào môi trường sống của tự nhiên.

Thuật ngữ “tai biến tự nhiên” hay “tai biến thiên nhiên” được hiểu là sự

thay đổi đột ngột và mãnh liệt của tự nhiên do các nguyên nhân khác thường,

có ảnh hưởng ghê gớm tới điều kiện tự nhiên và môi trường trên Trái Đất, gây

thảm họa cho đời sống con người. Một số tai biến tự nhiên phổ biến là hạn

hán, động đất, sóng thần, bão lụt, lở núi, dịch bệnh, v.v...

Xuất phát từ ảnh hưởng, tác động sâu rộng đó, triều Nguyễn cũng như

các triều đại trước đó đều rất quan tâm tới vấn đề tai biến tự nhiên, đặc biệt là

các biện pháp phòng chống, khắc phục những hậu quả do tai biến tự nhiên

gây ra.

Tìm hiểu tai biến tự nhiên cùng các biện pháp phòng chống, khắc phục

của một nhà nước giúp ta hiểu biết đầy đủ hơn về chính sách xã hội của nhà

nước đó, cũng như những tác dụng của nó trong sự ổn định, phát triển, tiến bộ

xã hội.

Cuộc đấu tranh chống tai biến tự nhiên trước triều Nguyễn, bắt đầu từ

- 3 -

thời kỳ dựng nước, qua thời kỳ 1000 năm Bắc thuộc, đến thời Lý – Trần, Lê –

Trịnh từng bước được củng cố và phát triển qua thực tế, đúc rút thành những

kinh nghiệm lịch sử, biện pháp phòng chống thiên tai, dịch bệnh. Đến thời

nhà Nguyễn, các biện pháp phòng chống, khắc phục tai biến tự nhiên đã có

tác dụng tích cực đối với sản xuất, nhất là nông nghiệp và đời sống nông dân.

Qua đó khẳng định, mặc dù ra đời và thống trị trên bước đường suy tàn của

chế độ phong kiến, khi chủ nghĩa thực dân phương Tây đang bành trướng

mạnh mẽ, nhà Nguyễn vẫn mong muốn xây dựng một đất nước ổn định, phát

triển.

Tìm hiểu thực trạng và tác động của tai biến tự nhiên tới đời sống chính

trị, kinh tế, xã hội, sẽ mang đến những nhận thức sâu sắc về xã hội thời kỳ

này, cũng như những chính sách xã hội của nhà Nguyễn thông qua các biện

phòng phòng chống, khắc phục. Từ đó thấy được mối liên hệ mật thiết giữa

nhà nước với các tầng lớp nhân dân, đặc điểm nhà nước cũng như xã hội thời

kỳ này, góp phần nghiên cứu lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam nói chung

và nhà Nguyễn nói riêng.

Mặt khác, qua đề tài này, chúng tôi tìm hiểu và làm sáng tỏ vai trò, tác

dụng của các chính sách xã hội nhằm giải quyết tai biến tự nhiên đối với sự

thịnh suy của triều đại, sự tồn vong của bộ máy nhà nước. Đây cũng chính là

một trong nhiều bài học rút ra từ lịch sử đất nước nửa đầu thế kỷ XIX đầy

biến động.

1.2. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài

Thông qua tìm hiểu tai biến tự nhiên và biện pháp phòng chống, khắc

phục của nhà Nguyễn, luận văn sẽ đi sâu tìm hiểu, nhìn nhận lịch sử thời

Nguyễn từ hai phía: vị trí, vai trò của giai cấp cầm quyền trong quá trình

chăm lo đời sống nhân dân và yêu cầu bức xúc của xã hội cùng những giải

- 4 -

pháp và hệ quả. Từ những kết luận được rút ra trong quá trình nghiên cứu,

luận văn sẽ góp phần làm sáng tỏ quá trình vận động không bằng phẳng, đơn

giản của xã hội thời Nguyễn.

Từ những đóng góp khoa học trên, luận văn làm rõ hơn tác động to lớn

của tai biến tự nhiên trong hệ thống các yếu tố tác động, ảnh hưởng đến đời

sống chính trị, kinh tế, xã hội ở giai đoạn lịch sử mà luận văn nghiên cứu.

Hiện nay, đất nước ta đang trải qua quá trình vận động, đổi mới, phát

triển, tiếp thu và áp dụng nhiều thành tựu khoa học kỹ thuật tiên tiến vào sản

xuất, đời sống xã hội. Quá trình đó sẽ đem lại sắc diện mới cho đất nước,

đồng thời cũng phát sinh nhiều vấn đề xã hội như ô nhiễm môi trường, cạn

kiệt tài nguyên thiên nhiên, hệ sinh thái biến động, khí hậu thay đổi… dẫn đến

thường xuyên xảy ra nhiều tai biến tự nhiên bất thường, để lại hậu quả to lớn

đe dọa tính mạng con người, hủy hoại các thành quả kinh tế, xã hội, ví như lũ

lụt, hạn hán, sóng thần, lũ quét, động đất, dịch cúm… Đây không chỉ là vấn

đề mà Đảng và Nhà nước ta đã và đang quan tâm, tìm giải pháp có hiệu quả

thông qua chính sách xã hội, kết hợp với các chính sách khác trong hệ thống

chính sách phát triển bền vững đất nước, mà còn là vấn đề có tính thời sự toàn

cầu.

Trong bối cảnh đó, việc nghiên cứu các biện pháp phòng chống, khắc

phục tai biến tự nhiên của nhà Nguyễn – một thời kỳ lịch sử có nhiều ý kiến

đánh giá khác nhau, với những kinh nghiệm, những bài học lịch sử của nó sẽ

có tác dụng thiết thực phục vụ cho công cuộc xây dựng, đổi mới và phát triển

đất nước bền vững mà nhân dân ta đang ra sức thực hiện dưới sự lãnh đạo của

Đảng và Nhà nước.

2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

2.1. Đối tượng nghiên cứu

Nhà nước và xã hội thời Nguyễn không phải là đối tượng nghiên cứu

- 5 -

trực tiếp của luận văn. Tuy nhiên, để nghiên cứu và lý giải các chính sách xã

hội nhằm phòng chống, khắc phục và giải quyết tác động của tai biến tự nhiên

xảy ra ở thời kỳ này, nhà Nguyễn với tư cách là chủ thể đặt ra các chủ trương,

chính sách, biện pháp giải quyết; đồng thời là bộ máy điều hành, thực thi các

chính sách, biện pháp đó cần phải được đề cập ở một mức độ cần thiết, đặc

biệt là quá trình xây dựng và tính chất của Nhà nước.

Luận văn sẽ tập hợp và hệ thống các nguồn tư liệu nhằm khôi phục diện

mạo cũng như làm rõ nét các sự kiện tai biến tự nhiên xảy ra theo trình tự thời

gian, cũng như các chính sách, biện pháp phòng chống, khắc phục tai biến tự

nhiên, không chỉ dừng lại ở các chiếu dụ, lệnh dụ của nhà vua, ở các quy định

của nhà nước, của pháp luật, mà còn qua những phương pháp giải quyết tự

thân của người dân, cũng như những hoạt động, phong trào của một bộ phận

cá nhân trong xã hội đương thời.

