BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Đậu Thị Anh NHỮNG TRẬN HẢI CHIẾN TRONG

CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ HAI

DƯỚI GÓC NHÌN ĐỊA - CHÍNH TRỊ

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

Thành phố Hồ Chí Minh - 2014

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Đậu Thị Anh

NHỮNG TRẬN HẢI CHIẾN TRONG CHIẾN

TRANH THẾ GIỚI THỨ HAI DƯỚI GÓC NHÌN

ĐỊA - CHÍNH TRỊ

Chuyên ngành : Lịch sử thế giới

Mã số

: 60 22 03 11

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS.TS NGÔ MINH OANH

Thành phố Hồ Chí Minh - 2014

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là đề tài nghiên cứu do tôi thực hiện.

Các số liệu và kết quả nghiên cứu được trình bày trong luận văn là trung thực

và chưa từng công bố ở các công trình nghiên cứu khác.

Tôi xin chịu trách nhiệm về đề tài nghiên cứu của mình.

Tác giả luận văn

LỜI CẢM ƠN

Tôi xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến:

Ban giám hiệu Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, Phòng

Sau Đại học, quý thầy cô Khoa Lịch Sử đã nhiệt tình giúp đỡ và tạo điều kiện cho

tôi trong quá trình hoàn thành luận văn.

Phó giáo sư, Tiến sĩ Ngô Minh Oanh. Thầy đã tận tình chỉ bảo, động viên và

hướng dẫn cho tôi với sự cẩn trọng, nghiêm túc và trung thực trong quá trình nghiên

cứu và thực hiện luận văn này.

Các thầy cô tại thư viện trường Đại học sư phạm thành phố Hồ Chí Minh và

tập thể các anh chị, các bạn học viên khóa 23, chuyên ngành Lịch sử thế giới đã ủng

hộ nhiệt tình và giúp đỡ chân thành cho tôi về mặt tư liệu.

Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến gia đình là nguồn động viên lớn nhất cho tôi

trong thời gian học tập và hoàn thành luận văn này.

Một lần nữa tôi xin chân thành cảm ơn!

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 30 tháng 9 năm 2014 Đậu Thị Anh

MỤC LỤC

Trang phụ bìa

Lời cam đoan

Lời cảm ơn

Mục lục

Danh mục các ký hiệu, chữ viết tắt

Danh mục các bảng

MỞ ĐẦU ................................................................................................................. 1

Chương 1. LÝ LUẬN VỀ ĐỊA - CHÍNH TRỊ VÀ VẤN ĐỀ ĐỊA -

CHÍNH TRỊ TRONG CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ II ............ 8

1.1. Khái quát về khoa học địa - chính trị ................................................................ 8

1.1.1. Khái niệm địa - chính trị............................................................................. 9

1.1.2. Địa - chiến lược ........................................................................................ 13

1.2. Các học thuyết địa - chính trị ảnh hưởng đến chiến lược của các nước trong

chiến tranh thế giới thứ 2 ............................................................................... 15

1.2.1. Tư tưởng địa – chính trị ở Hoa Kỳ ........................................................... 15

1.2.2. Tư tưởng địa – chính trị ở Anh ................................................................. 24

1.2.3. Tư tưởng địa – chính trị ở Đức ................................................................. 26

1.2.4. Tư tưởng địa – chính trị ở Nhật Bản ........................................................ 31

1.3. Tiêu chí lựa chọn các trận hải chiến ............................................................... 33

Tiểu kết chương 1 .................................................................................................... 34

Chương 2. NHỮNG TRẬN HẢI CHIẾN Ở ĐẠI TÂY DƯƠNG VÀ ĐỊA

TRUNG HẢI TRONG CHIẾN TRANH THẾ GIỚI II ................... 35

2.1. Bối cảnh lịch sử .............................................................................................. 35

2.1.1. Quan hệ giữa các cường quốc trước chiến tranh thế giới thứ II ............... 35

2.1.2. Chiến lược hải quân của các nước trước cuộc chiến tranh thế giới thứ II .... 40

2.1.3. Sự phát triển về kỹ thuật Hải quân trước cuộc chiến tranh thế giới

lần thứ II................................................................................................... 44

2.1.4. Quan hệ quốc tế trực tiếp dẫn đến chiến tranh thế giới thứ II .................. 47

2.2. Hải chiến trên Đại Tây Dương và những phân tích địa chính trị ................... 52

2.3. Hải chiến Địa Trung Hải và những phân tích địa chính trị ............................ 61

Tiểu kết chương 2 .................................................................................................... 67

Chương 3. NHỮNG TRẬN HẢI CHIẾN Ở THÁI BÌNH DƯƠNG TRONG

CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ II .................................................. 68

3.1. Bối cảnh lịch sử .............................................................................................. 68

3.1.1. Chiến lược Thái Bình Dương của Hoa Kỳ, Nhật Bản ............................. 68

3.1.2. Quan hệ Hoa Kỳ và Nhật Bản trước thế chiến II ..................................... 72

3.2. Những trận hải chiến ở Thái Bình Dương trong chiến tranh thế giới thứ II và

những phân tích địa – chính trị....................................................................... 81

3.2.1. Giai đoạn 1: Nhật Bản chiếm ưu thế ........................................................ 82

3.2.2. Giai đoạn 2: Quân Đồng minh phản công .............................................. 100

3.3. Những yếu tố ảnh hưởng đến cuộc chiến tranh Thái Bình Dương .............. 109

Tiểu kết chương 3 .................................................................................................. 118

KẾT LUẬN ............................................................................................................ 119

TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 123

PHỤ LỤC

DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT

U-Boat : Tàu ngầm

CTTG : Chiến tranh thế giới

: TLKHVCN Tiềm lực khoa học công nghệ

TLKT : Tiềm lực kinh tế

QS : Quân sự

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 2.1. Sức mạnh hải quân của các cường quốc, tháng 1 năm 1939 .................... 43

Bảng 3.1. Bảng thống kê lực lượng tham gia trận Leyte ........................................ 106

1

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Lịch sử đã cho thấy rằng những con người đứng trước biển là những người vĩ

đại, nói đến biển là nói đến con đường lớn đúng hơn là 1 đồng bằng cực kì rộng, đi

theo hướng nào cũng được. Mặc dù biển có tiềm ẩn đầy hiểm nguy nhưng nhìn

chung vận tải đường biển bao giờ cũng dễ dàng hơn và rẻ hơn so với đường bộ.

Lịch sử thế giới cho thấy rằng, trong những giai đoạn quan trọng thì sức mạnh trên

biển đá có ý nghĩa chiến lược và sức nặng nắm giữ tác nhân quyết định. Ngày nay,

vấn đề kiểm soát biển là một vấn đề cực kì quan trọng, khống chế được biển có thể

làm chủ được con đường hàng hải huyết mạch. Biển như là tiêu chí quan trọng đối

với sự giàu mạnh và phồn vinh của một quốc gia. Chính vì thế mà trong trong thập

niên đầu của thế kỉ XXI trên thế giới đã diễn ra những cuộc tranh chấp lãnh thổ trên

biển ở vùng biển Đông giữa Trung Quốc và một số nước Đông Nam Á trong đó có

Việt Nam, tranh chấp các đảo giữa Nga – Nhật, Trung Quốc – Nhật Bản…đều đang

trở nên là điểm nóng của thế giới. Quay trở lại với lịch sử trong cuộc chiến tranh thế

giới thứ hai thì những cuộc hải chiến giữa Đồng Minh và Phát xít đã nổ ra khốc liệt

trên các đại dương: Đại Tây Dương, Địa Trung Hải, Ấn Độ Dương, Thái Bình

Dương. Đó là những cuộc chiến tàn khốc của lịch sử nhân loại, diễn ra trên 1 diện

rộng thể hiện sức mạnh hải quân, chiến lược và chiến thuật hải quân không ngừng

thay đổi. Những trận chiến đó còn là cuộc đấu tranh của các nội các các bên tham

gia, cuộc chiến đấu giữa các tướng lĩnh, cuộc chiến đấu của nhiệm vụ tình báo…Tất

cả đã làm nên 1 kết cục của cuộc chiến tranh thế giới thứ hai – mà phần thắng thuộc

về những kẻ ít sai lầm nhất. Nghiên cứu những trận hải chiến trong chiến tranh thế

giới thứ II dưới góc nhìn địa chính trị để thấy được tầm quan trọng của yếu tố biển

đối với những quốc gia chịu phụ thuộc vào môi trường biển và phòng thủ biển đối

với những quốc gia có bờ biển. Qua đó thấy được sự phát triển của lực lượng làm

nhiệm vụ phòng thủ biển – lực lượng hải quân phụ thuộc vào chính sách của chính

quyền. Đồng thời để người viết có thể tìm hiểu sâu về những trận hải chiến và vai

trò của nó đối với toàn bộ cuộc chiến – phần mà trong chương trình lịch sử ở Việt

Nam chưa đề cập nhiều đến. Với những lí do trên người nghiên cứu quyết định

2

chọn đề tài “Những trận hải chiến trong cuộc chiến tranh thế giới thứ II dưới góc

nhìn địa chính trị” để làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.

2. Lịch sử nghiên cứu đề tài

Nghiên cứu về các vấn đề về địa - chính trị, và cuộc chiến tranh thế giới thứ 2

có nhiều công trình:

Ở nước ngoài, các công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài khá đồ sộ và

chuyên sâu. Có thể kể đến những công trình sau.

- Ảnh hưởng của sức mạnh trên biển đối với lịch sử, 1660 – 1783 của Alfred

Thayer Mahan. Tác giả được coi là nhà chiến lược quan trọng nhất của Mỹ thế kỉ

XIX. Quan điểm của ông về “quyền lực trên biển” ảnh hưởng rất lớn đối với quá

trình hình thành tư tưởng chiến lược hải quân cũng như chính sách đối ngoại của

nhiều quốc gia ven biển trên khắp thế giới đặc biệt là ở Mỹ, Đức, Nhật, Anh. Cuốn

sách gồm 14 chương trong đó phần dẫn nhập và chương 1: những thành tố của sức

mạnh biển, tác giả đã đưa ra khái niệm “quyền bá chủ biển” và “sức mạnh trên

biển” những khái niệm mà sau này trở thành những tác nhân quan trọng nhất của

cuộc chiến tranh trên biển trong đó có cuộc chiến tranh thế giới thứ II, trình bày

những điều kiện chính ảnh hưởng đến sức mạnh trên biển của các quốc gia tác động

lớn đến những chính sách đối ngoại của các nước. Dù đây là công trình của thế kỷ

trước, thế kỷ mà nền kỹ thuật công nghệ chưa phát triển những những tư tưởng của

ông đã ảnh hưởng đến chính sách kinh tế quốc phòng, an ninh của các trước trong

những năm trước chiến tranh thế giới thứ II. Cách trình bày, lý giải về những trận

hải chiến của ông đã giúp ích cho tác giả rất nhiều.

- Abraham Rothberg (2009), Lịch sử sống động của đệ nhị thế chiến, ng.d

Nguyễn Quốc Dũng, Nxb Từ điển bách khoa. Cuốn sách được các học giả Âu, Mỹ

đánh giá là một cuốn sách có giá trị. Các tư liệu khá sinh động, chi tiết, cận cảnh

các mặt trận của Anh, Mỹ. Cuốn sách bao gồm 4 chương (chương 1: Tấn công,

chương 2: Bao Vây, chương 3: Phản công. Chương 4: Chiến thắng). Trình bày khác

ngắn gọn song có nhiều tư liệu về cuộc hải chiến như các số liệu về sức mạnh của

nền kinh tế quân sự của đồng mình. Giúp tác giả có cơ sở để lý giải được 1 phần về

thắng lợi cuối cùng của đồng minh.

