BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Đậu Thị Anh NHỮNG TRẬN HẢI CHIẾN TRONG
CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ HAI
DƯỚI GÓC NHÌN ĐỊA - CHÍNH TRỊ
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
Thành phố Hồ Chí Minh - 2014
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Đậu Thị Anh
NHỮNG TRẬN HẢI CHIẾN TRONG CHIẾN
TRANH THẾ GIỚI THỨ HAI DƯỚI GÓC NHÌN
ĐỊA - CHÍNH TRỊ
Chuyên ngành : Lịch sử thế giới
Mã số
: 60 22 03 11
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS NGÔ MINH OANH
Thành phố Hồ Chí Minh - 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là đề tài nghiên cứu do tôi thực hiện.
Các số liệu và kết quả nghiên cứu được trình bày trong luận văn là trung thực
và chưa từng công bố ở các công trình nghiên cứu khác.
Tôi xin chịu trách nhiệm về đề tài nghiên cứu của mình.
Tác giả luận văn
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến:
Ban giám hiệu Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, Phòng
Sau Đại học, quý thầy cô Khoa Lịch Sử đã nhiệt tình giúp đỡ và tạo điều kiện cho
tôi trong quá trình hoàn thành luận văn.
Phó giáo sư, Tiến sĩ Ngô Minh Oanh. Thầy đã tận tình chỉ bảo, động viên và
hướng dẫn cho tôi với sự cẩn trọng, nghiêm túc và trung thực trong quá trình nghiên
cứu và thực hiện luận văn này.
Các thầy cô tại thư viện trường Đại học sư phạm thành phố Hồ Chí Minh và
tập thể các anh chị, các bạn học viên khóa 23, chuyên ngành Lịch sử thế giới đã ủng
hộ nhiệt tình và giúp đỡ chân thành cho tôi về mặt tư liệu.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến gia đình là nguồn động viên lớn nhất cho tôi
trong thời gian học tập và hoàn thành luận văn này.
Một lần nữa tôi xin chân thành cảm ơn!
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 30 tháng 9 năm 2014 Đậu Thị Anh
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục các ký hiệu, chữ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU ................................................................................................................. 1
Chương 1. LÝ LUẬN VỀ ĐỊA - CHÍNH TRỊ VÀ VẤN ĐỀ ĐỊA -
CHÍNH TRỊ TRONG CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ II ............ 8
1.1. Khái quát về khoa học địa - chính trị ................................................................ 8
1.1.1. Khái niệm địa - chính trị............................................................................. 9
1.1.2. Địa - chiến lược ........................................................................................ 13
1.2. Các học thuyết địa - chính trị ảnh hưởng đến chiến lược của các nước trong
chiến tranh thế giới thứ 2 ............................................................................... 15
1.2.1. Tư tưởng địa – chính trị ở Hoa Kỳ ........................................................... 15
1.2.2. Tư tưởng địa – chính trị ở Anh ................................................................. 24
1.2.3. Tư tưởng địa – chính trị ở Đức ................................................................. 26
1.2.4. Tư tưởng địa – chính trị ở Nhật Bản ........................................................ 31
1.3. Tiêu chí lựa chọn các trận hải chiến ............................................................... 33
Tiểu kết chương 1 .................................................................................................... 34
Chương 2. NHỮNG TRẬN HẢI CHIẾN Ở ĐẠI TÂY DƯƠNG VÀ ĐỊA
TRUNG HẢI TRONG CHIẾN TRANH THẾ GIỚI II ................... 35
2.1. Bối cảnh lịch sử .............................................................................................. 35
2.1.1. Quan hệ giữa các cường quốc trước chiến tranh thế giới thứ II ............... 35
2.1.2. Chiến lược hải quân của các nước trước cuộc chiến tranh thế giới thứ II .... 40
2.1.3. Sự phát triển về kỹ thuật Hải quân trước cuộc chiến tranh thế giới
lần thứ II................................................................................................... 44
2.1.4. Quan hệ quốc tế trực tiếp dẫn đến chiến tranh thế giới thứ II .................. 47
2.2. Hải chiến trên Đại Tây Dương và những phân tích địa chính trị ................... 52
2.3. Hải chiến Địa Trung Hải và những phân tích địa chính trị ............................ 61
Tiểu kết chương 2 .................................................................................................... 67
Chương 3. NHỮNG TRẬN HẢI CHIẾN Ở THÁI BÌNH DƯƠNG TRONG
CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ II .................................................. 68
3.1. Bối cảnh lịch sử .............................................................................................. 68
3.1.1. Chiến lược Thái Bình Dương của Hoa Kỳ, Nhật Bản ............................. 68
3.1.2. Quan hệ Hoa Kỳ và Nhật Bản trước thế chiến II ..................................... 72
3.2. Những trận hải chiến ở Thái Bình Dương trong chiến tranh thế giới thứ II và
những phân tích địa – chính trị....................................................................... 81
3.2.1. Giai đoạn 1: Nhật Bản chiếm ưu thế ........................................................ 82
3.2.2. Giai đoạn 2: Quân Đồng minh phản công .............................................. 100
3.3. Những yếu tố ảnh hưởng đến cuộc chiến tranh Thái Bình Dương .............. 109
Tiểu kết chương 3 .................................................................................................. 118
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 119
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 123
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT
U-Boat : Tàu ngầm
CTTG : Chiến tranh thế giới
: TLKHVCN Tiềm lực khoa học công nghệ
TLKT : Tiềm lực kinh tế
QS : Quân sự
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1. Sức mạnh hải quân của các cường quốc, tháng 1 năm 1939 .................... 43
Bảng 3.1. Bảng thống kê lực lượng tham gia trận Leyte ........................................ 106
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Lịch sử đã cho thấy rằng những con người đứng trước biển là những người vĩ
đại, nói đến biển là nói đến con đường lớn đúng hơn là 1 đồng bằng cực kì rộng, đi
theo hướng nào cũng được. Mặc dù biển có tiềm ẩn đầy hiểm nguy nhưng nhìn
chung vận tải đường biển bao giờ cũng dễ dàng hơn và rẻ hơn so với đường bộ.
Lịch sử thế giới cho thấy rằng, trong những giai đoạn quan trọng thì sức mạnh trên
biển đá có ý nghĩa chiến lược và sức nặng nắm giữ tác nhân quyết định. Ngày nay,
vấn đề kiểm soát biển là một vấn đề cực kì quan trọng, khống chế được biển có thể
làm chủ được con đường hàng hải huyết mạch. Biển như là tiêu chí quan trọng đối
với sự giàu mạnh và phồn vinh của một quốc gia. Chính vì thế mà trong trong thập
niên đầu của thế kỉ XXI trên thế giới đã diễn ra những cuộc tranh chấp lãnh thổ trên
biển ở vùng biển Đông giữa Trung Quốc và một số nước Đông Nam Á trong đó có
Việt Nam, tranh chấp các đảo giữa Nga – Nhật, Trung Quốc – Nhật Bản…đều đang
trở nên là điểm nóng của thế giới. Quay trở lại với lịch sử trong cuộc chiến tranh thế
giới thứ hai thì những cuộc hải chiến giữa Đồng Minh và Phát xít đã nổ ra khốc liệt
trên các đại dương: Đại Tây Dương, Địa Trung Hải, Ấn Độ Dương, Thái Bình
Dương. Đó là những cuộc chiến tàn khốc của lịch sử nhân loại, diễn ra trên 1 diện
rộng thể hiện sức mạnh hải quân, chiến lược và chiến thuật hải quân không ngừng
thay đổi. Những trận chiến đó còn là cuộc đấu tranh của các nội các các bên tham
gia, cuộc chiến đấu giữa các tướng lĩnh, cuộc chiến đấu của nhiệm vụ tình báo…Tất
cả đã làm nên 1 kết cục của cuộc chiến tranh thế giới thứ hai – mà phần thắng thuộc
về những kẻ ít sai lầm nhất. Nghiên cứu những trận hải chiến trong chiến tranh thế
giới thứ II dưới góc nhìn địa chính trị để thấy được tầm quan trọng của yếu tố biển
đối với những quốc gia chịu phụ thuộc vào môi trường biển và phòng thủ biển đối
với những quốc gia có bờ biển. Qua đó thấy được sự phát triển của lực lượng làm
nhiệm vụ phòng thủ biển – lực lượng hải quân phụ thuộc vào chính sách của chính
quyền. Đồng thời để người viết có thể tìm hiểu sâu về những trận hải chiến và vai
trò của nó đối với toàn bộ cuộc chiến – phần mà trong chương trình lịch sử ở Việt
Nam chưa đề cập nhiều đến. Với những lí do trên người nghiên cứu quyết định
2
chọn đề tài “Những trận hải chiến trong cuộc chiến tranh thế giới thứ II dưới góc
nhìn địa chính trị” để làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu về các vấn đề về địa - chính trị, và cuộc chiến tranh thế giới thứ 2
có nhiều công trình:
Ở nước ngoài, các công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài khá đồ sộ và
chuyên sâu. Có thể kể đến những công trình sau.
- Ảnh hưởng của sức mạnh trên biển đối với lịch sử, 1660 – 1783 của Alfred
Thayer Mahan. Tác giả được coi là nhà chiến lược quan trọng nhất của Mỹ thế kỉ
XIX. Quan điểm của ông về “quyền lực trên biển” ảnh hưởng rất lớn đối với quá
trình hình thành tư tưởng chiến lược hải quân cũng như chính sách đối ngoại của
nhiều quốc gia ven biển trên khắp thế giới đặc biệt là ở Mỹ, Đức, Nhật, Anh. Cuốn
sách gồm 14 chương trong đó phần dẫn nhập và chương 1: những thành tố của sức
mạnh biển, tác giả đã đưa ra khái niệm “quyền bá chủ biển” và “sức mạnh trên
biển” những khái niệm mà sau này trở thành những tác nhân quan trọng nhất của
cuộc chiến tranh trên biển trong đó có cuộc chiến tranh thế giới thứ II, trình bày
những điều kiện chính ảnh hưởng đến sức mạnh trên biển của các quốc gia tác động
lớn đến những chính sách đối ngoại của các nước. Dù đây là công trình của thế kỷ
trước, thế kỷ mà nền kỹ thuật công nghệ chưa phát triển những những tư tưởng của
ông đã ảnh hưởng đến chính sách kinh tế quốc phòng, an ninh của các trước trong
những năm trước chiến tranh thế giới thứ II. Cách trình bày, lý giải về những trận
hải chiến của ông đã giúp ích cho tác giả rất nhiều.
- Abraham Rothberg (2009), Lịch sử sống động của đệ nhị thế chiến, ng.d
Nguyễn Quốc Dũng, Nxb Từ điển bách khoa. Cuốn sách được các học giả Âu, Mỹ
đánh giá là một cuốn sách có giá trị. Các tư liệu khá sinh động, chi tiết, cận cảnh
các mặt trận của Anh, Mỹ. Cuốn sách bao gồm 4 chương (chương 1: Tấn công,
chương 2: Bao Vây, chương 3: Phản công. Chương 4: Chiến thắng). Trình bày khác
ngắn gọn song có nhiều tư liệu về cuộc hải chiến như các số liệu về sức mạnh của
nền kinh tế quân sự của đồng mình. Giúp tác giả có cơ sở để lý giải được 1 phần về
thắng lợi cuối cùng của đồng minh.
3
- Robin Cross (2011), Bách khoa toàn thư về chiến tranh, ng.d Thế Anh, Nxb
Văn hóa thông tin. Cuốn sách không trình bày chi tết diễn biến của cuộc chiến mà có
những phân tích chung, đánh giá chung. Đặc biệt là có những phần về cuộc chiến tranh
trên biển, phân tích những yếu tố chiến lược, chiến thuật và những tác nhân ảnh hưởng
đến hải chiến. Mặc dù không có đi vào phân tích địa chính trị ở các trận hải chiến.
Nhưng những phân tích gần gũi với đề tài, cũng như tư liệu bản đồ của cuốn sách.
- The Two Ocean war a short history of the United states navy in the second
world war, của Samuel Eliot Mirison xuất bản năm 1963. Cuốn sách được đánh giá
là tác phẩm kinh điển chứa đựng khối lượng tư liệu đồ sộ về hải quân Mỹ trong
vòng 15 năm của cuộc chiến tranh thế giới thứ 2. Cuốn sách gồm 15 chương: trình
bày về giới hạn hải quân từ 1922 đến 1937, những chiến lược Thái Bình Dương, sức
mạnh hải quân dưới thời Roosevelt 1933 – 1939; thảm họa Trân châu cảng, trận Đại
Tây Dương, trận Midway, Guadalcanal, Lyte. Tác giả đã sử dụng phần kiến thức về
chiến lược Thái Bình Dương cũng như một số đoạn ở phần kết luận của sách.
- The second world war: vol 3: the war at sea của Phillip D. Grove, Mark J
Grove xuất bản năm 2002. Tác giả đã trình bày toàn diện về các trận hải chiến trên
Đại Tây Dương, Địa Trung Hải, Ấn Độ dương – tuyến đường được xem như động
mạch hậu cần của Anh và quân đội đồng minh tiếp tế cho chiến trường châu Phi,
châu Á, châu Âu. Đưa ra nhận định rằng cuộc chiến tranh trên biển là một chiến
quan trọng làm thay đổi sự cân bằng lực lượng quân sự trên đất liền, những thắng
lợi của cuộc chiến tranh trên biển có ý nghĩa lớn đối với thắng lợi cuối cùng của phe
đồng minh.
- Trận Midway là trận chiến bản lề trong cuộc chiến tranh Thái Bình Dương
trong cuốn The Battle of Midway của Craig L Symonds xuất bản năm 2011 được
đánh giá là cuốn sách hay nhất năm 2011 của lịch sử quân sự, là một công trình
nghiên cứu sâu, lập luận sắc sảo, là tác phẩm tuyệt với của nhà sử học Symonds.
Cuốn sách đã nhận mạnh vào vai trò của những quyết định quan trọng của chỉ huy,
mô tả bức chân dung của các nhân vật lãnh đạo, những cá tính, nhược điểm làm ảnh
hưởng đến thắng lợi. Chiến thắng Midway được mô tả như phép lạ, một thành công
mà phụ thuộc vào thời gian của cuộc tấn công máy bay ném bom bổ nhào. Mặt khác
4
Symonds còn làm rõ may mắn chỉ đóng một phần, chiến thắng ở Midway chủ yếu là
kết quả của sự chuẩn bị đầy đủ, kế hoạch cẩn thận, hiểu quả của việc sử dụng radar
(thứ mà Nhật Bản không có) và sự vượt trội của chỉ huy.
- Về trận hải chiến Guadalcanal kéo dài từ tháng 8 – 1942 đến tháng 2 – 1943
là cuộc phản công lớn đầu tiên của Mỹ chống lại Nhật Bản ở Thái Bình Dương.
Thắng lợi của trận Guadalcanal đã làm bước ngoặt lớn của cuộc chiến tranh Thái
Bình Dường. Trong cuốn sách “The naval Battles for Guadalcanal, 1942, clash for
supremacy in the pacific “ của Mark Stille xuất bản năm 2013. Tác giả đã trình bày
chi tiết về cuộc chiến giữa hải quân Nhật và hải quân Mỹ nhằm kiểm soát mặt biển
theo trình tự thời gian, cho rằng sở hữu sân bay Henderson vào Guadalcanal là chìa
khóa để chiến thắng, sự đối lập của các chỉ huy, kế hoạch tác chiến từ đó đánh gia
thẳng thắn sai lầm của 2 bên. Tác giả kết luận thắng lợi cuối cùng là phụ thuộc vào
khả năng chiến đấu của một số ít tàu.
- The Pacific Campaign in World War II: From Pearl Harbor to Guadalcanal
của William Bruce Johnson được xuất bản năm 2006 cuốn sách gồm 15 phần trình
bày tỉ mỉ từ bối cảnh của cuộc chiến tranh Thái Bình Dương, giải thích vì sao Nhật
Bản lại mạo hiểm và những thay đổi chiến lược liên tục từ trận Trân Châu cảng đến
trận Guadalcanal.
- The Defeat of the German U-Boats: the battle of the atlantic của David
Sysett trong cuốn sách này tác giả đã phân tích chi tiết những nỗ lực để ngăn chặn
các cuộc tấn công tàu ngầm của Đức đối với tàu buôn của phe đồng minh. Năm
1943 thì vấn đề ngăn chặn tàu U- Boat trở thành vấn đề chiến lược hàng đầu của
Đồng minh để đánh bại lực lượng của Hitler. Cuốn sách đã mô tả chi tiết U-Boat,
đồng thời Syrett thảo luận về các loại vũ khí được phát triển bởi các nước Đồng
minh. Nhấn mạnh vai trò quan trọng của trận Đại Tây Dương đối với thắng lợi của
cuộc chiến tranh.
Ở Việt Nam có nhiều công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài. Có thế đề
cập đến một số công trình sau:
- Cuộc chiến tranh Thái Bình Dương 1941 – 1945 của TS. Lê Vinh Quốc và
Huỳnh Văn Tòng biên soạn cuốn sách gồm 2 phần, 8 chương trình bày sự kiện dưới
5
hình thức kí sự, rõ ràng. Những cuộc Hải chiến trong cuộc chiến tranh Thái Bình
Dương được tác giả trình bày khá chuyên sâu.
- Chiến lược và chiến thuật trong đệ nhất và đệ nhị thế chiến, quyển II của
Hoàng Ngọc Thành xuất bản năm 1973. Nội dung của cuốn sách đã được tác giả
tham khảo nhiều tư liệu lịch sử quý bằng những ngôn ngữ: Anh, Pháp, Đức. Cuốn
sách gồm 2 phần: Phần III, Phần IV (tiếp sau phần II của quyển I). Trong đó, phần
III tác giả đã đề cập đến các chủ thuyết quân sự và sự võ trang của các cường quốc
cuối thập niên 1930 – 40 trong đó có sức mạnh hải quân của các nước. Phần IV:
trình bày chiến lược và chiến thuật qua các trận đánh lớn của hải lục không quân.
Trong phạm vi đề tài của mình, người viết sẽ khai thác những tư liệu về mối quan
hệ giữa các cường quốc, sức mạnh hải quân cũng như chiến lược và chiến thuật hải
chiến mà cuốn sách có đề cập đến.
- Nhiều tác giả, Nhật Bản trong chiến tranh Thái Bình Dương (2004), ng.d Lê
Kim NXB Công an nhân dân. Cuốn sách được biên soạn chủ yếu từ các nguồn sử
liệu chính của Nhật Bản, cùng với những hồi kí của nhiều nhân chứng lịch sử của
các nước có liên quan. Bao gồm 15 phần, nêu lên sự hình thành tư tưởng bành
trướng, ý đồ chính trị của giới quân phiệt Nhật Bản trong việc bá chủ châu Á – Thái
Bình Dương, quá trình chuẩn bị và những hành động của Nhật Bản để bắt đầu cuộc
chiến. Cuốn sách trình bày khá đầy đủ về diễn biến của cuộc chiến song sự trình
bày chỉ mang tính lược dịch, lược thuật chưa đi sâu vào phân tích chi tiết trận chiến.
Với tư liệu mà cuốn sách có được, tác giả đã sử dụng vào phần những yếu tố ảnh
hưởng đến cuộc chiến thông qua nhận xét của Philippe Masson.
3. Mục đích nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu nhằm dựng lại diễn biến của những trận hải chiến
trong chiến tranh thế giới thứ II. Bên cạnh đó luận văn mong muốn góp phần làm rõ
sự ảnh hưởng, tác động của yếu tố địa chính trị đến những quyết định dẫn tới trận
chiến và kết quả của những kêt những trận hải chiến trong chiến tranh thế giới
thứ II.
6
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là những trận hải chiến trong chiến tranh thế giới thứ II
diễn ra ở Đại Tây Dương, Địa Trung Hải, Thái Bình Dương dưới góc nhìn địa chính
trị.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian:
Những trận hải chiến xảy ra ở Đại Tây Dương, Địa Trung Hải, Thái Bình Dương.
- Về thời gian:
Từ năm 1939 đến 1945, tương đương với thời gian diễn ra cuộc chiến tranh
thế giới thứ hai. Tuy nhiên, giai đoạn trước đó cũng sẽ được đề cập tới trong những
để làm rõ hơn nội dung nghiên cứu.
5. Phương pháp nghiên cứu
Cơ sở phương pháp luận là chủ nghĩa Mác –Lê nin và Tư tưởng Hồ Chí Minh.
Phương pháp nghiên cứu chủ yếu là phương pháp lịch sử, phương pháp logic,
phương pháp định lượng và phương pháp liên ngành giữa quan hệ quốc tế và địa lý
học.
6. Nguồn tư liệu
- Các tài liệu sách viết về đề tài và có liên quan đến đề tài.
- Các bài báo, tạp chí có liên quan đến đề tài.
- Các website lớn ở nước ngoài viết về đề tài.
- Phim, bô sưu tập tranh ảnh có liên quan đến đề tài.
7. Đóng góp của luận văn
Đây là lĩnh vực chưa có sự quan tâm nghiên cứu của các nhà nghiên cứu trong
nước nên đề tài được tiến hành nghiên cứu nhằm có thể thu thập và hệ thống hóa
nguồn tài liệu tạo thành tập tin, nguồn tài liệu đáng tin cậy về là tài liệu có ích đối
với những người quan tâm đến đề tài.
8. Bố cục của luận văn và các vấn đề cần giải quyết
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, tài liệu tham khảo, phần phụ lục luận văn
có ba chương nội dung chính:
7
Chương 1: Lý luận về địa chính trị và vấn đề địa chính trị trong chiến tranh thế
giới thứ II
Chương 2: Những trận hải chiến ở Đại Tây Dương và Địa Trung Hải trong
chiến tranh thế giới thứ II
Chương 3: Những trận hải chiến ở Thái Bình Dương trong chiến tranh thế giới
thứ II
8
Chương 1. LÝ LUẬN VỀ ĐỊA - CHÍNH TRỊ VÀ VẤN ĐỀ
ĐỊA - CHÍNH TRỊ TRONG CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ II
Trong hầu hết lịch sử quốc tế, kiểm soát lãnh thổ là tiêu điểm dẫn đến những
xung đột chính trị. Sự tự mãn dân tộc khi đã chiếm hữu được một lãnh thổ rộng
hơn, hoặc cái cảm tưởng của cả dân tộc bị tước đoạt mất mảnh đất “thiêng” là
nguyên nhân của hầu hết các cuộc chiến tranh đẫm máu xảy ra từ khi xuất hiện chủ
nghĩa dân tộc. Đòi hỏi cấp bách về lãnh thổ là là động lực chính đựa tới thái độ hiếu
chiến của các quốc gia dân tộc. Các đế chế cũng đã được xây dựng thông qua sự
chiếm đoạt và giữ vững các vị trí điạ lý thiết yếu như Gibraltar hay kênh đào Suez
hoặc Singapore là những điểm nghẽn then chốt trong hệ thống kiểm soát mang tính
đế quốc.
Mối quan hệ giữa chủ nghĩa dân tộc với sở hữu lãnh thổ được Đức Quốc xã và
đế quốc Nhật thể hiện rất rõ. Nỗ lực xây dựng “đế chế Đức ngàn năm” đã vượt ra
ngoài mục tiêu đoàn kết tất cả các dân tộc nói tiếng Đức dưới một mái nhà chính trị
và cũng tập trung vào tham vọng khống chế những “vựa lúa” Urcaina và các nước
Slavo khác để có lao động nô lệ rẻ mạt cho lãnh địa của đế quốc. Người Nhật cũng
bị ám ảnh bởi khái niệm cho rằng trực tiếp sỡ hữu lãnh thổ Mãn Châu và sau đó là
các cùng Đông Ấn thuộc Hà Lan sản xuất nhiều dầu hỏa là thiết yếu để hoàn thành
sứ mệnh tìm kiếm sức mạnh quốc gia và vị thế toàn cầu. [2, tr43] Vị trí địa lý đôi
khi mang lại cho họ vai trò đặc biệt, như nó là cửa ngõ vào các khu vực quan trọng,
như là một lá chắn phòng thủ cho một quốc gia trọng yếu, hoặc thậm chí cho cả một
khu vực. Sự tồn tại của yếu tố điểm then chốt địa chính trị có thể mang lại những
hậu quả chính trị và văn hóa rất có ý nghĩa đối với địa chính trị láng giềng.
1.1. Khái quát về khoa học địa - chính trị
Nghiên cứu mối quan hệ giữa chính trị với môi trường địa lí đã được nhiều
người thực hiện từ thời Trung cổ. Địa chính trị đã phát triển từ thời kì cổ đại đến
giữa thế kỉ XIX. Trong đó, nhà địa chính trị người Đức Friedrich Ratzel là một
trong những người đi tiên phong đánh dấu thời kì của địa chính trị hiện đại. Nhắc
đến địa chính trị thời kì trước đó, mỗi chúng ta không thể không kể đến các tên tuổi
9
nổi tiếng như Aristote, Jean Bodin, Montesquieu và Thucydide. Thời kì phát triển
mạnh mẽ của địa chính trị là giai đoạn nửa sau thế kỉ XIX và nửa đầu thế kỉ XX.
Môi trường tri thức thuận lợi đã tạo điều kiện cho ngành địa chính trị phát triển.
Giai đoạn này ghi đậm dấu ấn bằng sự chiến thắng của chủ nghĩa khoa học và việc
con người công nhận thuyết tiến hóa của Darwin được áp dụng trong các lĩnh vực
xã hội. Mặc dù, tư tưởng của địa chính trị được sử dụng từ rất sớm, nhưng với cấu
tạo từ ghép vì vậy quan niệm địa chính trị từ khi mới ra đời cho đến tận ngày nay
vẫn chưa được thống nhất.
1.1.1. Khái niệm địa - chính trị
Có thể nói rằng, tư tưởng địa chính trị có từ lâu đời, khi những quốc gia, dân
tộc trên thể giới hình thành. Nhưng khái niệm địa chính trị thì tới ngày nay vẫn
chưa có một khái niệm thống nhất. Tùy vào quan điểm, nhận thức của mỗi nhà khoa
học mà có những định nghĩa khác nhau, cũng như tùy vào từng giai đoạn lịch sử mà
thuật ngữ địa chính trị được hình thành.
Theo từ điển bách khoa Le Petit Larousse illustre của Pháp (năm 2000) đã
định nghĩa “Địa chính trị nghiên cứu các mối quan hệ giữa các dữ liệu đía lý với
nền chính trị của các quốc gia” [dẫn theo 4, tr.17].
Từ điển bách khoa Britannica (2004 CD –ROM) định nghĩa địa chính trị là
“sự phân tích những ảnh hưởng của địa lý đến các mối quan hệ quyền lực trong
chính trị quốc tế. Trong việc hoạch định các chính sách quốc gia, các nhà lý thuyết
địa chính trị đã tìm cách chứng minh tầm quan trọng của những điều đáng chú ý
như việc xác lập các đường biên giới quốc gia, quyền tiếp cận các đường biển quan
trọng và quyền kiểm soát những khu vực đất liền có tầm quan trọng chiến lược”
[dẫn lại theo 4, Tr.17].
Đây là hai định nghĩa kinh điển của giới khoa học. Bên cạnh đó, trong lịch sử
thuật ngữ địa chính trị được hình thành như sau:
Năm 1900, Rudolf Kjellen (1864 – 1922) là người đầu tiên đưa ra thuật ngữ
“địa chính trị” với định nghĩa như sau: “Địa chính trị là lý thuyết về quốc gia với tư
cách là một cơ thể địa lý hoặc một hiện tượng trong không gian, tức là đất đai, lãnh
thổ, khu vực hoặc đặc biệt nhất là một đất nước, hay nghiên cứu các chiến lược của
10
các cơ thể chính trị trong không gian” [Dẫn lại theo 4, tr.18]. Như vậy, theo định
nghĩa này, Kjellen chú trọng đến 2 yếu tố chủ chốt của địa chính trị là quyền lực và
không gian.
Tướng Đức Karl Haushỏe (1869 – 1946) thì bổ sung thêm các tiến trình chính
trị cho định nghĩa về địa chính trị: “Địa chính trị là một ngành khoa học quốc gia
mới nghiên cứu về nhà nước,… một học thuyết về quyết định luận không gian của
các tiến trình chính trị, dựa trên cơ sở rộng rãi của địa lý học, đặc biệt là địa lý học
chính trị” [dẫn theo 4, tr. 18].
Thời hiện đại, nhiều nhà khoa học đã đưa ra nhiều quan niệm khác nhau về địa
chính trị.
Saul Bernard Cohen một tác giả người Anh, vào năm 1964 đã đưa ra định
nghĩa địa chính trị như sau: Địa chính trị là khoa học nghiên cứu về “mối quan hệ
giữa quyền lực chính trị quốc tế với khung cảnh địa lý” [dẫn theo 4 , tr.18].
Năm 1988, Oyvind Osterud đã định nghĩa địa chính trị là: “Nói một cách tóm
tắt, theo truyền thống thì địa chính trị được dùng để chỉ các mối liên hệ và quan hệ
nhân quả giữa quyền lực chính trị với không gian địa lý; nói một cách cụ thể, nó
thường được coi là một khối tư duy có nhiệm vụ thử nghiệm những yêu cầu chiến
lược đặc thù dựa trên tầm quan trọng tương đối của sức mạnh trên đất liền và sức
mạnh trên biển trong lịch sử thế giới…Truyền thống địa chính trị có một số quan
ngại thường xuyên, ví dụ như những nhân tố tương quan sức mạnh trong nền chính
trị thế giới, như việc xác định các khu vực chủ chốt của quốc tế, và các mối quan hệ
giữa khả năng hải quân và khả năng trên bộ” . [dẫn theo, 4, tr.18]
Năm 1993, trong cuốn sách Political Geography [Địa lý học chính trị”,
Longman, xuất bản lần 3], tác giả Peter J.Taylor viết rằng sự phục hồi của địa chính
trị đã được định hình theo 3 cách:
1. Địa chính trị đã trở thành một thuật ngữ thông dụng để mô tả sự cạnh tranh
toàn cầu trong nền chính trị thế giới”
2. “Hình thức thứ hai (…) là một hình thức hàn lâm, một địa chính trị mới
mang tính phê phán hơn. Các nghiên cứu lịch sử mang tính phê phán đối với địa
chính trị trong quá khứ đã trở thành một thành tố cần thiết của ngành địa chính trị
11
của nhà địa lý học”
3. Hình thức thứ ba (…) liên quan đến phong trào vận động hành lang mang
tính tân bảo thủ, có thiên hướng quân sự, cũng cấp các luận cứ địa chính trị cho lối
nói khoa trương của phòng trào nào về chiến tranh lạnh. Những công trình nghiên
cứu như thế đang nói đến những thúc bách về địa chính trị và chúng coi địa lý học
là nhân tố thường trực mà mọi tư tưởng chiến lược cần phải xoay quanh. [4, tr 20]
Tác giả Marisol Touraine (Pháp) trong cuốn Le bouleversement du monde –
Géopolitique du XXI siecle (“Sự đảo lộn thế giới: Địa chính trị thể kỉ XXI”) đã ghi
ngoài bìa hai chữ: “Sience politique” (“khoa học chính trị”) cho thấy tác giả coi lĩnh
vực địa chính trị là thuộc ngành chính trị học.
Năm 1999, trong công trình Introdution à l’analyse geopolitique [“nhập môn
phân tích địa chính trị”] nhà nghiên cứu người Pháp Aymeric Chauprade đã phát
triển một phương pháp luận địa chính trị chặt chẽ. Ông định nghĩa địa chính trị như
sau:
“Khoa học địa chính trị là việc nghiên cứu nội hàm của các thực tế địa chính
trị và sự vận động của chúng, thông qua việc nghiên cứu diện mạo, hình thức và
những vị trí địa chính trị”. Ông xác định rõ thêm: “..Nói quốc là là trung tâm và
con bài của các tham vọng địa chính trị không có nghĩa quốc gia là các tác nhân
thế giới duy nhất; khác với lĩnh vực quan hệ quốc tế,…()Khoa học địa chính trị
chấp nhận cả các tác nhân khác và các thực tế địa chính trị khác nữa” [dẫn lại theo,
4, Tr.21]
Như vậy, khác với các nhà địa chính trị cổ điển, Chauprade phân biệt rõ ràng
giữa địa chính trị với quan hệ quốc tế.
Năm 2003, trong cuốn sách Geopolitics of the World System [“Địa chính trị
của hệ thống thế giới”, Rowman and Littlefield ], Saul Bernard Conhen lại định
nghĩa rõ thêm về địa chính trị: “Địa chính trị là việc phân tích mối tương quan giữa
một bên là môi trường và bối cảnh địa lý với một bên là các tiến trình chính trị.(…)
Cả môi trường địa lý lẫn tiến trình chính trị đều mang tính năng động và có ảnh
hưởng lẫn nhau. Địa chính trị sẽ quan tâm đến mối tương quan này.” [dẫn lại theo,
4, tr.21]..Tác giả nhìn nhận địa chính trị dưới góc độ mối tương quan năng động
12
giữa quyền lực và không gian.
Dưới góc độ tài nguyên Giáo sư người Mỹ Michael T.Klare một chuyên gia về
các vấn đề an ninh thế giới đã quan niệm địa chính trị là “sự tranh giành giữa các
đại cường quốc và giữa những đại cường quốc có tham vọng đối với việc kiếm soát
lãnh thổ, kiểm soát các nguồn tài nguyên và những vị trí địa lý quan trọng như hải
cảng, kênh đào, hệ thống sông ngòi, ốc đảo, cũng các nguồn của cải và nguồn ảnh
hưởng khác”; (…)ông cho rằng sự tranh giành này chính là động lực của nền chính
trị thế giới và đặc biệt là của xung đột thế giới trong nhiều thế kỷ qua (…). [dẫn lại
theo 4, tr.22]
Trong cuốn sách “Địa chính trị, một lịch sử lâu dài” xuất bản 2006 Yves
Lacoste đã tuyên bố như sau: “Thuật ngữ địa chính trị là cái là ngày nay người ta đã
sử dụng cho nhiều việc khác nhau, thực tế được dùng để chỉ tất cả những gì liên
quan đến sự cạnh tranh quyền lực hoặc ảnh hưởng đối với những vùng lãnh thổ và
dân chúng sống trên đó: đó là sự cạnh tranh giữa đủ loại thế lực chính trị chứ không
phải chỉ là giữa các quốc gia, mà còn giữa các phong trào chính trị hoặc các nhóm
vũ trang ít nhiều bất hợp pháp – đó là sự tranh giành quyền kiểm soát hoặc thống trị
đối với các vùng lãnh thổ có quy mô lớn hoặc nhỏ” [dẫn lại theo, 4, tr.23] ….trong
định nghĩa này Lacoste nhấn mạnh tầm quan trọng của quy mô của cả quyền lưc lẫn
của không gian.
Tác giả Conlin Flint, trong cuốn Nhập môn địa chính trị năm 2006 nhấn mạnh
đến khía cạnh thực tiễn của lĩnh vực khoa học này: giành giật quyền lực: “Địa chính
trị, với tư cách là cuộc đấu tranh nhằm kiểm soát không gian và địa điểm, tập trung
chú ý vào quyền lực (…) Trong những quá trình thực hành địa chính trị ở thế kỷ
XX, quyền lực được nhìn đơn giản như là quyền lực tương đối của các quốc gia
trong các hoạt động đối ngoại. Đến thế kỉ 20, (…) các định nghĩa về quyền lực đều
tập trung vào khả năng tiến hành chiến tranh của một nước chống lại nước khác”
[dẫn lại theo 4, tr.23]
Tác giả Nguyễn Văn Dân trong cuốn Địa - chính trị trong chiến lược và chính
sách phát triển quốc gia đã tổng kết lại như sau: Có hai loại quan niệm về địa chính
trị: Quan niệm thứ nhất cho rằng, địa chính trị là một phân nhánh của môn địa lý
13
học chính trị, trong khuôn khổ của môn địa lý học nhân văn thuộc khoa địa lý học;
Quan niệm thứ hai cho rằng địa chính trị là một bộ môn thuộc ngành chính trị học,
nghiên cứu lĩnh vực quan hệ quốc tế, liên quan đến vấn đề tương quan quyền lực
giữa các quốc gia trong một cái chung bao quát hơn là nền chính trị thế giới.
Nhưng, dù quan niệm thế nào thì địa chính trị cũng là một lĩnh vực khoa học lý
thuyết và thực hành liên quan đến cả địa lý lẫn quyền lực chính trị. Tùy từng trường
hợp, khi nghiên cứu lý thuyết thì bộ môn này thiên về yếu tố địa lý, còn khi thực
hành thì nó tập trung nhấn mạnh vào yếu tố chính trị.
Như vậy, địa – chính trị là một danh từ ghép nên việc định nghĩa nó cũng có
nhiều quan điểm khác nhau. Cùng với sự phát triển của lịch sử loài người, thì khái
niệm địa – chính trị cũng được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau. Nhưng chung
quy lại khái niệm xung quanh mối quan hệ giữa yếu tố địa lý – chính trị.
1.1.2. Địa - chiến lược
Địa chiến lược là khái niệm được dùng để chỉ việc nghiên cứu giá trị chiến
lược của các nhân tố địa lý trong chính sách đối ngoại của một quốc gia và trong
mối quan hệ của nó với các quốc gia khác. Như vậy địa chiến lược là một bộ phận
thực hành quan trọng của địa chính trị, là một bộ môn của địa chính trị. Địa chiến
lược được áp dụng để cụ thể hóa chính sách đối ngoại của một quốc gia. Hầu hết
các định nghĩa địa chiến lược đều nhấn mạnh đến việc liên kết những tính toán
chiến lược với các nhân tố địa chính trị. Trong khi địa chính trị có vẻ ngoài trung
lập khi nghiên cứu những đặc điểm địa lý và chính trị của các khu vực khác nhau,
thì địa chiến lược đòi hỏi phải có kế hoạch và đề ra các biện pháp toàn diện để thực
hiện các mục tiêu quốc gia hoặc bảo vệ những tài sản có ý nghĩa quân sự hoặc chính
trị.
Thuật ngữ “địa chiến lược” là thuật ngữ mới xuất hiện ở nửa đầu thế kỉ 20 do
Frederick L.Schuman sử dụng lần đầu tiên với tên gọi “geo-strategy” vào năm
1942 để dịch thuật một từ tiếng Đức của Haushofer là “Wehrgeopolitik” có nghĩa là
“địa chính trị phòng vệ” hay “địa chính trị quốc phòng”. Chính vì thê mà trước đó
cũng có người dịch sang tiếng Anh là “defense –geopolitics”, thậm chí còn được
nhà chính trị người Mỹ gốc Áo Robert Strausz – Hupé (1903 -2002) dịch là “war -
14
geopolitics” (địa chính trị chiến tranh). Như vậy, địa chiến lược gắn chặt với chính
sách quốc phòng của một quốc gia. Tuy nhiên, đối với các nước đế quốc, nhiệm vụ
quốc phòng không chỉ giới hạn ở việc bảo vệ tổ quốc, mà chủ yếu là việc mở rộng
và chinh phục lãnh thổ. Vì thế, địa chiến lược luôn đặt trong tầm nhìn của địa chính
trị , thậm chí địa chính trị toàn cầu, và được cụ thể hóa bằng tầm nhìn chiến tranh.
Thậm chí có nhiều lúc, nhiều nhà địa chính trị chỉ khai thác bộ môn này để phục vụ
cho các nhiệm vụ địa chiến lược quân sự, làm cho trong một số trường hợp cụ thể,
địa chính trị bị đồng nhất với địa chiến lược [4, Tr.32].
Tư tưởng địa chiến lược đã xuất hiện thời xa xưa. Từ Đông sang Tây, mỗi khi
tiến hành các chiến dịch quân sự, các tướng lĩnh đều phải tính toán đến các yéu tố
địa lý và chính trị - quân sự để đề ra các chiến lược hành động. Các nhà chiến lược
như Tôn Tử (thế kỉ 6 -5 trước Công nguyên, Tôn Tấn (thế kỉ 4 trước Công nguyên)
của Trung Quốc, Trần Quốc Tuấn (thế kỉ 13) của Việt Nam đều có thể gọi là những
nhà địa chiến lược đại tài khi họ biết kết hợp chính trị với thiên thời và địa lợi để
thực hiện các mục tiêu quân sự, không kém gì các tướng tài của các đế quốc Hy
Lạp, La Mã…
Trong Binh pháp Tôn Tử, Tôn Tử (Tôn Vũ) đã đúc kết kinh nghiệm và rút ra
các bài học về dùng binh. Ông đã đưa ra 5 nhân tố quan trọng quyết định sự thành
bại của chiến tranh: Đạo, Thiên, Địa, Tướng, Pháp, trong đó 3 nhân tố đầu đều có
thể được coi là thuộc phạm vi của địa chính trị. Ông nói rõ: “Đạo là chỉ việc chính
trị, đạo nghĩa” ;Thiên là thiên thời”, tức tình trạng khí hậu thời tiết, Địa là địa lợi,
nói về đường sá, địa thế, địa hình..Trong thiên thứ mời (“Địa hình”), ông phân tích
“Sáu loại địa hình” cần chú ý khi dụng binh và Thiên mười một (“Cửu địa”) ông
dành để phân tích “chín thế đất” mà các tướng lĩnh cần quan tâm khi giao chiến. Có
thể nói Binh pháp Tôn Tử là một cuốn “cẩm nang tác chiến” và là một trong những
công trình lý luận địa chién lược đầu tiên của tư duy địa chính trị [4, tr.33].
Cuốn sách Binh gia diệu lý yếu lược, còn được gọi là Binh thư yếu lược của
Trần Quốc Tuấn cũng là một cuốn sách có giá trị như một công trình bàn về địa
chiến lược quân sự. Các bài viết về địa hình đã được Trần Quốc Tuấn cũng là một
cuốn sách có giá trị như là một công trình bàn về địa chiến lược quân sự. Các bài
15
viết về Địa hình đã được Trần Quốc Tuấn vận dụng rất sáng tạo để tiêu diệt quân
xâm lược nhà Nguyên trên cửa sông Bạch Đằng. Có thể thấy, địa chiến lược là một
lĩnh vực đã có kinh nghiệm thực tiễn từ lâu và các bài viết về cách dùng binh có thể
được coi là những bài thực nghiệm của địa chiến lược, đồng thời còn có thể được
coi là những bài học sơ khai của địa chính trị [4,tr.33].
Như vậy, do tính chất gần gũi giữa địa chính trị và địa chiến lược cho nên khi
bàn về địa chính trị, nếu chúng ta có phân tích các vấn đề thuộc địa chiến lược thì
cũng hoàn toàn hợp lý và cần thiết, bởi lẽ khó có thể tách rời ba lĩnh vực này mà
không làm hỏng bức tranh về quan hệ hệ quốc tế. Ví dụ, khi bàn về Mackinder,
người ta vừa coi ông là một nhà địa lý học, vừa là nhà địa chính trị và cũng vừa là
nhà địa chiến lược. Chẳng hạn như trong cuốn Global Geostrategy: Mackinder and
defence of the West: “Địa chính trị toàn cầu: Mackinder và phòng thủ phương Tây”
của Brian W.Blouet (Nxb.Routledge,2005), tác giả đã dành cả tập 1 để giới thiệu
các lý thuyết chính trị và tập trung vào Mackinder. Vì thế, để cho giản tiện chúng ta
có thể gộp tất cả vấn đề của cả ba lĩnh vực nói trên dưới một cái mũ chung là “địa
chính trị” [4, tr.33-34].
Tác giả nhìn nhận địa chiến lược với ý nghĩa là một bộ môn, bộ phận thực
hành của địa chính trị vì vậy trong công trình của mình tác giả có tìm hiểu sâu về
yếu tố địa lý ảnh hưởng đến những chiến lược, chiến thuật của các vì tướng cầm
quân cũng như phân tích những nguyên nhân thắng lợi và thất bại của trận hải chiến
trong cuộc chiến tranh thế giới thứ hai.
1.2. Các học thuyết địa - chính trị ảnh hưởng đến chiến lược của các
nước trong chiến tranh thế giới thứ 2
1.2.1. Tư tưởng địa – chính trị ở Hoa Kỳ
Hoa Kỳ là một quốc gia nằm giữa hai đại dương là Đại Tây Dương và Thái
Bình Dương. Đất nước được bao quanh bởi biển cả và đại dương, Hoa Kỳ vừa có
lợi thế để phát triển kinh tế biển vừa có được đường hào thiên nhiên bảo vệ để
chống lại mọi sự xâm nhập của các đế quốc truyền thông ở châu Âu, đảm bảo gần
như tuyệt đối cho an ninh quốc gia. Vì thế trong lịch sử non trẻ của mình, ngoại trừ
cuộc chiến tranh chống lại “mẫu quốc” là Đế quốc Anh để giành độc lập dân tộc từ
16
năm 1775 đến 1781, Hoa Kỳ chưa một lần nào phải đương đầu với một cuộc xâm
lược từ bên ngoài. Sự giàu có về tài nguyên cộng với vị trí địa chiến lược thuận lợi
đã giúp Hoa Kỳ nhanh chóng phát huy lợi thế địa - chính trị của mình để trở thành
một đế quốc hiện đại, thay thế cho đế quốc Anh già cỗi. Trong quá trình phát triển
đó, Hoa Kỳ đã kết hợp các lý thuyết địa - chính trị với địa - kinh tế, địa - quân sự để
thực hiện công cuộc bành trướng lãnh thổ cũng như bành trướng sự ảnh hưởng của
mình ra toàn thế giới.
Như vậy, là một quốc gia biển, Hoa Kỳ rất quan tâm đến các lý thuyết địa -
chính trị coi trọng sức mạnh biển. Trong tinh thần đó, lý thuyết địa chiến lược của
Alfred Mahan về sức mạnh biển đã nhanh chóng được áp dụng để Hoa Kỳ xây dựng
một lực lượng hải quân thuộc loại hùng mạnh nhất thế giới.
1.2.1.1. Lý thuyết sức mạnh biển của Alfred Thayer Mahan
Đô đốc Mahan là người sáng lập ra ngành địa chính trị của Mỹ. Ông trở thành
cố vấn cho nhiều nhà lãnh đạo Mỹ, trong đó có tổng thống Théodore Roosevelt.
Mahan đã suy nghĩ và đặt câu hỏi: “Làm thế nào để nước Mỹ có thể trở thành
cường quốc trên thế giới?”. Ông đưa ra lời giải đáp bằng cách nhận định nước Mỹ
sẽ thống trị thế giới bằng chiến lược làm chủ các đại dương. Ông nhận xét nước Mỹ
đã trở thành cường quốc công nghiệp và là cường quốc lục địa, nhưng sức mạnh của
một quốc gia không phụ thuộc vào điều đó mà phục thuộc vào việc làm chủ các đại
dương.
Ông đưa ra lí thuyết sức mạnh đến từ biển. Khi mọi sự giao thương buôn bán
với bên ngoài đều được tiến hành thông qua các hải cảng của đất nước và mỗi quốc
gia đều muốn việc buôn bán của mình được tiến hành bằng chính những con tàu của
đất nước mình. Việc buôn bán bằng tàu biển đó lại đòi hỏi các hải cảng và hành
trình buôn bán cần được đất nước bảo vệ. Trong thời chiến tranh, trách nhiệm bảo
vệ này cần được mở rộng cho lực lượng tàu chiến. Như vậy, theo Mahan, yêu cầu
phải có một lực lượng hải quân xuất phát từ sự tồn tại của việc vận tải bằng một đội
tàu biển thương mại hòa bình. Lực lượng này sẽ được giải thể khi việc buôn bán
bằng đường biển không còn nữa, trừ trường hợp một quốc gia có xu hướng đi xâm
lược. Để đảm bảo cho việc vận tải bằng tàu biển, các quốc gia đều có xu hướng tìm
17
kiếm và xây dựng cho mình những đồn bốt tiền tiêu dọc đường đi. Và thế là quá
trình thực dân hóa và thành lập các thuộc địa đã diễn ra để đảm bảo cho các đế quốc
có được một nền giao thương trên biển vững mạnh [4, tr. 47].
Ông phát triển lí thuyết về tranh chấp giữa quốc gia có sức mạnh trên đất liền
với các quốc gia có sức mạnh trên biển. Quốc gia có sức mạnh trên biển sẽ chiến
thắng trong cuộc đua này. Để đảm bảo sự thống trị của mình, cường quốc về biển
cần phải kiểm soát toàn bộ các tuyến đường giao thương trên biển. Ở thế kỉ 19, sự
kiểm soát buôn bán bằng đường biển là một vấn đề chủ chốt, đặc biệt là một quốc
gia hoàn toàn bị ám ảnh bởi sự bành trướng sang miền đất phía tây của lục địa châu
Âu.