Vai trò và tác dụng của các biện pháp phòng chống, khắc phục tai biến

tự nhiên của nhà Nguyễn đối với công cuộc khôi phục sự phát triển, ổn định

tình hình đất nước, chăm lo đời sống nhân dân vào thời điểm đầu thế kỷ XIX

đầy thách thức, cũng như ở các thời kỳ tiếp sau đó. Đây cũng là một yêu cầu

quan trọng cần giải đáp của luận văn.

Với những yêu cầu về đối tượng cơ bản mà luận văn đặt ra nói trên

nhằm mục tiêu trả lời câu hỏi: Nguyên nhân dẫn tới xảy ra các tai biến tự

nhiên là gì? Những tai biến tự nhiên nào có tần suất, cường độ xảy ra thường

xuyên nhất? Tác động của tai biến tự nhiên? Các biện pháp phòng chống,

khắc phục của nhà Nguyễn? Vai trò và tác dụng của nó trong việc ổn định đời

sống xã hội, xây dựng và phát triển đất nước thời Nguyễn?

2.2. Phạm vi nghiên cứu

Về thời gian lịch sử: Luận văn tập trung nghiên cứu các tai biến tự

nhiên xảy ra vào nửa đầu thế kỷ XIX, từ năm 1802 – 1858, cùng những tác

- 6 -

động và biện pháp phòng chống, khắc phục của nhà Nguyễn. Tuy nhiên, để

thấy được tính kế thừa lịch sử và sự phát triển của nhà nước trong tổ chức

quản lý đời sống xã hội, luận văn cũng điểm qua một số nét lớn về tình hình

tai biến tự nhiên và giải quyết của nhà nước trước và sau đó.

Về nội dung: Luận văn đề cập đến các sự kiện tai biến tự nhiên, các tai

biến tự nhiên xảy ra với cường độ, tần suất thường xuyên nhất, cũng như tác

động và biện pháp phòng chống, khắc phục của nhà Nguyễn ở nửa đầu thế kỷ

XIX. Do tính chất bao quát, liên quan đến nhiều mặt đời sống xã hội của các

tác động này, nên các chính sách về chính trị, kinh tế, đời sống văn hóa, xã

hội… cũng sẽ được đề cập đến, nhưng ở dưới góc độ tác động của nó.

3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề và các nguồn tư liệu

3.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Nhìn chung từ trước tới nay chưa có một công trình chuyên khảo nào

về vấn đề mà luận văn đặt ra, mặc dù đã có rất nhiều công trình sử học lớn

nghiên cứu về thời nhà Nguyễn. Nhưng có thể nói, tuyệt đại đa số các nghiên

cứu này đều nhằm miêu tả, phân tích, nhìn nhận và đánh giá chung về các mặt

chính trị, kinh tế, văn hóa… còn các sự kiện tai biến tự nhiên và biện pháp

phòng chống, khắc phục chưa được tập hợp, thống kê, phân tích, tìm hiểu một

cách có hệ thống. Lý giải điều này cũng có thể là do xuất phát từ quan niệm

cho rằng, hiện tượng tai biến tự nhiên và tác động của nó chưa phải là vấn đề

gây ra sự ảnh hưởng sâu rộng, nó có thể bị hòa vào các chính sách về nông

nghiệp, chính sách tô thuế, về thực trạng đời sống nông dân… Mặc dù vậy,

khi đề cập đến thời Nguyễn, các tác giả ít nhiều có nhận định chung hoặc

điểm đến một số chính sách, biện pháp cụ thể liên quan đến vấn đề được luận

văn quan tâm.

Sách Lịch sử Việt Nam (1971), Tập 1 do Ủy ban Khoa học xã hội xuất,

tuy không trực tiếp bàn đến các tai biến tự nhiên xảy ra dưới thời Nguyễn,

- 7 -

nhưng đã gián tiếp đề cập đến ở khía cạnh khác:

Dưới triều Nguyễn, kinh tế nông nghiệp càng ngày càng sa sút. Đó là

hậu quả của nạn chiếm đoạt ruộng đất của giai cấp địa chủ và sự bóc lột nặng

nề của nhà nước phong kiến. Mặt khác, triều Nguyễn lại bất lực trong việc

chăm lo, bảo vệ đê điều và các công trình thủy lợi, để cho thiên tai đe dọa

thường xuyên và nghiêm trọng nền sản xuất nông nghiệp… Trong suốt đời

Nguyễn, nạn đê vỡ, hạn hán, lụt lội xảy ra liên tiếp. Riêng đê sông Hồng ở

Khoái Châu (Hải - Hưng) thời Tự Đức bị vỡ 10 năm liền. Cả một vùng đồng

ruộng phì nhiêu, cư dân trù mật biến thành bãi lầy hoang vu, nhân dân phải bỏ

làng đi ăn xin khắp nơi … Ruộng đồng bỏ hoang, nhân dân phiêu bạt, xóm

làng xác xơ. Một màu đen ảm đảm như vậy bao phủ khắp nông thôn [36, tr.

376].

Sách Tình hình ruộng đất nông nghiệp và đời sống nông dân dưới triều

Nguyễn (1997), do Trương Hữu Quýnh, Đỗ Bang chủ biên, đã đề cập đến các

nội dung: Công tác trị thủy và thủy lợi (Tình hình bão lụt, hạn hán dưới thời

Nguyễn; Hoạt động trị thủy); Canh tác nông nghiệp và đời sống nông dân (Kỹ

thuật và kinh nghiệm sản xuất nông nghiệp; Đói kém, dịch bệnh; Hoạt động

cứu tế xã hội). [48, tr. 105 - 171]

Sách Đê điều Việt Nam (Sơ thảo lịch sử) của Phan Khánh, Từ Mạo,

Nguyễn Gia Quang đã đề cập tới một loại tai biến tự nhiên có tần suất và

cường độ xảy ra nhiều nhất là lũ lụt, qua phần nội dung Đê điều, trị thủy dưới

triều Nguyễn, trong đó trình bày thực trạng trị thủy và đê điều qua các triều

vua, từ Gia Long, Minh Mệnh, Thiệu Trị đến Tự Đức với cuộc trưng cầu ý

kiến về trị thủy Bắc Kỳ [30, tr. 35 - 96].

Sách Thiên tai và dịch bệnh ở Quảng Trị, Thừa Thiên Huế (Bảy thế kỷ

nhìn lại) của Dương Phước Thu (2006), ở Chương 3 với nội dung Bão, lũ,

dịch bệnh từ năm 1801 đến 1945, đã trình bày theo cách thống kê biên niên

- 8 -

các sự kiện thiên tai (hạn hán, lũ bão, dịch bệnh, mất mùa, sét đánh, động đất,

sâu bọ…) xảy ra dưới thời nhà Nguyễn ở hai tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên

Huế. Tuy nhiên, cách trình bày các nội dung chỉ theo diễn tiến thời gian, mà

chưa có sự phân chia cụ thể, hệ thống riêng biệt của từng loại tai biến tự

nhiên.

Những năm gần đây, cũng đã xuất hiện nhiều nghiên cứu hoặc gián

tiếp, hoặc trực tiếp bàn đến một số vấn đề mà luận văn đặt ra: Vũ Văn Quân

với Chế độ ruộng đất, kinh tế nông nghiệp Việt Nam nửa đầu thế kỷ XIX

(1991), Luận án Phó Tiến sỹ Sử học, Đại học Tổng hợp Hà Nội và Vài nét về

chế độ tô thuế thời Nguyễn (1988), Tạp chí Khoa học, Đại học Tổng hợp;

ngoài ra còn có một số bài viết khác như Vài nét về kinh tế nông nghiệp Việt

Nam nửa đầu thế kỷ XIX (1990), Nghiên cứu kinh tế; Đỗ Đức Hùng với Nhà

Nguyễn với công tác tổ chức quản lý công trình thủy lợi ở Bắc Bộ thế kỷ XIX

(1994), Khoa học xã hội...

