ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NÔNG THỊ NGUYỆT Tæ CHøC Vµ HO¹T §éNG CñA HÖ THèNG C¥ QUAN TH¤NG B¸O, HáI §¸P VÒ TBT THEO PH¸P LUËT N¦íC NGOµI LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2017
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NÔNG THỊ NGUYỆT Tæ CHøC Vµ HO¹T §éNG CñA HÖ THèNG C¥ QUAN TH¤NG B¸O, HáI §¸P VÒ TBT THEO PH¸P LUËT N¦íC NGOµI Chuyên ngành: Luật Quốc tế Mã số: 60 38 01 08 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN TOÀN THẮNG HÀ NỘI - 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Nông Thị Nguyệt
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: TỔNG QUAN VẤN ĐỀ THÔNG BÁO VÀ HỎI ĐÁP VỀ
HÀNG RÀO KỸ THUẬT TRONG THƢƠNG MẠI ..................... 9
1.1. Khái quát về hàng rào kỹ thuật trong thƣơng mại ......................... 9
1.1.1. Khái niệm và các hình thức hàng rào kỹ thuật trong thương mại ............. 9
1.1.2. Vai trò và mục đích của hàng rào kỹ thuật trong thương mại ........... 12
1.2. Sự cần thiết phải thành lập cơ quan thông báo, hỏi đáp về TBT ..... 15
1.2.1. Cơ sở thành lập cơ quan thông báo, hỏi đáp về TBT ......................... 15
1.2.2. Vai trò của cơ quan thông báo, hỏi đáp về TBT trong thương mại ........ 16
1.3. Nguồn luật điều chỉnh hoạt động thông báo và hỏi đáp về TBT ...... 17
1.3.1. Pháp luật quốc gia .............................................................................. 17
1.3.2. Điều ước quốc tế ................................................................................ 18
1.4. Nội dung cơ bản về hoạt động thông báo, hỏi đáp về TBT của
các nƣớc trong khuôn khổ WTO và các FTA ............................... 19
1.4.1. Các quy định về hoạt động thông báo, hỏi đáp về TBT trong
khuôn khổ WTO ................................................................................. 19
1.4.2. Nghĩa vụ thông báo, hỏi đáp về TBT trong các FTA ........................ 27
Chƣơng 2: TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CƠ QUAN THÔNG
BÁO, HỎI ĐÁP VỀ TBT TẠI MỘT SỐ QUỐC GIA TRÊN
THẾ GIỚI ......................................................................................... 30
2.1. Khái quát chung về tình hình thực hiện hoạt động thông báo,
hỏi đáp về TBT của một số nƣớc thành viên WTO ...................... 30
2.2. Tổ chức và hoạt động của cơ quan thông báo, hỏi đáp TBT
của một số nƣớc trên thế giới .......................................................... 33
2.2.1. Hoa Kỳ ............................................................................................... 34
2.2.2. Trung Quốc......................................................................................... 40
2.2.3. Hàn Quốc ............................................................................................ 51
2.2.4. Một số nước Đông Nam Á ................................................................. 56
2.3. Kinh nghiệm đối với Việt Nam ....................................................... 64
2.3.1. Xây dựng cơ quan đầu mối hoạt động hiệu quả trong việc thực
thi các yêu cầu minh bạch hóa TBT ................................................... 64
2.3.2. Tăng cường cơ chế phối hợp giữa các cơ quan có liên quan trong
việc thực thi nghĩa vụ thông báo ........................................................ 66
2.3.3. Xây dựng năng lực và khuyến khích sự tham gia chủ động, tích
cực của các đối tượng, chủ thể trong nền kinh tế đóng vai trò
quan trọng trong mô hình hoạt động của cơ quan thông báo, hỏi
đáp về TBT ......................................................................................... 67
2.3.4. Một cổng thông tin điện tử chính thức được xây dựng, quản lý và
vận hành hiệu quả, thiết thực là nền tảng hỗ trợ cho mọi hoạt
động của cơ quan thông báo và Điểm hỏi đáp quốc gia về TBT ....... 68
2.3.5. Xây dựng mô hình tư vấn cho cơ quan thông báo, hỏi đáp về
TBT với đội ngũ chuyên gia am hiểu sâu về TBT đóng vai trò là
lực lượng nòng cốt .............................................................................. 69
2.3.6. Cần thực hiện tốt việc nghiên cứu và báo cáo thường niên về tình
hình áp dụng TBT trên thế giới .......................................................... 69
Chƣơng 3: TỔ CHỨC, HOẠT ĐỘNG CỦA CƠ QUAN THÔNG
BÁO, HỎI ĐÁP VỀ TBT TẠI VIỆT NAM VÀ KIẾN NGHỊ
PHƢƠNG HƢỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN ....................... 70
3.1. Cơ sở pháp lý điều chỉnh tổ chức và hoạt động của cơ quan
thông báo, hỏi đáp về TBT tại Việt Nam ....................................... 70
3.1.1. Các cam kết của Việt Nam theo nội dung các điều ước quốc tế
mà Việt Nam tham gia ....................................................................... 70
3.1.2. Quy định tại các văn bản pháp luật của Việt Nam ............................. 75
3.2. Thực trạng tổ chức và hoạt động của cơ quan thông báo, hỏi
đáp về TBT tại Việt Nam ................................................................. 83
3.2.1. Những mặt đã đạt được ...................................................................... 83
3.2.2. Những hạn chế .................................................................................... 90
3.3. Đề xuất phƣơng hƣớng, giải pháp kiện toàn tổ chức và nâng
cao hiệu quả hoạt động của cơ quan thông báo, hỏi đáp về TBT
tại Việt Nam ..................................................................................... 101
3.3.1. Quan điểm, định hướng hoàn thiện về tổ chức, hoạt động của cơ
quan thông báo, hỏi đáp về TBT ...................................................... 101
3.3.2. Giải pháp kiện toàn tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt động của
cơ quan thông báo, hỏi đáp về TBT tại Việt Nam ........................... 103
KẾ T LUẬN .................................................................................................. 113 TÀI LIỆU THAM KHẢ O .......................................................................... 115
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
- AQSIQ: Tổng Cục Kiểm dịnh, kiểm định và giám sát chất
lượng Trung Quốc
- BPS: Cục Tiêu chuẩn chất lượng Philippin
- FTA: Hiệp định thương mại tự do
- QCVN: Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia
- TBT: Hàng rào kỹ thuật trong thương mại
- TCVN: Tiêu chuẩn kỹ thuật quốc gia
- TISI: Viện Tiêu chuẩn công nghiệp Thái Lan
- USTR: Văn phòng Đại diện thương mại Hoa Kỳ
- WTO: Tổ chức thương mại thế giới
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), mỗi
nước phải thực hiện các cam kết của mình trong việc mở cửa thị trường, giảm
dần các hàng rào thuế quan và phi thuế quan trong đó có cam kết thực hiện
Hiệp định hàng rào kỹ thuật trong thương mại (Agreement on technical
barries to trade, gọi tắt là Hiệp định TBT). Việc cam kết thực hiện Hiệp định
TBT mở ra cơ hội cho doanh nghiệp mở rộng thị trường xuất khẩu, đảm bảo
các loại hàng hóa được đối xử công bằng khi xuất sang các nước trong tổ
chức WTO, đồng thời cũng đặt ra thách thức cho các doanh nghiệp phải tuân
thủ các yêu cầu chặt chẽ về tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, quy trình đánh giá
sự phù hợp mà thị trường các nước đặt ra.
Một trong những nguyên tắc quan trọng của Hiệp định TBT là nguyên
tắc minh bạch. Theo nguyên tắc minh bạch, nước thành viên phải thông báo
cho các nước thành viên khác về các biện pháp thực hiện và quản lý các quy
định, tiêu chuẩn kỹ thuật của nước mình, cũng như các thay đổi sau này của
các biện pháp đó. Nội dung cam kết về TBT nhấn mạnh vai trò minh bạch hóa
chính sách của các quốc gia nhằm đảm bảo rằng các biện pháp TBT không trở
thành rào cản thương mại trá hình . Để thực hiê ̣n m ục tiêu này , WTO đã yêu
cầu các quốc gia phải xây dựng cơ quan có chức năng thông báo về TBT cùng
với các Điểm hỏi đáp quốc gia để đảm báo tính minh ba ̣ch , thông suốt và ha ̣n chế các vi pha ̣m về xây dựng rào cản thương ma ̣i.
Thực thi Hiệp định TBT, các nước thành viên WTO đều thành lập các
cơ quan thông báo và hỏi đáp về TBT. Hệ thống cơ quan thông báo, hỏi đáp
TBT của một nước có chức năng thông báo các hàng rào kỹ thuật của nước
thành viên đó cho WTO và các thành viên khác biết để khi hàng hoá các nước
1
nhập khẩu vào nước thành viên đó phải đối mặt với những hàng rào kỹ thuật
nào. Mặt khác, cơ quan này cũng phải cung cấp thông tin hàng hoá thương
mại, hàng rào kỹ thuật của các nước khác cho các doanh nghiệp trong nước
biết để có thể xuất khẩu hàng hoá sang các thị trường đó hoặc có thể cạnh
tranh với chính các sản phẩm hàng hoá trong thị trường nội địa.
Mặt khác, trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, một số nước còn tham
gia các Hiệp định thương mại tự do (gọi tắt là FTA). Các FTA không yêu cầu
nước thành viên thành lập cơ quan riêng để thực hiện nghĩa vụ vụ thông báo
và hỏi đáp về TBT như Hiệp định TBT của WTO. Tuy nhiên, các nghĩa vụ
thông báo, hỏi đáp về TBT tại các FTA đều được thực hiện thông qua chính
hệ thống cơ quan thông báo, hỏi đáp được thành lập theo Hiệp định TBT.
Ngoài những nhiệm vụ theo yêu cầu của Hiệp định TBT, chính hệ thống
những cơ quan này của các nước còn thực hiện nghĩa vụ thông báo, hỏi đáp
về TBT theo cam kết tại các FTA. Mục tiêu của các cam kết liên quan đến
TBT tại các FTA là giảm bớt các rào cản kỹ thuật nhằm tạo thuận lợi cho
thương mại của hai bên thông qua minh bạch hóa quá trình xây dựng, ban
hành và áp dụng tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật và quy trình đánh giá sự phù
hợp; đồng thời thừa nhận lẫn nhau các kết quả đánh giá sự phù hợp cũng như
thừa nhận lẫn nhau các tổ chức đánh giá sự phù hợp.
