BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Trần Quang Trọng

TỔN THƯƠNG TÂM LÝ CỦA BỆNH NHÂN

MẤT NGỦ MẠN TÍNH TẠI MỘT SỐ

BỆNH VIỆN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC

Thành phố Hồ Chí Minh - 2019

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Trần Quang Trọng

TỔN THƯƠNG TÂM LÝ CỦA BỆNH NHÂN

MẤT NGỦ MẠN TÍNH TẠI MỘT SỐ

BỆNH VIỆN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Chuyên ngành : Tâm lý học

Mã số

: 8310401

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

GS. TS. ĐOÀN VĂN ĐIỀU

Thành phố Hồ Chí Minh - 2019

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan số liệu và kết quả trong luận văn “Tổn thương tâm lý của

bệnh nhân mất ngủ mạn tính tại một số bệnh viên thành phố Hồ Chính Minh” là

trung thực, chưa được sử dụng trong bất kỳ luận văn nào.

Tp Hồ Chí Minh, ngày…. tháng…. năm 2019

Học viên ký tên

Trần Quang Trọng

LỜI CẢM ƠN

Xin chân thành cảm ơn quý thầy cô giảng dạy lớp Cao học Tâm lý học, quý

thầy cô Phòng Sau đại học, Trường Đại học Sư Phạm Tp.HCM đã nhiệt tình truyền

đạt những kiến thức, những kinh nghiệm tinh thông, sâu sắc quý báu, đã tạo mọi điều

kiện thuận lợi trong quá trình tôi học tập.

Xin bày tỏ lời cảm ơn sâu sắc đến GS.TS. Đoàn Văn Điều, người đã tận tình

hướng dẫn, giúp đỡ, động viên, đồng thời tạo mọi điều kiện tốt nhất để tôi hoàn

thành luận văn tốt nghiệp.

Xin gửi lời cảm ơn tới Ban giám đốc và cán bộ nhân viên bệnh viện Quận 2 đã

nhiệt tình tạo điều kiện thuận lợi trong quá trình tôi thực hiện luận văn tốt nghiệp.

Xin chân thành cảm ơn đến các bạn học viên cao học đã chia sẻ, trao đổi kiến

thức và đóng góp ý kiến quý báu, nhằm giúp đỡ động viên tôi.

Cuối cùng, xin gửi đến gia đình, tất cả bạn bè thân thuộc, những người luôn

giúp đỡ động viên tôi rất nhiều trong cuộc sống, trong quá trình học tập và thực hiện

luận văn tốt nghiệp.

TP.HCM, ngày tháng năm 2019

MỤC LỤC

Trang bìa phụ

Lời cam đoan

Lời cảm ơn

Mục lục

Danh mục các chữ viết tắt

Danh mục các bảng

Danh mục các biểu đồ

Mở đầu .......................................................................................................................... 1

Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN TỔN THƯƠNG TÂM LÝ CỦA BÊNH NHÂN

MẤT NGỦ MẠN TÍNH .......................................................................... 7

1.1. Lịch sử nghiên cứu về tổn thương tâm lý ......................................................... 7

1.1.1. Nghiên cứu tổn thương tâm lý ở nước ngoài ............................................. 7

1.1.2. Nghiên cứu tổn thương tâm lý ở Việt Nam ............................................. 11

1.2. Khái niệm chung về tổn thương tâm lý .......................................................... 15

1.3. Khái niệm trầm cảm ....................................................................................... 18

1.3.1. Định nghĩa trầm cảm ................................................................................ 18

1.3.2. Nguyên nhân và cơ chế bẩm sinh của trầm cảm ...................................... 20

1.3.3. Chẩn đoán trầm cảm theo DSM-IV ......................................................... 23

1.3.4. Các biểu hiện của trầm cảm ..................................................................... 24

1.4. Khái niệm lo âu .............................................................................................. 26

1.4.1. Định nghĩa rối loạn lo âu ......................................................................... 26

1.4.2. Các biểu hiện của rối loạn lo âu ............................................................... 28

1.4.3. Căn nguyên rối loạn lo âu ........................................................................ 30

1.4.4. Chẩn đoán rối loạn lo âu theo DSM-IV: .................................................. 31

1.5. Khái niệm mất ngủ ......................................................................................... 32

1.6. Các yếu tố liên quan trầm cảm, lo âu ............................................................. 34

1.7. Mất ngủ mạn tính, trầm cảm, lo âu mối liên quan ......................................... 46

1.8. Bộ công cụ đánh giá trầm cảm, lo âu ............................................................. 47

Tiểu kết Chương 1 ....................................................................................................... 52

Chương 2. THỰC TRẠNG TỔN THƯƠNG TÂM LÝ CỦA BỆNH NHÂN

MẤT NGỦ MẠN TÍNH ........................................................................ 53

2.1. Thể thức và phương pháp nghiên cứu tổn thương tâm lý của bệnh nhân

mất ngủ mạn tính .......................................................................................... 53

2.2. Thực trạng chung về tổn thương tâm lý của bệnh nhân mất ngủ mạn tính ... 59

2.2.1. Đánh giá chung thực trạng lo âu, trầm cảm ở bệnh nhân mất ngủ

mạn tính ................................................................................................. 60

2.3. Mô tả đặc điểm khách thể nghiên cứu ........................................................... 62

2.4. Mối liên quan giữa trầm cảm, lo âu với các yếu tố liên quan ........................ 69

2.4.1. Mối liên quan trầm cảm lo âu với đặc điểm hôn nhân gia đình .............. 69

2.4.2. Mối liên quan trầm cảm, lo âu với dặc điểm kinh tế ............................... 72

2.4.3. Mối liên quan giữa trầm cảm lo âu với đặc điểm mất ngủ ...................... 73

2.4.4. Mối liên quan giữa trầm cảm, lo âu với đặc bệnh đồng mắc .................. 75

Tiểu kết Chương 2 ....................................................................................................... 78

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ................................................................................... 79

TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................... 80

PHỤ LỤC

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

CHỮ ĐẦY ĐỦ CHỮ VIẾT TẮT

Obsessive compulsive disorder OCD (Rối loạn ám ảnh cưỡng chế)

Acquired immunodeficiency syndrome AIDS (Hội chứng suy giảm miễn dịch)

American Psycholofical Association APA (Hiệp hội tâm lý học Hoa Kỳ)

BV Bệnh viện

Centers for Disease Control and Prevention CDC (Trung tâm Kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh Hoa Kỳ)

Center for Epidemiological Studies Depression CES-D (Trung tâm nghiên cứu dịch tể trầm cảm)

Disability- Adjusterd Life Years DALY (Số năm sống được điều chỉnh theo mức độ bệnh tật)

Depression Anxiety and Stress Scales DASS21 (Thang đánh giá mức độ trầm cảm, lo âu, stress 21)

Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders

DSM-IV (Hướng dẫn chẩn đoán và thống kê các rối loạn tâm thần

IV)

Hospital Anxiety and Depression Scale HADS (Thang dó lo âu và trầm cảm tại bệnh viện)

Hamilton Anxiety Rate Scale HAMA (Thang đo lo âu của Hamilton)

Hamilton Depression Rating Scale HAMD (Thang đo trầm cảm của Hamilton)

Human Immunodeficiency virus HIV (Vi rút suy giảm miễn dịch ở người)

ICD Internationnal Classification of Diseases

(Phân loại quốc tế về bệnh)

RLLATT Rối loạn lo âu toàn thể

Odds ratio OR (Tỉ số số chênh)

Patient Health Questionnaire 9 PHQ-9 (Bảng hỏi đánh giá sức khỏe bệnh nhân 9)

Prevalence ratio PR (Tỉ lệ hiện hành)

Post Trauma Stress Disorder PTSD (Rối loạn stress sau sang chấn)

Actue stress reaction ASR (Rối loạn stress cấp)

TTTL Tổn thương tâm lí

World Health Organization WHO (Tổ chức Y tế thế giới)

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 2.1. Đánh giá chung mức độ lo âu trầm cảm .................................................... 60

Bảng 2.2. Tỉ lệ trầm cảm, lo âu. ................................................................................. 61

Bảng 2.3. Đặc tính thông tin cá nhân ......................................................................... 62

Bảng 2.4. Đặc điểm hôn nhân gia đình của khách thể nghiên cứu ........................... 64

Bảng 2.5. Đặc điểm kinh tế nghề nghiệp của khách thể nghiên cứu ......................... 65

Bảng 2.6. Đặc điểm chứng mất ngủ của khách thể nghiên cứu ............................... 66

Bảng 2.7. Đặc điểm bệnh đồng mắc của khách thể nghiên cứu ................................ 67

Bảng 2.8. Tự đánh giá cảm nhận của khách thể về tình trạng bệnh ........................... 68

Bảng 2.9. Mối liên quan giữa trầm cảm với đặc điểm hôn nhân gia đình ................ 69

Bảng 2.10. Mối liên quan giữa lo âu với đặc điểm hôn nhân gia đình ...................... 70

Bảng 2.11. Mối liên quan trầm cảm với đặc điểm kinh tế. ....................................... 72

Bảng 2.12. Mối liên quan giữa lo âu với đặc điểm kinh tế. ...................................... 72

Bảng 2.13. Mối liên quan giữa trầm cảm với đặc điểm mất ngủ .............................. 73

Bảng 2.14. Mối liên quan giữa lo âu với đặc điểm giấc ngủ ..................................... 74

Bảng 2.15. Mối liên quan trầm cảm với đặc điểm bệnh đồng mắc ........................... 75

Bảng 2.16. Mối liên quan lo âu với đặc điểm bệnh đồng mắc .................................. 76

DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ

Biểu đồ 2.1. Mối tương quan rối loạn lo âu và trầm cảm ........................................... 61

Biểu đồ 2.2. Tuổi trung bình khách thể nghiện cứu ................................................... 63

Biểu đồ 2.3. Thời gian trung bình ngủ thực tế của khách thể .................................... 67

1

Mở đầu

1. Lý do chọn đề tài

Tổn thương tâm lý là một hiện tượng tâm lý phức tạp, không dễ chẩn đoán với

nhiều biểu hiện khác nhau ở các cá nhân như: rối loạn dạng cơ thể, vấn đề về tư duy,

chú ý, giao tiếp xã hội, hành vi, và phổ biến nhất là lo âu và trầm cảm (Nguyễn Thị

Như Thúy, 2017). Trầm cảm, lo âu gây ảnh hưởng tiêu cực đến cảm xúc, suy nghĩ và

hành vi của con người, tạo nên một gánh nặng bệnh tật rất lớn cho cả bản thân, gia

đình và xã hội (Lecrubier, 2001). Trầm cảm và lo âu là những rối loạn tâm thần

thường gặp, người bị trầm cảm hay có các biểu hiện như buồn bã, mất hứng thú, mặc

cảm tội lỗi hoặc ngủ ít, cảm giác mệt mỏi, và tập trung kém; những đặc trưng cơ bản

của rối loạn lo âu là cảm giác căng thẳng, suy nghĩ lo lắng và sự thay đổi về thể chất.

(World Health Organization, 2014).

Thông thường mất ngủ được xác định khi có sự than phiền của một cá nhân về

việc khó ngủ hay không ngủ được. Đôi khi mất ngủ được sử dụng như một thuật ngữ

để chỉ về việc xáo trộn trong giấc ngủ của một cá nhân với các biểu hiện như ngủ trễ

giấc, thức dậy về đêm với những kích thích thoáng qua trong thời gian ngắn, do đó

mất ngủ thường được xem như là một triệu chứng của những bệnh lý khác. Mặc dù

thường được xem là triệu chứng trầm cảm, nhưng mất ngủ cũng là một tiền đề dẫn

đến trầm cảm và có liên quan đến sự gia tăng đáng kể trong nguy cơ của trầm cảm.

Mất ngủ liên quan đến suy giảm tâm trạng, hoạt động cá nhân và chất lượng cuộc

sống, trong một số trường hợp với tình trạng buồn ngủ ban ngày có thể làm tăng rủi

ro dẫn đến tai nạn (Walsh J. K, 2004). Những người bị chứng mất ngủ mạn tính

thường đi kèm với những rối loạn tâm lý phổ biến là lo âu và trầm cảm, theo kết quả

của nhiều nghiên cứu được tiến hành trên thế giới, ước tính rằng 40% người có

chứng mất ngủ mạn tính có thể đang mắc một rối loạn tâm lý song song (Ancoli-

Israel, 2006; Katz D. A và McHorney, 1998).

Do tính mạn tính kéo dài của chứng mất ngủ nên đây là một trong những yếu tố

liên quan gián tiếp đến chất lượng cuộc sống của một cá nhân. Trong nhiều nghiên

cứu dịch tễ học cho thấy rằng yếu tố trầm cảm, lo âu và mất ngủ có mối liên quan với

nhau, trầm cảm hay lo âu là những biểu hiện rất phổ biến của những bệnh nhân có

2

chứng mất ngủ mạn tính, trong khi ngược lại chứng mất ngủ có tỷ lệ xuất hiện gấp

đôi ở những người có tâm trạng buồn chán, lo lắng quá nhiều (Soldatos, 1994). Mẫu

nghiên cứu trên cộng đồng 1014 thanh thiếu niên tuổi từ 13-16 tuổi của Johnson tiến

hành năm 2016, mất ngủ được đánh giá dựa trên các tiêu chí từ DSM-IV, đã cho kết

quả những người có chứng mất ngủ kéo dài có tỉ suất nguy cơ bị rối loạn lo âu và

trầm cảm cao hơn nhưng người bình thường lần lượt là 3,2 và 6,8 lần (Johnson E. O,

Roth, & Breslau, 2006).

Các ảnh hưởng của việc mất ngủ, lo âu, trầm cảm không chỉ gây cho cá nhân

nhiều lo lắng và mệt mỏi, ảnh hưởng xấu đến tình trạng sức khỏe thể chất và tinh

thần mà cũng đòi hỏi chi phí rất cao đối với cộng đồng và thiệt hại rất đáng kể về

thời gian làm việc và năng suất lao động, điều này đã được nhiều nghiên cứu nước

ngoài công bố tuy nhiên tại Việt Nam các công trình nghiên cứu chưa nhiều. Vì vậy

chúng tôi tiến hành nghiên cứu “Tổn thương tâm lý của bệnh nhân mất ngủ mạn

tính tại một số bệnh viện thành phố Hồ Chí Minh”.

2. Mục đích nghiên cứu

Qua nghiên cứu lý luận, thực trạng rối loạn lo âu, trầm cảm và các yếu tố tác

động ở bệnh nhân mất ngủ mạn tính, đưa ra một số kiến nghị nhằm cải thiện sức

khỏe của bệnh nhân mạn tính.

3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu

Đối tượng

Tổn thương tâm lý liên quan đến mất ngủ mạn tính

Khách thể

Bệnh nhân mất ngủ mạn tính

4. Giới hạn nghiên cứu

Giới hạn đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu được giới hạn thành hai biểu hiện của tổn thương tâm lý

là lo âu và trầm cảm. Đề tài quan tâm đến những bệnh nhân có lo âu và trầm cảm ở

mức độ nặng và rất nặng được xác định bởi điểm số từ thang đo đánh giá mức độ

trầm cảm, lo âu, stress (DASS-21).

3

Giới hạn khách thể nghiên cứu

Bệnh nhân đến khám và điều trị tại khoa khám bệnh và phòng khám bác sĩ gia

đình bệnh viện Quận 2, được sàng lọc và đánh giá tình trạng mất ngủ mạn tính bằng

chẩn đoán theo DSM-IV và ICD-10 với các biểu hiện để chẩn đoán mất ngủ như: (1)

bệnh nhân có các than phiền về mất ngủ; (2) thời gian có các than phiền về giấc ngủ

kéo dài trên 1 tháng; (3) không do hiệu quả sinh lý của một số chất (café, rượu,

bia,..); (4) bệnh nhân có mệt mỏi hoặc suy giảm hoạt động vào ban ngày; (5) làm suy

giảm hoạt động xã hội, nghề nghiệp hoặc trong các lĩnh vực quan trọng khác.

Giới hạn địa điểm nghiên cứu

Nghiên cứu được tiến hành lấy mẫu và thực hiện tại bệnh viện Quận 2 thành

phố Hồ Chi Minh.

5. Giả thuyết khoa học

Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa các yếu tố liên quan đến lo âu, trầm

cảm ở bệnh nhân mất ngủ mạn tính (1) yếu tố gia đình, (2) kinh tế xã hội, (3) tình

trang sức khỏe

6. Nhiệm vụ nghiên cứu

Hệ thống hóa các vấn đề lý luận và thực tiễn các khái niệm trong nghiên cứu

Xác định thực trạng rối loạn lo âu và trầm cảm của bệnh nhân mất ngủ mạn tính

Xác định mối liên quan giữa lo âu, trầm cảm với các yếu tố (giới tính, tuổi,

nghề nghiệp, tình trạng sức khỏe, cảm nhận kinh tế, mâu thuẫn gia đình)

7. Phương pháp nghiên cứu tổn thương tâm lý của bệnh nhân mất ngủ

mạn tính

7.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận tổn thương tâm lý của bệnh nhân

mất ngủ mạn tính.

Mục đích: Nghiên cứu lý luận xác lập cơ sở lý luận của đề tài luận văn

Nội dung: Thu thập, phân tích, tổng hợp các loại sách, báo, tạp chí, công trình

nghiên cứu, văn bản, tài liệu trong và ngoài nước có liên quan đến rối loạn lo âu và

mất ngủ để xây dựng cơ sở lý luận của đề tài. Làm rõ khái niệm rối loạn lo âu, trầm

cảm, mất ngủ mạn tính.

4

Cách tiến hành: Hệ thống hóa những lý thuyết, những tranh luận hay sự khác

nhau trong các công trình nghiên cứu có liên quan đến rối loạn lo âu, trầm cảm, giấc

ngủ, mất ngủ của các tác giả trong nước và ngoài nước được đăng tải trên các sách,

báo, tạp chí khoa học, về rối loạn lo âu và mất ngủ ở bệnh nhân mạn tính.

Tham khảo nhiều nguồn tài liệu khác nhau trên các lĩnh vực có liên quan đến đề

tài nghiền cứu. Phân tích, tổng hợp các nguồn tài liệu một cách cẩn trọng.

7.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn tổn thương tâm lý của bệnh nhân

mất ngủ mạn tính

 Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi

Mục đích: Xác định thực trạng rối loạn lo âu, trầm cảm, mất ngủ, đặc điểm

chung khách thể, các yếu tố có liên quan đến rối loạn lo âu ở bệnh nhân mạn tính.

Cách tiến hành: Đầu tiên nghiên cứu sử dụng tiêu chí phân loại mất ngủ mạn

tính theo DSM-IV để sàng lọc những người bệnh có than phiền mất ngủ.

Sau đó sử dụng bộ câu hỏi có cấu trúc gồm 2 phần để người tham gia trả lời

Phần A: Gồm 21 câu hỏi nhằm lấy thông tin chung của đối tượng tham gia

nghiên cứu.

Phần B: Sử dụng thang đo DASS21 để đánh giá lo âu và trầm cảm trên bệnh

nhân. Đây là thang đo được sử dụng rộng rãi để đánh giá lo âu, trầm cảm, stress

trong bệnh viện và ngoài cộng đồng.

 Phương pháp phỏng vấn

Mục đích: Tiến hành phỏng vấn 1 số bệnh nhân mạn tính, nhằm tìm hiểu sâu

hơn tình trạng giấc ngủ của bệnh nhân trong 1 tháng qua.

Cách thực hiện: Chọn 1 số bệnh nhân trả lời có ở câu hỏi bệnh nhân tự cho

mình bị mất ngủ trong 1 tháng qua, ở bảng hỏi trực tiếp.

Cách xử lý kết quả: Thông tin thu thập được dùng để minh họa, làm rõ, các

bảng đo kết quả nghiên cứu thực trạng, giải thích 1 số vấn đề trong nghiên cứu.

Nội dung phỏng vấn: Nội dung phỏng vấn xoay quanh các vấn đề về mất ngủ,

thời gian kéo dài của việc mất ngủ, ảnh hưởng tiêu cực của mất ngủ lên sinh hoạt

hằng ngày, tình trạng bệnh, tâm lý của bệnh nhân.

5

 Phương pháp toán thống kê

Mục đích: Đưa ra những kết luận định lượng cho vấn đề nghiên cứu.

Cách tiến hành: Các bộ câu hỏi phỏng vấn sau khi thu thập sẽ được tiến hành

làm sạch. Nhập liệu bằng phần mềm Epidata 3.1; xử lý thống kê bằng phần mềm

Stata 13.0.

Thống kê mô tả: Sử dụng tần số và tỉ lệ phần trăm để mô tả cho các biến số

định tính: Giới tính, hôn nhân, sự hỗ trợ, tình trạng kinh tế, v.v…

Sử dụng trung bình và độ lệch chuẩn nếu biến số phân phối bình thường hoặc

trung vị và khoảng tứ phân vị nếu biến số phân phối không bình thường để mô tả cho

các biến số định lượng: rối loạn lo âu, mất ngủ, thời gian ngủ ban ngày.

Thống kê phân tích: Dùng kiểm định chi bình phương để xác định mối liên

quan giữa biến kết cuộc và biến tiên lượng là biến nhị giá hoặc biến danh định. Thay

thế bằng kiểm định Fisher cho phép kiểm chi bình phương nếu trên 20% tổng số các

ô vọng trị <5 hoặc có ô vọng trị nhỏ hơn 1.

Mối liên quan được ước lượng bằng tỉ số tỉ lệ hiện hành PR với khoảng tin cậy

95%.

7.3. Đạo đức trong nghiên cứu

Ảnh hưởng đến đối tượng nghiên cứu

Trước khi tham gia nghiên cứu đối tượng được cung cấp đầy đủ các thông tin

liên quan đến nghiên cứu.

Đối tượng nghiên cứu hoàn toàn có quyền quyết định tự nguyện tham gia vào

nghiên cứu.

Nghiên cứu không làm ảnh hưởng đến quyền lợi tham gia khám chữa bệnh và

điều trị tại bệnh viện của đối tượng tham gia nghiên cứu.

Mọi thông tin mà đối tượng nghiên cứu cung cấp sẽ hoàn toàn được bảo mật và

chỉ phục vụ cho mục đích của nghiên cứu.

Ảnh hưởng lên xã hội

Nghiên cứu chỉ nhằm tìm ra tỉ lệ trầm cảm, lo âu trên những đối tượng bị chứng

mất ngủ mạn tính và không gây ảnh hưởng tiêu cực tới tình trạng xã hội hiện tại.

6

Xin phép và phê duyệt

Nghiên cứu được xin phép và phê duyệt tại Hội đồng khoa học của khoa tâm lý

Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh số 361/QĐ-ĐHSP Ngày 06/02/2018

Được sự chấp nhận và cho phép của Ban giám đốc bệnh viện quận 2 và lãnh

đạo khoa khám bệnh và phòng khám bác sĩ gia đình nghiên cứu mới được tiến hành.

Nghiên cứu thực hiện lấy mẫu trên những đối tượng đồng ý tham gia nghiên

cứu.

7

Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN TỔN THƯƠNG TÂM LÝ CỦA BÊNH NHÂN

MẤT NGỦ MẠN TÍNH

1.1. Lịch sử nghiên cứu về tổn thương tâm lý

1.1.1. Nghiên cứu tổn thương tâm lý ở nước ngoài

Trên thế giới những vấn đề về sức khỏe tâm thần và những tổn thương tâm lý

bắt đầu được quan tâm và nghiên cứu vào cuối thế kỷ XIX.

Những nghiên cứu ban đầu chủ yếu tập trung vào những vấn đề về nguyên

nhân, triệu chứng lâm sàng của những tổn thương tâm lý. Năm 1889, nhà tâm thần

học người Đức Herman Oppenheim là người đầu tiên đưa ra những miêu tả về triệu

chứng lâm sàng của tổn thương tâm lý ở những bệnh nhân trải qua tai nạn đường sắt

hoặc tai nạn lao động, ông miêu tả như sau: “Ở họ luôn có nỗi lo thường trực, họ sợ

phải đối mặt với những kích thích gợi lại sự kiện gây ra tai nạn, rối loạn giấc ngủ

kèm theo cơn ác mộng, dễ cáu gắt, quá cảnh giác và thu mình lại” (Holdorff, 2011).

Jean Martin Charcot (1825 - 1893) người sáng lập khoa thần kinh học ở Pháp

và là một trong những nhà nghiên cứu y học xuất sắc nhất trong thời đại của ông,

được xem như người đầu tiên nghiên cứu mối quan hệ giữa chấn thương và bệnh tâm

thần. Chứng cuồng loạn (hysteria) rất phổ biến tại châu Âu vào cuối thế kỷ XIX và

được coi là một thách thức đối với giới khoa học đương thời. Những nghiên cứu

trước thời Charcot đa phần cho rằng nguyên nhân của chứng cuồng loạn ở phụ nữ là

do nguyên nhân sinh lý nên hầu hết những bệnh nhân là phụ nữ khi có triệu chứng

này đều bị điều trị bằng phương pháp cắt bỏ tử cung, thì qua quá trình làm việc với

phụ nữ tổn thương trong bệnh viên Salpetriere, Charcot đã chỉ ra nguồn gốc của trị

chứng cuồng loạn không phải là sinh lý mà có bản chất tâm lý, đồng thời nhấn mạnh

vai trò của sự kiện gây sợ hãi (Von Plessen, 1996).

Kế thừa tư tưởng của Charlot nghiên cứu về chứng cuồng loạn, năm 1895,

Sigmud Freud đã thực hiện nghiên cứu, ông cho rằng nguyên nhân cụ thể của chứng

hysteria xuất phát từ việc bị lạm dụng tình dục và chỉ ra rằng những triệu chứng lâm

sàng đặc trưng là sự tái hiện trở lại những ý nghĩ, hình ảnh, ý tưởng, sự sợ hãi khi

chủ thể đối diện với sự kiện gây nên tổn thương tâm lý. Ông đã phát triển khái niệm

8

chứng cuồng loạn trở thành lý thuyết tình dục, sau đó phát triển thành “lý thuyết

quyến rũ” (seduction theory), tuy nhiên lý thuyết này sau đó không được chấp nhận.

Năm 1919, Pierre Janet người đầu tiên nghiên cứu một cách có hệ thống về

những ảnh hưởng của những ký ức đau thương với những tổn thương tâm lý mới,

ông đã chỉ những triệu chứng lâm sàng: suy nhược thần kinh và tâm thần, run chân

tay, căng trương lực cơ, mất cảm giác, liệt hoặc sợ hãi, rối nhiễu hành vi (Sullivan,

1990).

Từ nửa sau của thế kỷ XX đến nay, những nghiên cứu về tổn thương tâm lý

thường tập trung vào những biểu hiện triệu chứng của phản ứng stress sau sang chấn

(Post – traumatic stress disorder). Bên cạnh đó là những sự tranh cãi trái chiều của

các nhà khoa học khi cho rằng khái niệm PTSD là quá nghiêm khắc, không xác định

thỏa đáng hết các đối tượng tổn thương tâm lý, nhưng quy tụ lại đồng ý rằng một

người có tổn thương tâm lý không nhất thiết sẽ phát triển thành PTSD, nhưng một

người có triệu chứng PTSD thì luôn chứng tỏ rằng họ đã trải qua sang chấn và có tổn

thương tâm lý (Lê Thị Tường Vân, 2016).

Các nghiên cứu rối loạn lo âu và trầm cảm trên thế giới

Trầm cảm, lo âu là các rối loạn tâm lý gây ảnh hưởng đến cảm xúc, hành vi,

suy nghĩ của con người, là vấn đề đang được quan tâm trong công tác chăm sóc sức

khỏe cộng đồng ngày nay. Trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu về trầm cảm, lo âu

và các yếu tố liên quan trên nhiều đối tượng bệnh nhân khác nhau:

Tỉ lệ trầm cảm trên các đối tượng bệnh nhân mạn tính dao động từ 11% đến

hơn 50%. Tác giả Kenneth B. Wells (1993) đưa ra tỉ lệ trầm cảm khá cao ở các đối

tượng bệnh nhân tăng huyết áp, đái tháo đường và nhồi máu cơ tim với tỉ lệ lần lượt

là 57,6%, 53,3% và 56,5% (Wells KB, Rogers W, Burnam MA, & Camp P, 1993).

Kết quả nghiên cứu của tác giả Mark Peyrot ở Mỹ trên bệnh nhân đái tháo đường

(1997) có tỉ lệ trầm cảm là 41,3% trong khoảng tin cậy 95% từ 37,4% đến 45,2%,

trong đó tỉ lệ trầm cảm ở nữ cao hơn nam gấp 2,08 lần trong khoảng tin cậy 95% từ

1,49 đến 2,90. (Peyrot M và Rubin RR, 1997). Trong nghiên cứu của P. de Jonge

(2006) ở Tây ban nha thực hiện trên những người từ 55 tuổi trở lên thì tỉ lệ trầm cảm

ở những bệnh nhân tăng huyết áp là 15,4% (De Jonge, Roy, Saz, Marcos, & Lobo,

9

2006). Nghiên cứu của tác giả Ali Khan Khuwaja ở Pakistan (2010) thực hiện trên

bệnh nhân đái tháo đường cũng cho tỉ lệ tương tự (Khuwaja et al., 2010). Nghiên cứu

của tác giả Giorgio Ciprandi (2015) cho thấy tỉ lệ trầm cảm ở bệnh nhân hen là 11%

(Ciprandi, Schiavetti, Rindone, & Ricciardolo, 2015).

Các nghiên cứu dịch tễ học cho thấy rằng tâm lý là một yếu tố nguy cơ cao cho

sự xuất hiện của chứng mất ngủ. Trầm cảm và lo âu là những biểu hiện khá phổ biến

của chứng mất ngủ, ngược lại sự than phiền về mất ngủ nhiều hơn gấp đôi ở những

người chán nản. Hơn nữa, các nghiên cứu gần đây cho thấy mối liên hệ nhân quả

mạnh mẽ của chứng mất ngủ cho cả trầm cảm và lo âu. Tuy nhiên, mối quan hệ nhân

quả và hiệu quả chính xác giữa chứng mất ngủ và rối loạn tâm lý vẫn chưa được xác

định rõ ràng. Điều này có lẽ do sự khác biệt về phương pháp nghiên cứu, liên quan

đến đặc điểm thiết kế và phương pháp chẩn đoán mất ngủ cũng như các mức độ khác

nhau của các rối loạn tâm lý đã được xác định và phát hiện (Soldatos, 1994).