Theo ông, để quốc gia có một sức mạnh biển hùng mạnh thì yếu tố chính
quyền có vai trò quan trọng: Vì trong thời bình, bằng chính sách của mình, chính
quyền có thể tạo thuận lợi cho sự tăng trưởng công nghiệp của người dân và cho xu
hướng làm giàu của họ bằng đường biển. Trên cơ sở đó, một lực lượng hải quân
vững mạnh sẽ được thiết lập; Trong thời chiến, sự ảnh hưởng của chính quyền được
cảm nhận một cách hợp pháp, nhất là trong việc duy trì một đội tàu hải quân vũ
trang, với quy mô tương xứng với sự tăng trưởng của ngành vận tải bằng tàu biển
với tầm quan trọng của quyền lợi liên quan đến nó. Quan trọng hơn quy mô của hải
quân chính là vấn đề về các thế chế của nó, có khả năng tạo thuận lợi cho tinh thần
và một hoạt động mạnh mẽ và tạo một sự phát triển nhanh trong thời chiến nhờ vào
một lực lượng dự bị thích hợp về người và tàu biển và nhờ các biện pháp khai thác
sức mạnh dự bị đó.
Tướng Mahan rất quan tâm đến sức mạnh biển và đến sự làm chủ trên biển
của một quốc gia. Theo ông, một quốc gia có sức mạnh biển thì sẽ trở thành một
cường quốc hùng mạnh biển của một quốc gia chủ yếu được quy giản thành sức
mạnh hải quân, tức là vào khía cạnh quân sự của quyền làm chủ trên biển.
Ông cho rằng trong chiến tranh, việc kiểm soát được việc buôn bán bằng
đường biển có tính chất quyết định giúp cho một bên tham chiến giành quyền chế
ngự. Nếu một bên tham chiến có khả năng chặn được đường biển của đối phương
thì nền kinh thế của đối phương sẽ không tránh khỏi sụp đổ. Nhưng muốn làm chủ
18
được trên biển thì theo ông, không thể dựa vào đội tàu thương mại mà phải dựa vào
đội tàu chiến mới có thể thực hiện được sứ mệnh này.
Mục tiêu của Mahan là hạm đội tàu chiến phải có khả năng tiêu diệt được lực
lượng chủ yếu của kẻ thù chỉ bằng một trận đánh quyết định duy nhất. Sau đó, việc
củng cố cuộc phong tỏa chống lại các tàu buôn của kẻ thù và săn tìm các con tàu
nhẹ còn lại của chúng sẽ là một việc có thể thực hiện được. Bởi vì, với đội tàu nặng
bị đánh đắm, kẻ thù khó có thể tái thiết được.
Hơn nữa, mục tiêu của kẻ yếu là trì hoãn một trận đánh quyết định như vậy;
nếu hạm đội của họ vẫn có đủ sức tạo thành một mối đe dọa thì kẻ thù sẽ không
dám liều mạng đưa lực lượng đến gần những con đường buôn bán trên biển. Đó
chính là chiến lược kìm giữ hải quân ở trong cảng, được gọi là “hạm đội binh”,
dùng để đe dọa chứ không phải để hành động.
Cuộc chiến tranh thế giới thứ hai diễn ra trên mặt trận Đại Tây Dương, Địa
Trung Hải là những cuộc chiến chống phá tàu ngầm, bảo vệ những đội thương
thuyền đảm bảo cho việc vận tải đường biển để tiếp viện cho chiến trường châu Âu,
châu Phi cũng như Anh quốc. Sự thắng lợi của phe Đồng minh đã cho thấy rằng
thắng lợi sẽ thuộc về bên nào có lực lượng hải quân bảo vệ đội thương thuyền mạnh
nhất. Có thể nhận thấy rằng, lực lượng hải quân đảm bảo cho đội thương thuyền đó
phụ thuộc vào sức mạnh vất chất của các cường quốc, cũng như chính sách quốc
phòng của các nước đó.
Mahan công nhận rằng, thành phần quan trọng nhất của cơ sở hạ tầng là hệ
thống đồn trú của lực lượng quân sự; nếu có điều kiện, cần phải phát triển hệ thống
này trên tất cả các khu vực quan trọng nhất của đại dương thế giới. Quan điểm này -
sách báo Liên Xô gọi là phản động và giả khoa học - bị các lí thuyết gia hải quân
phê phán kịch liệt. Trong khi đó, kinh nghiệm của Thế chiến II là bằng chứng đầy
thuyết phục cho luận điểm của Mahan. Hoạt động tuần dương của những con tàu
nổi cỡ lớn của hải quân Đức ở Đại Tây Dương không thu được nhiều thắng lợi,
trước hết bởi họ không có các cơ sở đồn trú ở những khu vực xa xôi. Hiệu quả hoạt
động của những con tàu ngầm Đức ở Đại Tây Dương được giải thích là do họ có
căn cứ hoạt động nhịp nhàng. Hoạt động quân sự Thái Bình Dương chủ yếu nhằm
19
chiếm các hòn đảo, nghĩa là tìm cách mở rộng hệ thống đồn trú của các hạm đội.
Trong giai đoạn tấn công chiến lược, hoạt động của các lực lượng không quân đóng
trên mặt đất mà thôi. Sau khi chiếm hết vị trí này đến vị trí khác, họ đã di chuyển
vào những nước gọi là các nước ở biển Đông. Người Mỹ cũng theo chiến lược như
thế, đó là chiến lược mà họ gọi là “những bước nhảy của ếch”. Sau khi lần lượt
chiếm các đảo và quần đảo, quân Mỹ tiến gần tới Nhật Bản. Lực lượng quân sự của
cả Nhật lẫn Mỹ đều tuân thủ quan điểm của Mahan [13, tr.15-16].
Sức mạnh trên biển, theo quan điểm của Mahan, là một hệ thống phức tạp, bao
gồm những thành phần như hạm đội tàu chiến và đội thương thuyền, cảng và căn cứ
hải quân. Ông sử dụng công thức sau: SP=N + MM + NB, nghĩa là sức mạnh trên
biển (Se Power) là Hải quân (Navy) + đội thương thuyền (Merchant Marine) + căn
cứ hải quân (Naval Bases). Mahan nhận xét rằng, nguyên nhân của nhiều cuộc
chiến tranh là giành giật “nền thương mại trên biển đầy lợi lộc”, “Xung đột lợi ích,
lòng hận thù bùng lên do các bên đều cố giành cho được phần lớn hơn, nếu không
nói là tất cả những lời ích mà thương trường tạo ra, dẫn đến những cuộc chiến
tranh” [13,tr.18].
Xem xét trong cuộc chiến tranh diễn ra trực tiếp trên con đường giao thương,
Mahan viết: “Những cuộc chiến đó không thể diễn ra đơn độc, dùng thuật ngữ quân
sự thì phải nói cần được hỗ trợ; bản thân không có đủ sức mạnh, nó không thể vươn
xa ra căn cứ của chính mình. Căn cứ phải là cảng trong nước hoặc tiền đồn vững
mạnh của quốc gia ở trên bờ hay giữa biển, tức là lãnh thổ thuộc địa ở xa hay một
hạm đội đầy sức mạnh”. Vì vậy, Mahan cho rằng nhiệm vụ chính của hải quân
trong chiến tranh là giành được quyền làm chủ trên biển. Quyền làm chủ mặt biển
được hiểu là đuổi toàn bộ hạm đội địch ra khỏi mặt biển. “Không phải việc bắt một
vài con tàu riêng lẻ hay đoàn tàu vận tải, dù là đông, có thể làm lung lay sức mạnh
quốc gia” - Mahan viết: “mà sự vượt trội hơn hẳn trên mặt biển, đủ sức đuổi hạm
đội địch hay chỉ cho phép họ xuất hiện như những kẻ tháo chạy; sự vượt trội như
thế tạo điều kiện xác lập quyền kiểm soát mặt biển và chặn đứng những con đường
mà tàu buôn dùng để đến và đi khỏi những bến bờ của họ”. Theo Mahan tranh giành
quyền bá chủ trên biển là mục đích của chiến tranh: “Làm chủ mặt biển hay kiểm
20
soát và sử dụng nó mãi mãi vẫn là những tác nhân vĩ đại trong lịch sử thế giới
[13, tr.18].
Về mặt tư tưởng, ban đầu hải quân Hoa Kì đã phản đối việc thay tàu buồm
bằng tàu hơi nước sau cuộc nội chiến. Tuy nhiên, Mahan đã cho rằng chỉ có các tàu
chiến bọc thép mới có thể có vai trò quyết định trong một cuộc chiến tranh hiện đại.
Theo học thuyết về trận đánh quyết định, một hạm đội không được để bị chia cắt;
công trình của Mahan đã khuyến khích sự cải thiện kỹ thuật bằng cách thuyết phục
những người phản đối rằng kiến thức và chiến lược hải quân vẫn là cần thiết, nhưng
sự thống trị biển đã dẫn đến yêu cầu phải đẩy nhanh sự phát triển của động cơ hơi
nước.
Công trình của Mahan đã ảnh hưởng lớn đến các lực lượng vũ trang của họ đã
được xây dựng từ trước cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất; đến bộ phận hải quân
của cuộc chiến tranh Tây Ban Nha – Mỹ; đến các trận đánh Tsushima, Jutland và
Đại Tây Dương; đến các học thuyết của những lực lượng hải quân lớn trong thời kỳ
giữa hai thế chiến.
Cuốn sách “Sự ảnh hưởng của sức mạnh biển đến lịch sử, giai đoạn 1660 –
1783”, còn được dịch sang tiếng Nhật và được sử dụng như sách giáo khoa trong
hải quân hoàng gia Nhật Bản. Điều này ảnh hưởng mạnh đến sự chỉ đạo cuộc chiến
tranh Thái Bình Dường của hải quân Nhật Bản, bằng cách nhận mạnh đến học
thuyết “trận đánh quyết định”- cho dù làm tổn hại đến việc bảo vệ buôn bán.
Tuy nhiên tiền đề cho rằng một lực lượng dự bị sẽ không phục hồi được sau
khi bị đánh bại hoàn toàn đã bị bác bỏ, bởi sự phục hồi của hải quân Mỹ sau khi bị
Nhật Bản tấn công tại Trân Châu cảng thuộc Hawaii, mặc dù người ta có thể biện
hộ rằng không phải là một trận thất bại hoàn toàn, bởi lẽ các tàu sân bay của Mĩ đã
không bị tiêu diệt mà chỉ có tàu chiến bị oanh tạc. Sự thất bại của hải quân Hoàng
gia Nhật Bản vào năm 1945 làm đổ vỡ học thuyết về vai trò của trận đánh quyết
định giữa các hạm đội. Đó là do sự phát triển của tàu ngầm và tàu sân bay, một lý
do khác là hải quân Nhật thỉnh thoảng lại chia xẻ lực lượng chủ chốt của mình.
Mahan trở thành nhà địa chính trị hàng đầu của Mỹ trong chiến lược xây dựng
hải quân. Đối với Hoa Kỳ biển và đại dương là một không gian rộng lớn cần phải
21
được kiểm soát. Nhưng do diện tích quá lớn, các quốc gia không thể kiểm soát và
làm chủ được toàn bộ mọi nơi. Vì vậy, cần tập trung vào một số trục giao thông
hàng hải, nơi có các con đường giao thương quan trọng, hay những nơi có các eo
biển có tính chiến lược của mỗi nước, ví dụ như eo biển Gibraltar, kênh đào Suez,
kênh đào Panama. Ông cho rằng trong chiến tranh, việc kiểm soát được việc buôn
bán bằng đường biển có tính chất quyết định giúp cho một bên tham chiến giành
quyền chế ngự. Nếu một bên tham chiến có khả năng chặn được đường biển của đối
phương thì nền kinh thế của đối phương sẽ không tránh khỏi sụp đổ. Nhưng muốn
làm chủ được trên biển thì theo ông, không thể dựa vào đội tàu thương mại mà phải
dựa vào đội tàu chiến mới có thể thực hiện được sứ mệnh này [4, tr.47].
Mahan đưa ra giả thuyết coi nước Mỹ như một hòn đảo, để có được sức
Nước Mỹ cần có khả năng kiểm soát toàn bộ các biển và đại dương bằng
mạnh, nước Mỹ cần tập trung chú ý vào ba điểm quan trọng:
Nước Mỹ cần luôn sẵn sàng đối mặt với sức mạnh đang lên của các cường
cách liên kết với Anh.
Người Mỹ cần có chiến lược phòng vệ bằng cách hợp tác với châu Âu để
quốc mới về hàng hải, đặc biệt là tham vọng của hoàng đế Guillaume II của Đức.
giảm bớt sức mạnh về hàng hải của các nước châu Á. Liên minh giữa Mỹ và châu
Âu cần phải được thiết lập để làm chủ không gian rộng lớn của biển và đại dương.
Sự hợp tác giữa cường quốc đường biển và cường quốc về lục địa là điều cần thiết.
Mahan là người đầu tiên suy nghĩ về mối liên hệ giữa lục địa và biển. Mối liên
hệ trọng tâm này được con người đặc biệt quan tâm, mỗi khi bàn về địa chính trị.
Karl Haushofer là người tiếp tục phát triển lí thuyết này đến mức độ hoàn thiện hơn.
Sau chiến tranh thế giới thứ 2, lí thuyết về mối liên hệ giữa biển và lục địa, không
mấy được chú ý vì những lí do khác nhau, nhưng đây vẫn là vấn đề quan trọng hàng
đầu của địa chính trị. Mahan nhận định cuộc đấu giữa cường quốc về biển và cường
quốc lục địa là vấn đề mấu chốt để quyết định quốc gia nào sẽ giành vị trí thống trị
thế giới, vì trong cuộc đấu này, có nhiều yếu tố rất khác biệt chi phối. Một bên là
không gian biển và đại dương rộng lớn, không có nước nào có thể thể kiểm soát hết
và cũng không có nước nào tuyên bố chủ quyền toàn bộ vì có những khu vực là của
22
chung. Còn một bên là lục địa, nơi có những biên giới được phân chia và luôn là
mục tiêu của các cuộc xâm lăng. Quốc gia có sức mạnh chinh phục các vùng biển
và đại dương, có quyền kiểm soát ở nhiều khu vực nhờ sức mạnh của hải quân sẽ
chiến thắng các cường quốc về lục địa. Mahan khẳng định nước Mỹ là cường quốc
về biển, vì vị trí địa lí của Mỹ nhìn ra cả Đại Tây Dương và Thái Bình Dương. Ví
dụ nếu có đối đầu giữa cường quốc về hàng hải và cường quốc về lục địa là Mỹ và
Trung Quốc, Mỹ sẽ chiến thắng. Mặc dù Mahan không có cái nhìn bao quát toàn bộ
về địa chính trị, vì suy nghĩ của ông chỉ dừng lại ở sức mạnh từ biển, nhưng lí
thuyết của ông có nhiều ảnh hưởng đến chính sách đối ngoại của Mỹ.
Dưới sức ép của các công ty hàng hải, đồng thời nhận thấy những lợi ích của
nước Mỹ trong việc kiểm soát các tuyến hàng hải, các nhà lãnh đạo Mỹ đã từ bỏ học
thuyết Monroe (không can thiệp vào các công việc nội bộ của châu Âu), để xây
dựng một nền chính trị ngoại giao can thiệp vào các nước khác. Nước Mỹ càng
ngày càng tham gia vào các vấn đề quốc tế nhân danh tự do hàng hải. Mahan cho
rằng thiết lập các mối quan hệ giao thương với các nước là điều kiện sống còn cho
nền kinh tế Mỹ. Nhưng việc trao đổi buôn bán với các nước chỉ được đảm bảo và
duy trì nhờ có sự bảo vệ của lực lượng hải quân hùng mạnh, hải quân cần có mặt
khắp nơi trên các vùng biển và đại dương. Sức mạnh hải quân áp đảo đồng nghĩa
với sự thống trị của Mỹ trên biển và đại dương [32].
Cũng nói về vai trò của biển và đại dương đối với nước Mỹ tác giả Samuel
Eliot Mirison trong phần kết của cuốn The Two Ocean war a short history of the
United states navy in the second world war năm 1963 đã viết: không có thời đại
nguyên tử, đối với nước Mỹ tàu và máy bay trên tàu đảm bảo sự tự do của quốc gia,
thông tin liên lạc với thế giới bên ngoài và chính sự tồn tại của đất nước [29, p.
586].
Như vậy để thấy rằng đối với quốc gia (Mỹ) biển chiến vai trò chiến lược, yếu
tố địa chính trị quan trọng đối với an ninh của quốc gia. Điều đó cũng dễ hiểu vì sao
trong những năm giữa hai cuộc chiến chính phủ Mỹ quan tâm đến vấn đề hải quân,
đặc biệt là những hiệp ước về giới hạn hải quân với các nước trong hội nghị
Washington. Người Mỹ cũng có một hạm đội Thái Bình Dương đóng ở Hawaii lớn
23
mạnh. Chính diễn biến của cuộc thế chiến hai trên Đại Tây Dương, Thái Bình
Dương đã thúc giục người Mỹ, nền kỹ nghệ quốc phòng Mỹ hoàn thành hạm đội hai
đại dương.
1.2.1.2. Nicholas Spykman (1893-1943)
Nicholas Spykman (1893-1943) là nhà địa - chính trị nổi tiếng người Mỹ.
Quan điểm về địa chính trị của ông được giới thiệu trong cuốn sách Chiến lược của
Mỹ trong nền chính trị quốc tế: Nước Mỹ và cân bằng quyền lực (1942). Trong giai
đoạn này, địa chính trị được công chúng quan tâm và được tìm hiểu kỹ hơn vì nước
Mỹ đã tham gia chiến tranh thế giới thứ 2. Cuộc xung đột vũ trang trên quy mô rộng
lớn cần được phân tích cẩn thận về không gian nơi diễn ra chiến tranh, về mối liên
hệ sức mạnh quân sự giữa các bên. Tổng thống Roosevelt đã nói với dân chúng:
“Tôi yêu cầu người Mỹ hãy mở bản đồ ra theo dõi, tôi sẽ giải thích một chút về địa
lí cho các bạn” [32].
Nicholas Spykman xem xét và phân tích lại các vấn đề địa chính trị được
Mackinder đưa ra trước đây. Ông nghĩ ra một khái niệm mới “vùng trung gian”
(Rimland). Ông cho rằng địa chính trị của Mỹ cần phải lưu ý đến vùng trung gian,
sau khi chiến tranh kết thúc. Ông cũng dự đoán những kịch bản về quan hệ quốc tế,
mối tương quan lực lượng giữa các quốc gia. Ông nhấn mạnh tầm quan trọng của
vùng đảo thế giới, nhưng nguyên tắc cơ bản giúp cho một quốc gia thống trị thế giới
không phải là vấn đề kiểm soát được tâm thế giới mà là khu vực trung gian giữa tâm
thế giới và các khu vực trung quanh trên đảo thế giới.
Rimland là vùng nằm giữa tâm thế giới và các vùng biển gần bờ trải rộng từ
Tây Âu, đến Thổ Nhĩ Kì, Iran, Pakistan, bán đảo Ả rập và Biển Đông ở châu Á.
Không gian rộng lớn này sẽ là nơi cạnh tranh giữa cường quốc về biển (Mỹ) và
cường quốc lục địa (Liên bang Xô viết). Sau khi chiến tranh kết thúc, hai đồng minh
chiến thắng sẽ trở thành kẻ thù của nhau. Mỹ cần làm chủ vùng trung gian vì khu
vực này trở thành thách thức lớn cho chính sách đối ngoại quốc tế. Nếu thành công,
Mỹ sẽ có cơ hội tiếp cận với các vùng giàu có về tài nguyên thuộc đảo thế giới và
Mỹ sẽ chế ngự được Liên bang Xô viết. Nếu các nước trong khu vực trung gian của
thế giới cùng đi đến thống nhất và Liên bang Xô viết có ảnh hưởng sâu rộng ở đây,
24
đó sẽ là một thách thức lớn cho Mỹ. Ông nhận định nước Mỹ cần thiết lập các liên
minh chặt chẽ và thân thiện với các nước trong vùng trung gian giữa đảo thế giới và
tâm thế giới. Các sáng kiến về địa chính trị được Nicholas Spykman đưa ra năm
1942, cũng vào thời điểm đó, Mỹ tham gia chiến tranh chống lại Nhật, quan hệ của
hai bên rất căng thẳng [32].
Ra đời trong cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất, tư tưởng của Nicholas
Spykman đã ảnh hưởng lớn đến chiến lược của chính phủ Mỹ đối với châu Âu, Á
trong cuộc chiến tranh.
1.2.2. Tư tưởng địa – chính trị ở Anh
Halford J. Mackinder (1861-1947) là đô đốc người Anh. Ông dạy địa chính
trị tại đại học Oxford. Ông là hiệu trưởng trường khoa học chính trị và quan hệ quốc
tế. Ông được đánh giá là khuôn mặt tiêu biểu của ngành địa chính trị ở châu Âu.
Mackinder quan tâm đến sự phát triển của nước Anh cũng như tương lai của đế chế
Anh. Ngay cả khi nước Anh đang ở thời kì cực thịnh, ông cho rằng, thời kì suy
thoái của nước Anh sẽ không còn xa. Ông muốn báo động cho mọi người biết
những mối đe dọa đến đế chế Anh. Ông đặt ra câu hỏi: “Làm thế nào để bảo đảm sự
sống còn cho đế chế Anh?”. Suy nghĩ của ông cũng phù hợp với lo lắng của nhiều
người Anh vào thời điểm đó, vì nước Anh cần có những kế hoạch cụ thể để đối mặt
với sức mạnh quân sự cũng như những tham vọng của các cường quốc khác ở châu
Âu. Các tác phẩm của ông có nhiều ảnh hưởng đến ngành địa chính trị ở châu Âu.
Ông đưa ra hai khái niệm: Tâm thế giới (Heart Land) và đảo thế giới (World
Island).
Nội dung cơ bản trong lí thuyết địa chính trị của Mackinder phản ánh trung
tâm địa lí của lịch sử. Ông đưa ra nhận định trung tâm các hiện tượng địa chính trị
xuất phát từ trung tâm địa lí của thế giới. Ông xác định chính cái hạt nhân Bắc –
Trung của lục địa châu Á – Âu là khu vực trung hay “quốc gia trục” của nền chính
trị thế giới. Nó chính là vùng đất trái tim, hay trục của “hòn đảo thế giới” Á – Âu.
Nó được che chắn xung quanh là biển cả, có khả năng tự cung cấp. Con đường duy
nhất có khả năng tiếp cận với nó là khu vực Đông Âu, để từ đó có thể tới làm chủ
thế giới. Tất cả các phân tích của ông có thể được tổng kết như sau: “Ai kiểm soát
25
được Đông Âu, sẽ khống chế miền đất trái tim. Ai khống chế được miền đất trái tim
thì sẽ không chế được đảo thế giới,(…) sẽ kiểm soát được cả thế giới” [4, tr.69].
Đại dương trên thế giới chiếm 9/12 diện tích.
Đảo thế giới bao gồm các lục địa rộng lớn là châu Âu, châu Á và châu Phi,
Ông miêu tả trái đất như một diện tích tổng thể gồm có ba không gian chính:
Các đảo lớn ở ngoại vi bao gồm châu Mỹ và Australia chiếm 1/12.
có tổng diện tích 1/12.
Để thống trị thế giới, cần phải thống trị đảo thế giới, điểm quan trọng nhất của
nó là tâm thế giới. Đây là một vùng bản lề kéo dài từ các đồng bằng ở Trung Âu đến
Tây Sibérie, khu vực trung tâm này sẽ tạo ảnh hưởng sâu rộng đến vùng Địa Trung
Hải, Trung Đông và các khu vực rộng lớn ở Trung Quốc và Ấn Độ. Cường quốc
kiểm soát được tâm của đảo thế giới sẽ kiểm soát được đảo thế giới và sẽ làm chủ
thế giới. Tất cả các sự kiện địa chính trị diễn ra ở tâm đảo thế giới, sẽ có tác động
đến toàn bộ thế giới. Trung tâm các diễn biến chính trị trên thế giới nằm ở châu Âu
và châu Á. Cường quốc về biển sẽ không có tác động đến các sự kiện chính trị diễn
ra ở đây. Nước Nga trở thành một trong những vùng thuộc tâm thế giới. Toàn bộ
các hiện tượng địa chính trị sẽ diễn ra ở tâm thế giới. Đây sẽ là nơi đối đầu giữa các
cường quốc. Quốc gia chiếm được tâm thế giới sẽ tạo được nhiều ảnh hưởng đến
các khu vực xung quanh. Mackinder lo ngại về một liên minh giữa Nga và Đức sẽ
dẫn đến hậu quả là tâm thế giới bị hai quốc gia này kiểm soát. Nước Nga có lãnh
thổ rộng lớn, tạo ra sức mạnh quốc phòng. Nước Đức nhờ nguồn nhân lực và tài
nguyên phong phú sẽ xây dựng được lực lượng hải quân hùng mạnh để kiểm soát
đảo thế giới. Hợp tác giữa Nga và Đức sẽ là mối nguy hại chính đối với nước Anh.
Sức mạnh hải quân của Anh sẽ bị đe dọa, do vậy, cần chú ý đến các cường quốc lục
địa này. Mặt tiền trong ra đại dương sẽ được bổ sung cho nguồn lực của lục địa lớn,
tạo ra những điều kiện chính trị cần thiết để sản sinh ra một thế lực áp đảo cả trên
đất liền lẫn biển.
Mối tương quan về sức mạnh giữa các quốc gia được thực hiện nhờ các tiến
bộ về kĩ thuật và nhờ quá trình phát triển các nguồn năng lượng mới. Từ thế kỉ XV,
trao đổi hàng hóa, buôn bán giao thương diễn ra phổ biến trên biển nhiều hơn so với
26
các hoạt động thương mại tiến hành bằng đường bộ, vì trao đổi bằng đường biển
diễn ra thuận lợi hơn, bằng cách đi qua châu Phi, qua Ấn Độ Dương để đến các
vùng xa xôi ở châu Á. Nước Anh trở thành cường quốc số 1 của thế giới nhờ ưu thế
về hải quân. Nhờ đó, người Anh kiểm soát các vùng biển, tiếp cận các vùng đất giàu
có về nguyên liệu.
Từ thế kỉ XIX, đường bộ lại giữ vai trò trọng tâm trong trao đổi buôn bán,
giống như trước thời kì chưa có các phát kiến địa lí. Thế kỉ XIX là kỉ nguyên công
nghiệp, giai đoạn này tạo ra một cuộc cách mạng mới về địa chính trị. Tâm thế giới
là khu vực mang tính chiến lược. Đó cũng là tâm của địa chính trị, trung tâm này là
kết quả của các yếu tố mang tính lịch sử nhờ sự phát triển vượt bậc của khoa học kĩ
thuật, đã tạo ra ưu thế giúp con người làm chủ các vùng rộng lớn, quan trọng hơn cả
việc làm chủ các đại dương.
Mackinder nhấn mạnh tầm quan trọng hàng đầu của địa lý đối với việc nghiên
cứu lịch sử và chính trị toàn cầu: “Những cuộc chiến tranh lớn của lịch sử đều là kết
quả trực tiếp hoặc gián tiếp của sự tăng trưởng không đồng đều của quốc gia, và sự
tăng trưởng không đồng đều này…phần lớn lại là kết quả không cân bằng về độ phì
nhiêu và sự thuận lợi chiến lược trên bề mặt địa cầu” [4,tr.72].
Nếu giải mã những nguyên nhân của chiến tranh thế giới theo quan điểm của
Mackinder, đây sẽ là cuộc đối đầu giữa các đế chế ở trung tâm lục địa (Đức, đế chế
Áo-Hung), các quốc gia này muốn giành lấy tâm thế giới, nên cần phải đối đầu với
các quốc gia phía tây có ưu thế nắm giữ sức mạnh hàng hải (Anh, Pháp, Mỹ). Các
cường quốc có sức mạnh về biển quyết định liên minh với quốc gia nằm ở tâm thế
giới (nước Nga).
Lí thuyết địa chính trị của Mackinder góp phần làm sáng tỏ các nghiên cứu về
quan hệ quốc tế trong thế kỉ XX. Nhờ lí thuyết này, chúng ta sẽ có những đánh giá
tổng quan về địa - chính trị và tìm ra những lời giải đáp cho nhiều sự kiện diễn ra
trong nửa đầu thế kỉ XX mà trong đó có cuộc chiến tranh thế giới thứ II.
1.2.3. Tư tưởng địa – chính trị ở Đức
Các cuốn sách về địa chính trị do Mackinder và Mahan viết, tạo được tiếng
vang ở Đức. Ngành địa chính trị ở Đức được nhiều người quan tâm, đặc biệt là các
27
nhà chính trị theo chủ nghĩa dân tộc. Địa chính trị của Đức là sự tiếp nối của địa
chính trị châu Âu và thế giới. Ngành khoa học này cần phải tạo ra sức mạnh cho
nước Đức trên biển và trên đất liền, đồng thời cần đưa ra các luận điểm cho những
người theo chủ nghĩa dân tộc nhằm xóa bỏ nội dung của hiệp ước Versailles đánh
dấu sự thất bại của Đức trong chiến tranh thế giới lần thứ nhất.
Friedrich Ratzel (1844-1904) là giáo sư nổi tiếng ở Đức, dưới thời vua
Guillaume II. Ông được ví như một trong những nhà địa chính trị tiên phong. Tư
tưởng địa chính trị của ông được nhiều người quan tâm. Là giáo sư dạy địa lí, ông
phân tích mối liên hệ giữa lãnh thổ và chính trị trên cơ sở lí thuyết và thực tế. Ông
xây dựng lí thuyết địa chính trị được xếp loại là thuyết định mệnh. Điểm mập mờ
trong phân tích của ông là cách diễn giải các lí do hợp lí hóa cho một nền chính trị
tạo ảnh hưởng bằng biện pháp mở rộng lãnh thổ ở mỗi quốc gia. Ông là người theo
chủ nghĩa dân tộc và là người bảo vệ đến cùng chủ nghĩa thực dân. Ông bênh vực
cho các chính sách thực dân, đồng thời phản đối quan điểm địa chính trị về lục địa.
Để tạo nhiều ảnh hưởng đối với thế giới, nước Đức cần có một đế chế bao gồm các
vùng thuộc địa rộng lớn. Friedrich Ratzel biên soạn nhiều cuốn sách bàn về các vấn
đề thuộc địa. Những chủ đề về lợi ích thuộc địa được các cường quốc đưa ra bàn
bạc trong Hiệp ước Berlin nhằm phân chia quyền lợi ở các vùng này.
Lí thuyết của Friedrich Ratzel được nhiều người chú ý nhất, là quan điểm về
không gian sinh tồn. Sau chuyến đi đến Mỹ, ông ý thức được tầm quan trọng của
các nước có diện tích rộng lớn. Ông đề cập đến địa chính trị của các nước lớn. Các
nhà lãnh đạo cần có kế hoạch chính trị mang tầm vĩ mô và cần có nhiều tham vọng.
Ông nhận định địa chính trị của Đức và vị thế của châu Âu có những nét tương
đồng, vì các quốc gia châu Âu thường có diện tích nhỏ hẹp, lại ở cạnh nhau, nên
thường có các biên giới chung. Ông kêu gọi các nhà lãnh đạo Đức cần phải chú ý
nhiều hơn đến các quốc gia ở châu Mỹ và châu Á. Nước Đức không nên chỉ có vai
trò quan trọng ở châu Âu. Nước Đức cần có không gian sinh tồn trải rộng ở các
vùng thuộc địa để tạo nên sức mạnh. Nước Đức cần liên minh với với một số quốc
gia có ảnh hưởng ở các châu lục. Khi phân tích mối quan hệ giữa lãnh thổ và chính
trị, Friedrich Ratzel kết luận Nhà nước như một thực thể sống, Nhà nước muốn có
28
tầm ảnh hưởng và có sức sống mạnh mẽ hơn, cần có diện tích rộng lớn hơn. Mỗi
nước đều phải tuân theo các quy luật về tổ chức, nếu không, Nhà nước sẽ suy tàn.
Quan điểm này được Friedrich Ratzel trình bày trong cuốn sách Địa lí chính trị,
xuất bản năm 1887. Các nước về bản chất luôn phát triển cạnh tranh với các nước
láng giềng. Thách thức lớn là những tranh chấp thường trực về đất đai. “Các nước
đều phải gánh chịu nhiều tác động, như con người phải chịu đựng những khó khăn
trong cuộc sống. Mọi việc sẽ không biết sẽ ra sao, nếu một quốc gia không có diện
tích rộng lớn” [31].
Friedrich Ratzel định nghĩa dân tộc là các nhóm người và các cá nhân không
phải gắn bó vì cùng chung một chủng tộc, hay cùng chia sẻ một ngôn ngữ, mà dân
tộc là một cộng đồng cùng sống chung trong một không gian lãnh thổ. Ông không
quan tâm đến quan điểm: Dân tộc phải gắn liền cùng một nguồn gốc mà dân tộc cần
gắn bó với một vùng lãnh thổ. Ratzel phản đối chính sách về các dân tộc, vì nó đặt
ra mối quan tâm của Nhà nước về khía cạnh ngôn ngữ, chứ không phải về vấn đề
đất đai. Mỗi quốc gia là một cơ thể sống khác nhau, bị chi phối bởi không gian lãnh
thổ và phân bố dân cư. Có quốc gia chiếm giữ không gian sinh tồn quan trọng hơn
các quốc gia khác, điều này dựa trên các yếu tố địa lí. Diện tích quốc gia cần được
mở rộng đến các vùng đất nơi các điều kiện địa lí giống với vùng lãnh thổ mà quốc
gia đang có chủ quyền. Nhờ đó không gian sinh tồn sẽ càng lớn. Các chính sách
không được dựa trên vấn đề nguồn gốc chủng tộc mà phải dựa trên các điều kiện về
đất đai. Ông đưa ra các quy luật mở rộng không gian cho mỗi quốc gia. Năm 1901,
ông bảo vệ khái niệm không gian sinh tồn của nước Đức. Ông định nghĩa các đạo
luật có tính phổ quát về Nhà nước.
7 quy luật về mở rộng không gian:
· Mở rộng không gian sống của các quốc gia luôn đi kèm với việc phát triển và
tạo ảnh hưởng về văn hóa.
· Khi diện tích lãnh thổ của một quốc gia được mở rộng thêm, sức mạnh kinh
tế thương mại, hệ tư tưởng sẽ tạo nhiều ảnh hưởng hơn đối với các nước xung
quanh.
· Khi Nhà nước mở rộng thêm diện tích, nước đó sẽ tiến tới sát nhập và đồng
29
hóa các nước nhỏ hơn.
· Biên giới là một thực thể sống động, có thể dịch chuyển. Biên giới thể hiện
sự năng động, sức mạnh và làm thay đổi diện tích của một quốc gia.
· Tính logic của địa lí luôn đề cao mọi tiến trình mở rộng vùng lãnh thổ của
mỗi quốc gia. Bởi vì, Nhà nước luôn cố gắng sát nhập các vùng đất rộng lớn để tăng
thêm diện tích cho không gian sinh tồn. Các vùng lãnh thổ càng giàu có về khoáng
sản và có vị trí địa lí quan trọng càng cần phải sát nhập vào vùng diện tích thuộc
chủ quyền của Nhà nước.
· Nhà nước luôn có xu hướng mở rộng diện tích ra các khu vực ngoại vi nơi
sinh sống của các dân tộc kém văn minh hơn so với nền văn minh của đất nước
muốn mở rộng.
· Khuynh hướng chung là tiến đến đồng hóa hoặc sát nhập các quốc gia nhỏ
yếu, để tăng thêm diện tích đất đai, điều này sẽ đem lại sức mạnh cho Nhà nước.
Khái niệm không gian sinh tồn gắn các nhóm người với không gian lãnh thổ, ở
đó các cộng đồng người cùng sinh sống và phát triển. Không gian sinh tồn thể hiện
Nhà nước sẽ mở rộng hay thu hẹp các biên giới theo các điều kiện về nhu cầu và lợi
ích riêng. Friedrich Ratzel phát triển lí thuyết về không gian sinh tồn năm 1901.
Quan điểm địa chính trị của ông có nhiều tác động đến nền chính trị của Đức Quốc
xã [31].
Karl Haushofer (1869-1946) là người đã có công xây dựng ngành địa chính
trị trong nửa đầu thế kỉ XX. Ông là một vị tướng và là giáo sư giảng dạy ở trường
quân sự. Ông đã có dịp đến Nhật và lưu lại đó hai năm từ năm 1908 đến năm 1910,
để tìm hiểu về quân đội Nhật. Karl Haushofer quan tâm đến chính sách bành trướng
của Nhật ở châu Á, ông coi đó là chủ đề cho luận án của mình, ông phân tích chi tiết
trong cuốn sách Địa chính trị ở Thái Bình Dương. Ông rời quân đội và tập trung
cho sự nghiệp giảng dạy ở đại học. Cũng giống như nhiều người Đức, Karl
Haushofer rất thất vọng và lo lắng cho tương lai nước Đức. Sau thất bại trong chiến
tranh thế giới lần thứ nhất, nước Đức phải bồi thường các khoản lệ phí chiến tranh
nặng nề do các nước đồng minh thắng trận đặt ra tại hội nghị Versailles. Địa chính
trị Đức cần phải đảm bảo sự hồi sinh cho nước Đức bại trận.
30
Nước Đức có diện tích nhỏ hẹp và có biên giới chung với nhiều nước, nên vị
trí địa lí bị kìm kẹp bởi các nước láng giềng. Tương lai không thuộc về nước Đức
mà thuộc về các nước lớn một khi họ tập hợp lại, đề ra các nguyên tắc ứng xử
chung. Nhưng các nước này sẽ chịu sự điều khiển của một nước có sức mạnh vượt
trội. Năm 1924, ông lập ra tạp chí địa chính trị, tạo được tiếng vang trên thế giới.
Tạp chí địa chính trị cổ điển của Đức nhận được sự hợp tác của nhiều học giả quốc
tế. Ông đã gặp gỡ Adolf Hitler nhiều lần. Quan điểm địa chính trị của ông có một số
ảnh hưởng đến chính sách của Đức Quốc xã; Hitler cũng bàn về địa chính trị trong
cuốn sách Cuộc chiến đấu của tôi (Mein Kampf).
Ông trình bày nội dung về địa chính trị theo tính hệ thống giữa Nhà nước, lãnh
thổ và nhân dân có mối liên hệ chặt chẽ. Địa chính trị của Đức cần giải thích rõ mối
liên hệ này. Ông khẳng định người Đức là những người văn minh, họ luôn bày tỏ
mong muốn được sống cùng nhau trong một cộng đồng. Ông ủng hộ việc thiết lập
một không gian sinh tồn rộng lớn cho người Đức. Nước Đức cần phải là một nước
lớn, có diện tích rộng. Những biến động chính trị trong những năm 30 khiến cho ý
tưởng này ngày càng nhận được sự ủng hộ của nhiều người. Nước Đức có ý định
thực hiện các chính sách mở rộng lãnh thổ và tạo ảnh hưởng ra các châu lục. Những
đề xuất về các vùng đệm là những nét cơ bản trong quan điểm về địa chính trị của
Karl Haushofer. Từ ý tưởng về vùng đệm, con người hình dung ra các vùng bao
quanh. Thế giới phải được phân chia thành các vùng khác nhau, ở mỗi vùng sẽ có
các quốc gia thống trị, có 4 vùng được phân chia trên bản đồ thế giới:
- Châu Mỹ sẽ là vùng bao quanh của nước Mỹ.
- Châu Âu và châu Phi sẽ là vùng đệm của Đức, người Đức sẽ thống trị những
khu vực này.
- Nước Nga sẽ lãnh đạo toàn bộ các nước thuộc Liên bang Xô viết.
- Châu Á sẽ là khu vực xung quanh của Nhật. [31]
Người Đức đã tuyên truyền địa chính trị kết hợp với chủ nghĩa chủng tộc,
cộng với sự ảnh hưởng của học thuyết về siêu nhân của Nietzsche và học thuyết
chọn lọc tự nhiên của Darwin, đã làm cho người dân Đức tin vào quyền thống trị
của học với tư cách là một dân tộc được coi là thượng đẳng.
31
Tư tưởng địa chính trị nước Đức, được Hitler tiếp thu quan điểm của Kjlen
cho rằng, địa chính trị là “khoa học về chiến tranh” biện hộ cho hành động gây
chiến của mình.
1.2.4. Tư tưởng địa – chính trị ở Nhật Bản
Từ thời đại Minh Trị, người Nhật đã hiểu ra rằng: đất nước sẽ không thể phát
triển nếu không mở cửa với bên ngoài. Đây cũng là thời điểm mà giai cấp tư sản
Nhật Bản đã lớn mạnh, chính tư tưởng của giai cấp này đã chiến thắng phe bảo thủ
và làm thành hậu thuẫn cho chính sách mở cửa của Nhật hoàng Minh Trị. Đây cũng
là thời điểm chấm dứt chủ nghĩa biệt lập của Nhật Bản. Cũng từ đây, tư tưởng địa
chính trị của Nhật Bản bắt đầu bộc lộ rõ quan điểm dân tộc chủ nghĩa, đến cuộc
chiến tranh thế giới thứ hai thì phát triển thành chủ nghĩa dân tộc cực đoan. Quan
điểm địa chính trị của Nhật được hình thành theo mô hình địa chính trị của Đức.
Trong đạo luật giáo dục có tên “Gakusei” năm 1872 quy định môn địa lý là
môn học bắt buộc. Đến năm 1886, luật mới được ban hành, quy định môn địa lý
không còn là môn học độc lập mà được nhập vào môn lịch sử. Được nhìn nhận
không phải là môn học biệt lập, tự thân mà được gắn chặt với lịch sử và chính trị
Nhật Bản. Trong nguyên tắc chung của việc dạy môn địa lý, đạo luật giáo dục bổ
sung năm 1890 của Nhật Bản quy định rằng: “Mục đích của môn địa lý học của
Nhật Bản và địa lý học thế giới, phải làm cho trẻ em hiều được những điều quan
trọng về đời sống của các dân tộc trên thế giới và phát triển tinh thần cho trẻ em”..
Theo hướng đó, giọng điệu giáo dục nhằm mục đích phục vụ quốc gia đã được tăng
cường và củng cố để dần dần dẫn đến quá trình quân sự hóa của Nhật Bản. Đây
cũng là mầm mống dấn đến sự ra đời của một ngành khoa học mới ở Nhật Bản: Địa
chính trị.
Đến thời kì chiến tranh thế giới thứ hai, tư tưởng địa chính trị của Nhật Bản đã
trở thành một tư tưởng chủ chốt trong chiến lược và chính sách bành trướng của Đế
quốc Nhật, được thể hiện thành chính sách đặc trưng chủ trương một Khu vực
Thịnh vượng chung Đại Đông Á, do thủ tướng Nhật Bản lúc bấy giờ là Fumimaro
Konoe đề ra vào năm 1940. Chính sách này chủ trương thành lập một khối Đại
Đông Á, bao gồm Nhật Bản, Mãn Châu, Trung Quốc, và các nước Đông Nam Á,
32
theo sự tuyền truyền của Nhật Bản, xây dựng một khu vực thịnh vượng chung cho
các nước châu Á,tất nhiên dưới sự lãnh đạo của Nhật Bản, để thoát khỏi ách thống
trị của chủ nghĩa thực dân phương Tây. Đây là chính sách dùng để biện hộ cho cuộc
xâm lược của Nhật Bản ở Đông Á trong những năm 1930, kéo dài cho đến khi kết
thúc chiến tranh thế giới thứ hai [4, tr.223-225].
Trong cuốn sách địa lý được xuất bản năm 1943 cho trường phổ thông, người
ta mô tả đất nước Nhật Bản theo tinh thần kích động lòng yêu nước và tinh thần
quân phiệt chủ nghĩa như sau:
“Các hình dạng mà theo đó mỗi quần đảo - quần đảo Kuril ở phía Bắc,
hòn đảo chính Honshu ở trung tâm, quần đảo Ryuku (Okinawa) ở phía Nam -
đều nhô ra Thái Bình Dương như một cánh cung, đã làm cho cả quần đảo Nhật
Bản được kéo căng ra. Từ hình dạng này, chúng ta có thể cảm thấy một sức mạnh
nào đó. Hình dạng Nhật Bản không phải là hình dạng thường. Chúng ta có thể
hình dung hình ảnh một người dẫn đầu lục địa châu Á đang hùng dũng tiến ra
Thái Bình Dương. Nhật Bản cũng được coi như đang đóng vai trò bảo vệ châu Á
khỏi mọi hiểm nguy xuất phát từ Thái Bình Dương. Theo cách này chúng ta cảm
thấy rằng Thượng đế đã thực sự tạo ra đất nước chúng ta, nước Nhật Bản, một
đất nước được Trời phú cho một lãnh thổ vô song về vị trí và hình dáng” .
Ngoài ra ở chương cuối của cuốn sách giáo khoa còn công khai coi Nhật Bản
là trung tâm của khối Đại Đông Á:
“Chính đất nước chúng ta, nước Nhật Bản, một đất nước mà từ đó mặt trời
mọc lên hàng ngày, là đất nước có vị trí nằm ở trung tâm Đại Đông Á, một khu vực
bao gồm Thái Bình Dương cũng những hòn đảo của nó, từ lục địa châu Á đến Ấn
Độ Dương. Theo ý chí của Thiên Hoàng, một trăm triệu đồng bào ta cần phải thực
hiện công cuộc lớn lao là xây dựng khu vực Đại Đông Á để không làm cho tổ tiên
thất vọng. Chúng ta chia sẻ niềm vui hòa bình vĩnh viễn của thế giới và sự thịnh
vượng chung cho mọi dân tộc” [4, tr.227].
Như vậy, có thể thấy rằng quan điểm địa chính trị của Nhật đề cao tinh thần
dân tộc chủ nghĩa. Nó coi Nhật Bản là trung tâm của châu Á và của khối Đại Đông
Á. Chính tư tưởng địa chính trị đề cao quá mức tinh thần dân tộc, thúc đẩy tinh thần
33
cực đoan dân tộc Nhật, phát xít hình thành, đưa nước Nhật đến chỗ phát động chiến
tranh bành trướng mở rộng ra toàn khu vực Đông Á trong cuộc chiến tranh thế giới
thứ hai.
Từ lý thuyết địa – chính trị tồn tại trước và trong cuộc chiến tranh thế giới thứ
II đã ảnh hưởng đến những chính sách an ninh quốc phòng, chính sách đối ngoại
của các cường quốc. Với ý đồ chính trị khác nhau, họ đã xây dựng lược lượng quân
sự của mình mà trong giai đoạn trước thế chiến II, hầu hết các nước đều xây dựng
lực lượng hải quân mạnh.
1.3. Tiêu chí lựa chọn các trận hải chiến
Trong cuộc chiến tranh thế giới thứ II, biển và đại dương là nơi diễn ra những
trận đánh ác liệt nhất, lôi kéo nhiều nước tham gia nhất, có lẽ cũng gây ra nhiều
thiệt hại nhất. Cuộc chiến tranh thế giới thứ II nổ ra khi mà những tư tưởng địa –
chính trị về vao trò của biển và sức mạnh của người làm chủ được biển. Nắm giữ
được bá quyền trên biển tạo điều kiện khống chế vùng đất trái tim. Có rất nhiều
cuộc chiến tranh trên biển. Nhưng với giới hạn của đề tài và tác giả. Tác giả dựa
trên những tiêu chí do mình đặt ra như sau:
Trận chiến diễn ra trực tiếp trên biển: nhưng không phải là cuộc hỗn độn mà là
những cuộc chiến có tính toán chiến lược, chiến thuật mang rõ yếu tố địa - chính trị.
Trận chiến phá hoại đường giao thương trên biển và đại dương của địch đối
với Đức,Ý. Đối với lực lượng Đồng minh trận chiến bảo vệ tuyến đường giao thông
trên biển và đại dương là những trận chiến trên Đại Tây Dương, Địa Trung Hải.
Trận hải chiến nhằm vào tiêu diệt các mục tiêu trên mặt đất của đối phương,
trợ giúp các đơn vị bộ binh gần bờ biển trong tấn công và phòng thủ; bảo vệ, chiếm
các căn cứ hải quân, tiêu diệt các lực lượng hải quân địch trên mặt biển, trong các
căn cứ những mục tiêu này chủ yếu tập trung vào trận chiến trên Thái Bình Dương.
Trận hải chiến lớn, có tác động quan trọng đối với toàn bộ tiến trình của chiến
tranh và để lại nhiều bài học kinh nghiệm.
34
Tiểu kết chương 1
Địa lý là khung cảnh của mọi hoạt động của con người và xã hội. Đó là điều
mà không ai có thể phủ nhận. Đặc biệt là các tiến trình và xung đột chính trị không
thể diễn ra bên ngoài khng cảnh địa lý. Lịch sử cũng cho thấy rằng không có động
cơ gì hấp dẫn chính trị bằng động cơ chính trị. Đó chính là tầm quan trọng của địa
chính trị. [4, tr257]. Với những khung cảnh địa lý nhất định các nước trên thế giới
cũng đưa ra những đối sách về đối nội, đối ngoại khác nhau, cũng chính yếu tố địa
lý cũng phần nào quy định tập tục văn hóa, chế độ chính trị của đất nước đó như
Napoleon Bonaparte đã nói: “Chính trị của một quốc gia nằm ở trong địa lý của
nó”. Cũng chính yếu tố địa lý quy định về những chính sách quốc phòng, chiến lược
phòng thủ quốc gia mỗi một nước. Xuất phát từ vấn đề này thì những tư tưởng địa
chính trị của các nước đã được hình thành khác nhau, trong mỗi giai đoạn lịch sử
cũng có sự khác nhau.