Đầu năm 2003, Việt Nam đã thành lập cơ quan thông báo cấp quốc gia
và điểm hỏi đáp về TBT, cụ thể là Văn phòng TBT Việt Nam. Ngoài ra, mạng
lưới TBT Việt Nam được thành lập vào năm 2005 nhằm hỗ trợ Văn phòng
TBT Việt Nam tuân thủ các quy định về tính minh bạch trong Hiệp định TBT
theo cách thức tốt nhất. Tuy nhiên, qua thực tế hoạt động, vẫn còn một số hạn
chế còn tồn tại như: Số lươ ̣ng nhân sự c ủa Văn phòng và mạng lưới TBT quá ít và cách thức tổ chứ c hoạt động còn nhiều bất cập, do vậy hiệu quả và phạm vi hoạt động của hệ thống này còn rất nhỏ bé; Tại các Điểm TBT đã được
2
thành lập, cán bộ chủ yếu là kiêm nhiệm, công việc hoàn toàn mới mẻ nên
nhiều khi còn lúng túng trong việc triển khai các hoạt động nghiệp vụ cụ thể;
Hiện tại, Việt Nam vẫn chưa xây dựng đươ ̣c mô hình tư vấn chuyên gia và cơ chế tham vấn chuyên gia v ề TBT đáp ứng được yêu cầu về đánh giá sự phù
hợp của các chính sách TBT mà các quốc gia khác đưa ra; Việc thành lập
Điểm TBT tại một số địa phương còn gặp khó khăn; Công tác tuyên truyền,
phổ biến các quy định của Hiệp định TBT chưa đạt được hiệu quả cao… Hạn
chế trong mạng lưới TBT của Việt Nam đã gây cản trở rất lớ n cho các
Bô ̣/ngành trong việc nghiên cứu , tiếp nhâ ̣n và xử lý các thông báo TBT mớ i do WTO gử i tớ i cũng như xây dựng , đánh giá hơ ̣p quy và gử i tớ i WTO các TBT mới củ a chú ng ta, đồng thời công tác hỏi đáp , tư vấn và cung cấp thông tin về các TBT mớ i cho doanh nghiê ̣p cũng chư a đạt hiệu quả, đặc biệt trong
bối cảnh hội nhập kinh tế sâu hiện nay.
Trên thực tế, mô hình tổ chức của các cơ quan thông báo, hỏi đáp về
TBT tại các nước khác nhau và mức độ hoạt động hiệu quả cũng khác
nhau.Việc nghiên cứu về tổ chức và hoạt động của hệ thống cơ quan thông
báo, hỏi đáp của các nước được cho là thực hiện khá nghiêm túc và đầy đủ
nghĩa vụ thông báo, hỏi đáp TBT (như Hoa Kỳ, Trung Quốc, Hàn Quốc và
một số quốc gia Đông Nam Á gồm Thái Lan, Philipin, Malaysia) sẽ rất hữu
ích trong việc đánh giá thực trạng hoạt động của cơ quan này tại các nước. Từ
đó, xác định được những kinh nghiệm mà các nước đã áp dụng thành công
trong vấn đề tổ chức, hoạt động của các cơ quan thông báo, hỏi đáp về TBT
mà Việt Nam có thể xem xét, cân nhắc học tập phù hợp với thực tế của Việt
Nam. Từ đó, có thể đề xuất những phương hướng, giải pháp hoàn thiện tổ
chức, nâng cao hoạt động, phát huy vai trò của hệ thống các cơ quan thông
báo, hỏi đáp về TBT tại Việt Nam.
Với những yêu cầu đặt ra về lý luận và thực tiễn trên, việc tìm hiểu và
3
nghiên cứu “Tổ chức và hoạt động của hệ thống cơ quan thông báo, hỏi đáp
về TBT theo pháp luật nước ngoài” là rất cần thiết và ý nghĩa.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm rõ những vấn đề lý luận và
thực tiễn về tổ chức và hoạt động các cơ quan thông báo, hỏi đáp về TBT;
Đánh giá công tác thực thi nguyên tắc minh bạch tại Hiệp định TBT, các FTA
thông qua việc phân tích thực trạng tổ chức và hoạt động của hệ thống các cơ
quan thông báo, hỏi đáp về TBT tại một số nước như Hoa Kỳ, Trung Quốc,
Hàn Quốc, Thái Lan, Philipin và Malaysia; Thực trạng các cơ quan thông
báo, hỏi đáp về TBT tại Việt Nam và đề xuất các giải pháp nhằm kiện toàn tổ
chức, tăng cường hiệu quả hoạt động của các cơ quan này trên cơ sở kinh
nghiệm thành công của một số nước có thể áp dụng thích hợp tại Việt Nam.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Việc nghiên cứu luận văn phải đạt được những mục tiêu cụ thể như sau:
- Phân tích, đánh giá các quy định trong khuôn khổ WTO liên quan đến
việc thành lập các cơ quan thông báo, hỏi đáp về TBT và xác định vai trò của
các cơ quan này đối với thương mại quốc tế; Nghĩa vụ thông báo, hỏi đáp về
TBT tại các FTA;
- Xác định và phân tích nghĩa vụ, trách nhiệm theo cam kết của các
nước trong việc thành lập, tổ chức và hoạt động của hệ thống các cơ quan
thông báo, hỏi đáp về TBT;
- Rà soát, đánh giá thực trạng tổ chức và hoạt động các cơ quan thông
báo, hỏi đáp về TBT tại một số nước như Hoa Kỳ, Trung Quốc, Hàn Quốc, Thái
Lan, Philipin và Malaysia và rút ra các bài học, kinh nghiệm đối với Việt Nam;
- Rà soát, đánh giá thực trạng tổ chức và hoạt động của hệ thống các cơ
quan thông báo, hỏi đáp về TBT tại Việt Nam. Từ đó, đề xuất phương hướng,
4
giải pháp đẩy mạnh, tăng cường công tác tổ chức và hoạt động của các cơ
quan này tại Việt Nam trong thời gian tới.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu của luận văn
- Quy định của Hiệp định TBT về việc yêu cầu các nước thành viên
phải thành lập cơ quan thông báo và hỏi đáp về TBT; Các quy định của Hiệp
định TBT và các FTA về các nghĩa vụ thông báo, hỏi đáp về TBT.
- Vấn đề thành lập, tổ chức và hoạt động của cơ quan thông báo và hỏi
đáp về TBT theo pháp luật của một số nước như Hoa Kỳ, Trung Quốc, Hàn
Quốc, Thái Lan, Philipin và Malaysia. Thực tiễn hoạt động của của cơ quan
thông báo và hỏi đáp về TBT tại các nước này.
- Các quy định pháp luật về tổ chức và hoạt động của Mạng lưới các cơ
quan thông báo và điểm hỏi đáp của Việt Nam về TBT (gọi tắt là Mạng lưới
TBT Việt Nam), thực tiễn hoạt động của những cơ quan này.
* Phạm vi nghiên cứu của luận văn: Luận văn tập trung phân tích
các quy định tại Hiệp định TBT, các cam kết về TBT tại các FTA; kinh
nghiệm tổ chức, hoạt động của các cơ quan thông báo, hỏi đáp về TBT theo
pháp luật của các nước được đánh giá là thực hiện tốt các chức năng thông
báo, hỏi đáp về TBT như Hoa Kỳ, Trung Quốc, Hàn Quốc, Thái Lan,
Philipin và Malaysia. Luận văn cũng nghiên cứu các quy định pháp luật và
thực tiễn hoạt động của Mạng lưới TBT Việt Nam để đề xuất phương
hướng, giải pháp kiện toàn, hoàn thiện.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được xây dựng trên có sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác- Lê nin, quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về hội nhập kinh
tế quốc tế, đồng thời sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau đây:
- Phương pháp lịch sử: Luận văn nghiên cứu về việc thành lập các cơ
5
quan thông báo và hỏi đáp về TBT của các nước, do vậy cần thiết phải sử
dụng phương pháp lịch sử để tổng hợp vấn đề trong một khoảng thời gian dài.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Luận văn này tập trung phân tích về tổ
chức, hoạt động của các cơ quan thông báo, hỏi đáp về TBT và tổng hợp những
kinh nghiệm về vấn đề này của các nước mà có thể áp dụng đối với Việt Nam.
Ngoài ra, luận văn còn sử dụng các phương pháp so sánh, đối chiếu,
diễn giải, quy nạp để nghiên cứu.
5. Tình hình nghiên cứu
Nhận thức được tầm quan trọng của những biện pháp kỹ thuật thương
mại và Hiệp định TBT, rất nhiều nhà nghiên cứu, các chuyên gia, các cơ quan,
ban ngành đã đưa ra các công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề này.
Trong những năm gần đây, đã có khá nhiều nghiên cứu về TBT. Trong
đó, có thể kể đến các công trình nghiên cứu như:
- Nguyễn Hải Thanh (2010), Hàng rào kỹ thuật trong quản lý nhập
khẩu của Việt Nam, thực trạng và giải pháp, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Trường
đại học Ngoại thương Hà Nội;
- Lê Thùy Vân (2011), Tác động của Hiệp định về rào cản kỹ thuật
trong thương mại đến các danh nghiệp xuất khẩu Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ
kinh tế, Trường Đại học ngoại thương Hà Nội.
- Trịnh Thị Thu Hằng (2012), Hiệp định TBT của WTO và những vấn
đề pháp lý đặt ra đối với Việt Nam, Luận văn thạc sĩ, Khoa Luật Trường đại
học quốc gia Hà Nội.
- Bộ Công Thương (2016), Nghiên cứu xây dựng mô hình tư vấn TBT
và cơ chế tham vấn chuyên gia của một số nước thành viên WTO, Đề tài
nghiên cứu khoa học cấp Bộ.