3

- Robin Cross (2011), Bách khoa toàn thư về chiến tranh, ng.d Thế Anh, Nxb

Văn hóa thông tin. Cuốn sách không trình bày chi tết diễn biến của cuộc chiến mà có

những phân tích chung, đánh giá chung. Đặc biệt là có những phần về cuộc chiến tranh

trên biển, phân tích những yếu tố chiến lược, chiến thuật và những tác nhân ảnh hưởng

đến hải chiến. Mặc dù không có đi vào phân tích địa chính trị ở các trận hải chiến.

Nhưng những phân tích gần gũi với đề tài, cũng như tư liệu bản đồ của cuốn sách.

- The Two Ocean war a short history of the United states navy in the second

world war, của Samuel Eliot Mirison xuất bản năm 1963. Cuốn sách được đánh giá

là tác phẩm kinh điển chứa đựng khối lượng tư liệu đồ sộ về hải quân Mỹ trong

vòng 15 năm của cuộc chiến tranh thế giới thứ 2. Cuốn sách gồm 15 chương: trình

bày về giới hạn hải quân từ 1922 đến 1937, những chiến lược Thái Bình Dương, sức

mạnh hải quân dưới thời Roosevelt 1933 – 1939; thảm họa Trân châu cảng, trận Đại

Tây Dương, trận Midway, Guadalcanal, Lyte. Tác giả đã sử dụng phần kiến thức về

chiến lược Thái Bình Dương cũng như một số đoạn ở phần kết luận của sách.

- The second world war: vol 3: the war at sea của Phillip D. Grove, Mark J

Grove xuất bản năm 2002. Tác giả đã trình bày toàn diện về các trận hải chiến trên

Đại Tây Dương, Địa Trung Hải, Ấn Độ dương – tuyến đường được xem như động

mạch hậu cần của Anh và quân đội đồng minh tiếp tế cho chiến trường châu Phi,

châu Á, châu Âu. Đưa ra nhận định rằng cuộc chiến tranh trên biển là một chiến

quan trọng làm thay đổi sự cân bằng lực lượng quân sự trên đất liền, những thắng

lợi của cuộc chiến tranh trên biển có ý nghĩa lớn đối với thắng lợi cuối cùng của phe

đồng minh.

- Trận Midway là trận chiến bản lề trong cuộc chiến tranh Thái Bình Dương

trong cuốn The Battle of Midway của Craig L Symonds xuất bản năm 2011 được

đánh giá là cuốn sách hay nhất năm 2011 của lịch sử quân sự, là một công trình

nghiên cứu sâu, lập luận sắc sảo, là tác phẩm tuyệt với của nhà sử học Symonds.

Cuốn sách đã nhận mạnh vào vai trò của những quyết định quan trọng của chỉ huy,

mô tả bức chân dung của các nhân vật lãnh đạo, những cá tính, nhược điểm làm ảnh

hưởng đến thắng lợi. Chiến thắng Midway được mô tả như phép lạ, một thành công

mà phụ thuộc vào thời gian của cuộc tấn công máy bay ném bom bổ nhào. Mặt khác

4

Symonds còn làm rõ may mắn chỉ đóng một phần, chiến thắng ở Midway chủ yếu là

kết quả của sự chuẩn bị đầy đủ, kế hoạch cẩn thận, hiểu quả của việc sử dụng radar

(thứ mà Nhật Bản không có) và sự vượt trội của chỉ huy.

- Về trận hải chiến Guadalcanal kéo dài từ tháng 8 – 1942 đến tháng 2 – 1943

là cuộc phản công lớn đầu tiên của Mỹ chống lại Nhật Bản ở Thái Bình Dương.

Thắng lợi của trận Guadalcanal đã làm bước ngoặt lớn của cuộc chiến tranh Thái

Bình Dường. Trong cuốn sách “The naval Battles for Guadalcanal, 1942, clash for

supremacy in the pacific “ của Mark Stille xuất bản năm 2013. Tác giả đã trình bày

chi tiết về cuộc chiến giữa hải quân Nhật và hải quân Mỹ nhằm kiểm soát mặt biển

theo trình tự thời gian, cho rằng sở hữu sân bay Henderson vào Guadalcanal là chìa

khóa để chiến thắng, sự đối lập của các chỉ huy, kế hoạch tác chiến từ đó đánh gia

thẳng thắn sai lầm của 2 bên. Tác giả kết luận thắng lợi cuối cùng là phụ thuộc vào

khả năng chiến đấu của một số ít tàu.

- The Pacific Campaign in World War II: From Pearl Harbor to Guadalcanal

của William Bruce Johnson được xuất bản năm 2006 cuốn sách gồm 15 phần trình

bày tỉ mỉ từ bối cảnh của cuộc chiến tranh Thái Bình Dương, giải thích vì sao Nhật

Bản lại mạo hiểm và những thay đổi chiến lược liên tục từ trận Trân Châu cảng đến

trận Guadalcanal.

- The Defeat of the German U-Boats: the battle of the atlantic của David

Sysett trong cuốn sách này tác giả đã phân tích chi tiết những nỗ lực để ngăn chặn

các cuộc tấn công tàu ngầm của Đức đối với tàu buôn của phe đồng minh. Năm

1943 thì vấn đề ngăn chặn tàu U- Boat trở thành vấn đề chiến lược hàng đầu của

Đồng minh để đánh bại lực lượng của Hitler. Cuốn sách đã mô tả chi tiết U-Boat,

đồng thời Syrett thảo luận về các loại vũ khí được phát triển bởi các nước Đồng

minh. Nhấn mạnh vai trò quan trọng của trận Đại Tây Dương đối với thắng lợi của

cuộc chiến tranh.

Ở Việt Nam có nhiều công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài. Có thế đề

cập đến một số công trình sau:

- Cuộc chiến tranh Thái Bình Dương 1941 – 1945 của TS. Lê Vinh Quốc và

Huỳnh Văn Tòng biên soạn cuốn sách gồm 2 phần, 8 chương trình bày sự kiện dưới

5

hình thức kí sự, rõ ràng. Những cuộc Hải chiến trong cuộc chiến tranh Thái Bình

Dương được tác giả trình bày khá chuyên sâu.

- Chiến lược và chiến thuật trong đệ nhất và đệ nhị thế chiến, quyển II của

Hoàng Ngọc Thành xuất bản năm 1973. Nội dung của cuốn sách đã được tác giả

tham khảo nhiều tư liệu lịch sử quý bằng những ngôn ngữ: Anh, Pháp, Đức. Cuốn

sách gồm 2 phần: Phần III, Phần IV (tiếp sau phần II của quyển I). Trong đó, phần

III tác giả đã đề cập đến các chủ thuyết quân sự và sự võ trang của các cường quốc

cuối thập niên 1930 – 40 trong đó có sức mạnh hải quân của các nước. Phần IV:

trình bày chiến lược và chiến thuật qua các trận đánh lớn của hải lục không quân.

Trong phạm vi đề tài của mình, người viết sẽ khai thác những tư liệu về mối quan

hệ giữa các cường quốc, sức mạnh hải quân cũng như chiến lược và chiến thuật hải

chiến mà cuốn sách có đề cập đến.

- Nhiều tác giả, Nhật Bản trong chiến tranh Thái Bình Dương (2004), ng.d Lê

Kim NXB Công an nhân dân. Cuốn sách được biên soạn chủ yếu từ các nguồn sử

liệu chính của Nhật Bản, cùng với những hồi kí của nhiều nhân chứng lịch sử của

các nước có liên quan. Bao gồm 15 phần, nêu lên sự hình thành tư tưởng bành

trướng, ý đồ chính trị của giới quân phiệt Nhật Bản trong việc bá chủ châu Á – Thái

Bình Dương, quá trình chuẩn bị và những hành động của Nhật Bản để bắt đầu cuộc

chiến. Cuốn sách trình bày khá đầy đủ về diễn biến của cuộc chiến song sự trình

bày chỉ mang tính lược dịch, lược thuật chưa đi sâu vào phân tích chi tiết trận chiến.

Với tư liệu mà cuốn sách có được, tác giả đã sử dụng vào phần những yếu tố ảnh

hưởng đến cuộc chiến thông qua nhận xét của Philippe Masson.

3. Mục đích nghiên cứu

Đề tài được nghiên cứu nhằm dựng lại diễn biến của những trận hải chiến

trong chiến tranh thế giới thứ II. Bên cạnh đó luận văn mong muốn góp phần làm rõ

sự ảnh hưởng, tác động của yếu tố địa chính trị đến những quyết định dẫn tới trận

chiến và kết quả của những kêt những trận hải chiến trong chiến tranh thế giới

thứ II.

6

4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu là những trận hải chiến trong chiến tranh thế giới thứ II

diễn ra ở Đại Tây Dương, Địa Trung Hải, Thái Bình Dương dưới góc nhìn địa chính

trị.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

- Về không gian:

Những trận hải chiến xảy ra ở Đại Tây Dương, Địa Trung Hải, Thái Bình Dương.

- Về thời gian:

Từ năm 1939 đến 1945, tương đương với thời gian diễn ra cuộc chiến tranh

thế giới thứ hai. Tuy nhiên, giai đoạn trước đó cũng sẽ được đề cập tới trong những

để làm rõ hơn nội dung nghiên cứu.

5. Phương pháp nghiên cứu

Cơ sở phương pháp luận là chủ nghĩa Mác –Lê nin và Tư tưởng Hồ Chí Minh.

Phương pháp nghiên cứu chủ yếu là phương pháp lịch sử, phương pháp logic,

phương pháp định lượng và phương pháp liên ngành giữa quan hệ quốc tế và địa lý

học.

6. Nguồn tư liệu

- Các tài liệu sách viết về đề tài và có liên quan đến đề tài.

- Các bài báo, tạp chí có liên quan đến đề tài.

- Các website lớn ở nước ngoài viết về đề tài.

- Phim, bô sưu tập tranh ảnh có liên quan đến đề tài.

7. Đóng góp của luận văn

Đây là lĩnh vực chưa có sự quan tâm nghiên cứu của các nhà nghiên cứu trong

nước nên đề tài được tiến hành nghiên cứu nhằm có thể thu thập và hệ thống hóa

nguồn tài liệu tạo thành tập tin, nguồn tài liệu đáng tin cậy về là tài liệu có ích đối

với những người quan tâm đến đề tài.

8. Bố cục của luận văn và các vấn đề cần giải quyết

Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, tài liệu tham khảo, phần phụ lục luận văn

có ba chương nội dung chính:

7

Chương 1: Lý luận về địa chính trị và vấn đề địa chính trị trong chiến tranh thế

giới thứ II

Chương 2: Những trận hải chiến ở Đại Tây Dương và Địa Trung Hải trong

chiến tranh thế giới thứ II

Chương 3: Những trận hải chiến ở Thái Bình Dương trong chiến tranh thế giới

thứ II

8

Chương 1. LÝ LUẬN VỀ ĐỊA - CHÍNH TRỊ VÀ VẤN ĐỀ

ĐỊA - CHÍNH TRỊ TRONG CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ II

Trong hầu hết lịch sử quốc tế, kiểm soát lãnh thổ là tiêu điểm dẫn đến những

xung đột chính trị. Sự tự mãn dân tộc khi đã chiếm hữu được một lãnh thổ rộng

hơn, hoặc cái cảm tưởng của cả dân tộc bị tước đoạt mất mảnh đất “thiêng” là

nguyên nhân của hầu hết các cuộc chiến tranh đẫm máu xảy ra từ khi xuất hiện chủ

nghĩa dân tộc. Đòi hỏi cấp bách về lãnh thổ là là động lực chính đựa tới thái độ hiếu

chiến của các quốc gia dân tộc. Các đế chế cũng đã được xây dựng thông qua sự

chiếm đoạt và giữ vững các vị trí điạ lý thiết yếu như Gibraltar hay kênh đào Suez

hoặc Singapore là những điểm nghẽn then chốt trong hệ thống kiểm soát mang tính

đế quốc.