Nhưng nếu thực hiện trên cộng đồng thì tỉ lệ trầm cảm thấp hơn đáng kể, cụ thể

trong nghiên cứu của Kay Wilhelm ở Úc (2003) là 3,2% (Wilhelm, Mitchell, Slade,

Brownhill, & Andrews, 2003). Sự khác biệt của các nghiên cứu có thể là do tình

trạng trầm cảm của bệnh nhân được đánh giá dựa trên các thang đo khác nhau hay

cũng có thể là do đặc tính mẫu, thời gian nghiên cứu và nơi thực hiện của các nghiên

cứu khác nhau. Tuy nhiên, từ các nghiên cứu ta có thể thấy tỉ lệ trầm cảm ở những

bệnh nhân mắc các bệnh mạn tính khá cao, nhất là ở những bệnh nhân mắc các bệnh

như tăng huyết áp và đái tháo đường.

Kết quả nghiên cứu được lấy mẫu trên cộng đồng với 1.014 thanh niên tuổi từ

13-16 tuổi bằng phương pháp sống còn. Các cuộc phỏng vấn có cấu trúc được tiến

hành để đánh giá dựa trên chuẩn DSM-IV. Có mối liên quan giữa chứng mất ngủ với

mỗi rối loạn lo âu và trầm cảm (OR = 3.2-6.8) (Johnson E. O et al., 2006).

Giấc ngủ bị quấy rầy có ảnh hưởng lớn đến hoạt động hàng ngày và có liên

quan với các rối loạn tâm lý. Nghiên cứu đoàn hệ tại Hà Lan trên 2.619 khách thể về

trầm cảm và lo âu được chẩn đoán dựa trên DSM-IV. Kết quả cho thấy cả rối loạn

trầm cảm và rối loạn lo âu đều liên quan đến chứng mất ngủ và thời gian ngủ ngắn

với tỉ lệ chênh lệch (ORs) cho chứng mất ngủ lần lược là 1,42 và 3,23 và thời gian

10

ngủ ngắn lần lược là 1,41 và 2,53. Thời gian ngủ quá dài cũng liên quan đến rối loạn

trầm cảm và rối loạn lo âu hiện với khoảng tin cậy từ 1,53 đến 2,66.

Nghiên cứu “Tỉ lệ lo âu, trầm cảm và các yếu tố nguy cơ ở bệnh nhân ưng thư

tại Trung Quốc” của nhóm tác giả Jin Sheng Hong, Jun Tian, nghiên cứu phân tích

tiến hành năm 2012, sử dụng thang đo HADS. Tổng cộng có 1217 bệnh nhân ung

thư thỏa điều kiện sau phẫu thuật 2 tuần và không có tiền sử bệnh tâm thần được đưa

vào nghiên cứu từ tháng 12/2010 đến tháng 6/2012 tại Bệnh viện Phúc Kiến, Trung

Quốc. Kết quả cho thấy tỉ lệ lo âu và trầm cảm lần lượt là 6,49% và 6,72%, tỉ lệ hiện

mắc trầm cảm ở các loại ung thư khác nhau là khác nhau, trầm cảm phổ biến nhất là

ở những bệnh nhân ung thư phổi kế đến là ung thư cổ tử cung, tỉ lệ hiện mắc trầm

cảm đối với ung thư cổ tử cung là 71,13%. Nghiên cứu cũng chỉ ra một số yếu tố liên

quan, bệnh nhân ≥ 60 tuổi có mức độ lo lắng và trầm cảm cao hơn (với p<0,001 và

p=0,034), trình độ học vấn thấp có tỉ lệ hiện mắc trầm cảm cao hơn bệnh nhân >6

năm học (p<0,001), giai đoạn bệnh không ảnh hưởng đến lo lắng và trầm cảm

(p=0,197), mối liên quan giữa sự hỗ trợ xã hội và trầm cảm, lo âu không có ý nghĩa

thống kê (p=0,183 và 0,282), có sự liên quan giữa trạng thái đau và tình trạng hoạt

động đến lo lắng và trầm cảm (p<0,001). Vì là nghiên cứu cắt ngang nên tỉ lệ lo lắng

và trầm cảm ở bệnh nhân ung thư chỉ mô tả ở một thời điểm cần có một thiết kế

nghiên cứu theo chiều dọc để làm rõ hơn đặc điểm tâm lý ở bệnh nhân ung thư, ngoài

ra công cụ xác định hỗ trợ xã hội chưa được chuẩn hóa cũng là hạn chế của nghiên

cứu (Jin Sheng Hong và Jun Tian, 2012).

Nghiên cứu “Các biến đổi tâm lý tích cực liên quan đến trầm cảm và lo âu trong

số những bệnh nhân ung thư cổ tử cung tại Trung Quốc” của nhóm tác giả Yi-Long

Yang, nghiên cứu cắt ngang tiến hành trên 224 bệnh nhân ung thư cổ tử cung tại

Trung Quốc năm 2013. Sử dụng thang đo độ lo âu và trầm cảm bệnh viện (HADS),

chỉ số Herth Hope Index (HHI) đo lường niềm hy vọng, quy mô định hướng cuộc

sống (LOT-R) được phát triển bởi Scheier và Carver để đánh giá sự lạc quan và

thang đo tổng thể tự đánh giá (GSES) để đánh giá sự tự tin. Kết quả cho thấy tỉ lệ

trầm cảm (52,2%) và lo âu (65,6%) ở bệnh nhân ung thư cổ tử cung các yếu tố niềm

hy vọng, sự lạc quan và sự tự tin có những tác động đáng kể đến lo âu và trầm cảm

11

của bệnh nhân ung thư cổ tử cung. Nghiên cứu vẫn còn vài điểm hạn chế, thứ nhất là

trầm cảm và lo lắng không được các bác sĩ tâm thần hoặc các bác sĩ đo lường theo

các chẩn đoán lâm sàng như ICD-10, CCMD (phân loại rối loạn tâm thần ở Trung

Quốc) hoặc HRSD / HRSA (Hamilton Xếp hạng Cân bằng với Trầm cảm và

Hamilton Tỉ lệ Đánh giá cho Lo âu) mà trầm cảm và lo lắng được đo bằng bản báo

cáo của HADS chủ yếu đề cập đến triệu chứng trầm cảm và triệu chứng lo âu, thứ

hai là cần nghiên cứu thêm để kiểm tra xem kết quả của nghiên cứu này có phù hợp

với bối cảnh văn hoá khác nhau hay không (Yang, Liu, Wang, Wang, & Wang,

2014).

Nghiên cứu “Chức năng tình dục, trầm cảm và chất lượng cuộc sống ở bệnh

nhân ung thư cổ tử cung” của tác giả Bea H và Park H, thực hiện tại Seoul, Hàn

Quốc năm 2015 bằng phương pháp cắt ngang mô tả tiến hành trên 137 phụ nữ được

chẩn đoán ung thư cổ tử cung tuổi từ 21 đến 59 tuổi đã được điều trị bằng phẫu thuật

hơn 2 tháng trước khi điều tra và được xạ trị chấm dứt ít nhất 1 tháng trước khi điều

tra. Chức năng tình dục được đo bằng chỉ số chức năng tình dục nữ (FSFI), trầm cảm

với thang đo độ trầm cảm và trầm cảm bệnh viện (HADS). Nghiên cứu đã tìm các

mối liên quan: có mối liên quan giữa trầm cảm với tình trạng việc làm, những người

đang làm việc ít trầm cảm hơn so với những người thất nghiệp (Bae và Park, 2016).

1.1.2. Nghiên cứu tổn thương tâm lý ở Việt Nam

Ở Việt Nam, tổn thương tâm lý đã được chọn là đối tượng nghiên cứu của

nhiều đề tài khác nhau. Năm 1984, Nguyễn Việt đã đề cập đến các bệnh tâm căn

trong tác phẩm “Tâm thần học”. Theo tác giả, bệnh tâm căn là bệnh tâm thần chức

năng xuất hiện do những sang chấn tâm thần có ý nghĩa thông tin riêng, thuật ngữ

bệnh tâm căn dịch từ thuật ngữ “nesvrose’. Sang chấn tâm lý là tất cả những sự việc,

những hoàn cảnh trong các điều kiện sinh hoạt xã hội, trong mối quan hệ liên quan

phức tạp giữa cá nhân và cá nhân, tác động vào tâm lý, gây ra những cảm xúc mạnh,

phần lớn là tiêu cực: sợ hãi, lo lắng, buồn, tức giận, ghen tuông, thất vọng (Nguyễn

Việt, 1984).

Nghiên cứu “Những tổn thương tâm lý của thiếu niên do bố mẹ ly hôn” của

Văn Thị Kim Cúc và các cộng sự thuộc Viện Tâm lý học thực hiện năm 2002. Kết

12

quả từ nghiên cứu này đã cho thấy mối quan hệ giữa tổn thương tâm lý của thiếu

niên và vấn đề ly hôn của bố mẹ, tác giả cho rằng: “những đứa con trong các gia đình

ly hôn, tồn tại nhiều dạng và nhiều mức độ tổn thương tâm lý khác nhau tùy thuộc

vào các cách thức xung đột gia đình xảy ra trước ly hôn, thời điểm xảy ra ly hôn, độ

dài của thời gian xảy ra xung đột cho tới lúc ly hôn, vào việc đứa con sống cùng ai

sau ly hôn, mối quan hệ của bố mẹ trước và sau ly hôn; các tổn thương tâm lý ảnh

hưởng tiêu cực đến sự đánh giá bản thân của trẻ thể hiện ở chỗ sự đánh giá cái tôi

tích cực của trẻ ly hôn thấp hơn so với trẻ thường” (Văn Thị Kim Cúc, 2003).

Năm 2014, nghiên cứu “Rối nhiễu tâm lý ở trẻ em sống trong gia đình có bạo

lực” của tác giả Nguyễn Bá Đạt. Kết quả nghiên cứu cho thấy rối nhiễu tâm lý ở trẻ

em sống trong gia đình bạo lực được biểu hiện ra bên ngoài dưới nhiều hình thức

khác nhau: rối loạn stress sau sang chấn, rối nhiễu cảm xúc, hành vi, nhận thức, mất

tập trung và rối nhiễu tâm thể; tác giả cũng chỉ ra rằng bạo lực gia đình và rối nhiễu

tâm lý ở trẻ em không có mối quan hệ nhân quả trực tiếp (Nguyễn Bá Đạt, 2014).

Năm 2016, Nghiên cứu “Những tổn thương tâm lý của phụ nữ bị bạo lực gia

đình” của tác giả Lê Thị Tường Vân. Kết quả nghiên cứu trên 197 phụ nữ bị bạo lực

gia đình cho thấy phần lớn phụ nữ trải qua bạo lực gia đình có tổn thương tâm lý,

biểu hiện ở một hay nhiều triệu chứng (PTSD, trầm cảm, lo âu, stress) chồng lấn lên

nhau. Nghiên cứu đã chỉ ra những yếu tố mang tính chất văn hóa riêng ở Việt Nam

có ảnh hưởng đến tổn thương tâm lý như: cách ứng phó, quan điểm gắn bó với người

gây bạo lực, tính cách của phụ nữ, sự trợ giúp của gia đình/xã hội (Lê Thị Tường

Vân, 2016).

Năm 2017, nghiên cứu “Tổn thương tâm lý của trẻ em trong gia đình không

toàn vẹn tại thành phố Hồ Chí Minh” của tác giả Nguyễn Thị Như Thùy. Tác giả cho

rằng “tổn thương tâm lý của trẻ em trong gia đình không toàn vẹn là tình trạng mất

cân bằng về mặt tâm lý của cá nhân thường biểu hiện ở những lệch lạc trong đời

sống tình cảm, nhận thức, hành vi,… khi cá nhân trải qua những biến động trong cấu

trúc gia đình ảnh hưởng đến sự toàn vẹn về thể chất và tinh thần, đến các hoạt động

sống bình thường hàng ngày của con người, làm chất lượng cuộc sống của họ trở

nên khó khăn, mất cân bằng” (Nguyễn Thị Như Thúy, 2017).

13

Tóm lại, ở Việt Nam đã có một số nghiên cứu về tổn thương tâm lý trên những

khách thể khác nhau, nhưng hiện tại tác giả vẫn chưa tìm thấy nghiên cứu nào về tổn

thương tâm lý ở nhóm khách thể đang bị mất ngủ mạn tính. Để bổ sung vào hệ thống

lý thuyết, mang lại những thông tin khoa học, những bằng chứng cụ thể về mối quan

hệ giửa tổn thương tâm lý với mất ngủ mạn tính, cải thiện tình trạng sức khỏe của

cộng đồng chúng ta cần tiến hành thêm những nghiên cứu.

Các nghiên cứu rối loạn lo âu và trầm cảm ở Việt Nam

Ở Việt Nam, trầm cảm và lo âu cũng là mối quan tâm của rất nhiều nhà khoa

học thuộc các ngành khác nhau như: tâm lý học, tâm thần học, y tế công cộng,v.v…

nhiều công trình nghiên cứu đã được tiến hành để tìm ra mối liên quan, sự ảnh hưởng

của trầm cảm lo âu tác động lên sức khỏe thể chất và tinh thần của con người.

Kết quả cho thấy tỉ lệ trầm cảm trên các đối tượng bệnh nhân bệnh mạn tính

dao động từ 20,4% đến hơn 40%, cao hơn so với tỉ lệ trầm cảm trong dân số chung

(15%). Cụ thể: Theo kết quả nghiên cứu của tác giả Hoàng Thị Tuấn Tình (2017) tại

bệnh viện Quận 2 đưa ra tỉ lệ trầm cảm ở bệnh nhân tăng huyết áp và đái tháo đường

là 20,4% (Hoàng Thị Tuấn Tình, 2017). Nghiên cứu của tác giả Lý Thị Phương Hoa

ở BV Nguyễn Tri Phương trên bệnh nhân tăng huyết áp (2010) tỉ lệ bệnh nhân trầm

cảm là 26,5% (Lý Thị Phương Hoa, Võ Tấn Sơn, & Violetta Berbiglia, 2010). Hay

trong nghiên cứu của Phan Thế Sang ở BV Chợ rẫy trên bệnh nhân nhồi máu cơ tim

(2010) tỉ lệ bệnh nhân trầm cảm là 24,5%; trong khi đó, tỉ lệ trầm cảm ở bệnh nhân

tăng huyết áp và đái tháo đường lần lượt là 34,9% và 40% (Phan Thế Sang và Trần

Kim Trang, 2012). Tỉ lệ trầm cảm trên phụ nữ tuổi mãn kinh theo nghiên cứu của tác

giả Nguyễn Thị Mỹ Hạnh (2009) là 37,9% (Nguyễn Thị Mỹ Hạnh và Võ Minh Tuấn,

2009). Một nghiên cứu khác cho thấy tỉ lệ trầm cảm ở bệnh nhân suy thận mạn là

40,9% (Trần Thị Thanh Hương và Nguyễn Thị Quỳnh Vân, 2016). Chúng ta nhận

thấy sự chênh lệch về tỉ lệ trầm cảm giữa các nghiên cứu, có thể do sự khác biệt về

đối tượng nghiên cứu, các đối tượng bệnh nhân bệnh mạn tính khác nhau với các đặc

điểm bệnh lý khác nhau. Bên cạnh đó, thang đo được sử dụng để đánh giá trầm cảm

ở các nghiên cứu cũng không đồng nhất (PHQ-9, CES-D, HADS).

14

Nghiên cứu “Hội chứng trầm cảm ở bệnh nhân ung thư mới được phát hiện”

của tác giả Nguyễn Kim Lưu, Dương Trung Kiên. Nghiên cứu cắt ngang mô tả trên

264 bệnh nhân ung thư mới được chẩn đoán, điều trị nội trú tại Khoa Ung bướu Bệnh

viện Quân Y 103 năm 2012. Nghiên cứu sử dụng thang đánh giá trầm cảm rút gọn

BECK với 21 đề mục. Kết quả cho thấy tỉ lệ trầm cảm ở bệnh nhân ung thư là

57,7%, trong đó trầm cảm nhẹ 32,2%, trầm cảm vừa 18,8% và trầm cảm nặng 6,1%.

Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,001) đối với mức độ trầm cảm vừa và nặng

ở nhóm người lao động trí óc và hưu trí so với nhóm người lao động chân tay. Tỉ lệ

không trầm cảm và trầm cảm nhẹ ở nam cao hơn nữ (p < 0,05), ngược lại mức độ

trầm cảm vừa và nặng ở nữ cao hơn nam, khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,01).

Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,001) giữa giai đoạn bệnh với mức độ trầm

cảm, giai đoạn bệnh càng muộn thì tỉ lệ trầm cảm càng cao và mức độ trầm cảm càng

nặng (Nguyễn Kim Lưu và Dương Trung Kiên, 2012).

Nghiên cứu của Đỗ Trung Quân (2015) “Nhận xét thực trạng trầm cảm ở bệnh

nhân đái tháo đường type 2 bằng bộ câu hỏi PHQ-9 “. Tác giả tìm hiểu về tỉ lệ trầm

cảm ở bệnh nhân đái tháo đường type 2, đồng thời tìm mối liên quan với các yếu tố

như tuổi, tình trạng hôn nhân, trình độ học vấn, thời gian điều trị, tuân thủ điều trị

của bệnh nhân và tình trạng kiểm soát đường huyết. Kết quả cho thấy tỉ lệ trầm cảm

trên bệnh nhân đái tháo đường type 2 là 35,7% (Đỗ Trung Quân, 2015).

Nghiên cứu “Giá trị sàng lọc của thang trầm cảm CES-D-Tỉ lệ trầm cảm trong

số những người sống với HIV/AIDS tại thành phố Hồ Chí Minh” năm 2016 của

nhóm tác giả Thái Thanh Trúc, Mairwen K. Jones, Lynne M. Harris và Robert C.

Heard. Nghiên cứu dùng phương pháp cắt ngang tiến hành trên 400 bệnh nhân HIV

điều trị ngoại trú tại Thành phố Hồ Chí Minh, sử dụng thang đo CES-D để đánh giá

các rối loạn trầm cảm chủ yếu. Kết quả cho thấy độ tin cậy cho toàn bộ quy mô là tốt

(Cronbach α = 0,81). Bốn thang điểm phụ của CES-D có độ đồng nhất nội tại thấp

hơn với Cronbach α là 0,71, 0,73, 0,71 và 0,58. Ở mức cắt 16, độ nhạy và độ đặc

hiệu là 79,8% và 83,0%. Có 30% người sống với HIV được các nhà tâm thần học xác

định có triệu chứng trầm cảm. Không có sự liên hệ giữa các triệu chứng trầm cảm và

khuynh hướng tình dục, tuổi tác, tình trạng làm việc, trình độ học vấn, tình trạng hôn

15

nhân, tình trạng của cha mẹ, tôn giáo, tình trạng kinh tế, nguồn lây nhiễm HIV và

thành viên gia đình cùng nhiễm HIV. Tuy nhiên, có sự liên quan giữa trầm cảm và

giới, tỉ lệ phần trăm phụ nữ có triệu chứng trầm cảm cao hơn (40,4%) so với tỉ lệ

nam giới có triệu chứng trầm cảm (25,6%) và thời gian trung bình từ khi chẩn đoán

HIV thấp hơn ở những người có triệu chứng trầm cảm so với những người không có

triệu chứng trầm cảm. Hạn chế của nghiên cứu là đã không kiểm tra độ tin cậy kiểm

tra lại của CES-D. Vì CES-D đánh giá các triệu chứng trong bảy ngày qua, người đó

có thể không bị trầm cảm nhưng có tâm trạng kém và các triệu chứng xuất hiện đúng

trong thời gian nghiên cứu. Thêm nữa, tính nhất quán nội bộ có thể bị ảnh hưởng bởi

một loạt các đặc điểm của người tham gia khác nhau theo thời gian và vì thế việc

thiết lập độ tin cậy kiểm tra lại có thể hữu ích. Cuối cùng, mẫu bệnh phẩm được lấy

từ phòng khám ngoại trú tại một thành phố lớn của Việt Nam và có thể không được

khái quát hóa đối với người sống với HIV ở các cơ sở khác như bệnh viện hoặc các

khu vực khác của Việt Nam. Người sống với HIV tại các bệnh viện thường có tình

trạng HIV/AIDS trầm trọng và có thể có tỉ lệ trầm cảm cao hơn bệnh nhân ngoại trú

(Thái Thanh Trúc, Jones, Harris, & Heard, 2016).

1.2. Khái niệm chung về tổn thương tâm lý

Tổn thương theo cách hiểu thông thường, có nghĩa là một tình trạng không

thoải mái, mất sự cân bằng, không toàn vẹn trong một hay một số vấn đề nào đó của

chủ thể.

Tổn thương tương đồng với “trauma” trong tiếng anh, còn có nghĩa khác là

chấn thương, vết thương, sang chấn, được bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp “wound” có

nghĩa là “vết thương” dùng để chỉ người bị tổn thương do trải qua nỗi đau nào đó.

Trong từ điển tiếng việt của tác giả Hoàng Phê, tổn thương là “hư hại mất mát

một phần, không còn được nguyên vẹn như trước (thường nói về một một phận cơ thể

hoặc tình cảm của con người)” (Hoàng Phê, 1998).

Như vậy có thể hiểu tổn thương là một tình trạng hư hại, không toàn vẹn về thể

chất hoặc tinh thần của con người, có thể do nhiều tác nhân khác nhau gây ra như là

những va chạm hay lời nói tác động lên chủ thể.

16

Ở Việt Nam hiện nay, cụm từ tổn thương tâm lý được sử dụng ngày một phổ

biến trong rất nhiều các lĩnh vực khoa học, báo chí, truyền thông, đời sống sinh hoạt

hằng ngày với nhiều cách gọi khác nhau như “sang chấn tâm lý”, “chấn thương tâm

lý”, tổn thương tinh thần”, “rối nhiễu tâm lý”.

Theo cách hiểu đơn giản, tổn thương tâm lý là sự mất mát, đau khổ, khó chịu

diễn ra trong đời sống tinh thần của con người.

Tổn thương tâm lý được định nghĩa trong cuốn Grand Dictionnaire de la

psychologie là những hậu quả mà cá nhân phải gánh chịu do một sự kiện nào đó tác

động đến như sự chia li, tang tóc. Và các yếu tố làm phá vỡ trạng thái căng bằng

trong tâm lý thường kèm theo những khiếm khuyết phát triển bình thường

(Larrousse, 1997) .

Trong từ điển tâm lý học của Việt Nam, tổn thương tâm thực thể được xem là

sự tổn thương về mặt chức năng của một số cơ quan bên trong con người mà có sự

liên quan không nhỏ tới hệ thần kinh. Các biểu hiện có thể nhận thấy được của tổn

thương tâm thực thể như: tổn thương tâm lý ngắn hạn hoặc dài hạn, các phản ứng

cảm xúc, tình cảm của cá nhân (Vũ Dũng, 2008).

Một bộ phận các nhà tâm lý học cho rằng TTTL là các triệu chứng của PTSD

(Post Trauma Stress Dissorder) trong sổ tay chẩn đoán và phân loại các bệnh rối loạn

tâm thần DSM-IV (1994), PTSD chỉ những cá nhân phải trải qua ba nhóm triệu

chứng (kí ức xâm nhập, né tránh, kích thích) kéo dài hơn 1 tháng, khi trước đó họ

phải trải qua hoặc chứng kiến những sự kiện như gây tổn thương nghiêm trọng, có

nguy cơ gây tử vong, liên quan đến sinh mạng hoặc đe dọa đến sự toàn vẹn về mặt

thể chất và tinh thần của chính bản thân hay của người khác. Các tác giả Nguyễn Bá

Đạt, Lê Văn Hảo và Monica Martinez cũng có cùng quan điểm như trên (Lê Văn

Hảo và M.Martinez, 2010; Nguyễn Bá Đạt, 2014). Vấn đề có thể nhận thấy ở đây là

một cá nhân có những tiêu chí nhưng không đủ để kết luận là có PTSD, đồng nghĩa

với việc không có TTTL. Rõ ràng đây là sự giới hạn phạm vi của TTTL, không thỏa

mãn về biểu hiện và mức độ TTTL trong nhiều trường hợp.

Cũng có một bộ phận các nhà tâm lý học cho rằng tổn thương tâm lý có nghĩa

rộng hơn, không chỉ bó hẹp theo định nghĩa PTSD mà bao gồm nhiều mặt khác nhau,

17

PTSD chỉ là một trong các biểu hiện của tổn thương tâm lý. Tác giả Văn Thị Kim

Cúc và Nguyễn Hữu Thụ đều cho rằng, TTTL là các rối nhiễu, sự mất cân bằng tạm

thời (hoặc lâu dài) về mặt tâm lý trong đời sống hàng ngày của con người biểu hiện ở

những lệch lạc trong đời sống tình cảm, nhận thức, hành vi, những mặc cảm, tự ái,

hoang mang, lo âu, trầm cảm (Nguyễn Hữu Thụ, 2012; Văn Thị Kim Cúc, 2003).

Tác giả Lê Thị Tường Vân, nghiên cứu TTTL của phụ nữ bị bạo lực gia đình đã

đưa ra định nghĩa: “TTTL được hiểu là hậu quả của cá nhân trải nghiệm (những) sự

kiện căng thẳng bất thường đe dọa sự toàn vẹn, yên ổn về thể chất hoặc tinh thần,

ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động, cuộc sống của họ” (Lê Thị Tường Vân, 2016).

Quan điểm này theo hướng tiếp cận TTTL mang nghĩa rộng, có tính khái quát về

nguồn gốc, giới hạn được phạm vi của những khả năng làm TTTL và phản ứng của

cá nhân tại thời điểm tiếp xúc với sự kiện gây TTTL. Tuy vậy, điểm hạn chế của

định nghĩa này là chưa nêu lên được những biểu hiện trong đời sống tâm lý con

người như thế nào của TTTL.

Tác giả Nguyễn Thị Như Thúy (2017), tiến hành nghiên cứu TTTL của trẻ em

trong gia đình không toàn vẹn đã đưa ra định nghĩa “TTTL là tình trạng mất cân

bằng về mặt tâm lí của cá nhân thường biểu hiện ở những lệch lạc trong đời sống tình

cảm, nhận thức, hành vi,... khi cá nhân trải qua một hay nhiều sự kiện có tính chất

căng thẳng, bất thường ảnh hưởng đến sự toàn vẹn về thể chất và tinh thần, đến các

hoạt động sống không có TTTL hàng ngày của con người, làm chất lượng cuộc sống

của họ trở nên vô cùng tồi tệ.” (Nguyễn Thị Như Thúy, 2017) chúng tôi đồng quan

điểm với định nghĩa này, khi nêu lên được tính khái quát của TTTL, thể hiện được

phạm vi, biểu hiện sự ảnh hưởng của TTTL lên đời sống thể chất và tinh thần của

một cá nhân.

Từ những phân tích trên, chúng tôi cho rằng “tổn thương tâm lý là những rối

nhiễu làm mất cân bằng về mặt tâm lý một cách ngắn hạn (hoặc dài hạn) của cá

nhân được biểu hiện thông qua sự lệch lạc trong đời sống tinh thần, nhận thức, thái

độ, hành vi, lo âu, trầm cảm, v.v… khi cá nhân đã trải qua một hay nhiều sự kiện có

tính chất bất thường ảnh hưởng sự toàn vẹn về mặt thể chất hay tinh thần làm cho

chất lượng cuộc sống của cá nhân ngày càng thấp”.

18

Trong các biểu hiện của tổn thương tâm lý, ở đề tài này tác giả quan tâm nghiên

cứu hai mặt là lo âu và trầm cảm. Lo âu và trầm cảm là những vấn đề tâm lý xã hội

khá phổ biến. Các rối loạn lo âu, trầm cảm xảy ra ở 30-40% trong quần thể người lớn

tại một lúc nào đó trong cuộc đời của họ và 27% bệnh nhân đến khám bác sĩ với các

triệu chứng tâm thần liên quan đến lo âu. Ngoài ra gần 10% nam giới và 20% nữ giới

sẽ trải qua chứng trầm cảm rõ rệt trong cuộc đời của họ. Tuy vậy cả lo âu và trầm

cảm đều khó nhận biết vì nó thường biểu hiện với các triệu chứng cơ thể như đau,

hồi hộp, táo bón…. Sự biểu lộ các triệu chứng cơ thể thường thúc đẩy nhanh lo âu và

trầm cảm ở bệnh nhân rối loạn dạng cơ thể nên các triệu chứng lo âu trầm cảm làm

cho xã hội phải trả giá cao về chi phí y học, mất ngày công lao động và đau đớn về

tinh thần. Hơn 90% bệnh nhân trầm cảm có lo âu và hơn 75% bệnh nhân lo âu có

trầm cảm. Do đó rất khó phân biệt lo âu và trầm cảm. Trong rối loạn lo âu, triệu

chứng cơ thể thường nổi bật hơn so với triệu chứng trầm cảm (Nguyễn Văn Nuôi,

2005).

1.3. Khái niệm trầm cảm

1.3.1. Định nghĩa trầm cảm

Trầm cảm được định nghĩa khác nhau ở những quan niệm khác nhau

Trầm cảm là một thuật ngữ y khoa xác định một căn bệnh cụ thể. Nhiều hơn chỉ

là một tâm trạng buồn hay chán nản, mà hầu hết chúng ta cảm thấy theo thời gian.

Trầm cảm, còn được gọi là trầm cảm chủ yếu hay rối loạn trầm cảm chủ yếu, là một

tâm trạng chán nản kéo dài, cảm giác buồn bã, mất hứng thú hoặc niềm vui trong

hầu hết các hoạt động, cảm giác vô dụng, hoặc cảm giác tội lỗi, khó tập trung, suy

nghĩ và đưa ra quyết định (Erika's Lighthouse, 2009). Trầm cảm thường được định

nghĩa là một trải nghiệm kéo dài, dai dẳng của một tâm trạng buồn hay khó chịu/cáu

gắt/bị kích thích cũng như mất khoái cảm, mất khả năng trải nghiệm niềm vui trong

gần như tất cả các hoạt động. Nó cũng bao gồm một loạt các triệu chứng khác như

thay đổi cảm giác ngon miệng, giấc ngủ bị gián đoạn, tăng hoặc giảm sút mức độ

hoạt động, sự chú ý và tập trung suy giảm, và giảm đáng kể cảm giác giá trị bản

thân/cái tôi (Ralph, 2004).

Theo Tổ chức Y tế thế giới (2013), trầm cảm là một rối loạn tâm thần phổ biến

19

mà hiện diện với tâm trạng chán nản, mất hứng thú hoặc niềm vui, giảm năng lượng,

cảm giác tội lỗi hay giá trị bản thân thấp, giấc ngủ bị quấy rầy/xáo trộn hoặc thèm

ăn, và kém tập trung (World Health Organization, 2013).