- Bộ Công Thương (2016), Xây dựng cơ sở dữ liệu và thông tin hỏi đáp
cho doanh nghiệp về các nội dung cụ thể trong các thông báo của Ủy ban
6
TBT-WTO cho các ngành hàng xuất nhập khẩu chính của Việt Nam, Đề tài
nghiên cứu khoa học cấp Bộ.
Tuy nhiên, hầu hết các công trình nghiên cứu trên mới chỉ tập trung
phân tích những quy định pháp lý cơ bản của Hiệp định TBT và của hệ thống
pháp luật quốc gia có liên quan. Một trong số những công trình nghiên cứu
trên cũng đưa ra phân tích có liên quan đến cơ quan thông báo, hỏi đáp về
TBT của một số nước nhưng mới chỉ dừng lại ở môt khía cạnh về vai trò tư
vấn TBT trong hoạt động của cơ quan này. Khác với những công trình nghiên
cứu trên, luận văn này được lựa chọn tập trung vào việc rà soát, đánh giá thực
trạng tổ chức và hoạt động các cơ quan thông báo, hỏi đáp về TBT tại một số
nước được đánh giá là thực hiện tốt nghĩa vụ minh bạch về TBT như Hoa Kỳ,
Trung Quốc, Hàn Quốc, Thái Lan, Philipin, Malaysia và rút ra các bài học,
kinh nghiệm đối với Việt Nam. Vấn đề này hầu như chưa được đề cập một
cách cụ thể, toàn diện tại các công trình nghiên cứu trước đây. Việc nghiên
cứu luận văn này sẽ giúp cho ta thấy được những điểm tương đồng và những
điểm khác biệt trong việc thực thi nghĩa vụ cam kết liên quan đến thành lập và
hoạt động của các cơ quan thông báo, hỏi đáp về TBT của một số nước. Từ
đó, có thể xác định được những kinh nghiệm thành công có thể áp dụng và
những bài học nên tránh đối với Việt Nam. Luận văn này được coi như công
trình nghiên cứu chuyên sâu, tiếp tục hoàn thiện cho hệ thống các công trình
nghiên cứu về TBT.
6. Tính mới và những đóng góp của luận văn
Luận văn được lựa chọn tập trung vào việc rà soát, đánh giá thực trạng
tổ chức và hoạt động các cơ quan thông báo, hỏi đáp về TBT tại một số nước
được đánh giá là thực hiện tốt nghĩa vụ minh bạch về TBT như Hoa Kỳ,
Trung Quốc, Hàn Quốc, Thái Lan, Philipin, Malaysia và rút ra các bài học,
kinh nghiệm đối với Việt Nam. Vấn đề này hầu như chưa được đề cập một
cách cụ thể, toàn diện tại các công trình nghiên cứu trước đây. Luận văn này
7
góp phần có được cái nhìn cụ thể về mô hình tổ chức và hoạt động thực tiễn
của các cơ quan quan thông báo, hỏi đáp về TBT tại Việt Nam cũng như một
số nước khác. Việc nghiên cứu luận văn này sẽ giúp cho ta thấy được những
điểm tương đồng và những điểm khác biệt trong việc thực thi nghĩa vụ cam
kết liên quan đến thành lập và hoạt động của các cơ quan thông báo, hỏi đáp
về TBT của một số nước. Từ đó, có thể xác định được những kinh nghiệm
thành công có thể áp dụng và những bài học nên tránh đối với Việt Nam. Điều
này được xem như cơ sở lý luận và thực tiễn góp phần xác định phương
hướng kiện toàn tổ chức, nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống các cơ
quan thông báo, hỏi đáp về TBT tại Việt Nam trong thời gian tới.
7. Nội dung nghiên cứu
Để thực hiện mục tiêu và các nhiệm vụ nghiên cứu đã trình bày ở trên,
ngoài lời mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được
thiết kế thành 3 chương như sau:
Chương 1. Tổng quan vấn đề thông báo và hỏi đáp về hàng rào kỹ thuật
trong thương mại.
Chương 2. Tổ chức và hoạt động của cơ quan thông báo, hỏi đáp về
TBT tại một số quốc gia trên thế giới.
Chương 3. Tổ chức, hoạt động của cơ quan thông báo, hỏi đáp về TBT
tại Việt Nam và kiến nghị phương hướng, giải pháp hoàn thiện.
8
Chƣơng 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ THÔNG BÁO VÀ HỎI ĐÁP VỀ HÀNG RÀO
KỸ THUẬT TRONG THƢƠNG MẠI
1.1. Khái quát về hàng rào kỹ thuật trong thƣơng mại
1.1.1. Khái niệm và các hình thức hàng rào kỹ thuật trong thương mại
1.1.1.1. Khái niệm hàng rào kỹ thuật trong thương mại
Tất cả quy định về tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật và thủ tục đánh giá
sự phù hợp tạo thành các biện pháp kỹ thuật trong thương mại. Các biện pháp
kỹ thuật này về nguyên tắc là cần thiết và hợp lý nhằm bảo vệ những lợi ích
quan trọng như sức khoẻ con người, môi trường, an ninh... Vì vậy, các nước
đều thiết lập và duy trì một hệ thống các biện pháp kỹ thuật riêng đối với hàng
hoá của mình và hàng hoá nhập khẩu. Tuy nhiên, trên thực tế, các biện pháp
kỹ thuật có thể là những rào cản tiềm ẩn đối với thương mại quốc tế bởi
chúng có thể được nước nhập khẩu sử dụng để bảo hộ cho sản xuất trong
nước, gây khó khăn cho việc thâm nhập của hàng hoá nước ngoài vào thị
trường nước nhập khẩu. Do đó chúng còn được gọi là “hàng rào kỹ thuật đối
với thương mại”.
"Technical Barrier to Trade" theo nghĩa tiếng Việt là “hàng rào kỹ thuật
trong thương mại” hoặc “rào cản kỹ thuật đối với thương mại” (gọi tắt là
TBT). Nhiều tổ chức đã định nghĩa về hàng rào kỹ thuật trong thương mại. Tổ
chức Hợp tác phát triển kinh tế (OECD) đưa ra định nghĩa riêng của mình về
hàng rào kỹ thuật trong thương mại như sau:
Hàng rào kỹ thuật trong thương mại là các quy định mang
tính chất xã hội, các quy định do một nhà nước đưa ra nhằm đạt
được các mục tiêu về sức khỏe, an toàn, chất lượng và đảm bảo môi
trường, căn cứ vào hàng rào kỹ thuật trong thương mại, người ta có
9
thể nhận thấy mục tiêu này thông qua việc một nước ngăn cản hàng
hóa không đảm bảo chất lượng nhập khẩu của mình.
Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) sử dụng thuật ngữ “hàng rào kỹ
thuật” trong tên Hiệp định của mình đó là Hiệp định về Hàng rào kỹ thuật
trong thương mại. Theo quy định của Hiệp định TBT thì:
Hàng rào kỹ thuật trong thương mại là một loại hàng rào
phi thuế quan liên quan tới các biện pháp mang tính kỹ thuật
nhằm đạt được những mục đích nhất định như bảo hộ nền sản
xuất trong nước hay các mục đích liên quan đến lợi ích quốc gia
như cung cấp cho thị trường những sản phẩm, hàng hóa có chất
lượng đáp ứng yêu cầu của người tiêu dùng hoặc để bảo vệ cuộc
sống hoặc sức khỏe của con người, động vật hoặc thực vật, bảo
vệ môi trường hoặc để ngăn ngừa các hành động gian lận ở các
mức độ mà nước đó cho là thích hợp.
Từ những định nghĩa trên, có thể hiểu hàng rào kỹ thuật trong thương
mại là một loại hàng rào phi thuế quan, bao gồm các tiêu chuẩn, quy định kỹ
thuật, thủ tục đánh giá sự phù hợp đối với hàng hóa trong thương mại nhằm
mục đích bảo hộ nền sản xuất trong nước, bảo vệ cuộc sống hoặc sức khỏe của
con người, động vật hoặc thực vật và bảo vệ môi trường [6].
1.1.1.2. Hình thức của hàng rào kỹ thuật trong thương mại
Bản chất của hàng rào kỹ thuật trong thương mại là tập hợp các yêu cầu
về kỹ thuật của các quốc gia đối với hàng hóa nhập khẩu vào nước mình,
chúng rất đa dạng và khác nhau về hình thức. Tuy nhiên, có thể nhóm lại các
hình thức của hàng rào kỹ thuật như sau: Các quy định về tiêu chuẩn, quy
chuẩn kỹ thuật, thủ tục đánh giá sự phù hợp.
Các quy định về tiêu chuẩn là quy định về đặc tính kỹ thuật và yêu cầu
quản lý làm chuẩn để phân loại, đánh giá, sản phẩm - hàng hóa - dịch vụ...
10
nhưng không bắt buộc áp dụng. Tiêu chuẩn trở thành “hàng rào” khi hệ thống
tiêu chuẩn này quy định quá chi tiết, quá khác biệt, không có căn cứ khoa học
gây khó khăn cho hàng hóa lưu thông trên thị trường. Theo quy định tại Hiệp
định TBT, tiêu chuẩn là văn bản do một cơ quan được thừa nhận ban hành để
sử dụng rộng rãi và lâu dài, trong đó quy định các quy tắc, hướng dẫn hoặc
các đặc tính đối với sản phẩm hoặc các quy trình và phương pháp sản xuất có
liên quan, mà việc tuân thủ chúng là không bắt buộc. Văn bản này cũng có thể
bao gồm hoặc gắn liền với thuật ngữ, biểu tượng, cách thức bao gói, dãn nhãn
hoặc ghi nhãn áp dụng cho một sản phẩm, quy trình hoặc phương pháp sản
xuất nhất định (mục 1 Phụ lục 1 Hiệp định TBT).
Theo quy định tại mục 1 Phụ lục 1 Hiệp định TBT, quy chuẩn kỹ thuật
là văn bản quy định các đặc tính của sản phẩm hoặc các quá trình có liên quan
đến sản phẩm và phương pháp sản xuất, bao gồm cả các điều khoản hành
chính thích hợp, mà việc tuân thủ chúng là bắt buộc. Văn bản này cũng có thể
bao gồm hoặc gắn liền với thuật ngữ, biểu tượng, cách thức bao gói, dán nhãn
hoặc ghi nhãn áp dụng cho một sản phẩm, quy trình hoặc phương pháp sản
xuất nhất định.