Trong suốt thế kỉ XX, các lý thuyết địa chính trị và đường lối, chính sách địa
chiến lược của các quốc gia đã gây ra nhiều biến động trong bức tranh trật tự thế
giới, đến mức các nhà khoa học đã gọi thế kỷ XX là thế kỉ địa chính trị.
Chiến tranh thế giới thứ hai là cuộc đối đầu giữa các quốc gia muốn xây dựng
các khối liên minh quân sự đủ mạnh (Đức, Nhật) và các quốc gia đề cao việc giao
thương hàng hải (Mỹ, Anh). Cuộc chiến mà hai bên đều muốn giành giật khu vực
tâm thế giới – vùng đất trái tim. Đức quốc xã coi đó là không gian sinh tồn, nên tìm
mọi cách chiếm bằng được. Đức đã tiến đánh Liên bang Xô để chiếm lấy không
gian sinh tồn. Bằng cố gắng bảo vệ tâm thế giới, Liên bang Xô viết trở thành đồng
minh của các quốc gia có sức mạnh về biển (Mỹ, Anh).
Trong chiến tranh thế giới thứ II, tâm thế giới được đặc biệt chú ý. Liên bang
Xô viết và đồng minh đã thành công khi dồn Đức quốc xã về sào huyệt cuối cùng là
Berlin, đây vẫn thuộc khu vực tâm thế giới. Nơi này trở thành pháo đài cuối cùng
của Đức quốc xã, các bên đều tập trung sức mạnh quân sự ở đây. Từ những tính
toán về khu vực vùng trái tim, về chiến lược để thâu tóm được khu vực này là liên
kết với nước Anh mà trong cuộc chiến tranh thế giới thứ hai chúng ta có thể thấy
rằng người Mỹ dường như quan tâm nhiều hơn đối với việc đưa quân tới châu Âu.
Trong những cuộc hội đàm để mở mặt trận thứ hai cũng thể hiện rất rõ điều đó.
35
Chương 2. NHỮNG TRẬN HẢI CHIẾN Ở ĐẠI TÂY DƯƠNG
VÀ ĐỊA TRUNG HẢI TRONG CHIẾN TRANH THẾ GIỚI II
2.1. Bối cảnh lịch sử
2.1.1. Quan hệ giữa các cường quốc trước chiến tranh thế giới thứ II
Khi cuộc chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, các nước Đồng minh thắng trận
triệu tập hội nghị để phân chia những thành quả của cuộc chiến. Các nước đồng
minh thắng trận đã thành lập hội Quốc Liên, giải giới nước Đức, chia nhau các
thuộc địa Đức và thừa nhận các xứ sở mới thành lập tại Trung Đông Âu.
Các hội viên của Hội Quốc Liên chấp nhận những điều bắt buộc không dùng
đến chiến tranh và điều khoản XVI của hiến chương hội nêu ra những sự trừng phạt
đối với hội viên gây ra chiến tranh. Bất cứ hội viên nào dùng chiến tranh và không
đếm xỉa gì đến hiến chương của hội sẽ bị xem như là đã gây chiến với tất cả các hội
viên. Các hội viên này sẽ lập tức gián đoạn các mối liên hệ về thương mại và tài
chính với các nước gây chiến.
Nước Đức mất hết cả thuộc địa nhưng tổng thống Mỹ Winlson ngăn chặn việc
Pháp đòi sát nhập vùng đất đai của Đức ở phía Tây sông Rhine lớn gần bằng nước
Bỉ. Nước Đức phải giải giới hay không được võ trang một khu vực rộng độ 50 km ở
phía Đông sông Rhur có trung tâm kỹ nghệ nặng của Đức. Nước Đức bị giải giới và
đây là bước đầu tiên tiến tới sự giới hạn vũ khí cho tất cả các quốc gia. Bộ Tổng
tham mưu Đức cũng chỉ được phép có một đạo quân dịch bị hủy bỏ. Chế độ Cộng
hòa Đức chỉ được phép có một đạo quân nhà nghề gồm 100.000 người với thời gian
phục vụ là 12 năm cho binh sĩ và 25 năm cho sĩ quan. Các lực lượng cảnh sát, các
đơn vị phòng thủ miền duyên hải, bảo vệ các vùng rừng, vùng biên giới cũng được
quy định cẩn thận. Hòa ước Versailles cũng nêu lên rằng mọi cơ sở giáo dục, các
viện đại học và tất cả các tổ chức cựu chiến binh hay các thứ hội hè không phụ trách
hay nghiên cứu bất cứ vấn đề quân sự nào cả. Quân đội Đức không có khí độc, máy
bay hay xe tăng. Chính phủ Đức phải cho tháo gỡ các nhà máy chế tạo vũ khí còn
sự nhập cảng hay xuất cảng các nhiên liệu chiến tranh đều bị cấm đoán. Người Đức
36
phải nộp cho Đồng minh các vũ khí sẵn có và chỉ được giữ 102.000 súng trường và
1926 máy bay mà thôi. Họ được giữ lại sáu chiến hạm cũ kỷ để giữ cán cân thăng
bằng với hạm đọi Nga trong biển Ban Tíc nhưng không được đóng tàu ngầm và
thay thế các chiến hạm cũ với các chiến hạm mới nặng trên 10.000 tấn. Các pháo
đài hay các cộng sự phòng thủ đảo Helgoland và các đường thông thường mặt biển
giữa Bắc Hải và biển Ban Tíc phải được phá hủy. Các ủy ban đồng minh phụ trách
việc kiểm soát sự thi hành các điều kể trên. Quân đội đồng minh chiếm đóng một
phần của vùng Rhineland trong năm, mười hay mười lăm năm [21, tr.12].
Như vậy, nước Đức mất đi khoảng 1/8 lãnh thổ bản quốc và 6.500.000 cư dân,
cùng với những thuộc địa của mình, nhưng nó không bị tàn phá cũng như không bị
chia cắt. Để ngăn cho quân Đức không còn có thể tung ra một cuộc chiến tranh nào
nữa, phe đồng minh đã cắt giảm số lính hiện dịch của quân đội Đức xuống còn
100.000 người và số lính hải quân còn 15.000 người. Bộ Tổng Tham mưu bị buộc
giải tán và chế độ quân dịch cũng phải hủy bỏ; việc chế tạo sản xuất chiến khí bị
hạn chế và quá trình nhập cảng vũ khí cũng bị cấm chỉ. Quân đội Đức không được
sử dụng xe tăng, xe bọc thép, máy bay chiến đấu, cả quân nhu đạn dược cho đến khí
đốt. Hạm đội Đức bị cắt giảm chỉ còn 6 hộ tống hạm và 6 ngư lôi hạm [1, tr.12].
Hội nghị Versailles có nhiệm vụ tái lập nền hòa bình, an ninh và thịnh vượng,
một châu Âu mà Đức tái vũ trang không bao giờ còn có thể đe đọa được nữa.
Những quốc gia mới được thành lập phải kiến thiết cùng với tất cả các dân tộc khác
cho phù hợp với đặc quyền tự quyết. Ngoài ra hòa ước Versailles cũng có điều
khoản bắt Đức nhận trách nhiệm đã gây ra chiến tranh. Điều này làm cho dân chúng
Đức bực mình khó chịu. Trong khi ấy nước Đức vẫn còn làm chủ vùng Rhineland
với các cơ sở kỹ nghệ nặng của Đức và điều này làm cho Đức vẫn còn có nguyên
vẹn khả năng kỹ nghệ chiến tranh.
Vấn đề nan giải là châu Âu phải phân chia lại, những chủ nghĩa già cỗi sẽ mau
chóng trỗi dậy trở lại với một sức mạnh hoàn toàn mới mẻ. Một Tiệp Khắc mới,
một Ba Lan hồi sinh, một nhóm các quốc gia nhỏ ở vùng Baltic, một Nam Tư, một
Áo, một Hungary bị chia cắt và xây dựng trên những tàn tích của các đế chế Nga,
Thổ Nhĩ Kỳ và Áo. Những quốc gia mới này không giữ đúng lời cam kết mà mọi
37
người đang chờ đợi. Họ quá yếu ớt để có thể cản trở được một cuộc tấn công bất
thần của Đức. Họ càng không có khả năng giải quyết các vấn đề của quốc gia mình.
Chính họ lại gây ra những cuộc tranh chấp sắc tộc và biên giới, để bọn Quốc xã có
thể chộp lấy cơ hội nhằm xua quân về phía Đông của Đệ Nhị Thế chiến [1, tr.9].
Chiến tranh vừa mới chấm dứt thì Ba Lan và Tiệp Khắc dường như lại bắt đầu
đánh nhau vì vùng Teschen. Ba Lan chiếm Vilna của Lithuaniee; nước này tự đoạt
lại bằng cách thôn tính Memel, và lão tướng đánh thuê Gabriele d’Annunzio cướp
lấy Fiume của Nam Tư. Mỗi nước bắt đầu đòi trả thù cho những người anh em cùng
chủng tộc của mình đang bị buộc phải sống trong một nước lân bang. Chính dự thù
địch này khiến cho tất cả mọi ý đồ cùng nhau kháng cự chống lại cuộc xâm lược
của bọn Quốc xã trở nên vô dụng [1, tr.14].
Như vậy, một Hội nghị Hòa bình để lập lại một trật sau chiến tranh lại là nơi
xuất hiện những mầm mống của cuộc chiến tranh mới.
Ở châu Á, trong năm 1914, Nhật Bản đã chiếm các đảo nhỏ Carolines và
Marshalls cũng như hải cảng Tsingtao và tô giới Đức tại tỉnh Sơn Đông của Trung
Hoa. Trong năm 1915 Nhật Bản lợi dụng tình thế chiến tranh và sự bận rộn của các
nước phương Tây để gởi bản 21 yêu sách đến chính phủ Trung Hoa do Viên Thế
Khải cầm đầu. Nếu thỏa mãn số yêu sách này Trung Hoa sẽ thành thuộc địa của
Nhật. Như vậy, Nhật Bản muốn mở rộng thế lực và ảnh hưởng tại châu Á.
Trong năm 1918, Nhật cũng cho quân đổ bộ lên hải cảng Hải Sâm Uy (là căn
cứ hải quân chính của Hạm đội Thái Bình Dương của Liên Xô, Vladivostok) và
vùng Đông Tây Bá Lợi Á (Sebia) nữa. Hoa Kỳ cũng cho đổ bộ một đạo quân nhỏ
lên Hải Sâm Uy đê coi chừng người Nhật. Để lôi cuốn Nhật Bản vào Hội quốc Liên,
tổng thống Mỹ Wilson chịu để cho Nhật thay thế Đức kiểm soát Sơn Đông của
Trung Hoa. Chính phủ Mỹ cũng có dời hạm đội chiến đấu về lại Thái Bình Dương
và hai nước Nhật – Mỹ thi đua nhau tăng cường hải quân [21,tr.15].
Mỹ thất bại trong Hội nghị Versailles quay về với chính sách biệt lập truyền
thống nhưng vẫn tiếp tục can thiệp và mở rộng anh hưởng ở những nơi khác – Mỹ
Latinh và Viễn Đông biểu hiện rõ nhất ở hội nghị Washington (1921-1922) bàn về
những quyền lợi ở châu Á, hải quân mà Hoa Kỳ và Nhật Bản chưa được thỏa mãn
38
tại hội nghị đã có sự nhân nhượng giữa các phe. Ba cường quốc hải quân là Anh,
Nhật và Hoa Kỳ chịu phá hủy các tàu cũ và chấp nhận trọng tải chung của chiến
hạm chủ lực và hàng không mẫu hạm với tỷ lệ: 5 – 5 - 3 - 1.75 - 1.75 cụ thể 5 cho
Anh và Hoa Kỳ và 3 cho Nhật tức 525.000 tấn và Nhật là 315.000 tấn. Còn Pháp và
Ý là 175.000 tấn. Trong 10 năm các nước không được đóng thiết giáp hạm chỉ trừ
hai tàu mà Anh quốc được đóng để đạt tới tỷ lệ đã được chấp nhận. Trừ chiến hạm
Hood ra, không chiến hạm nào trong tương lai được lớn hơn 35.000 tấn và có đại
bác lớn hơn 16 inches (406 cm). Như vậy cuộc tranh đua đóng chiến hạm đã được
ngưng lại. Song Hội nghị Washington không loại trừ sự đóng thêm tàu ngầm và
nước Pháp không chịu phê chuẩn một thỏa ước của hội nghị cấm đóng tàu ngầm để
đánh phá thương thuyền; các tuần dương hạm không được quá 10.000 tấn còn tuần
dương hạm cũng như hàng không mẫu hạm không được có đại bác quá 8 inches.
Hàng không mẫu hạm không được quá 27.000 trừ ra hai chiếc Saratoga và
LeXington của Hòa Kỳ loại 33.000 tấn mà Hoa Kỳ đã đóng trên sườn của hai chiến
hạm cũ. Anh quốc và Hoa Kỳ được có 135.000 tấn hàng không mẫu hạm, Nhật
81.000 tấn, còn Pháp và Ý mỗi nước 60.000 tấn. Số trọng tải lớn về hàng không
mẫu hạm đã làm cho hải quân của nước Nhật và Hoa Kỳ đã phát triển hàng không
mẫu hạm thành một vũ khí tấn công và giúp rất nhiều vào sự phát triển sức mạnh
của phi cơ hơn các chủ thuyết về phi cơ của tướng Mitchell. Sau sự thất bại của Hội
nghị Geneva năm 1922, hội nghị London năm 1930 thỏa thuận để Nhật Bản có tỷ lệ
tuần dương hạm là 7/10 còn về tàu ngầm thì bằng Anh và Hoa Kỳ. Hội nghị London
lần thứ hai (1935-1936) là một sự thất bại. Nhật Bản báo trước hai năm cho các
trọng tải thỏa thuận tại hội nghị Washington đã chấm dứt hay hết hiệu lực ngày 31
tháng 12 năm 1936. Từ ngày này cho đến khi Nhật Bản tấn công Trân châu cảng là
chưa được 5 năm [17], [21].
Vào năm 1921 và 1922, nhiều hội nghị đã nhóm họp ở Washington với chín
cường quốc có những quyền lợi ở Thái Bình Dương, nhằm xây dựng một giải pháp
sau chiến tranh cho vùng Viễn Đông. Các cường quốc đồng ý giữ nguyên trạng về
các căn cứ hải quân theo một khu vực có hình tam giác rộng lớn chạy từ phía Tây
39
1 và Alaska đến phía Bắc Tân Gia Ba1F
2 và Úc Đại Lợi2F
các đảo Hạ Uy Di0F
3, Guam và 4, người Anh không thể canh tân Hương Cảng. Nhật Bản không thể 5, Đài Loan các đảo Bonin, Carolinas
Phi Luật Tân3F
xây dựng căn cứ tại các đảo Kuriles, Lưu Cầu4F
và Marshall. Các sĩ quan Mỹ không mấy thích về điều khoản này còn các phần tử
cực đoan trong hải quân Nhật cũng không thích tỷ lệ 3/5 về thiết giáp hạm. Quốc
hội Mỹ lúc bấy giờ giảm bớt chi phí hải quân, đã không thực hiện chương trình năm
1916 nên không chú ý đến việc lập thêm căn cứ tại miền Tây Thái Bình Dương. Sự
liên minh Anh – Nhật được chấm dứt. Anh, Pháp – Hoa Kỳ và Nhật Bản đều cam
kết tôn trọng những lãnh thổ của nhau tại Châu Á và một hiệp ước chín nước xác
nhận lại chính sách “mở rộng cửa” tại Trung Hoa. Các hiệp ước ký kết tại hội nghị
Washington không nêu ra trừng phạt xứ nào vi phạm các điều đã cam kết. Khi phê
chuẩn các hiệp ước, Thượng viện nêu ra rằng Hoa Kỳ không cam kết liên minh hay
tham dự sự phòng thủ nào cả [21, tr.20].
Năm 1923, gần một năm sau khi hội nghị Washington bế mạc, ủy ban bồi
thường thiệt hại chiến tranh tuyên bố là Đức chậm trả bồi thường lần thứ ba. Quân
đội Pháp và Bỉ tràn sang chiếm vùng Rhur. Chính phủ Đức ra lệnh cho dân chúng
vùng này bất hợp tác với Pháp nghĩa là chống lại người Pháp một cách thụ động. Để
đài thọ cho công nhân cũng như chủ nhà máy tại vùng này chính phủ Đức đã in quá
nhiều bạc giấy gây ra một nạn lạm phát kinh khủng. Tình hình Đức trở nên hỗn độn
trong khi Pháp vận động tách rời vùng Rhineland ra khỏi nước Đức. Đồng quan
Pháp cũng bị sụt giá. Các chủ ngân hàng Anh và Mỹ soạn thảo một kế hoạch bồi
thường chiến tranh mới gọi là kế hoạch Dawes. Sau đấy, Anh – Pháp- Ý – Đức và
Bỉ ký hiệp ước Locarno thừa nhận biên giới ở phía Tây và cam kết ủng hộ nhau nếu
một trong các nước này bị xâm lăng. Quân đội Pháp – Bỉ cũng rút khỏi Đức. Năm
1926 Đức vào Hội quốc liên với một ghế tại Hội đồng Thường trực giống như hội
đồng Bảo An của Liên hiệp Quốc ngày nay. Ngoại trưởng Pháp Aristide Briand và
ngoại trưởng Mỹ Frank B. Kellog đề xướng một khoản ước lý tưởng loại trừ chiến 1 Tên hán việt của đảo Hawaii 2 Tên Hán việt của Singapore 3 Australia 4 Philippines 5 Quần đảo Nansei, Nhật Bản
40
tranh, 65 quốc gia bao gồm tất cả các cường quốc đều ký kết vào khoản ước này và
sự cam kết này có giá trị bắt đầu từ ngày 24 tháng 7 năm 1927. Một tháng sau người
Đức chấp nhận một kế hoạch bồi thường mới gọi là kế hoạch Young và quân đội
đồng minh rút ra khỏi vùng chiếm đóng được quy định theo hiệp ước Versailles [21,
tr.21].
Như vậy, sau cuộc chiến tranh thế giới thứ 1, các cường quốc đều cam kết loại
trừ chiến tranh và tuyên bố rầm rộ về vấn đề này. Tuy nhiên, như đã thấy bằng
những tính toán chính trị những mầm mống của một cuộc chiến tranh hình thành và
cuộc chiến tranh bùng nổ sau hơn 20 đình chiến.
2.1.2. Chiến lược hải quân của các nước trước cuộc chiến tranh thế giới thứ
II
Hải quân Hoàng gia Anh, kết thúc chiến tranh với sự vẻ vang, đánh bại hải
quân Đức duy trì việc kiểm soát các vùng biển. Tuy nhiên, trong những thập niên
1920, 1930, họ đã gặp phải những khó khăn về việc cắt giảm ngân sách. Họ vẫn giữ
lời hứa với Hoa Kỳ trong hội nghị Washington 1922 về hạn chế kích thước hạm
đội, vũ khí, tàu sân bay, tàu chiến, máy bay. Chính điều này đã ảnh hưởng bất lợi
đối với lực lượng hải quân Anh trước những mỗi đe dọa, khi mà lực lượng này được
rải khắp trên thế giới.
Vào những năm của thập niên 30, các nhà lãnh đạo quốc phòng Anh đã lo lắng
về những thách thức trong thực tế, tình hình quốc tế đang căng thẳng khi mà mục
tiêu chiến lược của các quốc gia đang mâu thuẫn lẫn nhau. Mẫu quốc Anh cũng
không còn đủ sức phân tán lực lượng để bảo vệ cho những lãnh thổ thuộc đế chế
Anh. Ở Viễn Đông lãnh thổ thuộc đế quốc bị đe dọa bởi sự nổi lên mạnh mẽ của đế
chế Nhật Bản hiếu chiến. Một căn cứ hải quân lớn được xây dựng tại Singapore,
dựa trên hạm đội được gửi từ mẫu quốc, tuy nhiên không lâu sau hạm đội này được
điều đến châu Âu, nơi mà vị trí của Anh quốc bị đe dọa ngày càng nhiều bởi phát
xít Ý. Nước đã khống chế tuyến đường biển quan trọng Địa Trung Hải. Sau năm
1933, do sự tái vũ trang Đức dưới quyền Adolf Hitler.
Một chương trình tái thiết được bắt đầu, tàu chiến mới King Geogre V trọng
tải 42 000 tấn, được trang bị súng 10 – 14 inch (356 mm). Những chương trình lớn
41
về xây dựng tàu sân bay được bắt đầu một cách chậm trễ, hoàn thành xong các nhà
chứa máy bay, được lệnh phải được bổ sung, thay thế những phần không đạt yêu
cầu trong cuộc thế chiến I – trận đánh cổ điển. Đến năm 1939, chương trình hải
quân mới về xây dựng đội tàu hộ tống, chống tàu ngầm tuy nhiên chương trình mở
rộng này đã bị cắt giảm bởi sự co rút của các cơ sở công nghiệp quân sự của đất
nước. Chính điều này đã hạn chế sức chiến đấu của người Anh trong cuộc chiến
tranh thế giới thứ 2. Sự thiếu hụt đó chỉ được lấp đầy bởi những nỗ lực phi thường
của nhà máy đóng tàu của Hoa Kỳ.
Sau nhiều năm tranh cãi thì đến năm 1937, trách nhiệm đối với hàng không
hải quân đường biển được trả lại cho hải quân Hoàng gia. Tuy nhiên, hàng không
hải quân nghiêm trọng đe dọa bởi sự sao nhãng nhiều năm: có quá nhiều hãng hàng
không quá nhỏ, được trang bị quá ít, máy bay quá lỗi thời, lực lượng sĩ quan không
được huấn luyện, không có nhiều hiểu biết về không quân. Tàu sân bay Lord là lực
lượng đầu tiên được Churchill bổ nhiệm vào tháng 9/1939 nằm trong tình trạng như
vậy, với nhiều khía cạnh thiếu sự chuẩn bị cho cuộc chiến sắp tới [27, p.11].
Về phía Đức, Hiệp ước Versailles kết thúc cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất
đã hạn chế nghiêm trọng lực lượng vũ trang của họ [mục 2.1]. Hải quân của họ bị
giới hạn đến 6 tháng trước chiến tranh thế giới thứ hai: 1 tàu chiến Dreadnought, 6
tàu tuần dương hạng nhẹ, 12 tàu khu trục, 12 tàu phóng ngư lôi còn tàu ngầm và
máy bay bị cấm. Đô đốc Erich Reader trở thành người đứng đầu hải quân Đức từ
tháng 10/1928 đến 1/1943. Tháng 4/1939, Reader lập luận rằng cuộc chiến tranh với
Anh quốc có thể tránh được, và ông tập trung đối phó với bất kỳ mối đe dọa tiềm
năng nào từ Pháp và Ba Lan. Bắt đầu tập trung xây dựng các đơn vị quân sự nặng,
các tàu ngầm bỏ túi, tàu tuần dương hạng nặng.
Năm 1933, với sự lên nắm quyền của Adolf Hitler một chương trình tái vũ
trang lớn được khởi xướng. Kết quả đầu tiên cho hải quân là 2 tàu Schanrhorst,
Gneisenau được trang bị đạn bắn 11 inch (279 mm) bắn tàu chiến. Reader buộc phải
dựa vào chiến lược của hải quân là đánh vào đội thương thuyền của đối phương, khi
mà Đức chưa đủ sức để đánh vào chính đối phương. Ông ủng hộ việc xây dựng một
đội quân mạnh trên mặt biển đó là thiết giáp hạm, năm 1936, hai thiết giáp hạm
42
Bismark và Tirpitz với trọng tải trên 42.000 tấn, được trang bị súng 8-15 inch (381
mm), có tầm bắn 30 hải lý.
Những năm 30, hải quân Đức nhận ra nhu cầu về xây dựng không quân riêng,
nhưng lại bị ngăn chặn bởi người đứng đầu Không quân Đức lúc bấy giờ là Hoeman
Georing, người tin tưởng rằng “tất cả mọi thứ có đường bay thuộc về tôi” . Năm
1936, tàu sân bay Graf Zeppelin trọng tải 23.000 tấn chứa 28 Ju-87D máy bay ném
bom đổ nhào, 12 Me-109G máy bay chiến đấu. Tuy nhiên, kế hoạch này đã bị đình
chỉ khi mới hoàn thành được 85% vào tháng 5/1940.
Năm 1935, Karl Donitz nguyên hạm đội trưởng tàu ngầm được bổ nhiệm tư
lệnh tập trung phát triển lực lượng tàu ngầm của hải quân Đức. Ông đã nỗ lực
thuyết phục Hitler để phát triển lực lượng tàu ngầm khoảng 300 chiếc nhưng bất
thành.
Vào năm 1938, trước sự ngạc nhiên của Hải quân Đức, Hitler đã làm rõ rằng
một cuộc chiến với Anh quốc là không thể tránh, một chương trình hải quân lớn về
xây dựng hạm đội được bắt đầu, xác định giả định chiến tranh sẽ không xảy ra cho
đến năm 1944, mục tiêu chính là tàn phá thương mại biển của đối phương. Tuy
nhiên, nó được gọi là để xây dựng một hạm đội tàu chiến mạnh mẽ, trong đó có 6
tàu có trọng tải 56 000 tấn có sức chiến đấu ở vùng biển Bắc nước Anh và tiến vào
vùng biển Đại Tây Dương. Tuy nhiên, với những bất lợi của Hải quân Đức, đô đốc
Reader cảnh báo với Hitler cuộc chiến với Anh quốc là có thể tránh [27, p.13].
Trước những căng thẳng ngày càng tăng lên ở châu Âu, Pháp cũng bắt đầu tái
trang bị cho hạm đội của mình mà trước hết là để chống lại được bất kì mối đe dọa
nào của Ý ở Địa Trung Hải và sự phát triển mạnh mẽ của Đức. Ví dụ: ở Dunkerque,
và Strasbourg có thiết giáp hạm 26.500 tấn, hoạt động 30 hải lý, gắn súng từ 8-13
inch (33o mm) được dự định để chống lại thiết giáp hạm Panzerschiffe của Đức.
Trong 5 năm trước khi bùng nổ cuộc chiến tranh thế giới thứ hai, chương trình tái
thiết hải quân nước Pháp đã tiêu tốn 27% ngân sách quân sự và hạm đội Pháp dưới
quyền chỉ huy của đô đốc Darlan trở thành hạm đội lớn thứ tư thế giới [27, p14].
Việc mở rộng sức mạnh hải quân của Pháp đã ảnh hưởng đến sự phát triển của
hải quân Ý. Giống như đô đốc Reader, người đứng đầu lực lượng hải quân Đức lúc
43
bấy giờ là đô đốc Cavagnari nhận định một cuộc chiến đối với đế quốc Anh là
không xảy ra vào những năm 30. Thay vào đó, hạm đội Ý được xây dựng tập trung
vào việc chống lại người Pháp. Tuy nhiên tàu của họ thiếu một số thiết bị quan
trọng hiện đại như bộ phát hiện âm thanh, radar chống tàu ngầm và hàng không hải
quân nằm trong tay không quân Ý[27, p.15].
Hoa Kỳ, kể từ khi Hiệp ước hải quân Washington, sự chú ý của hải quân được
chuyển sang Thái Bình Dương và cuộc chiến tranh với Nhật Bản. Ở đây chiếm phần
lớn hạm đội của Hoa Kỳ trong đó 15 tàu chiến chủ lực, 5 tàu sân bay. Tuy nhiên,
cuộc chiến ở Đại Tây Dương đã dần dần và lôi kéo Hoa Kỳ sau sự kiện tháng
9/1939, khi mà vùng biển châu Mỹ bị đe dọa bởi những hoạt động hiếu chiến của
Đức. Ở phía Bắc, cuộc chiến của hải quân Canada đã kết thúc với thiệt hại 365 tàu,
2000 người [27, p.15].
Trong những năm trước CTTG II, mỗi cường quốc đều có những tính toán
chiến lược của nhau. Trong những tính toán đó có chiến lược phát triển hải quân vì
hơn ai hết họ hiểu rằng, từ CTTG I thì việc nắm ưu thế trên mặt biển nắm vai trò
quan trọng cho sự phát triển đất nước, chiến lược an ninh phòng thủ quốc gia.
Dưới đây là bảng thống kê về sức mạnh hải quân của các nước đến tháng
1/1939
Anh quốc Đức Pháp
Thiết giáp hạm Tàu tuần dương chiến hạm Thiết giáp hạm bỏ túi Tuần dương hạm Hàng không mẫu hạm (TSB) Tàu sân bay có gắn thủy phi cơ Tàu khu trục Tàu phóng ngư lôi Tàu ngầm (tiềm thủy đĩnh) Tàu thả mìn Tàu chiến nhẹ và tàu hộ tống
12 3 - 62 7 2 159 11 54 1 38
2 2 3 6 - - 17 16 57 - 8
5 1 - 18 1 1 59 13 76 1 25
Ý Mỹ 15 4 - - - - 32 21 5 - - - 209 48 - 69 87 104 8 - - 32
Nhật Bản 9 - - 39 5 3 84 38 58 10 -
Pháo hạm và tàu tuần tra Tàu quét mìn
27 38
2 39
10 8
20 -
10 12
- 29 Nguồn: Phillip D. Grove, Mark J Grove & Alastair Finlan (2002), The second world war: vol 3: the war at sea. Osprey Publishing Ltd., Oxford, England, p.16
Bảng 2.1. Sức mạnh hải quân của các cường quốc, tháng 1 năm 1939
44
Với số liệu có được ở bảng 2.1 thấy rằng: nhìn chung đứng đầu về hải quân
vẫn là Mỹ, Anh rồi đến Nhật, Pháp, Ý, Đức. Tuy nhiên, khi thời gian giới hạn hải
quân hết hạn các cường quốc đua nhau phát triển hạm đội của mình. Thì hải quân
Đức và Nhật đã thực hiện chương trình tái vũ trang lớn. Sức mạnh hải quân của mỗi
nước đều có những điểm mạnh yếu khác nhau.
2.1.3. Sự phát triển về kỹ thuật Hải quân trước cuộc chiến tranh thế giới
lần thứ II
Trong những năm trước cuộc CTTG II, do những tham vọng cùng quyền lợi
không sao hòa hợp được, các cường quốc đã có những cải tiến về kỹ thuật của mình
Ngay từ năm 1915 Nhật Bản đã thông báo một chương trình kiến tạo 16 thiết
giáp hạm cũng chiến đấu tuần dương hạm với ý đồ trong vòng mười năm sẽ làm
chủ toàn thể Viễn Đông. Về phần Hoa Kì thì cũng quyết tâm xây dựng một lực
lượng hải lực hùng hậu không nước nào sánh kịp. Tháng 10 – 1916, Hoa Kì bắt đầu
cho đóng 10 thiết giáp hạm. Tuy đến năm 1917 mới hạ thủy được 3 song chiếc nào
cũng gắn đại bác pháo 406,4 mm – ngang ngửa với chiến hạm Nhật Bản.
Nước Anh nghèo đi sau chiến tranh, tuy có ưu thế về số lượng song lại thất thế
về chất lượng: 11 chiến hạm chủ lực của Anh chỉ có đại pháo 304,8 mm mà chiếc
nào cũng đã già nua lỗi thời, cần phải được thay thế. Đến năm 1921, Anh quốc hạ
thủy 4 chiến đấu tuần dương hạm 48.000 tấn, dự trữ đóng thêm các thiết giáp hạm
gắn đại pháo 457,2 mm cùng các tuần dương hạm có đủ sức tranh phong với 13
chiến đấu tuần dương của Nhật (chiếc nào cũng có vành đai sắt bảo vệ dày 300,2
mm ở ngang lưng, có đặt 8 đại pháo 457,2 mm và có khả năng chạy nhanh 30
moeuds hay 55 km/ giờ) [8].
Trong hội nghị ở London năm 1931 các cường quốc thỏa thuận với nhau nới
rộng thời gian giới hạn việc chế tạo các chiến hạm chủ lực đã được dự trù tới sau
tháng 1.1937. Riêng Pháp và Ý được đồng ý cho đóng thêm mỗi nước hai tàu chiến
mới trong đó có chiếc diệt lôi hạm Le Terrible của Pháp (chiều dài 132m, trọng tải
230 tấn, 100.000 mã lực) đã đạt tốc độ phi thường: 45,25 noeud hay 83,8 km/ giờ.
Tuy nhiên về đại thể, vì những khó khăn tài chính, các đại cường quốc cũng bị
bó buộc phải tái tạo, tân trang các con tàu sẵn có hơn là kiến tạo các chiến hạm mới
45
toanh. Và đều theo chung 1 hướng: chú trọng tới khả năng không kích, phóng lôi
của phe mình cùng các biện pháp chống phi cơ, chống thủy lôi của đối thủ.
Qua 1937, thời gian hạn chế đóng thiết giáp mới vừa chấm dứt, mỗi cường
quốc hải quân phát triển hạm đội của mình theo một hướng riêng. Anh cho đặt các
đại pháo 350,6 mm trên các thiết giáp hạm mới đóng của mình. Đức hạ thủy hai
thiết giáp hạm Bismarck và Tirpitz mỗi chiếc gắn 8 đại pháo 381 mm đặt trong 4
pháo tháp; Mỹ thì gắn tới 9 đại pháo 406, 4mm trên các chiến hạm (loại
Washington) 35.000 tấn, có vành đai sắt bảo vệ dày 457 mm. Nhưng sau này đi xa
hơn cả là Nhật Bản: sau trận tập kích bất thần vào Pearl Harbor ngày 7-12-1941,
Nhật Bản hạ thủy 2 thiết giáp hạm khổng lồ là Yamato và Musashi, tải trọng 64.000
tấn tốc độ 27 noeud, có lớp thép bọc sàn tàu dày 228,5 mm và gắn 9 đại pháo 462,2
bắn những trái đạn nặng 1449,6k tới các mục tiêu ở xa 21.000m. Bất hạnh cho Nhật
Bản là ngay khi vừa hoàn tất, hai thiết giáp hạm khổng lồ này đã sớm trở nên lỗi
thời – vì tương quan lực lượng trên các đại dương đã bị các hàng không mẫu hạm
cùng các phi độ hải quân làm thay đổi hẳn [8].
Về hàng không mẫu hạm (tàu sân bay) thì Anh quốc tuy vẫn có số lượng nhiều
hơn hết song đều loại cũ, chỉ chở được từ 21 đến 33 máy bay so với tàu Nhật hay
tàu Mỹ có thế chở tới 90 hoặc 100 máy bay. Bù lại, tàu của Anh được bọc sắt che
chở chắc chắn hơn hẳn cả tàu Nhật lẫn tàu Mỹ nên “chịu đòn” giỏi hơn nhiều Tuy
nhiên, người Anh quan niệm tàu sân bay vẫn chỉ coi đó là trợ thủ cho các thiết giáp
hạm thay vì là chủ bài để giành ưu thế cả trên bầu trời lẫn trên biển. Trong khi đó
Nhật Bản và Hoa Kỳ đã ý thức được rất rõ và rất sớm về tầm mức quan trọng của
phi cơ cùng các mẫu hạm. Hơn nữa, cả Nhật lẫn Mỹ đều thấy ngay là cần phải có
những phi cơ kiểu chuyên biệt: khu trục, oanh tạc, phóng lôi, kể cả loại được thiết
kế đặc biệt để từ trên cao đâm nhào xuống gần sát mục tiêu rồi mới thả bom hoặc
phóng lôi cực kỳ nguy hiểm.
Vào giai đoạn mà các thỏa ước Washington còn hạn chế số chiến hạm chủ lực,
các nước đua nhau tìm cách chiếm ưu thế qua tuần dương hạm vì loại tàu này chỉ bị
giới hạn về tải trọng cùng hỏa lực (10.000 tấn, súng 203,2 mm) nhưng không bị hạn
chế về số lượng. Và trong khi Nhật cùng Mỹ đua nhau đóng các tuần dương hạng
46
nặng (trên dưới 10.000 tấn với đại pháo 200,6 mm hoặc 203,2 mm) thì Anh lại thích
có nhiều tuần dương hạm hạng vừa, gắn các đại pháo 152,4 mm vì vừa đỡ tốn kém
vừa dễ sử dụng. Còn nước Đức thì từ cuối thập niên 1920 đã biểu lộ khuynh hướng
dành ưu tiên cho các loại tàu chuyên đánh phá thương thuyền nhằm phong tỏa kinh
tế đối phương. Đến năm 1929 Đức cho hạ thủy một kiểu tuần dương hạm mới lạ gọi
là “ Thiết giáp hạm bỏ túi – chiếc đầu tiên là Deutechland, tải trọng 11.700 tấn có 2
pháo tháp gắn 6 đại pháo 279.4 mm bắn những trái đạn nặng 1821 ký tới các mục
tiêu ở xa trên 27.000 m. Với 3280 tất nhiên liệu mang theo, loại tàu này chạy máy
diesel có khả năng chạy nhanh 27 noeud và hoạt động xa căn cứ trên 18.500 km. [8]
Với các loại tàu nhỏ từ khu trục hạm xuống các hộ tống hạm, thông báo hạm,
giữa Anh với Mỹ và Nhật cũng có lựa chọn khác nhau: trong khi Anh chú tâm đến
các hộ tống hạm, thông báo hạm (tuy có tốc độ thấp, hỏa lực yếu hơn các khu trục
hạm song lại ít tốn kém và dễ điều động, rất thích hợp với việc truy diệt tiềm thủy
đĩnh) thì Nhật và Mỹ đều quan tâm kiến tạo hàng đoàn khu trục hạm lớn hơn, mạnh
hơn của Anh khá nhiều. Cuối cùng, Anh cũng bị bó buộc phải đi theo đường này để
khỏi bị bỏ lại quá xa) nhờ đó thế chiến thứ 2 bùng nổ ở châu Âu. Anh quốc không
đến nỗi quá lúng túng.
Khi chiến cuộc bùng nổ trên Thái Bình Dương thì hải quân Hoa Kỳ có đến
171 khu trục hạm trong đó 100 chiếc mới đóng từ 1933 trở lại – với đại pháo tiêu
chuẩn 127 mm và tầm hoạt động xa hơn 16.000km. Hải quân Nhật Bản vào lúc đó
có 130 khu trục hạm về đại thể rất giống của Hoa Kỳ - chỉ trừ các kiểu mới đóng về
sau, loại B, tuy cũng có tải trọng 2700 tấn song lại gắn đại pháo 99mm tác xạ rất
nhanh, xuyên phá rất mạnh, hơn hẳn loại 127mm của Hoa Kỳ và các nước khác [8]. 6, trong thập niên 20 Nhật Bản mới đóng các tàu chỉ có khả Về tiềm thủy đỉnh5F
năng hoạt động 20 ngày liền. Hành quân xa chừng 10.000 mille, sang thập niên 30
với loại KD 6A và 6B và J2,J3 có thể hoạt động liên tục từ 45 đến 60 ngày, đi xa
14.000 mille (25.928 km) kiểu A1 có thể hành quân trong 3 tháng liền, đó là còn
chưa kể một vài kiểu đặc biệt như J1 còn mang theo 1 thủy phi cơ và có tầm hoạt
động 25.000 mille (46.300 km), kiểu STD có tải trọng 6500 tấn, tầm hoạt động 6 Tàu ngầm
47
37.000 mille (68.524 km). Thế nhưng ưu thế nổi bật của Nhật Bản là về ngư lôi:
Kiểu vẫn được Anh, Mỹ nể sợ đặc biệt được gọi là Long Lance dùng Oxygene tạo
sức đẩy, có khả năng phong xa tới 25km với tốc độ 49 noeud (98km/ giờ) hoặc
46km với tốc độ 36 noeud, mang đầu nổ 500k trong khi các ngư lôi của Anh , Mỹ
chỉ có thể phóng xa 2,5 mille (4,6 km) với tốc độ 55km / giờ hoặc 6,25 mille với tốc
độ 30 noeud (55 km/ giờ và mang đầu nổ chỉ năng 320k) [8].
Tuy nhiên trong thực tế chiến đấu, các tiềm thủy đỉnh Nhật Bản đã không
được sử dụng với hiệu quả tối đa vì chủ trương sai lầm của bộ Tư lệnh hải quân
thay vì tung từng tàu ngầm đi đánh các tàu buồm thì lại phái từng nhóm nhỏ đi đánh
các tàu chiến lớn được bảo vệ nghiêm mật cả ở trên trời lẫn dưới nước do đó không
phát huy được uy lực của mình. Vì vậy, Hải quân Nhật Bản vào giai đoạn đầu của
Thế chiến II tuy được coi là đào tạo huấn luyện rất chu đáo, lập nhiều chiến công rất
hiển hách nhưng chiến cuộc càng kéo dài thì càng tỏ ra “thiếu nội lực” không đủ
sức bù đắp các tổn thất quá cao cả về nhân lực lẫn vũ khí, chiến hạm để rồi cuối
cùng bị đối phương “đánh gãy xương sống” ngay trên những vùng biển mới 4 năm
trước còn mặc sức vẫy vùng ngang dọc.
Trước khi cuộc chiến tranh thế giới thứ II, với tư tưởng địa – chính trị về tầm
quan trọng ở lực lượng hải quân trong việc kiểm soát các vùng biển, các cường
quốc đã bắt tay vào cải tiến kỹ thuật theo hướng chiến lược hải quân cả quốc gia
mình. Do sự chi phối khác nhau về tiềm lực của nền kinh tế quốc phòng, chiến lược
hải quân, ý đồ chính trị mà các cường quốc đã phát triển vũ khí hải quân theo hướng
khác nhau. Chính điều này đã ảnh hướng khônng nhỏ đến cuộc chiến.
2.1.4. Quan hệ quốc tế trực tiếp dẫn đến chiến tranh thế giới thứ II
Trong những năm 30 của thế kỉ XX, thế giới tư bản rơi vào những cuộc khủng
khoảng kinh tế sâu sắc. Chính những đợt khủng hoảng đó đã thúc đẩy nhanh chóng
những mâu thuẫn gay gắt vốn có càng trầm trọng hơn.
Trước hết là mâu thuẫn Anh – Đức. Sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế
Đức. Đức vượt Anh tới 1 lần rưỡi: sản xuất thép của Đức đạt 20 triệu tấn so với 13
triệu tấn của Anh, sản xuất điện của Đức là 49 tỉ KW/h so với 33 tỉ KW/h của Anh;
sản phẩm công nghiệp của Đức đứng hàng đầu châu Âu và chỉ đứng thứ hai trên thế
48
giới sau Mỹ; Đức chỉ kém Anh một chút trong sản xuất than (240 triệu tấn so với
244 triệu tấn của Anh), nhưng ở thị trường Tây Âu, Đức vẫn chiếm vị trí hàng đầu
về than, thép, sản phẩm hóa học và ô tô. Anh chỉ còn giữ được ưu thế trên thị
trường Bắc Âu. Trong vĩnh vực nông nghiệp Đức cũng vươn lên cạnh tranh gay gắt
với Anh, đặc biệt là khu vực Đông – Nam Âu và lòng chảo sông Danube. Năm
1937, khoảng 9 % nhập khẩu và 10% xuất khẩu của Đức là tiến hành với các nước ở
khu vực này của châu Âu. Không chỉ có vậy Đức còn tăng cường xâm nhập về
chính trị vào khu vực này, ủng hộ các lực lượng phát xít thân Đức ở đây để chuẩn bị
cho kế hoạch bành trướng xâm lược trong tương lai. Chẳng hạn, Đức đã đạt được
việc kí với Bulgaria Hiệp ước về cung cấp vũ khí, trong khi đó cả Anh và Pháp lại
thất bại trong ý đồ đạt được một hiệp định tương tự với Bulgaria [16, tr.138].
Mâu thuẫn Đức - Anh cũng đặc biệt căng thẳng ở khu vực Trung Cận Đông.
Có tới 50% tổng ngoại thương của Thổ Nhĩ Kỳ là tiến hành với Đức. Tại đây xuất
hiện nhan nhả các “chuyên gia” đủ mọi loại của nước Đức phát xít. Sách báo phát
xít tràn ngập Thổ Nhĩ Kỳ. Đức cũng tiến hành các hoạt động gián điệp phá hoại
chống Anh và Liên Xô trên lãnh thổ Iran. Về phần mình, Anh cũng có những hoạt
động chống trả, nhưng chỉ ở miền Nam Iran, còn hoàn toàn “để lỏng” ở miền Bắc,
các cảng ở biển Caspi cũng như phần Azerbaijan thuộc Iran, nhằm dùng các hoạt
động của Đức để làm suy yếu Liên Xô. Trong những năm 1938 -1939, tỉ trọng của
Đức trong ngoại thương của Iran tăng lên tới 41,5%. Còn với các nước Ả rập, năm
1938 Đức đứng thứ hai trong ngoại thương của Ai Cập, Palestine. Cũng trong năm
này, Đức thiết lập quan hệ ngoại giao với Ả rập Saudi. Tuy vậy, Anh vẫn còn giữ
được ưu thế của mình ở Trung Cận Đông. Trong năm 1937, dưới sự tác động và bảo
trợ của Anh, bốn nước Thổ Nhĩ Kì, Iram, Iraq và Afghanistan đã kí hiệp ước
Sadabat – hình thành khối hiệp ước Cận Đông [16, tr.139].
Không dừng lại ở châu Âu, vùng Trung Cận Đông, mâu thuẫn Anh – Đức còn
diễn ra ở châu Phi và Mỹ latinh. Hitler lên tiếng đòi phải trả lại cho Đức những
thuộc địa trước kia đã mất sau Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914 -1918). Người
Anh trong khi chống lại điều đó, lại chủ trương rằng, Anh sẽ không phản đối những
tham vọng của Đức đối với thuộc địa của các thực dân khác,chẳng hạn như Bỉ, Hà
49
Lan, và Bồ Đào Nha. Còn ở Mỹ Latinh, nhờ vào sự giúp đỡ của Nhà nước, tư bản
Đức cũng thâm nhập và cạnh tranh mạnh mẽ với tư bản Anh. Chẳng hạn, vào năm
1938, trong nhập khẩu của Brazil phần của Đức chiếm 25%, trong khi phần của
Anh chỉ có 10%; những con số tương ứng trong vấn đề này ở Chile là 26% của Đức
so với 9,5% của Anh, và ở Peru là 16% của Đức so với 8% của Anh [16, tr.139].
Tương tự như mẫu thuẫn Anh – Đức, mâu thuẫn Pháp – Đức trong những năm
cuối của thập niên 30 cũng không kém phần gay gắt, trước hết là ở Ba Lan,
Rumania và Nam Tư – vốn là những đồng minh gần gũi của Pháp. Do đó, trong khi
một bộ phận thuộc giới tư bản độc quyền Pháp có khuynh hướng nghiêng về việc
Pháp có thể chỉ đóng vai trò là người “bạn hàng” khiêm tốn của Đức, thì phần lớn
giai cấp tư sản Pháp vẫn chủ trương phải xích lại gần và củng cố liên minh với Anh
và Mỹ, vì vấn đề không đơn thuần chỉ là những mâu thuẫn với Đức, mà sau Đức
còn có Ý. Quan hệ Pháp – Ý vẫn thường xuyên trong tình trạng bất ổn do tham
vọng của Ý đối với đảo Corse, Nice, và vùng Savoie. Ngoài tham vọng đối với các
vùng lãnh thổ này của chính nước Pháp, phát xít Ý còn muốn gộp cả các thuộc địa
Tunisia và phần Somalia thuộc Pháp vào phần thuộc địa của mình ở Phi châu.
Mussolini rất muốn biến cảng Djibouti thành một trong những vị trí chiến lược của
Ý trên bờ biển châu Phi, và chiếm được tuyến đường sắt Djibouti – Addis Abeba
của Pháp. Tương tự như vậy, Mussolini muốn biến Địa Trung Hải thành một thứ
“ao nhà” của mình. Và điều này tất nhiên không thể không gây nên sự quan ngại
thực sự từ phía Pháp.