Trong quá trình nghiên cứu, một mảng tư liệu khác tuy không nhiều

nhưng cũng được tác giả quan tâm khai thác là một số nghiên cứu về các loại

tai biến tự nhiên dưới góc độ khoa học tự nhiên, khí tượng thủy văn như Khí

tượng thủy văn và đời sống (1995), NXB. Khoa học kỹ thuật; Địa lý tự nhiên

Việt Nam (1978) của Vũ Tự Lập; Thiên nhiên Việt Nam (2005) của Lê Bá

Thảo; Hạn hán và những giải pháp giảm thiệt hại (2003) do Đào Xuân Học

chủ biên; Lũ lụt và cách phòng chống (2000) do Trần Thanh Xuân chủ biên…

đều có ít nhiều liên quan đến đề tài luận văn.

Tóm lại, xung quanh vấn đề tai biến tự nhiên và biện pháp phòng

chống, khắc phục của nhà Nguyễn (1802 – 1858) đã có một số nghiên cứu đề

cập đến một cách gián tiếp ở từng góc độ khác nhau tùy theo yêu cầu nghiên

cứu. Tuy nhiên cho đến nay chưa có một công trình nghiên cứu trực tiếp và

tập trung vào các tai biến tự nhiên thời nhà Nguyễn. Đây là một khó khăn lớn

- 9 -

đối với chúng tôi khi thực hiện đề tài luận văn. Tuy vậy, dù ở mức độ nào,

những công trình của người đi trước đã là nguồn tham khảo bổ ích, quý báu

giúp chúng tôi nhiều trong quá trình làm luận văn, từ những vấn đề cụ thể đến

lý luận, phương pháp luận.

3.2. Các nguồn tư liệu

Do nội dung của các tai biến tự nhiên và biện pháp phòng chống, khắc

phục dưới thời Nguyễn bao quát nhiều mặt của đời sống chính trị, kinh tế, xã

hội, nên nguồn tư liệu mà luận văn tiếp cận, khai thác và sử dụng rất phong

phú và đa dạng nhưng cũng rất tản mạn.

Nguồn tư liệu cơ bản, chủ yếu làm cơ sở cho việc nghiên cứu của luận

văn là các bộ chính sử như Đại Nam thực lục do Quốc sử quán triều Nguyễn

biên soạn, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ do Nội các triều Nguyễn biên

soạn, đều đã được Viện Sử học dịch và xuất bản.

Sách Đại Nam nhất thống chí – bộ sách địa lý học Việt Nam đầy đủ

nhất dưới thời phong kiến, ở phần nội dung đã chia ra mục hình thế, khí hậu,

trong đó đặc biệt là mục khí hậu, đã có sự tổng kết nghiên cứu khái quát về

đặc điểm khí hậu, ảnh hưởng của thời tiết, khí hậu tới đời sống sản xuất, xã

hội của người dân ở các vùng miền trên cả nước.

Ví dụ về khí hậu phủ Thừa Thiên, sách này viết:

Bốn mùa thường ấm, đầu mùa xuân đào đã trổ hoa, tháng Giêng, tháng

Hai khí trời hòa ấm; tháng Ba khí trời nóng dần, thỉnh thoảng có gió

mạnh từ phương Nam đến, tục gọi là “bão nam”, người đi sông nước

cần phải đề phòng; tháng Tư tiết Tiểu mãn, thỉnh thoảng cũng có lụt;

tháng 5, tháng 6 và tháng 7 gió nam thổi mạnh; trước ngày 7 tháng 7 có

mưa, tục gọi là “mưa rửa xe”; tháng 8, tháng 9, khí trời mát dần,

thường có mưa lũ, thỉnh thoảng lại có gió đông vài ba ngày mới tắt, tục

gọi là “gió từ bến”; tháng 10 trong những ngày mồng 3, 13 và 23

- 10 -

thường bị lụt, ngạn ngữ có câu “Ông tha mà bà chẳng tha, làm cho cái

lụt ngày 3 tháng 10”. Lụt rút mà có mưa, gọi là “mưa rửa bùn”, mùa

đông mưa nhỏ, sắc nước tối gọi là “mưa tro”. Trong một năm, nửa mùa

thu sang mùa đông thường mưa nhiều, nửa mùa xuân về sau thường

nắng nhiều, từ tháng trọng đông (tháng 11 trở về sau) khí rét nhưng

không giá buốt, cây cối không rụng lá, cuối năm khí trời đã ấm; tháng

12 sấm bắt đầu dậy…[7, tr. 110].

Khí hậu tỉnh Quảng Nam:

Khí hậu nóng nực, nhiều tạnh ít mưa, chất đất phù bạc, nhiều khô khan

ít màu mỡ. Hết tháng Chạp thì gió đông nổi, tiết Kinh trập thì mưa xuân

nhuần; gió nam mạnh về mùa hạ; gió bấc rét về mùa đông; mùa thu gió

mát mà hay mưa lụt (các tháng 8, 9, 10 thường hay mưa lụt), mưa đông

hết lụt thì bãi sông bằng (mùa đông, sau khi mưa lụt thì bãi sông bằng

phẳng, tức là hết kỳ mưa lụt); mây đen nổi ở Trà Sơn là triệu sẽ mưa,

cầu vồng hiện ở Cu Đê là sắp có lụt (cầu vồng hiện mùa hè thì mưa,

hiện mùa thu, mùa đông thì lụt). Thỉnh thoảng cũng có gió bão. Gần núi

rừng thường nhiều lam chướng, ven sông biển thì có thủy triều lên

xuống…[8, tr. 337].

Thông qua những kiến thức về đặc điểm thời tiết, khí hậu riêng ở các

địa phương này, đã phần nào giúp cho người dân có những nhận thức rõ ràng,

để có những hoạt động sản xuất, đời sống thích hợp, nhằm phòng tránh, hạn

chế tối đa sự tác động của tai biến tự nhiên.

Sách Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, quyển 63, phần Quyết tuất

(tha thuế và cấp tuất) cũng đã có sự thống kê biên niên các nội dung: Ban ra

và cho vay thóc kho; Chuẩn tế dân bị thiên tai; Miễn thuế; Khám đồng lúa;

Giảm thuế tô; Khuyến khích việc quyên góp; Cứu giúp nạn gió bão; Cứu giúp

- 11 -

kẻ cô cùng; Thương xót kẻ tù tội; Cấp tuất. Thông qua các nội dung này đã

cung cấp những thông tin về tai biến tự nhiên xảy ra dưới thời nhà Nguyễn,

cùng những biện pháp phòng chống, khắc phục của triều đình.