Quy trình đánh giá sự phù hợp là việc sử dụng một bên trung lập thứ ba
(không phải người bán, và cũng không phải người mua) để xác định các tiêu
chuẩn hoặc quy chuẩn kỹ thuật có được đáp ứng hay không. Thủ tục này có
thể trở thành trở ngại không cần thiết đối với thương mại khi các thủ tục gây
mất nhiều thời gian hơn hay chặt chẽ hơn mức cần thiết để đánh giá xem liệu
một sản phẩm có tuân thủ với pháp luật trong nước hay với pháp luật của
quốc gia nhập khẩu. Theo quy định tại mục 3 Phụ lục 1 Hiệp định TBT, quy
trình đánh giá sự phù hợp là bất cứ quy trình nào được sử dụng trực tiếp hoặc
gián tiếp để xác định các yêu cầu liên quan trong các pháp quy kỹ thuật, tiêu
chuẩn có được thoả mãn hay không.
11
1.1.2. Vai trò và mục đích của hàng rào kỹ thuật trong thương mại
Trong nhiều năm gần đây, ngày càng có nhiều quốc gia áp dụng các
quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật trong các hoạt động thương mại quốc tế. Điều
đó có tác dụng to lớn trong bảo vệ quyền lợi cho người tiêu dùng về sự an
toàn trong sử dụng, tiêu thụ sản phẩm thông qua chất lượng sản phẩm tiêu
dùng được đảm bảo. Xuất phát từ tác dụng to lớn này, các quốc gia đã và
đang tăng cường xây dựng và thực hiện một chính sách bao gồm các tiêu
chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật áp dụng trong hoạt động thương mại trong nước
cũng như thương mại quốc tế.
Các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật đóng vai trò quan trọng nhưng mỗi
nước lại đưa ra những tiêu chuẩn, quy chuẩn khác nhau. Việc có quá nhiều
các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật khác nhau như vậy thường gây khó khăn
cho các nhà sản xuất và xuất khẩu. Nếu các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật
được quy định một cách tùy tiện thì chúng có thể được sử dụng như là
phương tiện bảo hộ. Do đó, các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật có thể trở
thành những rào cản đối với thương mại.
Hàng rào kỹ thuật bao gồm nhiều loại khác nhau và mỗi loại hàng rào
lại có vai trò nhất định. Mỗi biện pháp kỹ thuật có thể đồng thời phục vụ cho
nhiều mục đích, vai trò khác nhau. Có thể kể đến vai trò của các biện pháp kỹ
thuật như sau:
Thứ nhất, việc xây dựng và áp dụng các biện pháp kỹ thuật có vai trò
quan trọng trong việc thực hiện các mục tiêu chính đáng về đảm bảo an toàn
sức khỏe người tiêu dùng, bảo vệ động, thực vật và bảo vệ môi trường. Ngày
nay cùng với mục tiêu tăng trưởng và phát triển thương mại, các quốc gia đều
rất quan tâm đến việc quản lý chất lượng hàng nhập khẩu nhằm mục tiêu đảm
bảo an toàn sức khỏe người tiêu dùng, bảo vệ động thực vật và bảo vệ môi
trường, tuy rằng mức độ quan tâm và các biện pháp áp dụng, cũng như các
12
quy định, tiêu chuẩn kỹ thuật đối với sản phẩm rất đa dạng và có sự khác
nhau giữa các quốc gia. Việc xây dựng và áp dụng các quy chuẩn, tiêu chuẩn
kỹ thuật đối với sản phẩm (quy trình và các phương pháp sản xuất, chế biến,
quy định về đóng gói, bao bì, nhãn mác môi trường, truy xuất nguồn gốc xuất
xứ, quy định, tiêu chuẩn về hàng đã qua sử dụng, công nghệ, máy móc thiết
bị, phế liệu, phế thải…), đặc biệt là các quy định, tiêu chuẩn liên quan (về
mức độ gây ô nhiễm, hàm lượng nguyên liệu tái chế và hàm lượng các chất có
hại cho môi trường) có vai trò quan trọng trong việc thực hiện các mục tiêu về
môi trường và góp phần trực tiếp làm hạn chế ô nhiễm môi trường qua biên
giới, hạn chế nhập khẩu công nghệ lạc hậu, nguyên liệu và các mặt hàng tiêu
dùng kém chất lượng, đồng thời giảm dần xuất khẩu tài nguyên, khoáng sản
và các mặt hàng mà quá trình sản xuất gây ô nhiễm môi trường.
Thứ hai, việc xây dựng và áp dụng các biện pháp kỹ thuật góp phần bảo
hộ hợp lý các ngành sản xuất trong nước chống lại sự xâm nhập của hàng hóa
nước ngoài, chống các hành vi gian lận thương mại (hàng giả, hàng nhái…),
bảo vệ lợi ích người tiêu dùng và kiểm soát nhập khẩu. Bảo hộ thông qua các
biện pháp kỹ thuật là công cụ phổ biến được chính phủ các nước sử dụng để
hỗ trợ các doanh nghiệp trong nước gặp khó khăn, đặc biệt là doanh nghiệp
trong các lĩnh vực ưu tiên có ảnh hưởng đến nền kinh tế quốc dân hoặc các
doanh nghiệp tập trung nguồn nhân lực và tài chính lớn, các doanh nghiệp
trong những ngành công nghiệp non trẻ, qua đó nhằm phát triển các ngành
sản xuất trong nước, nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường nội địa, khu
vực và quốc tế, phát triển những ngành hàng thay thế nhập khẩu hoặc định
hướng xuất khẩu. Bên cạnh đó, xây dựng và áp dụng các biện pháp kỹ thuật
nhằm quản lý chất lượng hàng nhập khẩu, chống lại các hành vi gian lận
thương mại (hàng giả, hàng nhái…) sẽ góp phần bảo vệ lợi ích người tiêu
dùng trong nước và kiểm soát nhập khẩu.
13
Thứ ba, việc xây dựng và áp dụng các biện pháp kỹ thuật góp phần tạo
sự thống nhất về mặt quy chuẩn, tiêu chuẩn trong toàn bộ hệ thống quy chuẩn,
tiêu chuẩn kỹ thuật nói chung của một quốc gia, theo hướng hài hòa và phù hợp
với các quy định và cam kết quốc tế, cũng như cam kết trong các Công
ước/Điều ước quốc tế về thương mại, môi trường đã ký kết hoặc tham gia, từ
đó có vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng hàng hóa sản xuất
trong nước đáp ứng các quy định, tiêu chuẩn kỹ thuật, đem lại lợi ích thiết thực
và đáp ứng nhu cầu tiêu dùng ngày càng tốt hơn. Bên cạnh đó, một tác động
nữa của việc áp dụng các biện pháp kỹ thuật là góp phần tạo ra một cơ cấu sản
xuất phù hợp, thông qua việc hạn chế đầu vào của một số ngành sản xuất, dẫn
tới sự thay đổi cơ cấu đầu vào hoặc điều chỉnh sản xuất theo hướng ít phụ
thuộc hơn vào những nguồn tài nguyên khan hiếm, từ đó khuyến khích các hoạt
động thương mại bền vững đi đôi với bảo vệ môi trường.
Thứ tư, việc xây dựng và áp dụng các biện pháp kỹ thuật góp phần tăng
cường khả năng đáp ứng các quy định, tiêu chuẩn kỹ thuật và môi trường đối
với hàng hóa xuất khẩu của quốc gia trên các thị trường nhập khẩu, nâng cao
chất lượng và năng lực cạnh tranh xuất khẩu, tạo thuận lợi hơn cho các doanh
nghiệp trong việc tiếp cận, mở rộng thị trường và thúc đẩy hội nhập ngày
càng sâu rộng hơn. Việc sử dụng trợ cấp và các biện pháp bảo hộ phi thuế
quan thông qua các biện pháp kỹ thuật nhằm hạn chế và kiểm soát nhập khẩu
hàng hóa, đặc biệt là các mặt hàng nông sản là biện pháp mà các nước công
nghiệp phát triển thường áp dụng đối với các nước đang phát triển. Do đó,
xây dựng và áp dụng các biện pháp kỹ thuật trong thương mại, thực hiện hài
hòa hóa các biện pháp phi thuế như tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, các biện
pháp vệ sinh an toàn thực phẩm... theo các quy định và cam kết quốc tế, sẽ
góp phần nâng cao khả năng đáp ứng các quy định và tiêu chuẩn kỹ thuật của
hàng hóa xuất khẩu, vượt qua các rào cản kỹ thuật, môi trường ngày càng khắt
khe của các nước để đẩy mạnh xuất khẩu.
14
Thứ năm, trong những trường hợp nhất định, các biện pháp phi thuế
quan, biện pháp kỹ thuật còn có thể được duy trì và áp dụng như một công cụ
chính trị để đơn phương gây sức ép với các quốc gia khác, hay để đổi lấy
những ưu đãi chính trị nhất định, từ đó tạo lập một vị thế vững chắc trên trường
quốc tế. Nhìn chung, việc sử dụng các biện pháp phi thuế quan trong thương
mại quốc tế vì mục đích chính trị là rất khác nhau đối với các quốc gia, có thể
là các biện pháp mạnh như cấm vận toàn diện hoặc từng phần, cấm nhập khẩu
một loại hàng hóa nào đó đối với một nước, hoặc áp dụng các biện pháp phân
biệt đối xử trong việc công nhận nước có nền kinh tế thị trường và nước chưa
có nền kinh tế thị trường… Bên cạnh đó, việc áp dụng các biện pháp phi thuế
quan, biện pháp kỹ thuật còn góp phần bảo vệ lợi ích, an ninh quốc gia.