Ngoài những mâu thuẫn Anh – Đức, Pháp – Đức và Pháp – Ý như trên, ở bên
kia bờ Đại Tây Dương còn có thể thấy mâu thuẫn Mỹ - Đức cũng không kém phần
phức tạp và gay gắt, trong cả lĩnh vực kinh tế và chính trị. Chẳng hạn, trong tháng
10 -1937 đã phát sinh những xung đột do việc Đức có ý định đạt được những hợp
đồng tô nhượng về dầu mỏ ở Mexico. Tháng 3-1938, những xung đột tương tự cũng
đã xảy ra khi phái Đức đã lợi dụng việc chính phủ Mexico thi hành đạo luật quốc
hữu hóa ngành công nghiệp dầu mỏ thuộc về các công ti của Anh và Mỹ, để tiến
hành mua các nguồn dầu mỏ chiến lược. Sau đó, ngay trong tháng 5- 1938, các lực
lượng ngầm của Đức hoạt động ở Brazil đã tham gia tích cực vào âm mưu của các
50
phần tử phát xít Brazil chống chính phủ Brazil có khuynh hướng thân Mỹ của Tổng
thống Vargas. Về phần mình, Mỹ đã gây áp lực để Brazil yêu cầu Đức phải triệu hồi
Đại sứ của mình khỏi Rio de Janeiro; đồng thời thành lập một ủy ban đặc biệt ở các
cơ quan ngoại giao, quân sự, kinh tế của mình để có những biện pháp chống lại các
hoạt động xâm nhập của Đức ở Mĩ La tinh. Mặc dù vậy, tư bản Đức vẫn tiếp tục các
hoạt động cạnh tranh của họ không chỉ ở Mĩ La tinh, mà còn ở ngay trên thị trường
nước Mỹ. Sự cạnh tranh của tư bản Đức tại thị trường nội địa của Mỹ đã khiến cho
chính quyền của Tổng thống Roosevelt trên thực tế phải áp dụng một biểu thuế
quan có tính chất cấm đoán đối với các hàng hóa Đức. Ngoài ra, mâu thuẫn Mĩ –
Đức còn thể hiện ở một phương diện khác, là Mỹ kiên quyết chống lại các kế hoạch
phân chia các thuộc địa của Anh, Pháp. Vấn đề không phải là ở chỗ Mỹ ủng hộ Anh
và Pháp để chống lại Đức mà là ở chỗ những tính toán của Mỹ, Mỹ sẽ lợi dụng sự
suy yếu của Anh, Pháp trong những thời điểm và điều kiện thích hợp để thay chân
Anh, Pháp trong các thuộc địa này.
Trong những năm cuối của thập kỉ 30, ở châu Á - Viễn Đông, mâu thuẫn Nhật
– Mỹ, Nhật – Anh, và Nhật – Pháp cũng diễn ra không kém phần phức tạp và căng
thẳng. Tháng 11-1938, Thủ tướng Nhật– Konoye đã tuyên bố về một “Trật tự mới ở
Đông Á”, trong đó khẳng định rõ “mối quan hệ chặt chẽ” của Nhật với Trung Quốc
và Mãn Châu trong các lĩnh vực “kinh tế, chính trị và văn hóa”. Cả Anh, Pháp, Mĩ
đều lập tức có phản ứng đối với tuyên bố này của phía Nhật Bản. Ngày 31-12-1938,
Hoa Kỳ gửi công hàm cho chính phủ Nhật yêu cầu phải bảo vệ “tất cả các quyền,
quyền lợi của Hoa Kỳ và công dân Mỹ ở Trung Quốc. Đến lượt mình, Anh và Pháp
cũng có các công hàm tương tự gửi cho Nhật Bản.
Tháng 1 – 1939, Nội các Konoye từ chức, và thay vào đó là Nội các quân
phiệt hiếu chiến hơn của Thủ tưởng Hiramura. Tháng 2-1939, quân Nhật chiếm đảo
Hải Nam của Trung Quốc, và trong tháng 3 năm đó tiếp tục chiếm một số đảo ở
biển Đông trực tiếp uy hiếp Đông Dương thuộc Pháp. Tháng 5-1939, chính quyền
của Harimura đã yêu cầu Anh và Mỹ phải thừa nhận “quyền của Nhật Bản” đối với
việc quản lí các khu tô giới nước ngoài ở Thượng Hải và quyền kiểm soát đảo
Gulane. Phía Anh và Mỹ đều bác bỏ những yêu sách này của Nhật. Để gây áp lực,
51
ngày 27-7-1939, chính phủ Mỹ đã tuyên bố hủy bỏ Hiệp ước thương mại Nhật – Mỹ
được kí kết từ năm 1911. Mâu thuẫn Nhật – Mĩ ở khu vực Viễn Đông ngày càng trở
nên phức tạp và căng thẳng hơn.
Như vậy, trong quan hệ quốc tế ở giai đoạn cuối thập niên 30 đã chứng kiến
những mâu thuẫn phức tạp chằng chéo rất phức tạp, căng thẳng giữa các cường
quốc tư bản chủ nghĩa với nhau ở hầu hết các khu vực quan trọng trên thế giới. Tuy
nhiên, nhìn một cách khái quát có thể thấy, đến lúc này đã thực sự hình thành hai
khối đế quốc tư bản đối địch nhau: một là khối phát xít do Đức, Ý, Nhật cầm đầu;
hai là, khối đế quốc do Anh, Pháp, Mỹ cầm đầu, và cả hai khối này đều ra sức
chuẩn bị cho một cuộc chiến tranh quy mô lớn.
Điều đáng chú ý là, trong khi phe Trục: Đức, Ý, Nhật từ khá sớm trong thập
niên 30 đã chuyển nền kinh tế của mình sang hướng quân sự hóa phục vụ cho việc
chuẩn bị một cuộc chiến tranh lớn, thì ở khối đế quốc Anh, Pháp, Mỹ cho đến
khoảng những năm 1938 -1939 quá trình này mới chỉ bắt đầu. Chẳng hạn, tháng 5-
1938, Mỹ mới thông qua quyết định nâng trọng tải của Hạm đội Hải quân lên 20%;
và trong đầu năm 1939 Quốc hội Mĩ mới chuẩn y chương trình Không quân mới
tăng số máy bay Mĩ lên 5.500 đơn vị. Trong giới tư bản tài chính của Mĩ bắt đầu
lãnh đạo việc chuẩn bị trực tiếp về kinh tế cho chiến tranh, như trong Ủy ban dự trữ
chiến tranh của Mĩ (thành lập tháng 8-1939) có sự tham gia của đại diện thép
Morgan, tập đoàn General Motor và Công ti điện thoại – Điện tín Mĩ [16, tr.142].
Cuộc chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ với sức mạnh hung hãn của người
Đức, sự dung dưỡng của các nước phương Tây làm cho tốc độ cuộc chiến được thúc
đấy nhanh chóng. Cuộc hành quân của Phát xít Đức gần như không gặp phải một
trở ngại nào. Vì xét đến cùng trận chiến mà Đức gây ra vẫn đáng lo ngại cho Liên
Xô hơn là Anh, Pháp. Tướng Guenther Blumentritt Tham mưu trưởng Tập đoàn
quân A dưới quyền Rundstedt, kể lại cuộc họp giữa Hitler và Rundstedt ngày 24/5:
Hitler muốn đi đến tỏa thuận hòa bình hợp lý với Pháp để được rộng đường cho một
hiệp định với Anh. Ông tỏ ra ngưỡng mộ khi nói về Đế quốc Anh..., về nền văn
minh mà Anh đã mang ra thế giới...điều ông muốn từ Anh chỉ là Anh công nhận vị
thế của Đức trên lục địa châu Âu. Việc trả lại những thuộc địa của Đức là điều
52
mong ước nhưng không phải thiết yếu. Mục đích của ông là dàn hòa với Anh trên
cơ sở mà Anh xem là xoa dịu danh dự của họ để chấp nhận ý tưởng hòa bình [22,
Tr.712].
Hitler vô cùng tự tin là Anh sẽ đồng ý, tuy nhiên Churchill khẳng định họ
không thỏa hiệp với Đức, Anh không chịu thua : “chúng ta hãy gắng hết sức cho
những nghĩa vụ của mình, và nếu Đế quốc Anh và Liên hiệp Anh kéo dài một nghìn
năm, ta sẽ tỏ ra xứng đáng khi hậu thế nói : “Đấy là thời khắc quang vinh nhất của
họ” [22, Tr.724].
2.2. Hải chiến trên Đại Tây Dương và những phân tích địa chính trị
* Vai trò địa – chính trị của Đại Tây Dương
(xem hình 2.1)
Đại Tây Dương, đại dương lớn thứ 2 của Trái Đất, bắc giáp các đảo Grinlen,
Aixlen, đông giáp châu Âu, châu Phi, tây giáp châu Mỹ, nam giáp châu Nam cực,
diện tích 91.560.000 km2 (không kể các đảo), sâu trung bình 3.600m, sâu nhất
8.742m. Các cảng quan trọng nhất: Rôttecdam, Xanh Petecbua, Luân Đôn, Niu
Ooc, Hăm buôc, Macxay, Buê nôt Airet, Kep Tao, Đaca [2, tr.322]. Xung quanh bờ
Đại Tây Dương, là những quốc gia được hình thành và phát triển từ biển. Trong quá
trình đó diễn ra nhiều cuộc chiến để chiếm giữ con đường hàng hải này. Trong lịch
sử châu Âu cho thấy rằng việc kiểm soát biển là tiêu điểm của những cuộc chiến.
Nước nào nắm giữ được biển thì dễ trở thành những cường quốc mạnh. Trong lịch
sử hàng hải có Hà Lan, Anh quốc là những đế quốc hàng hải. Đại Tây Dương là còn
là con đường để nước Mỹ đi vào lục địa châu Âu.
Thời kỳ đại chiến thế giới thứ 2, nếu như con đường giao thông qua Địa Trung
Hải chỉ là mang tính cách sinh tử đối với một số xứ trong đế quốc thì đường thông
thương và tiếp tế qua Bắc Đại Tây Dương có tính cách sống còn đối với Anh quốc.
Do tách rời với lục địa nên để có thể tồn tại, nước Anh phải dựa vào hơn bao giờ hết
các nguồn nguyên liệu của Đế chế Anh và Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ [1, tr.148]. Để
tiếp tục chiến đấu chống Đức, mỗi tuần Anh cần một triệu tấn nguyên vật liệu.
Những đoàn tàu này thường là từ Hoa Kỳ theo phía nam Đại Tây Dương chở tiếp
vận và vũ khí đến Anh Quốc và Liên Xô, được hộ tống bởi hải quân và không quân
53
Anh và Canada.
Trong diễn văn gửi nhân dân Hoa Kỳ ngày 11-9-1941, Roosevelt nói: “Hitler
biết rằng để có thể giành thắng lợi quyết định trong nỗ lực thống trị thế giới, ông ta
phải kiểm soát được biển cả. Trước hết, ông ta phải phá tan tuyến đường băng qua
Đại Tây Dương, mà các con tàu của chúng ta đã tạo ra và nhờ nó mà chúng ta có
thể tiếp tục đưa vũ khí sang tiêu diệt ông ta” [7, Tr.91].
Để giành được một cuộc thương thuyết rảnh rang ở châu Âu, người Đức biết
rằng sẽ không thể là một cuộc đổ bộ trực tiếp lên vương quốc Anh, mà phải làm tàn
lụy nền kinh tế và với chiêu trò hòa bình của họ. Để đạt được mục đích, Hitler đã
quyết định ngăn chặn con đường huyết mạch mà Đại Tây Dương tạo ra bắt đầu từ
Canada và Hoa Kỳ. Nơi có những đoàn thương thuyền tiếp tế cho Anh quốc.
*Diễn biến
Cuộc chiến trên Đại Tây Dương, từ tiếng Anh "Battle of the Atlantic" do thủ
tướng Anh Winston Churchill nêu lên năm 1941. Đây là trận chiến lan rộng khắp
một vùng hải dương rộng lớn, kéo dài 6 năm, với hàng nghìn thuyền bè tham gia,
hơn 100 đoàn tàu bị tấn công và đến cả ngàn trận đánh một chọi một giữa hai chiến
hạm. Trận chiến Đại Tây Dương sẽ là một chuỗi diễn biến của những trận đánh
bằng tàu ngầm, những cuộc tập kích trên mặt biển, các cuộc đánh mìn và các cuộc
tấn công bằng máy bay trong các vùng bờ biển nước Anh [1, tr 148].
Nếu như xét về so sánh lực lượng hải quân thì hải quân Đức chưa thể đủ sức
mạnh để lấn át, tiêu diệt hải quân Anh, thêm vào đó lực lượng hạm đội hải quân
Đức trên Đại Tây Dương rõ ràng không có đồn bốt, tiền tiêu. Trong chiến lược quân
sự, các tướng hải quân và ngay cả Quốc trưởng Hitler cũng muốn tránh một cuộc
chiến tranh trực tiếp với Anh, đặc biệt là việc tấn công trực tiếp lên đảo quốc. Trong
cuộc chiến khi mà đối thủ là một đế chế hàng hải lâu đời. Karl Donitz một nhà
chiến thuật hàng đầu của hải quân Đức, nguyên hạm đội trưởng tàu ngầm thời Đệ
nhất thế chiến, năm 1935 được Hitler bổ nhiệm làm tư lệnh, tập trung phát triển lực
lượng tàu ngầm nhận định rằng: Đức chỉ có thể cậy vào tàu ngầm mới mong thủ
thắng được trận Đại Tây Dương, từ đó giúp Đức sớm kết thúc thế chiến. Ông đưa ra
chiến thuật “bầy sói”. Các tư lệnh khác phản bác quan điểm này. Theo họ, chỉ có
54
các chiến hạm không thể bị đánh chìm, được trang bị đại bác lớn mới là yếu tố
chính kiểm soát vùng biển. Thực tế đã nghiêng về nhận định của Donitz. Những
thiết giáp hạm khổng lồ “không thể bị đánh chìm” của Đức như Bismarck và Graf
Spee hạ đốc không bao lâu đã trở thành tít lớn trên báo chí do “bị hải quân Anh săn
lùng và tiêu diệt”. Trong khi trên Đại Tây Dương, lực lượng tàu ngầm Đức liên tục
khiến quân đồng minh khốn đốn bởi “bầy sói” [33].
Để cô lập và loại Anh quốc ra khỏi cuộc chiến, Donitz tính toán lượng hàng
hóa của nước này cần phải bị đánh chìm hằng ngày trên Đại Tây Dương. Như vậy,
nền kinh tế Anh sẽ lụn bại và đường tiếp vận của quân đồng minh cũng bị phong
tỏa. Từ tính toán trên, Donitz phác thảo cơ số tàu ngầm Đức cần có để thực hiện
chiến dịch. Nắm rất vững những thông số cần thiết, lên chiến thuật và với tiềm năng
của nước Đức lúc bấy giờ, Donitz khẳng định Đức có thể mở một cuộc chiến năm
ăn năm thua với hải quân Hoàng gia Anh dù đối phương có thực lực mạnh hơn cả
chục lần. Donitz tin rằng hải quân hoàng gia với những chiến đấu hạm được trang bị
đại bác lớn sẽ hoàn toàn “đề-mốt” trước chiến thuật hiện đại của tàu ngầm - được
chế tạo nhỏ nhưng cơ động trên mặt nước và lặn nhanh xuống biển.
Để có thể phong tỏa Anh quốc như theo tính toán, Donitz cần ít nhất khoảng
300 tàu ngầm để tung vào trận. Tuy nhiên, ông chỉ có trong tay 57 chiếc trong số đó
có 17 chiếc đang hoạt động ở biển.
Trong 9 tháng đầu của cuộc chiến, tàu ngầm Đức chưa phải là mối đe dọa
chính. Ngoại trừ những hoạt động nhỏ lẻ, đội tàu ngầm Đức đã bị hạm đội họ tống
vận tải dồn vào thế đường cùng và các hoạt động tấn công phá hoại của họ cũng
không đạt được hiệu quả cao. Tuy nhiên tháng 10/1939, đội tàu ngầm U-47 của Đức
đã xâm nhập vào khu vực neo thuyền cuả Home Fleet tại Scapa Flow ở Orkeys,
đánh đắm chiến thuyền Royal Oak. Quân Anh đã ý thức rõ về sự thiếu hụt về tàu hộ
tống áp tải thích hợp, ngày càng trở nên trầm trọng hơn với nhu cầu bảo vệ cho hệ
thống tiếp tế xuyên eo biển để hỗ trợ quân đội ở Pháp. Như vậy, hạm đội vận tải sẽ
được bảo vệ trước chuyến hành trình xuyên Đại Tây Dương bởi một tàu tuần dương
được trang bị vũ khí đầy đủ.
Việc săn lùng bắt tàu ngầm Đức do hàng không mẫu hạm đảm trách. Tuy
55
nhiên ở giai đoạn đầu bị vô hiệu hóa.
Tháng 8/1939, Hai chiếc tàu chiến bỏ túi, Deutchstchland và Grafspee tham
gia vào cuộc chiến trên Đại Tây Dương, nhưng hoạt động của 2 tàu này không gây
được nhiều nguy hại cho quân Anh. Chúng trở thành mục tiêu săn lùng, bắn phá của
quân Anh. Trong thời gian này, hai thuyền chiến chính khác đã tiến hành những
cuộc bắn phá chớp nhoáng vào Đại Tây Dương, mở đầu cho một cuộc tấn công bất
ngờ của đội thuyền Home Fleet vốn đã thất bại trong nỗ lực can thiệp của chúng.
Một mỗi đe dọa ban đầu khác chính là mìn từ tính, được phóng ra từ máy bay và tàu
ngầm ở các cảng của sông củ Anh. Loại mìn này là nguyên nhân chính gây ra vô số
các cuộc chìm tàu trước khi giải pháp kỹ thuật, thiết bị khử từ ra đời.
Ngày 10.5.1940, Đức xua quân tiến chiếm Pháp. Ngày 22.6.1940, Pháp đầu
hàng. Sự thất bại của Pháp đã làm tình hình thay đổi một cách đột ngột. Quân Đức
đã vượt qua được những trở ngại về ngư lôi và đội tàu ngầm của họ trở nên đáng tin
cậy hơn. Đặc biệt hơn là việc Donitz tiếp quản nhiều hải cảng quan trọng của Pháp
và thu ngắn được hải trình đến Đại Tây Dương điều này đồng nghĩa với việc nhiều
tàu ngầm Đức sẽ tham gia vào hoạt động tuần tra hơn. Đối với Hitler, sự thất bại
của Pháp làm cho mọi việc trở nên dễ dàng hơn. Những sân bay nhỏ của Pháp chỉ
tạm thời sử dụng ở những con lạch gần bờ biển và những cảng nhỏ của Anh. Những
căn cứ tàu ngầm Pháp chỉ làm tăng thêm khu vực hoạt động của các tàu ngầm Đức,
điều đó giờ đây cho phép chúng thực hiện hành quân xa trong trung tâm Đại Tây
Dương, ngoài tầm bảo vệ của không quân Anh. Bằng cách xuất phát từ các hải cảng
Pháp, các tàu thả mìn của Đức có thể nhồi nhét vào biển Manche những vũ khí nguy
hiểm của chúng. Ngoài ra xuất phát từ các căn cứ của Pháp và Na Uy, các tàu trên
mặt nước của Đức có thể xông đánh bất thần các tàu đồng minh bảo đảm sự thông
thương ở Bắc Đại Tây Dương. Việc tăng cường cuộc chiến bằng tàu ngầm, sau sự
thất trận của nước Pháp, đã nhanh chóng làm tăng gấp bội các tổn thất về tàu buôn
của quân Đồng minh. Những đoàn tàu của Đồng minh tắt đèn đi trong đêm, không
những chỉ bị các tàu ngầm đe dọa, mà lúc nào cũng phải hết sức chú ý tránh những
vụ va chạm. Trong các vùng biển của châu Âu, chúng cũng phải đề phòng các máy
bay ném bom có bán kính hoạt động tầm xa đặt căn cứ ở Pháp và Na Uy [1], [19].
56
Từ tháng 7 đến tháng 10.1940, tàu ngầm Đức đánh chìm thêm 220 tàu thuyền
của quân đồng minh. Hiện giờ, lực lượng không quân Luftwaffe cũng đã tham gia,
với các đơn vị Fockewult Condors tầm xa để định vị hạm đội áp tải và hướng dẫn
cho tàu ngầm Đức. Ngoài ra những đơn vị này cũng có thể tiến hành những cuộc
tấn công để đánh đắm tàu địch.
Chỉ trong 3 tháng - từ 2.9 đến 2.12.1940, 157 tàu thuyền các loại của quân
Đồng minh đã bị đánh chìm với tổng lượng hàng tiếp vận là 847 ngàn tấn trong khi
Đức chỉ tổn thất 3 tàu ngầm. Tỷ lệ đánh đổi là 1:52. Những tổn thất liên tiếp khiến
lượng dầu mỏ nhập cảng vào Anh giảm hẳn một nửa và chỉ đáp ứng được 2/3 nhu
cầu. Kinh tế Anh bắt đầu rơi vào khủng hoảng đến nỗi Thủ tướng Winston
Churchill phải thú nhận ông sợ nước Anh sẽ thua ở trận hải chiến Đại Tây Dương
và như vậy, Anh sẽ mất luôn sức chiến đấu trong Đệ nhị thế chiến [33]. Trong một
bức thư gửi Tổng thống Roosevelt ngày 08-12-1940 Winston Churchill trình bày
viễn cảnh của năm 1941 theo cách nhìn riêng của ông: Nguy cơ của cuộc xâm lăng
thần tốc ồ ạt của Đức vào lãnh thổ Anh quả đã giảm đáng kể. Nhưng thay vào đó là
mối đe dọa chết người về việc Anh sẽ bị Đức bóp nghẹt từ từ bằng hoạt động phong
tỏa đường biển và đánh phá từ trên không. Đáng sợ hơn cả là “số tàu biển bị đánh
đắm ngày càng tăng lên mau chóng…vấn đề quan trọng hơn cả trong năm 1941 sẽ
là an ninh đường biển. Nếu chúng tôi không thể đảm bảo việc cung ứng cho đảo
quốc của mình các loại vũ khí và đạn dược chính, nếu chúng tôi không có khả năng
đưa quân đội của mình đến mọi nơi có thể diễn ra chiến sự để đánh bại Hitler và
đồng minh Mussolini của ông ta, chúng tôi sẽ ngã qụy [ 7, tr. 82].
Trong khi những con gió mạnh mùa đông làm giảm thiểu hoạt động của tàu
ngầm Đức thì lại xuất hiện mối đe dọa trên mặt biển.
Tháng 5/1941, chiến hạm Bismarck đã đánh niềm kiêu hãnh của Hải quân
Hoàng gia Anh, chiến hạm Hood. Gây ra tổn thất nặng nề: số tàu tổn thất là 500.000
tấn., điều đó đã đạt tới 7.000.000 tấn cho toàn bộ tổn thất kể từ lúc khởi sự cuộc
chiến. Mỗi một chiếc tàu được sản xuất ra từ các xưởng đóng tàu của Anh hay Hoa
Kỳ, thì Đức đã đánh chìm ba chiếc [1], [19].
Như vậy, chiến thuật “bầy sói” của Donitz lực lượng tàu ngầm Đức hoạt động
57
có hiệu quả trên Đại Tây Dương làm cho Anh quốc khủng hoảng. Một viễn cảnh
của năm 1941 là Anh quốc bị tấn công và nguy cơ về an ninh lãnh thổ của Hoa Kỳ
bị đe dọa.
*Những nỗ lực đối phó của Anh quốc
Để đối phó với Đức đồng thời nhằm giành lại thế chủ động trên Đại Tây
Dương, hải quân Anh đã đề ra hàng loạt chiến lược đối phó với “bầy sói” của Karl
Donitz. Ban đầu, họ đã sử dụng 50 tàu khu trục cũ của Mỹ được trao đổi ở các căn
cứ quân sự thuộc Caribbe. Đến cuối tháng 5, hạm đội vận tải xuyên Đại Tây Dương
đầu tiên của Anh đã giương buồm với nhóm hộ tống kéo dài theo sau.
Họ quyết định rút một số đông khu trục hạm đang giám sát khả năng xâm lược
của người Đức sang hộ tống các đoàn tàu hàng, bổ sung thêm các tàu hộ tống nhỏ
cùng chiến đấu hạm tải trọng dưới 1.000 tấn gia nhập đội quân “bảo kê” này. Mặt
khác, thành lập các đoàn tàu hộ tống chuyên nghiệp. Điều này khác hẳn quan niệm
cũ: cứ hễ là tàu chiến thì đương nhiên đủ sức hộ tống tàu hàng. Giờ đây, các tàu hộ
tống cùng thủy thủ đoàn được huấn luyện đặc biệt, đảm bảo có thể tác chiến đồng
đội, biết cách săn lùng và nắm vững được cách thức tiêu diệt tàu ngầm mới được
tung đi làm nhiệm vụ.
Dựa vào sự tiến bộ về kỹ nghệ quân sự, Anh quốc đã tăng cường trang thiết bị,
vũ khí cho các đoàn tàu hộ tống cũng là mấu chốt cơ bản của chiến lược chống trả.
Tàu hộ tống được trang bị thêm radar và vô tuyến số cự li ngắn. Radar thời này tuy
chưa đủ nhạy để dò ra tàu ngầm mỗi khi trồi lên mặt nước nhưng cùng với vô tuyến
số, các hạm trưởng có thể định vị được vị trí của tàu hàng, các tàu hộ tống khác, liên
lạc được với nhau và với các chiến đấu cơ, đặc biệt là khi phối hợp tấn công tàu
ngầm. Đặc biệt, người Anh nhận ra rằng mật mã cũ Naval Cypher No.3 đã lộ nên
quyết định thay bằng Naval Code Number 1. Việc thay thế này khiến sức tấn công
của tàu ngầm Đức giảm hẳn. Bộ phận giải mã B-Dienst của Đức “điếc đặc”, không
thể tiếp tục cung cấp thông tin tình báo về đường đi nước bước của đối phương.
Chính những yếu tố này giúp hải quân Anh đã vô hiệu hóa chiến thuật “bầy sói” của
Đức.
Cuối tháng 5/1941, cuộc không kích từ những máy bay trên hàng không mẫu
58
hạm đã làm chậm hải trình của Bismarck, bị đánh đắm bởi Home Fleet. Thất bại
này đánh dấu sự kết thúc của thời kỳ chiến đấu trên mặt biển ở Đại Tây Dương [33],
[19].
Sự can thiệp của Mỹ
Winston Churchill tìm kiếm sự ủng hộ của nước Mỹ. Vị Thủ tướng Anh lúc
bấy giờ tin rằng sự trợ giúp của Mỹ sẽ đóng vai trò quyết định trong việc đánh bại
người Đức. Washington đã nắm đầy đủ thông tin về những tổn thất kinh hoàng của
Anh quốc trên Đại Tây Dương và nhận định rằng: việc người Anh thua trận chỉ còn
là vấn đề thời gian. Ngoài ra, Washington bắt đầu cảm thấy Mỹ La-tinh cũng đang
chịu sự đe dọa của trục ba Berlin – Roma – Tokyo, nhất là khi Hiệp ước ba bên
Đức, Ý, Nhật được ký vào ngày 27.9.1940 tại Berlin.
Trong một “cuộc nói chuyện bên góc lò sưởi”, được phát trên radio ngày 29-
12, Tổng thống xác định tình thế của quốc gia: kể từ sau nội chiến Bắc – Nam, chưa
bao giờ đất nước lại “ở trong một tình thế hiểm nghèo như hiện nay”:
Nếu Anh quốc sụp đổ, những cường quốc của phe Trục sẽ kiểm soát các lục
địa châu Âu, châu Á, châu Phi và châu Úc; chúng sẽ thống trị trên các đại dương.
Kể từ lúc đó, các cường quốc ấy cũng sẽ chỉ đạo chống lại bán cầu của chúng ta
bằng những lực lượng hải quân và bộ binh khổng lồ. Về phương diện kinh tế cũng
như quân sự, không phải là cường điệu để nói rằng, tất cả chúng ta đang sống trước
họng pháo, một quả pháo nạp đầy những quả đạn công phá…Chúng ta phải sản xuất
ra những loại vũ khí và những chiếc tàu với tất cả năng lực và nguồn nguyên liệu
mà chúng ta có khả năng… Chúng ta phải là kho vũ khí cả các nước dân chủ…
Các dân tộc ở châu Âu đang lo tự vệ, không yêu cầu chúng ta đi chiến đấu ở
chỗ của họ. Họ yêu cầu chúng ta về chiến cụ, phi cơ, xe tăng, đại bác, để bảo vệ sự
tự do của họ và sự an toàn của chúng ta. Tôi khẩn thiết rằng: chúng ta cần phải cung
cấp đầy đủ những thú ấy cho họ một cách nhanh chóng để chính chúng ta và con
cháu mình không biết đến nỗi sợ hãi và những nỗi đau khổ của chiến tranh mà
người khác sẽ chịu đựng [1, Tr.163-164].
Tháng 1.1941, liên minh tối mật giữa Anh và Mỹ đã được lên kế hoạch và
trong chuyến thăm London, trợ lý của Nhà Trắng – Harry L.Hopkins.
59
Sự can thiệp của Mỹ cũng đóng vai trò hỗ trọ tích cực. Tuy nhiên, khi quân
Mỹ tham chiến thì Thời Hoàng Kim Thứ Hai cho tàu ngầm Đức đã xuất hiện. Trong
nửa đầu của năm 1942, tàu ngầm Đức chỉ tập trung hoạt động ở khu vực ven bờ
phía đông, nơi mà những lực lượng phòng thủ thiếu thốn các vũ khí chống tàu ngầm
cần thiết.
Trận chiến lở Đại Tây Dương đã ngày một trở nên quan trọn hơn với quân
Đồng minh. Trận chiến đó có thể mang đến chiến thắng trong bối cảnh tái xâm nhập
châu Âu lục địa để đánh bại nước Đức, ưu tiên hàng đầu hơn cả quân Nhật. Vì vậy,
số lượng tàu trinh sát, lực lượng tàu hộ tống đông hơn bao gồm cả hàng không mẫu
hạm (tàu sân bay), cũng như những biện pháp kỹ thuật hỗ trợ để phát hiện và phá
hủy tàu ngầm Đức được gia tăng. Tuy nhiên, bất chấp những nỗ lực hạn chế, bao
gồm cả phá hủy các nhà máy sản xuất, thì số lượng tàu gầm Đức vẫn gia tăng rất
nhanh chóng. Chiến thuật bầy sói được sử dụng, để gom các tuyến đường vận tải lại
tập trung tấn công vào hạm đội áp tải, đã mang lại những hiệu quả nhất định. Máy
bay chiến đấu ngày càng đóng vai trò quan trọng hơn trong cuộc chiến. Tuy nhiên,
trận chiến không thể quyết định được chiến thắng cho đến khi Vùng Đen ở giữa Đại
Tây Dương hoàn toàn bị khép lại. Mặt khác lực lượng máy bay chiến đấu và thuyền
chiến ở các căn cứ Na Uy của Đức, bao gồm Tirpitz, đang tạo ra những vấn đề đáng
báo động đối với các hạm đội hộ tống ở Bắc Băng Dương hỗ trợ cho quân Nga
thông qua các cảng biển phía Bắc.
Cực điểm của cuộc chiến đã xuất hiện vào mùa xuân năm 1943. Sau khi chiến
dịch lùa sói đánh bại hai hạm đội áp tải. Tình thế bỗng nhiên hoàn toàn đổi khác.
Vào tháng 5, có 41 tàu ngầm Đức bị đánh đắm, buộc quân Đức phải tạm thời
rút lui khỏi Đại Tây Dương. Ngoài ra, tỉ lệ thuyền buôn được chế tạo đã dần được
thay thế những con số mất mát đó. Tàu ngầm Đức nhanh chóng trở lại Đại Tây
Dương, nhưng họ không còn là một lực lương hùng mạnh như trước đây nữa, bất
chấp các cải tiến mới về ngư lôi đời mới và ống thông hơi, vốn giúp cho tàu ngầm
Đức có thể di chuyển lâu hơn dưới mặt nước và tránh được mối đe dọa từ không lực
của đối phương.
Thắng lợi của quân đội Đồng minh tỏ ra là sự thắng thế về công nghệ, và tiềm
60
lực công nghiệp quân sự: Cuộc chiến tranh trên biển dần dần trở thành một vấn đề
về lòng dũng cảm và tính kiên trì, nhưng cũng là một vấn đề về sản xuất, khoa học
và cả chiến thuật. Châu Mỹ thực hiện những điều thần kỳ trong lĩnh vực đóng tàu.
Vào năm 1942, đã đóng được những chiếc tàu có tổng trọng tải 800000 tấn. Năm
1943 là 20.000.000 tấn. Từ năm 1942 đến 1943, ngành đóng tàu buôn tăng gấp đôi
trong nước đồng minh, từ 7.000.000 tấn thô lên 14.500.000 tấn, điều này vượt qua
những tổn thất của gần 11.000.000 tấn [1], [19].
Chính trận đánh ở Đại Tây Dương đã lôi kéo, từ từ và chắc chắn Hoa Kỳ vào
cuộc chiến. Hoa Kỳ chú trọng vào châu Âu nhiều hơn ở Viễn Đông. Lý giải điều
này, Tiến sĩ sử học Lê Phụng Hoàng trong cuốn Tiểu sử chính trị của Roosevelt đã
viết:
Vì xét theo góc cạnh và được soi rọi bằng các giá trị tinh thần và giá trị vật
chất cơ bản nhất, châu Âu cho đến năm 1941 vẫn luôn có ý nghĩa sống còn đối với
Hoa Kỳ. Đó là nguồn gốc của đại bộ phận dân Mỹ, gốc tích của mọi sinh hoạt văn
hóa tinh thần của người Mỹ. Nếu không một ai có thể sống mà không có quá khứ,
thì Hoa Kỳ cũng không thể tồn tại với nghĩa đầy đủ của từ này, nếu thiếu vắng một
châu Âu như nó đã từng như vậy. Bất chấp học thuyết Moroe - nền tảng tư tưởng
của xu hướng biệt lập, Hoa Kì thực ra mà nói không gì khác hơn là sự tiếp xúc nối
xuyên Đại Tây Dương về mọi mặt của châu Âu, trước hết là Tây Âu. Đến cuối thế
kỉ XIX, khi chủ nghĩa tư bản từ giai đoạn tự do cạnh tranh chuyển sang giai đoạn
độc quyền, sự ngăn cách mà Đại Tây Dương tạo ra chỉ còn có ý nghĩa hết sức tương
đối về địa lý. Và với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, khoảng cách đó bị thu ngắn
thật nhanh chóng. Chiến tranh thế giới thứ nhất là minh họa không thể bác bỏ được
cho sự thu ngắn này. Tình trạng chia rẽ trong nhận thức chủ quan của công chúng
Mỹ không mảy may ảnh hưởng đến thực tại khách quan là số phận của Hoa Kỳ gắn
liền với châu Âu. Chính vì tầm quan trọng của châu Âu, mà chính phủ Roosevelt đã
quyết định chọn Đức là kẻ thù chính cần đánh bại trước tiên, kể cả sau khi Nhật
tham chiến.
Thắng lợi nhanh chóng và có phần dễ dàng của chủ nghĩa quốc xã Đức đã trở
thành mối đe dọa trực tiếp đến không chỉ an ninh, mà cả nền văn minh có nguồn
61
gốc châu Âu của Hoa Kỳ [7, tr.97].
Thắng lợi của phe Đồng minh tại Đại Tây Dương về việc tiệt trừ tàu ngầm có
kết quả đã đảm bảo cho các đoàn tiếp vận có thể vượt Đại Tây Dương và đổ bộ dễ
dàng lên đất Pháp.
Cuộc hải chiến Đại Tây Dương diễn ra với đầy đủ ý nghĩa của nó dưới góc độ
địa chính trị là cuộc chiến tranh để giành quyền kiểm soát con đường thương mại
biển, đó là quá trình tiếp viện cho Anh quốc, đất nước đảo quốc phụ thuộc rất nhiều
vào những nguyên vật liệu từ bên ngoài. Cuộc chiến này ngày càng phức tạp bởi
những quyền lợi về an ninh lãnh thổ của các bên có liên quan. Với nước Đức:
Thắng lợi này sẽ làm tàn lụy nền kinh tế nước Anh, vốn dĩ ở châu Âu, Anh quốc là
nước gây cho Đức nhiều cản trở trên con đường thu phục vùng đất trung tâm này.
Đối với Anh quốc, nếu thất bại thì Anh quốc sẽ mất đi sức mạnh thương mại trên
biển, đặc biệt là phải chịu số phận như Pháp, điều này sẽ không thể chấp nhận được
đối với một nền văn minh này. Đối với nước Hoa Kỳ, tham gia trận chiến Đại Tây
Dương không chỉ bởi lý do tinh thần, an ninh lãnh thổ mà Hoa Kỳ có lẽ còn vì mục
đích không muốn Đức làm bá chủ vùng đất trái tim, làm bá chủ thế giới.
Xét về nguyên nhân dẫn đến kết cục của cuộc chiến thì điểm nổi bật làm xoay
chuyển tình thế là sức mạnh của tiềm lực kinh tế, tiềm lực quân sự và sự phát triển
nền kĩ nghệ của các bên.
2.3. Hải chiến Địa Trung Hải và những phân tích địa chính trị
*Vai trò địa – chính trị
( xem hình 2.2)
Địa Trung Hải, biển thuộc Đại Tây Dương, là nơi phân chia giữa các lục địa
lớn ở châu Phi, Châu Á và Châu Âu, thông với Đại Tây Dương qua eo biển
Gibranta, với biển Đen qua eo biển Dacdannen, biển Macmara và eo biển Bôxpho,
với Biển Đỏ qua kênh Xuyê. Diện tích 2.505.000 km2, dài 3.900km, rộng 1.800km
phía tây sang phí đông từ Gibraltar đến Palestine. Qua Địa Trung Hải có nhiều
đường hàng hải quốc tế quan trọng. Những cảng và căn cứ quân sự chính:
Bacxelona (Tây Ban Nha), Macxay (Pháp), Gionova, Na pôli, Vê nê xia, Triex tê
(Italia), Tê xa nô li ki (Hi Lạp). Chính vì vậy, trong cuộc chiến tranh thế giới thứ 2,
62
nơi đây đã lôi kéo nhiều nước tham gia. Riêng đối với nước Anh, Địa Trung Hải là
tuyến giao thông huyết mạch để tiếp viện cho quân đội Anh ở Phi châu và Trung
Đông, và để tiếp viện cho nước Anh, Địa Trung Hải phải tiếp tục được mở rộng.
Đối với Anh quốc đường hàng hải qua Địa Trung Hải và vòng quanh châu Phi là
những đường giao thông có tính cách sinh tử đối với một số xứ trong đế quốc
Anh.[2],[27], [21]. Sức mạnh hải quân Anh được duy trì ở đây thông qua đội thuyền
Địa Trung Hải và các căn cứ hải quân ở Gibranltar lẫn về truyền thống vượt trội so
với Ý.
Đối với Ý, từ lâu Mussolini đã ôm ấp giấc mơ về một Đế chế Tân La Mã trải
rộng chung quanh một Địa Trung Hải được biến đổi thành cái hồ nước của Ý. Hắn
đặt viên đá đầu tiên cho giấc mơ ấy kể từ cuộc xâm chiến Ethiopie vào năm 1935,
và đã củng cố nó bằng việc xây dựng một đế chế Đông Phi bao gồm Erythree và
Somali thuộc Ý. Để thực hiện giấc mộng của mình về một Tân La Mã và về một
“Mare Nostrum” (Biển của chúng tôi), Mussolini phải đánh bại Pháp, chiến thắng
hạm đội của Anh ở Địa Trung Hải, phải xua quân xuyên qua Albanie cho tới tận Hy
Lạp để kiểm soát toàn bộ khu vực Địa Trung Hải, và phải tiến chiếm Ai Cập để có
thể thâu tóm bờ biển phía Nam của Địa Trung Hải và kênh đào Suez. Con đường
hướng về phía Moussoul và dầu hỏa của Trung Đông cũng sẽ được mở rộng [2,
Tr.153-154] .
Vì vậy, Cuộc chiến trên biển Địa Trung Hải là cuộc chiến giành kiểm soát và
tạo phương tiện cho các cuộc đổ bộ lên đất liền ở các khu vực chung quanh biển
này. Trận chiến Địa Trung Hải diễn ra với tộc độ chậm, nhưng rất phức tạp và dữ
dội với sự tham gia của Anh, Pháp, Đức, Hy Lạp, Ý và Hoa Kỳ.
*Diễn biến
Với vai trò địa – chính trị, lực lượng hải quân chủ chốt ở Địa Trung Hải là lực
lượng hải quân Anh, Pháp, Ý.
**Trận Taranto
(Xem hình 2.4)
Taranto là căn cứ hải quân chính của Italia trên bờ vịnh Taranto, biển Yonio
(thuộc biển Địa Trung Hải), cảng có độ sâu từ 6-25m [2, tr.902].
63
Rạng sáng ngày 12/ 11/1940, đô đốc Cunningham, chỉ huy hạm đội Anh ở
phía Đông Địa Trung Hải sử dụng không quân từ tàu sân bay đã đánh úp đội Ý
trong căn cứ của nó ở Tarente [Taranto]. Tàu Illustrions của Anh đã tiến vào biển
Ionienne cách căn cứ hải quân Taranto của Ý 170 dặm và tung ra một đợt oanh kích
với 21 máy bay phóng ngư lôi. Cuộc tấn công trong đêm đã không gây khó khăn
cho việc tiếp cận mục tiêu của lực lượng đột kích. Máy bay Anh đã phóng ngu lôi
trúng 3 thiết giáp hạm Ý: 1 chiếc chìm, 2 chiếc bị loại khỏi vòng chiến [18, tr 35].
Với sự tổn thất chỉ là hai máy bay, người Anh loại phân nửa số tàu chiến của Ý ra
ngoài vòng chiến. Năm tháng sau, trong khi hộ tống một đoàn tàu hướng về Hy
Lạp, một lần nữa Cunningham đã chặn đánh hạm đội Ý ở ngoài khơi mũi Matapan,
trong vùng biển Ionie. Ông ta đánh chìm 3 tuần dương hạm và hai khu trục hạm,
đồng thời gây tổn hại cho các tàu chiến khác. Người Ý đành phải tháo chạy và trốn
về các căn cứ của họ. Cán cân lực lượng ở Địa Trung Hải giờ đây nghiêng hẳn về
phía người Anh. Với trận Taranto lần đầu tiên không quân tàu sân bay được sử dụng
làm lực lượng tiến công chủ yếu của hạm đội. [2, tr.902]. Kinh nghiệm nóng hổi của
chiến trường Địa Trung Hải được người Nhật áp dụng cho cuộc tấn công vào Trân
Châu cảng.
**Trận chiến ở Manta
(Xem hình 2.5)
Manta là căn cứ hải quân của Anh, nằm gần nước Ý nên dĩ nhiên trở thành
mục tiêu quân sự đầu tiên của cuộc bành trướng phát xít. Ngày 11 tháng 6 năm
1940, Phát xít Ý tấn công Manta. Trong thời gian đầu bộ chỉ huy Anh không tiếp
ứng Manta vì cho rằng hòn đảo nhỏ này sẽ nhanh chóng bị Ý khuất phục. Quân
phòng vệ Manta lúc bấy giờ chỉ có 6 chiếc máy bay hai tầng cánh cũ kĩ. Nhưng sau
khi theo dõi cuộc không chiến đầu tiên của phe Trục, quân Đồng minh nhận thức
được Manta có vị trí chiến lược vô cùng quan trọng đảo này, từ đây có thể kiểm
soát lối vào Bắc Phi từ châu Âu và có thể chống chọi được với phe Trục. Nếu quân
phát xít chiếm giữ được khu vực này, Alexandria sẽ bị cô lập khỏi Gibraltar và cũng
sẽ không thể ngăn chặn các con đường tiếp tế cho quân phát xít đến Bắc Phi. Lập
tức quân Đồng minh kéo đến bảo vệ và tiếp viện cho Manta.
64
Ngày 28/3/1941, để ngăn cản hạm đội áp tải Anh đến Hy Lạp. Lực lượng đặc
nhiệm của hải quân Ý có 1 chiến hạm, 8 tàu tuần dương, 9 tàu khu trục. Đội thuyền
địa trung hải của Anh có 3 chiến hạm và một hàng không mẫu hạm.
Quân Đức than phiền rằng Ý thiếu nỗ lực trong việc ngăn chặn vận chuyển từ
Ai Cập đến Hy Lạp để hỗ trợ Anh trong cuộc chiến chống lại quân Ý. Để đáp lại lời
phàn nàn của quân Đức, một lực lượng đặc nhiệm Ý, dưới sự chỉ huy của Thủy sư
đô đốc Iachino, bắt đầu tiến về phía Bắc và Nam của đảo Crete với hy vọng chạm
mặt hạm đội áp tải. Tuy nhiên lực lượng này đã bị phát hiện bởi máy bay tuần tra.
Do đó, đội thuyền Địa Trung Hải, dưới sự chỉ huy của Thủy sư đô đốc
Cunningham, đã giương buồm từ Alexandria để ngăn chặn Iachino. Quân Ý hiện
giờ chạm mặt với lực lượng trên tàu tuần dương – khu trục của Anh, với nhiệm vụ
che chắn cho hạm đội áp tải. Hoàn cảnh này khiến họ phải tính đên đội thuyền
chính. Máy bay chiến đấu của Anh từ hàng không mẫu hạm Formidalble đã tiến
công chiến hạm Vittorio Veneto bằng một quả ngư lôi, tiếp đó quân Anh đã tấnc
ông vào tàu tuần dương của Ý. Trong nỗ lực giải thoát cho chiến thuyền này, quân
Ý lại chịu tổn thất thêm một số chiến thuyền khác. Số thương vong: Ý mất 3 tàu
tuần dương và hai tàu khu trục. Còn Anh bị hư hại 1 chiến hạm [19, tr.376].
Quân Ý một mặt bao vây đường biển một mặt mở các cuộc oanh tạc liên tục
cùng với sự tiếp sức của không quân Đức. Quân Đồng minh chịu thiệt hại hết sức
nặng nề. Trong một cuộc tiếp vận đường biển, một đoàn tàu hàng gồm 115 chiếc từ
Anh sang bị tấn công và chỉ 2 chiếc sống sót về đến bến. Mussolini vênh váo rằng
Địa Trung Hải lâu nay vẫn là Biển Riêng của Ý [40].
Đầu năm 1942, quân Anh cho thêm 61 chiếc Spitfire vào tăng cường sức
kháng cự của quân đội Manlta nhưng lương thực nhiên liệu vẫn khan hiếm. Dần dần
quân Đồng Minh đưa được tiếp tế đến Malta nhiều hơn nhưng phần lớn tàu hàng bị
phá hỏng không trở về Anh được.
Nhờ giữ được Malta, quân Đồng Minh kiểm soát được Địa Trung Hải. Từ đảo
này, hải quân Anh đưa tàu ngầm ra phá hủy rất nhiều tàu bè của quân phe Trục và
khống chế tiếp vận cho Rommel tại chiến trường Bắc Phi.
Một yếu tố ảnh hưởng rất lớn đến chiến lược ở Địa Trung Hải là lực lượng hải
65
quân Pháp. Không có sự hỗ trợ của hạm đội Pháp, sự phong tỏa châu Âu của Hitler
sẽ trở thành bấp bênh. Vì vậy sự thất bại của Pháp đối với người Anh là một mối lo
ngại - sự giao thông liên lạc của họ ở Địa Trung Hải sẽ bị đe dọa nhiều hơn. Mặt
khác, sự tham chiến của Ý đã làm thay đổi thế cân bằng lực lượng trên biển. Nếu
hải quân Pháp kết hợp với các hạm đội Ý và Đức, phe Trục sẽ chiếm được ưu thế về
hải quân so với Anh, và con đường dành cho cuộc xâm chiếm Anh sẽ được mở rộng
hay ít ra là gây bóp nghẹt sự giao thông liên lạc bằng đường biển.
Điều này còn gia tăng trầm trọng với sự đe dọa mạnh mẽ của thế lực hải quân
Nhật đối với khu vực Viễn Đông, với những mưu đồ của chúng ở Đông Dương, và
những hành động của chúng về phía Singapore.
Trong nỗi lo sợ nhìn thấy quân Đức chiếm hạm đội Pháp, trước những lời cam
đoan của họ và những bảo đảm của đô đốc Darlan, người Anh thể hiện một quyết
định rõ ràng, dứt khoát là bắn hạ hạm đội Pháp ở Mers-el-Kebir vì sợ rằng hạm đội
này rơi vào tay của phe Trục sẽ làm đảo ngược thế cân bằng lực lượng ở Địa Trung
Hải, gây bất lợi cho nước cho nước Anh.
Vì thế, nước Anh quyết định hạ thủ bạn đồng minh xưa cũ của mình. May
thay, một phần hạm đội Pháp đã nằm trong các hải cảng Anh, ở Plymouth và
Portsmouth, cũng như Alexandrie, Ai Cập.
Ngày 03/07/1940, quân Anh bắn hạ hạm đội Pháp ở Mers-el-Kebir, bất ngờ
chiếm đóng các tàu nằm ở Anh, kế đến thỏa thuận một Hiệp ước Giải trừ vũ khí với
hạm đội Pháp ở Ai Cập.
Nhưng các đơn vị quan trọng nhất nằm trong các hải cảng của khu vực Bắc
Phi, ở Oran, Alger và Casablanca, và những hải cảng khác ở Dakar, Madagascar và
Martinique. Một hạm đội Anh, do Đô đốc Somerville chỉ huy, đã được phái đi từ
Girbraltar tới Mers-el-Kebir (Oran). Sứ mạng của nó là đặt viên chỉ huy người
Pháp, Đô đốc Gensoul, trước phương án chọn lựa, hoặc qui tụ về một hải cảng của
Anh hoặc đi đến Martinique để được giải trừ vũ khí hay bị đánh đắm tại đó. Vì
không nhận được câu trả lời trong 6 tiếng đồng hồ, Somerville tuyên bố rằng ông ta
tự thấy buộc lòng, một cách miễn cưỡng, phải dùng vũ lực để ngăn chặn các tàu này
không rơi vào tay phe Trục.