Mối quan hệ giữa chủ nghĩa dân tộc với sở hữu lãnh thổ được Đức Quốc xã và

đế quốc Nhật thể hiện rất rõ. Nỗ lực xây dựng “đế chế Đức ngàn năm” đã vượt ra

ngoài mục tiêu đoàn kết tất cả các dân tộc nói tiếng Đức dưới một mái nhà chính trị

và cũng tập trung vào tham vọng khống chế những “vựa lúa” Urcaina và các nước

Slavo khác để có lao động nô lệ rẻ mạt cho lãnh địa của đế quốc. Người Nhật cũng

bị ám ảnh bởi khái niệm cho rằng trực tiếp sỡ hữu lãnh thổ Mãn Châu và sau đó là

các cùng Đông Ấn thuộc Hà Lan sản xuất nhiều dầu hỏa là thiết yếu để hoàn thành

sứ mệnh tìm kiếm sức mạnh quốc gia và vị thế toàn cầu. [2, tr43] Vị trí địa lý đôi

khi mang lại cho họ vai trò đặc biệt, như nó là cửa ngõ vào các khu vực quan trọng,

như là một lá chắn phòng thủ cho một quốc gia trọng yếu, hoặc thậm chí cho cả một

khu vực. Sự tồn tại của yếu tố điểm then chốt địa chính trị có thể mang lại những

hậu quả chính trị và văn hóa rất có ý nghĩa đối với địa chính trị láng giềng.

1.1. Khái quát về khoa học địa - chính trị

Nghiên cứu mối quan hệ giữa chính trị với môi trường địa lí đã được nhiều

người thực hiện từ thời Trung cổ. Địa chính trị đã phát triển từ thời kì cổ đại đến

giữa thế kỉ XIX. Trong đó, nhà địa chính trị người Đức Friedrich Ratzel là một

trong những người đi tiên phong đánh dấu thời kì của địa chính trị hiện đại. Nhắc

đến địa chính trị thời kì trước đó, mỗi chúng ta không thể không kể đến các tên tuổi

9

nổi tiếng như Aristote, Jean Bodin, Montesquieu và Thucydide. Thời kì phát triển

mạnh mẽ của địa chính trị là giai đoạn nửa sau thế kỉ XIX và nửa đầu thế kỉ XX.

Môi trường tri thức thuận lợi đã tạo điều kiện cho ngành địa chính trị phát triển.

Giai đoạn này ghi đậm dấu ấn bằng sự chiến thắng của chủ nghĩa khoa học và việc

con người công nhận thuyết tiến hóa của Darwin được áp dụng trong các lĩnh vực

xã hội. Mặc dù, tư tưởng của địa chính trị được sử dụng từ rất sớm, nhưng với cấu

tạo từ ghép vì vậy quan niệm địa chính trị từ khi mới ra đời cho đến tận ngày nay

vẫn chưa được thống nhất.

1.1.1. Khái niệm địa - chính trị

Có thể nói rằng, tư tưởng địa chính trị có từ lâu đời, khi những quốc gia, dân

tộc trên thể giới hình thành. Nhưng khái niệm địa chính trị thì tới ngày nay vẫn

chưa có một khái niệm thống nhất. Tùy vào quan điểm, nhận thức của mỗi nhà khoa

học mà có những định nghĩa khác nhau, cũng như tùy vào từng giai đoạn lịch sử mà

thuật ngữ địa chính trị được hình thành.

Theo từ điển bách khoa Le Petit Larousse illustre của Pháp (năm 2000) đã

định nghĩa “Địa chính trị nghiên cứu các mối quan hệ giữa các dữ liệu đía lý với

nền chính trị của các quốc gia” [dẫn theo 4, tr.17].

Từ điển bách khoa Britannica (2004 CD –ROM) định nghĩa địa chính trị là

“sự phân tích những ảnh hưởng của địa lý đến các mối quan hệ quyền lực trong

chính trị quốc tế. Trong việc hoạch định các chính sách quốc gia, các nhà lý thuyết

địa chính trị đã tìm cách chứng minh tầm quan trọng của những điều đáng chú ý

như việc xác lập các đường biên giới quốc gia, quyền tiếp cận các đường biển quan

trọng và quyền kiểm soát những khu vực đất liền có tầm quan trọng chiến lược”

[dẫn lại theo 4, Tr.17].

Đây là hai định nghĩa kinh điển của giới khoa học. Bên cạnh đó, trong lịch sử

thuật ngữ địa chính trị được hình thành như sau:

Năm 1900, Rudolf Kjellen (1864 – 1922) là người đầu tiên đưa ra thuật ngữ

“địa chính trị” với định nghĩa như sau: “Địa chính trị là lý thuyết về quốc gia với tư

cách là một cơ thể địa lý hoặc một hiện tượng trong không gian, tức là đất đai, lãnh

thổ, khu vực hoặc đặc biệt nhất là một đất nước, hay nghiên cứu các chiến lược của

10

các cơ thể chính trị trong không gian” [Dẫn lại theo 4, tr.18]. Như vậy, theo định

nghĩa này, Kjellen chú trọng đến 2 yếu tố chủ chốt của địa chính trị là quyền lực và

không gian.

Tướng Đức Karl Haushỏe (1869 – 1946) thì bổ sung thêm các tiến trình chính

trị cho định nghĩa về địa chính trị: “Địa chính trị là một ngành khoa học quốc gia

mới nghiên cứu về nhà nước,… một học thuyết về quyết định luận không gian của

các tiến trình chính trị, dựa trên cơ sở rộng rãi của địa lý học, đặc biệt là địa lý học

chính trị” [dẫn theo 4, tr. 18].

Thời hiện đại, nhiều nhà khoa học đã đưa ra nhiều quan niệm khác nhau về địa

chính trị.

Saul Bernard Cohen một tác giả người Anh, vào năm 1964 đã đưa ra định

nghĩa địa chính trị như sau: Địa chính trị là khoa học nghiên cứu về “mối quan hệ

giữa quyền lực chính trị quốc tế với khung cảnh địa lý” [dẫn theo 4 , tr.18].

Năm 1988, Oyvind Osterud đã định nghĩa địa chính trị là: “Nói một cách tóm

tắt, theo truyền thống thì địa chính trị được dùng để chỉ các mối liên hệ và quan hệ

nhân quả giữa quyền lực chính trị với không gian địa lý; nói một cách cụ thể, nó

thường được coi là một khối tư duy có nhiệm vụ thử nghiệm những yêu cầu chiến

lược đặc thù dựa trên tầm quan trọng tương đối của sức mạnh trên đất liền và sức

mạnh trên biển trong lịch sử thế giới…Truyền thống địa chính trị có một số quan

ngại thường xuyên, ví dụ như những nhân tố tương quan sức mạnh trong nền chính

trị thế giới, như việc xác định các khu vực chủ chốt của quốc tế, và các mối quan hệ

giữa khả năng hải quân và khả năng trên bộ” . [dẫn theo, 4, tr.18]

Năm 1993, trong cuốn sách Political Geography [Địa lý học chính trị”,

Longman, xuất bản lần 3], tác giả Peter J.Taylor viết rằng sự phục hồi của địa chính

trị đã được định hình theo 3 cách:

1. Địa chính trị đã trở thành một thuật ngữ thông dụng để mô tả sự cạnh tranh

toàn cầu trong nền chính trị thế giới”

2. “Hình thức thứ hai (…) là một hình thức hàn lâm, một địa chính trị mới

mang tính phê phán hơn. Các nghiên cứu lịch sử mang tính phê phán đối với địa

chính trị trong quá khứ đã trở thành một thành tố cần thiết của ngành địa chính trị

11

của nhà địa lý học”

3. Hình thức thứ ba (…) liên quan đến phong trào vận động hành lang mang

tính tân bảo thủ, có thiên hướng quân sự, cũng cấp các luận cứ địa chính trị cho lối

nói khoa trương của phòng trào nào về chiến tranh lạnh. Những công trình nghiên

cứu như thế đang nói đến những thúc bách về địa chính trị và chúng coi địa lý học

là nhân tố thường trực mà mọi tư tưởng chiến lược cần phải xoay quanh. [4, tr 20]

Tác giả Marisol Touraine (Pháp) trong cuốn Le bouleversement du monde –

Géopolitique du XXI siecle (“Sự đảo lộn thế giới: Địa chính trị thể kỉ XXI”) đã ghi

ngoài bìa hai chữ: “Sience politique” (“khoa học chính trị”) cho thấy tác giả coi lĩnh

vực địa chính trị là thuộc ngành chính trị học.

Năm 1999, trong công trình Introdution à l’analyse geopolitique [“nhập môn

phân tích địa chính trị”] nhà nghiên cứu người Pháp Aymeric Chauprade đã phát

triển một phương pháp luận địa chính trị chặt chẽ. Ông định nghĩa địa chính trị như

sau:

“Khoa học địa chính trị là việc nghiên cứu nội hàm của các thực tế địa chính

trị và sự vận động của chúng, thông qua việc nghiên cứu diện mạo, hình thức và

những vị trí địa chính trị”. Ông xác định rõ thêm: “..Nói quốc là là trung tâm và

con bài của các tham vọng địa chính trị không có nghĩa quốc gia là các tác nhân

thế giới duy nhất; khác với lĩnh vực quan hệ quốc tế,…()Khoa học địa chính trị

chấp nhận cả các tác nhân khác và các thực tế địa chính trị khác nữa” [dẫn lại theo,

4, Tr.21]

Như vậy, khác với các nhà địa chính trị cổ điển, Chauprade phân biệt rõ ràng

giữa địa chính trị với quan hệ quốc tế.

Năm 2003, trong cuốn sách Geopolitics of the World System [“Địa chính trị

của hệ thống thế giới”, Rowman and Littlefield ], Saul Bernard Conhen lại định

nghĩa rõ thêm về địa chính trị: “Địa chính trị là việc phân tích mối tương quan giữa

một bên là môi trường và bối cảnh địa lý với một bên là các tiến trình chính trị.(…)

Cả môi trường địa lý lẫn tiến trình chính trị đều mang tính năng động và có ảnh

hưởng lẫn nhau. Địa chính trị sẽ quan tâm đến mối tương quan này.” [dẫn lại theo,

4, tr.21]..Tác giả nhìn nhận địa chính trị dưới góc độ mối tương quan năng động

12

giữa quyền lực và không gian.

Dưới góc độ tài nguyên Giáo sư người Mỹ Michael T.Klare một chuyên gia về

các vấn đề an ninh thế giới đã quan niệm địa chính trị là “sự tranh giành giữa các

đại cường quốc và giữa những đại cường quốc có tham vọng đối với việc kiếm soát

lãnh thổ, kiểm soát các nguồn tài nguyên và những vị trí địa lý quan trọng như hải

cảng, kênh đào, hệ thống sông ngòi, ốc đảo, cũng các nguồn của cải và nguồn ảnh

hưởng khác”; (…)ông cho rằng sự tranh giành này chính là động lực của nền chính

trị thế giới và đặc biệt là của xung đột thế giới trong nhiều thế kỷ qua (…). [dẫn lại

theo 4, tr.22]

Trong cuốn sách “Địa chính trị, một lịch sử lâu dài” xuất bản 2006 Yves

Lacoste đã tuyên bố như sau: “Thuật ngữ địa chính trị là cái là ngày nay người ta đã

sử dụng cho nhiều việc khác nhau, thực tế được dùng để chỉ tất cả những gì liên

quan đến sự cạnh tranh quyền lực hoặc ảnh hưởng đối với những vùng lãnh thổ và

dân chúng sống trên đó: đó là sự cạnh tranh giữa đủ loại thế lực chính trị chứ không

phải chỉ là giữa các quốc gia, mà còn giữa các phong trào chính trị hoặc các nhóm

vũ trang ít nhiều bất hợp pháp – đó là sự tranh giành quyền kiểm soát hoặc thống trị

đối với các vùng lãnh thổ có quy mô lớn hoặc nhỏ” [dẫn lại theo, 4, tr.23] ….trong

định nghĩa này Lacoste nhấn mạnh tầm quan trọng của quy mô của cả quyền lưc lẫn

của không gian.