1.2. Sự cần thiết phải thành lập cơ quan thông báo, hỏi đáp về TBT
1.2.1. Cơ sở thành lập cơ quan thông báo, hỏi đáp về TBT
Minh bạch hóa là nghĩa vụ có tầm quan trọng đặc biệt của Hiệp định
TBT, thể hiện một trong những nguyên tắc cơ bản của WTO. Nghĩa vụ này
được quy định tại các Điều 2.9; 2.10; 3.2; 5.6; 5.7; 7.2; 10; 15.2. Theo đó, nước
thành viên phải cung cấp thông tin một cách đầy đủ cho các nước thành viên
khác về các chỉ tiêu quy định kỹ thuật và đánh giá sự phù hợp. Nội dung cam
kết về TBT nhấn mạnh vai trò minh bạch hóa chính sách của các quốc gia
nhằm đảm bảo rằng các biện pháp TBT không trở thành rào cản thương mại trá
hình. Để thực hiê ̣n mục tiêu này, WTO đã yêu cầu các quốc gia phải xây dựng Cơ quan Thông báo và Điểm hỏi đáp quốc gia về TBT như mô ̣t đầu mối và là cơ quan tư vấn cấp quốc gia ta ̣i mỗi nướ c thành viên để đảm báo tính minh bạch, thông suốt và ha ̣n chế các vi pha ̣m về xây dựng rào cản thương ma ̣i.
Theo nguyên tắc minh bạch, các nước thành viên WTO còn phải thành
lập “Điểm trả lời các câu hỏi liên quan đến các quy định, tiêu chuẩn, thủ tục
kiểm tra kỹ thuật – inquiry points”. Các nước thành viên khi tham gia Hiệp
15
định TBT đều cam kết thành lập tại nước mình cơ quan thực hiện chức năng,
nhiệm vụ thông báo, hỏi đáp về TBT.
1.2.2. Vai trò của cơ quan thông báo, hỏi đáp về TBT trong thương mại
Các cơ quan thông báo, hỏi đáp về TBT tại các nước có vai trò (chức
năng, nhiệm vụ) thực hiện nghĩa vụ của các nước thành viên theo nguyên tắc
minh bạch của Hiệp định TBT, cụ thể:
* Vai trò của cơ quan thông báo về TBT quốc gia
Đây là cơ quan đa ̣i diê ̣n củ a quốc gia có trách nhiê ̣m thôn g báo các quy
định kỹ thuật và các quy trình đánh giá sự phù hợp đã, đang và sẽ áp dụng của
quốc gia thành viên đến Ban Thư ký của WTO và ti ếp nhận, phổ biến các
thông báo của các nước thành viên WTO tới các tổ chức có liên quan trong
nước theo hướng dẫn của WTO, gồm:
- Thông báo các quy chuẩn kỹ thuật và thủ tục đánh giá sự phù hợp của
quốc gia mình. Dự thảo quy chuẩn cần được thông báo tối thiểu 60 ngày trước
khi thông qua để các thành viên viên góp ý hoặc đề xuất sửa đổi nếu cần.
- Thông báo về việc thực hiện và điều hành Hiệp định TBT của quốc gia.
- Ngay khi hiệp định TBT có hiệu lực, các nước tham gia phải thông
báo cho các nước thành viên khác về các biện pháp thực hiện và quản lý các
quy định, tiêu chuẩn kỹ thuật của nước mình, cũng như các thay đổi sau này
của các biện pháp đó.
- Khi các nước thành viên WTO tham gia ký kết các hiệp định song
phương và đa phương với các quốc gia khác có lên quan đến các quy định,
tiêu chuẩn kỹ thuật và thủ tục đánh giá sự hợp chuẩn, nếu các hiệp định này
có ảnh hưởng về thương mại đến các nước thành viên khác thì phải thông qua
Ban thư ký WTO thông báo về các sản phẩm thuộc phạm vi điều chỉnh của
hiệp định, kèm theo 1 bản mô tả vắn tắt hiệp định.
- Thực hiện quy chế thực hành tốt về xây dựng, chấp nhận và áp dụng
16
tiêu chuẩn. Quy chế này đưa ra các nguyên tắc đối với các chính quyền trung
ương, chính quyền địa phương, các tổ chức tiêu chuẩn hoá khu vực và phi
chính phủ trong việc xây dựng các tiêu chuẩn tự nguyện.
* Vai trò của Điểm hỏi-đáp về TBT quốc gia
Đây là đầu mối để các nước thành viên WTO khác , các bên liên quan
trong nướ c (cá nhân, doanh nghiê ̣p, chính phủ…) có thể hỏi và có được thông tin và tài liệu của quốc gia đó về tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, quy trình
đánh giá sự phù hợp, các hiệp định song phương hoặc đa phương liên quan tới
TBT... Thông thường, Điểm hỏi đáp là các cơ quan thuộc chính phủ, nhưng
các nhiệm vụ có liên quan cũng có thể được uỷ quyền cho các tổ chức tư nhân
thực hiện. Nghĩa vụ thành lập các Điểm hỏi đáp là đặc biệt quan trọng đối với
các quốc gia đang phát triển. Các nội dung hoạt động chủ yếu, gồm:
- Tiếp nhâ ̣n và xử lý các yêu cầu làm rõ các vấn đề liên quan đến TBT
của các nước thành viên.
ên quan đến - Tiếp nhâ ̣n và xử lý các yêu cầu làm rõ các vấn đề có li
TBT củ a các doanh nghiê ̣p và bên liên quan trong nướ c về TBT.
1.3. Nguồn luật điều chỉnh hoạt động thông báo và hỏi đáp về TBT
Hoạt động thông báo và hỏi đáp về TBT của các quốc gia được điều
chỉnh bởi pháp luật quốc gia, các điều ước quốc tế.
1.3.1. Pháp luật quốc gia
Pháp luật quốc gia là công cụ pháp lý cơ bản và chủ yếu để nhà nước
thực hiện các chức năng của mình. Cũng như mọi lĩnh vực khác, đối với hoạt
động thông báo, hỏi đáp về TBT, pháp luật quốc gia đóng vai trò rất quan
trọng. Pháp luật của mỗi quốc gia là tổng thể các quy tắc, các quy định điều
chỉnh mọi lĩnh vực của đời sống xã hội của quốc gia đó. Các quy tắc và các
quy phạm này, tùy theo hệ thống pháp luật của mỗi nước, chúng có thể được
thể hiện dưới hình thức thành văn bản hoặc không thành văn bản.
17
Pháp luật quốc gia điều chỉnh về thông báo, hỏi đáp về TBT là tổng
hợp các quy định điều chỉnh về các hoạt động này. Với tư cách là nguồn luật,
pháp luật quốc gia có thể được thể hiện dưới hình thức văn bản hoặc không
được thể hiện dưới hình thức văn bản. Nguồn luật này được thể hiện dưới
hình thức nào thì hoàn toàn phụ thuộc vào từng hệ thống pháp luật nhất định.
Việt Nam không có luật riêng điều chỉnh về tổ chức và hoạt động của
cơ quan thông báo, hỏi đáp về TBT mà chỉ có luật chung điều chỉnh về các
hàng rào kỹ thuật là Luật Tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật 2007. Pháp luật điều
chỉnh chủ yếu đối với hoạt động thông báo, hỏi đáp về TBT tại Việt Nam bao
gồm các văn bản quy phạm pháp luật cấp dưới luật, cụ thể: Quyết định số
114/2005/QĐ-TTg ngày 26 tháng 5 năm 2005 về việc thành lập và phê duyệt
Quy chế tổ chức và hoạt động của Mạng lưới các cơ quan thông báo và điểm
hỏi đáp của Việt Nam về hàng rào kỹ thuật trong thương mại; Quyết định số
09/2006/QĐ-BKHCN ngày 4 tháng 5 năm 2006 của Bộ Khoa học và Công
nghệ ban hành Quy trình thông báo và hỏi đáp của mạng lưới cơ quan thông
báo và điểm hỏi đáp của Việt Nam về hàng rào kỹ thuật trong thương mại.
Ngoài những văn bản quy phạm pháp luật trên, hoạt động thông báo, hỏi đáp
về TBT tại Việt Nam còn được điều chỉnh tại các văn bản như: Quyết định số
579/QĐ-TĐC ngày 21 tháng 5 năm 2007 về việc ban hành Quy chế thực hiện
nghĩa vụ thông báo và hỏi đáp về hàng rào kỹ thuật trong thương mại đối với
các đơn vị trực thuộc Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng; Quyết định
số 1253/QĐ-TĐC ngày 12 tháng 6 năm 2014 ban hành Điều lệ tổ chức và
hoạt động của Văn phòng Thông báo và hỏi đáp quốc gia về Tiêu chuẩn Đo
lường Chất lượng.
1.3.2. Điều ước quốc tế
Các Điều ước quốc tế được coi là nguồn luật điều chỉnh bao gồm điều
ước quốc tế song phương và điều ước quốc tế đa phương.
18
Điều ước quốc tế song phương là loại điều ước quốc tế do hai bên chủ
thể trong quan hệ quốc tế ký kết với mục đích xác lập mối quan hệ pháp lý
giữa hai bên trong nhiều vấn đề, trong đó có nội dung liên quan đến việc thực
hiện hoạt động thông báo, hỏi đáp về TBT. Những quy định trong các điều
ước quốc tế song phương chỉ điều chỉnh các quan hệ pháp lý giữa hai bên ký
kết. Có thể kể đến các Điều ước quốc tế song phương trong đó có Chương
liên quan đến TBT bao gồm cả nội dung điều chỉnh hoạt động thông báo, hỏi
đáp về TBT như: FTA giữa Việt Nam - Nhật, Việt Nam - Chi lê, Việt Nam -
Lào, Việt Nam - Hàn Quốc, Việt Nam - Liên minh kinh tế Á Âu. Trong các
FTA đã ký kết cũng như đang đàm phán, nội dung về TBT được các bên
khẳng định tuân thủ đầy đủ theo Hiệp định TBT của WTO, đặc biệt là vấn đề
minh bạch hóa trong quá trình xây dựng, ban hành và áp dụng các văn bản
mang tính quy phạm của Việt Nam.
Điều ước quốc tế đa phương là loại điều ước quốc tế từ ba chủ thể trong
quan hệ quốc tế trở lên ký kết hoặc tham gia. Điều ước quốc tế đa phương lớn
nhất điều chỉnh về TBT, trong đó có các quy định liên quan hoạt động thông
báo, hỏi đáp về TBT là Hiệp định về hàng rào kỹ thuật trong thương mại
(Hiệp định TBT). Các quy định điều ước quốc tế đa phương có giá trị bắt
buộc đối với các thành viên của điều ước.