Hơn nữa, trầm cảm thường đi kèm với các triệu chứng lo âu. Những vấn đề này

có thể trở thành mạn tính hoặc tái phát và dẫn đến suy yếu đáng kể trong khả năng

của một cá nhân để chăm sóc/chú ý các trách nhiệm hàng ngày của mình. Ở mức tồi

tệ nhất, trầm cảm có thể dẫn đến tự tử. Gần 1 triệu người chết hàng năm do tự tử, mà

trong đó trầm cảm được cho là nguyên nhân dẫn đến tự tử của 3000 người mỗi ngày

(World Health Organization, 2008).

Theo các nhà tâm thần học, trầm cảm mô tả một trạng thái tâm trạng thoáng

qua, tạm thời, được trải nghiệm bởi hầu hết tất cả các cá nhân tại một thời điểm nào

đó trong cuộc sống của họ, thường đáp ứng với các sự kiện cuộc sống căng thẳng

cũng như một rối loạn lâm sàng nghiêm trọng (American Psychiatric Association -

APA, 2014). Trầm cảm gây trở ngại đáng kể đến khả năng hoạt động bình thường

của người bị ảnh hưởng, các triệu chứng bao gồm tâm trạng buồn hay "trống rỗng",

cảm giác vô vọng, vô dụng kéo dài dai dẳng và liên tục; rối loạn trong giấc ngủ và sự

ngon miệng khi ăn; mất quan tâm, hứng thú trong các hoạt động mang lại niềm vui

thông thường; khó tập trung, ghi nhớ, ra quyết định; suy nghĩ về cái chết hoặc tự sát

(Fava và Kendler, 2000). Nếu không được điều trị, trầm cảm có thể dẫn đến giảm kết

quả học tập, hạnh kiểm, phạm pháp, chán ăn/ăn vô độ, ám ảnh trường học, các cơn

hoảng loạn, lạm dụng thuốc, hoặc thậm chí tự tử (Ralph, 2004).

Theo các nhà tâm lí học lâm sàng, trầm cảm không chỉ là nỗi buồn. Những

người bị trầm cảm có thể bị thiếu sự quan tâm và niềm vui trong các hoạt động hàng

ngày, giảm cân đáng kể hoặc tăng cân, mất ngủ hoặc ngủ quá nhiều, thiếu năng

lượng, không có khả năng tập trung, cảm giác vô dụng, hoặc tội lỗi quá nhiều và

thường xuyên suy nghĩ về cái chết hoặc tự sát (American Psychological Association -

APA, 2014b).

Như vậy, khái niệm trầm cảm chỉ ra những vấn đề của trạng thái tâm lí phổ

biến, ảnh hưởng đến gần như tất cả mọi người thông qua hoặc là trải nghiệm cá nhân

hoặc hoạt động lao động, học tập của cá nhân đó. Trước tiên xem xét dưới dạng tâm

20

tính, người bị trầm cảm buồn rầu, chán nản, cáu kỉnh và vô vọng. Họ hầu như không

thích thú với cuộc sống. Họ thường bị nỗi buồn làm cho héo hắt. Các suy nghĩ

thường xuyên xuất hiện như ca thán, tự thấy mình vô dụng, thấp hèn, kém cỏi, có thể

thấy tương lai thật ảm đạm. Một trong những đặc điểm của người bị trầm cảm là họ

không tạo hình ảnh bản thân bằng niềm vui và cách suy nghĩ tích cực (APA, 2013;

World Health Organization, 2013).

Đa số mọi người đều đã từng có lần cảm thấy buồn, chán nản vào một lúc nào

đó trong cuộc đời. Các cảm giác nản lòng, bực bội và ngay cả tuyệt vọng đều là các

phản ứng bình thường khi bị mất mát, thiệt hại hoặc thất vọng và có thể kéo dài vài

ngày rồi mới từ từ hết. Đó là những biến đổi về trạng thái tâm lí, biểu hiện thông

thường trong đời sống hằng ngày.

Theo Vikram P. (2008) đau khổ của con người không thể ước tính được. Hội

chứng trầm cảm có thể ảnh hưởng đến hoạt động bình thường, thường xuyên gây ra

các khó khăn trong công việc, gia đình và xã hội. Trầm cảm gây đau đớn và đau khổ

không chỉ cho những người bị rối loạn, mà còn cho những người quan tâm đến họ.

Trầm cảm nghiêm trọng có thể phá hủy cuộc sống gia đình cũng như cuộc sống của

cá nhân đó (Vikram et al., 2008).

Đôi khi cá nhân cảm thấy mệt mỏi vì làm việc cực nhọc hoặc nản lòng khi phải

đối mặt với khó khăn nghiêm trọng, điều này không có nghĩa là trầm cảm, những

cảm xúc này thường vượt qua trong vòng vài ngày hoặc vài tuần khi mà cá nhân có

thể điều chỉnh sự căng thẳng.

1.3.2. Nguyên nhân và cơ chế bẩm sinh của trầm cảm

Nguyên nhân sinh học

Yếu tố di truyền

Trầm cảm có thể mang tính gia đình. Ví dụ, nếu một người trong cặp song sinh

giống hệt nhau bị trầm cảm, người kia có 70% cơ hội bị một lúc nào đó trong cuộc

sống. Các nghiên cứu tần suất bệnh trên các cặp sinh đôi, trong gia đình và ở dân số

chung phát hiện có yếu tố di truyền góp phần trong trầm cảm. Thân nhân của người

bệnh rối loạn trầm cảm có tỉ lệ trầm cảm cao hơn trong dân số chung và tỉ lệ này cao

nhất trong thân nhân độ một của người bệnh. Tỉ lệ cùng bị bệnh ở các cặp sinh đôi

21

cùng trứng là 65% - 75%, trong khi ở các cặp sinh đôi khác trứng chỉ là 14% - 19%

(Trần Trung Nghĩa, 2104).

Giảm các chất dẫn truyền thần kinh

Trầm cảm có liên quan tới sự suy giảm nồng độ các chất dẫn truyền thần kinh

norepinephrine nồng độ norepinephrine ở khe tiếp hợp các đầu tận cùng thần kinh

giảm trong các rối loạn trầm cảm. Các thuốc chống trầm cảm như imipramine,

desipramine, venlafaxine ức chế tái thu norepinephine ở tiếp hợp thần kinh, làm tăng

lượng norepinephrine ở khe tiếp hợp và có tác dụng cải thiện triệu chứng trầm cảm.

Điều này khẳng định vai trò của norepinephrine trong trầm cảm. Serotonin hiệu quả

của thuốc thuộc nhóm ức chế tái thu serotonin có chọn lọc (SSRIs) trên bệnh nhân

trầm cảm đã chứng tỏ phần nào vai trò của serotonin trong trầm cảm. Việc làm giảm

serotonin có thể thúc đẩy quá trình trầm cảm và trên một số bệnh nhân có xung động

tự sát, người ta thấy nồng độ các chất chuyển hóa của serotonin trong dịch não tủy

thấp. Dopamine: một số công trình nghiên cứu cho thấy hoạt động của dopamine

tăng trong hưng cảm và giảm trong trầm cảm. Trầm cảm thường gặp ở những bệnh

nhân sử dụng các thuốc làm giảm dopamine như reserpine.

Các bệnh do giảm nồng độ dopamine trong não như Parkinson thường kèm

theo các triệu chứng trầm cảm.

Điều hòa thần kinh nội tiết

Vùng hạ đồi là trung tâm điều hòa trục thần kinh-nội tiết và tiếp nhận các chất

dẫn truyền thần kinh bản chất amine sinh học (dopamine, norepinephrine, serotonin).

Rối loạn điều hòa thần kinh nội tiết đã được nhận thấy ở các bệnh nhân rối loạn khí

sắc. Do đó sự điều hòa bất thường trục thần kinh nội tiết có thể dẫn đến bất thường

chức năng của các nơ-rôn chứa các amine sinh học kể trên. Các trục thần kinh nội

tiết chính liên quan đến rối loạn khí sắc là trục hạ đồi, tuyến yên, thượng thận.

Điều hòa thần kinh thể dịch

Nhiều nghiên cứu cho thấy bệnh nhân trầm cảm và những người đau buồn do

mất người thân có bất thường về hệ miễn dịch, liên quan đến rối loạn điều hòa nồng

độ cortisol của vùng hạ đồi.

22

Nhịp ngày đêm

Thay đổi cấu trúc giấc ngủ như giảm thời gian tiềm tàng giai đoạn giấc ngủ vận

động mắt nhanh, giảm sóng chậm của giấc ngủ trong trầm cảm. Những thay đổi này

liên quan đến sự dao động của các triệu chứng trong ngày và được cho là cơ sở cho

việc điều trị trầm cảm bằng phương pháp trị liệu ánh sáng.

Trầm cảm tuổi già

Trầm cảm khởi phát ở tuổi già thường kèm rối loạn hoạt động nhận thức hơn là

trầm cảm ở người trẻ. Điều này có thể do một bệnh lý mạch máu não, bệnh

Alzheimer hoặc một bệnh lý não khác kèm theo.

Các nguyên nhân tâm lí xã hội

Tâm lý cá nhân

Nhân cách: Những người có lòng tự tôn thấp, dễ bị áp đảo bởi stress, hoặc

những người thường bi quan dường như có nhiều khả năng bị trầm cảm hơn. Những

cá nhân có suy nghĩ tiêu cực thường có khuynh hướng dễ bị trầm cảm và bị rối loạn

nhận thức nặng hơn khi bị trầm cảm. Tâm lý học cá nhân đã chứng minh nhân cách

dễ bị tổn thương đóng vai trò quan trọng trong việc khởi phát và kéo dài trầm cảm.

Tâm lý học hành vi chú ý đến những hành vi được học từ gia đình, môi trường xung

quanh và mối quan hệ trong gia đình cũng góp phần trong trầm cảm theo những cách

khác nhau.

Yếu tố môi trường: Tiếp xúc/phơi nhiễm liên tục với bạo lực, bỏ bê, lạm dụng

hoặc nghèo đói có thể khiến một số người dễ bị trầm cảm hơn. Sự mất mát trong tuổi

thơ hay những mất mát vừa mới xảy ra, mối quan hệ bất hòa giữa các cá nhân cũng

có liên quan đến trầm cảm. Sự cách ly khỏi xã hội, những lời phê bình tiêu cực hay

chỉ trích từ những thành viên trong gia đình, những sự kiện cuộc sống căng thẳng có

thể góp phần khởi phát hay kéo dài giai đoạn trầm cảm. Trong một nghiên cứu tiền

cứu cho thấy một nhóm nam giới, trình độ đại học, có mối quan hệ xấu với anh chị

em ruột trước 20 tuổi thì dễ bị trầm cảm ở độ tuổi 50.

Những sự kiện trong đời

Những sự kiện trong đời mang tính đặc thù cao hơn. Ví dụ thảm hoạ chiến

tranh, thiên tai, li hôn, bệnh nặng, cái chết của người thân v.v.. ảnh hưởng của những

23

sự kiện trong đời còn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của xã hội.

Trong các nguyên nhân gây bệnh luôn có sự kết hợp của 2 nhóm yếu tố: những

yếu tố nguy cơ và yếu tố bảo vệ. Những yếu tố bảo vệ bao gồm các trải nghiệm

dương tính trong thời thơ ấu như sự đầm ấm trong gia đình, cảm giác an toàn của đứa

trẻ; những yếu tố nâng đỡ hiện tại như các mối quan hệ tốt giữa vợ chồng, gia đình,

bè bạn, sự đảm bảo về tài chính và sự hài lòng với công việc. Những yếu tố nguy cơ

bao gồm: sự mất người thân, bạo lực, đỗ vở trong hôn nhân.

Cả 2 yếu tố gây tổn thương và bảo vệ không chỉ ảnh hưởng đến quá trình khởi

phát mà còn ảnh hưởng đến cả sự hồi phục của người bị trầm cảm.

1.3.3. Chẩn đoán trầm cảm theo DSM-IV

Dựa trên tiêu chuẩn chẩn đoán của DSM-IV trầm cảm được xác định khi

(American Psychiatric Association - APA, 2000):

A. Tối thiểu có 5 (hoặc hơn) trong số các triệu chứng sau đây phải hiện diện

trong cùng một giai đoạn kéo dài trong 2 tuần và phải có thay đổi so với chức năng

trước đây; ít nhất một trong các triệu chứng phải là: (1) khí sắc trầm cảm, (2) mất

quan tâm và thích thú, thỏa mãn.

Ghi chú: không được tính là tiêu chuẩn khi những triệu chứng được biết chắc

chắn là do những bệnh lý tổng quát khác gây ra, hoặc do các ý tưởng hoang tưởng

hay ảo giác có tính chất không phù hợp với khí sắc gây ra.

(1) Khí sắc trầm cảm hầu như suốt ngày và hầu như hàng ngày, do chính bệnh

nhân kể lại (ví dụ: cảm thấy buồn bã hoặc trống rỗng) hoặc do người xung quanh

thấy được (ví dụ: khóc).

Ghi chú: khí sắc có thể biểu hiện bằng cáu kỉnh, bực bội ở đối tượng là trẻ em

và trẻ vị thành niên.

(2) Giảm một cách đáng kể sự quan tâm, hài lòng và sự thích thú đối với tất cả

hoặc hầu như tất cả các hoạt động, gần như suốt ngày và hầu như hàng ngày (được

bệnh nhân kể lại hoặc được người khác quan sát thấy).

(3) Tăng cân hoặc sụt cân một cách đáng kể nhưng không phải do ăn kiêng (ví

dụ: thay đổi trọng lượng cơ thể vượt quá 5% trong vòng một tháng), hoặc mất ngon

miệng hay tăng ngon miệng hầu như hàng ngày.

24

Ghi chú: ở trẻ em, có thể biểu hiện bằng việc không tăng cân đủ mức bình

thường.

(4) Mất ngủ hoặc ngủ nhiều, xảy ra hầu như hàng ngày.

(5) Kích động hoặc chậm chạp tâm thần-vận động hầu như hàng ngày (có thể

quan sát thấy được bởi những người xung quanh, không phải hạn chế ở những cảm

giác chủ quan thấy bồn chồn hoặc buồn bã trong lòng).

(6) Mệt mỏi hoặc mất sinh lực hầu như hàng ngày.

(7) Cảm giác thấy mình vô dụng, không có giá trị hoặc tự thấy tội lỗi quá đáng

hoặc quá mức một cách không hợp lý (có thể là hoang tưởng) hầu như hàng ngày

(không phải chỉ đơn thuần là sự ân hận, tự trách mình hoặc tự cảm thấy có lỗi khi

bản thân mắc bệnh).

Do dự, giảm năng lực tập trung và suy nghĩ, hầu như hàng ngày (có thể do

chính bệnh nhân kể lại hoặc do người xung quanh thấy được).

Ý nghĩ về cái chết tái diễn nhiều lần (không chỉ đơn thuần là bệnh nhân sợ

chết), ý nghĩ tự tử tái diễn nhiều lần nhưng không có kế hoạch cụ thể nào, hoặc có

toan tính tự tử, hoặc có kế hoạch cụ thể để thực hiện việc tự tử.

B. Các triệu chứng không đáp ứng tiêu chuẩn chẩn đoán giai đoạn hỗn hợp.

C. Về phương diện lâm sàng, các triệu chứng này gây ra khó chịu nặng nề hoặc

làm suy giảm chức năng về xã hội, nghề nghiệp, … một cách đáng kể.

D. Các triệu chứng không phải do một chất (ví dụ: lạm dụng thuốc, chất gây

nghiện) hoặc do một bệnh lý cơ thể gây ra (ví dụ: thiểu năng giáp).

E. Các triệu chứng này không phải là một trạng thái đau buồn do mất mác, tang

tóc; có nghĩa là sau cái chết của người thân, các triệu chứng kéo dài hơn 2 tháng hoặc

bệnh nhân có những thay đổi đáng kể về chức năng, quan tâm bệnh tật quá mức, sự

ám ảnh bệnh lý thấy mình vô dụng, ý tưởng tự tử các triệu chứng loạn thần, hoặc

chậm chạp tâm lý-vận động.

1.3.4. Các biểu hiện của trầm cảm

Chẩn đoán tâm lí cá nhân bị trầm cảm dựa vào một số dấu hiệu đặc trưng, phổ

biến, thường biểu hiện qua các mặt nhận thức, cảm xúc, hành vi và sinh lí (American

Psychiatric Association - APA, 2000).

25

Khi cá nhân tiếp xúc với trầm cảm một thời gian dài, cơ thể sẽ có những biểu

hiện về nhận thức, cảm xúc, hành vi và sinh lí. Nếu tiếp tục bị trầm cảm và không

được nghỉ ngơi, cơ thể sẽ phát triển các vấn đề sức khoẻ hoặc làm trầm trọng thêm

bệnh hiện có. Trầm cảm có nguồn gốc từ bên ngoài nhưng khi tác động vào cá nhân

thì trầm cảm được biểu hiện qua các mặt nhận thức, cảm xúc, hành vi và sinh lí.

Phát hiện mình bị bệnh gây ra một “cú sốc” lớn đối với bản thân bệnh nhân.

Bệnh nhân có thể cảm thấy tức giận, thất vọng, trầm cảm hoặc lo âu. Những cảm

giác này có thể là kết quả của những thay đổi do bệnh gây ra. Những thay đổi này có

thể bao gồm giảm khả năng hoạt động hoặc chức năng hoạt động so với trước đây

hoặc diễn tiến xấu hơn của bệnh. Thay đổi đáng kể trong lối sống có thể làm giảm

lòng tự trọng và làm giảm tương tác xã hội với gia đình và bạn bè.

Biểu hiện về nhận thức của trầm cảm

Các biểu hiện về nhận thức ở cá nhân khi bị trầm cảm thường là tiêu cực.

Những biểu hiện nhận thức tiêu cực này có thể được đặc trưng như chú ý đến kích

thích tiêu cực, nhận thức về các tình huống không rõ ràng là tiêu cực và thường

xuyên nhớ lại những lời nói tiêu cực. Cụ thể là cá nhân có các biểu hiện như suy nghĩ

tiêu cực, chỉ thấy mặt tiêu cực của vấn đề, hay quên, không tập trung, thiếu sáng tạo,

thiếu động lực, thiếu sự tự tin, mất cảm giác hài hước, trí nhớ kém, không thể suy

nghĩ liên tục, khả năng đánh giá kém, khó đưa ra quyết định, sợ làm việc mới. Những

biểu hiện nhận thức tiêu cực này có thể ảnh hưởng đến những biểu hiện cảm xúc tiêu

cực trong các phản ứng trầm cảm.

Biểu hiện về cảm xúc của trầm cảm

Khi tiếp xúc với các yếu tố gây trầm cảm, điều chỉnh cảm xúc được cá nhân

chủ động sử dụng để tránh các mối đe dọa của trầm cảm hoặc để kiểm soát mức độ

của kích thích tình cảm. Cá nhân thường biểu hiện các cảm xúc như lo âu, ủ rũ, tức

giận, cảm thấy bất lực, tâm trạng không ổn định, căng thẳng, buồn bã, dễ bị kích

thích, kích động, dễ cáu kỉnh và tức giận. Những người có mức độ phản ứng cảm xúc

cao hơn thường dễ bị lo lắng và gây hấn.

Trong phản ứng trầm cảm, cường độ của cảm xúc được gây ra bởi kích thích

cũng sẽ xác định bản chất và cường độ của các phản ứng về hành vi.

26

Biểu hiện về hành vi của trầm cảm

Khi bị trầm cảm, cá nhân có các biểu hiện về hành vi như tăng sử dụng thuốc

lá, rượu, bia để thư giãn, ăn quá nhiều hoặc quá ít, ngủ quá nhiều hoặc quá ít, có

hành vi bạo lực hoặc gây hấn, chỉ trích, hành động bùng nổ hoặc bốc đồng, dễ gây ra

sai sót hay tai nạn, thay đổi công việc thường xuyên, né tránh hoặc rút lui khỏi các

mối quan hệ, trì hoãn hoặc lơ là trách nhiệm.

Biểu hiện về sinh lí của trầm cảm

Một số thay đổi sinh lý đặc trưng bao gồm: (1) Tăng lưu lượng máu đến các cơ

bắp được kích hoạt bằng chuyển hướng lưu lượng máu từ các bộ phận khác của cơ

thể. (2) Tăng huyết áp, nhịp tim, lượng đường trong máu, và chất béo để cung cấp

cho cơ thể thêm năng lượng. (3) Các chức năng đông máu của cơ thể tăng tốc độ để

ngăn ngừa mất máu quá nhiều ở trường hợp chấn thương trong thời gian phản ứng.

(4) Gia tăng căng cơ bắp để cung cấp thêm cho cơ thể tốc độ và sức mạnh.

Rối loạn chức năng cơ thể thường được thấy ở những người tiếp xúc với các

tình huống trầm cảm. Khi bị trầm cảm, cơ thể có các biểu hiện về sinh lí như căng và

đau; các triệu chứng tiêu hóa như khó tiêu, nôn, ợ nóng, táo bón và ruột dễ bị kích

thích; các triệu chứng tim mạch như đánh trống ngực, loạn nhịp tim; triệu chứng hô

hấp như khó thở và tăng thông khí; các triệu chứng thần kinh trung ương như phản

ứng trầm cảm, mất ngủ, suy nhược, đau đầu và rối loạn chức năng tình dục như đau

bụng kinh, lãnh cảm và bất lực.

1.4. Khái niệm lo âu

1.4.1. Định nghĩa rối loạn lo âu

Tại Việt Nam theo thống kê dịch tễ học khảo sát 10 rối loạn tâm thần phổ biến

nhất trong dân số giai đoạn 2000 - 2002, lo âu chiếm 2,7% (Bệnh viện tâm thần

trung ương, 2012). Theo báo cáo của tổ chức Y tế thế giới đến năm 2015 có

1.941.166 người mắc rối loạn lo âu với chỉ số YLD là 2,2%. Số năm sống khỏe mạnh

bị mất đi do rối loạn lo âu khá cao và tăng dần theo các năm, trung bình mỗi năm

tăng 0,07% (World Health Organization, 2017).

Lo âu được định nghĩa ở nhiều khía cạnh khác nhau. Theo Hiệp Hội Tâm Lý

Hoa Kỳ, lo âu được đặc trưng bởi cảm giác căng thẳng, suy nghĩ lo lắng và thay đổi

27

về thể chất. Các rối loạn lo âu như rối loạn hoảng loạn và chứng rối loạn ám ảnh

cưỡng chế gây ra những suy nghĩ và lo lắng liên tục hay những triệu chứng về thể

chất như đổ mồ hôi, run rẩy, chóng mặt, nhịp tim nhanh (American Psychological

Association - APA, 2014a). Đối với một người có rối loạn lo âu, lo lắng không biến

mất và có thể trở nên tồi tệ hơn theo thời gian. Cảm giác này có thể ảnh hưởng đến

các hoạt động hàng ngày như hiệu suất công việc, công việc trường học và các mối

quan hệ. Các triệu chứng lo âu lan tỏa tổng quát bao gồm: Bồn chồn, dễ bị mệt mỏi,

khó tập trung, cảm giác đau, hay cáu gắt, căng cơ, khó kiểm soát được sự lo lắng, các

vấn đề về giấc ngủ (National institute of mental Health, 2016).

Lo âu là một cảm xúc đặc trưng bởi cảm giác lo sợ lan tỏa, khó chịu mơ hồ kèm

theo triệu chứng thần kinh tự chủ như đau, vã mồ hôi, hồi hộp, siết chặt ở ngực, khô

miệng, khó chịu ở thượng vị và bứt rứt không thể ngồi yên hay đứng yên một chỗ.

Lo âu là một hiện tượng phản ứng của con người trước những tình huống khó khăn

và các mối đe dọa của tự nhiên, xã hội mà con người phải tìm cách vượt qua, tồn tại

và vươn tới. Lo âu là một tín hiệu báo động, báo trước một nguy hiểm sắp xảy ra đến

để con người sử dụng mọi biện pháp đương đầu với sự đe dọa (Nguyễn Văn Nuôi,

2005). Lo âu được xem là bình thường khi phù hợp với tình huống và mất đi khi tình

huống được giải quyết. Nhưng khi lo âu không có nguyên nhân rõ rệt hoặc quá mức

so với mong đợi, các triệu chứng và gây nhiều khó chịu dai dẳng ảnh hưởng đến các

hoạt động hàng ngày thì nó đã trở thành một tình trạng bệnh tật.

Lo âu là hiện tượng phản ứng tự nhiên của con người trước những khó khăn và

các mối đe dọa tự nhiên, xã hội mà con người phải tìm cách vượt qua để tồn tại. Lo

âu thường xảy ra cùng với các suy nhược về thể chất và tâm thần. Lo âu có những

triệu chứng khác nhau, tập trung xoay quanh sự sợ hãi hay lo lắng quá mức (Stephen

P. Whiteside).

Tất cả các rối loạn lo âu được đặc trưng bởi những triệu chứng sợ mà không có

nguyên nhân đầy đủ bởi vì hầu hết mọi người trải nghiệm lo âu vào một thời điểm

nào đó trong đời của họ, lo âu bình thường phải được phân biệt với rối loạn lo âu. Để

chẩn đoán một rối loạn lo âu, những triệu chứng phải hiện diện trong một giai đoạn

28

kéo dài (thường ít nhất là 6 tháng), có cản trở đến hoạt động chức năng bình thường

của một người, và gây đau khổ. (American Psychiatric Association - APA, 2000).

1.4.2. Các biểu hiện của rối loạn lo âu

Những biểu hiện sinh lý của lo âu bao gồm những triệu chứng hệ thần kinh giao

cảm như là run, đổ mồ hôi, dãn đồng tử và trải nghiệm chủ quan của nhịp tim nhanh,

mà nhiều người gọi nó là “hồi hộp”. Những người bệnh lo âu cũng thường xuyên kể

những triệu chứng dạ dày ruột (ví dụ: tiêu chảy) và rối loạn đường niệu (ví dụ: tiểu

thường xuyên). Những triệu chứng lo âu có thể theo tình huống hoặc trôi lơ lửng. Lo

âu tình huống được gây ra bởi một phản ứng quá mức với những yếu tố sang chấn

môi trường bên ngoài, có thể nhận diện được, trái lại lo âu trôi lơ lửng không có yếu

tố khởi phát bên ngoài cụ thể.

Phân loại DSM-IV về các rối loạn lo âu

Sự phân loại các rối loạn lo âu theo DSM-IV bao gồm: (American Psychiatric

Association - APA, 2000)

- Rối loạn lo âu toàn thể (LATT)

- Rối loạn hoảng loạn (có hoặc không có ám ảnh sợ khoảng trống)

- Các ám ảnh sợ chuyên biệt và sợ xã hội

- Rối loạn ám ảnh bó buộc (OCD)

- Rối loạn stress sau chấn thương (PTSD)

- Rối loạn stress cấp (ASR)

Các chẩn đoán rối loạn lo âu do một bệnh thực thể hoặc rối loạn lo âu do chất

được sử dụng nếu bệnh thực thể hoặc sử dụng chất hoặc cai chất là nguyên nhân

chính của những triệu chứng lo âu này.

Các rối loạn lo âu được phân biệt với nhau bởi sự hiện diện hay không của một

yếu tố sang chấn môi trường rõ rệt (hiện diện trong các ám ảnh sợ, PTSD và stress

cấp; và không hiện diện trong rối loạn hoảng loạn, mạn tính trong LATT) (Harvard

Health Publications, 2008).

Rối loạn lo âu toàn thể (LATT)

Rối loạn lo âu toàn thể là lo lắng thái quá về sức khỏe, an toàn, tiền bạc và các

khía cạnh khác của cuộc sống hàng ngày mà kéo dài 6 tháng trở lên. Thường đi kèm

29

với đau cơ, mệt mỏi, đau đầu, buồn nôn, khó thở và mất ngủ.

Rối loạn lo âu toàn thể có tỉ lệ 3-5% trong dân số và nó thường kèm với trầm

cảm chủ yếu. Khoảng 50% người bệnh khởi phát LATT ở thời thiếu nhi hoặc vị

thành niên. Những triệu chứng mạn tính và có xu hướng nặng hơn trong thời kỳ sang

chấn. Đòi hỏi điều trị thường không xác định, dù một số người bệnh LATT trở nên

gần như mất triệu chứng trong một vài năm.

Rối loạn hoảng loạn (có hoặc không có ám ảnh sợ khoảng trống)

Rối loạn hoảng loạn được đặc trưng bởi các cơn hoảng loạn từng giai đoạn, các

thời kỳ lo âu mạnh mà khởi phát đột ngột và gia tăng về cường độ trong khoảng thời

gian 10 phút. Các cơn hoảng loạn thường xảy ra khoảng 2 lần mỗi tuần và kéo dài 30

phút mỗi cơn, dù vậy chúng hiếm khi theo sau một mô hình cố định. Trong cơn,

người bệnh có các triệu chứng tim và hô hấp mạnh đưa người bệnh với niềm tin rằng

sẽ sắp chết. Giữa các cơn, người bệnh thường phát triển lo âu chờ đợi, một sự sợ hãi

căng thẳng rằng sẽ có một cơn khác làm hạn chế nhiều hơn chức năng của người

bệnh.

Trong rối loạn hoảng loạn có ám ảnh sợ khoảng trống, các cơn hoảng loạn

thường kèm với sợ và tránh né những nơi công cộng hoặc những tình huống khó có

thể thoát được hoặc không có sự giúp đỡ. Ví dụ, một người bệnh rối loạn hoảng loạn

có ám ảnh sợ khoảng trống có thể có một cơn hoảng loạn bất cứ khi nào anh ta đi ra

ngoài một mình nhưng không xảy ra khi ra ngoài với vợ anh ta. Những người bệnh

có thể né các khu mua sắm, nhà hát (trừ khi họ ngồi dãy cuối), và lái xe nơi lưu

thông đông đúc.

Các ám ảnh sợ chuyên biệt và sợ xã hội

Các ám ảnh sợ được đặc trưng bởi sự sợ hãi vô lý, không có cơ sở về những vật

dụng hoặc tình huống nào đó. Ám ảnh sợ chuyên biệt là sợ sự vô lý những thứ như

rắn, thang máy, hoặc những khu vực đóng kín (ám ảnh sợ chỗ kín). Bản chất của các

kích thích này (ví dụ, các hiện tượng tự nhiên của động vật hoặc thực vật) mà gây

khởi phát triệu chứng phân chia các ám ảnh sợ thành các phân nhóm.