Tác giả Conlin Flint, trong cuốn Nhập môn địa chính trị năm 2006 nhấn mạnh

đến khía cạnh thực tiễn của lĩnh vực khoa học này: giành giật quyền lực: “Địa chính

trị, với tư cách là cuộc đấu tranh nhằm kiểm soát không gian và địa điểm, tập trung

chú ý vào quyền lực (…) Trong những quá trình thực hành địa chính trị ở thế kỷ

XX, quyền lực được nhìn đơn giản như là quyền lực tương đối của các quốc gia

trong các hoạt động đối ngoại. Đến thế kỉ 20, (…) các định nghĩa về quyền lực đều

tập trung vào khả năng tiến hành chiến tranh của một nước chống lại nước khác”

[dẫn lại theo 4, tr.23]

Tác giả Nguyễn Văn Dân trong cuốn Địa - chính trị trong chiến lược và chính

sách phát triển quốc gia đã tổng kết lại như sau: Có hai loại quan niệm về địa chính

trị: Quan niệm thứ nhất cho rằng, địa chính trị là một phân nhánh của môn địa lý

13

học chính trị, trong khuôn khổ của môn địa lý học nhân văn thuộc khoa địa lý học;

Quan niệm thứ hai cho rằng địa chính trị là một bộ môn thuộc ngành chính trị học,

nghiên cứu lĩnh vực quan hệ quốc tế, liên quan đến vấn đề tương quan quyền lực

giữa các quốc gia trong một cái chung bao quát hơn là nền chính trị thế giới.

Nhưng, dù quan niệm thế nào thì địa chính trị cũng là một lĩnh vực khoa học lý

thuyết và thực hành liên quan đến cả địa lý lẫn quyền lực chính trị. Tùy từng trường

hợp, khi nghiên cứu lý thuyết thì bộ môn này thiên về yếu tố địa lý, còn khi thực

hành thì nó tập trung nhấn mạnh vào yếu tố chính trị.

Như vậy, địa – chính trị là một danh từ ghép nên việc định nghĩa nó cũng có

nhiều quan điểm khác nhau. Cùng với sự phát triển của lịch sử loài người, thì khái

niệm địa – chính trị cũng được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau. Nhưng chung

quy lại khái niệm xung quanh mối quan hệ giữa yếu tố địa lý – chính trị.

1.1.2. Địa - chiến lược

Địa chiến lược là khái niệm được dùng để chỉ việc nghiên cứu giá trị chiến

lược của các nhân tố địa lý trong chính sách đối ngoại của một quốc gia và trong

mối quan hệ của nó với các quốc gia khác. Như vậy địa chiến lược là một bộ phận

thực hành quan trọng của địa chính trị, là một bộ môn của địa chính trị. Địa chiến

lược được áp dụng để cụ thể hóa chính sách đối ngoại của một quốc gia. Hầu hết

các định nghĩa địa chiến lược đều nhấn mạnh đến việc liên kết những tính toán

chiến lược với các nhân tố địa chính trị. Trong khi địa chính trị có vẻ ngoài trung

lập khi nghiên cứu những đặc điểm địa lý và chính trị của các khu vực khác nhau,

thì địa chiến lược đòi hỏi phải có kế hoạch và đề ra các biện pháp toàn diện để thực

hiện các mục tiêu quốc gia hoặc bảo vệ những tài sản có ý nghĩa quân sự hoặc chính

trị.

Thuật ngữ “địa chiến lược” là thuật ngữ mới xuất hiện ở nửa đầu thế kỉ 20 do

Frederick L.Schuman sử dụng lần đầu tiên với tên gọi “geo-strategy” vào năm

1942 để dịch thuật một từ tiếng Đức của Haushofer là “Wehrgeopolitik” có nghĩa là

“địa chính trị phòng vệ” hay “địa chính trị quốc phòng”. Chính vì thê mà trước đó

cũng có người dịch sang tiếng Anh là “defense –geopolitics”, thậm chí còn được

nhà chính trị người Mỹ gốc Áo Robert Strausz – Hupé (1903 -2002) dịch là “war -

14

geopolitics” (địa chính trị chiến tranh). Như vậy, địa chiến lược gắn chặt với chính

sách quốc phòng của một quốc gia. Tuy nhiên, đối với các nước đế quốc, nhiệm vụ

quốc phòng không chỉ giới hạn ở việc bảo vệ tổ quốc, mà chủ yếu là việc mở rộng

và chinh phục lãnh thổ. Vì thế, địa chiến lược luôn đặt trong tầm nhìn của địa chính

trị , thậm chí địa chính trị toàn cầu, và được cụ thể hóa bằng tầm nhìn chiến tranh.

Thậm chí có nhiều lúc, nhiều nhà địa chính trị chỉ khai thác bộ môn này để phục vụ

cho các nhiệm vụ địa chiến lược quân sự, làm cho trong một số trường hợp cụ thể,

địa chính trị bị đồng nhất với địa chiến lược [4, Tr.32].

Tư tưởng địa chiến lược đã xuất hiện thời xa xưa. Từ Đông sang Tây, mỗi khi

tiến hành các chiến dịch quân sự, các tướng lĩnh đều phải tính toán đến các yéu tố

địa lý và chính trị - quân sự để đề ra các chiến lược hành động. Các nhà chiến lược

như Tôn Tử (thế kỉ 6 -5 trước Công nguyên, Tôn Tấn (thế kỉ 4 trước Công nguyên)

của Trung Quốc, Trần Quốc Tuấn (thế kỉ 13) của Việt Nam đều có thể gọi là những

nhà địa chiến lược đại tài khi họ biết kết hợp chính trị với thiên thời và địa lợi để

thực hiện các mục tiêu quân sự, không kém gì các tướng tài của các đế quốc Hy

Lạp, La Mã…

Trong Binh pháp Tôn Tử, Tôn Tử (Tôn Vũ) đã đúc kết kinh nghiệm và rút ra

các bài học về dùng binh. Ông đã đưa ra 5 nhân tố quan trọng quyết định sự thành

bại của chiến tranh: Đạo, Thiên, Địa, Tướng, Pháp, trong đó 3 nhân tố đầu đều có

thể được coi là thuộc phạm vi của địa chính trị. Ông nói rõ: “Đạo là chỉ việc chính

trị, đạo nghĩa” ;Thiên là thiên thời”, tức tình trạng khí hậu thời tiết, Địa là địa lợi,

nói về đường sá, địa thế, địa hình..Trong thiên thứ mời (“Địa hình”), ông phân tích

“Sáu loại địa hình” cần chú ý khi dụng binh và Thiên mười một (“Cửu địa”) ông

dành để phân tích “chín thế đất” mà các tướng lĩnh cần quan tâm khi giao chiến. Có

thể nói Binh pháp Tôn Tử là một cuốn “cẩm nang tác chiến” và là một trong những

công trình lý luận địa chién lược đầu tiên của tư duy địa chính trị [4, tr.33].

Cuốn sách Binh gia diệu lý yếu lược, còn được gọi là Binh thư yếu lược của

Trần Quốc Tuấn cũng là một cuốn sách có giá trị như một công trình bàn về địa

chiến lược quân sự. Các bài viết về địa hình đã được Trần Quốc Tuấn cũng là một

cuốn sách có giá trị như là một công trình bàn về địa chiến lược quân sự. Các bài

15

viết về Địa hình đã được Trần Quốc Tuấn vận dụng rất sáng tạo để tiêu diệt quân

xâm lược nhà Nguyên trên cửa sông Bạch Đằng. Có thể thấy, địa chiến lược là một

lĩnh vực đã có kinh nghiệm thực tiễn từ lâu và các bài viết về cách dùng binh có thể

được coi là những bài thực nghiệm của địa chiến lược, đồng thời còn có thể được

coi là những bài học sơ khai của địa chính trị [4,tr.33].

Như vậy, do tính chất gần gũi giữa địa chính trị và địa chiến lược cho nên khi

bàn về địa chính trị, nếu chúng ta có phân tích các vấn đề thuộc địa chiến lược thì

cũng hoàn toàn hợp lý và cần thiết, bởi lẽ khó có thể tách rời ba lĩnh vực này mà

không làm hỏng bức tranh về quan hệ hệ quốc tế. Ví dụ, khi bàn về Mackinder,

người ta vừa coi ông là một nhà địa lý học, vừa là nhà địa chính trị và cũng vừa là

nhà địa chiến lược. Chẳng hạn như trong cuốn Global Geostrategy: Mackinder and

defence of the West: “Địa chính trị toàn cầu: Mackinder và phòng thủ phương Tây”

của Brian W.Blouet (Nxb.Routledge,2005), tác giả đã dành cả tập 1 để giới thiệu

các lý thuyết chính trị và tập trung vào Mackinder. Vì thế, để cho giản tiện chúng ta

có thể gộp tất cả vấn đề của cả ba lĩnh vực nói trên dưới một cái mũ chung là “địa

chính trị” [4, tr.33-34].

Tác giả nhìn nhận địa chiến lược với ý nghĩa là một bộ môn, bộ phận thực

hành của địa chính trị vì vậy trong công trình của mình tác giả có tìm hiểu sâu về

yếu tố địa lý ảnh hưởng đến những chiến lược, chiến thuật của các vì tướng cầm

quân cũng như phân tích những nguyên nhân thắng lợi và thất bại của trận hải chiến

trong cuộc chiến tranh thế giới thứ hai.

1.2. Các học thuyết địa - chính trị ảnh hưởng đến chiến lược của các

nước trong chiến tranh thế giới thứ 2

1.2.1. Tư tưởng địa – chính trị ở Hoa Kỳ

Hoa Kỳ là một quốc gia nằm giữa hai đại dương là Đại Tây Dương và Thái

Bình Dương. Đất nước được bao quanh bởi biển cả và đại dương, Hoa Kỳ vừa có

lợi thế để phát triển kinh tế biển vừa có được đường hào thiên nhiên bảo vệ để

chống lại mọi sự xâm nhập của các đế quốc truyền thông ở châu Âu, đảm bảo gần

như tuyệt đối cho an ninh quốc gia. Vì thế trong lịch sử non trẻ của mình, ngoại trừ

cuộc chiến tranh chống lại “mẫu quốc” là Đế quốc Anh để giành độc lập dân tộc từ

16

năm 1775 đến 1781, Hoa Kỳ chưa một lần nào phải đương đầu với một cuộc xâm

lược từ bên ngoài. Sự giàu có về tài nguyên cộng với vị trí địa chiến lược thuận lợi

đã giúp Hoa Kỳ nhanh chóng phát huy lợi thế địa - chính trị của mình để trở thành

một đế quốc hiện đại, thay thế cho đế quốc Anh già cỗi. Trong quá trình phát triển

đó, Hoa Kỳ đã kết hợp các lý thuyết địa - chính trị với địa - kinh tế, địa - quân sự để

thực hiện công cuộc bành trướng lãnh thổ cũng như bành trướng sự ảnh hưởng của

mình ra toàn thế giới.