1.4. Nội dung cơ bản về hoạt động thông báo, hỏi đáp về TBT của
các nƣớc trong khuôn khổ WTO và các FTA
1.4.1. Các quy định về hoạt động thông báo, hỏi đáp về TBT trong
khuôn khổ WTO
1.4.1.1. Khái quát về Hiệp định TBT
Giai đoạn tiền thân của WTO, các điều khoản của GATT 1947(các Điều
III, XI và XX) chỉ quy định chung về tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật. Theo
kết quả đánh giá tác động của các rào cản phi thuế quan đối với thương mại
19
quốc tế của Nhóm công tác của GATT đã kết luận rằng rào cản kỹ thuật là
nhóm rào cản lớn nhất trong các biện pháp phi thuế quan mà các nhà xuất khẩu
phải đối mặt. Sau nhiều năm đàm phán, cuối Vòng đàm phán Tokyo vào năm
1979, 32 quốc gia thành viên GATT đã ký kết Hiệp định về Hàng rào kỹ thuật
trong thương mại (Hiệp định TBT). Tên gọi trước đây của Hiệp định TBT là
Quy chế Tiêu chuẩn, quy định các quy tắc về xây dựng, chấp nhận và áp dụng
các quy chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn và quy trình đánh giá sự phù hợp. Hiệp định
mới của WTO về Hàng rào kỹ thuật trong thương mại đã nâng cấp và làm rõ
hơn các quy định trong Quy chế Tiêu chuẩn. Hiệp định TBT được đàm phán
trong Vòng đàm phán Uruguay là một phần không thể tách rời của hệ thống
các Hiệp định WTO. Trong vòng đàm phán Uruguay, Hiệp định TBT đã được
thỏa thuận lại và văn bản sửa đổi có hiệu lực từ năm 1995. Hiệp định TBT gồm
các cam kết mang tính “khái quát chung”, tức là được áp dụng cho mọi lĩnh
vực quản lý và mọi sản phẩm (kể cả nông sản và thực phẩm). Hiệp định TBT ra
đời đã nâng cao hiệu quả trong xuất khẩu và áp dụng các quy định, tiêu chuẩn
kỹ thuật cũng như góp phần to lớn trong việc giải quyết khó khăn do mâu thuẫn
giữa các bộ quy định, tiêu chuẩn kỹ thuật của các nước khác nhau.
Hiệp định TBT ra đời thừa nhận sự cần thiết của các biện pháp kỹ
thuật, công nhận rằng các nước có quyền thiết lập các mức bảo vệ hợp lý cho
cuộc sống, sức khỏe của con người, động thực vật và môi trường, và không bị
ngăn cản đưa ra các biện pháp cần thiết để áp dụng được các mức bảo vệ đó.
Chính vì vậy Hiệp định khuyến khích các nước sử dụng tiêu chuẩn quốc tế
phù hợp với điều kiện nước mình, nhưng không đòi hỏi các nước thay đổi
mức độ bảo vệ do sự tiêu chuẩn hóa này. Tuy nhiên, Hiệp định TBT cũng
đồng thời kiểm soát các biện pháp này sao cho chúng được các nước thành
viên sử dụng đúng mục đích và không trở thành công cụ bảo hộ. Hiệp định
TBT đưa ra các nguyên tắc và điều kiện mà các nước thành viên WTO phải
20
tuân thủ khi ban hành và áp dụng các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật hay các
quy trình đánh giá sự phù hợp. Bên cạnh đó, các nước thành viên WTO phải
thực hiện các cam kết về minh bạch hóa.
1.4.1.2. Nội dung quy định về nghĩa vụ thông báo, hỏi đáp về TBT tại
Hiệp định và các yêu cầu trong giai đoạn hiện nay
Hiệp định TBT yêu cầu mỗi nước Thành viên phải công khai quá trình
xây dựng, ban hành và áp dụng các văn bản quy phạm pháp luật, tiêu chuẩn,
quy chuẩn kỹ thuật và quy trình đánh giá sự phù hợp của mình ngay ở giai
đoạn dự thảo (trước khi có hiệu lực) và phải thông báo cho các Thành viên
khác biết về các biện pháp mà mình đang xây dựng. Các nước có nghĩa vụ phải
thông báo cho WTO các dự thảo quy chuẩn kỹ thuật, quy trình đánh giá sự phù
hợp, chương trình xây dựng tiêu chuẩn của cơ quan tiêu chuẩn hóa quốc gia,
chấp nhận Quy chế thực hành tốt và Hiệp định song phương, đa phương được
quy định trong các điều khoản của Hiệp định TBT, cụ thể như sau:
* Đối với quy chuẩn kỹ thuật
Liên quan đến quy chuẩn kỹ thuật do cơ quan trung ương của nước
thành viên ban hành, Khoản 2.9 Điều 2 Hiệp định TBT quy định khi chưa có
một tiêu chuẩn quốc tế tương ứng hoặc nội dung kỹ thuật của văn bản pháp
quy kỹ thuật dự kiến ban hành không phù hợp với nội dung kỹ thuật của các
tiêu chuẩn quốc tế có liên quan và nếu văn bản pháp quy kỹ thuật đó có ảnh
hưởng lớn tới thương mại của các Thành viên khác, các Thành viên phải:
- Thông báo trong một ấn phẩm ở thời điểm đủ sớm để tạo điều kiện
cho các bên quan tâm của các Thành viên khác biết rằng họ dự định ban hành
một văn bản pháp quy kỹ thuật cụ thể;
- Thông báo cho các Thành viên khác thông qua Ban Thư ký về các sản
phẩm sẽ được điều chỉnh trong văn bản pháp quy kỹ thuật dự kiến ban hành
cùng với mô tả ngắn gọn về mục tiêu và lý do ban hành. Các thông báo này
21
phải được thực hiện sớm, khi mà các sửa đổi bổ sung còn có thể tiến hành và
các ý kiến góp ý còn có thể xử lý được.
- Khi có yêu cầu, phải cung cấp cho các Thành viên khác bản gốc hoặc
bản sao của dự thảo pháp quy kỹ thuật dự kiến ban hành và nếu có thể cần chỉ
rõ những phần khác biệt nhiều với các tiêu chuẩn quốc tế có liên quan;
- Đưa ra thời hạn với sự không phân biệt đối xử để các Thành viên khác
góp ý bằng văn bản, thảo luận về các góp ý này khi có yêu cầu và quan tâm
xử lý các văn bản góp ý và các kết quả thảo luận này.
Đặc biệt, Khoản 2.10 Điều 2 Hiệp định quy định khi phát sinh hoặc có
nguy cơ phát sinh các vấn đề khẩn cấp về an toàn, sức khoẻ, bảo vệ môi
trường hoặc an ninh quốc gia đối với một Thành viên nào đó, Thành viên này
có thể bỏ qua một trong các bước nêu trong Khoản 2.9 nói trên nếu thấy cần
thiết, nhưng Thành viên đó khi ban hành văn bản pháp quy kỹ thuật phải:
- Thông qua Ban Thư ký, thông báo ngay cho các Thành viên khác về
văn bản pháp quy kỹ thuật cụ thể đó và các sản phẩm được đề cập tới với
những lời giải thích ngắn gọn về mục tiêu và lý do ban hành văn bản pháp
quy kỹ thuật này, bao gồm cả nội dung thực chất của các vấn đề khẩn cấp đó.
- Khi có yêu cầu, cung cấp cho các Thành viên khác bản sao văn bản
pháp quy kỹ thuật này;
- Với sự không phân đối xử, cho phép các Thành viên khác trình bày
góp ý bằng văn bản, thảo luận các góp ý này khi có yêu cầu và quan tâm xử lý
các văn bản góp ý và các kết quả thảo luận này.
- Các Thành viên phải đảm bảo rằng tất cả các văn bản pháp quy kỹ
thuật đã ban hành phải được công bố kịp thời hoặc bằng cách nào đó tạo điều
kiện cho các bên quan tâm của các Thành viên khác biết về các văn bản pháp
quy kỹ thuật đó.
Liên quan đến các quy chuẩn kỹ thuật cấp địa phương, Khoản 3.2 Điều
22
3 Hiệp định TBT quy định các thành viên phải đảm bảo rằng các văn bản
pháp quy kỹ thuật của các cơ quan nhà nước địa phương chịu sự điều chỉnh
trực tiếp của các văn bản pháp quy kỹ thuật của cơ quan nhà nước trung ương
của các Thành viên, phải được thông báo phù hợp với các nội dung của các
điểm 2.9.2 và 2.10.1 của Điều 2, nhưng lưu ý rằng việc thông báo sẽ không
bắt buộc đối với các văn bản pháp quy kỹ thuật mà nội dung kỹ thuật của
chúng cơ bản là giống như nội dung của các văn bản pháp quy kỹ thuật của
các cơ quan nhà nước trung ương của Thành viên có liên quan đã được thông
báo trước đó.
* Đối với quy trình đánh giá sự phù hợp
Hiệp định quy định việc thực hiện nghĩa vụ thông báo, hỏi đáp của các
nước thành viên đối với quy trình đánh giá sự phù hợp có nội dung tương tự
như các quy định thực hiện nghĩa vụ này đối với quy chuẩn kỹ thuật đã nêu
trên. Nghĩa vụ thông báo, hỏi đáp đối với quy trình đánh giá sự phù hợp của
nước thành viên được quy định cụ thể tại Khoản 5.6, Khoản 5.7 Điều 5,
Khoản 7.2 Điều 7, Khoản 8.1 Điều 8, Khoản 9.2 Điều 9 của Hiệp định TBT.
* Đối với tiêu chuẩn kỹ thuật
Đối với các Thành viên chấp nhận Quy chế thực hành tốt, Hiệp định
TBT cũng yêu cầu 6 tháng một lần, các Thành viên phải công bố Chương
trình công tác bao gồm tên, địa chỉ, các tiêu chuẩn đang xây dựng và các tiêu
chuẩn đã ban hành trong thời gian trước đó. Chương trình công tác phải được
thông báo cho Trung tâm thông tin ISO/IEC ở Geneva.