Ám ảnh sợ xã hội còn gọi là rối loạn lo âu xã hội là sự sợ bùng phát bản thân

lúng túng nơi công cộng hoặc sử dụng nhà vệ sinh công cộng.

30

Rối loạn ám ảnh bó buộc

Những người bị rối loạn ám ảnh bó buộc trải qua những cảm xúc, tư duy và

hình ảnh (ám ảnh) thâm nhập, ngoài ý muốn, tái diễn và lo âu. Sự lo âu được giảm

nhẹ đến một phạm vi nào đó bởi thực hiện những hành vi lặp đi lặp lại (bó buộc) và

đôi khi bởi chính suy nghĩ ám ảnh. Triệu chứng thông thường nhất trong OCD là sự

tránh né nhiễm bẩn tay và nhu cầu bức bách phải rửa tay lặp đi lặp lại sau khi sờ vào

các đồ vật. Việc kiểm tra lặp đi khóa cửa, khóa bình ga và đếm các đồ vặt là những

sự thường thấy khác. Những hành vi như vậy có thể tiêu tốn hàng giờ đồng hồ và dẫn

đến những hậu quả y khoa (ví dụ: hư hại da tay hoặc rửa tay quá kỹ). Những người

bệnh ám ảnh bó buộc thường có sự thấu hiểu; họ nhận thức rằng những suy nghĩ và

hành vi này là vô lý và muốn loại bỏ chúng.

Vì rối loạn Tourette và động kinh thái dương cũng liên quan đến những vận

động lặp lại, rối loạn ám ảnh bắt buộc phải được phân biệt với những rối loạn này.

Mặc dù chúng là chứng bệnh khác nhau, OCD và rối loạn Tourette có liên quan về di

truyền; có tỉ lệ cao OCD trong đó nhu câu ý thức về sự hoàn hảo có thể biểu hiện ở

những hành vi lặp lại, nhưng trong đó những nghi thức giống như rửa tay không nổi

bật.

1.4.3. Căn nguyên rối loạn lo âu

Các rối loạn lo âu nằm trong số các vấn đề sức khỏe tâm thần được điều trị

thường gặp nhất. Cả hai yếu tố tâm lý xã hội và sinh học có liên quan đến căn

nguyên của chúng. Các yếu tố tâm lý xã hội bao gồm kém thích ứng đưa đến sợ một

thứ hoặc tình huống vô hại và tiếp xúc với yếu tố sang chấn mạnh. Các yếu tố sinh

học bao gồm di truyền và giới. Các rối loạn lo âu thường thấy trong các thành viên

gia đình của người bệnh nhiều hơn trong dân số chung, và tỉ lệ hòa hợp của chúng

cao hơn trong số sinh đôi đơn hợp tử so với dị hợp tử. So sánh với đàn ông, phụ nữ

gấp hai đến ba lần khả năng rối loạn hoảng loạn, hai lần khả năng phát triển PTSD

khi tiếp xúc với một yếu tố sang chấn mạnh, và nhiều hơn một chút về LATT (55-

60% so với 40-45%).

Rối loạn lo âu là các rối loạn cảm xúc thường gặp trong cộng đồng. Tần suất

mắc bệnh suốt đời 15% (Western Countries). Thường không được chẩn đoán hoặc

31

chẩn đoán quá muộn và hiếm khi được điều trị đúng. Diễn tiến mạn tính nếu không

được điều trị. Hồi phục tự nhiên hiếm gặp ở người lớn. Với rối loạn thích ứng

(stress) gây cản trở trong công việc hoặc giao tiếp.

Rối loạn lo âu là một trong các rối loạn tâm lý có tính phổ biến cao có tỉ lệ gia

tăng cùng sức ép ngày càng lớn của cuộc sống và thường kết hợp với nhiều rối loạn

khác như trầm cảm, rối loạn nhân cách, rối loạn ăn uống và nhất là rối loạn dạng cơ

thể. Rối loạn lo âu là sự lo sợ quá mức trước một tình huống xảy ra có tính chất vô lý

lặp lại và kéo dài gây ảnh hưởng tới sự thích nghi với cuộc sống, lo âu về bản chất là

đáp ứng với một đe dọa không được biết trước từ bên trong, sợ thì lại là đáp ứng với

một đe dọa được biết rõ từ bên ngoài. Cả hai đều là đáp ứng trả lại các kích thích của

môi trường nhằm gia tăng tính tích cực của hành vi, nhưng khi mối lo thực tế đã kết

thúc mà lo âu và sự sợ hãi quá mức ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống vẫn tiếp

tục thì đó là bệnh lý. Nguyên nhân chính xác của rối loạn lo âu không được biết rõ

chỉ biết nó bao gồm nhiều yếu tố khác nhau chủ yếu liên quan đến stress, trầm cảm

rối loạn dạng cơ thể kết hợp với yếu tố nhân cách có xu hướng lo âu. Những biểu

hiện của lo âu trầm cảm là những biểu hiện của các triệu chứng cơ thể, các rối loạn lo

âu trầm cảm không chỉ là triệu chứng của cảm xúc mà tất cả các cơ quan bộ phận

trong cơ thể đều bị ảnh hưởng và làm cho cơ thể có những biểu hiện về triệu chứng

cơ thể khác nhau.

1.4.4. Chẩn đoán rối loạn lo âu theo DSM-IV:

Theo DSM-IV, rối loạn lo âu toàn thể là sự lo âu hoặc lo lắng quá mức về nhiều

sự kiện hoặc hoạt động, xảy ra hầu như mọi ngày trong khoảng thời gian ít nhất 6

tháng. Sự lo âu là khó kiểm soát và kết hợp với các triệu chứng cơ thể như căng

thẳng cơ, dễ bực tức, khó ngủ và bứt rứt, gây khó chịu cho bệnh nhân. Các tiêu

chuẩn chẩn đoán:

Lo âu và lo lắng quá mức, xảy ra phần lớn thới gian trong ít nhất 6 tháng, về

một số sự kiện và hoạt động (như công việc hoặc học tập).

Bệnh nhân nhận thấy khó kiểm soát được sự lo âu.

Lo âu và lo lắng kết hợp với 3 trong 6 triệu chứng sau (với ít nhất một số triệu

chứng sau hiện diện phần lớn thời gian trong 6 tháng vừa qua):

32

(1) Bứt rứt hoặc cảm thấy căng thẳng hay bất an

(2) Dễ mệt mỏi

(3) Khó tập trung tư tưởng hoặc đầu óc trống rỗng

(4) Dễ bực tức

(5) Căng thẳng cơ

(6) Rối loạn giấc ngủ (khó vào giấc ngủ hoặc khó duy trì giấc ngủ hoặc giấc

ngủ không yên không thỏa mãn)

Lo âu, lo lắng hoặc các triệu chứng cơ thể gây khó chịu rõ rệt về lâm sàng hoặc

bị ảnh hưởng đến hoạt động xã hội, nghề nghiệp hoặc các lĩnh vực quan trọng khác.

Rối loạn không do các hoạt động sinh lý trực tiếp của một chất (ví dụ một chất

gây nghiện, một loại thuốc men) hoặc một bệnh cơ thể (ví dụ cường giáp) và không

xảy ra chỉ trong một rối loạn khí sắc, một rối loạn loạn thần hoặc một rối loạn phát

triển lan tỏa.

1.5. Khái niệm mất ngủ

Mất ngủ là tình trạng phố biến trong dân số, theo các báo cáo điều tra trên cộng

đồng ở các nước phương tây cho thấy có khoảng một phần ba dân số báo cáo rằng

mình gặp phải một số các triệu chứng khó khăn đi vào giấc ngủ, ngủ thiếp đi bất cứ

lúc nào, hay thức giấc hoặc khó trở lại giấc ngủ. Đối với nhiều người bị ảnh hưởng

bởi mất ngủ là một hiện tượng thoáng qua được giải quyết trong vài ngày hay ít tuần,

tuy nhiên một phần đáng kể bệnh nhân bị chứng mất ngủ mạn tính.

Mất ngủ có thể là cấp tính (ngắn hạn) hoặc mạn tính (kéo dài), chứng mất ngủ

cấp tính là phổ biến. Các nguyên nhân thường gặp bao gồm căng thẳng trong công

việc, áp lực gia đình, hoặc một sự kiện chấn thương, thường kéo dài nhiều ngày hoặc

vài tuần. Mất ngủ mạn tính kéo dài trong một tháng hoặc lâu hơn. Hầu hết các trường

hợp mất ngủ mạn tính là thứ yếu. Điều này có nghĩa nó là triệu chứng hoặc tác dụng

phụ của một số vấn đề khác, chẳng hạn như một số bệnh trạng nhất định, thuốc men

và rối loạn giấc ngủ khác. Các chất như caffein, thuốc lá và rượu cũng có thể là

nguyên nhân.

Đôi khi chứng mất ngủ mạn tính là vấn đề chính. Điều này có nghĩa là nó

không phải do cái gì đó gây ra. Nguyên nhân của nó không được hiểu rõ, nhưng căng

33

thẳng kéo dài, cảm xúc khó chịu, lệch múi giờ và làm việc theo ca có thể là những

yếu tố. Mất ngủ mạn tính thường kéo dài hơn một tháng (National Sleep Foundation

- NSF, 2011).

Mất ngủ được đặc trưng bởi các triệu chứng khó bắt đầu vào giấc ngủ, khó duy

trì được giấc ngủ (hay thức giấc), chất lượng giấc ngủ kém dẫn đến suy giảm chức

năng trong ngày hôm sau, bao gồm cả tâm lý căng thẳng. Những con số nghiên cứu

về mất ngủ có sự khác nhau đáng kể, rất có thể sự khác nhau này là do khác biệt về

định nghĩa, phương pháp nghiên cứu và phương pháp thu thập dữ liệu. Kết quả từ

các cuộc điều tra trên dân số Hoa Kỳ cho thấy tỉ lệ ước tính của mất ngủ mạn tính rơi

vào khoảng 10% dân số (25 triệu người). Mất ngủ mạn tính liên quan đến nhiều điều

kiện về thể chất và tinh thần, thường phổ biến hơn ở phụ nữ và người cao tuổi. Mặc

dù thường được xem là triệu chứng trầm cảm, nhưng mất ngủ cũng là một tiền đề

dẫn đến trầm cảm và có liên quan đến sự gia tăng đáng kể trong nguy cơ của trầm

cảm. Mất ngủ liên quan đến suy giảm tâm trạng, hoạt động cá nhân và chất lượng

cuộc sống, trong một số trường hợp với tình trạng buồn ngủ ban ngày có thể làm tăng

rủi ro dẫn đến tai nạn (Walsh J. K, 2004).

Chứng mất ngủ mạn tính được xác định trên các yếu tố khác nhau nhưng quan

trọng là tần suất xuất hiện nhiều hơn ba lần một tuần, thời gian thường kéo dài trên

một tháng và thường liên quan đến một số mức độ rối loạn trong ngày. Sự dai dẵng

của chứng mất ngủ mạn tính ở mức độ lớn có sự ảnh hưởng tới cá nhân tương tự như

chứng mất ngủ trầm trọng. Tỉ lệ mất ngủ mạn tính có thể khác nhau do sự khác biệt

trong chẩn đoán. Tuy nhiên, có vẻ hợp lý khi ước tính có khoảng 10% đến 20% dân

số Hoa Kỳ và Tây Âu trải qua chứng mất ngủ mạn tính. Chứng mất ngủ mạn tính có

thể cùng xảy ra với các bệnh mạn tính khác như viêm khớp, bệnh tim mạch, tiểu

đường và trầm cảm. Ở bệnh nhân mất ngủ mạn tính có tỉ lệ cao mắc đồng thời các

bệnh mạn tính khác như viêm khớp, bệnh tim mạch, đái tháo đường, trầm cảm cao

hơn nhiều so với dân số nói chung.(Hyyppa và Kronholm, 1989).

Rối loạn tậm lý là một trong những bệnh đi kèm thường gặp của chứng mất ngủ

mạn tính. Người ta ước tính rằng 40% bệnh nhân mất ngủ có thể đang mắc một rối

loạn tâm lý song song, trong các rối loạn tâm lý, trầm cảm là phổ biến nhất, và mất

34

ngủ là một triệu chứng chẩn đoán cho rối loạn trầm cảm và lo âu (Ancoli-Israel,

2006; Katz D. A và McHorney, 1998).

Mặc dù rất dễ bắt gặp được sự phàn nàn của nhiều người về chứng mất ngủ

thoáng qua một hoặc vài ngày trong tuần. Nhưng chứng mất ngủ mạn tính được có

những tác động tiêu cực sâu sắc đến chất lượng cuộc sống của bệnh nhân và mọi hoạt

động sinh hoạt thường ngày (Leger, Scheuermaier, Philip, Paillard, & Guilleminault,

2001). Ngoài ra, mất ngủ mạn tính cũng có thể là nguyên nhân chứ không phải là kết

quả của một số rối loạn tâm thần, đặc biệt là trầm cảm và lo âu (Breslau N, Roth,

Rosenthal, & Andreski, 1996).

1.6. Các yếu tố liên quan trầm cảm, lo âu

Tiếp cận theo mô hình Sinh – Tâm - Xã hội

Những năm 1960 và 1970, có nhiều nghiên cứu về những điểm chung giữa tâm

lý học và y sinh học. Frankenhauser (1984) đã gợi ý rằng nghiên cứu trầm cảm tâm

sinh học đã trở thành nơi gặp gỡ cho các câu hỏi liên quan đến mối quan hệ giữa

hành vi - sức khỏe. Về mặt này, một phát triển quan trọng của thời kỳ này là một bài

viết có ảnh hưởng bởi bác sĩ tim mạch George Engel (1977) với tựa đề “Sự cần thiết

cho một mô hình y học mới” trong đó ông đề xuất mô hình Sinh - Tâm - Xã hội

(Engel G. L, 1977). Mô hình này ngày nay được chấp nhận rộng rãi bởi các thầy

thuốc sức khỏe tâm lý.

Mô hình Sinh – Tâm - Xã hội khuyến khích các nhà lâm sàng giải thích các

hiện tượng như trầm cảm bằng cách xem xét tất cả các yếu tố liên quan: sinh học,

tâm lí, xã hội mà nó có thể góp phần làm phát triển hoặc duy trì rối loạn. Điều này

củng cố quan điểm cho rằng trầm cảm và bệnh tật luôn luôn ảnh hưởng đến cơ thể

như là thể thống nhất của ba mặt trên và không đặt nặng hay nhẹ ở mặt nào. Các yếu

tố sinh học bao gồm tuổi, giới tính, loại bệnh, mức độ bệnh, thời gian bệnh, bị một

bệnh hay nhiều bệnh, diễn tiến của bệnh, mức độ biến chứng của bệnh. Các yếu tố

tâm lý như nhân cách (tính cách, khí chất, năng lực, xu hướng), nhận thức của bệnh

nhân về bản thân, về bệnh tật, kiểu suy nghĩ tiêu cực, hành vi ăn uống, nghỉ ngơi, kĩ

năng giao tiếp, tìm sự giúp đỡ, kĩ năng thích ứng, nhu cầu, niềm tin về sức khỏe, kinh

nghiệm, đánh giá vấn đề, phụ thuộc người khác, vị thế tâm lí. Những cá nhân có suy

35

nghĩ tiêu cực thường có khuynh hướng dễ bị trầm cảm. Tâm lý học cá nhân đã chứng

minh nhân cách dễ bị tổn thương đóng vai trò quan trọng trong việc khởi phát và kéo

dài trầm cảm. Các yếu tố xã hội như tôn giáo, nghề nghiệp, trải qua các sang chấn

tâm lí, mối quan hệ giữa các cá nhân, bị chia cắt sớm, thiếu sự hỗ trợ xã hội, những

lời phê bình tiêu cực hay chỉ trích từ những thành viên trong gia đình, điều kiện kinh

tế, những sự kiện cuộc sống căng thẳng có thể góp phần khởi phát hay kéo dài trầm

cảm. Trầm cảm thường gặp ở người có mối quan hệ xã hội kém, quan hệ gia đình

không được tốt như li dị, ly thân, góa.

Tiếp cận theo mô hình Sinh - Tâm - Xã hội giải thích được thỏa đáng những

yếu tố liên quan với trầm cảm. Nghĩa là có sự liên quan chặt chẽ giữa ba mặt sinh lí,

tâm lí, xã hội. Điều này đúng với quan điểm toàn diện, hệ thống khi nghiên cứu con

người. Phù hợp với định nghĩa về sức khỏe của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO): “Sức

khỏe là trạng thái thoải mái toàn diện về thể chất, tinh thần và xã hội chứ không chỉ

bao gồm tình trạng không có bệnh hay thương tật”.

Khuynh hướng lạc quan và lòng tự tin

Khái niệm khuynh hướng lạc quan được xây dựng bởi Scheir và Carver (1987)

và đề cập đến một kỳ vọng chung rằng những điều tốt đẹp sẽ xảy ra hoặc các niềm

tin rằng kết quả chắc chắn sẽ là tích cực. Khái niệm này cũng tương tự như đặt

những quan niệm về “suy nghĩ tích cực” và nhấn mạnh đến vai trò của các kết quả,

kỳ vọng như một yếu tố quyết định sự phấn đấu để đạt được một mục tiêu hay bỏ

cuộc. Friedman và cộng sự (1993) cho rằng sự lạc quan có lợi cho cả sự khỏe mạnh

thể chất, tâm lý và gợi ý rằng những tác động này được được điều hòa bởi hành vi

ứng phó (Bandura A, 1977).

Lòng tự trọng là các niềm tin nhận thức mà mọi người có về khả năng của họ.

Lòng tự trọng bao gồm niềm tin tích cực về bản thân. Lòng tự tin là niềm tin đặc

trưng hơn của cá nhân cho rằng mình có khả năng hoạt động tốt trong một số lĩnh

vực, nhiệm vụ hoặc hoạt động cụ thể (Bandura 1982) (Bandura A, 1982). Nếu một

người có niềm tin vào khả năng đối phó của mình thì các mối đe dọa có thể sẽ là

không đáng kể. Tuy nhiên, nếu cá nhân không chắc chắn khả năng đối phó của mình,

anh ta có thể cảm thấy bất an.

36

Tính dễ bị tổn thương với trầm cảm

Mô hình Trầm cảm và thích ứng tâm lý xã hội có thể liên kết những quan điểm

khác nhau về nguồn gốc của bệnh tâm thần. Mô hình Trầm cảm thừa nhận tầm quan

trọng của tác động môi trường lên sức khỏe tâm thần nhưng cũng nhận ra rằng có sự

khác biệt cá nhân trong tính dễ bị tổn thương với trầm cảm. Có nhiều yếu tố gây ra

đau khổ tâm lý, một số trong đó có thể vượt quá sự kiểm soát của cá nhân. Tính dễ bị

tổn thương với trầm cảm có thể là một chức năng của một trong hai đặc điểm cá

nhân hay xã hội. Tính dễ bị tổn thương của cá nhân có thể xuất phát từ tiền sử của cá

nhân như tiếp xúc với các tình huống gây sang chấn trước đó trong cuộc sống hay

một xu hướng sinh học hưng - trầm cảm. Tính dễ tổn thương với Trầm cảm cũng có

thể xuất phát từ vị trí của một người trong môi trường xã hội có thể làm cho cá nhân

có nhiều khả năng trải nghiệm các sự kiện gây Trầm cảm như nghèo đói, phân biệt

chủng tộc, cơ hội kinh tế rất ít (Evans, , & Bullock, 2012). Họ có thể có những phản

ứng bất lợi đặc biệt đối với các sự kiện và có thể lâu hồi phục hơn. Cùng một môi

trường có thể gây stress cho một số người vì nó đòi hỏi năng lực hoặc sự ưu đãi mà

họ không có, nhưng nó có thể là một môi trường thoải mái hoặc kích thích đối với

các cá nhân có những năng lực đó hoặc có những sở thích đó. Ví dụ, một người có

thể thích một môi trường làm việc có thể dự đoán được các nhiệm vụ quen thuộc và

có thể nhận thấy thật khó khăn để ứng phó với một môi trường lộn xộn không có cấu

trúc, không thể đoán trước nhiệm vụ. Một người khác có thể nhận thấy môi trường

đầu tiên nhàm chán và môi trường thứ hai gây thách thức và kích thích.

Sức chịu đựng/sự mạnh mẽ

Sức chịu đựng được giới thiệu bởi Kobasa (1979) như là một đặc điểm tính

cách có tác động đệm hoặc điều hòa mối quan hệ giữa yếu tố gây trầm cảm và căng

thẳng. Các cá nhân mạnh mẽ tin rằng họ có thể kiểm soát các sự kiện trong cuộc

sống của họ, xem thay đổi là tích cực và đầy thử thách chứ không phải là tiêu cực và

đe dọa (S. C. Kobasa, 1979).

Sức chịu đựng là khả năng chịu đựng khó khăn liên quan đến stress, đó là khả

năng chịu đựng các tình huống gây trầm cảm mà không bị bệnh. Sức chịu đựng là

một cấu trúc nhân cách. Một tính mạnh mẽ, chịu đựng được gian khổ có ảnh hưởng

37

đến sức khỏe vì các cá nhân có sức chịu đựng cao tương đối ít bị bệnh tật khi tiếp

xúc với tác nhân gây trầm cảm. Sức chịu đựng như một tập hợp các đặc điểm tính

cách bảo vệ con người khỏi những tác động tiêu cực của trầm cảm, có thể dẫn đến

giảm căng thẳng (S. C. Kobasa, 1979).

Một phân tích tổng hợp gần đây cho thấy sức chịu đựng là một trong những đặc

điểm tính cách có khả năng tiên đoán nhất về hạnh phúc của chủ thể (Abdollahi, Abu

Talib, Yaacob, & Ismail, 2014).

Sức chịu đựng có liên quan đến hai hoạt động đánh giá và ứng phó của người bị

trầm cảm. Ở đánh giá ban đầu, con người có thể giải thích các yếu tố của môi trường

như là thách thức với mối đe dọa. Đánh giá thứ hai về các tình huống gây trầm cảm

tiềm tàng, con người có thể đánh giá rằng họ có các nguồn lực để ứng phó hoặc giải

quyết tình huống như tin vào kiểm soát bên trong của chính họ (Delmas, 2007).

Sức chịu đựng có khả năng tác động đến nhận thức của một người về những

yếu tố gây trầm cảm. Những người có khả năng kiểm soát nội lực bên trong cao có

khả năng cảm nhận một tình huống tiêu cực ít đe dọa hơn vì họ tin rằng họ có thể sửa

đổi và cải thiện tình hình. Những người có tính thách thức cao có khả năng đánh giá

tình trạng tiêu cực không phải là một yếu tố gây trầm cảm mà như một cơ hội để phát

triển và thành công (Abdollahi, Abu Talib, et al., 2014), (Abdollahi, Talib, Yaacob,

& Ismail, 2014).

Theo Kobasa S. C. (1979a, 1979b, 1979c), sức chịu đựng có liên quan với một

loạt các nguồn lực đề kháng có sẵn trong cá nhân mà có thể trung hòa nhằm thích

nghi các mức độ trầm cảm. Khái niệm sức chịu đựng là một tích hợp các nguồn lực

bao gồm sức mạnh thể chất thông qua phản ứng sinh lý, tâm lý, khuynh hướng nhân

cách, trải nghiệm các nguồn lực xã hội. Các thành phần tâm lý của sức chịu đựng

được gọi cụ thể là “sức chịu đựng nhận thức”, khuynh hướng nhân cách. Kobasa S.C.

thấy rằng nhận thức và sự cam kết được xem là yếu tố bảo vệ (Kobasa và 1979), (S.

C. Kobasa, 1979), (S. C. Kobasa, Hilker, & Maddi, 1979).

Funk S.C. (1992) kết luận rằng sức chịu đựng điều hòa các mối quan hệ trầm

cảm - bệnh tật bằng cách giảm đánh giá nhận thức về mối đe dọa và tăng cường tính

đương đầu với trầm cảm (Funk, 1992). Sức chịu đựng tác động thông qua ứng phó

38

bằng cách cung cấp khả năng gia tăng ứng phó với các sự kiện hoặc hậu quả của

chúng(Ismail. K, Winkley, & Rabe-Hesketh, 2004). Hills H. và Norvell N. (1991)

cho rằng sức chịu đựng điều hòa ảnh hưởng của trầm cảm đến sức khỏe thể chất

(Hills và Norvell, 1991).

Tự hiệu quả

Khái niệm tự hiệu quả được đề xuất bởi Bandura (1977) (Bandura A, 1977), là

sự tin chắc rằng một người có thể thể hiện thành công hành vi cần thiết để tạo ra một

kết quả mong muốn và có khả năng làm chủ tất cả các đòi hỏi của môi trường

(Bandura A, 1977). Đó là khả năng thể hiện hành vi phù hợp với mong đợi, là niềm

tin của cá nhân về khả năng thực hiện tốt trong tham gia vào công việc cụ thể.

Bandura (1988) xem tự hiệu quả như các niềm tin hoặc các đánh giá về khả năng của

một người tổ chức và thực hiện các quá trình hành động và huy động các động cơ,

các nguồn lực nhận thức và các quá trình diễn tiến của hành động cần thiết để kiểm

soát các đòi hỏi của công việc hoặc để đạt được các thành tích được chỉ định

(Bandura A, Cioffi, Taylor, & Brouillard, 1988).

Tự hiệu quả ngày càng được công nhận như một nguồn lực cá nhân giúp giảm

thiểu tác động của trầm cảm lên sức khỏe. Ngược lại, tính tự hiệu quả thấp được xem

như là một yếu tố dễ bị tổn thương (Jerusalemvà Schwarzer1992). Nhằm xem xét tự

hiệu quả ảnh hưởng lên sức khỏe, O’Leary (1992) đánh giá lại các nghiên cứu về tác

động của tự hiệu quả lên các hành vi ứng phó và nhiều thành phần của phản ứng trầm

cảm sinh lý. Kết quả cho thấy tự hiệu quả có thể gây ra hoặc ảnh hưởng trực tiếp đến

sức khỏe thông qua ảnh hưởng lên các hành vi sức khỏe hoặc làm vật đệm cho ảnh

hưởng của trầm cảm bằng cách tăng cường hành vi ứng phó.

Tự hiệu quả cũng có thể được coi là một điều hòa nhận thức của mối quan hệ

giữa trầm cảm và sức khỏe, tác động lên sức khỏe thông qua ảnh hưởng của nó lên

các hoạt động nhận thức khác nhau như: quyết định cách ứng phó tốt nhất với các

yếu tố gây trầm cảm, thời gian và công sức để cố gắng ứng phó theo cách thức hiệu

quả (Antonovsky H và Sagy, 1986).

Yếu tố niềm tin tôn giáo, sự gắn kết

Lòng tín ngưỡng hoặc mức độ mà mọi người coi lòng tín ngưỡng là một phần

39

quan trọng trong cuộc sống của họ được giả thuyết là bảo vệ các cá nhân khỏi những

tác hại của các yếu tố gây trầm cảm, lo âu. Nó có thể là một hệ thống niềm tin hơn là

một đặc điểm nhân cách.

Một vài nghiên cứu xem xét ảnh hưởng của niềm tin tôn giáo trong việc điều

tiết mối quan hệ giữa yếu tố gây trầm cảm và căng thẳng hay lo âu. Các yếu tố gây

stress có thể dẫn đến nhiều căng thẳng cho các cá nhân không có niềm tin tôn giáo

hơn là cho các cá nhân có tôn giáo bởi vì những người có niềm tin tôn giáo cao tin

rằng họ có các nguồn lực của một quyền lực cao hơn khi phải đối mặt với trầm cảm.

Trong khi cam kết liên quan đến mức độ mà một cá nhân được kết nối với các

khía cạnh khác nhau của cuộc sống của một người chẳng hạn như cái tôi, công việc,

gia đình và bạn bè (Kobasa 1979) thì tôn giáo đặc trưng hơn vì liên quan đến một

cam kết với đời sống tinh thần của một người (S. C. Kobasa, 1979). Như vậy, tôn

giáo có thể được coi như là một khía cạnh cụ thể của cam kết.

Bishop (1993) cho rằng gắn kết ảnh hưởng đến sức khỏe cá nhân theo hai cách

khác nhau. Thứ nhất, sự gắn kết có thể ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe, những

người có ý thức về sự gắn kết cao hơn sẽ có tình trạng sức khỏe tổng quát tốt hơn.

Thứ hai, sự gắn kết có thể tương tác với trầm cảm cuộc sống và làm vật đệm chống

lại trầm cảm này. Antonovsky cho rằng gắn kết hoạt động như một điều hòa các trải

nghiệm cuộc sống chứ không gây ra ảnh hưởng trực tiếp lên sức khỏe.

Các nghiên cứu khác đã chỉ ra rằng gắn kết làm giảm nhẹ tác động của trầm

cảm. Mặc dù trầm cảm có tiềm năng gây ra bệnh, điều quan trọng là áp dụng một cái

nhìn đa chiều và năng động về quá trình này bởi vì có những yếu tố khác điều hòa

mối quan hệ này (Braun-Lewensohn O và Sagy S, 2014; Foureur, Besley, Burton,

Yu, & Crisp, 2013).

Các bệnh mạn tính kèm theo

Bệnh mạn tính là một bệnh hoặc tình trạng sức khỏe xảy ra liên tục hoặc kéo

dài. Bệnh được xem là mạn tính khi quá trình của bệnh kéo dài hơn ba tháng. Bệnh

mạn tính có thể kiểm soát được nhưng không điều trị hết được.

Theo Tổ chức Y tế Thế giới, bệnh tim mạch, tăng huyết áp, đái tháo đường, ung

thư... là những bệnh mạn tính chủ yếu ảnh hưởng đến sức khỏe, chất lượng cuộc

40

sống cũng như tuổi thọ của người cao tuổi. Đặc biệt, bệnh tật ở người già chủ yếu là

các bệnh mạn tính không lây. Đây là nguyên nhân chính gây tử vong cho họ

(Whooley M. A và Wong J. M, 2013; World Health Organization, 2009).

Bất cứ bệnh mạn tính hoặc bệnh nặng nào đều cũng có thể gây ra trầm cảm.

Nhiều loại thuốc dùng để điều trị các bệnh mạn tính này có thể gây ra trầm cảm.

