
BỆNH NHƯỢC CƠ
MỤC TIÊU HỌC TẬP
1. Xác định được nhược cơ.
2.Trình bày được yếu tố làm nhược cơ nặng thêm.
3.Xử trí được nhựơc cơ thông thường và nhược cơ nặng.
I. ÐẠI CƯƠNG
Nhược cơ là một bệnh thần kinh - cơ tự miễn với đặc tính yếu cơ vân. Nữ
gặp nhiều hơn nam tỷ lệ thường 3/2, gặp ở mọi lứa tuổi nhưng thường gặp từ 15
đến 20 tuổi. Số bệnh nhân có u tuyến ức phổ biến ở tuổi 40-50. Ở tuổi 60-70 thì
bệnh nhược cơ chủ yếu là nam giới. Ở Ðông Á thấy bệnh khá cao ở trẻ dưới 3
tuổi, còn ở vùng khác rất ít khi trẻ em dưới 10 tuổi bị bệnh. Tỷ lệ mới mắc hàng
năm là khoảng 2-6/100.000 dân, còn tỷ lệ hiện mắc là 20-50/100.000 dân.
II. SINH LÝ BỆNH

Chất trung gian hóa học dẫn truyền thần kinh tại xinap thần kinh-cơ là
acetylcholine (Ach ) được tổng hợp ở chổ tận cùng của sợi thần kinh và được tích
lủy trong các túi thành những lượng tử. Mỗi lượng tử tương ứng với khoảng
10.000 nguyên tử ACh. Khi không co cơ lượng tử này giải phóng một lượng nhỏ
một cách tự phát Ach, tạo ra điện thế cực tiểu ở màng tận. Ðiện thế này không đủ
để lan tỏa dọc theo màng sợi cơ gọi là điện thế lúc nghỉ ngơi. Khi có một xung
động thần kinh tới chổ tận cùng của sợi thần kinh, lượng Ach từ 150-200 túi sẽ
được giải phóng ra đi qua khe xinap để gắn vào các thụ thể Ach được mở ra cho
phép các ion dương đổ vào (chủ yếu Na+) gây nên sự khử cực tạo ra một điện thế
hoạt động lan tỏa suốt chiều dài sợi cơ sinh co cơ. Quá trình này xảy ra nhanh do
sự phân tán Ach khỏi các thụ thể để rồi bị phân hủy bởi các men
acetylcholinesterase từ các đáy nếp gấp màng sau xinap vận chuyển lên.
Trong bệnh nhược cơ, thiếu sót cơ bản là giảm số lượng các thụ thể Ach ở màng
sau xinap do kháng thể kháng thụ thể Ach (gặp khoảng 90%). Các kháng thể này
làm giảm các thụ thể qua 3 cơ chế sau :
- Do sự nối chéo các thụ thể.
- Vị trí gắn Ach bị nghẽn bởi các kháng thể.
- Màng cơ sau xinap bị tổn thương do kháng thể kết hợp với bổ thể.

Nồng độ kháng thể kháng thụ thể Ach không tỷ lệ với độ trầm trọng của bệnh.
Cho tơí nay vấn đề sự tự miễn đáp ứng đầu tiên như thế nào và duy trì ra sao thì
chưa được rõ. Sự sản xuất tự kháng thể kháng Ach là do các lympho T-trợ giúp
đặc hiệu, là do các lympho T- điều hòa có thể tách ra từ tuyến ức hay máu của
bệnh nhân. Người ta thấy tuyến ức bất thường ở 75 % trường hợp, trong số này 65
% quá sản còn 10% có u tuyến ức. Qua nghiên cứu thấy các tế bào thượng bì (tế
bào dạng cơ, myoid) trong tuyến ức mang các thụ thể Ach trên bề mặt có thể được
sử dụng như các kháng nguyên và phát động phản ứng tự miễn. Tuyến ức còn
chứa các lympho B đặc hiệu đối với thụ thể Ach và các tương bào cũng tham gia
vào sự tạo kháng thể kháng thụ thể Ach. Rõ ràng có mối liên hệ mật thiết giữa
bệnh nhược cơ và bất thường của tuyến ức, điều này đòi hỏi xét nghiệm cận lâm
sàng để có thể can thiệp phẫu thuật.
Tóm lại, các biến đổi ở màng sau xinap do kháng thể kháng Ach gây dãn
rộng khe xináp, giảm số lượng nếp gấp của màng sau xináp và thay đổi độ dài
màng sau xináp từ đó làm giảm số lượng thụ thể và hậu quả cuối cùng là giảm sự
dẫn truyền thần kinh - cơ vân.
Có thể có sự phối hợp hay đồng phát bệnh tự miễn như viêm đa khớp dạng
thấp, luput ban đỏ hệ thống, sarcoidose, hội chứng Gougerot - Sjögren, tán huyết
tự miễn, viêm đa cơ, viêm đại trực tràng chảy máu, bệnh Kaposi, xuất huyết giảm
tiểu cầu, pemphigus, bệnh tuyến giáp thường là cường giáp hơn là suy giáp.