- Năm Minh Mệnh thứ 9 (1828), Dụ rằng: các trấn Sơn Nam, Nam

Định, Sơn Tây, Bắc Ninh thuộc Bắc Thành, đê điều tràn vỡ… Nay cho

phép quan Bắc Thành, chiếu trong khu vực bị tai, ai bị chết đuối, bất cứ

nam, phụ, lão, ấu, đều truy cấp cho mỗi người 3 quan tiền tuất. Còn

những người nghèo đói, liệu chia ra 2 hạng: nghèo quá, nghèo vừa bất

cứ nam, phụ, lão, ấu, hạng nghèo quá, cấp mỗi người 2 quan tiền, 1

phương gạo; hạng nghèo vừa, 1 quan tiền, 1 phương gạo. [31, tr. 569].

- Năm Tự Đức thứ 2 (1849), Dụ rằng: 3 huyện Bố Trạch, Bình Chánh,

Minh Chánh hạt Quảng Bình, ruộng đất cao hạn, lúa chiêm, thu hoạch

không được mấy, thuyền buôn đi lại không đến, hiện nay giá gạo đã

cao. Cho phép quan tỉnh ấy chiếu xem dân 3 huyện, hoặc có ai nghèo

đói, thiếu thốn thời hạng nghèo quá, chẩn cho mỗi người 5, 6 bát gạo,

người nghèo vừa 3, 4 bát [31, tr. 571].

Ngoài hai bộ chính sử nói trên, các tập Đại Nam nhất thống chí do

Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn, Đại Việt sử ký toàn thư do Ngô Sỹ

Liên và các sử thần triều Lê biên soạn… là những sách cung cấp tài liệu và

nhận xét có liên quan đến các tai biến tự nhiên xảy ra dưới thời Nguyễn và

trước Nguyễn cũng là nguồn tư liệu được chúng tôi đặc biệt quan tâm khi tiến

hành nghiên cứu.

Tư liệu về các sự kiện tai biến tự nhiên và biện pháp phòng chống, khắc

phục dưới thời nhà Nguyễn qua các tài liệu kể trên khá rời rạc, tản mạn. Tuy

nhiên, các tài liệu đó cũng đã đề cập đến các vấn đề mà luận văn cần giải

quyết như các sự kiện tai biến tự nhiên xảy ra theo tiến trình thời gian (tháng,

năm); tác động của tai biến tự nhiên trong lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội;

- 12 -

biện pháp phòng chống và khắc phục của nhà Nguyễn.

Sau nữa là các bài viết cũng có nội dung liên quan đến tác động của tai

biến tự nhiên trên các tạp chí như Nghiên cứu Lịch sử, Nghiên cứu kinh tế,

Khoa học xã hội... Tất cả đều là những tài liệu mà chúng tôi sẽ tham khảo

trong quá trình thực hiện luận văn.

4. Phương pháp nghiên cứu

Để đáp ứng mục đích, yêu cầu đặt ra của luận văn, trong quá trình

nghiên cứu, tác giả đã vận dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau:

Phương pháp lịch sử: Với đề tài khoa học lịch sử này, luận án vận dụng

chủ yếu phương pháp lịch sử theo quan điểm duy vật biện chứng và duy vật

lịch sử của học thuyết Mác – Lênin; các hiện tượng tai biến tự nhiên xảy ra

dưới thời nhà Nguyễn được xem xét theo một trật tự thời gian cùng với những

tác động của nó đến đời sống chính trị, kinh tế và xã hội.

Tai biến tự nhiên và các biện pháp phòng chống, khắc phục của nhà

Nguyễn là một bộ phận trong hệ thống chính sách xã hội của Nhà nước, nó có

nội dung, đối tượng và tác động riêng nhưng mặt khác, nó có liên quan chặt

chẽ, tương tác với các chính sách khác và bao quát đến mọi lĩnh vực, mọi tầng

lớp xã hội. Do đó, khi khảo cứu, bên cạnh phương pháp lịch sử là chủ yếu, tác

giả sẽ kết hợp vận dụng các phương pháp phân loại, so sánh, phương pháp hệ

thống, phương pháp thống kê, bóc tách các sự kiện, hiện tượng lịch sử, nhằm

mục đích xác định diện mạo, nội dung, tác động của các hiện tượng tai biến tự

nhiên, cũng như các biện pháp phòng chống, khắc phục.

Trong quá trình nghiên cứu, tác giả còn liên hệ, so sánh giữa các thời

kỳ lịch sử trước và sau đó, để rút ra những điểm mạnh, điểm yếu cùng những

đặc điểm nổi bật của các biện pháp phòng chống, khắc phục tai biến tự nhiên

dưới thời nhà Nguyễn.

Từ những sự kiện, hiện tượng lịch sử tản mạn, đa dạng, phức tạp thuộc

- 13 -

các hiện tượng tai biến tự nhiên và biện pháp phòng chống, khắc phục, tác giả

đã có sự chọn lọc, sắp xếp và hệ thống lại. Từ đó, luận văn sẽ vận dụng

phương pháp lôgic nhằm phân tích, lý giải các tác động, các mối liên hệ,

tương tác của các biện pháp giải quyết hậu quả tai biến tự nhiên trong hệ

thống chính sách xã hội của nhà Nguyễn.

5. Cấu trúc của luận văn

Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, nội dung luận văn được chia làm ba chương:

Chương 1: Vài nét về tai biến tự nhiên trước thế kỷ XIX

Chương 2: Tai biến tự nhiên dưới thời Nguyễn (1802 – 1858)

Chương 3: Tác động của tai biến tự nhiên và biện pháp phòng chống,

- 14 -

khắc phục của nhà Nguyễn

Chương 1

VÀI NÉT VỀ TAI BIẾN TỰ NHIÊN TRƯỚC

THẾ KỶ XIX

1.1. Vài nét về tự nhiên Việt Nam

Các điều kiện tự nhiên bao gồm vị trí địa lý, địa hình, khí hậu, thủy

văn, thổ nhưỡng, sinh vật và những mối quan hệ tác động qua lại, chi phối lẫn

nhau giữa chúng. Chính mối quan hệ này là cơ sở tạo ra những điều kiện

thuận lợi cũng như đưa đến những vấn đề tai biến tự nhiên.

1.1.1 Vị trí địa lý

Vị trí địa lý của một lãnh thổ là một yếu tố có ý nghĩa rất quan trọng

chi phối các đặc điểm tự nhiên của lãnh thổ đó.

Trên bản đồ thế giới, Việt Nam nằm ở rìa Đông của bán đảo Đông

Dương, gần trung tâm khu vực Đông Nam Á, phía Bắc giáp với Trung Quốc,

phía Tây giáp với Lào, Campuchia, phía Đông và phía Nam giáp với Biển

Đông.

Lãnh thổ Việt Nam nối liền một dải từ điểm cực Bắc trên cao nguyên

Đồng Văn ở vĩ độ 23°23’B thuộc Lũng Cú, huyện Đồng Văn, tỉnh Hà Giang

tới điểm cực Nam trên bán đảo Cà Mau ở vĩ độ 8°34’B thuộc xã Đất Mũi,

huyện Ngọc Hiển, tỉnh Cà Mau; điểm cực Tây ở kinh độ 102°10’Đ thuộc xã

Sín Thầu, huyện Mường Nhé, tỉnh Điện Biên; điểm cực Đông nằm trên bán

đảo Hòn Gốm ở kinh độ 109°24’Đ thuộc xã Vạn Hạnh, huyện Vạn Ninh, tỉnh

Khánh Hòa. Ngoài ra, nước ta còn có vùng biển rộng nằm trên Biển Đông với

trên 3000 đảo lớn, nhỏ nằm ở gần bờ và xa bờ. Vì thế, hệ tọa độ địa lý của

Việt Nam còn kéo dài tới khoảng vĩ độ hơn 6°50’B và từ khoảng kinh độ

- 15 -

101°Đ đến hơn 117°20’Đ trên Biển Đông.