Trong đó có các loại thuốc giảm đau trong điều trị bệnh viêm khớp, thuốc hạ

cholesterol, điều trị tăng huyết áp, tim mạch, và một số loại thuốc khác. Các bệnh có

nguy cơ dẫn đến trầm cảm, lo âu ví dụ như: bệnh tuyến giáp, đau mạn tính, đột quỵ

và các bệnh thần kinh khác. Ngoài ra các bệnh Parkinson, chấn thương cột sống, và

các vấn đề tương tự khác mà ảnh hưởng đến vấn đề đi lại, khả năng vận động hay

suy nghĩ thường gây ra trầm cảm, lo âu. (World Health Organization và T.W.H.R,

2001)

Bệnh đái tháo đường: nhiều nghiên cứu cho thấy có mối liên quan giữa trầm

cảm có thể làm tăng nguy cơ mắc bệnh đái tháo đường và bệnh đái tháo đường có thể

làm tăng nguy cơ trầm cảm. Tác giả Egede (2010), đã tìm thấy sự liên quan chặt chẽ

giữa đái tháo đường và trầm cảm trong gánh nặng bệnh tật, tử vong và chi phí chăm

sóc sức khỏe. Việc đồng mắc đái tháo đường và trầm cảm là giảm khả năng điều trị,

giảm chuyến hóa, tăng biến chứng, giảm chất lượng cuộc sống, tăng chi phí điều trị,

tăng mức độ tàn tật và giảm khả năng lao động và tăng nguy cơ tử vong (Egede và

Ellis, 2010).

Yếu tố sử dụng thuốc hướng thần

Nghiên cứu đoàn hệ được thực hiện tại Hà Lan trên 2.619 khách thể về trầm

cảm và lo âu được chẩn đoán dựa trên DSM-IV. Đã cho thấy thuốc hướng thần có

mối liên quan đến mất ngủ trên đối tượng nghiên cứu, nhưng không thể giải thích

được phần lớn các mối liên hệ về tâm lý và mất ngủ (Van Mill, Hoogendijk,

Vogelzangs, Van Dyck, & Penninx, 2010).

Yếu tố lứa tuổi

Theo một số nghiên cứu, tuổi cũng được xem là một trong các yếu tố ảnh

hưởng đến tình trạng trầm cảm của bệnh nhân. Nghiên cứu của Jin Sheng Hong

(2012) tại Trung Quốc, đã tìm ra mối liên quan giữa nhóm tuổi với trầm cảm, cụ thê

41

ở những bệnh nhân ≥ 60 tuổi có mức độ lo âu và trầm cảm cao hơn những bệnh nhân

có độ tuổi < 60 tuổi. (Jin Sheng Hong và Jun Tian, 2012). Trong nghiên cứu của Lý

Thị Phương Hoa ở BV Nguyễn Tri Phương (2010) cho thấy tình trạng trầm cảm của

bệnh nhân tăng theo tuổi. Mặc dù chưa tìm thấy mối liên quan rõ ràng giữa tình trạng

trầm cảm của bệnh nhân và tuổi nhưng những bệnh nhân cao tuổi đang phải đối mặt

với nhiều thách thức về sức khỏe. Nhiều người già đang bị mất đi khả năng sống một

cách độc lập vì họ bị hạn chế về vận động, yếu về thể chất hoặc các vấn đề về sức

khỏe thể chất và tâm thần khác (Lý Thị Phương Hoa et al., 2010).

Nghiên cứu của Nguyễn Văn Dũng về vấn đề trầm cảm ở người cao tuổi:

những người có bệnh Parkinson, Alzheimer, bệnh tim, v… có nhu cầu chăm sóc sức

khỏe tại nhà hoặc bệnh viện, họ thường phải đối mặt với những thay đổi đáng kể

trong cuộc sống như căng thẳng, sự mất mát người thân (vợ/chồng) làm tăng nguy cơ

trầm cảm (Nguyễn Văn Dũng, 2011).

Yếu tố Giới tính

Đối với phụ nữ, do cấu trúc sinh học của một số cơ quan như sinh dục, nội tiết,

giải phẫu khác với nam giới, nên ảnh hưởng đến trầm cảm cũng có sự khác nhau. Ở

phụ nữ sự thay đổi nội tiết đi cùng với sự phát triển và sinh sản có thế đóng vai trò

cực kì quan trọng trong bệnh trầm cảm. Nhiều phụ nữ trải qua những thay đổi tâm

trạng trong khoảng thời gian kinh nguyệt, hay ở độ tuổi mãn kinh. Biến động nội tiết

trong quá trình mang thai và sinh sản, kết hợp với những mối quan hệ gây căng

thẳng, khó chịu có thể làm tăng nguy cơ trầm cảm. Khoảng 10 – 15% phụ nữ, đặc

biệt khi có con đầu, bị trầm cảm sau sinh. Trách nhiệm gia đình, chăm sóc con cái

đóng một vai trò quan trọng gây ra trầm cảm. Ngoài ra, nhiều phụ nữ nghèo bị lạm

dụng tình dục, hoặc xung đột gia đình, nghiện rượu trong thời gian có thai cũng là

yếu tố nguy cơ làm gia tăng bệnh trầm cảm (Bùi Quang Huy, 2008; Lương Bạch

Lan, 2014).

Đa số các nghiên cứu cho thấy có mối liên quan giữa đặc điểm giới tính của

bệnh nhân với tình trạng trầm cảm và tỉ lệ trầm cảm ở nữ sẽ cao hơn nam. Cụ thể

trong nghiên cứu của tác giả Trần Thị Thanh Hương ở BV Bạch Mai (2016), tỉ lệ

trầm cảm của nữ cao hơn nam 2,5 lần, dao động trong khoảng tin cậy 95% từ 1,5 đến

42

4. Tuy nhiên, có một số nghiên cứu chưa chỉ ra được mối liên hệ này. Sự khác biệt

giữa các nghiên cứu có thể do đặc điểm của mẫu nghiên cứu khác nhau. Dù vậy, từ

các nghiên cứu cho thấy tỉ lệ trầm cảm ở nữ sẽ cao hơn nam, lý do chưa rõ, có thể

liên quan đến yếu tố sinh lý, xã hội như hormon giới tính, mang thai, chịu stress từ

gia đình và công việc ngày càng tăng, phụ nữ có tuổi thọ cao hơn, và cái chết của

người chồng cũng làm tăng tỉ lệ trầm cảm ở nữ giới. Một lý do khác là phụ nữ dễ

nhận biết hay nhớ các triệu chứng trầm cảm hơn nam giới. Nhưng chúng tôi vẫn

chưa tìm thấy nghiên cứu nào nghiên cứu sâu hơn về vấn đề này (Trần Thị Thanh

Hương và Nguyễn Thị Quỳnh Vân, 2016).

Yếu tố kinh tế thu nhập, việc làm

Các áp lực về kinh tế công việc cũng có thể ảnh hưởng đến tình trạng trầm cảm

của bệnh nhân. Cụ thể trong nghiên cứu của tác giả Hoàng Thị Tuấn Tình (2017),

những người (hiện không đi làm) không có nguồn thu nhập khác có tỉ lệ trầm cảm

cao gấp 6,93 lần so với người có thu nhập (p < 0,001). Người có kinh tế gia đình cận

nghèo/nghèo có tỉ lệ trầm cảm cao hơn 1,94 lần so với những người có kinh tế gia

đình trung bình/khá giả (p = 0,026). Kết quả này phù hợp với kết quả nghiên cứu của

tác giả Lý Thị Phương Hoa ở BV Nguyễn Tri Phương (2010), những bệnh nhân có

thu nhập cao sẽ có tỉ lệ trầm cảm thấp hơn. Hay trong nghiên cứu của Trần Thị

Thanh Hương ở BV Bạch Mai (2016), những bệnh nhân thất nghiệp sẽ có tỉ lệ trầm

cảm cao gấp 3,3 lần so với những bệnh nhân có việc làm ổn định. (Lý Thị Phương

Hoa et al., 2010; Trần Thị Thanh Hương và Nguyễn Thị Quỳnh Vân, 2016).

Kết quả từ một nghiên cứu của tác giả Laura A.P cho thấy những người ở độ

tuổi 18-39, 40-59 có thu nhập dưới mức nghèo thì tỉ lệ mắc trầm cảm cao hơn so với

những người có thu nhập ở mức trên. (Pratt và Brody, 2008). Nghiên cứu của Bae

năm 2016 tại Hàn Quốc cũng đã tìm ra mối liên quan giữa trầm cảm với tình trạng

việc làm, những người đang làm việc ít trầm cảm hơn so với những người thất

nghiệp (Bae và Park, 2016).

Yếu tố sự kiện cuộc đời

Những năm 1960 đã chứng kiến sự ra đời của một cách tiếp cận “nghiên cứu

các sự kiện cuộc đời”. Holmes và các cộng sự xem xét các tác động của các thay đổi

43

cuộc sống, cả tích cực và tiêu cực lên sức khỏe. Những thay đổi như vậy tạo thành

các yếu tố gây trầm cảm, lo âu trong đó chúng đòi hỏi nặng nề nguồn thích ứng của

cá nhân, gây nên căng thẳng tâm lý và sinh lý, dẫn đến khả năng thay đổi tiêu cực

trong tình trạng sức khỏe.

Mô hình các biến cố đời sống của Holmes và Rahe (1967) còn được hiểu rằng

trầm cảm, lo âu là những thay đổi của cá thể nhằm đáp lại những biến cố của cuộc

sống. Có rất nhiều các biến cố khác nhau trong cuộc đời của mỗi cá nhân. Có những

biến cố gây ra trầm cảm, lo âu mạnh như: cái chết của người bạn đời, cái chết của

người thân trong gia đình. Có những biến cố gây trầm cảm, lo âu mức độ vừa như:

con cái lớn lên và rời khỏi nhà, mang thai và những biến cố gây trầm cảm, lo âu mức

độ nhẹ như: thay đổi thói quen ăn, ngủ. Mô hình này có tính ứng dụng cao. Trên cơ

sở của mô hình này, có nhiều thang đo trầm cảm đã được xây dựng.

Yếu tố gia đình

Trong nghiên cứu “Tổn thương tâm lý của trẻ em trong gia đình không toàn vẹn

tại thành phố Hồ Chí Minh” của tác giả Nguyễn Thị Như Thúy (2017), đã ghi nhận

TTTL là sự kết hợp của nhiều biểu hiện: thu mình, lo âu – trầm cảm, rối loạn dạng cơ

thể, v.v…

Yếu tố sống chung với người thân

Khi xét mối liên quan giữa tình trạng sống chung của bệnh nhân với trầm cảm

trong nghiên cứu của tác giả Hoàng Thị Tuấn Tình (2017) tìm thấy mối liên quan

giữa trầm cảm ở bệnh nhân với tình trạng sống chung. Những bệnh nhân sống một

mình có tỉ lệ trầm cảm cao hơn 2,95 lần so với những bệnh nhân sống chung với

người thân (p = 0,006) (Hoàng Thị Tuấn Tình, 2017). Kết quả này cũng phù hợp với

kết quả nghiên cứu của tác giả Lý Thị Phương Hoa ở BV Nguyễn Tri Phương (2010)

(Lý Thị Phương Hoa et al., 2010), những người có sự hỗ trợ từ xã hội, cụ thể là sự

quan tâm, chăm sóc, hỗ trợ từ phía bạn bè, người thân, đồng nghiệp sẽ có tỉ lệ trầm

cảm thấp hơn những người không có người hỗ trợ.

Yếu tố hỗ trợ xã hội

Trầm cảm xã hội tập trung vào các biến số nhân khẩu học đã nêu bật sự khác

biệt trong tính dễ bị tổn thương với trầm cảm, lo âu do các yếu tố như tuổi tác, giới

44

tính, tình trạng việc làm, tầng lớp xã hội và đô thị hóa (Jenkins 1991).

Tập trung vào các khía cạnh xã hội của trầm cảm dẫn đến sự quan tâm ngày

càng tăng khái niệm về hỗ trợ xã hội nó là thước đo về số lượng và chất lượng các

mối quan hệ xã hội mà một cá nhân có được. Hỗ trợ xã hội có thể có các hình thức

khác nhau như hỗ trợ cảm xúc hoặc giúp đỡ tài liệu chính thức,trách nhiệm và cung

cấp các nguồn lực giúp ứng phó với những tác động của trầm cảm để ứng phó với

chính bệnh tật. Có một số bằng chứng nghiên cứu rằng hỗ trợ xã hội làm giảm ảnh

hưởng của trầm cảm lên sức khỏe.

Hỗ trợ xã hội và thiếu sự hỗ trợ xã hội là biến quan trọng đã được thảo luận

trong vai trò của yếu tố bảo vệ và yếu tố nguy cơ bệnh tim mạch. Hỗ trợ xã hội có

một vai trò quan trọng trong các yếu tố bảo vệ bệnh tim mạch Kawachi và cộng sự

(1996) (Kawachi et al., 1996). Lofvenmark và cộng sự (2009) và Barth và cộng sự

(2010) đề cập đến vai trò của hỗ trợ xã hội trong nguyên nhân và tiên lượng của bệnh

tim mạch và các mối quan hệ hỗ trợ xã hội với nhồi máu cơ tim và tử vong. Hỗ trợ

xã hội có vai trò vàng vì đem lại nhận thức tích cực về các nguồn lực có sẵn như là

một yếu tố bảo vệ trong việc ứng phó với trầm cảm và cải thiện niềm tin và cảm xúc

của cá nhân (Barth, Schneider, & von Kanel, 2010; Lofvenmark C, Mattiasson,

Billing, & Edner, 2009).

Hỗ trợ xã hội có thể điều chỉnh và phòng ngừa được trầm cảm, lo âu. Biết được

những người khác sẽ chăm sóc và giúp đỡ mình là một cách để phòng ngừa trầm

cảm, lo âu vì các sự kiện trầm cảm, lo âu khi ấy sẽ được xem là ít có tính đe dọa.

Việc thiếu sự hỗ trợ xã hội có liên quan đến tình trạng sức khỏe kém.

Nhân viên y tế, gia đình và bạn bè có thể giúp bệnh nhân ung thư làm rõ vấn đề

và đoán chắc điều gì sẽ xảy đến với họ, biểu hiện tình yêu thương, sự chăm sóc, và

cùng nhau phát triển những chiến lược ứng phó với các nhu cầu về thể chất và tinh

thần của bệnh ung thư cùng việc điều trị bệnh này. Hỗ trợ xã hội cũng kích thích sự

lành bệnh bằng cách thúc đẩy người bệnh gắn bó hơn với việc điều trị (Suls, 1982).

Yếu tố môi trường

Yếu tố môi trường đã được nghiên cứu khá rộng rãi trong lĩnh vực trầm cảm,

công việc và lĩnh vực trầm cảm nghề nghiệp. Các yếu tố môi trường hoặc hoàn cảnh

45

gây tác động trầm cảm ở cá nhân có liên quan đến số lượng và tính chất của các yếu

tố gây trầm cảm được trải nghiệm. Ảnh hưởng của các yếu tố này có thể thay đổi

theo thời gian, ở các độ tuổi khác nhau, qua “các giai đoạn” cuộc sống khác nhau,

giữa các nhóm người khác nhau. Ví dụ, những người có tình trạng kinh tế-xã hội

thấp có nhiều khả năng trải nghiệm các điều kiện sống nhiều trầm cảm hơn những

người thuộc các nhóm kinh tế - xã hội cao hơn.

Nghiên cứu chứng minh một cách kiên định rằng các nhóm người khác nhau

trải nghiệm các dạng yếu tố gây trầm cảm khác nhau. Một trong những yếu tố hoàn

cảnh được nghiên cứu nhiều nhất liên quan đến tầm quan trọng của hỗ trợ xã hội có

sẵn đối với cá nhân.

Cả hai phương pháp tương tác và giao dịch nhấn mạnh rằng hiện tượng trầm

cảm phát sinh khi con người tương tác với môi trường.

Mô hình cân bằng động (Headey và Wearing 1988) quy định rằng mỗi người có

một dạng bình thường hoặc cân bằng về các sự kiện cuộc sống và mức độ khỏe mạnh

chủ quan (Headey. B và Wearing. A, 1988). Stress chỉ gây ra sự thay đổi về trạng

thái khỏe mạnh khi độ lệch trong dạng sự kiện cuộc sống bình thường xảy ra. Tuy

nhiên, sự thay đổi chỉ là tạm thời bởi vì các đặc điểm nhân cách ổn định đóng một

chức năng cân bằng chủ yếu, có nghĩa là một người có khả năng trở lại mức độ bình

thường bằng cách hành động tiết chế số lượng và tính chất của những yếu tố gây

trầm cảm mà người đó được tiếp xúc.

Các loại hoàn cảnh môi trường phổ biến nhất dẫn đến trầm cảm là những hoàn

cảnh thách thức cá nhân nhưng những gì thách thức người này chưa hẳn đã là thách

thức với người khác. Tương tự như vậy, hoàn cảnh được xem là gây trầm cảm là môi

trường cạnh tranh cao, nhưng cái gì mà cá nhân này nhận thấy có tính cạnh tranh cao

thì một người khác sẽ không nhận thấy như vậy.

Tác động đệm của hỗ trợ xã hội không phải là một ảnh hưởng về hoàn cảnh

hoặc môi trường duy nhất. Một số người dường như đòi hỏi sự hỗ trợ nhiều hơn

những người khác. Kasl (1984) đã chấp nhận một phương pháp tiếp cận dịch tễ tâm

lý xã hội và cho rằng không quá nhiều đặc điểm môi trường khách quan dẫn đến trải

nghiệm trầm cảm nhưng đúng hơn là những đặc điểm môi trường như thế tạo thành

46

một yếu tố nguy cơ gắn vào lối sống và sự năng động chu kỳ sống động của một

người (Kasl S. V, 1984). Những ảnh hưởng môi trường này cùng với các yếu tố nguy

cơ khác bao gồm cả các loại yếu tố nhân cách được mô tả ở trên góp phần vào số

lượng trầm cảm mà một cá nhân trải nghiệm và do đó cho bất kỳ tác động nào của

trầm cảm lên kết quả sức khỏe (Friedman, 1993). Vì vậy ngay cả một khái niệm

trầm cảm dựa trên kích thích như phương pháp tiếp cận các sự kiện cuộc sống không

thể hoàn toàn tách biệt các yếu tố môi trường khỏi các ảnh hưởng cá nhân (Schulz,

Guth, Pieper, Martin, & Heusch, 1992).

Tâm lý học đóng vai trò đáng kể không chỉ tạo cơ sở cho việc xây dựng các

chương trình truyền thông thay đổi hành vi có lợi cho sức khoẻ giảm thiểu các yếu tố

nguy cơ (Peyrot, McMurry, & Kruger, 1999).

Do vậy tham vấn cho người bệnh còn là sự hỗ trợ tâm lý mang tính chất điều trị

giúp người bệnh thay đổi nhận thức, thái độ, phát triển các kĩ năng ứng phó, tự đánh

giá, tự quản lý trầm cảm.

1.7. Mất ngủ mạn tính, trầm cảm, lo âu mối liên quan

Do tính mạn tính của chứng mất ngủ nên nó liên quan gián tiếp đến chất lượng

cuộc sống Của một cá nhân. Một nghiên cứu so sánh kết quả SF-36 trong nhóm bệnh

nhân mất ngủ nhẹ và nặng với nhóm bệnh nhân được chẩn đoán bị trầm cảm hoặc

suy tim sung huyết (CHF). Các bệnh nhân mất ngủ trầm trọng có sự suy giảm chức

năng nhiều hơn so với bệnh nhân CHF trong các trong các báo cáo, ảnh hưởng cảm

xúc và các rối loạn tâm thần thông thường.

Các nghiên cứu trên dân số đã cho thấy tỉ lệ mắc bệnh tâm thần cao ở bệnh

nhân mất ngủ mạn tính. Trên thực tế, chứng mất ngủ thường liên quan đến rối loạn

tâm thần hơn bất kỳ bệnh nào khác. Trong nghiên cứu của Ford và Kamerow (1989)

phát hiện có 40% mất ngủ bị rối loạn tâm thần kèm theo so với 16,4% của những

người không có khiếu nại ngủ. Ngoài ra, trầm cảm và lo âu là rối loạn tâm thần phổ

biến nhất trong chứng mất ngủ (Ford và Kamerow, 1989).

Thông thường giả định rằng mất ngủ là thứ yếu đối với rối loạn tâm thần; Tuy

nhiên, do tính mạn tính của mất ngủ trong một số trường hợp mất ngủ là nguyên

nhân dẫn đến rối loạn lo âu và trầm cảm. Trong thực tế mất ngủ mạn tính làm tăng

47

nguy cơ đáng kể cho sự khởi phát của một rối loạn tâm thần tiếp theo. Trong một

nghiên cứu trên dân số ở Châu Âu với mẫu 14915 người, đã tìm thấy rằng chứng mất

ngủ thường xảy ra trước các trường hợp rối loạn khí sắc, kết quả này còn rõ rệt hơn

đối với những lần tái phát của chứng rối loạn khí sắc; trong đó 56,2% trường hợp,

các triệu chứng mất ngủ dẫn đến triệu chứng tái phát rối loạn khí sắc. Ngược lại, ở

bệnh nhân mất ngủ mạn tính có rối loạn lo âu kèm theo, sự xuất hiện đầu tiên của lo

âu hoặc tái phát trước khi mất ngủ xảy ra ở hầu hết các trường hợp (Roth T, 2007).

Để hiểu thêm về mối quan hệ giữa giấc ngủ và rối loạn tâm thần, một số nghiên

cứu theo chiều dọc đã kiểm tra sự tiến triển của rối loạn tâm thần trong số những

bệnh nhân mất ngủ. Các nghiên cứu này sử dụng thời gian theo dõi từ 1 đến 40 năm,

phần lớn sử dụng thời gian theo dõi từ 1 đến 3 năm. Trong tất cả các nghiên cứu này,

mất ngủ đã được tìm thấy để đưa ra nguy cơ đáng kể cho sự phát triển của một rối

loạn trầm cảm. Ở những bệnh nhân rối loạn khí sắc cho thấy những bệnh nhân trầm

cảm có kiểm soát được giấc ngủ cũng sẽ gặp phải một phản ứng nhanh chống trầm

cảm, trong khi những bệnh nhân mất ngủ vẫn tồn tại sẽ có thời gian ngắn hơn để tái

phát trầm cảm. Điều cần thiết trong các thử nghiện lâm sàng để đánh giá tác động

của việc điều trị chứng mất ngủ lên tỷ lệ trầm cảm cũng như thời gian để tái phát ở

những bệnh nhân bị trầm cảm (Breslau N et al., 1996).

Câu hỏi đặt ra là liệu chứng mất ngủ có gây trầm cảm hay ngược lại hay không.

Sự liên quan chặt chẽ của chứng mất ngủ với trầm cảm có thể liên quan đến các cơ

chế sinh lý cơ bản tiềm ẩn cho giấc ngủ và điều chỉnh tâm trạng làm cho cá thể dễ bị

tổn thương bởi cả hai điều kiện. Sự rối loạn điều tiết Corticotropin (CRF) đã liên

quan đến quá trình sinh bệnh của rối loạn tâm thần như trầm cảm cũng như trong sự

hòa giải của chứng hyperarousal trong chứng mất ngủ bạn đầu (Roth T, Roehrs T,

Pies R), bất thường này có thể đại diện cho yếu tố nguy cơ phổ biến, và do đó nó

hoàn toàn có thể là cả hai rối loạn sẽ đáp ứng với sự can thiệp điều trị tượng

tự.(Roth, Roehrs, & Pies, 2007)

1.8. Bộ công cụ đánh giá trầm cảm, lo âu

Trong lĩnh vực tâm lý lâm sàng trên thế giới, các trắc nghiệm tâm lý được sử

dụng để đánh giá về rối loạn lo âu và trầm cảm, phương pháp trắc nghiệm tâm lý là

48

công cụ thực hành để lượng hóa các triệu chứng tâm thần, hỗ trợ chẩn đoán lâm

sàng, phát hiện những lệch lạc về trí tuệ và nhân cách mang tính chất tâm bệnh học,

gợi ra phương hướng điều trị và đánh giá kết quả điều trị như thang đánh giá trầm

cảm Beck (Beck Depression Inventory) năm 1961, thang đánh giá trầm cảm của

Hamilton (HDRS – Hamilton Depression Rating Scale), do M.Hamilton giới thiệu

1960. Thang đánh giá lo âu Zung (Zung Self-rated Anxiety Scale) năm 1971, Thang

đánh giá lo âu – trầm cảm – stress DASS (Depression-Anxiety-Stress Scale) năm

1995; Thang GDS được xây dựng để nhận diện các triệu chứng trầm cảm ở bệnh

nhân là người già (Brink TL., 1982; Yesavage JA., 1983).

Thang đo Zung

Thang Đánh giá trầm cảm Zung (SDS) là thang tự đánh giá gồm có 20 đề mục,

được sử dụng rộng rãi trong các nghiên cứu dịch tễ học (Zung, 1965). Một hạn chế

của SDS là cách trả lời tính điểm (không bao giờ, đôi khi, phần lớn thời gian, luôn

luôn), điều này có thể làm bệnh nhân người già nhầm lẫn; do đó, họ cần phải có sự

trợ giúp của trắc nghiệm viên hoặc những người khác để hoàn thành trắc nghiệm.

Một vấn đề khác nữa ở thang đo này là điểm trung bình đối với người già cao hơn

đáng kể so với những người trẻ hơn, điều này dẫn đến nhiều người già bình thường

bị đánh giá thành dương tính giả. Chẳng hạn như, Zung đưa ra ngưỡng điểm phân

loại là 40 đối với trầm cảm với độ nhạy là 88%, nhưng dương tính giả lại có tỉ lệ

44%. Hơn nữa, SDS thường bỏ sót trầm cảm ở người già nếu trầm cảm biểu hiện chủ

yếu bằng các triệu chứng về cơ thể. Do những hạn chế nêu trên nên nhiều tác giả cho

rằng không nên sử dụng SDS trong các nghiên cứu hay đánh giá lâm sàng về trầm

cảm người cao tuổi.

Thang đo CES-D

Thang đo CES-D (Center for epidemiologic studies depression) ra đời năm

1977 của Trung tâm nghiên cứu dịch tễ học thuộc Trung tâm phòng ngừa và kiểm

soát bệnh tật Hoa Kỳ đã được kiểm định và sử dụng ở rất nhiều quốc gia trên thế giới

(Chen, Dunne, & Han, 2004). Thang đo CES-D bao gồm 20 câu hỏi với 4 mức độ về

sự thường xuyên theo cảm nhận của đối tượng trong vòng 1 tuần vừa qua về các triệu

chứng liên quan đến trầm cảm, chẳng hạn như mất ngủ, chán ăn và cảm thấy cô đơn.

49

Các mức độ được quy đổi thành điểm từ 0 đến 3 (0= hiếm khi hoặc không lúc nào, 1

= một số ít thời gian, 2 = phần lớn thời gian, 3 = hầu hết thời gian). Điểm số chạy từ

0 đến 60, lấy điểm cắt 16 để xác định cá nhân có nguy cơ bị trầm cảm, có độ nhạy và

độ đặc hiệu cao.

CES-D là một công cụ sàng lọc cho bệnh trầm cảm đã được kiểm tra trong một

mẫu của 1.005 người cao tuổi tại cộng đồng cư trú (độ tuổi từ 50-96) kết quả cho

thấy thang đo CES-D là thích hợp để sàng lọc trầm cảm ở những người lớn tuổi trong

cộng đồng (Lewinsohn, Seeley, Roberts, & Allen, 1997).

Thang đo HADS

HADS (Hospital Anxiety and Depression Scale) được đề xuất bởi Zigmond và

Snaith vào năm 1983 và sau đó được áp dụng rộng rãi trên thế giới cho kết quả có ý

nghĩa lâm sàng như một công cụ sàng lọc tâm lý, trong các nhóm so sánh lâm sàng

và trong các nghiên cứu tương quan với một số khía cạnh của bệnh và chất lượng

cuộc sống. Nó nhạy cảm với những thay đổi trong quá trình bệnh và đáp ứng với sự

can thiệp tâm lý và tâm sinh lý. Thang đo HADS không dùng để chẩn đoán các bệnh

lý rối loạn tâm thần, nó là mẫu dùng để đánh giá sàng lọc tâm trạng lo âu, trầm cảm

của bệnh nhân không tâm thần, được nhiều trung tâm nghiên cứu trên thế giới sử

dụng vì ngắn gọn, dễ thực hiện trong các trường hợp bệnh nhân nội trú. Thang đo

gồm 14 câu hỏi, trong đó có 7 câu liên quan đến trầm cảm và 7 câu liên quan đến lo

âu, mỗi câu hỏi được xếp loại từ 0 đến 3, cho biết cường độ hoặc tần số của triệu

chứng. Tổng số điểm từ 0 – 42 và 0 – 21 cho mỗi câu. Điểm số càng cao, các triệu

chứng nghiêm trọng hơn (Zigmond và Snaith, 1983).

Thang đo đánh giá rối loạn lo âu Hamilton Axiety Rate Scale (HAMA)

Hamilton anxiety rate scale là thang công cụ dùng để đánh giá mức độ nghiêm

trọng của các triệu chứng lo âu ở trẻ em và người lớn. Nó cũng được sử dụng như là

công cụ đánh giá tác động kết cục của thuốc chống lo âu, các liệu pháp, trị liệu lo âu,

hay là một thước đo tiêu chuẩn trong đánh giá tác dụng các loại thuốc hướng thần.

Thang điểm có tính bình ổn, nhạy cảm cao. Có nhiều bảng cấu trúc và hướng dẫn sử

dụng đã được các nhà tâm lý học trên thế giới phát triển để thuận tiện hơn cho việc

sử dụng thang đo HAMA (Bruss, Gruenberg, Goldstein, & Barber, 1994).

50

Thang đo đánh giá trầm cảm Hamilton Depression Rating Scale (HAMD)

Hamilton Depression Rating Scale được phát triển lần đầu tiên bởi Max

Hamilton năm 1960 là một công cụ do các bác sĩ sử dụng để đánh giá mức độ

nghiêm trọng của triệu chứng trong các rối loạn trầm cảm cũng như là một trong các

biện pháp cho việc thử nghiệm thuốc chống trầm cảm. Thang đo này cũng được sử

dụng rộng rãi cho việc lựa chọn bệnh nhân và theo dõi họ trong các nghiên cứu về

điều trị trầm cảm. Thang HAM-D đã được chứng minh có ích trong việc xác định

mức độ trầm cảm của bệnh nhân trước và sau khi điều trị (Zimmerman, Martinez,

Young, Chelminski, & Dalrymple, 2013).