66
Đô đốc Gensoul từ chối tối hậu thư và Somervile bất đắc dĩ phải tấn công.
Phần lớn các tàu Pháp bị đánh chìm hay bị hư hại, và một ngàn thủy thủ bị giết chết.
Tàu dương hạm chiến đấu “Strasbourg” và một bộ phận của hạm đội đã chọc thủng
vòng vây và chạy về căn cứ ở Toulon. Năm ngày sau, ngày 08/7, các phi cơ của hải
quân Anh gây tổn thương thiết giáp hạm “Richelieu” ở Dakar. Chiếc “Jean Bart”
chưa được hoàn thành, đã bị làm cho bất động ở Casablanca.
Kể từ đó, một hạm đội quan trọng của Pháp vẫn còn đặt căn cứ tại Toulon và
tạo ra mối đe dọa thường xuyên ở Địa Trung Hải. Nhưng không bao giờ người Đức
và cả người Anh có thể sử dụng những tàu này. Trước cuộc đổ bộ ở Bắc Phi, cũng
không sử dụng những tàu bị giam giữ ở Alexandrie hay bị đặt dưới quyền kiểm soát
của người Mỹ ở Martinique. Sự can thiệp thô bạo của Somerville ở Mers-el-Kebir
đã loại trừ Pháp với tư cách là một lực lượng chủ yếu ở Địa Trung Hải. Bấy giờ
người Anh có thể quay sang chống lại hạm đội của Ý [40].
Như vậy, có thể thấy rằng chính yếu tố địa lý đã tác động đến chiến lược,
chiến thuật của quân Đồng minh. Vị trí địa lý, ý đồ chính trị đã buộc các nước gọi là
đồng minh với nhau đã bất đắc dĩ hạ thủ nhau. Vấn đề làm chủ được mặt biển ảnh
hướng lớn đến chiến thuật của cuộc chiến.
67
Tiểu kết chương 2
Hơn 20 năm hưu chiến mỗi cường quốc đều tính toán chiến lược cho mình.
Khi hiệp ước về giới hạn quân sự chấm dứt, các nước cuộc chiến tranh thế giới thứ
hai nổ ra. Vẫn là châu Âu – vùng đất trái tim là nơi châm ngòi đầu tiên cho thế
chiến. Cuộc thế chiến 2 đã lôi kéo nhiều nước tham gia hơn, trên hầu khắp chiến
trường châu Âu, trong đó những cuộc chiến trên biển và đại dương diễn ra vô cùng
ác liệt, góp phần quan trọng cho thắng lợi chung cuộc của Đồng minh. Như
Churchill nhận định, trận Đại Tây Dương góp phần quyết định đến toàn bộ cuộc
chiến. Những thắng lợi trên Đại Tây Dương, Địa Trung Hải đã tạo điều kiện cho lực
lượng đồng minh đổ bộ thành công lên lục địa, kiểm soát được tuyến đường hàng
hải huyết mạch. Thắng lợi của lực lượng đồng mình cho thấy đó là thắng lợi của sức
sản xuất, nền kỹ nghệ hải quân, sự phối hợp nhịp nhàng của họ.
Xét về lý do địa lý gắn với an ninh lãnh thổ quốc gia thể hiện rõ đến chiến
lược của các nước. Lý giải vì sao Hoa Kỳ đứng đầu là vị Tổng thống Roosevelt giúp
đỡ Anh quốc. Người Đức, Ý trong những năm 30 đều không có chiến lược đối phó
Anh quốc, vẫn có quan điểm có thể tránh cuộc chiến với Anh quốc. Những chiến
lược quốc phòng của họ đều nhắm đến mối đe dọa từ nước Pháp.
Đại Tây Dương và biển Địa Trung Hải với vị trí chiến lược là cửa ngõ để cho
các cuộc tiếp vận lên đất liền, con đường đi vào kiểm soát vùng đất trái tim, hòn đảo
của giới. Vì vậy, xung quanh đây cũng hội tụ nhiều căn cứ quân sự, với sự hiện diện
của các quốc gia được hình thành và phát triển từ biển. Nên đây là chiến trường
mang tính quyết định của cuộc chiến.
68
Chương 3. NHỮNG TRẬN HẢI CHIẾN Ở THÁI BÌNH DƯƠNG
TRONG CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ II
3.1. Bối cảnh lịch sử
3.1.1. Chiến lược Thái Bình Dương của Hoa Kỳ, Nhật Bản
3.1.1.1. Hoa Kỳ
Như đã trình bày ở mục 2.1.1, không giành được nhiều quyền lợi ở hiệp ước
Versailles, người Mỹ mở hội nghị Washington trở về châu Á – Thái Bình Dương và
những hiệp ước giới hạn hải quân.
Cho đến tháng 9 năm 1939, khi cuộc chiến tranh thế giới thứ II bùng nổ ở
châu Âu, hải quân (Hoa Kỳ) khó có thể biết phải làm gì ở Đại Tây Dương, nhưng
trong bốn mươi năm nó đã biết điều cần làm ở Thái Bình Dương. Trách nhiệm đối
với Philippin, nước mà Hoa Kỳ đã giành được trong cuộc chiến tranh với Tây Ban
Nha vào năm 1898, liên quan đến chính trị Hoa Kỳ trong việc kiềm chế Nhật Bản
xuống phía Nam.
Trong những sự kiện hỗn độn ở Thái Bình Dương từ 1900 – 1941 xuất hiện 2
yếu tố chính là sự phát triển ngoài ý muốn của Trung Quốc và sức mạnh ngày càng
tăng của Nhật Bản. Chúng tôi đã cố gắng để nắm bắt được chính sách mở của của
John Hay, điều này có nghĩa là sức mạnh của các cường quốc châu Âu và Nhật Bản
có được là từ việc sát nhập một phần lãnh thổ Trung Quốc hoặc là những đặc quyền
có được trên các cảng của Trung Quốc. Sau đó, cuộc chiến tranh Nga – Nhật vào
1904 -1905, Nhật Bản đã chiếm Hàn Quốc và một khu vực mới ảnh hưởng ở Mãn
Châu. Điều này sẽ không đáp ứng được lâu dài cho Nhật Bản, và Philippin sẽ là
mục tiêu tiếp theo [28, tr.17].
Vào đầu năm 1903 cơ quan lớn của chúng tôi về chiến lược hải quân, thuyền
trưởng Mahan, thúc giục rằng Hải quân Hoa Kỳ tập trung vào Thái Bình Dương.
Các vị đứng đầu của lực lượng hải quân, tiền thân của tham mưu liên quân được đề
nghị 1905, cho rằng Hải chiến diễn ra ở vịnh Subic, Luzon. Tổng thống Theodore
Roosevelt từ chối hỗ trợ này. Ông đã làm điều đó, và quốc hội đã cho xây dựng
69
phòng thủ dọc bờ biển như là một sự “răn đe”, rằng Nhật Bản có thể không bao giờ
tấn công chúng tôi. Nhưng không thể nói trước được điều gì, một sự ngăn chặn thay
vì chỉ là sự khiêu khích. Căn cứ hạm đội chiến tại Philippin có thể đã khiêu khích
Nhật Bản để tấn công bất ngờ vào vịnh Subic, trước khi mở Kênh đào Panama vào
tháng 6/1914 cho phép tàu chiến có thể nhanh chóng di chuyển đến một đại dương
khác.
Nhật Bản một lần nữa gia tăng sức mạnh của mình bằng cách tham gia Thế
chiến thứ nhất là đồng minh của Anh với rất ít nỗ lực và thiệt hại tối thiểu, có được
các đảo của đế chế Đức – đảo Marshall và đảo Caroline, và tất cả các đảo Marianas
trừ đảo Guam. Tổng thống Wilson, có tầm nhìn xa về Nhật Bản hơn Theodore
Roosevelt, khi phản đối những nội dung tại Hội nghị Hòa bình về chương trình hải
quân năm 1916. Ông ủng hộ mạnh mẽ sự răn đe của Nhật Bản. Wilson đã được bác
bỏ vào điểm đầu tiên, và kế hoạch lớn về hải quân, như chúng ta đã thấy, đã bị hủy
bỏ sau chiến tranh. Nhật bản giữ các đảo thuộc vành đai phòng thủ với rất nhiều sân
bay và nhiều căn cứ hải quân có thể đã được xây dựng sau năm 1936.
Trong trường hợp có chiến tranh với Nhật Bản, kế hoạch Hải quân Hoa Kỳ đã
xem xét cho quân đội để bảo vệ Manila và giữ ra cho khoảng ba đến bốn tháng cho
đến khi Hạm đội chiến có thể vượt qua Thái Bình Dương và tăng cường bao vây.
Người Nhật sở hữu các đảo được uỷ quyền thực hiện nhiệm vụ này trừ khi vị trí chủ
chốt trong Marshalls và Caroline được đảm bảo đầu tiên, và những con nhện dọn
sạch; rằng tăng thời gian dự kiến cho quân đội để tổ chức ra ở Luzon đến chín
tháng. Và, như chúng ta đã thấy, một phần của Washington thỏa thuận năm 1922 là
chúng ta từ bỏ quyền tăng cường cơ sở của chúng tôi ở Guam và Philippines [28,
tr.18].
Một tình huống không thể trong chiến lược đã được tạo ra cho chúng ta, phần
lớn bởi sự điên rồ của chúng ta. Chúng tôi đã hứa sẽ bảo vệ sự toàn vẹn của Trung
Quốc và Philippines, mà không cần bất cứ điều gì ở quân đội có nghĩa là để thực
hiện một chính sách như vậy.
Trong khi chờ đợi sự tự do, nhóm phương Tây định hướng chính trị của Nhật
Bản, vốn đã được tham gia vào các biện pháp an ninh tập thể của Hội Quốc Liên, đã
70
bị quấy rối và sợ hãi bởi một phong trào gần song song với Đức quốc xã của Hitler.
Kodoha đã cho rằng việc đó là nhằm đặt Nhật Bản dưới sự kiểm soát quân đội, "giải
phóng" Trung Quốc, Ấn Độ, Philippines và Đông Á từ "đế quốc nước ngoài", và đặt
tất cả các nước châu Á dưới quyền bá chủ của Nhật Bản. Năm 1931 quân đội Nhật
hoàng di chuyển tới Mãn châu. Thư ký Stimson không thể thuyết phục Tổng thống
Hoover hành động chống lại sự xâm lược Mãn Châu và cùng năm đó là Thượng
Hải. Một ủy ban của Hội Quốc Liên lên án hành động của Nhật Bản và yêu cầu
Nhật rút khỏi Mãn Châu; câu trả lời của Nhật Bản là đã rút khỏi Hội Quốc Liên và
thông báo về phần mình các hiệp ước hạn chế hải quân sẽ kết thúc vào năm 1936.
Năm 1931, dấu hiệu tốt cho hải quân là đô đốc hải quân Carl Vinson của
Georgia được bổ nhiệm danh dự làm Chủ tịch Ủy ban hải quân vào Hạ viện. Vinson
không chỉ xử lý tốt cho hải quân, ông còn là một chuyên gia về kĩ thuật và đã cống
hiến sức lực của mình để bảo vệ đất nước. Đô đốc Furue đã viết: “không một thành
viên nào của Quốc hội” có hiểu biết tốt hơn về các nhu cầu của hải quân, cũng như
không có một ai tinh thông trong ngành lập pháp của chính phủ có thể nhận ra nhu
cầu đó” . Trong số các nhà Hải quân lớn Carl Vinson xứng đáng ở vị trí cao. Tuy
nhiên, trong kiến trúc sư chiến thắng là cựu trợ lý Bộ trưởng Hải quân trong Chiến
tranh thế giới I – người trở thành Tổng thống của Hoa Kỳ vào ngày 4/3/1933 đã
mang chính sách kinh tế mới “New Deal” cho lực lượng vũ trang cũng như quốc
gia. Nhưng ông cũng chưa sẵn sàng để kết thúc việc nhượng Nhật Bản [28, tr.19].
3.1.1.2. Nhật Bản
Ở mục 1.2.4 đã trình bày về tư tưởng địa chính trị của Nhật Bản. Theo nhiều
nhà nghiên cứu dựa trên những văn bản lưu trữ tại hoàng cung sau khi chiến tranh
kết thúc, Nhật Bản là một nước quân chủ chuyên chính lâu đời với những tư tưởng
tự tôn, tự đại và sùng bái cá nhân cực kỳ sâu sắc [14, tr.25]. Ở thời kỳ đầu của triều
đại Minh Trị, guồng máy quân sự vẫn đặt dưới quyền của Hội đồng Nhà nước, các
vấn đề quân sự không tách rời nhau. Đến năm 1878, thành lập thêm Bộ tổng tham
mưu quân đội chuyên trách vấn đề chiến tranh, coi như một cơ quan tách rời khỏi
Bộ Quốc phòng và cũng hoạt động độc lập ngoài sự chỉ đạo của chính phủ. Mặc dù
vậy, thì Thiên hoàng vẫn là thống soái tối cao, được hỗ trợ bởi các cơ quan tư vấn là
71
Bộ Tổng tham mưu Lục quân và Tổng tham mưu Hải quân. Các cơ quan Bộ tổng
tham mưu Lục quân và Hải quân thảo kế hoạch và thực hiện chức trách hoàn toàn
độc lập, không phụ thuộc vào chính phủ.
Nhà sử học Jacques Valette nhận xét: “Những quyết sách lớn về chính sách
đối ngoại của Nhật Bản đều soạn thảo dưới sức ép của các Bộ Tổng tham mưu Lục
quân và Hải quân” [Dẫn lại theo 14, tr.28]. Từ năm 1936, một nhóm sĩ quan đã
nghiên cứu kế hoạch về “sự cần thiết của Nhật Bản phải tiến xuống miền Nam Châu
Á nhằm mục đích kiểm soát các giếng dầu ở Borneo (Indonexia). Đầu tháng 9
/1936, trưởng phòng tác chiến Bộ Tổng tham mưu Hải quân đã soạn thảo một kế
hoạch đệ trình Tổng tham mưu trưởng: thành lập một hạm đội “tự quản” để thực
hiện các kế hoạch tác chiến đã soạn thảo, chuẩn bị cho những cuộc chiến đấu trên
biển Nam châu Á.
Khu vực Nam Á và Đông Nam Á là nơi có nhiều tài nguyên chiến lược quan
trọng đối với Nhật Bản. Theo số liệu trong đống hồ sơ mật được phanh phui sau khi
chiến tranh kết thúc, năm 1939 Nhật Bản phải nhập từ nước ngoài tới 100% cao su,
100% bô – xít, 93% dầu mỏ, 83 % quặng sắt, 17% gạo, 15% than đá. Để giải quyết
những khó khăn rất lớn về nguyên vật liệu chiến lược mà Nhật Bản đang gặp phải.
Sau khi cân nhắc hai con đường: Tây tiến nhằm xâm lược khu vực Viễn Đông của
Liên Xô và Nam tiến tràn xuống khu vực Đông Nam Á và Nam Á, hội nghị nghiên
theo hướng “Nam tiến”. Bộ trưởng Chiến tranh còn đưa ra phương án: bước đầu
chiếm đóng Đông Dương nhằm tạo bàn đạp; bước thứ hai từ Đông Dương tiến đánh
Nam Dương, và toàn khu vực Đông Nam Á rồi đánh rộng sang Nam Á.
Theo giới quân sự Nhật Bản, chiếm Đông Dương không những tạo đầu cầu
tiến xuống Nam Dương, Đông Nam Á rồi Nam Á mà còn cắt đứt luồng hàng tiếp tế
của phương Tây chi viện cho Trung Quốc, vận chuyển trên tuyến đường sắt từ của
biển Hải Phòng tới Côn Minh. Như vậy, tạo điều kiện thuận lợi để nhanh chóng
thúc đẩy giải quyết vấn đề Trung Quốc.
Trước cơn sốt mở rộng chiến tranh ở châu Âu, Hoàng đế Hirohito cùng với
giới quân nhân cũng phải cân nhắc kỹ: Pháp và Hà Lan rõ ràng đã suy yếu rõ rệt,
nhưng Anh còn có Mỹ là nước có tiềm lực kinh tế, quân sự lớn mạnh nhất, đáng
72
gờm nhất.
Như vậy, Nhật hoàng chấp nhận Nam tiến nhưng chỉ thị cần phải gây sức ép
bằng sức mạnh quân sự để đạt được mục đích tiến quân vào Đông Dương không
nên gây ra những “sự cố” như đã từng tiến hành ở Mãn Châu và Trung Quốc.
Nhà sử học Jacques Valette nhận xét, ngay từ đầu mùa hè năm 1940, Thủ
tướng Nhật Bản hồi đó là Đô đốc Yonai, rồi tiếp đó là Hoàng thân Konoye trở lại
chiếc ghế Thủ tướng rời bỏ từ đầu năm 1939 đều cho rằng “Một cuộc tiến công
quân sự chiếm đóng các thuộc địa của Hà Lan và Anh là không nên nghĩ đến mà chỉ
nên thương lượng đàm phán trên thế mạnh của sức ép quân sự”. Tháng 11/1940,
Nhật Bản đã bắt đầu tiến hành những “hoạt động ngoại giao” với Hà Lan và cả với
Mỹ. Đặc biệt việc người Nhật tìm cách trì hoãn tiến đánh Liên Xô khi mà người
Đức liên tiếp thúc giục đã cho thấy rằng, Nhật Bản quyết tâm “Nam tiến”, thành lập
khối Đại Đông Á, thâu tóm tài nguyên chiến lược, củng cố và phát triển binh lực rồi
mới tính đến chuyện tiến công Liên bang Liên Xô [Dẫn lại theo 14, tr.32].
3.1.2. Quan hệ Hoa Kỳ và Nhật Bản trước thế chiến II
Trong những năm trước cuộc chiến tranh thế giới thứ 2, với tư tưởng địa chính
trị đề cao chính phủ Nhật Bản thực hiện chính sách “Đại Đông Á” phát động cuộc
chiến nhằm bá quyền châu Á.
Cuộc phát động chiến tranh thù địch ở châu Âu đặt Nhật Bản trước một sự lựa
chọn. Phải chăng nó sẽ, cũng như đã làm trong điều đó để củng cố sức mạnh kinh tế
mà không phải trả bằng vàng hay máu cho cái giá của những cuộc chinh phục? Hay
là, còn dễ dàng hơn nữa, phải chăng nó sẽ xâm chiếm bằng sức mạnh với tất cả
những gì nó thèm khát? Quyền lợi kinh tế của Nhật đòi hỏi phải kết thúc “sự kiện
Trung Hoa”, nhưng phe quân sự không hề muốn nghe về vấn đề này. Rời bỏ tất cả
các cuộc chinh phục trong mười năm vừa qua đồng nghĩa với việc họ thừa nhận
rằng chương trình của mình dành cho sự phồn vinh của xứ sở - chương trình chính
xác hướng về những cuộc chinh phục – là một sự phá sản. Hòa bình đối với họ thật
nhục nhã và sẽ có nghĩa là mất đi sự thao túng toàn bộ chính quyền.
Trong khi người Anh và người Pháp lo lắng nhiều nhất về sự đe dọa của phe
Quốc xã, người Nhật lợi dụng điều đó để chiếm đóng Hải Nam vào ngày 10/2/1939
73
và quần đảo Spratley ngày 03/3, hai cột mốc chiến lược quan trọng trên đường hàng
hải Hongkon –Singapore mà Pháp đã khiếu nại. Vào tháng sáu, quân Nhật từ từ gia
tăng thêm sức ép lên các tô giới quốc tế ở Thượng Hải, Thiên Tân và Cửu Long và
chúng quấy phá một cách cân nhắc những tàu thuyền của Anh. Mưu đồ của chúng
là loại trừ Trung Hoa ra khỏi những lợi ích ngoại quốc và tước đi toàn bộ sự viện
trợ bên ngoài của Tưởng Giới Thạch [1, tr.212].
Trước hành động đẩy mạnh các hoạt động bành trướng ảnh hưởng ở Viễn
Đông và Trung Quốc, tăng cường chạy đua vũ trang, đặc biệt là hải quân Thái Bình
Dương trong các năm 1935 -1937, F.Roosevelt đã không thể có phản ứng tích cực,
hành động có ý nghĩa nhất mà Hoa Kì đã thực hiện trong khoảng thời gian 1937 -
1940 là tuyên bố được đưa ngày 26.7.1939 về việc đơn phương chấm dứt từ ngày
26.1.1940 Thương ước được hai nước kí năm 1911. Dù quan hệ thương mại giữa
hai nước vẫn tiếp tục, quyết định trên của Washington vẫn bị Tokyo xem như một
đòn giáng mạnh vào nền ngoại thương của Nhật. Hoạt động thương mại giữa hai
nước không còn chịu ràng buộc của bất kì thương ước chính thức nào, mà tùy thuộc
hoàn toàn vào đường lối riêng của từng chính phủ, nghĩa là có thể bị thu hẹp hoặc
đình chỉ bất cứ lúc nào bằng một quyết định đơn phương của Washington hay
Tokyo [7, Tr.94].
Như vậy, quan hệ Mỹ - Nhật bị buông lửng trong khi nền ngoại thương của
Nhật phụ thuộc nhiều vào Hoa Kỳ, đây là một thiệt hại lớn cho Nhật Bản. Tuy
nhiên tại sao Hoa Kỳ không ban hành chính sách cấm vận đối với Nhật, mà chỉ
dừng lại ở việc buông lửng. Xét về tình hình lúc bây giờ có thể thấy nếu Hoa Kỳ
hành động như vậy thì phái quân phiệt Nhật sẽ xem đây là lí do chính đáng biện
minh cho hành động xâm lăng Đông Ấn thuộc Hà Lan, nơi đây là nguồn cung cấp
nhiên liệu và một số nguyên liệu cần thiết cho cỗ máy chiến tranh Nhật.
Mặt khác, thắng lợi nhanh chóng và có phần dễ dàng của chủ nghĩa Đức quốc
xã đã trở thành mối đe dọa trực tiếp đến không chỉ an ninh, mà cả nền văn mình có
nguồn gốc châu Âu của Hoa Kỳ. Trong lúc đó, Nhật Bản, một đối thủ vừa ở rất xa,
vừa nhìn Hiệp ước Bất tương xâm Xô - Đức (được kí ngày 23-8-1939) như là sự
phủ nhận công khai Hiệp ước chống Quốc tế Cộng sản (được kí ngày 25-11-1936).
74
Bên cạnh đó, cho đến nửa đầu 1940, hướng tiến công chính của Nhật xem ra vẫn
chưa được xác định rõ ràng, vì từ tháng 5 đến tháng 8-1939, quân đội Nhật đã đánh
nhau một trận ác liệt với Hồng quân Xô viết ở khu vực sống Khalkhin Gol (Mông
Cổ). Chỉ sau khi Hà Lan và Pháp lần lượt bị bại trận ở châu Âu (6-1940) và Anh
phải vất vả một mình chống chọi Đức, Nhật mới chuyển sang phương án Nam tiến.
Vì vậy, phản ứng của Hoa Kì cũng phù hợp với tình hình vì trong lúc cần dồn
sức đối phó với sự hoành hành của Đức quốc xã ở châu Âu, phỏng có ích gì cho
Washington thực hiện chính sách dồn đẩy Nhật vào con đường gây chiến ở Đông
Nam Á. Việc chính phủ Mĩ ngày 26.7.1939 lên tiếng phủ định Hiệp định thương
mại 1911 sau thời hạn 6 tháng không thể được đánh giá một cách đơn giản là phản
ứng quá nhẹ nhàng và hàm ý dung dưỡng dù Hoa Kì quả thực vẫn tiếp tục cung cấp
dầu và các kim loại mà nền công nghiệp quốc phòng của Nhật cần. Joseph Grew,
đại sứ Hoa Kì ở Nhật, đã có lí lẽ riêng của mình để biện minh cho phản ứng vừa kể
của chính phủ nước ông: “Nếu chúng ta bắt đầu các biện pháp trừng phạt nhằm vào
Nhật, chúng ta sẽ phải áp dụng đến tận cùng, và chỗ tận cùng đó chỉ có thể là chiến
tranh…Nếu chúng ta chấm dứt việc cung cấp dầu lửa cho Nhật, và nếu Nhật nhận
ra rằng họ không thể kiếm đủ dầu bằng các nguồn thương mại khác để đảm bảo an
ninh quốc gia, chắc chắn họ sẽ tung hạm đội đi chinh phục Đông Ấn thuộc Hà
Lan…”. . [dẫn theo 7, Tr.98]. Xét theo góc độ về mặt kinh tế chúng ta thấy rằng
các nhu yếu phẩm, cao su, thiếc, nicken, crôm, sắt, gỗ, và động lực của chiến tranh
hiện đại, dầu hỏa mà Nhật rất cần, tất cả điều đó nằm ở phía Nam, ở Đông Dương,
Mã Lai, Philippines và quần đảo Nam Dương. Vì vậy, nếu viễn cảnh này xảy ra,
Hoa Kì lúc đó chắc chắn sẽ gần như đơn độc chống chọi với Nhật ở Thái Bình
Dương
Quan hệ giữa Mĩ – Nhật rẽ sang khúc quanh mới từ mùa hè năm 1940, khi
Nhật công khai bày tỏ tham vọng đối với quần đảo Đông Ấn thuộc Hà Làn và bắt
đầu đẩy mạnh các hoạt động mở rộng ảnh hưởng ở Đông Dương, thuộc địa của
nước Pháp bại trận, nhằm khóa chặt con đường vận chuyển số hàng hóa ngày càng
nhiều mà Hoa Kì cung cấp cho chính phủ Trùng Khánh. Cuối tháng 6.1940, thủ
tướng Nhật Yonai công bố các yêu sách: 1) Pháp để cho một phái bộ quân sự Nhật
75
vào Bắc Kì; 2) Anh đóng cửa con đường Miến Điện; 3) Chính phủ Hà Lan (đang
lưu vong ở Anh) tăng cường đáng kể việc cung cấp hàng hóa (chủ yếu là nguyên,
nhiên liệu) từ quần đảo Đông Ấn cho Nhật [7, Tr.98].
Phản ứng của chính phủ Roosevelt vẫn rất dè dặt. Washington lập luận rằng sự
chống đối quá quyết liệt từ phía Hoa Kì sẽ tạo cơ hội cho các thế lực hiếu chiến lên
cầm quyền ở Nhật. Ngoài ra, việc Anh tiếp tục kìm chân phần lớn quân đội Đức
trên lục địa châu Âu và việc Mĩ duy trì sự hiện diện của hạm đội Thái Bình Dương
ở quần đảo Hawaii sẽ khiến Nhật không dám đi quá xa.
Vào tháng 7/1940 và mùa xuân 1941, Hoa Kỳ vẫn còn giao xăng nhỏ giọt cho
Nhật. Vì họ là người cung cấp chính về xăng có độ octane cao, xe hơi, phi cơ, sắt,
thép và đồng, sự cấm vận của Hoa Kỳ buộc người Nhật phản ứng nhanh chóng.
Tuy nhiên sau sự kiện ngày 02/7 khi hội nghị vương triều quyết định thông
qua chiến dịch ở phía Nam, 50.000 người đổ bộ vào Đông Dương và biến đất nước
này thành xứ bảo hộ của Nhật. Quân Đồng minh đã phản ứng hết sức nhanh chóng.
Ngày 24/7, Hoa Kỳ đóng băng tài sản của người Nhật, đế quốc Anh cũng bắt chước
thực hiện điều này và Hà Lan thực hiện ngừng tất cả mọi cuộc giao dịch thương mại
và tài chính với Nhật. Bắt buộc phải rút cạn trong các kho dự trữ nguyên liệu của
mình, mà sự yếu kém có nguy cơ làm cho nó không còn khả năng chiến đấu, tiếp
theo là sự tăng cường phong tỏa, Nhật nhận thấy mình nằm trong một tình thế thực
sự nguy kịch [1, tr 215].
Ngày 25.7, chính phủ Washington đưa dầu lửa và sắt vụn vào danh sách các
mặt hàng bị xem xét cấm vận. Nhưng ngay ngày hôm sau, tổng thống Franklin
Roosevelt đã lên tiếng giải thích với giới truyền thông đại chúng rằng ông không có
ý định thực hiện “cấm vận” như báo chí loan tin, mà đúng hơn là nới rộng việc xem
xét cấp giấy phép đến những mặt hàng như dầu lửa và sắt vụn. Ngày 16.8, trong lúc
trò chuyện với bộ trưởng bộ Tài chính Hans Morgenthau, Roosevelt nói: “Trong lúc
này, chúng ta không nên gây sức ép quá mức cần thiết lên Nhật, chúng ta có thể đẩy
nước này đến chỗ chiếm Đông Ấn thuộc Hà Lan” [7, Tr.99].
Tuy nhiên, người Nhật dường như không thèm quan tâm đến thái độ kiềm chế,
mà có lẽ bị họ xem là mềm yếu kể trên của Tổng thống Hoa Kì. Ngày 24.9, Tokyo
76
đưa quân vào Bắc Kì. Biện pháp trả đũa từ phía Hoa Kì liền được công bố: Ngày
26.9, sắt vụn bị xấm xuất khẩu sang Nhật. Nước này không chịu thua kém, Ngày
27, Hiệp ước ba bên được kí giữa ba nước phe Trục (Đức, Italia và Nhật) công nhận
“trật tự mới” mà các nước này sẽ dựng lên ở châu Âu và Đông Á.
Nhà ngoại giao Hans Thomsen nới với Lovell: “Nếu Nhật bước vào cuộc
chiến tranh với Mỹ, thì ngay lập tức Đức sẽ hành động theo” (…). Nước Nhật biết
rằng trừ khi Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ đồng ý một số điều khoản hợp lý nào đó về
vùng Viễn Đông, Nhật Bản phải đối mặt với hiểm họa bị bóp nghẹt. Nếu Nhật bản
chờ đợi, thì Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ sẽ tương đối dễ dàng để siết cổ Nhật. Do vậy
giờ đây Nhật buộc phải tấn công ngay…[5, tr.174].
Câu trả lời từ phía Hoa Kì là khoản tín dụng 100 triệu USD cho chính phủ
Tưởng Giới Thạch được công bố ngay trong ngày Nhật công nhận chính phủ bù
nhìn Nam Kinh (30.11.1940). Song song đó, Mĩ phái sang Trung Quốc phi đội
mang tên “Cọp Bay” chiến đấu bên cạnh quân đội Trung Quốc. ngày 29.12.1940
tổng thống Franklin Roosevelt tuyên bố Hoa Kỳ trở thành “kho vũ khí của nền dân
chủ”.
Xem xét trong bối cảnh chung lúc đó, những phản ứng kể trên của chính phủ
Washington thực ra có ý nghĩa cảnh báo hơn là trả đũa, vì chiến lược của Hoa Kì về
cơ bản vẫn là tìm đủ cách làm chậm tiến trình dẫn đến một cuộc chiến tranh với
Nhật trong vùng Thái Bình Dương, trong lúc Hoa Kì đang bận đẩy mạnh quan hệ
hợp tác với Anh ở Bắc Đại Tây Dương. Tháng 3.1941, tổng thống Roosevelt nói với
đại sự Nomura rằng “những vấn đề giữa hai nước chúng ta chắc chắn có thể được
giải quyết mà không cần đến xung đột vũ trang”[Dẫn theo 7, tr.100]. Tuy nhiên,
trong giới cầm quyền ở Nhật Bản lúc bấy giờ phe chủ chiến đang chiếm ưu thế. Một
cuộc chiến tranh với Hoa Kỳ ở Thái Bình Dương vẫn được xúc tiến.
Ngày 13.4.1941, Nhật kí với Liên Xô Hiệp ước Trung lập có giá trị trong 5
năm, theo đó hai nước cam kết giữ trung lập nếu một bên kí kết tham gia chiến
tranh chống một nước khác. Xét theo bối cảnh của quan hệ quốc tế lúc đó, “nước
khác” đó chỉ có thể là Đức và Hoa Kì [7, Tr.100].
Ngày 24.7.1941, bước đầu của kế hoạch kể trên đã được mang ra thực hiện:
77
quân Nhật đổ bộ vào miền Nam bán đảo Đông Dương. Vào thời điểm đó cơ quan
tình báo của Hải quân Hoa Kì đã tìm ra chìa khóa giải bản mật mã chính của Nhật.
Trong chiến dịch có tên gọi “Magic”, người Mĩ thường xuyên thi và giải các bức
điện được chuyển bằng mật mã của Nhật. Nhờ vậy, Washington không chỉ biết
trước kế hoạch Nhật đưa quân vào Đông Dương, mà còn nắm rõ các bước tiếp theo
nhằm vào các thuộc địa của Anh và Hà Lan ở Đông Nam Á.
Tuy nhiên, người Nhật sẽ hướng bộ máy chiến tranh của họ vào hướng nào –
nam hay bắc – hãy còn là câu hỏi mà người Mĩ chưa tìm ra lời giải. Ngày 25.7,
chính phủ Roosevelt trả đũa bằng lệnh cấm vận đối với mọi hàng hóa (kể cả dầu
lửa) được vận chuyển từ Hoa Kì đến Nhật, kênh đào Panama được đóng lại đối với
từ nay quan hệ thương mại giữa hai nước coi như thực sự chấm dứt6F mọi tàu Nhật, mọi tài khoản của Nhật ở Mĩ đều bị đóng băng. Điều này có nghĩa là 7. Đối với một
đảo quốc Nhật Bản phụ thuộc nhiều vào các nguồn nguyên liệu từ bên ngoài.
Vài ngày sau, một phái đoàn Mĩ được phái đến Trùng Khánh với mục đích bàn
về việc áp dụng Đạo luật Lend –Lease cho Trung Quốc. Nhưng tại Hội nghị Đại
Tây Dương (8.1941), khi Churchill thúc giục Roosevelt đưa ra lời cảnh cảo cứng
rắn rằng một cuộc tiến công của Nhật vào thuộc địa Anh và Hà Lan ở Viễn Đông sẽ
buộc Hoa Kì “tiến hành những biện pháp trả đũa, ngay cả khi những biện pháp này
sẽ gây ra chiến tranh giữa Hoa Kì và Nhật” [dẫn theo 7, tr.102], thì Roosevelt vẫn
giữ lập trường rằng: “Cần ráng hết sức ngăn chặn không để bùng phát các hoạt
động quân sự chống Nhật” [dẫn theo 7, tr.102].
Ngày 17.8, trong khi tiếp Đại sứ Nhật Nomura ông đã lưu ý rằng nếu Nhật cứ
tiếp tục theo đuổi chính sách hay kế hoạch dùng hay đe dọa dùng vũ lực chống các
nước láng giềng, “chính phủ Hoa Kì sẽ buộc phải tiến hành ngay lập tức bất kì biện
pháp nào cần thiết nhằm bảo vệ quyền và quyền lợi chính đáng của đất nước và 7 Bình luận về các biện pháp kể trên, Douglas Waitley, một nhà nghiên cứu người Mĩ đã viết: “Đây là đòn trả đũa thiếu suy nghĩ và Roosevelt biết rõ như vậy, vì Nhật giờ đây phải chọn: hoặc chiến tranh quyết liệt, hoặc cúi đầu chịu nhục”. Thực vậy, vì cỗ máy chiến tranh Nhật phụ thuộc phần lớn vào việc nhập dầu và các nguyên liệu khác, giới quân phiệt Nhật giờ đứng trước một trong ba lựa chọn: a) từ bỏ chiến tranh xâm lược Trung Quốc; b) xâm lược Đông Nam Á và Tây Nam Thái Bình Dương để tìm kiếm các nguyên, nhiên liệu cần thiết, với cái giá phải trả là một cuộc chiến tranh với Hoa Kì; và c) tìm kiếm một thỏa thuận với Hoa Kì để chấm dứt sự phong tỏa kinh tế. Vừa xem chiến tranh là giải pháp cuối cùng, vừa không ngần ngại viện đến nó, giới cầm quyền Nhật tiếp tục các nỗ lực ngoại giao hướng đến giải pháp thứ 3, trong lúc đẩy mạnh chuẩn bị quân sự. [Dẫn theo 7, tr.101]
78
công dân Hoa Kì và đảm bảo an ninh Hoa Kì” [dẫn theo 7, tr.102]. Đồng thời
Roosevelt còn đưa ra đề nghị nối lại các cuộc đàm phán và thành lập một chương
trình hỗ trợ kinh tế cho vùng Thái Bình Dương, nếu Nhật sẵn sàng “đình chỉ các
hoạt động bành trướng…và khởi sự một kế hoạch hòa bình cho vùng Thái Bình
Dương” [dẫn theo 7, tr.102].
Phản ứng từ phía Nhật: ngày 28.8 là lời đề nghị về một cuộc gặp giữa thủ
tướng Nhật hoàng thần Konoye và thổng thống Hoa Kì Franklin Roosevelt. Bộ
trưởng Ngoại giao Cordell Hull đã yêu cầu Tokyo làm rõ trước những nhân nhượng
mà Nhật có thể đưa ra vì ông cho rằng Konoye không thể vận động sự ủng hộ của
phe chủ chiến cho một chương trình đàm phán có thể chấp nhận được đối với Hoa
Kì và lo lắng thất bại của cuộc gặp sẽ bị phía Nhật khai thác như một phương tiện
tuyên truyền nhằm trút trách nhiệm lên Hoa Kì.
Tuy nhiên, người Nhật muốn được công nhận “trật tự mới” tại Á châu.
Nomura cố thuyết phục Hoa Kỳ chấp nhận một số yêu sách cơ bản, chẳng hạn như
quyền thống trị của Nhật ở Trung Hoa, sự giải ngân các tài sản của Nhật, bình
thường hóa trở lại những cuộc trao đổi giữa hai nước và sự trợ giúp của Hoa Kỳ để
có được các nguyên liệu. Về điều này, người Mỹ trả lời rằng họ sẵn sàng nối lại các
quan hệ thương mại với Nhật với điều kiện là nước này trước tiên phải chấp nhận
rút khỏi toàn bộ Trung Hoa và Đông Dương, rằng Nhật tôn trọng, trong tương lai,
sự toàn vẹn lãnh thổi của Trung Hoa và nguyên tắc bình đẳng về các quyền lợi về
mặt kinh tế trong xứ này và rằng Nhật kể từ nay không can dự vào việc thay đổi, vì
lợi ích của mình, tình hình đã được thiết lập ở Viễn Đông [1, Tr. 216].
Lập trường của Nhật và Mỹ không thể dung hòa. Về phía Nhật Bản: Quân đội
Nhật không hề có ý định từ bỏ những cuộc chinh phục Trung Hoa, cũng không hề
xét lại quan điểm do mình đưa ra về vai trò của Nhật ở Á châu. Vì trong cuộc họp
tối cao diễn ra ngày 6-9-1941 tại Tokyo với sự hiện diện của Nhật hoàng Hirohito
đã quyết định rằng “nếu vào đầu tháng 10, những đòi hỏi của chúng ta không mong
gì được đáp ứng...,chúng ta sẽ tự đặt trong tư thái cho phép chúng ta sẵn sàng lâm
chiến chống Hoa Kỳ, Anh và Hà Lan. Những đòi hỏi tối thiếu đó là đóng cửa con
đường Miến Điện, chấm dứt giúp đỡ chế độ Tưởng Giới Thạch, ngừng tăng cường
79
lực lượng Mĩ ở Thái Bình Dương, tái lập quan hệ thương mại bình thường. Bù lại,
Nhật Bản sẽ không sử dụng Đông Dương như bàn đạp bành trướng xuống phía
Nam, tôn trọng Hiệp ước trung lập đã kí với Liên Xô và hứa sẽ rút khỏi Đông
Dương sau khi chiến tranh chấm dứt . Còn về phía Hoa Kỳ, họ không muốn một
Munich ở châu Á hoàn toàn hy sinh Trung Hoa. Nó không thể chấp nhận một thỏa
ước để cho Nhật có được thành quả của những cuộc xâm lược, cũng không chịu
khuất phục trước một “Trật tự mới” ở châu Á. Lúc đó Konoye yêu cầu diện kiến
Tổng thống Roosevelt, nhưng Tổng thống Hoa Kỳ từ lâu cũng đã từ chối rằng
người ta sẽ không bắt ông theo những đề nghị mới [1, Tr. 216] .
Ngày 18/10, khi thất bại trong việc đám phán chính phủ Konoye sụp đổ,
chính Tướng Tojo trở thành Thủ tướng. Ngày 17/11, một lần nữa ông ta điều một
Đặc phái viên, Saburo Kurusu, để đạt được thỏa ước của Hoa Kỳ về các yêu sách
của Nhật nhưng không đạt được kết quả gì. Trong khi các cuộc trao đổi tiếp diễn
không thành công ở Washington, quân Nhật bắt đầu khởi động các kế hoạch chiến
tranh.
Ngày 20.11, Saburo Kurusu đã trao cho Mĩ kế hoạch đàm phán B bao gồm
một số đề nghị như sau: 1) Không một chính phủ nào được đưa quân vào Đông
Nam Á hay vùng Nam Thái Bình Dương, ngoại trừ Đông Dương; (2) hai chính phủ
cùng cộng tác khai thác các vật liệu cần thiết ở Đông Ấn thuộc Hà Lan; (3) Quan hệ
thương mại sẽ được phục hồi như trước lúc các tài khoản bị đóng băng, Hoa Kì sẽ
cung cấp cho Nhật số dầu cần thiết; (4) chính phủ Hoa Kì “không việc đến các biện
pháp hay hoạt động có hại đến nỗ lực phục hồi hòa bình toàn diện giữa Nhật và
Trung Quốc”; (5) Nhật di chuyển số quân đang đóng ở miền Nam Đông Dương trở
ra miền bắc sau khi đạt được một thỏa thuận với Mĩ và sẽ rút toàn bộ quân khỏi
Đông Dương sau khi đã kí hòa ước với Trung Quốc, “hoặc sau khi một nền hòa
bình hợp lí được thiết lập trong vùng Thái Bình Dương” [dẫn theo 7, tr.104].
Về phần mình, ngày 26.11, bộ trưởng Ngoại giao Cordell Hull đã trao cho các
đại diện của Nhật một danh sác gồm 10 đề nghị có nội dung được tóm gọn như sau:
một hiệp ước bất tương xâm nhiều bên gồm Anh, Trung Quốc, Nhật, Hà Lan, Liên
Xô, Thái Lan và Hoa Kì; Nhật rút toàn bộ lực lượng hải, lục, không quân và cảnh
80
sát khỏi Trung Quốc và Đông Dương; Nhật không ủng một chế độ hay một chính
phủ khác ở Trung Quốc, ngoại trừ chế độ Tưởng Giới Thạch, Nhật từ bỏ Hiệp ước
ba bên. Đổi lại, Nhật sẽ được hưởng một số thuận lợi về kinh tế, như: các tài khoản
của Nhật ở Mĩ được giải toản; một thương ước sẽ được hai bên kí trên cơ sở quy
chế tối huệ quốc; tỉ lệ dollar – yên được ổn định; Mĩ giảm thiếu các rào cản thương
mại và chấp nhận nhượng đáng kể khác về kinh tế.
Như vậy, lập trường của hai bên tại bàn đàm phán là hoàn toàn xung khắc và
do đó, khó có thể được dung hòa. Một ngày sau khi trao đổi cho Nhật đề nghị nêu
trên, Hull nói với Henry Stimson: “Tôi đã làm xong phần việc của mình, bây giờ là
lúc công việc chuyển vào tay ông và Knox, Lục quân và Hải quân” [dẫn theo 7,
tr105].
Ngày 24 tháng 11 năm 1941 Luân Đôn loan báo, nếu Nhật tấn công Hoa Kỳ
thì Anh quốc sẽ chiến đấu bên cạnh Hoa Kỳ. Ngày 26-11-1941, chính phủ Mỹ gửi
cho Phái đoàn Nhật tại Washington một đề nghị như sau:
Nếu Nhật Bản:
1/ - Công nhận sự toàn vẹn lãnh thổ Đông Dương
2/- Rút hết quân đội ra khỏi Đông Dương và Trung Hoa
3/ - Bỏ rơi chính phủ Uông Tinh Vệ (Wang Chinh Wei) và công nhận chính
phủ Tưởng Giới Thạch
Thì Hoa Kỳ sẽ:
1/ - Hủy bỏ lệnh giới hạn xuất cảng nguyên liệu và nhiên liệu sang Nhật
2/ - Ký với Nhật những thương ước theo lời yêu cầu của Nhật.
3/ - Giúp đỡ Nhật trong việc ổn định tiền tệ [17, tr.65-66].
Ngoài ra Hoa Kỳ còn đề nghị Tokyo và Washington cùng ký vào một bản
tuyên ngôn chung nhìn những nguyên tác bất tương xâm và cộng tác với nhau để
giải quyết mọi việc quốc tế, quyền bình đẳng trong vùng Thái Bình Dương. Đề nghị
của Hoa Kỳ như lời khước từ đối với phái quân phiệt Nhật. Tình hình lại càng trở
nên căng thẳng. Chiến tranh như sắp bùng nổ.
Trong khi ấy Nhật đã hoàn toàn kiểm soát chặt chẽ toàn thể Đông Dương và
đang chuyển quân tới vùng này để chuẩn bị cho một cuộc phiêu lưu mới.. Cuối
81
tháng 11 năm 1941, hải quân Nhật tăng cường tại các đảo thuộc Nhật tại Thái Bình
Dương.
Tổng thống Roosevelt, hội kiến với các tướng lãnh Mỹ, đồng thời lệnh báo
động gửi đi Hawaii và Philippines.
Một lần nữa, để tránh một cuộc chiến có thể xảy ra giữa Hoa Kỳ và Nhật Bản,
ngày 6 tháng 12, Tổng thống Roosevelt gửi một thư riêng cho Nhật Hoàng Hirohito
bảo đảm rằng Hoa Kỳ không có ý định tấn công Đông Dương và xin đảm nhiệm
bảo đảm tương tự như vậy ở Trung Hoa, Thái Lan, Mã Lai và Indonesia nếu Nhật
rút hết quân đội ra khỏi lãnh thổ các quốc gia trên đây.
Ngày 7-12-1941 phái đoàn Nhật đệ trình chính phủ Mỹ bức thư của Tokyo về
đề nghị của Washington ngày 26-11, Nhật không thể chấp thuận đề nghị của Tổng
thống Hoa Kỳ như là những điểm căn bản cho một cuộc thương thuyết.
Như vậy, nỗ lực của người Mỹ mà đại diện là vị đứng đầu của chính phủ Hoa
Kỳ lúc bấy giờ Tổng thống Roosevelt để tránh một cuộc chiến với người Nhật ở
Thái Bình Dương là điều không thể tránh. Một cuộc chiến chỉ còn ngày, giờ.
3.2. Những trận hải chiến ở Thái Bình Dương trong chiến tranh thế giới
thứ II và những phân tích địa – chính trị.
Quan hệ giữa Hoa Kỳ - Nhật Bản đi đến ngõ cụt, chiến tranh nổ ra chỉ là vấn
đề thời gian. Ở châu Âu, chiến tranh Xô – Đức đang diễn ra cực kì ác liệt, chiến
tranh Anh với Đức – Ý tàn khốc ở Bắc Phi, trên mặt nước Đại Tây Dương, Bắc
Băng Dương. Cuộc hội kiến giữa Đô đốc Hart, phó đô đốc William R.Purnell và
chuẩn đô đốc W.Rockwell tư lệnh căn cứ Cavite, Tom Philips để trao đổi về mặt
trận châu Á.
Tư lệnh Hart đã nêu lên những nỗi lo âu của phía Mỹ về một cuộc tấn công
của người Nhật bất cứ lúc nào vì theo ông Nhật Bản sẽ lợi dụng những thắng lợi của
Đức trên chiến trường châu Âu từ tháng 6-1941, hơn thế nữa Hoa Kỳ đã phong tỏa
các trương mục ở ngân hàng mà Mỹ cho Nhật vay để mua dầu hỏa của Indonesia.
Từ ngày đầu tháng 12 -1941, ảnh chụp được trong cuộc không thám khắp biển
Đông của bộ Hải quân Mỹ cho thấy rằng hải quân Nhật đang di chuyển, nhiều dấu
hiệu cho thấy Nhật đang chuẩn bị những cuộc hành quân đổ bộ ở Thái Lan,
82
Philippines, Mã Lai và có thể Borneo.
Ông tin rằng, khi cuộc chiến bùng nổ thì Nhật sẽ đánh cả Mỹ, Anh lẫn Hà Lan.
Từ những phân tích đó, Hoa Kỳ đã đưa ra bản sơ thảo kế hoạch phòng ngự liên kết
với hải quân hoàng Anh và Hà Lan. Dựa vào kết quả không thám hai vị đô đốc Hart
và W.Rockwell đi đến kết luận: Người Nhật có thể đổ bộ một nơi nào đó trên bán
đảo Mã Lai, từ đó họ có thể tiến về Bangkok hay Singapore. Phía Mỹ lo ngại trước
sự có mặt ngày càng tăng của tàu ngầm Nhật ở Thái Bình Dương [18, Tr.16].