Với hệ tọa độ địa lý trên, Việt Nam nằm hoàn toàn trong vành đai nóng

nội chí tuyến ở nửa cầu Bắc và gần sát với chí tuyến Bắc nên có sắc thái

chung của tự nhiên vùng nhiệt đới.

Việt Nam nằm ở trung tâm khu vực Đông Nam Á, là một trong ba hệ

thống của khu vực châu Á gió mùa điển hình, với hai mùa rõ rệt, mùa đông là

thời kỳ hoạt động của gió mùa Đông Bắc, mùa hạ là thời kỳ hoạt động của gió

mùa Tây Nam, tạo nên đặc điểm gió mùa của khí hậu Việt Nam và sắc thái

nhiệt đới ẩm.

Việt Nam nằm ở vị trí tiếp giáp nối liền lục địa với đại dương, có quan

hệ với vành đai sinh khoáng và núi lửa Thái Bình Dương nên có tài nguyên

khoáng sản phong phú và đa dạng, đồng thời cũng xảy ra các hoạt động núi

lửa, động đất.

Do nằm ở khu vực biển nhiệt đới Tây Thái Bình Dương, một trong

những trung tâm phát sinh bão lớn trên thế giới, nên hàng năm Việt Nam phải

đối phó với hàng chục cơn bão, trong đó có nhiều cơn bão có sức tàn phá rất

lớn, gây thiệt hại nặng nề trên diện rộng.

1.1.2. Địa hình

Đặc điểm chung của địa hình Việt Nam là có cấu trúc theo hướng Tây

Bắc – Đông Nam, hướng vòng cung là chủ yếu và thấp dần ra biển.

Đặc điểm cấu trúc địa chất – kiến tạo trong lịch sử hình thành và phát

triển của tự nhiên đã khiến cho Việt Nam có nhiều đồi núi và có hướng cấu

trúc chủ yếu theo hướng Tây Bắc – Đông Nam. Đây cũng là hướng chính của

các thung lũng và các đứt gãy như đứt gãy sông Hồng, sông Đà, sông Mã,

sông Cả ở miền Bắc, rãnh Nam Bộ ở miền Nam.

Ngoài hướng cấu trúc chính Tây Bắc – Đông Nam, địa hình Việt Nam

- 16 -

còn có một hướng cấu trúc nữa rất độc đáo là hướng vòng cung. Hướng vòng

cung thể hiện rõ nét nhất và trở thành một đặc điểm nổi bật của vùng núi phía

đông Bắc Bộ, đó là các dãy núi Tam Đảo như hình nan quạt.

Chính các dãy núi cánh cung có hướng Bắc – Nam và Đông Bắc – Tây

Nam này đã tạo điều kiện rất thuận lợi cho gió mùa Đông Bắc xâm nhập

nhanh chóng vào đồng bằng Bắc Bộ, làm cho vùng Đông Bắc Bắc Bộ chịu

ảnh hưởng sâu sắc nhất của gió mùa Đông Bắc và trở thành vùng có khí hậu

lạnh nhất Việt Nam về mùa đông.

Địa hình Việt Nam có xu thế thấp dần ra biển theo hướng cấu trúc của

địa hình và theo các dòng chảy. Hầu hết các sông ngòi trên lãnh thổ Việt Nam

đều trực tiếp đổ ra Biển Đông. Địa hình thấp dần ra biển đã tạo điều kiện

thuận lợi cho ảnh hưởng của biển thâm nhập vào sâu trong đất liền, trước hết

là các luồng gió thổi từ biển vào, gió đất – biển và sự xâm nhập của thủy

triều, tạo nên vùng nước lợ, nhiễm mặn và ngập mặn ở vùng ven biển.

Phần lớn địa hình Việt Nam là đồi núi, tuy vậy tính chất phân bậc của

địa hình thể hiện khá rõ rệt ở miền núi với nhiều bậc địa hình mà hiện tại là

các đỉnh núi, các sơn nguyên tại mỗi bậc có độ cao xấp xỉ như nhau. Các kiểu

địa hình chính ở Việt Nam là: địa hình núi, địa hình cao nguyên, địa hình đồi,

địa hình đồng bằng và một số kiểu địa hình đặc biệt là cacxtơ, địa hình bờ

biển.

Địa hình Việt Nam rất tiêu biểu cho địa hình của vùng nhiệt đới ẩm, đó

là hiện tượng địa hình bị xâm thực, xói mòn mạnh mẽ do dòng chảy gây lên

khiến cho lượng phù sa trên các sông suối tăng lên rất nhanh, nhất là vào thời

kỳ mùa mưa. Do đó, những trận lũ ống, lũ quét có sức tàn phá rất lớn thực sự

là các tai họa đối với các vùng núi. Ngoài ra còn phải kể đến hiện tượng đất

trượt, sụt lở đất đá, làm biến đổi nhanh chóng bề mặt địa hình.

1.1.3. Khí hậu

- 17 -

Khí hậu là một trong những nhân tố quyết định bộ mặt của cảnh quan

tự nhiên Việt Nam. Cùng với địa hình, khí hậu có tác động đến sự hình thành

lớp phủ thổ nhưỡng, thực vật, động vật và chế độ thủy văn, hải văn.

Đặc điểm chung của khí hậu Việt Nam là khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa,

có sự phân hóa đa dạng, có diễn biến bất thường.

Khí hậu Việt Nam mang tính chất nhiệt đới ẩm gió mùa. Tính chất

nhiệt đới của khí hậu thể hiện rõ nét qua yếu tố bức xạ. Lượng bức xạ tổng

cộng trung bình năm từ 110 - 130kcal/cm² ở Việt Nam là rất lớn. Nhiệt độ

trung bình hằng năm ở hầu hết các vùng trong cả nước là 22 - 25°C, ở Hà Nội

là 23,5°C, thành phố Hồ Chí Minh tới 27,1°C.

Tính chất gió mùa là sự biến thiên theo mùa của khí hậu Việt Nam, mà

nguyên nhân hình thành chính là do sự luân phiên hoạt động của gió mùa

Đông Bắc và gió mùa Tây Nam. Trên lãnh thổ Việt Nam, nơi nào cũng có hai

mùa, mùa mưa và mùa khô xen kẽ với các mức độ khác nhau, kể cả sự lệch

pha của mùa mưa và mùa khô của một số địa phương so với cả nước.

Khí hậu Việt Nam có sự phân hóa đa dạng. Trên nền tảng nhiệt đới ẩm

gió mùa, sự diễn biến của khí hậu Việt Nam rất phong phú với sự phân hóa

không gian đa dạng mà nguyên nhân chính là do đặc điểm của bề mặt đệm.

Khí hậu Việt Nam có sự phân hóa từ Bắc vào Nam, từ Đông sang Tây và từ

thấp lên cao do lãnh thổ trải dài trên nhiều vĩ độ, kết hợp với tác động của chế

độ gió mùa sự phân hóa này được thể hiện rất rõ nét trong chế độ mưa.