* Nghĩa vụ thành lập điểm đầu mối của nước thành viên để thực hiện
nghĩa vụ thông báo, hỏi đáp TBT
Liên quan đến nghĩa vụ hỏi đáp về TBT, Khoản 10.1 Điều 10 Hiệp
định yêu cầu mỗi nước Thành viên phải có một đầu mối liên lạc có khả năng
trả lời tất cả yêu cầu hợp lý từ các Thành viên khác và các bên quan tâm của
các Thành viên khác cũng như cung cấp các tài liệu liên quan đến:
23
- Tất cả các văn bản pháp quy kỹ thuật được thông qua hoặc dự kiến
thông qua trong phạm vi lãnh thổ của mình bởi các cơ quan nhà nước trung
ương hoặc địa phương, bởi các tổ chức phi chính phủ có thẩm quyền thi hành
văn bản pháp quy kỹ thuật, hoặc bởi các tổ chức tiêu chuẩn hoá khu vực mà
các cơ quan/tổ chức đó là thành viên hoặc tham gia;
- Tất cả tiêu chuẩn được thông qua hay dự kiến thông qua trong phạm vi
lãnh thổ của mình bởi cơ quan nhà nước trung ương hoặc địa phương, hoặc tổ
chức tiêu chuẩn hoá khu vực mà các cơ quan đó là thành viên hoặc tham gia.
- Tất cả các quy trình đánh giá sự phù hợp hoặc quy trình đánh giá sự
phù hợp dự kiến thông qua được thực hiện trong phạm vi lãnh thổ của mình
bởi cơ quan nhà nước trung ương hoặc địa phương, hoặc bởi các tổ chức phi
chính phủ có thẩm quyền thi hành văn bản pháp quy kỹ thuật hoặc bởi các tổ
chức khu vực mà các cơ quan/tổ chức đó là thành viên hoặc tham gia.
- Tư cách thành viên và sự tham gia của một Thành viên hoặc của
các cơ quan nhà nước trung ương hoặc địa phương trong phạm vi lãnh thổ
của Thành viên đó trong các tổ chức tiêu chuẩn hoá quốc tế hoặc khu vực
và các hệ thống đánh giá sự phù hợp cũng như vào các Thỏa thuận song
phương hoặc đa phương trong phạm vi áp dụng của Hiệp định này; Thành
viên cũng phải cung cấp thông tin cần thiết về các điều khoản của các hệ
thống và thoả thuận đó.
- Địa điểm phát hành thông báo theo Hiệp định này và những nơi có thể
tìm đọc thông tin này;
- Địa chỉ của các đầu mối liên lạc khác trong trường hợp nước thành
viên có nhiều đầu mối liên lạc có khả năng trả lời tất cả các yêu cầu thông tin
hợp lý từ các Thành viên khác và các bên quan tâm của các Thành viên khác
cũng như cung cấp những tài liệu hoặc thông tin có liên quan đến những nơi
cần nhận chúng.
24
Khoản 10.2 Điều 10 Hiệp định TBT quy định nếu vì các lý do pháp lý
hoặc hành chính mà một Thành viên có thể thành lập nhiều đầu mối liên lạc,
thì Thành viên đó phải cung cấp cho các Thành viên khác các thông tin đầy
đủ và cụ thể về phạm vi trách nhiệm của từng đầu mối liên lạc đó. Ngoài ra,
Thành viên đó phải đảm bảo rằng bất cứ yêu cầu thông tin nào gửi đến không
đúng đầu mối liên lạc sẽ được chuyển kịp thời đến đầu mối liên lạc cần thiết.
Liên quan đến thực hiện nghĩa vụ thông báo, Hiệp định TBT yêu cầu
các Thành viên phải chỉ định một cơ quan nhà nước trung ương có thẩm
quyền chịu trách nhiệm về việc thi hành ở cấp quốc gia các điều khoản liên
quan đến các thủ tục thông báo được quy định trong Hiệp định này ngoại trừ
các quy định nêu trong Phụ lục 3 (Khoản 10.10 Điều 10 Hiệp định). Tuy
nhiên, nếu vì các lý do pháp lý hoặc hành chính, mà trách nhiệm thông báo
được phân bổ giữa hai hoặc nhiều cơ quan chính quyền trung ương, các
Thành viên có liên quan phải cung cấp cho các Thành viên khác các thông tin
đầy đủ và rõ ràng về phạm vi trách nhiệm của từng cơ quan này. Khi một
Thành viên đạt được thoả thuận với một hoặc nhiều nước khác về các vấn đề
liên quan tới các văn bản pháp quy kỹ thuật, tiêu chuẩn hoặc quy trình đánh
giá sự phù hợp có ảnh hưởng nhiều tới thương mại, thì ít nhất một Thành viên
tham gia thoả thuận đó phải thông báo cho các Thành viên khác thông qua
Ban Thư ký về các sản phẩm được đề cập trong thoả thuận này và kèm theo
bản giới thiệu ngắn gọn về thoả thuận này. Khuyến khích việc tham gia của
các Thành viên có liên quan, khi có yêu cầu vào việc trao đổi, thảo luận với
các Thành viên khác để ký kết các thoả thuận tương tự hoặc để dàn xếp sự
tham gia của họ vào các thoả thuận đó. Các thông báo gửi đến Ban Thư ký
phải bằng tiếng Anh, Pháp hoặc Tây ban nha.
Ngoài các quy định về thông báo, hỏi đáp về TBT đã liệt kê như trên
của Hiệp định TBT, hiện nay WTO cải tiến hoạt động quản lý thông tin trao
25
đổi giữa các nước với mong muốn hoạt động điều phối của mình hiệu quả
hơn, đưa ra một số thay đổi liên quan đến các thủ tục/điều kiện về nghĩa vụ
minh bạch thông tin theo xu hướng chặt chẽ và khắt khe hơn so với trước kia,
được thể hiện trong các quyết định và khuyến nghị mới nhất của Ủy ban
TBT/WTO trong tài liệu G/TBT/1/Rev.11 ngày 16 tháng 12 năm 2013. Trong
đó, các nước đặc biệt cần lưu ý đối với những yêu cầu mới như sau:
- Thiết lập một cơ sở dữ liệu theo đó thành viên có thể cung cấp cho
Ban Thư ký WTO một phiên bản điện tử của dự thảo văn bản thông báo (đính
kèm) cùng với các định dạng thông báo (các nội dung sẽ được lưu trữ trên
máy chủ của WTO và truy cập thông qua một siêu liên kết trong các định
dạng thông báo);
- Thời gian góp ý kiến đối với dự thảo văn bản được thông báo có thể
kéo dài đến 90 ngày (so với trước kia là 60 ngày);
- Làm rõ tiêu chí “tác động đáng kể đến thương mại” để các nước thành
viên xác định rõ những văn bản mà sau khi phân tích, đáp ứng các tiêu chí
này thì cần thông báo (tránh tình trạng “lách luật” của một số nước không
thực hiện nghĩa vụ thông báo);
- Nếu không có lý do hợp lý để rút ngắn, thì thời điểm văn bản có hiệu
lực là sau 6 tháng kể từ thời điểm ban hành, ngoài ra WTO khuyến khích kéo
dài thời gian này hơn 6 tháng, nếu có điều kiện;
- Tăng cường sử dụng mạng internet để trao đổi thông tin giữa thành
viên nhằm đảm bảo việc tiếp cận và xử lý thông tin được kịp thời hơn. Nếu
trước kia các nước thành viên gửi thông báo qua e-mail cho Ban thư ký tổng
hợp và luân chuyển cho các thành viên khác thì theo xu hướng mới các nước
sẽ được hướng dẫn để tự gửi thông báo vào một trang tin, các nước khác truy
cập vào trang tin này sẽ nhanh chóng tiếp nhận thông tin để nghiên cứu, xử lý,
có ý kiến (nếu cần).
26
Ngoài ra, có 02 nội dung mà WTO khuyến khích thực hiện, đó là:
- Đăng tải ý kiến góp ý và trả lời ý kiến góp ý trên một trang thông tin
điện tử chính thức của nước thành viên và thông tin cho WTO biết địa chỉ của
trang thông tin điện tử này;
- Thông báo việc văn bản quy chuẩn/quy trình được thông qua/ban
hành; nêu rõ địa chỉ trang thông tin điện tử nơi có thể tải văn bản.
Đây là những điểm đáng lưu ý đối với hoạt động của các cơ quan đầu
mối thực hiện chức năng thông báo, hỏi đáp về TBT trong giai đoạn hiện nay.
1.4.2. Nghĩa vụ thông báo, hỏi đáp về TBT trong các FTA
Tiêu chuẩn kỹ thuật, quy chuẩn kỹ thuật là một trong số các nội dung
đàm phán của các Hiệp định FTA. Mục tiêu của các đàm phán này là giảm
bớt các rào cản kỹ thuật nhằm tạo thuận lợi cho thương mại của hai bên thông
qua minh bạch hóa quá trình xây dựng, ban hành và áp dụng tiêu chuẩn, quy
chuẩn kỹ thuật và quy trình đánh giá sự phù hợp, đồng thời thừa nhận lẫn
nhau các kết quả đánh giá sự phù hợp cũng như thừa nhận lẫn nhau các tổ
chức đánh giá sự phù hợp. Các FTA không yêu cầu nước thành viên thành lập
cơ quan riêng để thực hiện nghĩa vụ thông báo và hỏi đáp về TBT như Hiệp
định TBT của WTO. Tuy nhiên, các nghĩa vụ thông báo, hỏi đáp về TBT tại
các FTA đều được thực hiện thông qua chính hệ thống cơ quan thông báo, hỏi
đáp được thành lập theo Hiệp định TBT.
Minh bạch hóa là một trong các cam kết mang nhiều yếu tố TBT+ nhất
trong Chương TBT của các FTA gần đây. Việc minh bạch hóa tăng hơn nhiều
so với Hiệp định TBT cho thấy các nước mong muốn được hưởng lợi nhiều
hơn từ các thông tin xây dựng ban hành tiêu chuẩn, quy chuẩn và quy trình
đánh giá sự phù hợp của Bên đối tác. Hưởng lợi từ quá trình minh bạch hóa
chính sách sẽ gián tiếp đem lại các lợi ích trong các hoạt động tiêu chuẩn, quy
chuẩn kỹ thuật và quy trình đánh giá sự phù hợp, qua đó thuận lợi hóa thương
mại giữa hai bên.