Chiều ngày 6-12, máy bay phòng thám Anh phát hiện đoàn tàu Nhật ở vĩ độ 8,
kinh độ 100, phía Nam Hòn Khoai (Cà Mau), di chuyển về hướng Tây.
Suốt ngày 7-12, mọi người Mỹ ở Philippines chờ đợi chiến tranh từng giờ
từng phút vì căn cứ không quân Nhật ở Đài Loan hoặc Hải Nam chỉ cách Manila độ
2 giờ bay. Tại sân bay Clark, 16 chiếc pháo đài bay B17 nằm kế nhau như đang chờ
một cuộc thanh tra. Căn cứ chính của không quân Hoa Kỳ ở Viễn Đông này đang
đợi một lực lượng bổ sung là 30 pháo đài bay. Tham mưu trưởng hạm đội châu Á
của Hoa Kỳ nói với tư lệnh của mình ở đô đốc Hart rằng: Chiến tranh chỉ là vấn đề
ngày giờ mà thôi.
Nhưng nơi nào sẽ bị Nhật đánh đầu tiên: Singapore, Philippines, kênh đào
Panama. Họ không bao giờ có ý nghĩ Nhật đánh Trân Châu Cảng. Một cuộc không
kích bất ngờ Trân Châu cảng – không phải là diễn tập.
3.2.1. Giai đoạn 1: Nhật Bản chiếm ưu thế
3.2.1.1. Trận Trân Châu Cảng
*Vị trí địa – chiến lược
(xem hình 3.1)
Quần đảo Hawaii của Mỹ ở giữa Thái Bình Dương là một chuỗi đảo dài nối
tiếp nhau theo hướng từ Tây – Tây Bắc sang Đông – Đông Nam có diện tích tổng cộng gần 17.000 km2 với khoảng nửa triệu người. Trong đó lớn nhất là đảo Hawaii (trên 10.000 km2) nằm ở cực đông quần đảo, nhưng quan trọng nhất lại là đảo Oahu với diện tích khoảng 150 km2, nằm cách Hawaii khoảng 140 dặm về phía Tây
Bắc.Trên bờ biển phía Nam đảo Oahu có thành phố Honolulu (200.000 dân), thủ
phủ của cả quần đảo. Cũng trên bờ biển phía Nam đảo, cách Honolulu về phía Tây
83
chừng 6 dặm là Trân Châu Cảng, căn cứ chính của hạm đội Thái Bình Dương Hoa
Kỳ (kể từ năm 1940).
Hạm đội Thái Bình Dương của Hoa Kỳ được dựng trên một vịnh biển ăn sâu
vào đất liền của đảo rồi chia thành nhiều vụng biển và luồng lạch kín đáo, lại có một
cù lao ở giữa vịnh được gọi là “đảo Ford” như một cầu tàu tự nhiên. Trân Châu
cảng có điều kiện tự nhiên lí tưởng để bảo vệ hạm đội chống lại mọi sự tấn công từ
bên ngoài. Việc bố phòng ở cảng hết sức cẩn mật với một hệ thống lưới thép đặc
biệt chống ngư lôi và tàu ngầm. Ngoài Trân Châu cảng ra, hạm đội còn một căn cứ
khác là cảng Lahaina trên đảo Maui, một đảo nằm ở khoảng giữa Oahu và Hawaii
[18, tr.46].
Hạm đội Thái Bình Dương của Hoa Kỳ thực sự là hạm đội mạnh nhất thế giới
lúc bấy giờ với khoảng 170 hạm tàu các loại mà lực lượng chủ yếu là 4 tàu sân bay:
Yorktown, Saratoga, Enterprise, Lexington; 11 thiết giáp hạm: Missisipi, Aidaho,
New Mexico, Oklahoma, Arizona, Califonia, West Virginia, Maryland, Tennessee
và kì hạm Pennsylvania và hàng chục tuần dương hạm. Toàn bộ lực lượng đồ sộ ấy
đặt dưới quyền chỉ huy của đô đốc Husband Kimmel, tư lệnh hạm đội từ tháng
2/1941.
Bảo vệ hạm đội và quần đảo, có một lực lượng lục quân gần 43.000 binh lính
và sĩ quan, trong đó 35.000 đóng tại Oahu. Lực lượng này được trang bị các vũ khí
rất hiện đại. Trên đảo Oahu có 5 sân bay, quan trọng nhất là sân bay Hickam ở ngay
gần Trân Châu Cảng và sân bay Wheeler ở phía Bắc đảo. Vào ngày 07/12/1941 trên
đảo có tất cả 233 máy bay quân sự của lục quân, trong đó có 150 chiến đấu cơ, 35
pháo đài bay hiện đại B17, còn lại là các máy bay ném bom khác. Với lực lượng nói
trên, tướng Walter Short, tư lệnh lục quân tại đảo Hawaii vẫn cho rằng ông thiếu
phương tiện phòng thủ, đặc biệt là những vũ khí để giáng trả những cuộc tấn công
bằng không quân của địch. Có 81 chiếc thủy phi cơ Catalina và bổ sung thêm 6
chiếc B17 là nhiệm vụ trinh sát cho toàn quần đảo, đô đốc Kimmel cũng cho rằng
ông không đủ khả năng thường xuyên thám sát từ xa toàn bộ vùng biển xung quanh
quần đảo. Vì vậy, ông chỉ chú trọng tuần tra vùng biển phía Nam, nơi quân đảo
Marshall của Nhật.
84
Trong bản đệ trình tổng thống Franklin Roosevelt ngày 24-4-1941, bộ trưởng
bộ quốc phòng Henry Stimso và tổng tham mưu lục quân George Marshall nhất trí
khẳng định rằng: “Nhờ sự phòng thủ vững chắc của mình, nhờ những lực lượng đồn
trú, nhờ những đặc điểm của thiên nhiên, đảo Oahu có thể coi là báo đài mạnh nhất
thế giới” [18, Tr.46-47].
Nằm giữa vùng Bắc Thái Bình Dương, Trân Châu Cảng vừa là căn cứ chỉ huy,
căn cứ hậu cần, là cơ sở bảo duỡng, sửa chữa các chiến hạm của hạm đội Thái Bình
Dương. Từ căn cứ này, Hạm đội Thái Bình Dương của Hải quân Hoa Kỳ có thể
khống chế toàn bộ vùng Bắc Thái Bình Dương bằng các lực lượng tàu nổi, tàu
ngầm và không quân của Hạm đội.
Nói đến sức mạnh của Trân Châu cảng Tướng Marshall nói với FDR rằng bến
cảng này là không thể bị đánh bại và nó là mục tiêu ít có khả năng nhất. Vị tướng
nói:
Đó là….pháo đài mạnh mẽ nhất trên thế giới…Những chiếc tàu chuyên
chở của kẻ địch, các đoàn hộ tống và vận chuyển của hải quân sẽ bắt đầu đến
trong tình trạng xảy ra cuộc không chiến ở cự ly khoảng 1267km. Cuộc tấn
công này sẽ gia tăng cường độ cho đến khi cách mục tiêu khoảng 338km, các
lực lượng của kẻ địch sẽ là đối tượng của tất cả các loại máy bay ném bom
được hỗ trợ chặt chẽ bởi những chiếc máy bay cường kích hiện đại của chúng
ta [dẫn theo 5, tr. 187]
Mặt khác, với địa hình của cảng Trân Châu, người Mỹ cho rằng, độ sâu của
vịnh biển chỉ khoảng 10m không thể phóng ngư lôi được, cho nên họ chỉ đề phòng
máy bay ném bom và tàu ngầm mà không thả lưới ngăn ngư lôi quanh các chiến
hạm. Giờ đây, họ đã phải bất ngờ chứng kiến phát minh mới của người Nhật về
cách dùng ngư lôi ở vùng biển nông cho máy bay bay sát với tốc độ chậm để phóng
ra những quả ngư lôi lướt trên mặt nước với tốc độ cũng rất chậm, chỉ khoảng 30-40
hải lí giờ [ 18, Tr.56].
Mặt khác, vào thời điểm quân Nhật tấn công Trân Châu cảng thì khả năng
phòng thủ ở đây rất thấp, Lãnh sự quán Nhật tại Honolulu Tadashi Morimura điện
về Tokyo báo rằng: Hoa Kỳ không chuẩn bị gì để đối phó với một cuộc tấn công
85
của Nhật Bản tại đây, “không có lưới chống ngư lôi quanh các thiết giáp hạm,
không có khí cầu phòng không gần Trân Châu cảng” và khẳng định “có thể lợi
dụng cơ hội rất thuận lợi này để tấn công bất ngờ”, tại vị trí của các chiến hạm
trong cảng ông nhấn mạnh “không có những phi vụ trinh sát xuất phát từ hạm đội”
[Dẫn theo 18, tr.20].
Như vậy, khi mà quan hệ Hoa Kỳ - Nhật Bản chỉ còn chờ chiến tranh diễn ra
thì Hoa Kỳ ở Hawaii không có một sự chuẩn bị tốt cho một cuộc chiến với Nhật
Bản cả về tinh thần, vật chất lẫn kĩ thuật. Đặc biệt là những kinh nghiệm của cuộc
chiến trên Đại Tây Dương của hải quân Anh đã không được hải quân Hoa Kỳ lưu ý
đúng mức.
* Kế hoạch của Nhật Bản
Ban đầu bộ tham mưu Nhật nghiên cứu mở cuộc tấn công cùng một lần vào
Mã Lai và Philippines rồi đánh chiém Nam Dương sau. Nhưng đô đốc Isoroku
Yamamoto, vị tư lệnh hạm đội phối hợp Nhật chống lại kế hoạch này vì nó không
nhắm vào lực lượng quan trọng nhất của Hoa Kỳ trong Thái Bình Dương là hạm
đội. Ông đề nghị tấn công làm tê liệt hạm đội Mỹ bằng một cuộc tấn công bất ngờ
vào Trân Châu cảng. Cùng một lúc quân đội Nhật cũng mở cuộc đổ bộ lên đảo
Wake, Guam, Hương Cảng, Mã Lai, Phi Luật Tân, các đảo Bắc Nam Dương và
chiếm đóng Thái Lan. Người Nhật hy vọng đánh chiếm Phi Luật Tân trong hai
tháng, Mã Lai trong ba tháng và kiểm soát được vùng giới hạn bởi đường phân chia
quốc tế và dãy các đảo từ Tân Anh Quốc đến Sumatra và miền trung Miến Điện
trong năm tháng.
Người Nhật dự trù một trận chiến tranh giới hạn với các mục tiêu kinh tế rõ
rệt. Các vị trí của phe Đồng minh có thể nói nằm trên hai vòng cách hải cảng Nhật
Yokohama độ 1500 và 3000 dặm. Vòng trong bao gồm Hương Cảng, Mali cách độ
1782 dặm, Guam 1352 dặm vào đảo Wake. Vòng ngoài bao gồm Tân Gia Ba,
Jakarta, Surabaya, Rabaul tại Tân Anh quốc 2526 dặm. Các mục tiêu khác ở ngoài
vòng này mà có Nhật có thể tấn công là Calcutta, Colombo, Sydney, Ackland 4789
dặm. Cựu Kim Sơn hay Vancouver cách 4262. Còn Pananma cách Yokohama đến
7682 dặm đường nghĩa là hơi gần hơn của vào kênh Suez ở phía Nam độ 100 dặm
86
[21, Tr.140]. Kế hoạch của Nhật lúc ban đầu không dự trù đánh chiếm vài vị trí nhỏ
trong vòng cách xa ba nghìn dặm như đảo Kiska trong số các đảo Aleutians cách
1977 dặm. Đảo Midway cách 2250 dặm và các cứ điểm tại các đảo xa hơn Rabaul
mà người Nhật có thể chiếm cách vị trí này tại Tây Nam Thái Bình Dương bằng
cách đánh từ đảo này qua đảo khác với phi cơ tại các hàng không mẫu hạm trợ lực
với các máy bay từ các phi trường trên bờ. Các cuộc hành quân đánh vào đảo
Midway hay Aleutians không có thể được sự yểm trợ của phi cơ phi trường trên bờ.
Ngoài ra Nhật bản không thể nào đánh vào lãnh thổ của Hoa Kỳ và Anh quốc và đe
dọa sự tồn tại của hai xứ này [21, tr.141].
Cuộc tấn công Trân Châu Cảng có nhiều mục đích. Trước tiên, người Nhật hi
vọng sẽ ngăn cản được Hạm đội Thái Bình Dương can thiệp vào việc Nhật chinh
phục Đông Ấn. Kế tiếp, người Nhật tranh thủ thời gian để củng cố vị thế và tăng
cường sức mạnh hải quân, trước khi các tàu chiến mới của Mỹ được chế tạo theo
Đạo luật Vinson-Walsh. Cuối cùng, nó được trù tính sẽ là một đòn mạnh giáng vào
tinh thần của người Mỹ, có thể gây nản lòng, cho phép Nhật tiếp tục chinh phục
Đông Nam Á mà không bị can thiệp. Như nhà Nhà bình luận quân sự Philippe
Mason đã viết: Cùng với bản kế hoạch quân sự, tướng Tojo cũng đã nghiên cứu một
kế hoạch chính trị nhằm độc chiếm toàn bộ Đông Nam Á, loại bỏ tất cả những
người da trắng Châu Âu để xây dựng một “khối thịnh vượng chung” tạo điều kiện
cho Nhật Bản có một nền kinh tế độc, nhờ có nguồn dầu mỏ Indonexia, thiếc và
nhất là cao su Malaixia. Công cuộc bành trướng chỉ liên quan tới việc tước đoạt
những quyền lợi của Hà Lan và Anh tại các xứ thuộc địa trong khu vực mà nhất
thiết phải xảy ra một cuộc chiến tranh với Mỹ. Với vị trí chiến lược của Philippines,
Mỹ có thể đe dọa tuyến giao thông hàng hải từ Nhật Bản xuống khu vực Đông Nam
Á. Chính vì vậy bộ Tư lệnh quân sự Nhật Bản phải tính đến chuyện tiêu diệt phần
lớn lực lượng chủ yếu của Mỹ tại Trân Châu Cảng ở Hawaii bằng một cuộc tiến
công bất ngờ [14, tr.23].
Cuộc tấn công vào Trân Châu cảng được dự định không phải để làm cho Nhật
Bản vướng vào một cuộc chiến tranh kéo dài chống lại Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ,
mà như một cú đấm nốc ao. Nhằm đạt được mục tiêu về kinh tế và chính trị. Nó
87
được trù tính là để loại bỏ pháo đài nổi của người Mỹ, hạm đội Thái Bình Dương,
do đó sẽ buộc Hoa Kỳ rút lui khỏi vùng Đông Nam Á phải bảo đảm chủ quyền trên
các vùng biển trong Thái Bình Dương và chuẩn bị con đường cho các cuộc chinh
phục trong khu vực Đông Nam Á – nơi sẽ mang lại đủ dầu và những nguồn tài
nguyên thiên quan trọng khác mà họ còn thiếu. Đặc biệt là khi, họ đã bị Mỹ cấm
vận. Một khi cuộc chinh phục này đã thực hiện xong, họ tính đến việc giam nhốt
các nước này trong vành đai phòng thủ mạnh đến nỗi người Mỹ không hề muốn tấn
công nó bởi vì nó phải làm họ phải trả giá rất đắt bằng những sinh mạng. Họ hi
vọng lúc đó có thể thương thuyết về một nền hòa bình cho phép Nhật củng cố và
bành trướng “Khu vực đồng phồn thịnh vĩ đại nhất” của nó tại Đông Á. Người Nhật
nhận thức rất rõ rằng Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ đã bắt đầu tập trung chú ý vào cuộc
chiến tranh ở châu Âu và Tổng thống Roosevelt mong muốn tham gia vào trận
chiến đó. Một điều mà người Nhật không thể hình dung được rằng người Mỹ có thể
đảm nhận được cuộc chiến kéo dài ở cả hai đại dương. Người Nhật đã không đánh
giá đúng tiềm lực của Hoa Kỳ [1], [5], [19].
Tác giả của kế hoạch tấn công tiêu diệt hạm đội Mỹ ở Trần Châu cảng là thủy
sư đô đốc Isoroku Yamamoto, 57 tuổi và đã 40 năm tận tậm phục vị hải quân
Hoàng gia Nhật, tính đến 1941.
Kế hoạch tấn công Trân Châu cảng có nguồn gốc từ chiến thuật của hải quân
Nhật trong chiến tranh Nga – Nhật (1904 -1905). Dưới sự chỉ huy của đô đốc
Heihachiro Togo, năm 1904 hạm đội Nhật không tuyên chiến và lợi dụng đêm tối
đã bất ngờ tấn công đánh tan hạm đội Nga tại cảng Lữ Thuận. Năm 1905, một cuộc
tấn công bất ngờ nữa của hạm đội Nhật tại eo biển Tsushima (Đối Mã) lại đánh
chìm hạm đội thứ hai của Nga hoàng, trong trận này thiếu úy trẻ Isoroku Yamamoto
thì đã bị thương ở chân và tay trái.
Trong những năm 30, tàu sân bay xuất hiện, Yamamoto là một trong những sĩ
quan hải quân tiên tiến nhanh chóng nhận rõ uy lực to lớn của đòn đột kích bằng
máy bay xuất phát từ các tàu sân bay vì vậy ông đã coi tàu sân bay là lực lượng tấn
công chủ yếu của hải quân thay vì các thiết giáp hạm với những đại bác khổng lồ.
Giới lãnh đạo hải quân Nhật luôn luôn chuẩn bị một cuộc chiến tranh chống
88
Mỹ theo chiến thuật lôi kéo hạm độ Mỹ ra khỏi căn cứ ở Hawaii tiến về phía Nhật
Bản và phục kích tiêu diệt nó ở vùng biển nước mình. Trong khi đó, Yamamoto lúc
bấy giờ là thủ trưởng hải quân, Yonai bộ trưởng hải quân luôn phản đối việc liên
minh với phe trục để tiến hành cuộc chiến chống Mỹ.
Yamamoto từng là sinh viên đại học Harvard và là tùy viên hải quân Nhật tại
Hoa Kì, ông hiểu rất rõ lực lượng vật chất của Mĩ so với Nhật. Ông khẳng định rằng
hải quân Thiên hoàng không thể thắng Mĩ, Anh được. Khi hoàng thân Konoe lên
làm Thủ tướng và hỏi ý kiến của ông về một cuộc chiến tranh với Anh, Mỹ, ông nói
ngay: “Nếu bảo đánh mà không cần biết đến hậu quả của nó, tôi sẽ đánh và sẽ
thắng trong sáu tháng hoặc một năm đầu; nhưng tôi không tin là sẽ thắng ở năm
thứ hai, và nhất là năm thứ ba. Tôi hy vọng ngày sẽ làm mọi việc để tránh một cuộc
chiến tranh Nhật –Mỹ” [dẫn theo 18, tr.35].
Bằng kinh nghiệm và sự hiểu biết về đối phương Yamamoto hiểu hơn ai hết
một cuộc chiến tranh giành thắng lợi lâu dài đối với sức mạnh của Hoa Kỳ là điều
không thế.
Tuy vậy, Yamamoto vẫn phát triển tư tưởng chiến thuật của ông theo giả thiết
về một cuộc chiến tranh với Mĩ. Ông chủ trương đánh hạm đội của Mĩ ở những
vùng biển xa nhất mà hạm đội Nhật có thể vươn tới được, như ở quần đảo Marshall.
Năm 1940, ông nói với chuẩn đô đốc Shigeru Fukudome, tham mưu trưởng
hạm đội của ông rằng: “Tôi nghĩ giờ đây một cuộc tấn công ở Hawaii có thể xảy ra,
và không quân của ta cần được huấn luyện theo hướng này để giành chiến thắng”
[dẫn theo 18, tr.35]. Ông dự định giáng một đòn bất ngờ vào Trân Châu cảng làm
què hạm đội Mĩ; đồng thời bằng mọi cách cho quân Nhật đánh chiếm Đông Nam Á
trước khi Hoa Kỳ kịp xây dựng lại lực lượng của hạm đội này.
Ở châu Âu, ngày 11- 11-1940 tàu sân bay “Illustrions” của Anh đã tiến vào
biển Ionienne cách căn cứ hải quân Taranto (của Ý) 170 dặm và tung ra một đợt
oanh kích với 21 máy bay phóng ngư lôi. Cuộc tấn công trong đêm trăng không gây
khó khắn cho việc tiếp cận mục tiêu của lực lượng đột kích ấy. Máy bay Anh đã
phóng ngư lôi trúng 3 thiết giáp hạm Ý: 1 chiếc chìm, 2 chiếc bị loại khỏi vòng
chiến.
89
Những kinh nghiệm trên chiến trường Đại Tây Dương về cuộc tấn công bằng
máy bay phóng lôi trong đêm tối mà không gặp bất cứ khó khăn nào đã giúp ích rất
nhiều cho hải quân Nhật Bản. Sau sự kiện này, đô đốc Yamamoto đã cho tập hợp tư
liệu để in ronéo một bản chỉ thị dày 500 trang về “phương thức hành động, lực
lượng và sự bố phòng của hạm đội Mĩ ở Hawaii” [dẫn theo 18, tr.35]. Quân Nhật
bắt đầu nghiên cứu một cuộc tấn công vào Hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ ở
Trân Châu cảng.
Cuộc tấn công vào Trân Châu cảng phải thực hiện mà không tuyên chiến để
cho phép hoàng đế, trong trường hợp thất bại, bác bỏ nó như hành vi vô trách nhiệm
của những cái đầu nóng bỏng nào đó.
Ngày 22/11, trong khi Kurusu và Nomura, có lẽ không biết về những gì đang
ngầm được chuẩn bị, theo đuổi những cuộc đàm phán ở Washington, một hạm đội
Nhật bí mật tập trung trong vịnh Tankan, ở quần đảo Lữ Thuận (Kouriles). Hạm đội
của Phó đô đốc Chuigi Nagumo gồm có 6 hàng không mẫu hạm, 2 thiết giáp hạm, 2
tuần dương hạm hạng nặng và 1 tuần dương hạm hạng nhẹ, cũng như sự bố cục
phòng vệ của các tàu ngầm, các khu trục hạm và các tàu chở dầu. Nó chuẩn bị nhổ
nêo ngày 26/11 và ra khơi về phí Bắc quần đảo Hawaii với sự cẩm chỉ thông tin qua
vô tuyến. Sáu ngày sau, ngày 2/12, đô đốc Isoroku Yamamoto, gửi quan vô tuyến
tới Nagumo tín hiệu mật mã của cuộc tấn công : “Hãy trèo lên Núi Niitaka”,
Nagumo đổi hướng và đi về phía quần đảo Hawaii.
Những cơ quan tình báo của Hải quân Hoa Kỳ biết được các mật mã quân sự
và hải quân của người Nhật, từ đó họ đã giải mã rất nhiều các tín hiệu, tuy nhiên họ
không biết sức mạnh của hạm đội Nagumo như thế nào. Washington đã được thông
tin về các sự di chuyển đáng lo ngại, trong vịnh Thái Lan, về đoàn tàu Nhật lên
đường, hoặc hướng về Mã Lai hoặc Thái Lan. Trong một nỗ lực cuối cùng để làm
cho họ quay trở lại, Tổng thống Roosevelt gửi một thông điệp cá nhân cho Hoàng
đế HiroHito ngày 06/12. Nhưng nó đã quá trễ. Các hàng không mẫu hạm của
Nagumo đã tiến gần đến quần đảo Hawaii.
Nhờ vào Magic (sự kỳ diệu) – tên đặt cho hệ thống giải được mật mã của Nhật
– Washington biết rõ, kể từ một thời gian nhất định, về quyết định không thể thay
90
đổi được của Nhật. Ngày 27/11/1941, Washington đã thông báo cho phó Đô đốc
Husband Kimmel và Trung tướng Walter Short thực hiện báo động ở Trân Châu
cảng, nhưng dường như nó đã không nhấn mạnh về tính khẩn cấp mà sự báo động
cần phải bao hàm. Thực ra, bất cứ sự trinh sát nào của không quân, hay tuần tra của
hải quân cũng không được tổ chức ngoài khơi hòn đảo, và bất cứ biện pháp bảo vệ
phòng không nào cũng được tiến hành trong boong các chiến tàu trong các công
trình quân sự. Phân nửa dàn đại bác phòng không đã bị tháo đạn ra; những chiếc tàu
bị bỏ phế và những chiếc máy bay trên phi trường ở Oahu nằm xếp hàng nối đuôi
nhau như những con vịt trên mặt nước. Các hàng không mẫu hạm, mục tiêu đối với
quân Nhật, đã rời khỏi Trân Châu cảng với các tuần dương hạm hộ tống để diễn tập
ở Wake và trong quần đỏa Midway.
*Diễn biến
Chủ nhật ngày 07/12/1941, bình minh vừa ló dạng, yên tĩnh và rực rõ, ở
Honolulu. Lúc 6 giờ sáng, cách Oahu 350 km về hướng Bắc, 353 phi cơ Nhật cất
cánh từ các hàng không mẫu hạm của Đô đốc Nagumo. Vào lúc 6giờ 45, khu trục
hạm Hoa Kỳ “Ward” trông thấy một tàu ngầm Nhật nên đã bắn đại bác từ trên
xuống, kế đó phóng vào nó mấy trái ngư lôi. Viên chỉ huy lập tức truyền đi một báo
cáo về “sự tiếp xúc” này, nhưng tín hiệu vô tuyến của ông ta không nói rõ liệu nó
thực sự trông thấy một tàu ngầm hay liệu nó đơn thuần đã có một “sự tiếp xúc dưới
nước” hay không. Chính điều đó giải thích rằng người ta đã không tuyên bố tình
trạng báo động. Lúc 7 giờ 2 phút, các binh sĩ Joseph Lockard và George Elliott, trực
gác phía trước màn hình ra –đa ở Opana, gần Haleiwa phía bắc của Trân Châu cảng,
phát hiện một phi đội không quân lớn đang tiến gần từ phía Bắc. Họ báo sự việc cho
viên sĩ quan trực nhưng anh ta trả lời họ “Hãy quên điều đó đi!” [1, tr.221].
Dù là pháo đài bất khả xâm phạm, hạm đội mạnh nhất thế giới nhưng trong lúc
mà quân Nhật tấn công thì không được sự chuẩn bị tốt về tinh thần cũng như vật
chất chính vì vậy cuộc chiến đánh nóc ao này của người Nhật được tiến hành mà ít
gặp trở ngại nào – trận đánh đơn phương chiến.
* Những tổn thất của 2 bên
Hiệu quả của cuộc tấn công đã trở thành một điều chắc chắn và tín hiệu qui
91
định “Tấn công bất ngờ”. Theo như nhìn nhận của chỉ huy phi đội Nhật, Mitsuo
Fuchida thì Trân châu cảng và căn cứ không quân của nó đã bị một trận đòn nê
thân. Đoàn tàu oai phong chỉ trong một giờ đồng hồ đã tan ra như tuyết dưới ánh
mặt trờ [1, Tr.224].
Cuộc tấn công vào Trân Châu cảng diễn ra 2 đợt, đợt một lúc 7 giờ 55, đợt hai
lúc 8 giờ 40. Lúc 19 giờ, tất cả đã xong xuôi. Các oanh tạc cơ bổ nhào và các chiến
oanh tạc cơ ở cao độ, các máy bay phóng ngư lôi và các máy bay tiêm kích chiến
đấu đã biến Trân Châu cảng thành những đống tro tàn bốc khói: 96 tàu chiến thả
neo trong hải cảng; 18 đã bị đánh chìm hay bị phá hỏng và trong số chúng có 8 thiết
giáp hạm và 3 tuần dương hạm. Về 394 máy bay đậu trên bốn phi trường của hòn
đảo, 108 chiếc bị hủy diệt hay hư hại. Tổn thất của người Mỹ lên đến 2343 người,
960 người mất tích và 1172 người bị thương. Quân Nhật chỉ chịu những tổn thất
nhỏ: 29 phi cơ, 55 người, 1 tàu ngầm và vài chiếc tàu ngầm bỏ túi bị hủy diệt. Bằng
một đòn được thực hiện xuất sắc cũng như được suy nghĩ táo bạo, quân Nhật vừa
tống khứ một đại bộ phận của lực lượng hải quân và không quân Hoa Kỳ ở Viễn
Đông.
Quân Nhật cũng khá thành công trong việc phá hủy những công sự trên mặt
đất của Trân Châu cảng, các kho cảng, các bồn xăng, các xưởng sửa chữa, mà sự
phá hủy chúng sẽ buộc hạm đội Thái Bình Dương rút lui về bờ biển phía Tây của
Hoa Kỳ.
Nhưng Trân Châu cảng không phải là một chiến thắng toàn diện. Do tập trung
chủ yếu việc tiêu là hạm đội của địch hơn và các công trình kinh tế, kho chứa dầu,
bến cảng. Trong khi đó thì 2 hạm đội Mỹ đã nhổ neo. Các hàng không mẫu hạm,
tuần dương hạm, tàu ngầm và tất cả các khu trục của Hoa Kỳ, ngoại trừ 3 chiếc, đã
thoát khỏi cuộc tấn công, để mà sáu tháng sau, các lực lượng hải quân Hoa Kỳ ở
Thái Bình Dương, được sự tăng cường bởi các đơn vị rút ra từ hạm đội ở Đại Tây
Dương, sẽ có khả năng đánh bại hạm đội Nhật trong biển San Hô (Corail) và ở quần
đảo Midway [1, tr.224].
*Hệ quả của thảm họa Trân Châu Cảng
Việc Nhật tấn công Trân Châu cảng không làm xã hội Hoa Kỳ hốt hoảng, trái
92
lại, nó đã làm cho mọi sự kình địch giữa hai khuynh hướng chủ yếu không còn lí do
tồn tại.
Từ lâu nhóm “can thiệp” đại diện cho quyền lợi của các tổ hợp công nghiệp
quân sự, cũng như giới quân sự và nhóm cực đoan, chủ trương Hoa Kỳ phải can
thiệp khắp nơi để giành quyền lợi. Đặc biệt là khi chiến tranh thế giới xảy ra.
Năm 1939 ở châu Âu, giới này hoạt động tích cực, hô hào Hoa Kì nên tuyên
chiến với Đức – Ý - Nhật và giúp đỡ tích cực Tưởng Giới Thạch chống Nhật.
Nhóm thứ hai chủ trương Hoa Kỳ nên lui về lo cho châu Mỹ, biến cả châu Mỹ
thành một thị trường khổng lồ, đánh bại ảnh hưởng kinh tế, chính trị, văn hóa của
các cường quốc phương Tây khác như Anh, Pháp, Tây Ban Nha, Đức, Hà Lan ở
khắp châu Mỹ và vịnh Caribbean. Nhóm này không muốn Mỹ dính líu đến những
chuyện xảy ra ở Trung Quốc, châu Âu. Giờ thì chiến tranh xảy ra, Hoa Kỳ buộc
phải lâm trận, nên nhóm thứ hai đành thúc thủ.
Tổng thống Roosevelt dù biết rằng Nhật sắp đánh một số căn cứ của Hoa Kỳ ở
Thái Bình Dương, qua những bức điện mật mã của Bộ ngoại giao và hải quân Nhật
mà họ đọc được qua chiến dịch MAGIC, ông vẫn không thể nghe lời cố vấn Harry
Hopkins khuyên nên “làm một cái gì trước đã”, chính vì ông sợ ảnh hưởng của
nhóm thứ hai này. Họ thường chỉ trích ông là một kẻ “hiếu chiến” mà họ thì đã quy
tụ đông đảo là phiếu ở vùng Trung Tây Hoa Kì, trong giới các tiểu nông, tiểu chủ và
thợ thuyền ở các thành phố [1, Tr.78 -79].
Ngay ngày 08/12 Tổng thống Roosevelt phát biểu tại Quốc hội như sau: “Hôm
qua, ngày 07/12 năm 1941 – một ngày sẽ còn được ghi nhớ bởi sự sỉ nhục – Hiệp
Chủng quốc Hoa Kỳ đã bị tấn công một cách bất ngờ và được cân nhắc kỹ bởi các
lực lượng hải – không của đế chế Nhật” – Quốc hội không chần chừ tuyên chiến
với Nhật Bản.
Có nhiều học giả đặt ra câu hỏi: Tại sao chính phủ Mỹ lại không hay biết là
Trân Châu cảng sẽ bị tấn công. Trong khi đó với nền kỹ nghệ, lực lượng tình báo
của mình. Họ phải biết điều đó. Đến nay, những tài liệu có được không đủ chứng cứ
để chỉ ra rằng Tổng thống Roosevelt mong muốn một cuộc chiến tranh ở vùng Thái
Bình Dương, và tất cả mọi bằng chứng đều chỉ ra rằng ông muốn bước cào cuộc
93
chiến tranh châu Âu.
* Phân tích địa - chính trị
Tiêu điểm địa chính trị của Nhật Bản trong thời kỳ này coi Nhật Bản là trung
tâm của châu Á và của khối Đại Đông Á theo tinh thần dân tộc chủ nghĩa, mà thể
hiện rõ trong sách giáo khoa Nhật Bản như sau:
Chính đất nước chúng ta, nước Nhật Bản, một đất nước mà từ đó mặt trời mọc
lên hàng ngày, là đất nước nằm ở trung tâm Đại Đông Á, một khu vực bao gồm
Thái Bình Dương cùng những hòn đảo của nó, từ lục địa châu Á đến Ấn Độ Dương.
Theo ý chí của Thiên Hoàng, một trăm triệu đồng bào ta cần phải thực hiện công
cuộc lớn lao là xây dựng khu vực Đại Đông Á để không làm cho tổ tiên thất vọng.
chúng ta phải chia sẻ niềm vui hòa bình vĩnh viễn của thế giới và sự thịnh vượng
chung cho mọi dân tộc [Dẫn theo 1, tr.227].
Người Nhật mặc định đó là sứ mạng của đất nước họ. Như đã trình bày ở
chương 1, với tư tưởng địa chính trị như vậy phe quân phiệt trong chính phủ Nhật
từng bước phá bỏ hiệp ước Washington và nhanh chóng đi đến phát động 1 cuộc
chiến tranh bành trướng mở rộng ra toàn khu vực. Trên bước đường bành trướng
của mình ở châu Á, Nhật Bản chỉ gặp một trở ngại duy nhất là Hoa Kỳ. Tuy nhiên,
người Nhật hiểu rằng một cuộc chiến giành thắng lợi quyết định đối với Hoa Kỳ là
điều khó đạt được. Vì vậy, ngay từ đầu ý đồ của Nhật nhằm vào Hạm đội lớn mạnh
nhất của Hoa Kỳ là mong muốn đạt được một thỏa thuận ở châu Á, có lợi cho Nhật.
Bước vào cuộc chiến tranh thế giới để đạt được mục đích thì chiến lược quốc
gia của Nhật Bản chứa đựng 2 mục tiêu: thứ nhất là nhằm vào sự phong phú của các
biển phía Nam đặc biệt là dầu mỏ. Thứ hai, loại bỏ được lực lượng duy nhất có thể
đe dọa Nhật là Hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ. Chiến lược hải quân Nhật Bản
chú trọng nhiều hơn vào các hoạt phía Nam, đặc biệt là Philippines. Còn nguồn lực
tập trung vào mục tiêu chính là hạm đội của kẻ thù – hạm đội Thái Bình Dương [25,
p.62].
Năm 1948, đô đốc Morison tóm tắt những tác động của các cuộc tấn công của
Nhật Bản và Trân Châu cảng đã nói: “Người ta có thể tìm kiếm lịch sử quân sự vô
ích cho một hoạt động gây tử vong nhiều cho kẻ thù xâm lược” [29, p.132].
94
Về chiến thuật cuộc tấn công Trân Châu cảng tập trung vào tàu hơn là bể chưa
dầu, đó là một chiến dịch ngu ngốc. Hoạt động của nó đã không đủ để đạt được mục
tiêu làm tê liệt hạm đội Mỹ. Ở góc nhìn chính trị cao nó là một thảm họa. [25,
p.61].
Trong vòng 5 tháng, quân Nhật đã chinh phục một đại đế quốc mà họ mơ ước
từ hàng chục năm qua. Họ nắm trong tay 400.000.000 cư dân cũng như nhữngh
nguyên liệu chiến lược mà họ rất cần – dầu hỏa, cao su, thiếc, crôm, lúa
gạo…ngoại trừ sắt. Hải quân Hoàng gia Nhật giờ đây làm chủ trên Thái Bình
Dương, từ Midway cho tới biển Trung Hoa, từ Aleoutiennes cho tới Úc (Australia)
cũng như trong đại bộ phận của Ấn Độ Dương.
Quân đội hoàng gia giờ đây chiếm giữ một vành đai phòng thủ nổi tiếng tăng
cường sức mạnh cho nội địa, mà nó chắc chắn rồi các nước đồng mình không bao
giờ có thể xuyên thủng được.
Tất cả các mục tiêu đạt được cùng với 400.000 người, hay chỉ là 20% trong
tổng số quân hiện dịch của Nhật, với một tổn thất chỉ là 15.000 người chết và bị
thương. [1, tr.234].
Bàn về nguyên nhân dẫn đến những thành công của Nhật Bản khi tấn công bất
ngờ vào Trân Châu cảng có thể thấy rằng: Người Nhật đã có sự chuẩn bị tốt về tinh
thần, vật chất cả kế hoạch tác chiến cho một đòn tấn công quyết định vào hạm đội
Thái Bình Dương của Mỹ. Về phía người Mỹ họ đã không có một sự chuẩn bị tốt
nhất cho cuộc chiến. Đến nay đã có nhiều tài liệu nghiên cứu về tính bất ngờ của
Mỹ tuy nhiên chưa có đủ bằng chứng để khẳng định rằng người Mỹ biết trước về
cuộc tấn công ở Trân Châu Cảng. Chỉ trên những tài liệu có được tác giả nhận định
rằng người Mỹ đã chủ quan về cuộc tấn công này. Vì họ đã đánh giá không đúng
sức mạnh của hải quân Nhật Bản đặc biệt là thế hệ của tàu sân bay cũng như là khả
năng về phóng ngư lôi của người Nhật ở một địa hình không lý tưởng.
Xét đến cùng, cuộc tấn công của người Nhật đã cho người Mỹ đủ lý do để
bước vào cuộc đại chiến thế giới thứ hai cho dù mặt biển Thái Bình Dương chưa
phải là điều mà vị Tổng thống muốn.
Thắng lợi sau cuộc tấn công Trân Châu cảng, quân Nhật lần lượt chiếm các
95
đảo Guam (ngày 10-12), Wake (22-12) của Mĩ rồi đổ bộ lên đảo New Britain gần
quần đảo Salomons (23-1-1942) và từ đây tiến sang bờ đông đảo New Guinea (8-3),
trực tiếp uy hiếp Úc. Ngày giáng sinh năm 1941, Nhật chiếm Hng Kong. Ngày Tết
năm mới 1942 họ tiến vào đánh chiếm toàn bộ Mã Lai, Singapore, quân đảo
Andaman, phần lớn Miến Điện thuộc Anh, Indonesia của Hà Lan, Philippines của
Mỹ….Không dừng lại ở khu vực Đông Nam Á, Nhật Bản tiếp tục bành trướng hơn
nữa về cả hai phía Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương. Hải, lực, không quân Hoàng
gia quét sạch những nơi nào có quân Anh, Mĩ, Hà Lan, Úc. Đế quốc mặt trời đạt
đến giới hạn của nó [18, tr.98].
3.2.1.2. Trận chiến trên biển San Hô
Đến đầu năm 1942, làn sóng Nhật Bản đã đạt tới tầm vóc quan trọng đến mức
không có gì có thể ngăn nó lại. Nhưng sự kiện giữa trưa ngày 18 – 4, đoàn máy bay
oanh tạc Hoa Kỳ xuất hiện trên bầu trời Tokyo và trút bom xuống trước sự kinh
hoàng của người Nhật. Cuộc ném bom không gây nhiều thiệt về vật chất, nhưng đã
làm chấn động tâm lí giới lãnh đạo chiến tranh của Nhật, giúp cho quan điểm chiến
lược hải quân thắng thế.
Người ta thấy rằng nếu không tiếp tục tấn công đẩy lùi địch ra xa hơn nữa, thì
chẳng những vùng Đông Nam Á sẽ bị uy hiếp, mà ngay cả chính quốc Nhật Bản
cũng không thể yên được. Trên cơ sở đó, Bộ tư lệnh tối cao Nhật quyết định đẩy
mạnh tấn công trên hướng chính là Thái Bình Dương. Người ta cũng nhanh chóng
nhận ra ý nghĩa chiến lược trong kế hoạch đánh chiếm Midway của đô đốc
Yamamoto. Ngày 20-4, Tổng tham mưu trưởng hải quân Nagamo tuyên bố đưa kế
hoạch mang mật danh là “chiến dịch MO” sẽ được thực hiện ở biển San Hô phía
Nam Thái Bình Dương.
Với hai kết hoạch trên, cuộc tấn công mùa hè 1942 của Nhật Bản sẽ diễn ra
trên một không gian mênh mông suốt từ biển San Hô ở phía Nam qua Midway ở
trung tâm lên tận quần đảo Aleutian ở phía Bắc Thái Bình Dương. Họ sẽ tiến tới
giới hạn tột cùng của đế quốc Mặt Trời.
Từ Đông Nam Á, và Tây Thái Bình Dương, các lực lượng Nhật Bản liên tục
tiến xa về phía Nam. Vào tháng 4, các hàng không mẫu hạm của Nagumo, cũng
96
chính chúng đã tham gia vào cuộc tiến công ở Trân Châu cảng thực hiện một cuộc
không kích vào Ceylan (Sri –Lanka) đánh chìm hai tuần dương hạm và một hàng
không mẫu hạm của Anh, và hủy diệt một đoàn tàu quan trọng trong Ấn Độ Dương.
Có một hạm đội cũng đáng gờm như hạm đội của Nagumo tiến hành sự kiểm soát
trên các đảo Andaman trong vịnh Benganle, nó sẽ tạo đủ điều kiện cho Nhật chiếm
đóng, với sự tiếp tay của Vichy, căn cứ quan trọng ở Madagascar, để bảo đảm sự
chi phối toàn bộ trong vùng biển Ấn Độ. Đó là lý do tại sao người Anh ra tay hành
động trước. Ngày 05/05, họ đổ bộ vào Madagascar và chiếm hải cảng Diego Suarez.
Vào mùa thu cả hòn đảo bị chiếm hoàn toàn.
Chính cuộc ném bom của oanh tạc cơ Doolittle ở Nhật và tham vọng của Bộ
tham mưu Hoàng gia thúc giục nhanh chóng quân Nhật bành trướng thêm nữa khu
vực ảnh hưởng của họ. Họ xác định các mục tiêu chuyển biến theo hai đòi hỏi cấp
bách: một là bảo đảm sự an toàn ở các vùng đất xâm lược ở ngoại quốc và bảo vệ
chính quốc chống lại các cuộc không kích của phe đồng minh. Các mục tiêu này là
Ấn Độ, Úc, và Hawaii; tuy nhiên những mục tiêu này không được xem là mục đích
của cuộc xâm lăng. Người Nhật thúc đẩy mở rộng vành đai phòng thủ tại Thái Bình
Dương: Người Nhật muốn có quần đảo Aleoutienne ở phía Bắc, Midway ở trung
tâm và quần đảo Fidji, quần đảo Nouvelle – Caledonie ở phía Nam, và bán đảo
Papua ở Tân Ghi-nê, để đe dọa Hawaii và Úc, cắt đứt mọi thuyến đường tiếp tế của
Hoa Kỳ đi tới Úc và tăng cường sự bảo vệ chống lại các cuộc tấn công của không
quân đồng minh. Nhưng cũng chính trong việc cố gắng thực hiện các mục tiêu này
mà quân Nhật sẽ chứng kiến những sự thất bại đầu tiên của chúng.
Đầu tháng 5 – 1942, “chiến dịch MO” do phó đô đốc Shigeyoshi Inoue chỉ
huy bắt đầu thực hiện nhằm đánh chiến hải cảng Moresby trên bờ nam đảo New
Guiea thuộc biển San Hô. Chiếm được cảng này, Nhật Bản sẽ dễ dàng chiếm nốt
phần còn lại của hòn đảo lớn thứ hai trên thế giới, đồng thời đặt Úc trước một hiểm
họa sống còn [1], [18].
Trận đánh ở biển San Hô là cuộc quyết chiến một mất một còn giữa các hàng
không mẫu hạm, kéo dài trong năm ngày, từ ngày 04 tới ngày 08/05/1942. Đó là
cuộc giao chiến lớn đầu tiên của lịch sử hải quân trong đó các tàu chiến trên mặt
97
nước không bắn nhau một phát súng nào. May mắn cho người Mỹ, các cơ quan tình
báo “Magic” cung cấp trước cho phó Đô đốc Frank Fletcher thông tin về các kế
hoạch của Nhật. Quân Nhật dự tính chiếm Tulagi ở phía Nam quần đảo Salomon và
bao vây bằng một phân hạm đội mũi Đông của Tân Ghi-nê để chiếm hải cảng
Moresby. Cuộc đổ bộ ở Tulagi không gặp sự đối kháng vào ngày 03/05. Máy bay
của chiến hạm “Yorktown” chỉ đến nơi vào ngày hôm sau, quá trễ để tấn công hạm
đội hộ tống của Nhật, nhưng kịp lúc để ném bom các tàu bị bỏ rơi. Ngày 7/05, lực
lượng xâm lược xuất phát từ Rabaul bị phát hiện trong lúc nó trên đường hướng về
hải cảng Moresby. Phi cơ Hoa Kỳ lập tức tấn công và đánh chìm hàng không mẫu
hạm hạng nhẹ “Shoho”. Về phía mình, các máy bay Nhật trong cuộc truy tìm các
hàng không mẫu hạm Hoa Kỳ đã đánh chìm khu trục hạm “Sims”, tàu chở dầu
“Neosho”. Máy bay Nhật cũng đã phát hiện vị trí của các đơn vị Hoa Kỳ. Chiếc
“Lexington” và “Yorktown” đã bị trúng ngư lôi và bị oanh tạc.
Trận chiến kết thúc, người Nhật bị đánh chìm 2 tàu sân bay nhẹ, 1 khu trục
hạm và 3 tàu khác của địch trong khi chỉ mất 1 khu trục hạm và 1 tàu chở dầu, mỗi
bên có 1 tàu sân bay bị thương. Việc tàu sân o Lexington bị chìm. Takagi và giới
lãnh đạo Nhật đã có thể tuyên truyền rằng họ đã thắng. Nhưng thắng lợi thực sự
thuộc về Fletcher và phía Mỹ: Kế hoạch đánh chiếm Moresby của Nhật đã sụp đổ.
Lần đầu tiên kể từ Trân Châu cảng, một cuộc tiến công của Nhật Bản đã bị đánh
bại. Trong thời chiến thắng của đế quốc Mặt Trời, trận đánh biển San Hô đã chứa
đựng những triệu chứng không mấy tốt lành [18, tr.159].
Trận đánh biển San hô trước tiên chặn đứng sự tiến lên của quân Nhật và trận
đánh ở Midway sẽ làm đảo ngược diễn tiến của chiến tranh Thái Bình Dương
3.2.1.3 Hải chiến Midway
* Vị trí địa chiến lược của Midway
(Xem hình 3.2)
Midway (tiếng Anh, nghĩa là giữa đường) là hai hòn đảo kề nhau nằm chính
giữa con đường hàng hải xuyên Thái Bình Dương từ bờ biển phía Tây nước Mỹ
sang bờ biển Đông châu Á. Ai làm chủ nó, có thể kiểm soát di chuyển tàu bè từ Tây
bộ sang Đông bộ Thái Bình Dương và ngược lại. Midway được xem là “vọng gác
98
của Trân Châu Cảng” [dẫn theo 19, tr.397].
Chiếm được Midway: Mở rộng kiểm soát của Nhật Bản trên Thái Bình
Dương và vạch ra một tuyến phòng thủ cách xa bở biển Nhật ít nhất 3.500km, chạy
dài theo hướng Bắc – Nam từ quần đảo Aleutian ở phía Bắc, qua Midway đến các
quần đảo phía Nam Thái Bình Dương. Như vậy, toàn bộ vùng Thái Bình Dương ở
phía Tây phòng tuyến này sẽ thuộc về Nhật Bản. Yamamoto còn muốn một lần nữa
tiêu diệt hạm đội Thái Bình Dương của Hoa Kì, đặc biệt là các tàu sân bay đã thoát
khỏi thảm họa Trân Châu Cảng mà nay trở thành mối đe dọa đối với Nhật. [18,
tr.161]
Tuy nhiên, căn cứ Midway – cách xa tất cả các căn cứ của Nhật, gần Hawaii
của Mỹ. Vì vậy, nếu chiếm được thì khó giữ vì trở ngại trong vấn đề yểm trợ và tiếp
tế. Song sau khi phi đội Doolitte ném bom Tokyo vào ngày 18/6 thì buộc người
Nhật phải đi đến lựa chọn là mở rộng phạm vi phòng thủ.