Như vậy, là một quốc gia biển, Hoa Kỳ rất quan tâm đến các lý thuyết địa -

chính trị coi trọng sức mạnh biển. Trong tinh thần đó, lý thuyết địa chiến lược của

Alfred Mahan về sức mạnh biển đã nhanh chóng được áp dụng để Hoa Kỳ xây dựng

một lực lượng hải quân thuộc loại hùng mạnh nhất thế giới.

1.2.1.1. Lý thuyết sức mạnh biển của Alfred Thayer Mahan

Đô đốc Mahan là người sáng lập ra ngành địa chính trị của Mỹ. Ông trở thành

cố vấn cho nhiều nhà lãnh đạo Mỹ, trong đó có tổng thống Théodore Roosevelt.

Mahan đã suy nghĩ và đặt câu hỏi: “Làm thế nào để nước Mỹ có thể trở thành

cường quốc trên thế giới?”. Ông đưa ra lời giải đáp bằng cách nhận định nước Mỹ

sẽ thống trị thế giới bằng chiến lược làm chủ các đại dương. Ông nhận xét nước Mỹ

đã trở thành cường quốc công nghiệp và là cường quốc lục địa, nhưng sức mạnh của

một quốc gia không phụ thuộc vào điều đó mà phục thuộc vào việc làm chủ các đại

dương.

Ông đưa ra lí thuyết sức mạnh đến từ biển. Khi mọi sự giao thương buôn bán

với bên ngoài đều được tiến hành thông qua các hải cảng của đất nước và mỗi quốc

gia đều muốn việc buôn bán của mình được tiến hành bằng chính những con tàu của

đất nước mình. Việc buôn bán bằng tàu biển đó lại đòi hỏi các hải cảng và hành

trình buôn bán cần được đất nước bảo vệ. Trong thời chiến tranh, trách nhiệm bảo

vệ này cần được mở rộng cho lực lượng tàu chiến. Như vậy, theo Mahan, yêu cầu

phải có một lực lượng hải quân xuất phát từ sự tồn tại của việc vận tải bằng một đội

tàu biển thương mại hòa bình. Lực lượng này sẽ được giải thể khi việc buôn bán

bằng đường biển không còn nữa, trừ trường hợp một quốc gia có xu hướng đi xâm

lược. Để đảm bảo cho việc vận tải bằng tàu biển, các quốc gia đều có xu hướng tìm

17

kiếm và xây dựng cho mình những đồn bốt tiền tiêu dọc đường đi. Và thế là quá

trình thực dân hóa và thành lập các thuộc địa đã diễn ra để đảm bảo cho các đế quốc

có được một nền giao thương trên biển vững mạnh [4, tr. 47].

Ông phát triển lí thuyết về tranh chấp giữa quốc gia có sức mạnh trên đất liền

với các quốc gia có sức mạnh trên biển. Quốc gia có sức mạnh trên biển sẽ chiến

thắng trong cuộc đua này. Để đảm bảo sự thống trị của mình, cường quốc về biển

cần phải kiểm soát toàn bộ các tuyến đường giao thương trên biển. Ở thế kỉ 19, sự

kiểm soát buôn bán bằng đường biển là một vấn đề chủ chốt, đặc biệt là một quốc

gia hoàn toàn bị ám ảnh bởi sự bành trướng sang miền đất phía tây của lục địa châu

Âu.

Theo ông, để quốc gia có một sức mạnh biển hùng mạnh thì yếu tố chính

quyền có vai trò quan trọng: Vì trong thời bình, bằng chính sách của mình, chính

quyền có thể tạo thuận lợi cho sự tăng trưởng công nghiệp của người dân và cho xu

hướng làm giàu của họ bằng đường biển. Trên cơ sở đó, một lực lượng hải quân

vững mạnh sẽ được thiết lập; Trong thời chiến, sự ảnh hưởng của chính quyền được

cảm nhận một cách hợp pháp, nhất là trong việc duy trì một đội tàu hải quân vũ

trang, với quy mô tương xứng với sự tăng trưởng của ngành vận tải bằng tàu biển

với tầm quan trọng của quyền lợi liên quan đến nó. Quan trọng hơn quy mô của hải

quân chính là vấn đề về các thế chế của nó, có khả năng tạo thuận lợi cho tinh thần

và một hoạt động mạnh mẽ và tạo một sự phát triển nhanh trong thời chiến nhờ vào

một lực lượng dự bị thích hợp về người và tàu biển và nhờ các biện pháp khai thác

sức mạnh dự bị đó.

Tướng Mahan rất quan tâm đến sức mạnh biển và đến sự làm chủ trên biển

của một quốc gia. Theo ông, một quốc gia có sức mạnh biển thì sẽ trở thành một

cường quốc hùng mạnh biển của một quốc gia chủ yếu được quy giản thành sức

mạnh hải quân, tức là vào khía cạnh quân sự của quyền làm chủ trên biển.

Ông cho rằng trong chiến tranh, việc kiểm soát được việc buôn bán bằng

đường biển có tính chất quyết định giúp cho một bên tham chiến giành quyền chế

ngự. Nếu một bên tham chiến có khả năng chặn được đường biển của đối phương

thì nền kinh thế của đối phương sẽ không tránh khỏi sụp đổ. Nhưng muốn làm chủ

18

được trên biển thì theo ông, không thể dựa vào đội tàu thương mại mà phải dựa vào

đội tàu chiến mới có thể thực hiện được sứ mệnh này.

Mục tiêu của Mahan là hạm đội tàu chiến phải có khả năng tiêu diệt được lực

lượng chủ yếu của kẻ thù chỉ bằng một trận đánh quyết định duy nhất. Sau đó, việc

củng cố cuộc phong tỏa chống lại các tàu buôn của kẻ thù và săn tìm các con tàu

nhẹ còn lại của chúng sẽ là một việc có thể thực hiện được. Bởi vì, với đội tàu nặng

bị đánh đắm, kẻ thù khó có thể tái thiết được.

Hơn nữa, mục tiêu của kẻ yếu là trì hoãn một trận đánh quyết định như vậy;

nếu hạm đội của họ vẫn có đủ sức tạo thành một mối đe dọa thì kẻ thù sẽ không

dám liều mạng đưa lực lượng đến gần những con đường buôn bán trên biển. Đó

chính là chiến lược kìm giữ hải quân ở trong cảng, được gọi là “hạm đội binh”,

dùng để đe dọa chứ không phải để hành động.

Cuộc chiến tranh thế giới thứ hai diễn ra trên mặt trận Đại Tây Dương, Địa

Trung Hải là những cuộc chiến chống phá tàu ngầm, bảo vệ những đội thương

thuyền đảm bảo cho việc vận tải đường biển để tiếp viện cho chiến trường châu Âu,

châu Phi cũng như Anh quốc. Sự thắng lợi của phe Đồng minh đã cho thấy rằng

thắng lợi sẽ thuộc về bên nào có lực lượng hải quân bảo vệ đội thương thuyền mạnh

nhất. Có thể nhận thấy rằng, lực lượng hải quân đảm bảo cho đội thương thuyền đó

phụ thuộc vào sức mạnh vất chất của các cường quốc, cũng như chính sách quốc

phòng của các nước đó.

Mahan công nhận rằng, thành phần quan trọng nhất của cơ sở hạ tầng là hệ

thống đồn trú của lực lượng quân sự; nếu có điều kiện, cần phải phát triển hệ thống

này trên tất cả các khu vực quan trọng nhất của đại dương thế giới. Quan điểm này -

sách báo Liên Xô gọi là phản động và giả khoa học - bị các lí thuyết gia hải quân

phê phán kịch liệt. Trong khi đó, kinh nghiệm của Thế chiến II là bằng chứng đầy

thuyết phục cho luận điểm của Mahan. Hoạt động tuần dương của những con tàu

nổi cỡ lớn của hải quân Đức ở Đại Tây Dương không thu được nhiều thắng lợi,

trước hết bởi họ không có các cơ sở đồn trú ở những khu vực xa xôi. Hiệu quả hoạt

động của những con tàu ngầm Đức ở Đại Tây Dương được giải thích là do họ có

căn cứ hoạt động nhịp nhàng. Hoạt động quân sự Thái Bình Dương chủ yếu nhằm

19

chiếm các hòn đảo, nghĩa là tìm cách mở rộng hệ thống đồn trú của các hạm đội.

Trong giai đoạn tấn công chiến lược, hoạt động của các lực lượng không quân đóng

trên mặt đất mà thôi. Sau khi chiếm hết vị trí này đến vị trí khác, họ đã di chuyển

vào những nước gọi là các nước ở biển Đông. Người Mỹ cũng theo chiến lược như

thế, đó là chiến lược mà họ gọi là “những bước nhảy của ếch”. Sau khi lần lượt

chiếm các đảo và quần đảo, quân Mỹ tiến gần tới Nhật Bản. Lực lượng quân sự của

cả Nhật lẫn Mỹ đều tuân thủ quan điểm của Mahan [13, tr.15-16].

Sức mạnh trên biển, theo quan điểm của Mahan, là một hệ thống phức tạp, bao

gồm những thành phần như hạm đội tàu chiến và đội thương thuyền, cảng và căn cứ

hải quân. Ông sử dụng công thức sau: SP=N + MM + NB, nghĩa là sức mạnh trên

biển (Se Power) là Hải quân (Navy) + đội thương thuyền (Merchant Marine) + căn

cứ hải quân (Naval Bases). Mahan nhận xét rằng, nguyên nhân của nhiều cuộc

chiến tranh là giành giật “nền thương mại trên biển đầy lợi lộc”, “Xung đột lợi ích,

lòng hận thù bùng lên do các bên đều cố giành cho được phần lớn hơn, nếu không

nói là tất cả những lời ích mà thương trường tạo ra, dẫn đến những cuộc chiến

tranh” [13,tr.18].

Xem xét trong cuộc chiến tranh diễn ra trực tiếp trên con đường giao thương,

Mahan viết: “Những cuộc chiến đó không thể diễn ra đơn độc, dùng thuật ngữ quân

sự thì phải nói cần được hỗ trợ; bản thân không có đủ sức mạnh, nó không thể vươn

xa ra căn cứ của chính mình. Căn cứ phải là cảng trong nước hoặc tiền đồn vững

mạnh của quốc gia ở trên bờ hay giữa biển, tức là lãnh thổ thuộc địa ở xa hay một

hạm đội đầy sức mạnh”. Vì vậy, Mahan cho rằng nhiệm vụ chính của hải quân

trong chiến tranh là giành được quyền làm chủ trên biển. Quyền làm chủ mặt biển

được hiểu là đuổi toàn bộ hạm đội địch ra khỏi mặt biển. “Không phải việc bắt một

vài con tàu riêng lẻ hay đoàn tàu vận tải, dù là đông, có thể làm lung lay sức mạnh

quốc gia” - Mahan viết: “mà sự vượt trội hơn hẳn trên mặt biển, đủ sức đuổi hạm

đội địch hay chỉ cho phép họ xuất hiện như những kẻ tháo chạy; sự vượt trội như

thế tạo điều kiện xác lập quyền kiểm soát mặt biển và chặn đứng những con đường

mà tàu buôn dùng để đến và đi khỏi những bến bờ của họ”. Theo Mahan tranh giành

quyền bá chủ trên biển là mục đích của chiến tranh: “Làm chủ mặt biển hay kiểm

20

soát và sử dụng nó mãi mãi vẫn là những tác nhân vĩ đại trong lịch sử thế giới

[13, tr.18].