Việt Nam có lượng mưa trung bình hằng năm khá lớn. Lượng mưa

trung bình năm ở đồng bằng là trên 1500 mm, ở các khu vực núi cao tới 2000

– 3000 mm. Tuy nhiên, ở những nơi có địa hình khuất gió, lượng mưa chỉ trên

dưới 700 mm. Những nơi mưa nhiều nhất là các vùng núi cao có địa hình

chắn gió. Ở miền Bắc là vùng núi thượng nguồn sông Chảy (Bắc Quang 4802

mm), vùng núi Hoàng Liên Sơn (SaPa 2833 mm). Ở Trung Bộ, trên các đỉnh

- 18 -

núi cao của dãy Trường Sơn, lượng mưa còn lớn hơn (Hòn Ba 3751 mm).

Những nơi có lượng mưa trung bình là đồng bằng Bắc Bộ và dải đồng bằng

miền Trung từ Quảng Ngãi đến Phú Yên (Hà Nội 1676 mm, Quy Nhơn 1692

mm). Những nơi mưa ít nhất là đồng bằng cực Nam Trung Bộ (Phan Rang

653 mm, Mũi Dinh 757 mm) và các thung lũng ở miền núi như Mường Xén

(Nghệ An) lượng mưa hằng năm chỉ có 643 mm. Việt Nam là nước có số

ngày mưa trung bình hằng năm khá lớn, từ 100 - 150 ngày.

Nét nổi bật trong chế độ mưa là mưa theo mùa. Mùa khô ít mưa, có

tháng không có mưa. Còn mùa mưa thì lượng mưa chiếm tới 80 - 85% lượng

mưa cả năm và tháng mưa ít nhất cũng phải từ 100 mm trở lên, tháng mưa

nhiều nhất có thể 300 - 600 mm. Và mùa mưa ở Việt Nam diễn ra tại các khu

vực có sự khác nhau.

Khí hậu Việt Nam có diễn biến rất thất thường. Nguyên nhân chủ yếu

của tính chất này là do ảnh hưởng mạnh mẽ của chế độ gió mùa. Tùy thuộc

vào diễn biến từng năm của gió mùa Đông Bắc hay gió mùa Tây Nam mà khí

hậu Việt Nam có những biến động khá phức tạp. Tính chất thất thường thể

hiện trước hết qua diễn biến và đặc trưng của mùa khí hậu. Có năm gió mùa

Đông Bắc hoạt động mạnh, đem đến một mùa đông rét và kéo dài, song có

năm gió mùa Đông Bắc hoạt động yếu, gây nên thời tiết nóng đến sớm bất

thường. Gió mùa Tây Nam cũng có năm gây mưa nhiều và lũ lớn, có năm lại

hoạt động yếu thậm chí gây ra cả hạn hán trong mùa hạ.

Sự biến động trong chế độ mưa luôn xảy ra trên phạm vi toàn lãnh thổ,

có những biểu hiện rõ nét và gây nhiều tác hại lớn hơn. Sự bất thường này thể

hiện ở sự biến động của lượng mưa hàng năm, lượng mưa từng mùa và lượng

mưa trong từng tháng. Sự biến động lượng mưa hằng năm thường được biểu

thị bằng tỉ số lượng mưa của năm mưa nhiều nhất với lượng mưa của năm

- 19 -

mưa ít nhất. Do tính chất thất thường của chế độ mưa mà việc chống hạn,

chống úng ngập thường xuyên phải đặt ra ở mọi nơi và việc tưới tiêu phải

được đưa lên thành các biện pháp kỹ thuật nông nghiệp hàng đầu.

Sự diễn biến thất thường của khí hậu Việt Nam còn được biểu hiện rõ

rệt trong hoạt động của bão. Bão ở Việt Nam thường được phát sinh từ khu

vực Biển Đông (chiếm 40% tổng số cơn bão) và vùng biển phía tây Thái Bình

Dương (chiếm 60% tổng số cơn bão). Đây cũng là một trong những trung tâm

lớn phát sinh và hoạt động mạnh của bão trên thế giới. Các cơn bão nhiệt đới

được hình thành trên vùng biển nóng, có độ ẩm cao và tình trạng rất bất ổn

định của khí quyển, nên thường xảy ra vào thời kỳ mùa hạ và đã trở thành quy

luật mùa.

Mùa bão ở Việt Nam thường kéo dài từ tháng 5 đến tháng 12 và xuất

hiện sớm ở khu vực phía Bắc, chậm dần đối với khu vực phía Nam. Bão ở

Việt Nam có phạm vi ảnh hưởng khá rộng. Mỗi khi có bão thường gây ảnh

hưởng tới nhiều địa phương. Khi bão đổ bộ vào đất liền, tốc độ gió đã giảm đi

rõ rệt và ảnh hưởng trong phạm vi 50 – 100 km rồi tan. Bão có sức tàn phá

mạnh và gây mưa to nên hay gây ra những thiệt hại lớn, đặc biệt trong mùa

mưa lũ. Thông thường, mưa do bão có thể chiếm 30 – 45% lượng mưa của

mùa mưa. Vì thế, những năm không có bão hoặc ít bão, lượng mưa cả năm

giảm đi rõ rệt.

1.1.4. Thủy văn

Sông ngòi Việt Nam có mạng lưới dày đặc, nguồn nước phong phú,

nhiều phù sa. Nhờ có nguồn cung cấp nước dồi dào nên Việt Nam có tới 2360

sông lớn nhỏ, có chiều dài từ 10 km trở lên. Sông suối đã tạo nên một mạng

lưới dày đặc trên khắp mọi miền đất nước, với mật độ trung bình khoảng

0,66km/1km² diện tích lãnh thổ. Nơi có mật độ mạng lưới sông thấp là các

vùng núi đá (chủ yếu ở miền Bắc) và vùng có khí hậu khô cạn (ở cực Nam

- 20 -

Trung Bộ), nơi có mật độ sông suối lớn, trên 1,5 km/km² là ở các khu vực

miền núi cao có sườn đón gió. Các vùng đồng bằng châu thổ có mật độ mạng

lưới sông đạt giá trị cao nhất, do ngoài sông suối tự nhiên, nơi đây còn có hệ

thống mương máng, kênh rạch chằng chịt.

Đại bộ phận sông ngòi Việt Nam chảy theo hướng Tây Bắc – Đông

Nam và tất cả các sông đều đổ ra Biển Đông, tiêu biểu là các sông Chảy, sông

Hồng, sông Đà, sông Thái Bình, sông Mã, sông Cả, sông Gianh, sông Đà

Rằng, sông Tiền, sông Hậu. Điều đáng chú ý là trên một số hệ thống sông lớn

ở Việt Nam, mạng lưới sông có dạng nan quạt nên có khả năng tập trung nước

rất nhanh. Vào mùa mưa lũ, khi có mưa lớn trên một diện rộng, nước sông

dâng lên nhanh chóng nên rất dễ gây ra lũ lụt.

Do ảnh hưởng của chế độ khí hậu nhiệt đới gió mùa nên sông ngòi Việt

Nam có chế độ nước đơn giản, trong năm chỉ có một mùa lũ và một mùa cạn.

Tuy nhiên, các sông ngòi ở miền Trung lại có thêm một đỉnh lũ tiểu mãn, chủ

yếu xảy ra vào các tháng 5, 6 do các trận mưa dông nhiệt đầu mùa hạ mang lại

trong khi ở đây vẫn còn đang là các tháng mùa khô. Như vậy, lũ tiểu mãn

cùng với chế độ mưa khác biệt với miền Bắc và miền Nam đã tạo ra một kiểu

thủy chế riêng cho khu vực này.