*Diễn biến
Để đánh lừa quân Mỹ, Yamamoto đã lên kế hoạch để đồng thời chiếm giữ
Aleutians ở phía bắc Thái Bình Dương.Ngày 03/6, Hosogaya phải mở cuộc nghi
binh về phía quần đảo Aleoutienne, trong khi phần còn lại của hạm đội tập trung về
phía Midway. Ngày 04/6, các phi cơ của Nagumo phải bay là là trên đảo, ngày 05,
Kondo chiếm đảo san hô nhỏ bé có dạng chữ U này, tọa lạc ở chính giữa Thái Bình
Dương. Khi quân đội Hoa Kì tung ra cuộc phản công, các thiết giáp hạm mạnh và
nhanh của Yamamoto, nằm ngoài tầm hoạt động của các phi cơ Hoa Kỳ, sẽ cho nó
một cú ân huệ, sau khi các hàng không mẫu hạm đã hành họ nó nhừ tử. Một khi
Midway trở thành căn cứ không quân, nó sẽ dễ dàng làm thất bại các cuộc không
kích của hải quân Hoa Kỳ ở trung tâm Thái Bình Dương và vùng phía Nam. Nhật
sử dụng Midway như một bàn đạp cho cuộc xâm lấn quần đảo Hawaii [1, tr 244].
Máy giải mã của Mỹ (MAGIC) đã bắt được kế hoạch này và đội thuyền Thái
Bình Dương của quân đội Mỹ nên đã phái hai lực lượng đặc nhiệm, được thành lập
trên 3 hàng không mẫu hạm của họ đến Midway.
Lực lượng tấn công của Nhật bắt đầu giương buồm vào ngày 27/5, và vào
ngày 3/6, hai lực lượng đặc nhiệm Mỹ đã giáp mạt ở gần Midway. Sau đó, máy bay
99
trên hàng không mẫu hạm của Nhật đã tiến hành tấn công Midway, nhưng họ đã
thất bại trong việc trấn áp máy bay cất cánh từ mặt đất của quân đội Mỹ. Máy bay
của Nhật nhanh chóng được trang bị cải tiến với ngư lôi nhằm tấn công lực lượng
đặc nhiệm Mỹ. Tuy nhiên, sau nỗ lực sớm thất bại, máy bay trên hàng không mẫu
hạm Mỹ đa tìm thấy lực lượng tấn công ở Midway và tiêu diệt 3 trong số 4 hàng
không mẫu hạm Nhật ở đó. Hoạt động này diễn ra khi các chiến đấu cơ của Nhật
vẫn đang được trang bị cải tiến. 3 hàng không mẫu hạm này đã đắm vào này 5/6.
Cũng ngày 5/6, sau một cuộc do thám, quân đội Mỹ đã phát hiện vết tích của lực
lượng tấn công Nhật Bản. Ngày 7/6, quân Nhật giành được thắng lợi duy nhất, các
lực lượng tấn công đổ bộ vào Aleutians và một tàu ngầm Nhật đã đánh đắm hàng
không mẫu hạm Yorktown củ Mỹ [19, tr.400].
* Kết quả và tác động: Đánh chìm được chiếc Yorktown nhưng thiệt mất cả
bốn chiếc hàng không mẫu hạm (Akagi, Kaga, Soryu và Hiryu), 1 tàu tuần dương
hạm nặng, 6 chiếc tàu khác. Ngoài ra Nhật tổn thất 322 phi cơ mà 280 chiếc trên các
mẫu hạm mất 3.500 sinh mạng. Hoa Kỳ mất 1 tàu sân bay, 1 khu trục hạm, 147 phi
cơ và 307 sinh mạng [18, tr.180] . Như vậy, hải quân Nhật đã mất đi một phần lớn
sinh lực mà việc bù đắp khó khăn.
Các lực lượng Nhật dự trù đổ bộ lên chiếm đảo Midway phải rút lui. Vị tư
lệnh Mỹ là đô đốc Raymond A Spruance như thế đã chiến thắng rất vẻ vang và ông
không đuổi theo các chiến hạm Nhật.
Trận hải chiến Midway là trận quyệt định của trận chiến trong Thái Bình
Dương và như thế số phận của đế quốc Nhật đã không được quyết định trong vòng
của vị trí Nhật nhưng trong vòng 150 dặm cách xa Hawaii. Mọi mục tiêu chiến lược
của kế hoạch đánh chiếm Midway đã tiêu tan. Hải quân Hoàng gia đã mất đi một
quả đám thép. Người Mỹ bảo vệ được “con đê” của họ, giữa được quyền kiểm soát
Thái Bình Dương [18], [21].
Tại mặt trận châu Phi quân Đức – Ý dưới quyền tướng Rommel đã chiến
thắng tại Bir Hacheim nhưng mặc dầu ông Rommel đã tiến đến El Alamein nhưng
hai cường quốc phe Trục là Đức và Nhật không còn hy vọng gì tiến quân gặp nhau
tại Ai Cập, vùng kênh đào Suez hay Hồng Hải được vì Nhật Bản không còn hàng
100
không mẫu hạm lớn để tung hoành tại Ấn Độ Dương nữa.
Như vậy, với thất bại ở Midway, sự đe dọa của người Nhật đã không còn nữa.
Người Mỹ lập tức lấy lại quyền phát động những cuộc hành quân trên Thái Bình
Dương. Chiến thắng ở Midway cho thấy một cách tất yếu cho tính ưu việt về tinh
thần và vật chất của Hoa Kỳ. Vào năm 1943, Nhật Bản phải giải quyết dứt khoát về
sự phòng vệ của mình, đối mặt với một quốc gia năng động và trang bị tối đa, sự
phòng vệ sẽ chỉ có ý nghĩa là sự tàn phá với thời hạn không ít thì nhiều.
3.2.2. Giai đoạn 2: Quân Đồng minh phản công
3.2.2.1. Trận chiến giành quần đảo Salomons - Guadalcanal
Chiến trận ở Midway đã chặn đứng quân Nhật trong trung tâm Thái Bình
Dương và chiến trận ở biển San Hô làm thất bại cuộc tấn công của Nhật ở hải cảng
Moresby, Tân – Ghine. Trong mùa hè, Nhật cố gắng mở rộng vành đai phòng thủ
bằng cách đẩy các mũi tiến công về mỗi phía của biển San Hô, mũi này về hướng
hải cảng Moresby, còn mũi kia về hướng phía Nam của quần đảo Salomon. Đã
chiếm giữ hải cảng Tulagi, lúc đó chúng bắt đầu xây dựng một phi trường ở
Guadalcanal, phía bên kia của eo biển. Nếu thành công trong mưu đồ, quân Nhật sẽ
nắm quyền làm chủ toàn bộ trên biển San Hô, cắt đứt những con đường tiếp tế của
Hoa Kỳ về phía nước Úc, sẽ đe dọa nước này cũng như những căn cứ của Hoa Kỳ ở
Nouvelle – Caledonie và Nouvelle –Hebrides. Vì họ tin rằng đến mùa hè 1943 thì
may ra người Mỹ mới đủ sức phản công, người Mỹ mới đủ sức phản công. Người
Nhật tỏ ra không vội vã trong việc hoàn thành xây dựng sân bay này. Bằng lao động
chân tay và phương tiện cơ giới thô sơ, họ dự tính làm xong trong hai tháng [1],
[18].
Về phần mình, phe đồng minh, nếu thành công trong việc đẩy lùi quân Nhật
về phía Bắc, nắm được quyền kiểm soát Tân – Ghine và quần đảo Salomon, điều
này sẽ cho phép họ đi vòng ra phía sau quân Nhật và cô lập Rabaul và Kavieng, các
căn cứ hải quân Nhật ở quần đảo Bismarck trong khu vực Tây Nam Thái Bình
Dương.
Tại Melbourne (Úc), Bộ tư lệnh của tướng Mac Arthur chịu trách nhiệm chính
ở khu vực Tây-Nam Thái Bình Dương đã soạn thảo xong một kế hoạch phản công
101
chiến lược tại khu vực này. Phối hợp với Nimitz và xin thêm viện binh từ
Washington Mac Arthur dự định phản công theo 3 bước: bước 1: đánh chiếm căn
cứ không quân của hải quân Nhật ở Tulagi; bước 2: chiếm phần còn lại của quần
đảo Salomons và bước 3 chiếm lại New Guinea cùng căn cuws Rabaul trên đảo
New Britain.
Khi biết quân Nhật chiếm Guadalcanal và xây dựng sân bay ở đây, Mac
Arthur đã hiểu ngay ý đồ của họ. Ông quyết định đập tan ý đồ trong kế hoạch phản
công của mình. Thế là bước 1 bổ sung nhiệm vụ chiến giữ Guadalcanal và trở
thành “chiến dịch Watchtower” (Tháp canh), được Washington phê chuẩn giao cho
hạm đội Thái Bình Dương cùng các lực lượng của Mac Arthur thực hiện [18,
tr.184-185].
Chuẩn đô đốc Fletcher, người chiến thắng ở biển San Hô và Midway, được
Nimitz chọn cử làm tư lệnh chiến dịch. Dưới quyền công chuẩn đô đốc Richmond
Kelly Tuner và thiếu tướng Alexnder Vandegirft chỉ huy 17.000 thủy binh đổ bộ
chiếm đóng các mục tiêu.
Ngày 7/8 chiến dịch phản công đầu tiên của Hoa Kỳ ở Tây Nam Thái Bình
dương bắt đầu. Với sự tham gia của 82 tàu chở quân và hạm đội hộ tống, được sự
yểm trợ của 3 tàu sân bay, 1 thiết giáp hạm, 5 tuần dương hạm và 16 khu trục hạm,
đã đổ bộ quân cùng một lúc xuống Tulagi và Guadalcanal.
Cuộc đổ bộ của người Mỹ làm cho quân Nhật ở đây vô cùng bất ngờ, chạy
toán loạn. Trong đêm đó phó đô đốc Gunichi Makawa đem một hạm đội gồm 5 tuần
dương hạm nặng, 2 tuần dương hạm nhẹ và 1 khu trục xâm nhập vào giữa vùng biển
Guadalcanal và Tulagi đánh chìm 4 tuần dương hạm Mỹ, giết hại hơn 1000 người,
700 người bị thương. Hạm đội Mỹ buộc phải rút về Noumea (đảo thuộc Tân
Caledonia). Thắng lợi này đã làm cho bộ tư lệnh hành quân Nhật nhận định sai lầm
về sức mạnh của hạm đội Mỹ. Vì vậy phạm phải sai lầm này đến sai lầm khác.
Những trận hải chiến liên tục xảy ra như mong muốn vủa Yamamoto. Vị tư
lệnh hạm đội liên hợp muốn biến Gudalcanal trở thành cái mồi nhử hải quân Mỹ
đến đây để tiêu diệt. Ở đây người Mỹ đã chấp nhận giao chiến. Nhưng thất bại
thuộc về phía Nhật.
102
Tổn thất phía Mỹ: mất 2 đô đốc tài ba, 3 tàu sân bay bị hư nặng và nhiều chiến
hạm các loại khác. Trong khi đó Nhật Bản về hạm đội thì thiệt hại ít hơn Mỹ, những
về số máy bay thì bị hạ lên đến 893 chiếc [18, tr.195]. Thực sự đây là cuộc chảy
máu của con tim đối với người Nhật. Vì nền kỹ nhệ và nền sản xuất của Nhật khó
mà thay thế được những mất mát này. Không những vậy, số lượng phi công mà
người Mỹ mất cũng ít hơn, và họ sẽ sẵn sàng thay thế được những mất mát đó.
Ngược lại Nhạt mấ 2.362 phi công tài ba, được tôi rèn trong chiến thắng từ Trân
Châu cảng, Ấn Độ Dương. Và người Nhật còn lâu mới tạo ra được những con người
như vậy.
Như vậy, về mọi mặt, với thảm bại Guadalcanal, gió đã xoay chiều. Sự thuận
lợi không còn ở phía Nhật Bản nữa. Mỹ đã bắt đầu phản công và thắng lợi [18,
tr.196].
3.2.2.2. Hải chiến quần đảo Philipines
* Vị trí địa - chiến lược
Philippines bao gồm hơn 7000 đảo lớn nhỏ, trong đó có các đảo lớn, đông dân
là Luzon, Mindanao, Negros, Palawan, Mindoro, Leyte, Sebu nằm trải dài theo
hướng Bắc Nam khoảng 1.800 km. Nó là một chiếc cầu tự nhiên, tiếp cận với Đài
Loan (thuộc Nhật) và phía Nam là quần đảo Indonesia (thuộc Hà Lan) [18. Tr.117].
Quần đảo Philipines trước là thuộc địa của Tây Ban Nha. Sau cuộc chiến tranh
Mỹ - Tây Ban Nha (1898) được giải phóng nhưng vẫn phụ thuộc Hoa Kỳ về nhiều
mặt, nhất là quốc phòng, an ninh, đối ngoại. Manila, thủ phủ Philippin là nơi đặt
tổng hành dinh lực lượng Mỹ tại Viễn Đông. Đối với Mỹ đây là tấm lá chắn hình
vòng cung, che chở cho Mỹ từ xa. Giữa cánh cung Philippin và cánh cung kéo dài
từ quần đảo Aleutiennes với quần đảo Hawaii là một chuỗi căn cứ quân sự của Mỹ
đặt tại Guam, Wake, Midway… Ngay trên lãnh thổ Philippin cũng có căn cứ không
quân Clarkfild và căn cứ hải quân đặt trong vịnh Subic thuộc loại lớn nhất châu Á
với những pháo đài bay B.17, B.19 đặt tại căn cứ không quan Clark, bàn tay của Mỹ
có thể vươn tới Nam Nhật Bản, Đài Loan, Đông Dương, Nam Dương, Mã Lai..
Philippines còn là tiền đồn để người Mỹ tăng cường sức mạnh chính trị ở Viễn
Đông và kiềm chế Nhật Bản. Philippines nằm chắn ngang các tuyến đường vận
103
chuyển giữa Nhật Bản và vùng biển phía Nam. Từ Philippines mở các con đường ra
biển, tại đây hải quân Mỹ xây dựng hạm đội châu Á, sử dụng nó để chặn đoàn tàu
của Nhật, hạm đội này sẽ luôn là mối đe dọa cho tàu Nhật Bản [14], [18], [25].
Mặt khác, xét về phương diện chiến lược phòng thủ: Philippines là vòng cung
phòng ngự từ xa của bờ phía Tây lục địa Mỹ. Vòng cung thứ hai là quần đảo
Aleutian và Hawaii. Giữa hai hệ thống phòng thủ này có những đảo sân bay như
Guam, Wake, Midway. Còn trong tiến công thì Phillipines là những “tàu sân bay”
không chìm của đế quốc Mỹ. Với là pháo đài bay tân kì B.17, B.18 đậu tại sân bay
Clark thì Hoa Kỳ lúc nào cũng có thể giương nắm đấm đến tận Đài Loan, miền
Nam Nhật Bản, Đông Dương, Mã Lai, Indonesia. Tàu ngầm của Hoa Kỳ bất cứ lúc
nào cũng có thể ngăn cản, đe dọa sự qua lại bình thường ở Biển Đông và ở eo biển
Malacca, eo biển Đài Loan.
Về ý nghĩa của chiến dịch Philippine đối với người Nhật, đô đốc Toyoda đã
giải thích cho những người Mỹ thẩm vấn ông như sau:
Nếu chúng tôi thất bại trong các chiến dịch tại Philippines, cho dù hạm đội có
thể thoát được, thì con đường vận chuyển hàng hải về phía Nam cũng hoàn toàn bị
cắt đứt. Nếu hạm đội quay về vùng biển Nhật Bản, chúng không được cung cấp
dầu; còn nếu chúng ở lại vùng biển phía Nam, chúng không thể nhận tiếp liệu vũ
khí đạn dược. Không có cách nào cứu vớt được hạm đội nếu mất Philippines [38].
Với người Nhật, phải bằng mọi giá, không quân của hải quân Nhật phải quét
sạch sức mạnh của không quân Hoa Kỳ tại đây. Vì nó đe dọa cho sự an toàn của
miền Nam Nhật Bản và sự đi lại tự do của Nhật Bản về phương Nam.
Bộ tổng tư lệnh Hoa Kỳ ở Viễn Đông đặt tại đây, dưới quyền của Đại tướng
Mac Arthur. Về phía Nhật, trung tướng Masaharu Homma, người nguyên soái
Terauchi, Tổng tư lệnh chiến trường phương Nam đề cử làm tư lệnh hành quân ở
Philippines – ông là người có kinh nghiệm chiến đấu theo lối phương Tây, từng học
tám năm trong quân đội Anh và đã cũng quân Anh đổ bộ lên đất Pháp năm 1918.
Quân Nhật dưới sự tổng chỉ huy của Homma đã tiến hành những cuộc đổ bộ ở
Lingayen, Manila, Bataan và Corregidor. Tình hình nguy kịch, Tổng thống Quezon
của Phillipines và tổng tư lệnh Mac Arthur kêu gọi sự giúp đỡ tăng viện nhưng
104
không được Hoa Kỳ tiếp tục tăng viện.
Mac Arthur bị điều đi Úc, Wainright thay thế sự thất bại cuối cùng ở Bataan,
76 ngàn quân Hoa Kỳ - Phi đầu hàng. Philippines hoàn toàn rơi vào tay quân Nhật.
Sau trận Midway, mặt trời Nhật Bản bị chặn đứng, trận Guadalcanl gió đã
xoay chiều, phe Đồng minh bước vào giai đoạn phản công trên khắp chiến trường,
trên đất liền, Nhật Bản rơi vào cuộc khủng hoảng chính trị, thay đổi nội các. Trước
tình hình đó, như lời hứa danh dự của tướng Mac Arthur với Philippines, Mac
Arthur muốn trở lại.
*Sự trở lại của Hoa Kỳ
Theo quan điểm của Mac Arthur, con đường đánh bại Nhật Bản dứt khoát phải
đi qua Philippines và trận đánh ở đây có một vai trò then chốt. Do đó sau khi chiếm
xong New Guinea để làm bàn đạp, lại được chiến thắng Saipan của đô đốc Nitmitz
thôi thúc, Mac Arthur muốn tiến đánh ngay Philippines. Mặt khác, theo ông :
“Philippines là lãnh thổ thuộc Hoa Kỳ mà ở đó các lực lượng đơn độc của chính ta
đã bị đánh bại. Trên thực tế chúng ta đã không đủ khả năng giữ lời cam kết đối với
cộng đồng 17.000.000 người Philippines luôn trung thành với nước Mỹ rằng sẽ luôn
bảo vệ họ”. Nếu chúng ta vẫn không tiến hành giải phóng họ khi tay kẻ thù trong
thời gian sớm nhất có thể được, thì người Philippines sẽ tin rằng người Mỹ không
khi nào chịu hi sinh xương máu cho họ. Đó sẽ là một thất bại quan trọng về tâm lí
và chính trị đối với Hoa Kỳ trong nhiều năm sau [dẫn lại 18, tr.237].
Tuy nhiên, tại Washington ít có ai chia sẻ quan điểm của ông. Các lãnh đạo
hải quân, Bộ Tổng tham mưu lục quân đều phản đối. Họ cho rằng con đường đổ bộ
Đài Loan xong tiến đánh Okinawa là con đường ngắn nhất tiến đến Nhật Bản.
Đại tướng G.Marshall, tổng tham mưu trưởng lục quân đã nhắc nhở Mac
Arthur một cách dứt khoát rằng “không được để những cảm xúc cá nhân và những
vấn đề chính trị ở Philippines” che lấp mục đích trên hết của chiến tranh là giành
chiến thắng bằng con đường ngắn nhất. Ông cũng lí giải “bỏ qua” không có nghĩa là
“bỏ rơi” dân chúng Philippines [18, Tr.238].
Trong cuộc gặp gỡ tay ba diễn ra giữa MacArthur, Nimitz, và Tổng thống
Roosevelt đã giúp xác định Philippines là mục tiêu chiến lược. Cuối cùng việc mục
105
tiêu Philippin đã được thông qua sau khi cân nhắc việc tấn công Đài Loan đòi hỏi
phải huy động khoảng 12 sư đoàn Lục quân và Thủy quân Lục chiến, một lực lượng
vượt quá khả năng mà Mỹ có thể cung ứng được cho cả mặt trận Thái Bình Dương
vào cuối năm 1944, trong khi toàn bộ Lục quân Úc còn phải đang tiếp chiến tại
quần đảo Solomon, New Guinea, Đông Ấn thuộc Hà Lan và trên nhiều hòn đảo
khác tại Thái Bình Dương. Một điều kiện chỉ có thể đáp ứng được sau khi Đức thua
trận để có thể dành ra nhiều lực lượng hơn từ Châu Âu.
* Kế hoạch của Nhật Bản
Bộ Tổng tham mưu lục quân, hải quân Hoàng gia đã thông qua kế hoạch mang
tên “Chiến dịch Sho – Go” (Chiến thắng). Đây là kế hoạch phòng thủ từ xa đến gần.
Đoán biết chính xác được ý đồ chiến lược của Mỹ. Người Nhật dự định đánh địch
đổ bộ ở 4 khu vực: Philippines, Đài Loan – Okinawa, chính quốc Nhật Bản và quần
đảo Kurile ở phía Bắc. Phần 1 của kế hoạch này (mang tên Sho -1) chính là chiến
dịch phòng thủ Philippines được gọi là trận đánh quyết định sẽ diễn ra trên cả mặt
đất và trên biển.
Trong trận hải chiến tại Philippines có nhiều trận hải chiến xung quanh vùng
biển này. Trong đó trận chiến vịnh Leyte là trận hải chiến lớn nhất trong thế chiến II
có tác động lớn đến kết cục của cuộc chiến.
* Hải chiến vịnh Leyte
Đảo Leyte nằm giữa quần đảo Philippines, phía Đông Bắc có đảo Sammar tiếp
liền tới đảo chính, phía Nam là Mindanao, đảo lớn thứ hai. Như vậy, chiếm được
Leyte sẽ có một căn cứ trọng yếu để chống chế toàn quần đảo. Vịnh Leyte sâu kín
tiếp giáp bãi biển phía Đông đảo Leyte bằng phẳng chạy dài suốt 35 dặm rất thích
hợp với việc đổ bộ. Tuy nhiên, bên trong bãi biển đó là những ruộng lúa đàm lấy.
Phần lớn còn lại của đảo là núi non và rừng rậm gây khó khăn cho mọi hoạt động
quân sự.
Trên đảo có 1 triều dân, đa số sống bằng nghề nông. Một bộ phận người
Philippines cùng 3000 người Hoa và số ít người Âu, Mĩ, Nhật sống tại thành phố
thủ phủ Tacloban ở phía Bắc và thị trấn Dulag phía Nam Đảo. Cho đến phút cuối
cùng, sư đoàn 16 của tướng Makino trấn giữ Leyte vẫn không hay biết gì về nguy
106
cơ sắp ập lên đầu họ [18, Tr.244].
Trận hải chiến tại vịnh Leyte đã xảy ra giữa các hạm đội Nhật và Mỹ diễn ra
ngày 23-26 tháng 10 năm 1944 tại vịnh Leyte của Philippines. Trận này gồm bốn
trận đụng độ là trận biến Sibuyan ngày 24/10, trận co Eurugao 24-25 tháng 10, trận
ngoài khơi Samar (25/10) và trận ngoài khơi mũi Engano (25-26 tháng 10). Leyte
là trận hải chiến lớn nhất trong lịch sử từ xưa đến nay. Nếu như trong trận Jutland
của cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất có 151 chiến hạm Anh đánh nhau với 99
chiến hạm Đức, thì trong trận Leyte số chiến hạm tham chiến là 282 trong đó Hoa
Kỳ có 210 chiếc và Nhật Bản 64. Đây cũng là những trận hải chiến mà lần đầu tiên
máy bay Nhật Bản sử dụng chiến thuật cảm tử Kamikaze. Xét về tương quan lực
lượng tại thời điểm này, Nhật Bản rõ ràng yếu thế hơn cả về số lượng máy bay lẫn
về số lượng tàu chiến, tàu ngầm, thuyến chiến rất ít tầu hỗ trợ.
Bảng 3.1: Bảng thống kê lực lượng tham gia trận Leyte
Lực lượng tham gia Liên quân Mỹ - Nhật Bản
Úc
Tàu sân bay hạng nặng 8 8
Tàu hộ tống 18 9
Tàu chiến nhẹ 12 14
Tàu tuần dương 24 6
Tàu khu trục 141 35
Máy bay 1500 300
Nguồn: http://en.wikipedia.org/wiki/Battle_of_Leyte_Gulf
Ngày 20 tháng 10, quân Mỹ đã chiếm đảo Leyte như là một phần chiến lược
nhằm cô lập Nhật ra khỏi các quốc gia bị Nhật Bản chiếm đóng trong vùng Đông
Nam Á và chia cắt lực lượng Nhật Bản ra khỏi những nguồn cung cấp dầu mỏ chiến
lược. Hải quân Nhật Bản đã được huy động hầu như toàn bộ lực lượng có thể có
nhằm ngăn chặn cuộc đổ bộ này của quân Đồng Minh bao gồm lực lượng của hạm
107
đội 3 và hạm đội 7 của Mỹ và Úc.
Các chiến hạm Nhật chia ra ba hạm đội. Hạm đội thứ nhất dưới quyền dưới
quyền đô đốc Ozawa gồm một hàng không mẫu hạm đã dự trận Trân Châu cảng, 3
mẫu hạm nhỏ và hai thiết giáp hạm từ Nhật đến. Các phi công của hạm đội này
chưa được huấn luyện đầy đủ nên được lệnh đáp xuống các phi trường trên bộ sau
khi bay đi tấn công chiến hạm Mỹ. Nhiệm vụ của đô đốc Ozawa là dẫn dụ hạm đội
của đô đốc Halsey ra khỏi vùng vịnh Leyte và nơi đổ bộ. Trong khi ấy hạm đội
Nhật thứ hai dưới quyền đô đốc Kurita với lực lượng chính gồm 5 thiết giáp hạm
vượt eo biển San Bernando và cùng một lúc một hạm đội nhỏ khác có hai thiết giáp
hạm cũ và dưới quyền đô đốc Shima vượt eo biển Surigao ở phía Nam. Hạm đội thứ
hai và hạm đội thứ ba của Nhật tràn vào diệt các tàu Mỹ đổ bộ quân trong vịnh
Leyte như hai gọng kìm rồi sau đấy đối phó với hạm đội Halsey. Nhưng các nhược
điểm của người Nhật là thiếu không lực, liên lạc với nhau rất sút kém, thực hiện các
cuộc hành quân chậm trễ với phối hợp kém.
Trong khi ấy, các chiến hạm Mỹ được phân phối ra hai hạm đội. Hạm đội dưới
quyền đô đốc Halsey gồm 5 hàng không mẫu hạm lớn, 6 mẫu hạm nhỏ và thiết giáp
hạm chạy về hướng Bắc để chận đánh đối phương. Còn hạm đội thứ hai dưới
quyền đô đốc Kinkaid gồm thiết giáp hạm củ và 18 mẫu hạm nhẹ lo việc yểm trợ
cho cuộc đổ bộ của tướng Mac Arthur. Cả hai vị đô đốc Mỹ đều không biết rõ trách
nhiệm của nhau. Ông Halsey cho rằng ông Kinkaid vẫn giữ vị trí gần bãi biển đổ
bộ, còn ông Kinkaid lại cho rằng ông Halsey vẫn phòng thủ mặt Bắc của ông. Đô
đốc Kinkaid phá hủy được hạm đội thứ ba của Nhật trong eo biển San Bernando sau
khi bị tổn thất thiết giáp hạm Musashi bị đắm vì ngư lôi và bom. Nguyên nhân là đô
đốc Halsey không để chiến hạm nào canh phòng eo biển này trong khi ông tấn công
vào các hàng không mẫu hạm dưới quyền đô đốc Nhật Ozawa. Đô đốc Kurita đã
gặp được đa số hàng không mẫu hạm của đô đốc Halsey và ông có thể thắng lợi nếu
bình tỉnh và chỉ huy phối hợp cuộc tấn công thay vì để mọi chiến hạm tự do đánh
nhau. Ông cũng không có gan dạ xông tới tấn công vào các tàu đổ bộ trong Leyte
nữa.
Trong trận hải chiến quanh quần đảo Philippines từ sáng 22 đến sáng 26-10,
108
Mục tiêu của Nhật là hủy diệt đoàn tàu đổ bộ Mỹ đã không đạt được, hải quân Mỹ
chỉ bị thiệt hại nhẹ: 1 tàu sân bay nhẹ, 2 tàu sân bay hộ tống cỡ nhỏ và 3 khu trục
hạm bị đánh chìm. 1 tàu sân bay nhỏ và 1 khu trục hạm bị thương. Trong khi đó,
phía Nhật bị tổn thất rất nặng sau trận này họ không còn tham gia bất kỳ được cuộc
chiến nào quy mô trên biển nữa, gần như lực lượng của họ đã mất: 1 tàu sân bay
nặng, 3 tàu sân bay nhẹ, 3 thiết giáp hạm, 6 tuần dương hạm nặng, 3 tuần dương
hạm nhẹ và 10 khu trục bị đánh đắm, mất 300.000 tấn trọng tải tàu, bằng ¼ tổng
khối lượng tàu Nhật bị chìm kể từ đầu chiến tranh. Về số người chết, quân đồng
minh mất 1.500 người thì Nhật mất 10.000 người. Những tổn thất không thể bù đắp
này làm cho hải quân Hoàng gia suy yếu đến mức chỉ đóng vai trò thứ yếu trong
giai đoạn còn lại của chiến tranh [18],[35].
Sau trận này tướng Mac Arthur tiến vào miền trung Philippines, đến Mindoro
(15-12), lên đảo Luzon ngày 9-1-1945 và cắt đường giao thông giữa Nhật Bản và
vùng nguyên liệu tại Nam Á Châu.
Người Nhật muốn có một “Trận đánh quyết định” ở Phillippines, họ đã được
toại nguyện, nhưng người Nhật đã thất bại và chịu tổn thất nặng nề. Trận hải chiến
này là một đại bại của hải quân Nhật và có thể xem là trận Trafalgar của Nhật Bản.
[21, Tr.163]. Từ đó trở đi, Nhật Bản không còn khả năng tấn công bằng hải quân
nữa. Hầu như tất cả các tầu chiến, tầu chở dầu lớn của Nhật Bản không còn khả
năng ra khơi cho đến khi cuộc chiến kết thúc. Không những vậy, đây còn là một
thất bại chiến thuật: lục quân Nhật ở Philippines hết hi vọng ở sự trợ giúp của hải
quân.
Như vậy, với thất bại này, người Nhật đã không đánh đuổi được lực lượng
xâm chiếm Đồng Minh khỏi Leyte đồng nghĩa với việc mất Philippines không sao
tránh khỏi, mà điều này sẽ dẫn đến việc Nhật Bản sẽ bị cắt đứt khỏi những lãnh thổ
chiếm đóng tại Đông Nam Á. Những nơi này đang cung cấp nguồn nguyên liệu
sống còn cho Nhật Bản, đặc biệt là xăng dầu cho tàu chiến và máy bay, và vấn đề
này càng thêm trầm trọng vì các xưởng tàu và nguồn tiếp liệu khác như đạn dược
đều ở ngay tại chính quốc. Mặt khác, việc mất Leyte đã mở đường cho việc tấn
công quần đảo Ryukyu trong năm 1945.
109
3.3. Những yếu tố ảnh hưởng đến cuộc chiến tranh Thái Bình Dương
Nhận định về những thắng lợi của các bên nhà bình luận quân sự Philippe
Mason đã có những bình luận về các bên tham chiến:
Những tư liệu trong tập hồ sơ lưu trữ của Nhật Bản cho biết, trên văn bản,
cuộc chiến tranh Thái Bình Dương được phát động từ ngày 1 tháng 12 năm 1941.
Trong ngày hôm đó, Đại tướng Hideki Tojo (thay Hoàng thân Fuminaro Konoye
làm thủ tướng từ ngày 17/10/1941) đã hoàn tất mọi việc chuẩn bị, trình bày trước
nội các kế hoạch chiến lược phát động cuộc chiến tranh Thái Bình Dương, được
Hoàng đế Hirohito phê chuẩn và ấn định mở đầu cuộc tiến công vào ngày
7/12/1941.
Cùng với bản kế hoạch quân sự, tướng Tojo cũng đã nghiên cứu một kế hoạch
chính trị nhằm độc chiếm toàn bộ Đông Nam Á, loại bỏ tất cả những người da trắng
Châu Âu để xây dựng một “khối thịnh vượng chung” tạo điều kiện cho Nhật Bản
có một nền kinh tế độc, nhờ có nguồn dầu mỏ Indonexia, thiếc và nhất là cao su
Malaixia. Công cuộc bành trướng chỉ liên quan tới việc tước đoạt những quyền lợi
của Hà Lan và Anh tại các xứ thuộc địa trong khu vực mà nhất thiết phải xảy ra một
cuộc chiến tranh với Mỹ. Với vị trí chiến lược của Philippines, Mỹ có thể đe dọa
tuyến giao thông hàng hải từ Nhật Bản xuống khu vực Đông Nam Á. Chính vì vậy
bộ Tư lệnh quân sự Nhật Bản phải tính đến chuyện tiêu diệt phần lớn lực lượng chủ
yếu của Mỹ tại Trân Châu Cảng ở Hawaii bằng một cuộc tiến công bất ngờ.
Để chống lại sự phản công của Mỹ, Bộ tham mưu của Thiên hoàng cũng đã
phải tính đến chuyện tạo một vòng đai phòng thủ bao trùm Mianma, Malaixia,
Inđônêxia, New Guinea, và các quần đảo Thái Bình Dương. Những tư liệu lưu trữ
cũng ghi rõ, hồi đó Nhật Bản tin chắc rằng người lính của Thiên hoàng hơn hẳn lính
Mỹ. Phía Mỹ sẽ phải đương đầu với một cuộc chiến tranh kéo dài, hao mòn, tốn
kém và cuối cùng sẽ phải thương lượng với Nhật Bản, chấp nhận để Nhật Bản làm
bá chủ bành trướng trên toàn cõi Nam Dương. Giả thiết này được coi như có khả
năng xảy ra, vì lúc này Nhật Bản tham gia liên minh quân sự tay ba Đức – Italia –
Nhật Bản. Chiến tranh đã bùng nổ ở châu Âu, nay lại bùng nổ ở Thái Bình Dương.
Mỹ phải chiến đấu trên hai mặt trận, trong khi Nhật Bản chỉ dồn sức vào một mặt
110
trận, vì đã kí hiệp ước “trung lập, không xâm phạm lẫn nhau” với Liên Xô cũng như
đã trung lập khi Đức tiến hành đánh Liên Xô. Trên thực tế khi bị Đức thúc ép chính
quyền Nhật Bản vẫn giữ quyết định không tham chiến cùng với Đức tiến đánh Liên
Xô để chiếm đoạt những nguồn lợi kinh tế vùng Xibia, những lợi ích này không
thấm thía gì so với tài nguyên chiến lược ở Đông Nam Á. Đó là những lí do khiến
cho nội các Tojo ung dung tiến hành một cuộc chiến tranh độc lập, riêng rẽ tại châu
Á, song song với cuộc chiến tranh Mỹ, Anh phải tiến hành ở châu Âu, và cuộc
chiến tranh châu Âu càng có lợi cho Nhật Bản.
Để tiến hành thắng lợi cuộc chiến tranh chinh phục châu Á, cũng là cuộc chiến
tranh chống Mỹ và đồng minh của Mỹ, Nhật Bản dựa vào đội quân thiện chiến,
được huấn luyện chu đáo, tích lũy được nhiều kinh nghiệm trong cuộc chiến tranh
xâm lược Trung Quốc, có một tinh thần hi sinh quả cảm đặc biệt vì Thiên Hoàng.
Bên cạnh lục quân, Nhật Bản còn có một lực lượng hải quân rất đáng gờm không
thua kém lắm so với hải quân Mỹ. Hơn nữa, Nhật Bản còn có một lực lượng máy
bay của hải quân có ưu thế hơn lực lượng không quân của Mỹ và các nước đồng
minh trong khu vực Thái Bình Dương. Trước ngày tiến đánh cảng Trân Châu, Nhật
Bản có 11 tàu thiết giáp, 11 tàu sân bay, 34 tàu tuần dương, 110 tàu phóng ngư lôi,
1 250 máy bay hiện đại, trong khi Mỹ và đồng minh tại khu vực Thái Bình Dương
chỉ có 10 tàu thiết giáp, 4 tàu sân bay, 36 tàu tuần dương, 90 tàu phóng ngư lôi, 1
100 máy bay loại cũ.
Với bản kế hoạch chiến lược có vẻ hợp lý này, Bộ Thống soái tối cao Nhật
Bản vốn thiếu hiểu biết về đối phương lại quá tự tin đã không tính đến những yếu tố
bất lợi cho Nhật Bản, như tiềm năng kinh tế nhất là nguồn năng lượng dồi dào của
Mỹ, cộng với nỗ lực của nhân dân Mỹ khi phải đương đầu với một thách thức và
phải hoàn thành nhiệm vụ chống trả. Trên thực tế, mặc dù huy động suốt 3 năm
chiến tranh đến năm 1944 sản xuất công nghiệp Mỹ đã phát triển gấp 10 lần Nhật
Bản tính từ cột mốc đầu tiên năm 1941. Về mặt quân sự, quân đội Nhật Bản dù gắn
bó chặt chẽ và có ý chí quyết chiến, đến thời điểm năm 1944 vẫn thua Mỹ về mặt
hiện đại hóa. Đến lúc này thì hải quân Nhật Bản đang thụt lùi so với những ngày
đầu tiến công cảng Trân Châu và tiến đánh Mã Lai. Lực lượng máy bay đang trở
111
thành “đứa con nghèo nàn” của hải quân. Tuy được trang bị những vũ khí tối tân
nhưng ngư lôi chứa oxy và tuy có các loại máy bay khu trục mang số hiệu Zero rất
lợi hại, nhưng hải quân Nhật Bản vẫn thiếu các thiết bị do thám và dẫn đường hiện
đại như sonar, radar... Đã thế, hải quân Nhật Bản phải hoạt động trên một đại dương
rộng lớn, nhưng lại thiếu các tàu vận tải tiếp tế, thiếu các tàu hộ tống vì vậy đã bị
thua thiệt nặng.
Cuối cùng, trên lĩnh vực tình báo quân sự, việc Mỹ sử dụng những thiết bị
nghe lén và giải mã (Magic) được bức điện mật của hải quân, của Bộ chiến tranh và
Bộ ngoại giao Nhật Bản cũng đã dẫn đến nhiều tai họa cho Nhật Bản vì nhiều
phương án chiến lược bị bộc lộ trước khi thực hiện.
Từ trận Pearl Harbor đến trận Midway, do được tổ chức tốt, huấn luyện kỹ,
quân đội Nhật Bản liên tiếp thu được nhiều chiến thắng. Các thuộc địa của Anh liên
tục bị Nhật Bản chiếm lĩnh. Hồng Koong bị mất ngày 25/12/1941, Mã Lai bị chiếm
đóng đầu thắng 1/1942, pháo đài Singapoer xin hàng ngày 15/2/1942, hớn 100.000
binh sĩ bị Nhật Bản bắt làm tù binh. Đó là thất bại lớn nhất của Anh trong cuộc
chiến tranh Thái Bình Dương.
Cũng trong thời gian này Nhật Bản đã chiếm được các căn cứ quân sự của Mỹ
đặt tại đảo Wake và đảo Guam, đang tiến đánh Philippines. Sau khi chiếm được thủ
phủ Philippines là Manila ngày 24/12/1941, Nhật Bản vấp phải sự kháng cự kéo dài
của Mỹ tại bán đảo Bataan cho đến tận tháng 4/1942. Một tháng sau, đến lượt pháo
đài Corregidor, được coi là “không thể đánh chiếm” cũng xin đầu hàng Nhật Bản.
Vài tuần sau, theo lệnh của chính phủ Mỹ, Đại tướng Mỹ Mac Arthur phải rút khỏi
phần đất còn lại ở Philippines sau khi tuyên bố “Hẹn gặp lại”.
Sau trận hải chiến trong vùng biển Java từ 28 đến 29/2/1942 trong đó Nhật
Bản tiêu diệt toàn bộ một hạm đội Đồng minh gồm các tàu tuần dương Hà Lan,
Anh, Mỹ, quân đội Nhật Bản tiếp tục mở nhiều cuộc tiến công xâm chiếm
Indonexia. Ngày 5/3, Nhật Bản chiếm được Batavia. Bốn ngày sau, toàn bộ quân
đội Hà Lan trên lãnh thổ Indonexia, đông tới 80.000 binh sĩ, xin đầu hàng Nhật
Bản. Lực lượng Nhật BẢn, sau khi đã chiếm lĩnh Rabaul và quần đảo Salomon đổ
bộ lên New Guinea, uy hiếp vùng bờ biển Bắc Australia.
112
Trong khi đó quân đội Nhật Bản cũng hoàn thành việc chiếm đóng Myanma.
Đến tháng 4/1942, một hạm đội mạnh của Nhật Bản, gồm 5 tàu sân bay và 4 tàu
thiết giáp tiến vào Ấn Độ Dương, ném bom bắn phá Sri Lanka, Colombo,
Trincomalee, tiêu diệt 2 tàu tuần dương hạng nặng và 1 tàu sân bay của Anh. Số tàu
còn lại của Anh phải di tản sang tận vùng biển miền Đông Châu Phi thuộc Anh.
Như vậy là, đến tháng 4/1942, Nhật Bản đã chiếm được tất cả các mục tiêu
chiến lược từ Myanmar đến tận New Guinea. Nhật Bản đã tiêu diệt được toàn bộ
lực lượng đồng minh trong khu vực Viễn Đông, bắt giữ được hơn 300.000 tù binh.
Những mục tiêu chiến lược này đã được đánh chiếm với tổn thất đặc biệt rất ít của
Nhật Bản. Quân đội Thiên hoàng chỉ mất 15.000 binh sĩ, 400 máy bay, 5 tàu phóng
lôi, 12 tàu ngầm, trong khi chính phương án tác chiến của Nhật Bản sự trù phải hy
sịnh tới 1/3 lực lượng hải quân” [dẫn lại theo 14, tr.122-127].
Với thắng lợi nhanh chóng của người Nhật trong giai đoạn đầu của cuộc chiến
Phillipin Masson nhận xét:
Sỡ sĩ Nhật Bản đạt được những thắng lợi to lớn như vậy là do có một đạo
quân tinh nhuệ, tinh thần chiến đấu đặc biệt dũng cảm của người lính, tính chủ
động trong các hoạt động chiến đấu phối hợp giữa lục quân và hải quân, hệ
thống liên lạc chỉ huy tuyệt vời giữa lục quân, hải quân và các máy bay của
lục quân, hải quân. Trong khi đó, suốt giai đoạn bi thảm kéo dài của cuộc
chiến này, hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ do đô đốc Nimitz chỉ huy chỉ có
thể tiến hành ném bom, bắn phá bằng các máy bay đậu trên các tàu sân bay ở
phần phía Đông chiến trường, từ các đảo Marshall, Gilbert, Wake, New
Guinea. Hành động phản kích gây ấn tượng nhất của Mỹ là trận ném bom
bằng máy bay xuất phát từ tàu sân bay xuống thủ phủ Tokyo, nhưng sau đó
đội máy bay này đã không đủ chất đốt để quay trở lại tàu sân bay, đành phải
hạ cánh khẩn cấp xuống vùng đất Trung Quốc bị Nhật Bản chiếm đóng, toàn
thể các đội phi hành cũng như đội máy bay ném bom đều bị Nhật bắt giữ [dẫn
theo 14, tr.127].
Tuy nhiên, đến tháng 3.1942 Bộ chỉ huy tối cao của Nhật Bản đã bộc lộ một
số thiếu sót về chỉ đạo chiến lược. Ngay trong trận đầu tiên đánh phá Pearl Harbor,
113
đô đốc Yamamoto, tư lệnh hạm đội liên hợp đã phạm phải một sai lầm là đánh vào
mục tiêu có những căn cứ bố trí phân tán, các tàu sân bay Mỹ ngày hôm đó lại
không có mặt tại Pearl Harbor nên không bị tiêu diệt. Trận Pearl Harbor còn phạm
sai lầm về mặt chính trị. Do tiến công Mỹ quá sớm nên trận tiến công này cũng làm
tiêu tan sớm những tư tưởng muốn giữ thái độ “trung lập” của Mỹ, thúc đẩy chính
phủ và nhân dân Mỹ từ bỏ chủ trương biệt lập, tuyên chiến với Nhật Bản và tiến
hành cuộc chiến cho tới khi Nhật Bản bị đánh bại.
Tiếp đó, Yamamoto còn phạm sai lầm ở chỗ nghĩ rằng nếu chiếm được
Midway sẽ trực tiếp uy hiếp quần đảo Hawaii và đẩy xa thêm vành đanh phòng thủ
của Nhật Bản. Đảo Midway chính là nơi Mỹ tập trung 4 tàu sân bay từ Hawaii về
đó sau khi Nhật Bản tiến công Pearl Harbor. Đô đốc Yamamoto đã huy động hầu
như toàn bộ lực lượng chủ lực của hải quân Nhật Bản vào canh bạc Midway, hi
vọng nếu chiếm được đảo San hô của tâm chiến lược này, Mỹ sẽ phải xin thương
lượng ngừng bắn chấp nhận cho Nhật Bản làm bá chủ khu vực Viễn Đông. Chính
xuất phát từ nhận định, tính toán sai lầm này, kế hoạch tác chiến Yamamoto đã dẫn
đến một thất bại nặng, hậu quả của những thiếu sót trong điều hành chiến đấu.
Đầu tháng 5 năm 1942, việc đánh chiếm quân cảng Moresby ở New Guinea đã
dẫn đến trận hải chiến trong vùng biển San hô. Đây là trận đầu tiên Nhật Bản đưa
hạm đội ra xa “ngoài phía chân trời” quá tầm với của lực lượng không quân trên đất
liền, chỉ có thể yểm trợ bằng các máy bay trên tàu sân bay. Mặc dù thu được thắng
lợi về chiến thuật, chỉ có một tàu sân bay nhỏ trong khi Mỹ bị mất một thất bại
nghiệm trọng về chiến lược. Bộ tư lệnh hạm đội Nhật Bản đã phải bỏ kế hoạch đổ
bộ đánh chiếm quân cảng Moreby sau khi hai tàu chiến lớn nhất của hạm đội bị hư
hỏng nặng cần phải có thời gian sửa chữa.
Mặc dù vậy, khi tiến đánh Midway, đô đốc Nhật Bản Yamamoto còn chia lực
lượng tiến công làm hai bộ phận, tiến đánh quần đảo Aleutian ở phía Bắc và đảo
Midway ở phía Nam, cách xa nhau trong cùng một thời gian. Lực lượng tiến đánh
Aleutian chiếm được hai đảo nhỏ Kiska và Attu trong hai ngày 7 và 8 tháng 6 năm
1942. Nhưng lực lượng tiến đánh Midway trong cuộc hành quân xuống phía Nam
đã tách bộ phận đi đầu gồm các tàu sân bay quá xa đại bộ phận phía sau những 300
114
hải lý, khiến cho bộ phận phía sau không thể nào theo kịp bộ phận phía trước dù mở
hết tốc độ. Chính vì vậy, Nhật Bản đã tự chuộc lấy thật bại nặng, bị mất tới 4 tàu
sân bay. Mỹ chỉ mất có 1 tàu sân bay.
Giữa lúc Đức và Italia đang còn thu được nhiều chiến thắng tại Bắc Phi và
Liên Xô, trận hải chiến Midway được coi là chiến thắng đầu tiên của Đồng minh và
tạo một bước ngoạt lớn trong chiến tranh Thái Binh Dương. Phía Mỹ đã lập được
thế quân bình trong lực lượng so sánh với Nhật Bản, và đã có thể tập trung lực
lượng trên chiến trường Châu Âu, dồn sức “đánh thắng Đức trước tiên” như đã
thống nhất với Đồng minh trong hội nghị Arcadie.
Sau trận Midway, chiến tranh Thái Bình Dương chuyển sang giai đoạn hai,
giai đoạn tiêu hao lực lược giữa các bên tham chiến. Về phía Nhật Bản, bộ tư lệnh
hạm đội liên hợp của đô đốc Yamamoto tập trung phần lớn lực lượng tại đảo Truk
trong khi chờ đợi thành lập lại đội tàu sân bay với những chiếc tàu mới, đang đưa
xuống nước. Cũng trong lúc đó, bộ thống soái tối cao Nhật Bản cũng quyết định
hoàn tất chiến dịch đổ bộ đánh chiếm New Guinea và quần đảo Salomon. Với quyết
định chiến lược này, Nhật Bản đổ bộ lên Guadalcanal và vấp phải cuộc kháng cự
quyết liệt của Mỹ trên qui mô lớn. Ngày 7/8/1942, bộ tư lệnh Mỹ cũng đổ vộ 2000
quân lên Guadalcanal tỏ rõ quyết tâm ngăn chặn Nhật Bản ngay trên tuyến đầu bảo
vệ vùng bờ biển Bắc Australia. Suốt 5 tháng liền Mỹ và Nhật Bản tổ chức những
cuộc giao tranh gành đi giật lại đảo, song song với những cuọc hải chiến và những
cuộc đọ sức bằng máy bay hải quân trên vùng trời Guadalcanal.