Về mặt tư tưởng, ban đầu hải quân Hoa Kì đã phản đối việc thay tàu buồm

bằng tàu hơi nước sau cuộc nội chiến. Tuy nhiên, Mahan đã cho rằng chỉ có các tàu

chiến bọc thép mới có thể có vai trò quyết định trong một cuộc chiến tranh hiện đại.

Theo học thuyết về trận đánh quyết định, một hạm đội không được để bị chia cắt;

công trình của Mahan đã khuyến khích sự cải thiện kỹ thuật bằng cách thuyết phục

những người phản đối rằng kiến thức và chiến lược hải quân vẫn là cần thiết, nhưng

sự thống trị biển đã dẫn đến yêu cầu phải đẩy nhanh sự phát triển của động cơ hơi

nước.

Công trình của Mahan đã ảnh hưởng lớn đến các lực lượng vũ trang của họ đã

được xây dựng từ trước cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất; đến bộ phận hải quân

của cuộc chiến tranh Tây Ban Nha – Mỹ; đến các trận đánh Tsushima, Jutland và

Đại Tây Dương; đến các học thuyết của những lực lượng hải quân lớn trong thời kỳ

giữa hai thế chiến.

Cuốn sách “Sự ảnh hưởng của sức mạnh biển đến lịch sử, giai đoạn 1660 –

1783”, còn được dịch sang tiếng Nhật và được sử dụng như sách giáo khoa trong

hải quân hoàng gia Nhật Bản. Điều này ảnh hưởng mạnh đến sự chỉ đạo cuộc chiến

tranh Thái Bình Dường của hải quân Nhật Bản, bằng cách nhận mạnh đến học

thuyết “trận đánh quyết định”- cho dù làm tổn hại đến việc bảo vệ buôn bán.

Tuy nhiên tiền đề cho rằng một lực lượng dự bị sẽ không phục hồi được sau

khi bị đánh bại hoàn toàn đã bị bác bỏ, bởi sự phục hồi của hải quân Mỹ sau khi bị

Nhật Bản tấn công tại Trân Châu cảng thuộc Hawaii, mặc dù người ta có thể biện

hộ rằng không phải là một trận thất bại hoàn toàn, bởi lẽ các tàu sân bay của Mĩ đã

không bị tiêu diệt mà chỉ có tàu chiến bị oanh tạc. Sự thất bại của hải quân Hoàng

gia Nhật Bản vào năm 1945 làm đổ vỡ học thuyết về vai trò của trận đánh quyết

định giữa các hạm đội. Đó là do sự phát triển của tàu ngầm và tàu sân bay, một lý

do khác là hải quân Nhật thỉnh thoảng lại chia xẻ lực lượng chủ chốt của mình.

Mahan trở thành nhà địa chính trị hàng đầu của Mỹ trong chiến lược xây dựng

hải quân. Đối với Hoa Kỳ biển và đại dương là một không gian rộng lớn cần phải

21

được kiểm soát. Nhưng do diện tích quá lớn, các quốc gia không thể kiểm soát và

làm chủ được toàn bộ mọi nơi. Vì vậy, cần tập trung vào một số trục giao thông

hàng hải, nơi có các con đường giao thương quan trọng, hay những nơi có các eo

biển có tính chiến lược của mỗi nước, ví dụ như eo biển Gibraltar, kênh đào Suez,

kênh đào Panama. Ông cho rằng trong chiến tranh, việc kiểm soát được việc buôn

bán bằng đường biển có tính chất quyết định giúp cho một bên tham chiến giành

quyền chế ngự. Nếu một bên tham chiến có khả năng chặn được đường biển của đối

phương thì nền kinh thế của đối phương sẽ không tránh khỏi sụp đổ. Nhưng muốn

làm chủ được trên biển thì theo ông, không thể dựa vào đội tàu thương mại mà phải

dựa vào đội tàu chiến mới có thể thực hiện được sứ mệnh này [4, tr.47].

Mahan đưa ra giả thuyết coi nước Mỹ như một hòn đảo, để có được sức

 Nước Mỹ cần có khả năng kiểm soát toàn bộ các biển và đại dương bằng

mạnh, nước Mỹ cần tập trung chú ý vào ba điểm quan trọng:

 Nước Mỹ cần luôn sẵn sàng đối mặt với sức mạnh đang lên của các cường

cách liên kết với Anh.

 Người Mỹ cần có chiến lược phòng vệ bằng cách hợp tác với châu Âu để

quốc mới về hàng hải, đặc biệt là tham vọng của hoàng đế Guillaume II của Đức.

giảm bớt sức mạnh về hàng hải của các nước châu Á. Liên minh giữa Mỹ và châu

Âu cần phải được thiết lập để làm chủ không gian rộng lớn của biển và đại dương.

Sự hợp tác giữa cường quốc đường biển và cường quốc về lục địa là điều cần thiết.

Mahan là người đầu tiên suy nghĩ về mối liên hệ giữa lục địa và biển. Mối liên

hệ trọng tâm này được con người đặc biệt quan tâm, mỗi khi bàn về địa chính trị.

Karl Haushofer là người tiếp tục phát triển lí thuyết này đến mức độ hoàn thiện hơn.

Sau chiến tranh thế giới thứ 2, lí thuyết về mối liên hệ giữa biển và lục địa, không

mấy được chú ý vì những lí do khác nhau, nhưng đây vẫn là vấn đề quan trọng hàng

đầu của địa chính trị. Mahan nhận định cuộc đấu giữa cường quốc về biển và cường

quốc lục địa là vấn đề mấu chốt để quyết định quốc gia nào sẽ giành vị trí thống trị

thế giới, vì trong cuộc đấu này, có nhiều yếu tố rất khác biệt chi phối. Một bên là

không gian biển và đại dương rộng lớn, không có nước nào có thể thể kiểm soát hết

và cũng không có nước nào tuyên bố chủ quyền toàn bộ vì có những khu vực là của

22

chung. Còn một bên là lục địa, nơi có những biên giới được phân chia và luôn là

mục tiêu của các cuộc xâm lăng. Quốc gia có sức mạnh chinh phục các vùng biển

và đại dương, có quyền kiểm soát ở nhiều khu vực nhờ sức mạnh của hải quân sẽ

chiến thắng các cường quốc về lục địa. Mahan khẳng định nước Mỹ là cường quốc

về biển, vì vị trí địa lí của Mỹ nhìn ra cả Đại Tây Dương và Thái Bình Dương. Ví

dụ nếu có đối đầu giữa cường quốc về hàng hải và cường quốc về lục địa là Mỹ và

Trung Quốc, Mỹ sẽ chiến thắng. Mặc dù Mahan không có cái nhìn bao quát toàn bộ

về địa chính trị, vì suy nghĩ của ông chỉ dừng lại ở sức mạnh từ biển, nhưng lí

thuyết của ông có nhiều ảnh hưởng đến chính sách đối ngoại của Mỹ.

Dưới sức ép của các công ty hàng hải, đồng thời nhận thấy những lợi ích của

nước Mỹ trong việc kiểm soát các tuyến hàng hải, các nhà lãnh đạo Mỹ đã từ bỏ học

thuyết Monroe (không can thiệp vào các công việc nội bộ của châu Âu), để xây

dựng một nền chính trị ngoại giao can thiệp vào các nước khác. Nước Mỹ càng

ngày càng tham gia vào các vấn đề quốc tế nhân danh tự do hàng hải. Mahan cho

rằng thiết lập các mối quan hệ giao thương với các nước là điều kiện sống còn cho

nền kinh tế Mỹ. Nhưng việc trao đổi buôn bán với các nước chỉ được đảm bảo và

duy trì nhờ có sự bảo vệ của lực lượng hải quân hùng mạnh, hải quân cần có mặt

khắp nơi trên các vùng biển và đại dương. Sức mạnh hải quân áp đảo đồng nghĩa

với sự thống trị của Mỹ trên biển và đại dương [32].

Cũng nói về vai trò của biển và đại dương đối với nước Mỹ tác giả Samuel

Eliot Mirison trong phần kết của cuốn The Two Ocean war a short history of the

United states navy in the second world war năm 1963 đã viết: không có thời đại

nguyên tử, đối với nước Mỹ tàu và máy bay trên tàu đảm bảo sự tự do của quốc gia,

thông tin liên lạc với thế giới bên ngoài và chính sự tồn tại của đất nước [29, p.

586].

Như vậy để thấy rằng đối với quốc gia (Mỹ) biển chiến vai trò chiến lược, yếu

tố địa chính trị quan trọng đối với an ninh của quốc gia. Điều đó cũng dễ hiểu vì sao

trong những năm giữa hai cuộc chiến chính phủ Mỹ quan tâm đến vấn đề hải quân,

đặc biệt là những hiệp ước về giới hạn hải quân với các nước trong hội nghị

Washington. Người Mỹ cũng có một hạm đội Thái Bình Dương đóng ở Hawaii lớn

23

mạnh. Chính diễn biến của cuộc thế chiến hai trên Đại Tây Dương, Thái Bình

Dương đã thúc giục người Mỹ, nền kỹ nghệ quốc phòng Mỹ hoàn thành hạm đội hai

đại dương.

1.2.1.2. Nicholas Spykman (1893-1943)

Nicholas Spykman (1893-1943) là nhà địa - chính trị nổi tiếng người Mỹ.

Quan điểm về địa chính trị của ông được giới thiệu trong cuốn sách Chiến lược của

Mỹ trong nền chính trị quốc tế: Nước Mỹ và cân bằng quyền lực (1942). Trong giai

đoạn này, địa chính trị được công chúng quan tâm và được tìm hiểu kỹ hơn vì nước

Mỹ đã tham gia chiến tranh thế giới thứ 2. Cuộc xung đột vũ trang trên quy mô rộng

lớn cần được phân tích cẩn thận về không gian nơi diễn ra chiến tranh, về mối liên

hệ sức mạnh quân sự giữa các bên. Tổng thống Roosevelt đã nói với dân chúng:

“Tôi yêu cầu người Mỹ hãy mở bản đồ ra theo dõi, tôi sẽ giải thích một chút về địa

lí cho các bạn” [32].

Nicholas Spykman xem xét và phân tích lại các vấn đề địa chính trị được

Mackinder đưa ra trước đây. Ông nghĩ ra một khái niệm mới “vùng trung gian”

(Rimland). Ông cho rằng địa chính trị của Mỹ cần phải lưu ý đến vùng trung gian,

sau khi chiến tranh kết thúc. Ông cũng dự đoán những kịch bản về quan hệ quốc tế,

mối tương quan lực lượng giữa các quốc gia. Ông nhấn mạnh tầm quan trọng của

vùng đảo thế giới, nhưng nguyên tắc cơ bản giúp cho một quốc gia thống trị thế giới

không phải là vấn đề kiểm soát được tâm thế giới mà là khu vực trung gian giữa tâm

thế giới và các khu vực trung quanh trên đảo thế giới.

Rimland là vùng nằm giữa tâm thế giới và các vùng biển gần bờ trải rộng từ

Tây Âu, đến Thổ Nhĩ Kì, Iran, Pakistan, bán đảo Ả rập và Biển Đông ở châu Á.