Thang đo PHQ-9

PHQ-9 là một công cụ tự báo cáo để sàng lọc và tìm kiếm các triệu chứng rối

loạn trầm cảm chính (MDD) và dựa trên Đánh giá chăm sóc về rối loạn tâm thần

được phát triển vào những năm 1990. Bộ công cụ này được sử dụng rộng rãi trong cả

hai mặt lâm sàng và nghiên cứu.

PHQ-9 được phát triển bởi Spitzer, Williams, Kroenke và các đồng nghiệp tại

đại học Colombia, Hoa Kỳ năm 1999 dưới sự tài trợ của tập đoàn dược phẩm Pfizer,

dựa trên các tiêu chuẩn chẩn đoán rối loạn trầm cảm theo DSM–IV. Thang đo này

khá độc đáo ở chỗ nó có chức năng như một công cụ sàng lọc, hỗ trợ chẩn đoán, theo

dõi mức độ trầm cảm tổng thể của bệnh nhân cũng như theo dõi sự cải thiện các triệu

chứng cụ thể với điều trị (Kroenke, Spitzer, & Williams, 2001).

Thang đo DASS 21

Thang đo DASS21 đã được kiểm tra về độ tin cậy và tính giá trị. Kết quả các

nghiên cứu đã báo cáo các ước tính tốt về độ tin cậy (coefficient-α) khoảng từ 0,82

đến 0,97 trong các mẫu thực nghiệm và lâm sàng (Henry và Crawford, 2005). Thang

đo DASS-21 không dùng để chẩn đoán bệnh mà nó chỉ là một công cụ sàng lọc mức

độ của rối loạn lo âu, stress và trầm cảm (Tổ chức Tâm lý học Úc, 2011), thích hợp

cho việc sàng lọc ở nhiều bệnh nhân trong cộng đồng rộng lớn. Điều này làm cho nó

trở thành một thang đo thích hợp trong một phạm vi rộng với các nghiên cứu và

trong lâm sàng.

51

Thang đo DASS-21 (bảng tiếng Anh) đã được chứng minh là có tính thống nhất

nội bộ cao và mang lại sự phân biệt có ý nghĩa trong một loạt các môi trường, thang

đo đáp ứng các nhu cầu của cả các nhà nghiên cứu và các nhà lâm sàng, những người

muốn đo lường trạng thái hiện tại hoặc thay đổi trong trạng thái theo thời gian (ví dụ:

trong quá trình điều trị) về trầm cảm, lo âu, stress.

Hiện nay có rất nhiều thang đo được dùng để đánh giá stress, trầm cảm. Tuy

nhiên hầu hết các thang đo đều là bản tiếng anh, việc áp dụng những bộ công cụ này

cho bệnh nhân tại Việt Nam phải được chuyển giao, chuẩn hóa một cách cẩn thận để

phù hợp với văn hóa từng vùng, từng quốc gia (Tian P. S. Oe 2013). Trong nghiên

cứu này chúng tôi sử dụng thang đo DASS-21 vì thang đo này được dùng phổ biến

tại Việt Nam, và đã được chuẩn hóa để phụ hợp với người dân Việt Nam. (Trần

Thanh Đức, 2013).

Thang đo DASS-21 quy định từ mức độ trầm cảm, lo âu, stress nặng và rất

nặng làm ngưỡng hướng đến chẩn đoán trầm cảm, lo âu, stress cho các bác sĩ lâm

sàng. Tuy nhiên để chẩn đoán xác định bệnh bác sĩ lâm sàng cần kết hợp với các

phương tiện chẩn đoán khác vì DASS không có những tác động trực tiếp đối với việc

phân bổ bệnh nhân đối với các loại chẩn đoán rời rạc được mặc nhiên công nhận

trong hệ thống phân loại như DSM và ICD. Những bệnh nhân có điểm từ mức độ

nặng trở lên được đánh giá là bị trầm cảm, lo âu, stress cần tìm kiếm sự giúp đỡ.

Những bệnh nhân có điểm ở mức độ nhẹ là những người có mức điểm cao hơn trung

bình so với dân số chung nhưng vẫn còn dưới mức độ nghiêm trọng điển hình, tức là

nó không có nghĩa là mức độ nhẹ của rối loạn.

Trong nghiên cứu của chúng tôi chỉ đề cập đến lo âu và trầm cảm nên đã loại

các câu xác định stress ra ngoài bảng hỏi, đề giảm bớt thời gian trả lời bảng hỏi của

người được khảo sát.

52

Tiểu kết Chương 1

Từ cuối thế kỷ XIX các vấn đề về sức khỏe tâm thần và những tổn thương tâm

lý đã được bắt đầu được quan tâm, nghiên cứu. Những nghiên cứu ban đầu chủ yếu

tập trung vào những vấn đề nguyên nhân, triệu chứng lâm sàng của những tổn

thương tâm lý.

Dựa trên quan điểm của nhiều tác giả trong và ngoài nước nghiên cứu về tổn

thương tâm lý, tôi xin tưa ra định nghĩa về tổn thương tâm lý như sau: “tổn thương

tâm lý là những rối nhiễu làm mất cân bằng về mặt tâm lý một cách ngắn hạn (hoặc

dài hạn) của cá nhân được biểu hiện thông qua sự lệch lạc trong đời sống tinh thần,

nhận thức, thái độ, hành vi, lo âu, trầm cảm, v.v… khi cá nhân đã trải qua một hay

nhiều sự kiện có tính chất bất thường ảnh hưởng sự toàn vẹn về mặt thể chất hay tinh

thần làm cho chất lượng cuộc sống của cá nhân ngày càng thấp.”

Trong các biểu hiện của tổn thương tâm lý, ở đề tài này tác giả quan tâm nghiên

cứu hai biểu hiện phổ biến trong xã hội là lo âu và trầm cảm.

53

Chương 2. THỰC TRẠNG TỔN THƯƠNG TÂM LÝ CỦA

BỆNH NHÂN MẤT NGỦ MẠN TÍNH

2.1. Thể thức và phương pháp nghiên cứu tổn thương tâm lý của bệnh nhân mất

ngủ mạn tính

Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả

Địa điểm: Bệnh viện Quận 2, thành phố Hồ Chí Minh

Thời gian: nghiên cứu được tiến hành từ tháng 7 đến tháng 8 năm 2018

Khách thể nghiên cứu: Là Những người bị chứng mất ngủ mạn tính trên địa

bàn thành phố Hồ Chí Minh, khách thể được chọn vào mẫu nghiên cứu là những

người bị chứng mất ngủ mạn tính đến khám tại bệnh viện Quận 2 trong thời gian

diễn ra nghiên cứu.

Tiêu chí chọn chọn mẫu nghiên cứu: Người có độ tuổi từ 18 tuổi trở lên;

Đồng ý tham gia nghiên cứu; Đáp ứng tiêu chuẩn sàng lọc ban đầu dựa trên tiêu

chuẩn DSM-IV

(1) Bệnh nhân có than phiền về giấc ngủ:

 Khó đi vào giấc ngủ

 Khó duy trì giấc ngủ

 Khó ngủ lại khi bắt đầu thức giấc

(2) Thời gian có các than phiền về giấc ngủ kéo dài trên 1 tháng

(3) Không do hiệu quả sinh lý của một số chất (cafe, rượu, bia…)

(4) Bệnh nhân có mệt mỏi hoặc suy giảm hoạt động và ban ngày

(5) Làm suy giảm hoạt động xã hội, nghề nghiệp hoặc trong các lĩnh vực quan

trọng khác

Chứng mất ngủ mạn tính được xác định khi có đầy đủ 4/5 ý trên, tiêu chí (1),

(2) bắt buộc phải có thì mới chọn vào khách thể nghiên cứu

Tiêu chí loại ra mẫu nghiên cứu: Đối tượng không đủ sức khỏe để tham gia

nghiên cứu (người khiếm thính hoặc bị câm, không đủ sức khỏe để giao tiếp, trả lời

câu hỏi); Không trả lời được quá hai phần ba bộ câu hỏi.

54

Cỡ mẫu: Những người đến khám tại khoa khám bệnh và phòng khám bác sĩ

gia đình thuộc bệnh viện quận 2 có than phiền với bác sĩ xuất hiện triệu chứng mất

ngủ thì sẽ được mời tham gia sàng lọc ban đầu dựa trên tiêu chuẩn DSM- IV. Cuối

cùng mẫu chúng tôi thu được là 103 khách thể đáp ứng đủ tiêu chí của nghiên cứu và

đồng ý tham gia nghiên cứu.

Kỹ thuật chọn mẫu: trong nghiên cứu này chúng tôi sử dụng phương pháp

chọn mẫu thuận tiện, quy trình lấy mẫu được tiến hành theo các bước.

Bước 1: Liên hệ và xin phép được thực hiện nghiên cứu đối với lãnh đạo bệnh

viện cũng như lãnh đạo khoa khám bệnh và phòng khám bác sĩ gia đình.

Bước 2: Trao đổi với bác sĩ trong hai khoa khi có người bệnh than phiền mất

ngủ sẽ được giới thiệu và mời tham gia vào nghiên cứu.

Bước 3: Giới thiệu, giải thích rõ mục tiêu, các bước tiến hành của nghiên cứu

với người bệnh, nếu họ đồng ý tham gia nghiên cứu, chúng tôi sẽ lấy mẫu bằng cách

phỏng vấn trực tiếp mặt đối mặt với người bệnh, bằng tiêu chuẩn sàng lọc ban đầu

(dựa trên DSM-IV).

Bước 4: Hoàn thành đầy đủ thông tin trong bộ câu hỏi đối với những người phù

hợp với tiêu chí của sàng lọc ban đầu.

Trên thực tế trong quá trình nghiên cứu chúng ta thường có những sai lệch làm

ảnh hưởng đến kết quả nghiên cứu, do đó để kiểm soát những sai lệch này, trước khi

tiến hành nghiên cứu chính chúng tôi đưa ra những quy trình để hạn chế những sai

lệch:

Kiểm soát sai lệch chọn lựa

- Tuân thủ theo tiêu chí của sàng lọc ban đầu

- Tuân thủ theo tiêu chí chọn vào và tiêu chí loại ra

Kiểm soát sai lệch thông tin

- Định nghĩa biến số rõ ràng

- Tập huấn kỹ lưỡng cho các phỏng vấn viên để đảm bảo không có sự khác biệt

về ý nghĩa các câu hỏi thông qua quá trình diễn đạt. Phỏng vấn đọc và giải thích rõ

ràng từng câu hỏi và giải đáp thắc mắc cho đối tượng nghiên cứu.

55

- Bộ câu hỏi được tiến hành phỏng vấn thử trên 10 người sau đó được chỉnh sửa

lại cho phù hợp.

Định nghĩa biến số: Dựa trên phần cơ sở lý luận tổn thương tâm lý của bệnh

nhân mất ngủ mạn tính, trước khi tiến hành nghiên cứu thực tiễn chúng tôi phải định

nghĩa những biến số có trong nghiên cứu.

Nhóm biến số nền

(1) Giới tính là giới tính sinh học của đối tượng, xác định dựa trên chứng minh

nhân dân. Đây là biến số nhị giá gồm 2 giá trị: Nam và Nữ

(2) Tuổi là biến số định lượng, được tính bằng cách lấy 2018 –năm sinh dương

lịch

(3) Nhóm tuổi là biến số nhị giá gồm 2 giá trị. Sau khi khi xác định tuổi của

đối tượng thì tiến hành phân tuổi của đối tượng và hai nhóm sau: Dưới 60 tuổi và Từ

60 tuổi trở lên

(4) Dân tộc là biến số danh định gồm 3 giá trị: Kinh; Hoa; Khác

(5) Niềm tin tôn giáo là tôn giáo mà đối tượng đang theo, được xác định dựa

trên câu trả lời của đối tượng. Đây là biến số danh định gồm 6 giá trị: Phật giáo;

Thiên chúa giáo; Tin lành; Cao đài/ Hòa hảo; Không theo tôn giáo; Khác.

(6) Trình độ học vấn là biến số thứ tự. Được đánh giá dựa vào trình độ cao

nhất mà đối tượng đạt được tính tới thời điểm thực hiện nghiên cứu, gồm 7 giá trị:

- Dưới tiểu học: là những đối tượng không được đi học hoặc chưa học hết tiểu

học

- Tiểu học: từ lớp 1 đến lớp 5 theo hệ 12 năm hoặc từ lớp 1 đến lớp 4 theo hệ

10 năm. Người được đánh giá là học ở vị trí tiểu học khi họ đã tốt nghiệp tiểu học

(thường được cấp bằng) tiểu học

- Trung học cơ sở: từ lớp 6 đến lớp 9 theo hệ 12 năm hoặc từ lớp 5 đến lớp 7

theo hệ 10 năm. Người được đánh giá hoàn thành mức học trung học cơ sở khi họ đã

tốt nghiệp trường trung học cơ sở (thường được cấp bằng) trung học cơ sở .

- Trung học phổ thông: từ lớp 10 đến lớp 12 theo hệ 12 năm hoặc từ lớp 8 đến

lớp 10 theo hệ 10 năm. Người được đánh giá hoàn thành mức học trung học phổ

thông khi họ đã tốt nghiệp trường trung học phổ thông (thường được cấp bằng) trung

56

học phổ thông.

- Trung cấp/ cao đẳng: bao gồm các đối tượng sau: Những người đã tốt nghiệp

(thường đã được cấp bằng hoặc chứng chỉ) các trường sơ cấp nghề, trung cấp nghề

hoặc cao đẳng nghề; Những người đã tốt nghiệp (thường đã được cấp bằng) bậc

trung cấp chuyên nghiệp; Những người đã tốt nghiệp cao đẳng (thường đã được cấp

bằng cử nhân cao đẳng)

- Đại học: những người đã tốt nghiệp đại học (thường đã được cấp bằng cử

nhân đại học)

- Sau đại học: những người đã tốt nghiệp (được cấp học vị) thạc sĩ, tiến sĩ.

(7) Bệnh lý đi kèm là biến số danh định, đã và đang được bác sĩ chẩn đoán

hoặc đang điều trị, gồm 8 giá trị: Tăng huyết áp; Rối loạn Lipid máu; Đái tháo

đường; Bệnh phổi; Cơ, xương, khớp; Bệnh gan, thận; Ung thư; Khác.

(8) Số bệnh cùng mắc là biến số nhị giá gồm 2 giá trị, được xác định dựa trên

chẩn đoán bệnh lý kèm theo của bác sĩ:

- Một bệnh: khi được chẩn đoán có một bệnh lý kèm theo

- Nhiều hơn một bệnh: được chẩn đoán có nhiều hơn một bệnh lý kèm theo

(9) Thời gian mất ngủ: được tính bằng năm. Đối với những câu trả lời có

tháng sẽ được chia cho 12 để quy đổi ra năm, lấy sau dấu phẩy một đơn vị. Sau đó

được chia thành từng khoảng thời gian dưới đây: dưới 1 năm; từ 1 đến 5 năm; trên 5

năm.

(10) Mức độ mất ngủ: là biến danh định, được xác định dựa trên sự cảm nhận

của bệnh nhân về mức độ mất ngủ của chính mình, theo các mức độ dưới đây: không

biết; bình thường; nhẹ; nặng; rất nặng.

(11) Cảm thấy kết quả điều trị: được đánh giá dựa trên cảm nhận của người

trả lời. Là biến số nhị giá gồm 2 giá trị: có thuyên giảm; không thuyên giảm (bao

gồm những người cảm thấy kết quả không thay đổi nhiều hoặc ngày càng nặng

thêm).

(12) Tình trạng làm việc là tình trạng việc làm của đối tượng tại thời điểm

điều tra. Đây là biến số nhị giá gồm 2 giá trị, được xác định dựa trên câu trả lời của

đối tượng.

57

- Đang đi làm: tất cả những người từ 18 tuổi trở lên, trong thời gian 07 ngày có

làm bất cứ việc gì (không bị pháp luật cấm) từ 01 giờ trở lên để tạo ra sản phẩm hàng

hóa hoặc cung cấp dịch vụ. Hoặc những người không làm việc trong tuần nghiên cứu

nhưng đang có một công việc và vẫn gắn bó chặt chẽ với công việc đó.

- Không đi làm: bao gồm những người không có hoạt động kinh tế và người

đang thất nghiệp.

 Người thất nghiệp: Định nghĩa thất nghiệp căn cứ vào ba tiêu chuẩn sau: hiện

không làm việc; đang tìm kiếm việc làm và sẵn sàng làm việc. Các yếu tố này được

thỏa mãn đồng thời. Người thất nghiệp là người trong tuần nghiên cứu (07 ngày)

không làm việc, nhưng đã có những bước đi cụ thể để tìm việc làm và sẵn sàng làm

việc. Những người không làm việc, sẵn sàng/ có nhu cầu làm việc nhưng trong 07

ngày không tìm được việc.

 Người không có hoạt động kinh tế: là những người không làm việc và cũng

không phải là người thất nghiệp trong tuần nghiên cứu (07 ngày).

(13) Nghề nghiệp là biến số danh định gồm 7 giá trị: buôn bán; tự do; công ty

tư nhân; công nhân viên chức; doanh nghiệp nước ngoài; nghỉ hưu; nghỉ sớm do lao

động mất sức.

(14) Nguồn thu nhập khác khi không đi làm là biến số nhị giá có 2 giá trị: Có

(khi người này không đi làm nhưng vẫn được hưởng trợ cấp từ xã hội, từ người thân

hoặc lương hưu); Không.

(15) Kinh tế gia đình là biến số nhị giá được đánh giá dựa vào cảm nhận của

đối tượng nghiên cứu, gồm 2 giá trị: Nghèo/ cận nghèo; Từ mức trung bình trở lên:

bao gồm các mức trung bình, khá giả, giàu có

(16) Tình trạng hôn nhân là biến số danh định gồm 3 giá trị:

- Độc thân: chưa từng kết hôn theo quy định pháp luật tính đến thời điểm tham

gia nghiên cứu.

- Hôn nhân không đổ vỡ: đã đăng ký kết hôn và được công nhận theo quy định

của pháp luật

- Hôn nhân tan vỡ bao gồm các trường hợp sau:

 Ly hôn: đã hoàn tất thủ tục ly hôn theo pháp luật Việt Nam

58

 Ly thân: đã kết hôn nhưng không còn sống chung như vợ/ chồng và

chưa hoàn tất thủ tục ly hôn

 Góa: đã kết hôn có vợ/ chồng nhưng vợ/ chồng đã mất

(17) Sống chung là biến số nhị giá gồm 2 giá trị:

Sống một mình

Sống với người thân là những đối tượng sống chung với một hoặc nhiều người

thân trong các trường hợp sau: Sống chung với chồng/ vợ; Sống cùng với con/cháu;

Sống chung với ba mẹ ruột; Sống chung với ba mẹ chồng/ vợ; Sống chung với anh

chị em; Sống với những người khác

(18) Mối quan hệ trong gia đình là biến số danh định gồm 4 giá trị: mâu

thuẫn; bất đồng quan điểm nhưng giải quyết được; hòa thuận/hạnh phúc; khác.

(19) Chăm sóc từ người thân, bạn bè là biến số nhị giá gồm hai giá trị: Có;

Không

(20) Quan tâm thăm hỏi/ động viên từ người thân, bạn bè là biến số nhị giá

gồm 2 giá trị: Có; Không

(21) Hỗ trợ chi phí điều trị từ người thân, bạn bè là biến số nhị giá gồm 2

giá trị: Có; Không

(22) Quan tâm, hỗ trợ từ người thân, bạn bè là biến số nhị giá gồm 2 giá trị:

Có (khi có từ một trong ba giá trị là chăm sóc, quan tâm thăm hỏi/ động viên và hỗ

trợ chi phí điều trị từ người thân, bạn bè mang giá trị có); Không: khi giá trị là thờ ơ

bỏ mặc

(23) Số lần sử dụng thuốc ngủ là biến số nhị giá, được tính trong một tuần cả

cả thuốc ngủ được kê đơn và thuốc ngủ tự mua để dùng. Gồm 2 giá trị: Từ 3 lần/

tuần trở xuống; Trên 3 lần/tuần.

(24) Số giờ ngủ thực tế là biến số định lượng, được tính bằng cách quy đổi ra

giờ. Số phút sẽ được chia 60 để quy đổi ra giờ lấy sau dấu phẩy một chữ số.

(25) Mức độ lo lắng về giấc ngủ là biến số nhị giá gồm 2 giá trị. Đước đánh

giá dựa trên cảm nhận của đối tượng nghiên cứu, khi khảo sát được chia làm 4 mực

độ, nhưng khi phân tích được gộp lại thành 2 giá trị như bên dưới: Không lo lắng/ lo

lắng một chút; Lo lắng nhiều/ lo lắng rất nhiều.

59

(26) Ảnh hưởng của vấn đề giấc ngủ là biến số nhị giá gồm 2 giá trị, xác định

dựa trên cảm nhận của bệnh nhân về mức độ ảnh hưởng của vấn đề về giấc ngủ ảnh

hưởng như thế nào đối với sức khỏe, sinh hoạt thường ngày, tinh thần của bệnh nhân.

Khi hỏi được chia làm 5 mức độ, nhưng khi phân tích dữ liệu thì được gộp lại thành

hai giá trị như bên dưới:

- Không ảnh hưởng/ ảnh hưởng một ít/ ảnh hưởng không nhiều

- Ảnh hưởng nhiều/ ảnh hưởng rất nhiều

Nhóm biến số kết cuộc

Thang đo DASS21: gồm 21 câu được chia làm ba phần đánh giá tình trạng lo

âu, trầm cảm và stress. Dựa vào mục tiêu của nghiên cứu tác giả đã lọc ra 14 câu

dùng để đánh giá lo âu và trầm cảm trên bệnh nhân có chứng mất ngủ mạn tính.

Điểm số từng câu được tính như sau:

0: Không đúng chút nào cả

1: Thỉnh thoảng mới đúng

2: Phần lớn thời gian là đúng

3: Hầu hết thời gian là đúng

Điểm số lo âu: được tính bằng cách cộng điểm 7 câu B1, B3, B5, B6, B9, B12,

B13

Điểm số trầm cảm: được tính bằng cách cộng điểm 7 câu B2, B4, B7, B8, B10,

B11, B14

Trầm cảm: là biến số nhị giá gồm 2 giá trị:

Có: có điểm số trầm cảm ở mức nặng tới rất nặng tương đương với mức điểm

từ 11 điểm trở lên

Không: các mức độ còn lại

Lo âu: là biến số nhị giá gồm 2 giá trị:

Có: điểm số lo âu ở mức nặng tới rất nặng tương đương với mức điểm từ 8

điểm trở lên

Không: các mức độ còn lại

2.2. Thực trạng chung về tổn thương tâm lý của bệnh nhân mất ngủ mạn tính

Chúng tôi sàng lọc khách thể từ những bệnh nhân đến khám tại khoa khám

60

bệnh và phòng khám bác sĩ gia đình của bệnh viên Quận 2 bằng các tiêu chuẩn chẩn

đoán mất ngủ mạn tính từ DSM IV, làm tiêu chuẩn chọn vào những bệnh nhân đang

có vấn đề về giấc ngủ mang tính mạn tính. Rồi sau đó nhóm khách thể được phỏng

vấn trực tiếp mặt đối mặt để khảo sát những yếu tố liên quan và sử dụng thang đo

DASS 21 để sàng lọc mức độ trầm cảm lo âu, với chỉ số thống nhất nội bộ

cronbach’s alpha bằng 0,87. Chúng tôi đã sàng lọc được tổng số 103 người đủ điều

kiện và đồng ý tham gia vào nghiên cứu, thời gian tiến hành lấy mẫu từ tháng 7 đến

tháng 8 năm 2018, chúng tôi ghi nhận kết quả như sau:

2.2.1. Đánh giá chung thực trạng lo âu, trầm cảm ở bệnh nhân mất ngủ

mạn tính

Bảng 2.1. Đánh giá chung mức độ lo âu trầm cảm

Trầm cảm Lo âu Mức độ % Tích lũy % Tích lũy n (%) n (%)

60,2 44 (42,7) 42,7 Bình thường 62 (60,2)

13 (12,6) 72,8 19 (18,5) 61,2 Nhẹ

14 (13,6) 86,4 11 (10,7) 71,9 Vừa

8 (7,8) 94,2 12 (11,6) 83,4 Nặng

6 (5,8) 100 17 (16,5) 100 Rất nặng

103 103 Tổng

Trong nghiên cứu chúng tôi không tiến hành nghiên cứu mức độ lo âu và trầm

cảm. Chúng tôi phân chia mức độ trầm cảm, lo âu dựa vào bảng phân chia mức độ

trầm cảm, lo âu theo quy định của thang đo DASS-21 trầm cảm là 11, lo âu là 8.

Chúng tôi dựa trên các điểm cắt từ thang đo DASS-21 với các điểm cắt để xác

định mức độ lo âu, trầm cảm cụ thể: mức độ lo âu bình thường có tổng điểm tích lũy

từ 0-3 điểm, mức độ lo âu nhẹ 4-5, mức độ lo âu vừa 6-7, mức độ nặng 8-9, mức độ

rất nặng ≥ 10. Mức độ trầm cảm bình thường 0-4, mức độ trầm cảm nhẹ 5-6, mức độ

trầm cảm vừa 7-10, mức độ trầm cảm nặng 11-13, mức độ trầm cảm rất nặng ≥ 14.

Những bệnh nhân có mức độ trầm cảm lo âu bình thường có nghĩa là bệnh nhân

không bị lo âu, trầm cảm, những bệnh nhân có mức độ lo âu, trầm cảm nặng trở lên

61

được xác định là có lo âu, trầm cảm. Trong nghiên cứu của chúng tôi sẽ lấy điểm cắt

11 cho thang trầm cảm, và 8 cho thang lo âu là những bệnh nhân đang ở mức độ

nghiêm trọng điển hình của một người cần được sự trợ giúp, tương ứng với mức độ

nặng và rất nặng. Nhưng bệnh nhân có lo âu trầm cảm ở mức độ nhẹ và vừa có nghĩa

là bệnh nhân đang bị lo âu trầm cảm cao hơn trung bình dân số nhưng vẫn còn dưới

mức độ nghiêm trọng cần đến sự giúp đỡ.

Kết quả từ nghiên cứu của chúng tôi ghi nhận: phần lớn bệnh nhân bình

thường, không có lo âu, trầm cảm chiếm tỉ lệ cao nhất lần lượt là 44 (42,7%) và 62

(60,2%), tỉ lệ bệnh nhân có lo âu

Bảng 2.2. Tỉ lệ trầm cảm, lo âu.

Rối loạn Có n (%) Không n (%)

Trầm cảm 14 (13,6) 89 (86,4)

Lo âu 29 (28,2) 74 (71,8)

Cả hai 12 (11,6) 91 (88,4)

Trong nghiên cứu của chúng tôi tỉ lệ trầm cảm phát hiện được là 14 (13,6%), tỉ

lệ lo âu 29 (28,2%), và có 12 (11,6%) kết hợp cả trầm cảm và lo âu.

Biểu đồ 2.1. Mối tương quan rối loạn lo âu và trầm cảm

62

Kiểm tra tương quan r (pearson) cho biến số định lượng, cụ thể trong thang đô

mức độ trầm cảm, lo âu, stress (DASS-21) của khách thể nghiên cứu. Kết quả nghiên

cứu cho thấy hệ số tương quan giữa điểm rối loạn lo âu và điểm trầm cảm là 0,7.

Điều này chứng mình được rằng rối loạn lo âu và trầm cảm có tương quan ở mức độ

mạnh.

2.3. Mô tả đặc điểm khách thể nghiên cứu

Bảng 2.3. Đặc tính thông tin cá nhân

Đặc điểm Tần số Tỉ lệ %

Giới tính

26 77 Nam Nữ 25,2 74,8

Trung bình ± ĐLC 57,8 ± 11,3

Tuổi * Nhóm tuổi

60 tuổi trở xuống Trên 60 62 41 60,2 39,8

Dân tộc

103 0 0 100 0 0

Kinh Hoa Khác Niền tin tôn giáo

68 19 0 6 10 Phật giáo Thiên chúa giáo Tin lành Cao đài/hồi giáo Thờ cúng ông bà 66,0 18,5 0 5,8 9,7

Trình độ học vấn

27 27 26 16 4 3 0 Biết đọc biết viết Tiểu học Trung học cơ sở Trung học phổ thông Trung cấp/cao đẳng Đại học Sau đại học 26,2 26,2 25,2 15,5 3,9 2,9 0

63

Biểu đồ 2.2. Tuổi trung bình khách thể nghiện cứu

Từ ngày 1/8/2018 đến ngày 20/8/2018, nghiên cứu đã được thực hiện lấy mẫu

trên các bệnh nhân đến khám tại Khoa khám bệnh và Phòng khám bác sĩ gia đình

bệnh viện Quận 2. Kết quả ngẫu nhiên đã thu về được 103 mẫu nghiên cứu, tương

ứng với 103 đối tượng nghiên cứu. Trong tổng số đối tượng nghiên cứu, phần lớn các

đối tượng nghiên cứu là nữ, chiếm tới 74,8%. Độ tuổi trung bình của đối tượng

nghiên cứu là 57,8 tuổi, dao động trong khoảng ±11,3 và nhóm tuổi dưới 60 tuổi

chiếm nhiều hơn những người thuộc nhóm tuổi trên 60 tuổi. Tất cả những người

tham gia nghiên cứu đều là dân tộc kinh và đa số họ có niềm tin vào phật giáo chiếm

nhiều nhất với 66%, sau đó là công giáo 19%, không có ai thuộc đạo tin lành.

Các đối tượng có độ tuổi trung bình là 57,8 tuổi nên phần lớn họ chịu ảnh

hưởng của nền giáo dục từ những năm 1955 đến 1975, nền giáo dục bị ảnh hưởng

nặng nề bởi chiến tranh và sau giải phóng đất nước. Điều này thể hiện rõ ở trình độ

học vấn ở các phân nhóm như biết đọc biết viết, tiểu học và trung học học cơ sở gần

như tương đương nhau chiếm 77,6 % khách thể nghiên cứu, trình độ trung cấp/cao

đẳng cho đến đại học chiểm tỉ lệ thấp 6,8%.