Mùa lũ của sông ngòi kéo dài từ 3 - 6 tháng, trung bình là 4 - 5 tháng.

Trung bình lượng nước trong mùa lũ chiếm tới 70 - 80% tổng lượng nước cả

năm.

Mùa cạn trên các triền sông ở Việt Nam thường kéo dài hơn mùa lũ.

Thời kỳ mùa cạn kéo dài trung bình là 7 - 8 tháng, với lượng nước nhỏ, chỉ

chiếm từ 20 - 30% tổng lượng nước cả năm.

Chế độ nước của sông ngòi Việt Nam thường hay có những biến động

thất thường, lệ thuộc vào diễn biến bất thường của thời tiết. Có những năm ở

một số nơi đã có xuất hiện lũ cao trong thời kỳ mùa cạn do có lượng mưa khá

- 21 -

lớn. Ở những vùng hạ lưu và cửa sông những năm có lượng nước cạn kiệt, sẽ

tạo điều kiện cho thủy triều xâm nhập sâu hơn vào đất liền và gây nên tình

trạng nhiễm mặn (điển hình là ở đồng bằng sông Cửu Long). Tuy vậy, sự biến

động thất thường trong chế độ dòng chảy thường được biểu hiện rõ nét nhất

vào thời kỳ mùa lũ. Trên tất cả các triền sông thường diễn ra sự biến động về

lượng nước và thời gian xảy ra lũ lớn. Và sự biến động rất lớn so với chỉ số

trung bình nhiều năm cũng diễn ra không theo quy luật thời gian. Có những

năm lũ về rất sớm, nhưng cũng có năm lũ xảy ra muộn. Điều này gây rất

nhiều trở ngại cho các vùng không có hệ thống đê điều ngăn lũ.

1.1.5. Biển Đông

Việt Nam có vùng bờ biển rộng trên 1 triệu km² và đường bờ biển dài

hơn 3260 km. Trên vùng biển Việt Nam có 2773 đảo lớn nhỏ ven bờ và 2

quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Biển Đông là biển lớn thứ hai trong số các biển ở Thái Bình Dương và

thứ ba trên thế giới. Biển Đông có vùng thềm lục địa vào loại rộng nhất thế

giới, khoảng 1,5 triệu km² trong đó tập trung nhiều nhất ở khu vực vịnh Bắc

Bộ, vịnh Thái Lan và thềm lục địa từ Cà Mau đến Xingapo. Biển Đông ở

trung tâm khu vực Đông Nam Á, lại nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa nên

có khí hậu nóng và có sự thay đổi theo mùa. Khu vực Nam Biển Đông, từ

quần đảo Hoàng Sa trở xuống quanh năm nóng. Càng lên phía bắc, do ảnh

hưởng của không khí cực đới và dòng biển lạnh ven bờ, nhiệt độ không khí và

nước biển càng thấp. Ở khu vực vịnh Bắc Bộ cho đến eo biển Đài Loan vào

thời kỳ hoạt động mạnh của gió mùa Đông Bắc nhiệt độ nước biển có thể

xuống tới 15ºC.

Biển Đông cũng như khu vực nhiệt đới Tây Thái Bình Dương là một

trong những trung tâm bão lớn trên thế giới, hằng năm gây nên những thiệt

hại đáng kể cho các quốc gia trong khu vực và các hoạt động trên biển.

- 22 -

Thực tế lịch sử đã chứng minh giữa tự nhiên và sự phát triển có mối

TÀI LIỆU THAM KHẢO

SÁCH, TẠP CHÍ TIẾNG VIỆT

1. Nguyễn Thế Anh (2008), Kinh tế - xã hội Việt Nam dưới các vua triều

Nguyễn, NXB. Văn học, Hà Nội.

2. Đỗ Bang (1997), Tổ chức bộ máy nhà nước triều Nguyễn, NXB. Thuận

Hóa, Huế.

3. Đỗ Bang (2002), Lũ lụt ở các tỉnh miền Trung trong hai thế kỷ XIX -

XX, NXB. Đà Nẵng.

4. Chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn trong Lịch sử Việt Nam từ thế kỷ

XVI đến thế kỷ XIX (2008), NXB. Thế giới, Hà Nội.

5. Nguyễn Xuân Cung (1980), Sổ tay sâu bệnh hại cây trồng, NXB. Nông

nghiệp, Hà Nội.

6. Nguyễn Hữu Danh (2008), Tìm hiểu thiên tai trên trái đất, NXB. Giáo

dục, Hà Nội.

7. Đại Nam nhất thống chí (1992), Tập 1, NXB. Thuận Hóa, Huế.

8. Đại Nam nhất thống chí (1992), Tập 2, NXB. Thuận Hóa, Huế.

9. Đại Nam nhất thống chí (1992), Tập 3, NXB. Thuận Hóa, Huế.

10. Đại Nam nhất thống chí (1992), Tập 4, NXB. Thuận Hóa, Huế.

11. Đại Nam nhất thống chí (1992), Tập 5, NXB. Thuận Hóa, Huế.

12. Đại Nam thực lục (2004), Tập 1, NXB. Giáo dục, Hà Nội.

13. Đại Nam thực lục (2004), Tập 2, NXB. Giáo dục, Hà Nội.

14. Đại Nam thực lục (2004), Tập 3, NXB. Giáo dục, Hà Nội.

15. Đại Nam thực lục (2004), Tập 4, NXB. Giáo dục, Hà Nội.

16. Đại Nam thực lục (2004), Tập 5, NXB. Giáo dục, Hà Nội.

17. Đại Nam thực lục (2005), Tập 6, NXB. Giáo dục, Hà Nội.

- 23 -

18. Đại Nam thực lục (2005), Tập 7, NXB. Giáo dục, Hà Nội.

19. Đại việt sử ký toàn thư (2003), Tập 1, NXB. Văn hóa thông tin, Hà

Nội.

20. Đại việt sử ký toàn thư (2003), Tập 2, NXB. Văn hóa thông tin, Hà

Nội.

21. Đại việt sử ký toàn thư (2003), Tập 3, NXB. Văn hóa thông tin, Hà

Nội.

22. Giáo trình Địa lý tự nhiên Việt Nam (2008), NXB. Đại học Sư phạm,

Hà Nội.

23. Trần Văn Giàu (1958), Sự khủng hoảng của chế độ phong kiến Việt

Nam nhà Nguyễn trước 1858 sơ khảo, NXB. Văn hóa, Hà Nội.

24. Lương Phương Hậu (1987), Phòng - chống dịch, NXB. Nông nghiệp,

Hà Nội.

25. Nguyễn Thị Hoa (2000), Sâu bệnh hại cây trồng và biện pháp phòng

trừ, NXB. Nông nghiệp, Hà Nội.

26. Đào Xuân Học (2003), Hạn hán và những giải pháp giảm thiệt hại,

NXB. Nông nghiệp, Hà Nội.

27. Đỗ Đức Hùng (1994), Nhà Nguyễn với công tác tổ chức quản lý công

trình thủy lợi ở Bắc Bộ thế kỷ XIX, tạp chí Khoa học xã hội, Số 5, Tr.

25 - 28.