Không gian rộng lớn này sẽ là nơi cạnh tranh giữa cường quốc về biển (Mỹ) và

cường quốc lục địa (Liên bang Xô viết). Sau khi chiến tranh kết thúc, hai đồng minh

chiến thắng sẽ trở thành kẻ thù của nhau. Mỹ cần làm chủ vùng trung gian vì khu

vực này trở thành thách thức lớn cho chính sách đối ngoại quốc tế. Nếu thành công,

Mỹ sẽ có cơ hội tiếp cận với các vùng giàu có về tài nguyên thuộc đảo thế giới và

Mỹ sẽ chế ngự được Liên bang Xô viết. Nếu các nước trong khu vực trung gian của

thế giới cùng đi đến thống nhất và Liên bang Xô viết có ảnh hưởng sâu rộng ở đây,

24

đó sẽ là một thách thức lớn cho Mỹ. Ông nhận định nước Mỹ cần thiết lập các liên

minh chặt chẽ và thân thiện với các nước trong vùng trung gian giữa đảo thế giới và

tâm thế giới. Các sáng kiến về địa chính trị được Nicholas Spykman đưa ra năm

1942, cũng vào thời điểm đó, Mỹ tham gia chiến tranh chống lại Nhật, quan hệ của

hai bên rất căng thẳng [32].

Ra đời trong cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất, tư tưởng của Nicholas

Spykman đã ảnh hưởng lớn đến chiến lược của chính phủ Mỹ đối với châu Âu, Á

trong cuộc chiến tranh.

1.2.2. Tư tưởng địa – chính trị ở Anh

Halford J. Mackinder (1861-1947) là đô đốc người Anh. Ông dạy địa chính

trị tại đại học Oxford. Ông là hiệu trưởng trường khoa học chính trị và quan hệ quốc

tế. Ông được đánh giá là khuôn mặt tiêu biểu của ngành địa chính trị ở châu Âu.

Mackinder quan tâm đến sự phát triển của nước Anh cũng như tương lai của đế chế

Anh. Ngay cả khi nước Anh đang ở thời kì cực thịnh, ông cho rằng, thời kì suy

thoái của nước Anh sẽ không còn xa. Ông muốn báo động cho mọi người biết

những mối đe dọa đến đế chế Anh. Ông đặt ra câu hỏi: “Làm thế nào để bảo đảm sự

sống còn cho đế chế Anh?”. Suy nghĩ của ông cũng phù hợp với lo lắng của nhiều

người Anh vào thời điểm đó, vì nước Anh cần có những kế hoạch cụ thể để đối mặt

với sức mạnh quân sự cũng như những tham vọng của các cường quốc khác ở châu

Âu. Các tác phẩm của ông có nhiều ảnh hưởng đến ngành địa chính trị ở châu Âu.

Ông đưa ra hai khái niệm: Tâm thế giới (Heart Land) và đảo thế giới (World

Island).

Nội dung cơ bản trong lí thuyết địa chính trị của Mackinder phản ánh trung

tâm địa lí của lịch sử. Ông đưa ra nhận định trung tâm các hiện tượng địa chính trị

xuất phát từ trung tâm địa lí của thế giới. Ông xác định chính cái hạt nhân Bắc –

Trung của lục địa châu Á – Âu là khu vực trung hay “quốc gia trục” của nền chính

trị thế giới. Nó chính là vùng đất trái tim, hay trục của “hòn đảo thế giới” Á – Âu.

Nó được che chắn xung quanh là biển cả, có khả năng tự cung cấp. Con đường duy

nhất có khả năng tiếp cận với nó là khu vực Đông Âu, để từ đó có thể tới làm chủ

thế giới. Tất cả các phân tích của ông có thể được tổng kết như sau: “Ai kiểm soát

25

được Đông Âu, sẽ khống chế miền đất trái tim. Ai khống chế được miền đất trái tim

thì sẽ không chế được đảo thế giới,(…) sẽ kiểm soát được cả thế giới” [4, tr.69].

 Đại dương trên thế giới chiếm 9/12 diện tích.

 Đảo thế giới bao gồm các lục địa rộng lớn là châu Âu, châu Á và châu Phi,

Ông miêu tả trái đất như một diện tích tổng thể gồm có ba không gian chính:

 Các đảo lớn ở ngoại vi bao gồm châu Mỹ và Australia chiếm 1/12.

có tổng diện tích 1/12.

Để thống trị thế giới, cần phải thống trị đảo thế giới, điểm quan trọng nhất của

nó là tâm thế giới. Đây là một vùng bản lề kéo dài từ các đồng bằng ở Trung Âu đến

Tây Sibérie, khu vực trung tâm này sẽ tạo ảnh hưởng sâu rộng đến vùng Địa Trung

Hải, Trung Đông và các khu vực rộng lớn ở Trung Quốc và Ấn Độ. Cường quốc

kiểm soát được tâm của đảo thế giới sẽ kiểm soát được đảo thế giới và sẽ làm chủ

thế giới. Tất cả các sự kiện địa chính trị diễn ra ở tâm đảo thế giới, sẽ có tác động

đến toàn bộ thế giới. Trung tâm các diễn biến chính trị trên thế giới nằm ở châu Âu

và châu Á. Cường quốc về biển sẽ không có tác động đến các sự kiện chính trị diễn

ra ở đây. Nước Nga trở thành một trong những vùng thuộc tâm thế giới. Toàn bộ

các hiện tượng địa chính trị sẽ diễn ra ở tâm thế giới. Đây sẽ là nơi đối đầu giữa các

cường quốc. Quốc gia chiếm được tâm thế giới sẽ tạo được nhiều ảnh hưởng đến

các khu vực xung quanh. Mackinder lo ngại về một liên minh giữa Nga và Đức sẽ

dẫn đến hậu quả là tâm thế giới bị hai quốc gia này kiểm soát. Nước Nga có lãnh

thổ rộng lớn, tạo ra sức mạnh quốc phòng. Nước Đức nhờ nguồn nhân lực và tài

nguyên phong phú sẽ xây dựng được lực lượng hải quân hùng mạnh để kiểm soát

đảo thế giới. Hợp tác giữa Nga và Đức sẽ là mối nguy hại chính đối với nước Anh.

Sức mạnh hải quân của Anh sẽ bị đe dọa, do vậy, cần chú ý đến các cường quốc lục

địa này. Mặt tiền trong ra đại dương sẽ được bổ sung cho nguồn lực của lục địa lớn,

tạo ra những điều kiện chính trị cần thiết để sản sinh ra một thế lực áp đảo cả trên

đất liền lẫn biển.

Mối tương quan về sức mạnh giữa các quốc gia được thực hiện nhờ các tiến

bộ về kĩ thuật và nhờ quá trình phát triển các nguồn năng lượng mới. Từ thế kỉ XV,

trao đổi hàng hóa, buôn bán giao thương diễn ra phổ biến trên biển nhiều hơn so với

26

các hoạt động thương mại tiến hành bằng đường bộ, vì trao đổi bằng đường biển

diễn ra thuận lợi hơn, bằng cách đi qua châu Phi, qua Ấn Độ Dương để đến các

vùng xa xôi ở châu Á. Nước Anh trở thành cường quốc số 1 của thế giới nhờ ưu thế

về hải quân. Nhờ đó, người Anh kiểm soát các vùng biển, tiếp cận các vùng đất giàu

có về nguyên liệu.

Từ thế kỉ XIX, đường bộ lại giữ vai trò trọng tâm trong trao đổi buôn bán,

giống như trước thời kì chưa có các phát kiến địa lí. Thế kỉ XIX là kỉ nguyên công

nghiệp, giai đoạn này tạo ra một cuộc cách mạng mới về địa chính trị. Tâm thế giới

là khu vực mang tính chiến lược. Đó cũng là tâm của địa chính trị, trung tâm này là

kết quả của các yếu tố mang tính lịch sử nhờ sự phát triển vượt bậc của khoa học kĩ

thuật, đã tạo ra ưu thế giúp con người làm chủ các vùng rộng lớn, quan trọng hơn cả

việc làm chủ các đại dương.

Mackinder nhấn mạnh tầm quan trọng hàng đầu của địa lý đối với việc nghiên

cứu lịch sử và chính trị toàn cầu: “Những cuộc chiến tranh lớn của lịch sử đều là kết

quả trực tiếp hoặc gián tiếp của sự tăng trưởng không đồng đều của quốc gia, và sự

tăng trưởng không đồng đều này…phần lớn lại là kết quả không cân bằng về độ phì

nhiêu và sự thuận lợi chiến lược trên bề mặt địa cầu” [4,tr.72].

Nếu giải mã những nguyên nhân của chiến tranh thế giới theo quan điểm của

Mackinder, đây sẽ là cuộc đối đầu giữa các đế chế ở trung tâm lục địa (Đức, đế chế

Áo-Hung), các quốc gia này muốn giành lấy tâm thế giới, nên cần phải đối đầu với

các quốc gia phía tây có ưu thế nắm giữ sức mạnh hàng hải (Anh, Pháp, Mỹ). Các

cường quốc có sức mạnh về biển quyết định liên minh với quốc gia nằm ở tâm thế

giới (nước Nga).

Lí thuyết địa chính trị của Mackinder góp phần làm sáng tỏ các nghiên cứu về

quan hệ quốc tế trong thế kỉ XX. Nhờ lí thuyết này, chúng ta sẽ có những đánh giá

tổng quan về địa - chính trị và tìm ra những lời giải đáp cho nhiều sự kiện diễn ra

trong nửa đầu thế kỉ XX mà trong đó có cuộc chiến tranh thế giới thứ II.

1.2.3. Tư tưởng địa – chính trị ở Đức

Các cuốn sách về địa chính trị do Mackinder và Mahan viết, tạo được tiếng

vang ở Đức. Ngành địa chính trị ở Đức được nhiều người quan tâm, đặc biệt là các

27

nhà chính trị theo chủ nghĩa dân tộc. Địa chính trị của Đức là sự tiếp nối của địa

chính trị châu Âu và thế giới. Ngành khoa học này cần phải tạo ra sức mạnh cho

nước Đức trên biển và trên đất liền, đồng thời cần đưa ra các luận điểm cho những

người theo chủ nghĩa dân tộc nhằm xóa bỏ nội dung của hiệp ước Versailles đánh

dấu sự thất bại của Đức trong chiến tranh thế giới lần thứ nhất.

Friedrich Ratzel (1844-1904) là giáo sư nổi tiếng ở Đức, dưới thời vua

Guillaume II. Ông được ví như một trong những nhà địa chính trị tiên phong. Tư

tưởng địa chính trị của ông được nhiều người quan tâm. Là giáo sư dạy địa lí, ông

phân tích mối liên hệ giữa lãnh thổ và chính trị trên cơ sở lí thuyết và thực tế. Ông

xây dựng lí thuyết địa chính trị được xếp loại là thuyết định mệnh. Điểm mập mờ

trong phân tích của ông là cách diễn giải các lí do hợp lí hóa cho một nền chính trị

tạo ảnh hưởng bằng biện pháp mở rộng lãnh thổ ở mỗi quốc gia. Ông là người theo

chủ nghĩa dân tộc và là người bảo vệ đến cùng chủ nghĩa thực dân. Ông bênh vực

cho các chính sách thực dân, đồng thời phản đối quan điểm địa chính trị về lục địa.

Để tạo nhiều ảnh hưởng đối với thế giới, nước Đức cần có một đế chế bao gồm các

vùng thuộc địa rộng lớn. Friedrich Ratzel biên soạn nhiều cuốn sách bàn về các vấn

đề thuộc địa. Những chủ đề về lợi ích thuộc địa được các cường quốc đưa ra bàn

bạc trong Hiệp ước Berlin nhằm phân chia quyền lợi ở các vùng này.

Lí thuyết của Friedrich Ratzel được nhiều người chú ý nhất, là quan điểm về

không gian sinh tồn. Sau chuyến đi đến Mỹ, ông ý thức được tầm quan trọng của

các nước có diện tích rộng lớn. Ông đề cập đến địa chính trị của các nước lớn. Các

nhà lãnh đạo cần có kế hoạch chính trị mang tầm vĩ mô và cần có nhiều tham vọng.