64

Bảng 2.4. Đặc điểm hôn nhân gia đình của khách thể nghiên cứu

Đặc điểm Tần số Tỉ lệ (%)

Tình trạng hôn nhân

Độc thân 7 6,8

Lập gia đình 65 63,1

Ly hôn 9 8,7

Ly thân 3 2,9

Vợ hoặc chồng mất 19 18,5

Tình trạng sống chung

Sống 1 mình 9 8,7

Sống với vợ/ chồng 64 62,1

Sống với con cái 82 79,6

Sống với ba mẹ ruột 3 2,9

Sống với ba mẹ chồng/vợ 0 0

Sống với anh/chị/ em 2 1,9

Mối quan hệ trong gia đình

Mẫu thuẫn 11 10,7

10 9,7 Bất đồng nhưng giải quyết được

Hòa thuận/hạnh phúc 82 79,6

53 51,5 Chăm sóc

70 68,0 Quan tâm, động viên

43 41,8 Hỗ trợ kinh tế

11 10,7 Thờ ơ/bỏ mặc

Trong nghiên cứu chúng tôi đã khảo sát được trên 103 khách thể trong đó đa

phần đã lập gia đình 65 (63,1%), trong đó số người đổ vỡ trong hôn nhân hiện ly

65

thân và ly hôn lần lượt là 3 (2,9%) và 9 (8,7%). Do đa phần khách thể đã lập gia đình

nên phần lớn họ sống chung với vợ chồng, sống chung với con cái với tỉ lệ lần lượt là

64 (62,1%) và 82 (79,6%) điều này hoàn toàn phù hợp với văn hóa của người Việt

Nam, khi rất xem trọng gia đình, và thường thì gia đình Việt Nam sẽ có 2 hoặc 3 thế

hệ cùng chung sống. Và cũng có 82 người chiếm 79,6% được khảo sát và cho biết họ

đang sống trong một gia đình hòa thuận/hạnh phúc.

Bảng 2.5. Đặc điểm kinh tế nghề nghiệp của khách thể nghiên cứu

Đặc điểm Tần số Tỉ lệ (%)

Tình trạng việc làm

Không đi làm 52 49,5

Có đi làm 51 50,5

Nghề nghiệp

Buốn bán 19 37,3

Tự do 24 47,1

Công ty tư nhân 5 9,8

Công nhân viên chức 1 1,9

Nghĩ hưu 2 3,9

Kinh tế

Giàu có 2 2,0

Khá giả 16 15,5

Trung bình 78 75,7

Cận nghèo 4 3,9

nghèo 3 2,9

Trong mẫu khảo sát có 52 (49,5%) cho biết là họ hiện không đi làm, và cũng có

51 người (50,5%) hiện tại họ đang đi làm, với 24 người (47,1%) đang làm công việc

66

tự do như phụ hồ, chăn nuôi, hay giúp việc nhà. Có 19 người (37,3%) làm công việc

buôn bán tại gia. Và họ cho biết cảm nhận của họ về kình tế của gia đình mình hiện

tại như thế nào thì có 78 người (75,7%) cho rằng kinh tế mình dang ở mức trung

bình, có 16 người chiếm 15,5% cho rằng kinh tế ở mức khá giả.

Bảng 2.6. Đặc điểm chứng mất ngủ của khách thể nghiên cứu

Đặc điểm Tần số Tỉ lệ (%)

Sử dụng thuốc ngủ

Không 50 48,5

1 lần/tuần 13 12,6

1-3 lần/tuần 8 7,8

Trên 3 lần/tuần 32 31,1

3,7 ± 1,3 Thời gian ngủ thực tế (giờ)*

Lo lắng về vấn đề giấc ngủ

Không lo lắng 38 36,9

Lo lắng 1 chút 28 27,2

Lo lắng nhiều 30 29,1

Lo lắng rất nhiều 7 6,8

Mức độ ảnh hưởng mất ngủ đến hoạt động

Không ảnh hưởng 28 27,2

Ảnh hưởng một ít 31 30,1

Ảnh hưởng không nhiều 9 8,7

Ảnh hưởng nhiều 34 33,0

Ảnh hưởng rất nhiều 1 1,0

*: Trung bình ± Độ lệch chuẩn

67

Biểu đồ 2.3. Thời gian trung bình ngủ thực tế của khách thể

Tất cả các khách thể được chọn vào mẫu đều đang có chứng mất ngủ kéo dài

trên một tháng, trong đó có hơn một phần hai số khách thể có sử dụng thuốc ngủ để

hỗ trợ cho giấc ngủ của mình với liều dùng lần lượt là 1 lần/tuần, 1-3 lần/tuần, Trên 3

lần/tuần lần lượt là 28 (27,2%), 30 (29,1%), 7 (6,8%).

Bảng 2.7. Đặc điểm bệnh đồng mắc của khách thể nghiên cứu

Đặc điểm Tần số Tỉ lệ (%)

Bệnh lý

Tăng huyết áp 44 42,7

Rối loạn lipid máu 26 25,2

Đái tháo đường 35 34,0

Bệnh phổi 0 0

Cơ xương khớp 18 17,5

Bệnh gan, thận 5 4,9

Ung thư 1 1

Số bệnh cùng mắc

Một bệnh 65 63,1

Nhiều hơn một bệnh 38 36,9

68

Kết quả cho thấy nhóm khách thể được chọn hiện đang mắc các căn bệnh kèm

theo như tăng huyết áp 44 (42,7%), đái tháo đường 35 (34,0%), rối loạn lipid 26

(25,2%), cơ xương khớp 18 (17,5%), bệnh gan/thận 5 (4,9%), ung thư 1 (1%), trong

đó số người có kèm theo nhiều hơn một bệnh là 38 (36,9%). Tất cả khách thể trong

mẫu nghiên cứu đều mắc ít nhất một bệnh lý kèm theo, họ có những than phiền về

mặt thể chất, sự khó khăn trong việc điều trị những bệnh mạn tính.

Bảng 2.8. Tự đánh giá cảm nhận của khách thể về tình trạng bệnh

Đặc điểm Tần số Tỉ lệ (%)

Mức độ đánh giá mất ngủ

Không biết 5 4,8

Nhẹ 35 34,0

Trung bình 32 31,1

Nặng 27 26,2

Rất nặng 4 3,9

Cảm nhận kết quả điều trị

Có thuyên giảm 80 77,6

Kết quả không đổi nhiều 22 21,4

Ngày càng nặng thêm 1 1,0

Những khách thể tự đánh giá mức độ mất ngủ của mình cho thấy rằng phần lớn

cho rằng dừng ở mức độ trung bình 32 người (31,1%), và nhẹ 35 người (34,0%) trên

tổng số mẫu nghiên cứu. Bệnh nhân được điều trị tại bệnh viện với các căn bệnh hiện

tại mình đang mắc, vào được hỏi ông/bà có cảm nhận về kết quả điều trị của mình

như thế nào thì có 80 người (77,6%) cho rằng kết quả điều trị có thuyên giảm, có 22

người (21,4%) kết quả không đổi nhiều, và có 1 bệnh nhân (1%) trả lời kết quả điều

trị ngày càng nặng.

69

2.4. Mối liên quan giữa trầm cảm, lo âu với các yếu tố liên quan

2.4.1. Mối liên quan trầm cảm lo âu với đặc điểm hôn nhân gia đình

Bảng 2.9. Mối liên quan giữa trầm cảm với đặc điểm hôn nhân gia đình

Trầm cảm n (%) Giá trị Đặc tính PR (KTC 95%) p Có không

Tình trạng hôn nhân

Hôn nhân không đổ vỡ 8 (9,5) 76 (90,5) 1

Độc thân 1 (14,3) 6 (85,7) 0,702 1,5 (0,19-12,0)

Hôn nhân đổ vỡ 5 (41,7) 7 (58,3) 4,37 (1,43-13,4) 0,01

Tình trạng sống chung

Sống với người thân 10 (10,6) 84 (89,4) 0,24 (0,09-0,61) 0,05

Sống một mình 4 (44,4) 5 (55,6) 1

Mối quan hệ gia đình

Hòa thuận/hạnh phúc 6 (7,32) 76 (92,7) 1

Bất đồng nhưng giải quyết

1 (10,0) 9 (90,0) 0,76 1,37 (0,18-10,32)

Mâu thuẫn 7 (63,6) 4 (36,4) 8,70 (3,44-21,28) <0,001

Quan tâm hỗ trợ từ gia

đình

Có 7 (8,1) 79 (91,9) 0,20 (0,08-0,49) 0,002

Không 7 (41,2) 10 (58,8) 1

70

Bảng 2.10. Mối liên quan giữa lo âu với đặc điểm hôn nhân gia đình

Lo âu n (%) Giá trị PR (KTC 95%) Đặc tính p Có không

Tình trạng hôn nhân

Hôn nhân không đổ vỡ 19 (22,6) 65 (77,4) 1

Độc thân 3 (42,9) 4 (57,1) 0,186 1,89 (0,56-6,40)

Hôn nhân đổ vỡ 7 (58,3) 5 (41,7) 2,58 (1,08-6,13) 0,03

Tình trạng sống chung

Sống với người thân 24 (25,5) 70 (74,5) 0,113 0,46 (0,23-0,91)

Sống một mình 5 (55,6) 4 (44,4) 1

Mối quan hệ gia đình

Hòa thuận/hạnh phúc 17 (20,7) 65 (79,3) 1

Bất đồng nhưng

3 (30,0) 7 (70,0) 0,555 1,45 (0,42-4,93) giải quyết

Mâu thuẫn 9 (81,8) 2 (18,2) 3,95 (1,75-8,85) <0,001

Sự quan tâm hỗ trợ từ

gia đình

Có 19 (22,1) 67 (77,9) 0,38 (0,21-0,65) 0,002

Không 10 (58,8) 7 (41,2) 1

Nhìn chung, những bệnh nhân mất ngủ mạn tính mà có trục trặc trong gia đình

thì họ có nguy cơ mắc phải trầm cảm hoặc lo âu nhiều hơn so với những người có

cuộc sống hôn nhân không đỗ vở, cụ thể như sau:

Khi xém xét tình trạng hôn nhân ảnh hưởng đến lo âu trầm cảm, nếu lấy tình

trạng “hôn nhân không đỗ vở” làm mốc để so sánh thì kết quả nghiên cứu cho thấy

71

những bệnh nhân có “hôn nhân đổ vỡ” có nguy cơ bị trầm cảm gấp 4,37 và nguy cơ

bị lo âu gấp 2,58. Điều này cho thấy rằng tình trạng hôn nhân có ảnh hưởng đến lo âu

trầm cảm, trong đó hôn nhân đổ vỡ bao gồm ly thân, ly dị là yếu tố nguy cơ dẫn đến

lo âu trầm cảm.

Về tình trạng sống chung với người thân, nếu lấy tình trạng đang “sống một

mình” làm yếu tố so sánh, thì ta thấy có sự liên quan có ý nghĩa thống kê, những

bệnh nhân hiện đang “sống cùng với người thân” tỉ lệ mắc trầm cảm giảm 76% so

với người hiện đang “sống một mình”. Những người sống một mình họ cũng chia sẻ

rằng: khi sống một mình, họ cũng phải tự kiếm tiền để lo cho bản thân, không có ai

trợ giúp về kinh tế, ốm đau hoặc bệnh tật cũng ít người quan tâm, chăm sóc, đặc biệt

họ lo lắng là không ai nương tựa khi về già.

Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng ghi nhận mối quan hệ trong gia đình

của bệnh nhân, và được phân thành ba dạng “hòa thuận hạnh phúc” “bất đồng quan

điểm nhưng giải quyết được” “mâu thuẫn”. Nếu lấy “hòa thuận hạnh phúc” làm mốc

so sánh thì chúng tôi nhân thấy những bệnh nhân có mối quan hệ gia đình “mâu

thuẫn” có nguy cơ mắc trầm cảm gấp 8,7 lần (p<0,001) và nguy cơ lo âu gấp 3,95

lần (p<0,001) so với nhóm gia đình có mối quan hệ hòa thuận hạnh phúc.

Từ kết quả trên ta thấy được gia đình có một vị trí quan trọng trong đời sống

tâm lý của mỗi cá nhân. Trong cuộc sống, gia đình đóng vai trò vô cùng quan trọng

là nơi các thành viên sống chân thành với nhà, san sẻ lòng yêu thương, niềm vui, là

điểm tựa vững chắc nhất những lúc gặp khó khắn, hay thất bại trong cuộc sống.

72

2.4.2. Mối liên quan trầm cảm, lo âu với dặc điểm kinh tế

Bảng 2.11. Mối liên quan trầm cảm với đặc điểm kinh tế.

Trầm cảm n (%) Giá trị Đặc tính PR (KTC 95%) p Có không

Tình trạng việc làm

Có đi làm 9 (17,6) 42 (82,4) 0,26 1,83 (0,66-5,1)

Không đi làm 5 (9,6) 47 (90,4) 1

Tự đánh giá Kinh tế

Cận nghèo/nghèo 4 (57,1) 3 (42,9) 5,48 (2,3-13,1) <0,001

Trung bình trở lên 10 (10,4) 86 (89,6) 1

Bảng 2.12. Mối liên quan giữa lo âu với đặc điểm kinh tế.

Lo âu n (%) Giá trị Đặc tính PR (KTC 95%) p Có không

Tình trạng việc làm

Có đi làm 15 (29,4) 36 (70,6) 0,78 1,09 (0,59-2,02)

Không đi làm 14 (26,9) 38 (73,1) 1

Tự đánh giá Kinh tế

Cận nghèo/nghèo 3 (42,9) 4 (57,1) 0,37 1,58 (0,63-3,96)

Trung bình trở lên 26 (27,1) 70 (72,9) 1

73

Tỷ lệ bị trầm cảm ở nhóm khách thể nghiên cứu có nhận xét về hoàn cảnh

kinh tế gia đình của mình ở mức cận nghèo/ nghèo cao gấp 5,48 lần so với nhóm

khách thể nghiên cứu cho rằng hoàn cảnh kinh tế của mình từ mức trung bình trở lên

KTC 95% từ 2,3 đến 13,1 sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,001. Kết quả

nghiên cứu này phù hợp với kết quả nghiên cứu của tác giả Hoàng Thị Tuấn Tình

(2017) tại bệnh viện Quận 2, Lý Thị Phương Hoa (2010) ở bệnh viện Nguyên Tri

Phương. Như vậy, chúng ta có thể thấy kinh tế cận nghèo/nghèo là một yếu tố nguy

cơ dẫn đến trầm cảm. Những người có tình trạng kinh tế nghèo hoặc cận nghèo thì

tình trạng kinh tế gia đình của họ bình thường đã không tốt, bản thân họ thì không

làm được tiền dẫn đến mặc cảm tự ti vào bản thân, kèm theo đó là phải tốn chi phí

điều trị các bệnh khác làm cho kinh tế gia đình ngày càng khó khăn, càng làm cho họ

trở nên lo lắng, chán nản vì thế đây có thể là nguyên nhân dẫn đến nguy cơ trầm cảm

cao hơn so với nhóm khách thể có cảm nhận về tình trạng kinh tế ở mức trung bình

trở lên. Bệnh nhân N.T.N ID-35, nữ cho biết “đôi khi tôi cảm thấy mình không đáng

làm người, khi không lo được cho con cái miếng ăn, cái mặc”.

2.4.3. Mối liên quan giữa trầm cảm lo âu với đặc điểm mất ngủ

Bảng 2.13. Mối liên quan giữa trầm cảm với đặc điểm mất ngủ

Đặc tính PR (KTC 95%) Giá trị p Trầm cảm n (%) không Có

Sử dụng thuốc ngủ

Trên 3 lần/tuần 9 (28,1) 23 (71,9) 4 (1,45-10,97) 0,004

5 (7,0) 66 (93,0) 1

Từ 3 lần trở xuống/tuần Lo lắng về vấn đề giấc ngủ Lo lắng nhiều/rất nhiều 10 (27,0) 27 (73,0) 4,46 (1,50-13,23) 0,002

4 (6,1) 62 (93,9) 1

Lo lắng 1 chút/không lo Mức độ ảnh hưởng hoạt động

12 (34,3) 23 (65,7) 11,7 (2,76-49,22) <0,001

2 (2,9) 66 (97,1) 1 Ảnh hưởng nhiều/rất nhiều Ảnh hưởng không nhiều/ít/không

74

Bảng 2.14. Mối liên quan giữa lo âu với đặc điểm giấc ngủ

Lo âu n (%) Giá trị Đặc tính PR (KTC 95%) p Có không

Sử dụng thuốc ngủ

Trên 3 lần tuần 13 (40,6) 19 (59,4) 0,06 1,8 (0,99-3,29)

Dưới 3 lần tuần 16 (22,5) 55 (77,5) 1

Lo lắng về vấn đề giấc ngủ

Lo lắng nhiều/rất nhiều 19 (51,4) 18 (48,6) <0,001 3,39 (1,77-6,50)

Lo lắng 1 chút/không lo 10 (15,2) 56 (84,8) 1

Mức độ ảnh hưởng hoạt động

Ảnh hưởng nhiều/rất

19 (54,3) 16 (45,7) <0,001 3,69 (1,93-7,01) nhiều

Ảnh hưởng không

10 (14,7) 58 (85,3) 1 nhiều/ít/không

Kết quả nghiên cứu của chúng tôi ghi nhận mối liên quan giữa việc sử dụng

thuốc ngủ với trầm cảm (p=0,004). Những người có sử dụng thuốc ngủ trên 3 lần/

tuần thì có tỷ lệ bị trầm cảm cao gấp 4 lần so với những người sử dụng thuốc với số

lần từ 3 lần trở xuống trong tuần, khoảng tin cậy 95% từ 1,45 đến 10,97.

Những người lo lắng ở mức độ nhiều/ rất nhiều về giấc ngủ thì có tỷ lệ bị trầm

cảm cao gấp 4,46 lần và tỷ lệ bị lo âu gấp 3,39 so với những người không lo hoặc lo

một chút về vấn đề giấc ngủ.

Kết quả nghiên cứu tìm thấy được sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,001)

giữa 2 nhóm khách thể tự đánh giá mức độ ảnh hưởng của mất ngủ đến các hoạt

động sinh hoạt và các mối quan hệ xã hội của họ với tỷ lệ trầm cảm, cụ thể. Nhóm

khách thể nhận xét là mất ngủ ảnh hưởng nhiều/rất nhiều đến các hoạt động sinh

hoạt, mối quan hệ xã hội của họ trong ngày có nguy cơ trầm cảm gấp 11,7 lần và có

75

nguy cơ lo âu gấp 3,69 lần so với nhóm khách thể cho rằng mức độ ảnh hưởng của

mất ngủ chỉ dừng ở mức không nhiều/ít/không.

Những bệnh nhân đang mắc phải chứng mất ngủ mạn tính thường rơi vào tình

trạng cáu kỉnh, lo âu, chán nản có có nguy cao dẫn đến rối loạn lo âu, trầm cảm. Ảnh

hưởng trực tiếp đến hoạt động giao tiếp với gia đình, bạn bè, đồng nghiệp và những

vấn đền trên tác động ngược lại khiến mất ngủ có xu hướng tăng nặng, trở thành mạn

tính.

2.4.4. Mối liên quan giữa trầm cảm, lo âu với đặc bệnh đồng mắc

Bảng 2.15. Mối liên quan trầm cảm với đặc điểm bệnh đồng mắc

Trầm cảm n (%) Giá trị Đặc tính PR (KTC 95%) p Có không

Các bệnh khác

Mắc nhiều bệnh 5 (13,2) 33 (86,8) 1,00 0,95 (0,34-2,63)

Mắc 1 bệnh 9 (13,8) 56 (86,2) 1

Thời gian mất ngủ

Dưới 1 năm 8 (13,6) 51 (86,4) 1

Dưới 5 năm 2 (6,9) 27 (93,1) 0,37 0,51 (0,11-2,26)

Trên 5 năm 4 (26,7) 11 (73,3) 0,21 1,97 (0,68-5,69)

Đánh giá mức độ mất ngủ

Nặng/rất nặng 10 (32,3) 21 (67,7) 5,81 (1,97-17,1) 0,001

Trung bình/nhẹ/không biết 4 (5,6) 68 (94,4) 1

Cảm thấy hiệu quả điều trị

Không đổi/càng nặng 6 (26,1) 17 (73,9) 0,05 2,61 (1,01-6,76)

Có thuyên giảm 8 (10,0) 72 (90,0) 1

76

Bảng 2.16. Mối liên quan lo âu với đặc điểm bệnh đồng mắc

Lo âu n (%) Giá trị Đặc tính PR (KTC 95%) p Có không

Các bệnh khác

Mắc nhiều bệnh 10 (26,3) 28 (73,7) 0,751 0,9 (0,47-1,73)

Mắc 1 bệnh 19 (29,2) 46 (70,8) 1

Thời gian mất ngủ

Dưới 1 năm 19 (32,2) 40 (67,8) 1

Dưới 5 năm 6 (20,7) 23 (79,3) 0,283 0,64 (0,28-1,43)

Trên 5 năm 4 (26,7) 11 (73,3) 0,688 0,82 (0,33-2,08)

Đánh giá mức độ mất ngủ

Nặng/rất nặng 16 (51,6) 15 (48,4) 2,86 (1,57-5,20) 0,001

Trung bình/nhẹ/không 1 13 (18,1) 59 (81,9) biết

Cảm thấy hiệu quả điều trị

Không đổi/càng nặng 12 (52,2) 11 (47,8) 2,45 (1,38-4,36) 0,004

Có thuyên giảm 1 17 (21,2) 63 (78,8)

Kết quả nghiên cứu chưa tìm thấy sự khác biệt có ý nghĩa thông kê ở những đặc

điểm về các bệnh đồng mắc, thời gian bị mất ngủ và sự cảm nhận của chính bệnh

nhân về kết quả điều trị so với tỉ lệ trầm cảm trên mẫu nghiên cứu.

Nếu lấy yếu tố “nặng/rất nặng” là mốc so sánh với yếu tố trung bình/nhẹ/không

biết, kết quả từ bảng cho thấy những bệnh nhân tự đánh giá mức độ bệnh của mình

“nặng/rất nặng” có tỉ số nguy cơ trầm cảm gấp 5,81 lần, còn lo âu gấp 2,86 lần so với

những bệnh nhân đánh giá là “trungbình/nhẹ/không biết”. Khi được hỏi về sự cảm

77

nhận của chính bệnh nhân về kết quả điều trị của họ, chúng tôi nhận thấy những bệnh

nhân cho rằng kết quả điều trị không đổi hoặc càng nặng hơn thì nguy cơ lo âu cao

gấp 2,45 lần so với những người cảm thấy có thuyên giảm với khoảng tin cậy 95% từ

1,38 đến 4,36.

Kết quả trên cho thấy có thể sự đánh giá về mức độ mất ngủ và sự cảm nhận về

kết quả điều trị là yếu tố gây nên trầm cảm hay lo âu cho bệnh nhân, những bệnh

nhân có cảm nhận tích cực về tình trạng bệnh, kết quả điều trị sẽ ít bị trầm cảm hay

lo âu hơn. Mỗi người sẽ có cách tiếp nhận những yếu tố tác động từ bên ngoài khác

nhau. Một người có thể nhận thể nhận thấy sự kiện là vui vẻ hay hài lòng, chấp nhận

nhưng người khác có thể nhận thấy sự kiện đó là đau khổ hay bực bội. Những người

có niềm tin theo hướng tiêu cực thì họ có nguy cơ mắc rối loạn lo âu hoặc trầm cảm

cao hơn so với nhưng người có niềm tin theo hưởng tích cực. Điều này chứng minh

và củng cố cho lý thuyết về khuynh hướng lạc quan của Sheir và Carver (1987), nếu

con người kỳ vọng vào những điều tốt đẹp sẽ xảy ra hoặc có niềm tin rằng kết quả

chắc chắn sẽ là tích cực thì đây là yếu tố quyết định giúp con người phấn đấu để đạt

được kết quả tốt đẹp hơn. Chúng ta có thể ứng dụng kết quả nghiên cứu này vào việc

nâng đỡ tâm lý cho bệnh nhân mất ngủ, giúp họ tin và những điều tích cực trong

cuộc sống để họ nỗ lực phấn đấu trong quá trình điều trị bệnh của bản thân.

78

Tiểu kết Chương 2

Kết quả nghiên cứu thực trạng tổn thương tâm lý của bệnh nhân mất ngủ mạn

tính thông qua 2 mặt biểu hiện: rối loạn lo âu, trầm cảm. Với tỉ lệ rối loạn lo âu là

28,2% và trầm cảm tỉ lệ là 13,6%, trong đó có 11,6% được phát hiện kết hợp cả trầm

cảm và rối loạn lo âu.

Đã xác định được các đặc điểm chính của khách thể nghiên cứu thể hiện qua

các thông tin cá nhân, tình trạng hôn nhân, điều kiện kinh tế, đặc điểm chứng mất

ngủ, đặc điểm tình trạng bệnh đồng mắc, sự tự đánh giá cảm nhận tình trạng bệnh.

Bằng kiểm Chi bình phương kết hợp cùng số đo tỉ lệ hiện hành đã cho thấy

được mối liên quan ở những đặc điểm của khách thể với rối loạn lo âu và trầm cảm

tại thời điểm tiến hành nghiên cứu.

79

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

Kết luận

Sau khi nghiên cứu chúng tôi ghi nhận được có 13,6% bị trầm cảm và 28,2% bị

rối loạn lo âu, có 11,6% kết hợp cả hai trầm cảm và lo âu.

Hôn nhân đổ vỡ; mâu thuẫn; kinh tế cận nghèo/nghèo; sử dụng thuốc ngủ nhiều

(>3 lần); lo lắng giấc ngủ; đánh giá mức độ mất ngủ nặng/rất nặng; mức độ mất ngủ

là những yếu tố nguy cơ làm tăng tỉ lệ trầm cảm. Sống chung với người thân, có sự

quan tâm hỗ trợ từ gia đình là những yếu tố bảo vệ làm giảm tỉ lệ mắc trầm cảm.

Các yếu tố được tìm thấy có mối liên quan với lo âu thì: Hôn nhân đổ vỡ; mối

quan hệ gia đình mâu thuẫn; lo lắng vấn đề giấc ngủ; mức độ ảnh hưởng hoạt động

nhiều/rất nhiều; đánh giá mức độ mất ngủ nặng/rất nặng; cảm nhận kết quả điều trị

không thay đổi là những yếu tố nguy cơ gia tăng tỉ lệ lo âu. Yếu tố có sự quan tâm hỗ

trợ từ gia đình làm giảm tỉ lệ lo âu.

Kiến nghị

Đối với bệnh nhân mất ngủ mạn tính:

Cần quan tâm đến các biểu hiện của tổn thương tâm lý đặc biệt là lo âu, trầm

cảm, hạn chế những suy nghĩ tiêu cực, có thể tìm đến những nguồn hỗ trợ về bệnh lý

thực thể và tâm lý từ các các bác sĩ và chuyên gia tâm lý.

Người thân trong gia đình như ông, bà, cha, mẹ, vợ, chồng, con cái,… cần phát

huy trách nhiệm, tình cảm yêu thương, quan tâm chăm sóc hỗ trợ tâm lý, tránh gây

thêm những căng thẳng, áp lực với bệnh nhân bị chứng mất ngủ mạn tính để có thể

hạn chế mức thấp nhất nguy cơ gây nên những tổn thương tâm lý cho họ.

Đối với bác sĩ, chuyên viên tâm lý tại bệnh viện:

Cần có xây dựng quy trình kỹ thuật để đánh giá, sàng lọc tâm lý ở những bệnh

nhân bị chứng mất ngủ mạn tính, để có thể nâng cao chất lượng khám chữa bệnh.

Đối với các nghiên cứu tiếp theo:

Thực hiện các nghiên cứu mở rộng về các biểu hiện tổn thương tâm lý trên

bệnh nhân mất ngủ mạn tính.

Cần nghiên cứu mở rộng đo lường mối liên hệ nhân quả biểu hiện của tổn

thương tâm lý là trầm cảm, lo âu với chứng mất ngủ mạn tính.

80

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Abdollahi, A., Abu Talib, M., Yaacob, S. N., & Ismail, Z. (2014). Hardiness as a

mediator between perceived stress and happiness in nurses. J Psychiatr Ment

Health Nurs. doi:10.1111/jpm.12142

Abdollahi, A., Talib, M. A., Yaacob, S. N., & Ismail, Z. (2014). Problem-solving

skills and hardiness as protective factors against stress in Iranian nurses. Issues

Ment Health Nurs, 35(2), 100-107. doi:10.3109/01612840.2013.843621

American Psychiatric Association - APA. (2000). Diagnostic and Statistical Manual

of Mental Disorders (DSM-IV TR).

American Psychiatric Association -APA. (2014). Depression. Retrieved from

http://www.psychiatry.org/mental-health/depression

American Psychological Association - APA. (2014a). Anxiety. Retrieved from

http://www.apa.org/search.aspx?query=anxiety

American Psychological Association - APA. (2014b). Depression. Retrieved from

http://www.apa.org/topics/depress/index.aspx

Ancoli-Israel, S. (2006). The impact and prevalence of chronic insomnia and other

sleep disturbances associated with chronic illness. Am J Manag Care, 12(8 Suppl),

S221-229.

Antonovsky H, & Sagy, S. (1986). The development of a sense of coherence and its

impact on responses to stress situations. J Soc Psychol, 126(2), 213-225.

APA. (2013). Diagnostic and statistical manual of mental disorders fifth edition

DSM-5.

Bae, H., & Park, H. (2016). Sexual function, depression, and quality of life in

patients with cervical cancer. Support Care Cancer, 24(3), 1277-1283.

doi:10.1007/s00520-015-2918-z

Bandura A. (1977). Self-efficacy: toward a unifying theory of behavioral change.

Psychological review, 84(2), 191-215.

Bandura A. (1982). The assessment and predictive generality of self-percepts of

efficacy. J Behav Ther Exp Psychiatry, 13(3), 195-199.

Bandura A, Cioffi, D., Taylor, C. B., & Brouillard, M. E. (1988). Perceived self-

81

efficacy in coping with cognitive stressors and opioid activation. J Pers Soc

Psychol, 55(3), 479-488.

Barth, J., Schneider, S., & von Kanel, R. (2010). Lack of social support in the

etiology and the prognosis of coronary heart disease: a systematic review and

meta-analysis. Psychosom Med, 72(3), 229-238.

doi:10.1097/PSY.0b013e3181d01611

Bệnh viện tâm thần trung ương. (2012). Nghiên cứu dịch tễ các rối loạn tâm thần tại

Việt Nam. Retrieved from

http://www.bvtttw1.gov.vn/?lang=V&func=newsdetail&newsid=697&CatID=83

&MN=26

Braun-Lewensohn O, & Sagy S. (2014). Community resilience and sense of

coherence as protective factors in explaining stress reactions: comparing cities and

rural communities during missiles attacks. Community Ment Health J, 50(2), 229-

234. doi:10.1007/s10597-013-9623-5

Breslau N, Roth, T., Rosenthal, L., & Andreski, P. (1996). Sleep disturbance and

psychiatric disorders: a longitudinal epidemiological study of young adults. Biol

Psychiatry, 39(6), 411-418.