28. Đỗ Đức Hùng (1997), Vấn đề trị thủy ở đồng bằng Bắc Bộ dưới triều

Nguyễn thế kỷ XIX, NXB. Khoa học xã hội, Hà Nội.

29. Hướng dẫn phòng chống và khắc phục hậu quả thảm họa (2001).

NXB. Thanh niên, Tp. Hồ Chí Minh.

30. Phan Khánh, Từ Mạo, Nguyễn Gia Quang (1995), Đê điều Việt Nam,

NXB. Nông nghiệp, Hà Nội.

31. Khâm định Đại Nam hội điển sử lệ (2005), Tập 3, NXB. Thuận Hóa,

- 24 -

Huế.

32. Ngô Văn Khóa, Khí tượng thủy văn và đời sống (1995), NXB. Khoa

học kỹ thuật, Hà Nội.

33. Nguyễn Quang Kim (2009), Những biện pháp giảm nhẹ thiên tai hạn

hán, NXB. Nông nghiệp, Hà Nội.

34. Đinh Xuân Lâm (1998), Lịch sử cận - hiện đại Việt Nam: Một số vấn

đề nghiên cứu, NXB. Thế giới, Hà Nội.

35. Vũ Tự Lập (1978), Địa lý tự nhiên Việt Nam, NXB. Giáo dục, Hà Nội.

36. Lịch sử Việt Nam (1971), Tập 1, NXB. Khoa học xã hội, Hà Nội

37. Hoàng Minh (1959), Lụt và hạn hán, Cục xuất bản, Bộ Văn hóa, Hà

Nội.

38. Nâng cao hiệu quả phòng chống thiên tai ở Việt Nam (2009), tạp chí

Quản lý Nhà nước, số 4, Tr. 34 - 37.

39. Những vấn đề lịch sử triều Nguyễn (2007), NXB. Văn hóa Sài Gòn,

Hồ Chí Minh.

40. Vũ Huy Phúc (1979), Tìm hiểu chế độ ruộng đất Việt Nam đầu thế kỷ

XIX, NXB. Khoa học kỹ thuật, Hà Nội.

41. Vũ Văn Quân (1988), Vài nét về chế độ tô thuế thời Nguyễn, tạp chí

Khoa học, Đại học Tổng hợp, Số 4, Tr. 55 - 64.

42. Vũ Văn Quân (1990), Mấy suy nghĩ về việc giải quyết vấn đề ruộng

đất, nông dân, nông nghiệp hiện nay - nhìn từ góc độ lịch sử, Tạp chí

Thông tin lý luận, Số 4, Tr. 17 - 21.

43. Vũ Văn Quân (1990), Vài nét về nông nghiệp Việt Nam nửa đầu thế kỷ

XIX, tạp chí Nghiên cứu kinh tế, Số 5, Tr. 35 - 39.

44. Vũ Văn Quân (1991), Chế độ ruộng đất, kinh tế nông nghiệp Việt Nam

nửa đầu thế kỷ XIX, Luận án Tiến sỹ Sử học, Đại học Tổng hợp Hà

- 25 -

Nội.

45. Vũ Văn Quân (1993), Khái quát về tình hình ruộng đất và vấn đề gải

quyết ruộng đất của nhà nước ở nửa đầu thế kỷ XIX, Tạp chí Nghiên

cứu kinh tế, Số 4, Tr. 8 - 12.

46. Vũ Văn Quân (2000), Về nguyên nhân bùng nổ của phong trào nông

dân Việt Nam nửa đầu thế kỷ XIX, Một chặng đường nghiên cứu lịch

sử, NXB. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

47. Vũ Văn Quân (2008), Việt Nam - Đại Nam thời Nguyễn nửa đầu thế kỷ

XIX, Tập bài giảng chuyên đề Cao học, Trường Đại học Khoa học xã

hội và nhân văn, Hà Nội.

48. Trương Hữu Quýnh, Đỗ Bang (1997), Tình hình ruộng đất nông

nghiệp và đời sống nông dân dưới triều Nguyễn, NXB. Thuận Hóa,

Huế.

49. Lê Bá Thảo (2005), Thiên nhiên Việt Nam, NXB. Giáo dục, Hà Nội.

50. Thơ văn Tự Đức, Ngự chế văn tam tập, T2, NXB. Thuận Hóa, 1996,

Tr.126 - 129.

51. Dương Phước Thu (2006), Thiên tai và dịch bệnh ở Quảng Trị, Thừa

Thiên Huế (Bảy thế kỷ nhìn lại), NXB. Thuận Hóa, Huế.

52. Tố Am Nguyễn Toại (2002), Những phát hiện mới về triều Nguyễn,

NXB. Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh.

53. Trịnh Huy Triều (2004), Bão táp và những hiện tượng thời tiết kỳ lạ,

NXB.Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.

54. Triều Nguyễn và xã hội Việt Nam thế kỷ XIX (2007), tạp chí Xưa và

Nay, số 285, Tr. 46 - 51.

55. Lê Thế Trung (2001), Những điều cần biết trong đề phòng và giảm

nhẹ tác hại của thiên tai, NXB. Thanh niên, Hà Nội.

56. Tuyển tập tục ngữ, ca dao Việt Nam (2001), NXB. Văn học, Hà Nội.

- 26 -

57. Từ điển bách khoa Việt Nam (1995), Viện Ngôn ngữ, Hà Nội.

58. Từ điển tiếng Việt (1994), NXB. Khoa học xã hội, Hà Nội.

59. Nguyễn Công Việt (2005), Sơ lược về 24 tiết khí trong Đại Nam hiệp

kỷ lịch thời Nguyễn, tạp chí Hán Nôm, số 6, tr. 25-31.

60. Việt Nam - đất nước, con người (2007), NXB. Giáo dục, Hà Nội.

61. Việt sử lược (1960), NXB. Văn - Sử - Địa, Hà Nội.

62. Trần Thanh Xuân (2000), Lũ lụt và cách phòng chống, NXB. Khoa

học và kỹ thuật, Hà Nội.

TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN

63. Quan Thế Dân, Đông y đối phó với dịch bệnh,

http://www.ykhoanet.com, 24/6/2009.

64. Trần Tiễn Khanh, Nguyên nhân lũ lụt lớn tại đồng bằng sông Cửu

Long, http://www.vnbaolut.com, 2/7/2009.

65. Trần Tiễn Khanh, Trần Khoa Diệu Lê, Nguyên nhân lũ lụt lớn ở miền

Trung, http://www.vnbaolut.com, 2/7/2009.

66. Trần Tiễn Khanh, Trần Khoa Diệu Lê, Nguyên nhân lũ lụt lớn ở đồng

bằng sông Hồng, http://www.vnbaolut.com, 2/7/2009.

67. Trung tâm khí tượng thủy văn quốc gia, Phổ biến kiến thức khí tượng

thủy văn, http://www.nchmf.gov.vn, 18/9/2009.

68. Trung tâm khí tượng thủy văn quốc gia, Một số kiến thức về hạn hán,

http://www.nchmf.gov.vn, 18/9/2009.

69. Trung tâm khí tượng thủy văn quốc gia, Một số kiến thức về lũ lớn, lũ

quét, sạt lở đất, http://www.nchmf.gov.vn, 18/9/2009.

70. Từ điển bách khoa toàn thư Việt Nam,

- 27 -

http://www.bachkhoatoanthu.gov.vn, 26/4/2009.