27
Xu thế trong đàm phán TBT của FTA hiện nay là tăng cường nghĩa vụ
về minh bạch hóa tiêu chuẩn kỹ thuật, tạo tiền đề cho hàng hóa, sản phẩm của
mình lưu thông dễ dàng trên thị trường đối tác, điều này đồng nghĩa với việc
tăng cường tiếp cận thị trường thông qua hoạt động tiêu chuẩn kỹ thuật. Việc
minh bạch hóa tăng hơn nhiều so với Hiệp định WTO TBT cho thấy các nước
mong muốn được hưởng lợi nhiều hơn từ các thông tin xây dựng ban hành
tiêu chuẩn, quy chuẩn và quy trình đánh giá sự phù hợp của Bên đối tác.
Hưởng lợi từ quá trình minh bạch hóa chính sách sẽ gián tiếp đem lại các lợi
ích trong các hoạt động tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật và quy trình đánh giá
sự phù hợp và qua đó thuận lợi hóa thương mại giữa hai bên.
Các Hiệp định FTA thế hệ sau đều yêu cầu cam kết minh bạch hóa trong
TBT cao hơn nhiều so với Hiệp định TBT và các Hiệp định FTA “thế hệ
trước”. Chính vì vậy không chỉ TBT+, các Hiệp định này còn yêu cầu các mức
cao hơn TBT+, ví dụ TBT++. Điển hình là Hiệp định TPP và FTA Việt Nam –
EU, trong đó đưa ra các cam kết cao đối với nghĩa vụ minh bạch hóa trong
Chương TBT, tạo áp lực cho các nước đang phát triển trong việc thực thi các
nghĩa vụ này. Chẳng hạn, bên cạnh việc yêu cầu phải thông báo các dự thảo
quy chuẩn kỹ thuật và quy trình đánh giá sự phù hợp, các cam kết minh bạch
hóa trong Hiệp định FTA này còn yêu cầu thông báo các văn bản đã ban hành
cùng các góp ý và xử lý ý kiến góp ý nhận được từ các nước thành viên khác…
Việc các FTA ngày càng yêu cầu cam kết minh bạch hóa cao về TBT
cho thấy các cam kết trong Hiệp định TBT chưa thể giải quyết hết các yêu cầu
đối với việc công khai minh bạch thông tin về xây dựng, ban hành và áp dụng
các biện pháp kỹ thuật như kỳ vọng của các nước. Trên thực tế, Hiệp định
TBT chỉ yêu cầu thông báo các dự thảo quy chuẩn kỹ thuật và quy trình đánh
giá sự phù hợp và không yêu cầu thông báo dự thảo tiêu chuẩn, trong khi các
tiêu chuẩn sau khi ban hành sẽ trở thành cơ sở để xây dựng quy chuẩn kỹ
28
thuật và quy trình đánh giá sự phù hợp. Việc theo dõi các văn bản quy chuẩn
kỹ thuật và quy trình đánh giá sự phù hợp đã ban hành và có hiệu lực của các
nước Thành viên sau khi thông báo dự thảo cho WTO rất khó khăn cho các
nước Thành viên WTO khác, vì theo Hiệp định TBT việc thông báo các văn
bản đã ban hành chỉ khuyến khích thực hiện. Do vậy các nước khó có thể theo
dõi để biết chính xác khi nào các văn bản có hiệu lực.
29
TÀI LIỆU THAM KHẢ O
I. Tài liệu tiếng Việt
1. Ban thư ký WTO (2015), Số liệu thống kê theo tài liệu mã G/TBT/36.
2. Bộ Khoa học và Công nghệ (2006), Quyết định số 09/2006/QĐ-BKHCN
ngày 4 tháng 5 năm 2006 của Bộ Khoa học và Công nghệ ban hành Quy
trình thông báo và hỏi đáp của mạng lưới cơ quan thông báo và điểm hỏi
đáp của Việt Nam về hàng rào kỹ thuật trong thương mại, Hà Nội.
3. Bộ Khoa học và Công nghệ (2012), Thông tư số 15/2012/TT-BKHCN
ngày 08/08/2012 quy định về tổ chức và hoạt động của Ban Liên ngành
về hàng rào kỹ thuật trong thương mại, Hà Nội.
4. Bộ Thương mại (2007), Tài liệu bồi dưỡng Các cam kết gia nhập tổ chức
thương mại thế giới của Việt Nam, Hà Nội.
5. Nguyễn Bá Diến (2005), Giáo trình Luật Thương mại quốc tế, NXB Đại
học quốc gia Hà Nội.
6. Trịnh Thị Thu Hằng (2012), Hiệp định TBT của WTO và những vấn đề
pháp lý đặt ra đối với Việt Nam, tr. 21-22, Luận văn thạc sĩ, Khoa Luật
Trường đại học quốc gia Hà Nội.
7. Nguyễn Hữu Khải (2005), Hàng rào phi thuế quan trong chính sách
thương mại quốc tế, NXB Lao động- xã hội, Hà Nội.
8. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2007), Luật Chất
lượng sản phẩm, hàng hóa, Hà Nội.
9. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2007), Luật Tiêu
chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật, Hà Nội.
10. Tổng Cục Đo lường Chất lượng (2010), Sổ tay Tiêu chuẩn, Đo lường,
Đánh giá sự phù hợp với Hiệp định TBT, Hà Nội.
11. Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng (2008), Tài liệu đào tạo nội
bộ về TBT, Hà Nội.
115
12. Đinh Văn Thành (2005), Rào cản trong thương mại quốc tế, NXB Thống kê.
13. Nguyễn Hải Thanh (2010), Hàng rào kỹ thuật trong quản lý nhập khẩu
của Việt Nam, thực trạng và giải pháp, Luận văn thạc sỹ kinh tế, Trường
Đại học ngoại thương, Hà Nội.
14. Thủ tướng Chính phủ (2005), Quyết đi ̣nh số 114/2005/QĐ-TTg ngày
26/05/2005 của về viê ̣c thà nh lập và ban hà nh quy chế tổ chứ c và hoạt động của mạng lướ i cơ quan Thông bá o và Điểm hỏi đ áp của Việt nam về hà ng rà o kỹ thuật trong thương mại, Hà Nội.
15. Văn phòng TBT (2007), Hiệp định hành rào kỹ thuật trong thương mại,
cam kết và thực thi của Việt Nam.
16. Văn phòng TBT (2015), Bản tin TBT Việt Nam số 1/2015.
17. Văn phòng TBT (2015), Báo cáo đánh giá tình hình hoạt động của Ban
liên ngành về TBT và Mạng lưới TBT Việt Nam kể từ thời điểm gia nhập
WTO đến nay (2007-2015).
18. Lê Thùy Vân (2011), Tác động của Hiệp định về rào cản kỹ thuật trong
thương mại đến các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam, Luận văn Thạc
sỹ kinh tế, Trường Đại học ngoại thương Hà Nội.
19. WTO (1995), Hiệp định Hàng rào kỹ thuật trong thương mại của WTO.
20. WTO (2007), Thông lệ tốt về hư ớng dẫn về quản lý các cơ quan thông
báo và Điểm hỏi đáp quốc gia về các rà o cản kỹ thuật trong thương mại (TBT) và hiệp định kiểm dịch vệ sinh động, thực vật (SPS) của WTO.
21. WTO (2014), Báo cáo WTO.
II. Tài liệu nƣớc ngoài
22. Ambassador Demetrios Marantis Office of the United States Trade
Representative (2013), Report on Technical Barriers to Trade.
23. Biukovic, L, (2008), Selective adaptation of WTO transparency norms
and local practices in China and Japan, Journal of International
Economic Law 11(4): 803-825.
116
24. Chulai Chen (2009), China's Integration with the Global Economy: WTO
Accession, Foreign Direct Investment and International Trade, Edward
Elgar Publishing .
25. Committee on Technical Barriers to Trade (2013), Third Triennial
Reviews of the Operation and Implementation of the TBT Agreement.
26. Greene, M. and C. Tsai (2008), Enhancing Market Openness through
Regulatory Reform in the People's Republic of China.
27. Menezes, R. P. B. and A. M. de Souza Antunes (2005), Using the WTO/TBT
enquiry point to monitor tendencies in the regulation of environment, health,
and safety issues affecting to EU, Environment international 31(3).
28. Patrick A. Trottier, M.S., I/O Psychology (2012), Approaches to
Consultation: The Four Basic Models.
29. WTO Secretary (2015), Twentieth Annual Revew of the Implementation
and Operation of the TBT Agreement.
30. WTO (2007), Best practices and Guide Book to the Management of
Notification Authorities and National Enquiry Points under the WTO
TBT and SPS Agreements.
31. WTO (2011), Procedural Step-by-step Manual for SPS National
Notification Authorities & SPS National Enquiry Points.
III. Các trang thông tin điện tử
* Tiếng việt:
32. Trung tâm WTO – VCCI: http://www.trungtamwto.vn/
33. Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fullbright: http://www.fetp.edu.vn
34. http://laocai.gov.vn/sites/sokhcn/vanphongtbtlaocai
35. http://tbt/.xaydung.gov.vn/tbt
36. Tổ chức Thương mại Thế giới: https://www.wto.org/
37. http://tbtvn.org.
117
* Tiếng nước ngoài:
38. Điểm hỏi đáp và Thông báo quốc gia về TBT của Trung Quốc:
http://www.tbt-sps.gov.cn/.
39. Điểm hỏi đáp và Thông báo quốc gia về TBT của Hàn Quốc: http://www.knowtbt.kr.
40. Điểm hỏi đáp và Thông báo quốc gia về TBT của Hoa Kỳ:
http://gsi.nist.gov/ và https://tsapps.nist.gov/notifyus.
41. http://gsi.nist.gov/global/docs/nus2011.pdf.
42. http://www.chinafta.govt.nz/1-The-agreement/1-Key-outcomes/1-
Goods/6-Technical-barriers-to-trade/index.php.
43. KnowTBTKorea;http://www.knowtbt.kr:8888/eng/TBT/TBEU02_1.aspx
.