Kháng nguyên HLA-B8 thường gặp trong nhược cơ toàn thể ở phụ nữ
không có u tuyến ức, còn kháng thể HLA-A3 và B7 là ở thể muộn không có u
tuyến ức.
III. TRIỆU CHỨNG
Yếu cơ trong bệnh nhược cơ chủ yếu là các cơ do các dây thần kinh sọ chi
phối đó là cơ vận nhãn, cơ mặt, cơ nuốt và cơ vùng cổ (cơ gấp bị nhiều và nặng
hơn cơ duỗi ). Khởi đầu thường âm thầm nhưng đôi khi xảy ra sau nhiểm trùng
cấp, sau phẫu thuật, sau nhiễm độc... Ðặc tính chung về lâm sàng là các cơ yếu
nhanh chóng sau vận động, gắng sức và hồi phục sau nghỉ ngơi. Các triệu chứng
của bệnh nhược cơ thường dễ phát hiện như sụp mi, lác mắt, mỏi dầu, nói nuốt
khó, nhai mỏi...Khoảng 50 -60% bệnh nhân đến khám vì lý do sụp mi và song thị
do cơ vận nhãn bị yếu. Lúc đầu tiên triệu chứng có thể thoáng qua, sau đó lại tái
lại không những số cơ đó mà còn có thể yếu cơ khác. Teo cơ trong bệnh lý này
khoảng 10%, chủ yếu là bệnh nhân nhược cơ toàn thân nặng, là do mất phân bố
thần kinh (denervation). Thấy rằng yếu cơ vận nhãn và cơ nâng mi kéo dài trên 12
tháng thì hầu như không tiến triễn lan tỏa toàn thân. Có 15% là thể mắt đơn thuần.
Phân bố yếu cơ thường là hai bên, ở gốc chi tuy nhiên cũng có thể không đối
xứng. Quyết định chẩn đoán là test prostigmine 1-1,5mg tiêm bắp nếu các triệu
chứng giảm nhanh sau 30 phút hoặc test tensilon (edrophonium) lúc đầu tiêm 2mg
tĩnh mạch sau 1 phút không đỡ thì tiêm thêm 4mg và nếu 1-2 phút sau thấy không
đỡ lại tiêm thêm 4mg có nghĩa tổng liều là 10 mg, thuốc này tác dụng nhanh và chỉ

kéo dài trong 3 đến 10 phút. Thuốc này chống chỉ định tương đối khi bệnh nhân bị
nhịp tim chậm hay bị hen phế quản. Khi làm tét cũng nên chuẩn bị atropin 1-2 mg
để xử trí khi có tác dụng phụ muscarinic của các thuốc trên. Lưu ý tét tensilon
không phải đặc hiệu cho tất cả bệnh nhược cơ, nó âm tính ở nhược cơ bẩm sinh do
thiếu Ach ở tấm vận động cơ vân, ở bệnh nhân khiếm khuyết tái tổng hợp Ach.
Tét này dương tính không ổn định ở hội chứng kênh chậm (slow - channel
syndrome) và trong hội chứng kênh nhanh dẫn truyền cao (high - conduction fast -
channel syndrome). Chính vì những lý do trên mà tét này không phân biệt được
nhược cơ tự miễn bẩm sinh hay mắc phải và tét này âm tính cũng không loại trừ
nhược cơ bẩm sinh.
Theo Osserman chia bệnh nhược cơ thành 4 giai đoạn:
- Giai đoạn 1: Nhược cơ khu trú một nhóm cơ, thường ở mắt 15%.
- Giai đoạn 2:
+ 2a:Nhược cơ toàn thân lành tính, chỉ xâm phạm các cơ ngoại vi, không rối loạn
nuốt và khó thở chiếm 60%.
+ 2b: Nhược cơ toàn thân lành tính, chỉ xâm phạm các cơ ngoại vi, kèm rối loạn
nuốt nhưng không rối loạn hô hấp.