Để tiếp tế, tăng viện cho lực lượng bộ binh và lính thủy bộ đang giao tranh
kịch liệt cả Mỹ lẫn Nhật Bản đều tổ chức những đợt hành quân tiếp viện, xuất phát
từ các bến cảng Rabaul và Espiritu Santo. Cuộc tiến công và bảo vệ các đoàn tàu
vận tải của cả hai bên đã dẫn đến nhiều trận “ngộ chiến”, bắt gặp vào giao chiến với
nhau ở giữa đoạn đường thường xảy ra trong đêm tối, như các trận đụng độ lẫn
nhau tại Savo, Salomon, Santa Cruz, Guadalcanal, Tassafaronga…cả hai bên đều
gặp nhiều tổn thất tương đương nhau. Nhưng cuối cùng, đến đầu 2/1943 Nhật Bản
do quá mệt mỏi đã phải tự mình rút khỏi Guadacanal.
Cuộc rút quân đầu tiên tại một vị trí chiến lược này sau cuộc chiến tranh đã
115
được tiết lộ trong tập hồ sơ mật là do thiếu trang thiết bị không đưa đến kịp, thiếu
cơ sở y tế hậu cần và cũng do bộ thống soái tối cao Nhật Bản muốn bảo tồn lực
lượng hải quân để còn sử dụng lâu dài về sau, trong khi phía Mỹ nhờ có hậu phương
đang nỗ lực cao đọ, sản xuất các phương tiện chiến tranh tiếp ứng, vẫn lao gần hết
các lực lượng máy bay, tàu chiến ở Thái Bình Dương vào trận giành giật lại
Guadalcanal.
Trước những thắng lợi vừa đạt được, Tổng tư lệnh Thái Bình Dương Mac
Arthur và đô đốc tư lệnh hạm đội Thái Bình Dương Nimitz, quyết định tiến lên
giành lại Salomon. Tuy nhiên, chiến dịch tái chiến này đã phải tiến hành khó khăn
và chậm chạp. Mở đầu bằng những cuộc đổ bộ lên Rendova, Vela Lavella,
Choiseul, Bougainville mãi đến năm 1943 mới kết thúc. Đối với Mỹ, một loạt
những cuộc chiến đấu này đã giúp cho hải quân, rút kinh nghiệm, hoàn thiện kỹ
thuật đổ bộ, thủ nghiệm các thiệt bị, phương tiện mới đồng thời tiếp tục làm tiêu
hao lực lượng máy bay của hải quân Nhật Bản. [dẫn theo 14, tr.128-132].
Mặt khác, cuộc chiến ở Thái Bình Dương còn bị ảnh hưởng bởi sức mạnh vật
chất của người Mỹ.
Vào khoảng năm 1943, Hoa Kỳ đã gần hoàn thành hạm đội cho hai đại dương.
Các lực lượng chính của hạm đội này bao gồm:
1. Một đơn vị tấn công với 26 hàng không mẫu hạm chạy nhanh và được hạ
thủy từ trận Trân Châu Cảng cho đến cuối chiến tranh và 8 thiết giáp hạm mới để
dành quyền bá chủ trên mặt biển, hướng dẫn các cuộc tấn công ban đầu của phi cơ
và cô lập khu vực bị tấn công.
2. Một đoàn gồm các thiết giáp hạm và mẫu hạm hộ tống – độ 114 chiếc loại
này được hạ thủy – để cung cấp cho các lực lượng đổ bộ hỏa lực yểm trợ và không
lực yểm trợ.
3. Một số lớn tuần dương hạm 48 tàu, 850 khu trục hộ tống, 203 tàu ngầm và
2703 tàu gài mìn, gở mìn hay tuần tiểu.
4. Một đoàn tàu gồm 1541 chiếc phụ trách việc tiếp vận mọi thứ cần dùng và
vừa là một căn cứ lưu động để sửa chữa các chiến hạm bị hư hại. Đoàn tàu này bằng
cả hạm đội tiền chiến Mỹ.
116
5. Các tiểu đoàn công binh gọi là Ong biển (Sea Bees) chuyên về các công tác
như sửa chữa các phi trường chiếm được của địch để sử dụng phi cơ đáp trên bộ và
để như thế hàng không mẫu hạm có thể đến hành quân tại các nơi khác.
6. Một số rất lớn là 105-398 tàu đổ bộ.
Ngoài ra hạm đội hai địa dương này cũng có phiều phi cơ đậu trên đất liền để
giúp cho lục quân mở các cuộc phản công có tính cách quyết định và buộc Nhật
Bản phải đầu hàng 14 tháng sau vụ đổ bộ lên đảo Saipan chỉ cách Đông Kinh 1585
dặm về phía Nam trong các đảo Marianas gần Guam trong tháng 6 năm 1944 [21,
tr.153-155].
Trong khi đó phía Nhật Bản gặp những khó khăn: 55% ngân khoản hải quân
được dùng để chế tạo phi cơ và phần lớn của 16% ngân khoản để thay thế những
chiếc bị đánh đắm trong năm 1942. Trong 1942 -1943 người Nhật chỉ hoàn thành
được chín hàng không mẫu hạm. Trong số này chỉ có hai hàng không mẫu hạm
thuộc hạm lớn mà thôi. Hải quân Nhật dự trù đóng xong 9 hàng không mẫu hạm lớn
và một chiếc nhỏ trong năm 1944 nên người Mỹ hy vọng buộc Nhật phải tham
chiến trước khi các hàng không mẫu hạm mới được hoàn thành và sẵn sàng. Các
mẫu hạm này sẽ được sự yểm trợ của các phi trường trên các đảo tại miền Trung và
Tây Nam Thái Bình Dương. Tuy nhiên, sự phòng thủ tại các đảo này không được
tiến hành khả quan vì người Nhật thiếu tàu, máy bay, và số vật liệu cũng như binh sĩ
chở đến tăng cường đều bị đánh đắm nhiều. Cường độ của sự phản công của người
Mỹ làm cho quân đội Nhật ngạc nhiên. Trên đảo Saipan khi cuộc tấn công của quân
lực Mỹ bắt đầu, người Nhật chưa xây xong các công sự phòng thủ. Tại đảo này
Nhật có 32 nghìn quân sĩ tức gấp đôi số dự đoán của Hoa Kỳ. Trong tháng 9-1944,
sức sản xuất cho chiến tranh của Nhật đạt mức tối đa, sau Đức hai tháng, nhưng
Nhật không thể nào theo kịp được Hoa Kỳ dầu chỉ kể mặt trận Thái Bình Dương mà
thôi. Trong tháng 1-1943 sau trận đánh tại Guadalcanal và Papua các lực lượng lục
quân và không quân của Nhật và Hoa Kỳ tương đương với nhau. Nhưng chỉ một
năm sau Hoa Kỳ có lực lượng gấp 3 lần người Nhật [21, tr 155 –tr156].
Mặt khác, lúc bấy giờ Nhật Bản xảy ra nạn khủng hoảng về thương thuyền,
thiếu tàu và nhất là quá nhiều tàu tiếp vận bị chiến hạm Mỹ nhất là tàu ngầm đánh
117
đắm. Các kho dữ trữ nguyên liệu cũng hao mòn dần và chính ngay trên lãnh thổ
Nhật bị không quân Mỹ oanh tạc.
Các chiến thắng giòn giã của Hoa Kỳ khiến cho Bộ tổng tham mưu quân lực
Hoàng gia phải duyệt xét toàn bộ đường lối điều hành và khả năng sản xuất của
guồng máy chiến tranh Nhật. Từ con số sản xuất 15.300 máy bay trong năm 1943,
hỏi cung ứng 26.000 chiếc7F làm sao có thể sản xuất 45.000 máy bay trong năm 1944 mà riêng hải quân đã đòi 8. Đó là chỉ riêng về máy bay mà thôi, còn thuốc men,
quân trang, quân dụng ngày càng thiếu. Sản xuất không đủ, mà đến tận tay binh lính
lại càng thiếu hơn vì cuộc chiến tranh tàu ngầm của Mỹ đánh chìm mọi tàu Nhật đi
trên biển. Cuối cùng, số lượng tàu bè mà các cơ sở đóng tàu hạ thủy không thay thế
được số bị chìm [18, tr.233-234].
Sau nhiều thất bại trên chiến trường thì chính trong nội các Nhật cũng diễn ra
nhiều thay đổi. Thủ tướng Tojo trở thành đối tượng mà nhiều người đặt nghi vấn,
nhiều người cho rằng Tojo muốn trở thành một nhà độc tài. Ngày 21-02 khi Tổng
tham mưu trưởng lục quân, nguyên soái Sugiyama từ chức và ông ta năm luôn chức
này. Trước hành động đó nhiều người đã phản ứng mãnh mẽ. Ngày 17-7, Thủ tưởng
Tojo cách chức Bộ trưởng hải quân của đô đốc Shimada mới Yonai lên thay thế
nhưng bị từ chối. Trước tình cảnh đó, ngày 18-7, Tojo bệ kiến Thiên hoàng xin từ
chức. Người Nhật rơi vào tình trạng khủng hoảng sâu sắc. Người ta bắt đầu tìm
8 Số lượng máy bay thực sử sản xuất được của hai nước Nhật, Mĩ (đơn vị: chiếc) 1942 1943 1944 Nhật 8.000 15.300 28.200 Mĩ 47.859 86.000 96.370
kiếm con đường rút lui.
118
Tiểu kết chương 3
Cuộc chiến Thái Bình Dương là cuộc chiến mà các bên đã tháy nhau mắc
những sai lầm. Như đô đốc Ugaki nói rằng: “chiến tranh là một chuỗi sai lầm mà cả
hai bên đều phạm phải. Chiến thắng về với kẻ nào ít phạm lỗi nhất” [dẫn theo 18,
tr.183].
Ban đầu, quân của Hoàng gia Nhật Bản đã có được những thành công liên tục
theo sau trận đánh Trân Châu cảng, gây nên những bất ngờ không kém những gì mà
quân Đức đã tọ ra trong năm đầu tiên của cuộc chiến. Thất bại của quân Đồng Minh
có thể thấy đó là do thái độ xem thường đối phương. Họ xem thường chính cách tổ
chức binh lực chiến đấu và vũ khí trang bị của quân Nhật. Vì họ quên rằng những
con người mang dòng máu võ sĩ đạo tham gia vào cuộc chiến này với sự lỳ lợm và
kinh nghệ dồi dào sau cuộc chiến với Trung Quốc, cũng như những lần giao tranh
với Liên Xô. So với quân đội Đồng minh, lính Nhật vô cùng gan dạ va có thể sống
sót với nhu cầu tiếp tế từ hậu cần ít hơn nhiều so với địch. Khả năng điều động quân
đội với những đội hình không rỗi loạn. Quân Nhật khi tham gia vào cuộc chiến với
lực lượng không quân vượt trội yếu tố được xem là quan trọng nhất lúc bấy giờ.
Tuy nhiên, Bộ chỉ huy Nhật cũng gặp phải nhiều sai lầm khi họ đạt được
những thành công dường như hơi dễ dàng. Họ đã không tuỏng tượng được sức
mạnh của quân đội Đồng minh đứng đầu ở Thái Binh Dương là Mỹ. Đã đánh giá
thấp sự phục hồi của hạm đội Thái Bình Dương cũng như khả năng cung ứng của
nền kinh tế quốc phòng người Mỹ cho cuộc chiến. Bước vào cuộc chiến không có
được một sự chuẩn bị tốt nhất về vật chất cũng như tinh thần. Nhưng người Mỹ đã
nhanh chóng nhập cuộc. Đặc biệt châu Mỹ đã có những thần kỳ trong ngành sản
xuất đóng tau, tiềm lực của họ đủ để thay thế kịp thời những tổn thất.
Mặt khác, sự thất bại của quân Nhật trên Thái Bình Dương còn là sự thất bại
về chiến thuật bời những sai lầm nối tiếp sai lầm khi nhận định sai tình huống. Sự
thất bại này còn thể hiện sự thua kém của nền kỹ nghệ của của Nhật Bản so với Hoa
Kỳ. Trong khi đó, trên đại dương mênh mông này quân Nhật đã dàn trận quá rộng,
quá phân tán, dẫn đến không thế phối hợp được nhịp nhàng, không đủ sức để giữ
những vùng đất mà họ chiếm được.
119
KẾT LUẬN
Đại dương bao phủ 70 % diện tích địa cầu – nơi mà đủ lại tàu bè vận chuyển
85% nguyên liệu tối cần cho hầu hết các quốc gia trên thế giới. Chính vì lẽ đó, trong
lịch sử chiến tranh từ thế kỷ XIX về trước, sự thắng – bại thường được quyết định
phần lớn qua các trận hải chiến ác liệt trên các đại dương trập trung sóng lượn.
Như đã trình bày trong chương 1, thế kỉ XX là thế kỷ địa chính trị. Các tư
tưởng địa chính trị của các nước ra đời, được phát triển mạnh mẽ dựa trên những
chính sách quốc gia, chiến lược quốc phòng an ninh của mỗi nước. Cuộc chiến
tranh thế giới thứ nhất kết thúc, thế giới tồn tại dưới hệ thống Versailles –
Washington. Những nội dung của nó không đến nối quá trừng phạt các nước bại
trận nhưng nó cũng đã nung nấu những thù oán dân tộc đặc biệt là nước Đức. Với
bối cảnh đó thì địa chính trị như một lời giải thích, một lý do cho sự bành trướng
của các nước Phát xít hóa bộ máy nhà nước.
Người Đức gây chiến để mở rộng không gian sinh tồn của họ, kiểm soát vùng
đất trái tim ở châu Âu. Trước sức mạnh của Đức, sự dung dưỡng của Anh, Pháp
quân đội Hitler đã giành những thắng lợi chớp nhoáng thu phục toàn lục địa châu
Âu.
Để ngăn chặn việc người Đức kiểm soát lục địa châu Âu – vùng đất trái tim thì
người Mỹ đã dần dần giúp đỡ người Anh. Cuộc chiến tranh thế giới thứ hai đã cho
thấy sự liên minh của các quốc gia biển và đất liền.
Ở châu Á – Thái Bình Dương, trong tư tưởng địa chính trị người Nhật luôn coi
mình là anh cả da vang, có sứ mệnh khai hóa Đông Nam Á ý đồ thành lập một khối
thịnh vượng Đông Á do Nhật Bản đứng đầu.
Với vị trí đảo quốc, lãnh thổ nhỏ hẹp, chủ yếu đảo, tài nguyên thiên nhiên đặc
biệt là nguồn dầu mỏ, sắt không tự đáp ứng được cho nền công nghiệp quân sự.
Người Nhật đã sớm dòm ngó đến Mãn Châu, Trung Quốc, các nước Đông Nam Á.
Tuy vậy, trong ý đồ của Nhật có rào cản lớn là Hoa Kỳ, lại thêm người Mỹ có trách
nhiệm với Phillpines một nước vừa giàu dầu mỏ vừa chiếm một vị trí chiến lược
đặc biệt quan trọng là đe dọa an ninh của lãnh thổ Nhật Bản, sự thông thương tự do
của nền thương mại hàng hải của Nhật. Đồng thời như một cửa ngõ chặn con đường
120
về phương Nam của Đế chế Nhật. Hơn ai hết, phe quân sự hóa muốn phá được rào
cản đó.
Vận dụng tư tưởng của nhà chiến lược Mahan là đánh trận quyết định vào hạm
đội của địch. Với những kinh nghiệm nóng hổi ở Địa Trung Hải người Nhật đã tấn
công một đòn bất ngờ vào Hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ đang neo đậu ở
Hawaii. Với mục đích chính là tiêu diệt hạm đội chủ lực của họ. Tuy nhiên theo như
những đánh giá của nhà lịch sử quân sự Mỹ: đó là một điều khó tin, là ngu ngốc.
Mặc dù, người Nhật cũng đã có những thành tựu lớn khi giáng cho Hạm đội này
một đòn không có thể gượng dậy được thì có ý kiến cho rằng đây không phải là
thắng lợi hoàn toàn.
Trong thế chiến thứ hai, chiến trường trên biển là nơi diễn ra cuộc chiến khốc
liệt nhất. Những trận chiến này mặc dù không là nơi trực tiếp kết thúc cuộc chiến
tranh nhưng với những kết quả đạt được có thể thấy nó đóng vai trò quyết định ở
trên các mặt trận Đại Tây Dương, Địa Trung Hải và Thái Bình Dương. Nếu như
trận chiến trên Đại Tây Dương và Địa Trung Hải thắng lợi của quân đội Đồng minh
đã đảm bảo cho việc tiếp tế hàng hóa vào Anh Quốc và các chiến trường lân cận,
tránh nguy cơ tàn lụy của nền kinh tế Anh. Cuộc chiến này cũng đã tạo điều kiện
cho quân đội Đồng minh đổ bộ thành công lên các bến cảng, mở mặt trận thứ hai.
Thì ở Thái Bình Dương là cuộc chiến của quân đội đồng minh mà điển hình là Mỹ
để chống lại sự bành trướng, chọc thủng vành đai phòng thủ của người Nhật, chặn
đứng con đường xuống phía Nam của người Nhật. Cuộc chiến làm tàn lụy dần nước
Nhật về cả vật chất và tinh thần. Xét đến yếu tố để đảm bảo cho cuộc chiến thì
những trận đánh trên biển là quyết định. Chứ không phải là trận đánh của Liên Xô
tiêu diệt 1 vạn quân Quan Đông.
Cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai kết thúc với sự thắng lợi của quân đồng
minh. Những trận chiến ở đại dương đã cho phép chúng ta thấy rõ được sức mạnh
của nền sản xuất, kỹ nghệ của mỗi quốc gia. Trong giai đoạn đầu của cuộc chiến
trên Đại Tây Dương, người Đức với chiến thuật “bầy sói” đã làm chao đảo Anh
quốc mặc dù bằng những tài liệu mà tác giả có được thì Hitler muốn thương lượng
với Churchill để nhằm rảnh rang ở châu Âu chứ không thực sự muốn đánh lên đảo
121
quốc này. Tuy nhiên, Anh quốc bước vào cuộc chiến trên đại dương không được sự
hậu thuẫn của nền sản xuất công nghiệp vật chất. May mắn thay sự thiếu hụt đó đã
được sự bù đắp của Hoa Kỳ. Ở giai đoạn sau, với sự gia tăng của đội tàu hộ tống,
phát triển của nền kỹ nghệ sản xuất radar, máy dò tàu ngầm siêu âm thì Anh quốc
đã dần khống chế được giao thông trên biển, vô hiệu hóa chiến thuật bầy sói của hệ
thống tàu ngầm Đức, tiêu diệt Bismark biểu tượng của nền hàng hải Đức. Ở Thái
Bình Dương, bằng sự chuẩn bị chu đáo về vật chất và tinh thần hải quân Hoàng gia
Nhật đã giành những thắng lợi liên tiếp, mở rộng vành đai phòng thủ lên đến 35.000 km2 . Nếu như trong trận Trân Châu cảng, Hoa Kỳ không ngờ đến được sức mạnh,
lợi ích của tàu sân bay, của khả năng phóng ngư lôi của Nhật Bản. Thì ngay sau đó,
người Nhật đã chủ quan, đánh giá không đúng khả năng phục hồi của hạm đội Thái
Bình Dương, sức mạnh của nền sản xuất vật chất Mỹ. Hoàng gia Nhật có những
thủy phi cơ cảm tử tuy nhiên số mà người Nhật dày công đào tạo ra đã không đủ,
kịp cho cuộc chiến. Thiệt hại của người Nhật không gì có thể bù đáp nổi. Đến năm
1942, người Mỹ đã hoàn thành hạm đội 2 đại dương, sức sản xuất gấp 3 lần Nhật
Bản. Nền công ghệ kỹ thuật tiên tiến, hiện đại. Nếu như người Nhật phải lò dò trong
đêm, việc liên lạc giữa các đoàn rất khó khăn thì người Mỹ nhờ vào hệ thống thông
tin liên lạc đã phối hợp nhịp nhàng, nhờ vào hệ thống giải mã thần kỳ “Magic” biết
được chính xác kế hoạch tác chiến của địch. Một lần nữa thắng lợi thuộc về những
quốc gia hàng hải lâu đời, của sức mạnh của nền tiềm lực kinh tế quân sự, sức sản
xuất, nội lực là người Anh và người Mỹ.
Các lực lượng hải quân trong Chiến tranh thế giới thứ II vẫn theo đuổi các
mục tiêu truyền thống, trong đó, hai mục tiêu tối thượng nhất là giành được ưu thế
vượt trội về sức mạnh hải quân, cồn với việc làm sao để đánh phá thuyền vận tải
của quân địch. Trong cả hai trường hợp điểm khác biệt so với những cuộc chiến
trước đây chính là vai trò của không lực hải quân. Cuộc chiến tranh thế giới II, một
lần nữa đã cho thấy vai trò của phi cơ, các hàng không mẫu hạm - tàu sân bay: các
trận hải chiến lớn nhất không chỉ là sự giao tranh giữa các chiến thuyền, các hạm
đội đối nghịch nữa, mặc dù mới ra đời được trên chục năm, phi cơ đã sớm góp mặt
trên các trận đánh lớn, không riêng trên đất liền mà ở cả ngoài biển khơi, trong
122
những cuộc hành quân độc lập.
Những thành tích, chiến công của các Phi đội không lực Hải quân ở cả hai phe
Đức – Nhật và Đồng minh trong mấy năm đầu Thế chiến thứ 2 đã cho thấy rõ ràng
là khi không có cái dù của lực lượng phi cơ hải vận và của không quân – nói chung
– thì ngay cả những thiết giáp khổng lồ lẫn các hàng không mẫu hạm trên dưới
40.000 tấn cũng chỉ là những miếng mồi ngon cho các phi cơ oanh tác và phong lôi
đủ loại. Trong thế chiến II, vai trò chủ yếu trong hạm đội và rồi trên đại dương đã
chuyển từ các thiết giáp hạm sang hàng không mẫu hạm. Trở thành những quân chủ
bài trong các trận hải không chiến có tính cách quyết định trên Thái Bình Dương
trong thế chiến thứ hai [10].
Những trận hải chiến quyết liệt từ năm 1941 – 1943 trên chiến trường Đại Tây
Dương và Thái Bình Dương đã cho thấy là “ngón đòn sát thủ” không còn là của các
Thiết giáp hạm – với khả năng phóng non hàng chục tấn thuốc nổ đi xa gần 40 km
mà là của các Hàng không mẫu hạm có khả năng phóng từ 50 đến 60 phi có đi đánh
các mục tiêu ở xa hàng ngàn kilomets bất kể là ở trên đất liền, trên mặt biển hay
dưới mặt biển và với những hiệu quả “kinh thiên động địa”. Phi cơ hải vận đã thay
thế cho trọng pháo chiến hạm trong các trận hải chiến quyết định và đã đưa hàng
không mẫu hạm lên chiếm ngôi bá chủ đại dương [9].
Cuộc chiến tranh trên biển dần dần trở thành một vấn đề về lòng dũng cảm và
tính kiên trì, nhưng cũng là một vấn đề về sản xuất, khoa học, và cả chiến thuật.
123
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Abraham Rothberg (2009), Lịch sử sống động của đệ nhị thế chiến, ng.d Nguyễn
Quốc Dũng, Nxb Từ điển bách khoa.
2. Bộ quốc phòng (2004), Từ điển bách khoa quân sự Việt Nam, Nxb Quân đội
nhân dân.
3. Zbigniew Brzezinski (1999), Bàn cờ lớn, ng.d Lê Phương Thúy, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
4. Nguyễn Văn Dân (2012), Địa chính trị trong chiến lược và chính sách phát triển
quốc gia, Nxb Khoa học xã hội.
5. Joseph E. Persico (2009), Cuộc chiến bí mật của Roosevelt: FDR & Hoạt động
gián điệp trong thế chiến thứ 2, ng.d Nguyễn Kim Dân, Nxb.Khoa học xã hội.
6. Nguyễn Quốc Hùng (2005), Sự thất bại của quân phiệt Nhật trong chiến tranh
thế giới thứ 2, Nxb. Chính trị quốc gia.
7. Lê Phụng Hoàng (2004), Franklin D.Roosevelt tiểu sử chính trị, Nxb ĐHSP. Tp.
HCM.
8. Khoa học phổ thông (1989), “Cải tiến kỹ thuật và chiến thuật những năm giữa
hai thế chiến”, Vũ khí trên biển và những tiến bộ kỹ thuật hiện đại, 4-1989 (6),
tr.6-8..
9. Khoa học phổ thông (1989), “Cái chết của đại kình ngư”, tạp chí khoa học phổ
thông, 4-1989 (6), tr.9-15.
10. Khoa học phổ thông (1989), “Cánh tay nối dài của hạm đội không lực trên đại
dương”, tạp chí khoa học phổ thông, 4-1989 (6), tr.19-20.
11. Khoa học phổ thông (1989), “Nhận diện chiến hạm” (1989), tạp chí khoa học
phổ thông, 4-1989 (6), tr.16-18.
12. Vũ Văn Lê (1967), Danh từ quân sự Anh-Việt, Nxb Đại học Vạn Hạnh, Sài
Gòn.
13. Alfred Thayer Mahan (2012), Ảnh hưởng của sức mạnh trên biển đối với lịch
sử, 1660 – 1783, ng.d Phạm Nguyên Trường, Nxb Tri Thức.
14. Nhiều tác giả (2004), Nhật Bản trong chiến tranh thế giới thứ 2, Ng.d Lê Kim,
124
Nxb Công an nhân dân.
15. Nguyễn Nghị, Lê Minh Đức (1994), Lịch sử nước Mỹ, Nxb Văn hóa thông tin.
16. Lê Văn Quang (2003), Lịch sử quan hệ quốc tế từ 1917 đến 1945, Nxb Giáo
dục.
17. Nguyễn Mạnh Quang (1973), Đệ nhị thế chiến và chiến tranh lạnh, Nxb Sáng
tạo, Sài Gòn.
Lê Vinh Quốc, Huỳnh Văn Tòng (2002), Cuộc chiến tranh Thái Bình Dương 18.
1941 – 1945, Nxb. Văn Nghệ, Tp. Hồ Chí Minh.
19. Robin Cross (2011), Bách khoa toàn thư về chiến tranh, ng.dịch Thế Anh,
Nxb Văn hóa Thông tin.
20. Nguyễn Anh Thái (cb) (2005), Lịch sử thế giới hiện đại, Nxb.Giáo Dục.
21. Hoàng Ngọc Thành (2005) , Chiến lược và chiến thuật trong đệ nhất và đệ nhị
thế chiến, quyển II, Nxb Lửa Thiêng, Sài Gòn.
22. William L.Shirer (2008), Sự trỗi dậy và suy tàn của để chế thứ ba: Lịch sử
Đức quốc xã, ng.d Diệp Minh Tâm, Nxb. Tri thức.
Tiếng Anh
23. Alan Brinkeg (2004), The unifinished nation: A cocise History of the
American peope, New York.
24. Craig L Symonds (2011), The Battle of Midway, Oxford press.
25. John A. Adams (2008), If Manhan ran the great Pacific war: An analysis of
world war II naval strategy, Indiana University Press.
26. Mark Stille (2013), The naval Battles for Guadalcanal, 1942, clash for
supremacy in the pacific, Osprey bublishing
27. Phillip D. Grove, Mark J Grove & Alastair Finlan (2002), The second world
war: vol 3: the war at sea. Osprey Publishing Ltd., Oxford, England.
28. Samuel Eliot Mirison (1963), The Two Ocean war a short history of the
United states navy in the second world war, Boston
29. Samuel Eliot Mirison (2001), History of US Naval in the World War II,
Operation, vol.3. University of Illinois Press.
30. William Bruce Johnson (2006), The Pacific Campaign in World War II: From
125
Pearl Harbor to Guadalcanal (Naval Policy and History) (Naval Policy and
History), Routledge, 270 Madison Ave, New York.
Internet
31. http://boxitvn.blogspot.co.uk/2014/02/ia-chinh-tri-ky-2.html
32. http://petrotimes.vn/news/vn/bien-dong/hai-chien-dinh-cao-nghe-thuat-quan-
su/nhung-tran-hai-chien-noi-tieng-the-gioi-hai-chien-dai-tay-duong.html
33. http://www.vnmilitaryhistory.net/index.php?topic=8892.0
34. http://en.wikipedia.org/wiki/Battle_of_Leyte_Gulf
35. http://www.reds.vn/index.php/thoi-su/quan-su/4371-tu-bay-soi-ngam-tau-san-
bay-den-chien-tranh-khong-hai
36. http://www.reds.vn/index.php/thoi-su/quan-su/4350-chien-thuat-hai-quan-cua-
viet-nam-tren-bien-dong
37. http://nongnghiep.vn/nongnghiepvn/vi-vn/25/99392/phong-su/tran-chien-vinh-
leyte-1944.html
38. http://www.reds.vn/index.php/lich-su/ho-so-tu-lieu/4333-tran-leyte-va-cai-
chet-yamato
39. http://vi.wikipedia.org/wiki/Chi%E1%BA%BFn_tranh_th%E1%BA%BF_gi%
E1%BB%9Bi_th%E1%BB%A9_hai#Chi.E1.BA.BFn_tr.C6.B0.E1.BB.9Dng_
.C4.90.E1.BB.8Ba_Trung_H.E1.BA.A3i.
40. http://vi.wikipedia.org/wiki/Chi%E1%BA%BFn_tr%C6%B0%E1%BB%9Dn
g_%C4%90%E1%BB%8Ba_Trung_H%E1%BA%A3i_v%C3%A0_Trung_%
C4%90%C3%B4ng_(Chi%E1%BA%BFn_tranh_th%E1%BA%BF_gi%E1%
BB%9Bi_th%E1%BB%A9_hai)#H.E1.BA.A3i_chi.E1.BA.BFn
41. http://www.naval-history.net/Map00Index.htm
42. http://www.naval-history.net/MapB1941-Matapan.GIF
43. http://www.naval-history.net/MapB1940-Taranto.GIF
44. http://www.naval-history.net/Maps1939-08RNStations.GIF
45. http://www.naval-history.net/Maps1940-06ItalyandMidMed.GIF
46. http://www.39-45war.com/merchantnavy.html
PHỤ LỤC
Phụ lục 1
MỘT SỐ THUẬT NGỮ, KHÁI NIỆM
KHU TRỤC HẠM có đặc điểm chính là tính cơ động cao và tốc độ lớn, tải
trọng khoảng trên dưới 3000 tấn, gắn đại pháo cỡ 96mm đến 130mm, ban đầu
chuyên trách việc phóng ngư lôi, sang thế chiến I chuyển sang truy diệt tiềm thủy
đĩnh, qua Thế chiến II, thêm nhiệm vụ phòng không nên sau trở thành một thứ chiến
hạm đa năng trong tất cả các hạm đội [ 2].
TÀU CHIẾN, tàu được trang bị vũ khí, tổ hợp vũ khí và phương tiện kỹ thuật
quân sự khác để tác chiến và phục vụ tác chiến ở các vùng nước (biển, sông, hồ…).
Theo công dụng, có: tàu tuần dương, tàu khu trục, tàu hộ vệ, tàu quét mìn, tàu sân
bay, tàu đổ bộ, tàu săn ngầm… Theo trang bị vũ khí chính, có: tàu pháo, tàu tên lửa,
tào phóng lôi…Theo môi trường hoạt động, có: tàu mặt nước (tàu nổi), tàu ngầm.
Theo dạng năng lượng của động cơ, có: tàu (tàu ngầm ( nguyên tử (hạt nhân), tàu
chạy nhiên liệu thường (đi e zen), tàu chạy bằng hơi nước, tàu tuabin khí. Theo kết
cấu dẫn động, có: tàu chân vịt, tàu chạy bằng bơm thủy lực (phản lực)…Ngoài ra,
tàu chiến còn được phân loại theo các dấu hiệu chiến thuật, ví dụ: tàu chủ lực, tàu
phụ (của hạm đội), tàu có mục đích chiến lược (mang vũ khí và tạo các đòn đánh
chiến lược) và tàu có mục đích chiến thuật)… Các tàu chiến (cả tàu mặt nước và tàu
ngầm) được chế tạo theo cùng một thiết kế gọi là lớp (kiểu) ví dụ: Ôhaiô, Taiphun,
Đenta…[2, tr.903].
TÀU CHỦ LỰC, tàu chiến lớn, trang bị hỏa lực mạnh để thực hiện các nhiệm
vụ chính của hạm đội. Trong các hạm đội thuyền buồm cuối thế kỉ 17 đầu thế kỉ 19,
tàu chủ lực là những tàu chiến lớn nhất, có 4 cột buồm. Tùy theo số tầng (boong)
đặt pháo, tàu chủ lực được chia thành 2 tầng và tàu 3 tầng. Thế kỉ 19 tàu chủ lực
chạy bằng máy hơi nước có lượng choán nước đến 5000 tấn, là một trong những tàu
chủ yếu trong hạm đội tàu thiết giáp dùng để tiêu diệt các loại tàu, cũng như phá
hủy các mục tiêu ven bờ của đối phương. Nửa đầu thế kỉ 20, đội tàu chủ lực trong
hạm đội hải quân các nước lớn gồm các tàu tuần dương, tàu thiết giáp trang bị pháo
lớn cỡ 280mm -381mm. Trước chiến tranh thế giới 2, các nước Mĩ, Anh, Nhật,
Tàu chủ lực lớn nhất thế giới là tàu thiết giáp Iarmato8F Đức, Italia, Pháp có khoảng 55 tàu chủ lực đang hoạt động và 30 chiếc đang đóng. 9 của Nhật Bản đóng năm
1940, dài 240m, rộng 39m, lượng giãn nước 64.170 tấn, tốc độ 27,5 hải lý/h, bọc
thép dày 406 – 650mm, trang bị 9 pháo cõ 456mm [2, tr.903].
TÀU HỘ TỐNG, tàu chiến mặt nước có nhiệm vụ trinh sát hộ tống, bảo vệ
các tàu chiến (hoặc đoàn tàu chiến) khác trong tác chiến, hàng quân, ra vào căn cứ.
Có thể dùng để bảo vệ cảng, bảo vệ căn cứ và tuần tiễu ven biển, trên sông. Được
chia ra: Tàu hộ vệ hạng nặng và tàu hộ vệ hạng nhẹ. Tàu hộ vệ hạng nặng có lượng
choán nước từ 600 – 3000 tấn (cá biệt 5000 tấn), tốc độ 35 hải lí/h (65km/h), trang
bị pháo 76-127 mm, pháo phòng không 20 -40 mm, súng phóng bom chìm phản lực
chống ngầm, tên lửa chống ngầm, tên lửa phòng không và có thể có máy bay trực
thăng chống ngầm. Tàu hộ vệ hạng nhẹ có lượng choán nước dưới 150 tấn, tốc độ
40 hải lí/h, trang bị pháo 40mm, súng máy phòng không…Trên tàu hộ vệ có thiết bị
thủy âm và thiết bị vô tuyến [2, tr.904].
TÀU KHU TRỤC, tàu chiến mặt nước đa năng, dùng để tiến công (hoặc đánh
chặn) các tàu mặt nước, tàu ngầm của đối phương. Còn làm các nhiệm vụ: trinh sát,
cảnh giới, bảo vệ (tàu, đoàn tàu và căn cứ), chi viện hỏa lực, pháo kích lên bờ, thả
thủy lôi, rải mìn…có lượng choán nước từ 3000 – 8000 tấn, tốc độ trên 35 hải lí/h
(65km/h), tầm hoạt động trên 6000 hải lí. Được trang bị tên lửa, pháo, thủy lôi, ngư
lôi, các tổ hợp vũ khí – khí tài chống ngầm, radar, sona và có thể có 1-2 máy bay
trực thăng [2, tr.904].
TÀU NGẦM, tàu có khả năng lặn và hoạt động dưới mặt nước trong một thời
gian dài. Tàu ngầm quân sự dùng để tiêu diệt các mục tiêu trên và dưới mặt nước,
trên đất liền của đối phương. Tàu ngầm còn được dùng để trinh sát, vận tải, đổ bộ
các lực lượng đặc nhiệm…Theo nguồn động lực, có: Tàu ngầm điêzen, tàu ngầm
nguyên tử. Theo loại vũ khí được trang bị, có: tàu ngầm tên lửa, tàu ngầm phóng
lôi, tàu ngầm tên lửa –ngư lôi [2, tr.905].
TÀU NGẦM CHỐNG NGẦM, tàu ngầm chuyên dụng để tìm và diệt tàu
ngầm của đối phương. Được trang bị sona, vũ khí chống tàu ngầm (ngư lôi, thủy lôi, 9 Thiết giáp hạm Yamamoto
tên lửa –ngư lôi…), các thiết bị dò tìm khác (có khả năng ghi được các trường vật lí
của tàu ngầm, tên lửa – ngư lôi, thủy lôi của đối phương, để cung cấp số liệu cho
các máy bắn và hệ thống điều khiển bắn). Nhiệm vụ chủ yếu của tàu ngầm chống
ngầm: tiêu diệt, đánh chặn tàu ngầm đối phương, bám sát, theo dõi săn ngầm, cảnh
giới bảo vệ giao thông trên biển, bố trí khu vực thủy lôi hống tàu ngầm đối phương
[2, tr.905].
10, tàu ngầm cực nhỏ (lượng giãn nước 20 - 400 tấn), chủ
TÀU NGẦM MINI9F
yếu là nhiệm vụ trinh sát hoặc tác chiến đặc biệt. Các tàu ngầm mini cỡ vài chục tấn
có thê được chứa trong tàu mẹ để chở đến khu vực tác chiến. Trong trận Trân Châu
Cảng, các tàu ngầm mini I-16 của Nhật Bản đã lọt qua các lưới chống ngầm vào
cảng (do quân Mĩ đóng) để trinh sát, 5 tàu ngầm mini I-16 bị đánh chìm [2, tr.905].
TÀU PHÓNG LÔI, tàu chiến mặt nước hạng nhẹ dùng để diệt tàu đối
phương bằng ngư lôi. Có lượng choán nước 80-240 tấn, tốc độ tới 50 hải lí/h (92,6
km/h), tầm hoạt động tới 1000 hải lí (trên 1.850 km), được trang bị 2-4 ống phóng
lôi cỡ 450 -533mm, 2-6 pháo 20-30 mm, pháo phòng không (37-57 mm), súng máy,
bom chìm, thủy lôi, thiết bị thả khói [2, tr.906].
TÀU QUÉT MÌN, tàu mặt nước được trang bị các khí tài chuyên dụng để tìm
và phá thủy lôi trên biển (sông, hồ, kênh) và dẫn đường cho các tàu thuyền khác (đi
sau lưới quét mìn) qua khu vực có thủy lôi, khí tài thủy âm, thiết bị vô tuyến truyền
hình,…để phát hiện, phân loại và diệt thủy lôi. Tính năng chính: lượng choán nước
tù 100 tới 1.300 tấn, tốc độ lớn nhất từ 22 đến 45,4 km/h. Vũ khí: Súng máy phòng
không, pháo phòng không 20-40mm, pháo đa năng 76-100mm. Tàu quét mìn đầu
tiên là loại được cải biển từ tàu phục vụ theo sáng kiến của đô đốc X.O.Macarop
(Nga) và dùng trong chiến đấu tại cảng Lữ Thuận (Actua) trong chiến trang Nga –
Nhật (1904-1905). Tàu quét mìn chuyên dụng đầu tiên được đóng 1909 tại Xanh Pê
tecbua. Được sử dụng rộng rãi trong Chiến tranh thế giới I, II [2,tr906].
TÀU RẢI MÌN, tàu mặt nước hoặc tàu ngầm có trang bị chuyên dụng để bố
trí (rải) thủy lôi, nhằm phong tỏa, ngăn trở hoạt động của tàu thuyền đối phương ở
những vùng biển nhất định hoặc bảo vệ của sông, cảng, vịnh, nơi neo đậu tàu 10 Tác giả: Tàu ngầm bỏ tui
thuyền khỏi sự thâm nhập, tiến công của đôi phương [2, tr.906].
TÀU SĂN NGẦM, tàu chiến mặt nước dùng để tìm và diệt tàu ngầm của đối
phương. Có thể hoạt động độc lập hoặc trong đội hình làm nhiệm vụ tuần liễu, bảo
vệ. Có các loại, tàu săn ngầm cỡ lớn (lượng choán nước 108-450 tấn), cỡ nhỏ
(lượng choán nước dưới 100 tấn) và tàu săn ngầm tuần dương (tàu săn ngầm lớn có
mang trục thăng săn ngầm). Tàu được trang bị sona, rada, các thiết bị quan sát và
liên lạc vô tuyến, ngư lôi, tên lửa- ngư lôi…để phát hiện và tiêu diệt tàu ngầm đối
phương [2, tr.906-907].
TÀU SÂN BAY, tàu chiến mặt nước có cấu tạo và trang bị đặc biệt để làm
căn cứ và nơi cất hạ cánh cho máy bay, máy bay trực thăng chiến đấu của hải quân.
Tàu sân bay có đài chỉ huy, đường băng cất hạ cánh, khoang chứa máy bay, khoang
sửa chữa và bảo dưỡng máy bay, khoang chứa nhiên liệu, khoang thiết bị động lưc,
khoang chứa bom, khoang ở và sinh hoạt của thủy lôi…Được trang bị các tổ hợp
tên lửa phòng không, pháo và pháo phòng không để tự vệ, thiết bị liên lạc vô tuyến,
rada điều khiển máy bay cất hạ cánh…theo sức chưa máy bay và lượng choán nước,
có tàu sân bay hạng nặng (tới 100 máy bay, lượng choán nước 30.000 -100.000
tấn), hạng nhẹ (30 máy bay, lượng choán nước 30.000 tấn). Theo chức năng có: Tàu
sân bay đột kích, chống ngầm, lên thẳng đổ bộ, đột kích chống ngầm. Tàu sân bay
xuất hiện từ chiến tranh thế giới I, trong chiến tranh thế giới II có trong biên chế của
hải quân Mĩ, Anh, Nhật. Tuy nhiên, tàu sân bay có nhược điểm: dễ cháy, nổ vì
chứa nhiều nhiên liệu, bom, đạn; kích thước và tải lượng trọng lớn hạn chế tính cơ
động, là mục tiêu khó bảo vệ đối với máy bay, tên lửa của đối phương; hoạt động củ
máy bay phụ thuộc vào thời tiết và sóng gió [2, tr.907].
THIẾT GIÁP HẠM là chiến hạm chủ lực trong các hạm đội từ cuối thế kỷ
XIX sang tới đầu thập niên 1940, thường có trọng tải trên 20.000 tấn, thân tàu được
nhiều lớp sắt thép bảo vệ theo cả chiều dọc lẫn chiều ngang, được trang bị vũ khí
chính là đại pháo cỡ 280 đến 457 mm với nhiệm vụ chủ yếu là quyết đấu với chiến
hạm địch và dùng phòng không bảo vệ các Hàng không mẫu hạm của phe mình [4].
TUẦN DƯƠNG HẠM với đặc điểm có tốc độ nhanh, tầm hoạt động xa, đổi
lại vì không được bọc sắt như thiết giáp hạm nên sức “chịu đòn” yếu hơn nhiều,
trọng tải từ 6 000 tấn đến 17000 tấn, được trang bị các đại pháo cỡ 96 đến 203mm
có hỏa lực tương đương một trung đoàn pháo binh, thường đóng vai trò quan trọng
trong việc hộ tống các đoàn tàu, các đạo quân đổ bộ hoặc oanh tạc các hải cảng, căn
cứ địch và truy diệt các chiến hạm địch [4].
TIỀM LỰC KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, khả năng về khoa học và
công nghệ có thể huy động để giải quyết những nhiệm vụ trước mắt và lâu dài của
xã hội. được biểu hiện ở trình độ phát triển khoa học và công nghệ; số lượng và chất
lượng đội ngũ cán bộ khoa học công nghệ; cơ sở vật chất phục vụ cho công tác
nghiên cứu, phổ biến và ứng dụng, TLKHVCN của đất nước có ảnh hưởng tích cực
đến sự phát triển của khoa học và công nghệ trong lĩnh vực QS, quốc phòng….Mức
độ động viên TLKHVCN của đất nước phục vụ nhiệm vụ QS, quốc phòng và chiến
trang phụ thuộc trực tiếp vào mục đích, tính chất của cuộc chiến trang và nhiệm vụ
Quân sự, quốc phòng, vào bản chất chế độ chính trị - xã hội, và trình độ phát triển
lực lượng sản xuất của mỗi nước [2, tr.954].
TIỀM LỰC KINH TẾ, khả năng về kinh tế bao gồm cả kinh tế quân sự có
thể huy động để phục vụ nhiệm vụ phá triển kinh tế- xã hội, củng cố quốc phòng
hoặc tiến hành chiến tranh; cơ sở vật chất của các tiềm lực khác. Được biểu hiện ở
trình và khối lượng sản xuất xã hội; nhịp độ tăng trưởng của nền kinh tế; nguồn dự
trữ tài nguyên và lao động…trong lĩnh vực QS, TLKT được biểu hiện ở các mặt chủ
yếu như: Khối lượng và chất lượng các nguồn lực có thể động viên đáp ứng nhu cầu
QS, quốc phòng, chiến tranh; tính cơ động và sức sống của nền kinh tế trước sự thử
thách ác liệt của chiến tranh [2,tr.954].
TIỀM LỰC QUÂN SỰ, khả năng về vật chất và tinh thần có thể huy động
để tạo thành sức mạnh hiện thực phục vụ nhiệm vụ QS và tiến hành chiến tranh.
Được bểu hiện trước hết ở khả năng duy trì, hoàn thiện và không ngừng phát triển
năng lực và trình độ chiến đấu (về nhân lực, vũ khí trang bị, cơ sở vật chất bảo đảm,
khoa học QS, nghệ thuật QS…); nguồn dự trữ về sức người, sức của phục vụ nhiệm
vụ QS và tiến hành chiến tranh. Tiềm lực QS được xây dựng dựa trên nền tảng của
các tiềm lực về kinh tế, tiềm lực chính trị -tinh thần, tiềm lực khoa học –công nghệ
[2,tr.954].
Phụ lục 2. Các bảng
Anh quốc
Đức
Pháp
Mỹ
Nhật Bản
Ý
12 3 - 62 7 2
4 - - 21 - -
15 - - 32 5 -
5 1 - 18 1 1
9 - - 39 5 3
2 2 3 6 - -
Thiết giáp hạm Tàu tuần dương chiến hạm Thiết giáp hạm bỏ túi Tuần dương hạm Hàng không mẫu hạm (TSB) Tàu sân bay có gắn thủy phi cơ Tàu khu trục Tàu phóng ngư lôi Tàu ngầm (tiềm thủy đĩnh) Tàu thả mìn Tàu chiến nhẹ và tàu hộ tống
159 11 54 1 38
48 69 104 - 32
209 - 87 8 -
59 13 76 1 25
84 38 58 10 -
17 16 57 - 8
Pháo hạm và tàu tuần tra Tàu quét mìn
27 38
2 39
20 -
10 8
10 12
- 29
Bảng 2.1. Sức mạnh hải quân của các cường quốc, tháng 1 năm 1939
Nguồn: Phillip D. Grove, Mark J Grove & Alastair Finlan (2002), The second
world war: vol 3: the war at sea. Osprey Publishing Ltd., Oxford, England, p.16
Bảng 3.1. Bảng thống kê lực lượng tham gia trận Leyte
Lực lượng tham gia Liên quân Mỹ - Úc Nhật Bản
8 8 Tàu sân bay hạng nặng
9 18 Tàu hộ tống
14 12 Tàu chiến nhẹ
6 24 Tàu tuần dương
35 141 Tàu khu trục
300 1500 Máy bay
Nguồn: http://en.wikipedia.org/wiki/Battle_of_Leyte_Gulf
Phụ lục 3. Hệ thống các bản bản đồ.
Nguồn: Bộ quốc phòng
Hình 2.1. Chiến tranh thế giới thứ II
Nguồn: Phillip D. Grove, Mark J Grove & Alastair Finlan (2002), The second
world war: vol 3: the war at sea. Osprey Publishing Ltd., Oxford, England, p.87
Hình 2.2. Khu vực diễn ra hải chiến căng thẳng
Nguồn: Bộ Quốc Phòng [2]\
Hình: 2.3. Hải chiến Địa Trung Hải
Nguồn: http://www.naval-history.net/MapB1940-Taranto.GIF
Hình 2.4. Trận Taranto 11/10/1940
Nguồn: http://www.naval-history.net/MapB1941-Matapan.GIF
Hình 2.5. Trận chiến ở mũi Matapan 28/3/1941
Nguồn: Bộ quốc phòng
Hình 3.1. Bản đồ chiến tranh Thái Bình Dương
Nguồn: Robin cross, Bách khoa toàn thư chiến tranh
Hình 3.2. Hải chiến Midway