Bruss, G. S., Gruenberg, A. M., Goldstein, R. D., & Barber, J. P. (1994). Hamilton

Anxiety Rating Scale Interview guide: joint interview and test-retest methods for

interrater reliability. Psychiatry Res, 53(2), 191-202.

Bùi Quang Huy. (2008). Trầm Cảm: Nhà xuất bản Y học.

Chen, J., Dunne, M. P., & Han, P. (2004). Child sexual abuse in China: a study of

adolescents in four provinces. Child Abuse Negl, 28(11), 1171-1186.

doi:10.1016/j.chiabu.2004.07.003

Ciprandi, Giorgio, Schiavetti, Irene, Rindone, Elena, & Ricciardolo, Fabio LM.

(2015). The impact of anxiety and depression on outpatients with asthma. Annals

of Allergy, Asthma & Immunology, 115(5), 408-414.

De Jonge, P, Roy, JF, Saz, P, Marcos, G, & Lobo, A. (2006). Prevalent and incident

depression in community-dwelling elderly persons with diabetes mellitus: results

from the ZARADEMP project. Diabetologia, 49(11), 2627-2633.

82

Delmas, P. (2007). [Hardiness, a resource for coping with stress]. Rev Infirm(128),

24.

Đỗ Trung Quân. (2015). Nhận xét thực trạng trầm cảm của bệnh nhân đái tháo

đường typ 2 bằng bộ câu hỏi PHQ-9. 35-50.

Egede, L. E., & Ellis, C. (2010). Diabetes and depression: global perspectives.

Diabetes Res Clin Pract, 87(3), 302-312. doi:10.1016/j.diabres.2010.01.024

Engel G. L. (1977). The need for a new medical model: a challenge for biomedicine.

Science, 196(4286), 129-136.

Erika's Lighthouse. (2009). Parent Handbook on Childhood and Adolescent

Depression - Spiral-bound Erika's Lighthouse: A Beacon of Hope for Adolescent

Depression: Erika’s Lighthouse, Inc. .

Evans, , E. C., & Bullock, L. F. (2012). Optimism and other psychosocial influences

on antenatal depression: a systematic review. Nurs Health Sci, 14(3), 352-361.

doi:10.1111/j.1442-2018.2012.00700.x

Fava, M., & Kendler, K. S. (2000). Major depressive disorder. Neuron, 28(2), 335-

341.

Ford, D. E., & Kamerow, D. B. (1989). Epidemiologic study of sleep disturbances

and psychiatric disorders. An opportunity for prevention? JAMA, 262(11), 1479-

1484.

Foureur, M., Besley, K., Burton, G., Yu, N., & Crisp, J. (2013). Enhancing the

resilience of nurses and midwives: pilot of a mindfulness-based program for

increased health, sense of coherence and decreased depression, anxiety and stress.

Contemp Nurse, 45(1), 114-125. doi:10.5172/conu.2013.45.1.114

Friedman, E. H. (1993). Neurobiology of techno-stress. J Occup Med, 35(3), 315.

Funk, S. C. (1992). Hardiness: a review of theory and research. Health Psychol,

11(5), 335-345.

Harvard Health Publications. (2008). Anxiety and Physical illness. Retrieved from

http://www.health.harvard.edu/staying-healthy/anxiety_and_physical_illness

Headey. B, & Wearing. A. (1988). Coping with the social environment: the

relationship between life events, coping strategies and psychological distress.

83

Community Health Stud, 12(4), 444-452.

Henry, J. D., & Crawford, J. R. (2005). The short-form version of the Depression

Anxiety Stress Scales (DASS-21): construct validity and normative data in a large

non-clinical sample. Br J Clin Psychol, 44(Pt 2), 227-239.

doi:10.1348/014466505X29657

Hills, H., & Norvell, N. (1991). An examination of hardiness and neuroticism as

potential moderators of stress outcomes. Behav Med, 17(1), 31-38.

doi:10.1080/08964289.1991.9937550

Hoàng Phê. (1998). Từ điển tiếng Việt. Hà Nội: Nhà xuất bản Khoa học Xã Hội.

Hoàng Thị Tuấn Tình. (2017). Tỉ lệ trầm cảm ở bệnh nhân tăng huyết áp và đái tháo

đường tại bệnh viện Quận 2. Y học thành phố Hồ Chí Minh.

Holdorff, B. (2011). The fight for 'traumatic neurosis', 1889-1916: Hermann

Oppenheim and his opponents in Berlin. Hist Psychiatry, 22(88 Pt 4), 465-476.

doi:10.1177/0957154X10390495

Hyyppa, M. T., & Kronholm, E. (1989). Quality of sleep and chronic illnesses. J Clin

Epidemiol, 42(7), 633-638.

Ismail. K, Winkley, K., & Rabe-Hesketh, S. (2004). Systematic review and meta-

analysis of randomised controlled trials of psychological interventions to improve

glycaemic control in patients with type 2 diabetes. lancet, 363(9421), 1589-1597.

doi:10.1016/S0140-6736(04)16202-8 S0140-6736(04)16202-8 [pii]

Jin Sheng Hong, & Jun Tian. (2012). Prevalence of anxiety and depression and their

risk factors in Chinese cancer patients. Supportive Care in Cancer, 22(2), 453-

459.

Johnson E. O, Roth, T., & Breslau, N. (2006). The association of insomnia with

anxiety disorders and depression: exploration of the direction of risk. J Psychiatr

Res, 40(8), 700-708. doi:10.1016/j.jpsychires.2006.07.008

Kasl S. V. (1984). Stress and health. Annu Rev Public Health, 5, 319-341.

doi:10.1146/annurev.pu.05.050184.001535

Katz D. A, & McHorney, C. A. (1998). Clinical correlates of insomnia in patients

with chronic illness. Arch Intern Med, 158(10), 1099-1107.

84

Kawachi, I., Colditz, G. A., Ascherio, A., Rimm, E. B., Giovannucci, E., Stampfer,

M. J., & Willett, W. C. (1996). A prospective study of social networks in relation

to total mortality and cardiovascular disease in men in the USA. J Epidemiol

Community Health, 50(3), 245-251.

Khuwaja, Ali Khan, Lalani, Saima, Dhanani, Raheem, Azam, Iqbal Syed, Rafique,

Ghazala, & White, Franklin. (2010). Anxiety and depression among outpatients

with type 2 diabetes: A multi-centre study of prevalence and associated factors.

Diabetology & metabolic syndrome, 2(1), 72.

Kobasa, & , S. C. (1979). Personality and resistance to illness. Am J Community

Psychol, 7(4), 413-423.

Kobasa, S. C. (1979). Stressful life events, personality, and health: an inquiry into

hardiness. J Pers Soc Psychol, 37(1), 1-11.

Kobasa, S. C., Hilker, R. R., & Maddi, S. R. (1979). Who stays healthy under stress?

J Occup Med, 21(9), 595-598.

Kroenke, K., Spitzer, R. L., & Williams, J. B. (2001). The PHQ-9: validity of a brief

depression severity measure. J Gen Intern Med, 16(9), 606-613.

Larrousse. (1997). Grand Dictionnaire de la psychologie.

Lê Thị Tường Vân. (2016). Những tổn thương tâm lí của phụ nữ bị bạo lực gia đình.

( Luận án tiến sĩ Tâm lí học), Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam.

Lê Văn Hảo, & M.Martinez. (2010). “Hậu quả tổn thương tâm lí ở các cựu chiến

binh bị nhiễm chất độc da cam. Retrieved from Hà Nội:

Lecrubier, Y. (2001). The burden of depression and anxiety in general medicine. J

Clin Psychiatry, 62 Suppl 8, 4-9; discussion 10-11.

Leger, D., Scheuermaier, K., Philip, P., Paillard, M., & Guilleminault, C. (2001). SF-

36: evaluation of quality of life in severe and mild insomniacs compared with

good sleepers. Psychosom Med, 63(1), 49-55.

Lewinsohn, P. M., Seeley, J. R., Roberts, R. E., & Allen, N. B. (1997). Center for

Epidemiologic Studies Depression Scale (CES-D) as a screening instrument for

depression among community-residing older adults. Psychol Aging, 12(2), 277-

287.

85

Lofvenmark C, Mattiasson, A. C., Billing, E., & Edner, M. (2009). Perceived

loneliness and social support in patients with chronic heart failure. Eur J

Cardiovasc Nurs, 8(4), 251-258. doi:10.1016/j.ejcnurse.2009.05.001

Lương Bạch Lan. (2014). Tỷ lệ và yếu tố liên quan đến trầm cảm sau sinh. Tạp chí y

học thành phố Hồ Chí Minh, 13, tr.15.

Lý Thị Phương Hoa, Võ Tấn Sơn, & Violetta Berbiglia. (2010). Tỷ lệ trầm cảm ở

người bệnh tăng huyết áp điều trị ngoại trú tại Bệnh Viện Nguyễn Tri Phương.

Tạp chí y học thành phố Hồ Chí Minh, 14(4), tr. 1 - 9.

National institute of mental Health. (2016). Anxiety Disorders. Retrieved from

https://www.nimh.nih.gov/health/topics/anxiety-disorders/index.shtml

National Sleep Foundation - NSF. (2011). What Is Insomnia? Retrieved from

https://sleepfoundation.org/insomnia/content/what-is-insomnia

Nguyễn Bá Đạt. (2014). Rối nhiễu tâm lí ở trẻ em sống trong gia đình có bạo lực.

(luận án Tiến sĩ Tâm lí học), Trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐH Quốc

gia Hà Nội.

Nguyễn Hữu Thụ, (chủ biên). (2012). Tổn thương tâm lí ở nạn nhân bị nhiễm chất

độc hóa học/ dioxin do Mỹ sử dụng trong chiến tranh ở Việt Nam: Nxb ĐH Quốc

gia Hà Nội.

Nguyễn Kim Lưu, & Dương Trung Kiên. (2012). Nghiên cứu hội chứng trầm cảm

của bệnh nhân ung thư mới được phát hiện. Học viện quân y.

Nguyễn Thị Mỹ Hạnh, & Võ Minh Tuấn. (2009). Tỷ lệ và các yếu tố liên quan của

rối loạn trầm cảm ở phụ nữ quanh tuổi mãn kinh. Tạp chí y học thành phố Hồ Chí

Minh, 13(1), tr. 1 - 7.

Nguyễn Thị Như Thúy. (2017). Tổn thương tâm lý của trẻ em trong gia đình không

toàn vẹn tại thành phố Hồ Chí Minh. (Luận văn thạc sĩ), Trường Đại học Sư Phạm

TP.HCM, thành phố Hồ Chí Minh.

Nguyễn Văn Dũng. (2011). Đặc điểm triệu chứng cơ thể trong trầm cảm người cao

tuổi. Tạp chí y học thực hành, số 8, tr.111-115.

Nguyễn Văn Nuôi. (2005). Tâm thần học. Tp.HCM: Nhà xuất bản Y học chi nhánh

Tp.HCM.

86

Nguyễn Việt. (1984). Tâm thần học. Hà Nội: NXB Y học Hà Nội.

Peyrot M, & Rubin RR. (1997). Levels and risks of depression and anxiety

symptomatology among diabetic adults. Diabetes Care, 20(4), pp. 585-590.

Peyrot, M., McMurry, J. F., Jr., & Kruger, D. F. (1999). A biopsychosocial model of

glycemic control in diabetes: stress, coping and regimen adherence. J Health Soc

Behav, 40(2), 141-158.

Phan Thế Sang, & Trần Kim Trang. (2012). Trầm cảm sau nhồi máu cơ tim. Tạp chí

y học thành phố Hồ Chí Minh, 16, tr. 365 - 375.

Pratt, L. A., & Brody, D. J. (2008). Depression in the United States household

population, 2005-2006. NCHS Data Brief(7), 1-8.

Ralph, E. C. (2004). Depression in Children and Adolescents: Information for

Parents and Educators Social/Emotional Development: National Association of

School Psychologists.

Roth T. (2007). Insomnia: definition, prevalence, etiology, and consequences. J Clin

Sleep Med, 3(5 Suppl), S7-10.

Roth, T., Roehrs, T., & Pies, R. (2007). Insomnia: pathophysiology and implications

for treatment. Sleep Med Rev, 11(1), 71-79. doi:10.1016/j.smrv.2006.06.002

Schulz, R., Guth, B. D., Pieper, K., Martin, C., & Heusch, G. (1992). Recruitment of

an inotropic reserve in moderately ischemic myocardium at the expense of

metabolic recovery. A model of short-term hibernation. Circ Res, 70(6), 1282-

1295.

Soldatos, C. R. (1994). Insomnia in relation to depression and anxiety: epidemiologic

considerations. J Psychosom Res, 38 Suppl 1, 3-8.

Stephen P. Whiteside. (2017). child-adolescent-anxiety-disorders. Retrieved from

http://www.mayo.edu/research/labs/child-adolescent-anxiety-

disorders/overview?_ga=2.127027268.852345147.1497927950-

1781622641.1497927950

Sullivan, J. D. (1990). Janet and psychological trauma. Am J Psychiatry, 147(7),

962-963. doi:10.1176/ajp.147.7.aj1477962

Thái Thanh Trúc, Jones, Mairwen K., Harris, Lynne M., & Heard, Robert C. (2016).

87

Screening value of the Center for epidemiologic studies – depression scale among

people living with HIV/AIDS in Ho Chi Minh City, Vietnam: a validation study.

BMC Psychiatry, 16(1), 145. doi:10.1186/s12888-016-0860-3

Tian P. S. Oe , Sukanlaya Sawang, Yong Wah Goh and Firdaus Mukhtar. (2013).

Using the Depression Anxiety Stress Scale 21 (DASS-21) across cultures.

psychology.

Trần Thanh Đức. (2013). Validation of the depression anxiety stress scales (DASS)

21 as a screening instrument for depression and anxiety in a rural community-

based cohort of northern Vietnamese women.

Trần Thị Thanh Hương, & Nguyễn Thị Quỳnh Vân. (2016). Một số yếu tố liên quan

tới lo âu, trầm cảm ở bệnh nhân suy thận mạn lọc máu chu kỳ tại khoa thận nhân

tạo Bệnh Viện Bạch Mai năm 2015. Tạp chí nghiên cứu y học, 104(4), tr. 17 - 25.

Trần Trung Nghĩa. (2104). Rối loạn khí sắc. Tp.HCM: Bộ môn Tâm Thần – Đại học

Y Dược TP.HCM.

Van Mill, J. G., Hoogendijk, W. J., Vogelzangs, N., Van Dyck, R., & Penninx, B. W.

(2010). Insomnia and sleep duration in a large cohort of patients with major

depressive disorder and anxiety disorders. J Clin Psychiatry, 71(3), 239-246.

doi:10.4088/JCP.09m05218gry

Văn Thị Kim Cúc. (2003). Tổn thương tâm lí của thiếu niên do cha mẹ li hôn: Nxb

Khoa học Xã hội.

Vikram, P., Garrison, Preston, Mari, Jair de Jesus, Minas, Harry, Prince, Martin, &

Saxena, Shekhar. (2008). The Lancet's Series on Global Mental Health: 1 year on.

lancet, 370. doi:doi: 10.1016/S0140-6736 (08) 61556-1 .

Von Plessen, K. (1996). [Jean Martin Charcot and his controversial research on

hysteria]. Tidsskr Nor Laegeforen, 116(30), 3633-3635.

Vũ Dũng, (chủ biên). (2008). Từ điển Tâm lí học: Nhà xuất bản Từ điển Bách khoa.

Walsh J. K. (2004). Clinical and socioeconomic correlates of insomnia. J Clin

Psychiatry, 65 Suppl 8, 13-19.

Wells KB, Rogers W, Burnam MA, & Camp P. (1993). Course of depression in

patients with hypertension, myocardial infarction, or insulin-dependent diabetes.

88

American Journal of Psychiatry, 150, pp. 632-632.

Whooley M. A, & Wong J. M. (2013). Depression and cardiovascular disorders.

Annu Rev Clin Psychol, 9, 327-354. doi:10.1146/annurev-clinpsy-050212-185526

Wilhelm, Kay, Mitchell, Philip, Slade, Tim, Brownhill, Suzanne, & Andrews, Gavin.

(2003). Prevalence and correlates of DSM-IV major depression in an Australian

national survey. J Affect Disord, 75(2), 155-162.

World Health Organization. (2008). Mental Health in America/Mental Illness.

School Library Journal, 54, 64-64.

World Health Organization. (2009). The psychological impact of infertility and its

treatment. Medical interventions may exacerbate anxiety, depression, and stress.

Harv Ment Health Lett, 25(11), 1-3.

World Health Organization. (2013). What are the different forms of depression?

World Health Organization. (2014, 21/3/2017). mental disorders. Retrieved from

http://www.who.int/topics/mental_disorders/en/

World Health Organization. (2017). Depression and Other Common Mental

Disorder World Health Organization.

World Health Organization, & T.W.H.R. (2001). Mental Health: New

Understanding, New Hope. World Health Organization.

Yang, Yi-Long, Liu, Li, Wang, Xiao-Xi, Wang, Yang, & Wang, Lie. (2014).

Prevalence and associated positive psychological variables of depression and

anxiety among Chinese cervical cancer patients: a cross-sectional study. PLoS

One, 9(4), e94804.

Zigmond, A. S., & Snaith, R. P. (1983). The hospital anxiety and depression scale.

Acta Psychiatr Scand, 67(6), 361-370.

Zimmerman, M., Martinez, J. H., Young, D., Chelminski, I., & Dalrymple, K.

(2013). Severity classification on the Hamilton Depression Rating Scale. J Affect

Disord, 150(2), 384-388. doi:10.1016/j.jad.2013.04.028

Zung, W. W. (1965). A Self-Rating Depression Scale. Arch Gen Psychiatry, 12, 63-

70.

PHỤ LỤC

PHỤ LỤC 1

Mã số phiếu:

Người điều tra: ....................................................... Ngày điều tra:…………………..

BẢNG CÂU HỎI KHẢO SÁT CÁC YẾU TỐ TÂM LÝ CỦA BỆNH

NHÂN MẤT NGỦ MẠN TÍNH

Chào Ông/Bà tôi là học viên cao học, khoa Tâm lý học, trường Đại Học Sư

Phạm TP.HCM. Hiện tại chúng tôi đang nghiên cứu yếu tố tâm lý của bệnh nhân

mất ngủ mạn tính tại một số bệnh viện thành phố Hồ Chí Minh. Kết quả nghiên cứu

sẽ góp phần đưa ra những khuyến nghị nhằm cải thiện tình trạng sức khỏe thể chất

và tinh thần ở bệnh nhân mất ngủ mạn tính. Vì vậy chúng tôi mời Ông/Bà trả lời các

câu hỏi bên dưới. Tôi cam đoan những thông tin mà Ông/Bà cung cấp sẽ được giữ

bí mật và chỉ phục vụ cho mục đích nghiên cứu khoa học. Để đạt được ý nghĩa tốt

nhất trong nghiên cứu này tôi hy vọng Ông/Bà tham gia tích cực và đầy đủ.

Nếu Ông/Bà đồng ý tham gia nghiên cứu này thì vui lòng đánh dấu “X” vào ô

trống bên dưới.

Tôi đồng ý tham gia nghiên cứu Xác nhận

(Ký tên)

Rất cảm ơn sự giúp đỡ của Ông/Bà.

A.Thông tin chung

Mã Câu Nội dung Trả lời Ghi chú trả lời

Nam 1 A1 Giới tính Nữ 0

A2 Năm sinh __________________________

Kinh 1

A3 Dân tộc khác ghi rõ Hoa 2

Khác………………………… 3

Phật giáo 1

Thiên chúa giáo 2

Ông/Bà có niềm tin Tin lành 3 A4 khác ghi rõ vào tôn giáo nào Cao đài/Hòa hảo 4

Không theo tôn giáo 5

Khác…………………………. 6

Biết đọc biết viết 1

Tiểu học 2

Trung học cơ sở 3

4 A5 Trình độ học vấn Trung học phổ thông

Trung cấp/cao đẳng 5

Đại học 6

Sau đại học 7

Tăng huyết áp 1

Rối loạn Lipid máu 2

3 Bệnh khác đã/đang Đái tháo đường

4 A6 được bác sĩ chẩn đoán Bệnh phổi khác ghi rõ

5 Cơ, xương, khớp (nhiều lựa chọn)

6 Bệnh gan, thận

7 Ung thư

Khác......................................... 8

Ông/Bà mất ngủ bao A7 ……….Tháng ……..năm lâu rồi?

Không biết 1

Ông/Bà tự đánh giá Bình thường 2

A8 mức độ mất ngủ của Nhẹ 3

mình Nặng 4

Rất nặng 5

Trong thời gian điều Có thuyên giảm 1

trị bệnh, Ông/Bà cảm Kết quả không đổi nhiều 2 A9 thấy kết quả điều trị Ngày càng nặng thêm 3

theo diễn biến thế nào.

Đang đi làm 1 Hiện tại Ông/Bà có Chọn 2 qua A10 Không đi làm 2 đang đi làm không? câu A12

Buôn bán 1

Tự do 2

Công ty tư nhân 3 Công việc của Ông/Bà Công nhân viên chức A11 4 là gì? Doanh nghiệp nước ngoài 5

Nghỉ hưu 6

Nghỉ sớm do mất sức lao động 7

Ông/Bà có nguồn thu Có 1

A12 nhập nào khác khi Không 2

không đi làm

Giàu có 1 Ông/Bà nhận xét về Khá giả 2 A13 kinh tế gia đình của Trung bình 3 mình hiện tại Cận nghèo 4

Nghèo 5

Độc thân 1

Lập gia đình 2

Có bạn tình 3 A14 Tình trạng hôn nhân Khác ghi rõ Ly hôn 4

Ly thân 5

Chồng/vợ chết 6

Một mình 1

Chồng/vợ 2

Ông/Bà đang sống Con cái 3

A15 chung với ai Ba mẹ ruột Khác ghi rõ 4

Ba mẹ chồng/vợ 5 (nhiều lựa chọn)

Anh chị em 6

Khác……………………….. 7

Ông/ Bà cảm nhận về Mâu thuẫn 1

mối quan hệ trong gia Bất đồng quan điểm nhưng giải 2

A16 đình như thế nào? quyết được khác ghi rõ

Hòa thuận/ hạnh phúc 3

Khác …………………………. 4

Sự quan tâm, hỗ trợ Chăm sóc 1

của người thân, bạn bè Quan tâm thăm hỏi, động viên 2

đối với bệnh tật của Hỗ trợ chi phí điều trị 3

Trong 1 tháng vừa qua,

Ông/ Bà? Thờ ơ/ Bỏ mặc 4 A17 khác ghi rõ Khác......................................... (Nhiều lựa chọn)

Ông/Bà có thường phải

Không 1

sử dụng thuốc ngủ để

A18 1 lần/tuần 2

giúp mình ngủ được

không? (sử dụng thuốc

1-3 lần tuần 3

theo đơn hoặc tự mua

dùng)

Trong 1 tháng vừa qua,

mỗi đêm thực tế Ông/Bà

Trên 3 lần/tuần 4

ngủ được bao nhiêu giờ?

_______Giờ______phút

(số giờ này có thể khác

so với số giờ ông/bà

nằm trên giường)

Ông/Bà lo lắng về vấn

A19

đề giấc ngủ hiện tại của

Không lo lắng 1

ông/bà như thế nào?

Lo lắng 1 chút 2 A20 Lo lắng nhiều 3

Ông/bà xem xét vấn đề

Lo lắng rất nhiều 4

giấc ngủ hiện tại của

Không ảnh hưởng 1

ông/bà ảnh hưởng đến

Ảnh hưởng một ít 2

các hoạt động hằng ngày

Ảnh hưởng không nhiểu 3

(ví dụ: bạn mệt mỏi; tâm

Ảnh hưởng nhiều 4

lý, khả năng hoạt động

tại nơi làm việc/ trong

công việc hằng ngày, tập

trung, trí nhớ, tâm trạng)

ở mức độ nào?

Ảnh hưởng rất nhiều 5 A21

Trong hai tuần qua Ông/Bà cảm thấy như thế nào về những câu sau.

Câu trả lời không mang tính đánh giá, Ông/bà chon câu trả lời khi cảm thấy giống

với bản thân mình nhất trong các câu sau:

B. Thang đo lo âu – trầm cảm

Thỉnh Thường Không thoảng Hầu hết xuyên STT Câu hỏi đúng mới đúng đúng đúng

B1(a) Bị khô miệng 0 1 2 3

B2(d) Dường như chẳng có chút cảm xúc tích 0 1 2 3 cực nào

B3(a) Bị rối loạn nhịp thở (thở gấp, khó thở dù 0 1 2 3 chẳng làm việc gì nặng)

B4(d) Thấy khó bắt tay vào công việc 0 1 2 3

B5(a) Bị run tay chân 0 1 2 3

B6(a) Lo lắng về những tình huống có thể làm 0 1 2 3 tôi hoảng sợ hoặc biến tôi thành trò cười

B7(d) Thấy mình chẳng có gì để mong đợi cả 0 1 2 3

B8(d) Cảm thấy chán nản, thất vọng 0 1 2 3

B9(a) Thấy mình gần như hoảng loạn 0 1 2 3

B10(d) Không thấy hăng hái với bất kỳ việc gì 0 1 2 3 nữa

B11(d) Cảm thấy mình chẳng đáng làm người 0 1 2 3

B12(a) Nghe thấy rõ tiếng nhịp tim dù chẳng làm

việc gì cả (ví dụ, tiếng nhịp tim tăng, 0 1 2 3

tiếng tim loạn nhịp)

B13(a) Hay sợ vô cớ 0 1 2 3

B14(d) Cảm thấy cuộc sống vô nghĩa 0 1 2 3

XIN CHÂN THÀNH CẢM ƠN

PHỤ LỤC 2

PHIẾU SÀNG LỌC BỆNH NHÂN BAN ĐẦU

 Bệnh nhân có các than phiền về giấc ngủ:

 Khó đi vào giấc ngủ

 Khó duy trì giấc ngủ

 Khó bắt đầu ngủ lại khi thức giấc

 Thời gian có các than phiên về giấc ngủ kéo dài trên 1 tháng

 Bệnh nhân có mệt mỏi hoặc suy giảm hoạt động vào ban ngày

 Làm suy giảm hoạt động xã hội, nghề nghiệp hoặc trong các lỉnh vực quan

trọng khác

 Không do hiệu quả sinh lý của một số chất (café, rượu, bia, v.v…)

PHỤ LỤC 3

THANG ĐÁNH GIÁ MÚC ĐỘ TRẦM CẢM, LO ÂU, STRESS - DASS 21

Thang đo DASS-21, các mức độ thang tính điểm: 0= Không đúng chút nào cả;

1=Thỉnh thoảng mới đúng; 2= Phần lớn thời gian là đúng; 3= Hầu hết thời gian là

đúng

NỘI DUNG CÂU HỎI ĐIỂM DAS STT

Tôi cảm thấy khó mà thoải mái được 0 1 2 3 S 1

Tôi bị khô miệng 0 1 2 3 A 2

Tôi dường như chẳng có chút cảm xúc tích cực 3 0 1 2 3 D nào

Tôi bị rối loạn nhịp thở (thở nhanh, thở gấp, khó 4 0 1 2 3 A thở dù chẳng làm việc gì nặng)

Tôi cảm thấy khó bắt tay vào công việc 0 1 2 3 D 5

Tôi có xu hướng phản ứng thái quá với mọi tình 6 0 1 2 3 S huống

Tôi bị run (tay, chân…) 0 1 2 3 A 7

Tôi thấy mình đang suy nghĩ quá nhiều 0 1 2 3 S 8

Tôi lo lắng về những tình huống có thể làm tôi 9 0 1 2 3 A hoảng sợ hoặc biến tôi thành trò cười

Tôi thấy mình chẳng có gì để mong đợi cả 0 1 2 3 D 10

Tôi thấy bản thân dễ bị kích động 0 1 2 3 S 11

Tôi thấy khó thư giãn được 0 1 2 3 S 12

Tôi cảm thấy chán nản, thất vọng 0 1 2 3 D 13

Tôi không chấp nhận được việc có cái gì đó xen 14 0 1 2 3 S vào cản trở việc tôi đang làm

Tôi thấy mình gần như hoảng loạn 0 1 2 3 A 15

Tôi không thấy hăng hái với bất kì việc gì nữa 0 1 2 3 D 16

Tôi thấy mình chẳng đáng làm người 0 1 2 3 D 17

Tôi thấy mình khá dễ phật ý, tự ái 0 1 2 3 S 18

19 Tôi nghe thấy rõ tiếng nhịp tim dù chẳng làm việc 0 1 2 3 A gì cả (tăng nhịp tim, tiếng tim loạn)

Tôi hay sợ vô cớ 0 1 2 3 A 20

Tôi thấy cuộc sống vô nghĩa 0 1 2 3 D 21

Bảng phân mức độ stress, lo âu, trầm cảm

Trầm cảm Lo âu Stress Mức độ

0-4 0-3 0-7 Bình thường

5-6 4-5 8-9 Nhẹ

7-10 6-7 10-12 Vừa

11-13 8-9 13-16 Nặng

Rất nặng ≥14 ≥ 10 ≥ 17

PHỤ LỤC 4. KẾT QUẢ XỬ LÝ SỐ LIỆU NGHIÊN CỨU

Đánh giá chung mức độ lo âu trầm cảm

Tỉ lệ trầm cảm lo âu

Đặc điểm thông tin cá nhân

Đặc điểm hôn nhân, gia đình của khách thể nghiên cứu

Đặc điểm kinh tế nghề nghiệp của khách thể nghiên cứu

Đặc điểm chứng mất ngủ của khách thể nghiên cứu

Đặc điểm các bệnh đồng mắc của khách thể nghiên cứu

Tự đánh giá cảm nhân của khách thể về tình trạng bệnh

Mối liên quan giữa trầm cảm với đặc điểm hôn nhân gia đình

Mối liên quan giữa lo âu với đặc điểm hôn nhân gia đình

Mối liên quan trầm cảm với đặc điểm kinh tế

Mối liên quan giữa lo âu với đặc điểm kinh tế

Mối liên quan giữa trầm cảm với đặc điểm mất ngủ

Mối liên quan lo âu với các đặc điểm chứng mất ngủ

Mối liên quan trầm cảm với các bệnh đồng mắc

Mối liên quan lo âu với đặc điểm bệnh đồng mắc