Ông nhận định địa chính trị của Đức và vị thế của châu Âu có những nét tương

đồng, vì các quốc gia châu Âu thường có diện tích nhỏ hẹp, lại ở cạnh nhau, nên

thường có các biên giới chung. Ông kêu gọi các nhà lãnh đạo Đức cần phải chú ý

nhiều hơn đến các quốc gia ở châu Mỹ và châu Á. Nước Đức không nên chỉ có vai

trò quan trọng ở châu Âu. Nước Đức cần có không gian sinh tồn trải rộng ở các

vùng thuộc địa để tạo nên sức mạnh. Nước Đức cần liên minh với với một số quốc

gia có ảnh hưởng ở các châu lục. Khi phân tích mối quan hệ giữa lãnh thổ và chính

trị, Friedrich Ratzel kết luận Nhà nước như một thực thể sống, Nhà nước muốn có

28

tầm ảnh hưởng và có sức sống mạnh mẽ hơn, cần có diện tích rộng lớn hơn. Mỗi

nước đều phải tuân theo các quy luật về tổ chức, nếu không, Nhà nước sẽ suy tàn.

Quan điểm này được Friedrich Ratzel trình bày trong cuốn sách Địa lí chính trị,

xuất bản năm 1887. Các nước về bản chất luôn phát triển cạnh tranh với các nước

láng giềng. Thách thức lớn là những tranh chấp thường trực về đất đai. “Các nước

đều phải gánh chịu nhiều tác động, như con người phải chịu đựng những khó khăn

trong cuộc sống. Mọi việc sẽ không biết sẽ ra sao, nếu một quốc gia không có diện

tích rộng lớn” [31].

Friedrich Ratzel định nghĩa dân tộc là các nhóm người và các cá nhân không

phải gắn bó vì cùng chung một chủng tộc, hay cùng chia sẻ một ngôn ngữ, mà dân

tộc là một cộng đồng cùng sống chung trong một không gian lãnh thổ. Ông không

quan tâm đến quan điểm: Dân tộc phải gắn liền cùng một nguồn gốc mà dân tộc cần

gắn bó với một vùng lãnh thổ. Ratzel phản đối chính sách về các dân tộc, vì nó đặt

ra mối quan tâm của Nhà nước về khía cạnh ngôn ngữ, chứ không phải về vấn đề

đất đai. Mỗi quốc gia là một cơ thể sống khác nhau, bị chi phối bởi không gian lãnh

thổ và phân bố dân cư. Có quốc gia chiếm giữ không gian sinh tồn quan trọng hơn

các quốc gia khác, điều này dựa trên các yếu tố địa lí. Diện tích quốc gia cần được

mở rộng đến các vùng đất nơi các điều kiện địa lí giống với vùng lãnh thổ mà quốc

gia đang có chủ quyền. Nhờ đó không gian sinh tồn sẽ càng lớn. Các chính sách

không được dựa trên vấn đề nguồn gốc chủng tộc mà phải dựa trên các điều kiện về

đất đai. Ông đưa ra các quy luật mở rộng không gian cho mỗi quốc gia. Năm 1901,

ông bảo vệ khái niệm không gian sinh tồn của nước Đức. Ông định nghĩa các đạo

luật có tính phổ quát về Nhà nước.

7 quy luật về mở rộng không gian:

· Mở rộng không gian sống của các quốc gia luôn đi kèm với việc phát triển và

tạo ảnh hưởng về văn hóa.

· Khi diện tích lãnh thổ của một quốc gia được mở rộng thêm, sức mạnh kinh

tế thương mại, hệ tư tưởng sẽ tạo nhiều ảnh hưởng hơn đối với các nước xung

quanh.

· Khi Nhà nước mở rộng thêm diện tích, nước đó sẽ tiến tới sát nhập và đồng

29

hóa các nước nhỏ hơn.

· Biên giới là một thực thể sống động, có thể dịch chuyển. Biên giới thể hiện

sự năng động, sức mạnh và làm thay đổi diện tích của một quốc gia.

· Tính logic của địa lí luôn đề cao mọi tiến trình mở rộng vùng lãnh thổ của

mỗi quốc gia. Bởi vì, Nhà nước luôn cố gắng sát nhập các vùng đất rộng lớn để tăng

thêm diện tích cho không gian sinh tồn. Các vùng lãnh thổ càng giàu có về khoáng

sản và có vị trí địa lí quan trọng càng cần phải sát nhập vào vùng diện tích thuộc

chủ quyền của Nhà nước.

· Nhà nước luôn có xu hướng mở rộng diện tích ra các khu vực ngoại vi nơi

sinh sống của các dân tộc kém văn minh hơn so với nền văn minh của đất nước

muốn mở rộng.

· Khuynh hướng chung là tiến đến đồng hóa hoặc sát nhập các quốc gia nhỏ

yếu, để tăng thêm diện tích đất đai, điều này sẽ đem lại sức mạnh cho Nhà nước.

Khái niệm không gian sinh tồn gắn các nhóm người với không gian lãnh thổ, ở

đó các cộng đồng người cùng sinh sống và phát triển. Không gian sinh tồn thể hiện

Nhà nước sẽ mở rộng hay thu hẹp các biên giới theo các điều kiện về nhu cầu và lợi

ích riêng. Friedrich Ratzel phát triển lí thuyết về không gian sinh tồn năm 1901.

Quan điểm địa chính trị của ông có nhiều tác động đến nền chính trị của Đức Quốc

xã [31].

Karl Haushofer (1869-1946) là người đã có công xây dựng ngành địa chính

trị trong nửa đầu thế kỉ XX. Ông là một vị tướng và là giáo sư giảng dạy ở trường

quân sự. Ông đã có dịp đến Nhật và lưu lại đó hai năm từ năm 1908 đến năm 1910,

để tìm hiểu về quân đội Nhật. Karl Haushofer quan tâm đến chính sách bành trướng

của Nhật ở châu Á, ông coi đó là chủ đề cho luận án của mình, ông phân tích chi tiết

trong cuốn sách Địa chính trị ở Thái Bình Dương. Ông rời quân đội và tập trung

cho sự nghiệp giảng dạy ở đại học. Cũng giống như nhiều người Đức, Karl

Haushofer rất thất vọng và lo lắng cho tương lai nước Đức. Sau thất bại trong chiến

tranh thế giới lần thứ nhất, nước Đức phải bồi thường các khoản lệ phí chiến tranh

nặng nề do các nước đồng minh thắng trận đặt ra tại hội nghị Versailles. Địa chính

trị Đức cần phải đảm bảo sự hồi sinh cho nước Đức bại trận.

30

Nước Đức có diện tích nhỏ hẹp và có biên giới chung với nhiều nước, nên vị

trí địa lí bị kìm kẹp bởi các nước láng giềng. Tương lai không thuộc về nước Đức

mà thuộc về các nước lớn một khi họ tập hợp lại, đề ra các nguyên tắc ứng xử

chung. Nhưng các nước này sẽ chịu sự điều khiển của một nước có sức mạnh vượt

trội. Năm 1924, ông lập ra tạp chí địa chính trị, tạo được tiếng vang trên thế giới.

Tạp chí địa chính trị cổ điển của Đức nhận được sự hợp tác của nhiều học giả quốc

tế. Ông đã gặp gỡ Adolf Hitler nhiều lần. Quan điểm địa chính trị của ông có một số

ảnh hưởng đến chính sách của Đức Quốc xã; Hitler cũng bàn về địa chính trị trong

cuốn sách Cuộc chiến đấu của tôi (Mein Kampf).

Ông trình bày nội dung về địa chính trị theo tính hệ thống giữa Nhà nước, lãnh

thổ và nhân dân có mối liên hệ chặt chẽ. Địa chính trị của Đức cần giải thích rõ mối

liên hệ này. Ông khẳng định người Đức là những người văn minh, họ luôn bày tỏ

mong muốn được sống cùng nhau trong một cộng đồng. Ông ủng hộ việc thiết lập

một không gian sinh tồn rộng lớn cho người Đức. Nước Đức cần phải là một nước

lớn, có diện tích rộng. Những biến động chính trị trong những năm 30 khiến cho ý

tưởng này ngày càng nhận được sự ủng hộ của nhiều người. Nước Đức có ý định

thực hiện các chính sách mở rộng lãnh thổ và tạo ảnh hưởng ra các châu lục. Những

đề xuất về các vùng đệm là những nét cơ bản trong quan điểm về địa chính trị của

Karl Haushofer. Từ ý tưởng về vùng đệm, con người hình dung ra các vùng bao

quanh. Thế giới phải được phân chia thành các vùng khác nhau, ở mỗi vùng sẽ có

các quốc gia thống trị, có 4 vùng được phân chia trên bản đồ thế giới:

- Châu Mỹ sẽ là vùng bao quanh của nước Mỹ.

- Châu Âu và châu Phi sẽ là vùng đệm của Đức, người Đức sẽ thống trị những

khu vực này.

- Nước Nga sẽ lãnh đạo toàn bộ các nước thuộc Liên bang Xô viết.

- Châu Á sẽ là khu vực xung quanh của Nhật. [31]

Người Đức đã tuyên truyền địa chính trị kết hợp với chủ nghĩa chủng tộc,

cộng với sự ảnh hưởng của học thuyết về siêu nhân của Nietzsche và học thuyết

chọn lọc tự nhiên của Darwin, đã làm cho người dân Đức tin vào quyền thống trị

của học với tư cách là một dân tộc được coi là thượng đẳng.

31

Tư tưởng địa chính trị nước Đức, được Hitler tiếp thu quan điểm của Kjlen

cho rằng, địa chính trị là “khoa học về chiến tranh” biện hộ cho hành động gây

chiến của mình.

1.2.4. Tư tưởng địa – chính trị ở Nhật Bản

Từ thời đại Minh Trị, người Nhật đã hiểu ra rằng: đất nước sẽ không thể phát

triển nếu không mở cửa với bên ngoài. Đây cũng là thời điểm mà giai cấp tư sản

Nhật Bản đã lớn mạnh, chính tư tưởng của giai cấp này đã chiến thắng phe bảo thủ

và làm thành hậu thuẫn cho chính sách mở cửa của Nhật hoàng Minh Trị. Đây cũng

là thời điểm chấm dứt chủ nghĩa biệt lập của Nhật Bản. Cũng từ đây, tư tưởng địa

chính trị của Nhật Bản bắt đầu bộc lộ rõ quan điểm dân tộc chủ nghĩa, đến cuộc

chiến tranh thế giới thứ hai thì phát triển thành chủ nghĩa dân tộc cực đoan. Quan

điểm địa chính trị của Nhật được hình thành theo mô hình địa chính trị của Đức.

Trong đạo luật giáo dục có tên “Gakusei” năm 1872 quy định môn địa lý là

môn học bắt buộc. Đến năm 1886, luật mới được ban hành, quy định môn địa lý

không còn là môn học độc lập mà được nhập vào môn lịch sử. Được nhìn nhận

không phải là môn học biệt lập, tự thân mà được gắn chặt với lịch sử và chính trị

Nhật Bản. Trong nguyên tắc chung của việc dạy môn địa lý, đạo luật giáo dục bổ

sung năm 1890 của Nhật Bản quy định rằng: “Mục đích của môn địa lý học của

Nhật Bản và địa lý học thế giới, phải làm cho trẻ em hiều được những điều quan

trọng về đời sống của các dân tộc trên thế giới và phát triển tinh thần cho trẻ em”..

Theo hướng đó, giọng điệu giáo dục nhằm mục đích phục vụ quốc gia đã được tăng

cường và củng cố để dần dần dẫn đến quá trình quân sự hóa của Nhật Bản. Đây

cũng là mầm mống dấn đến sự ra đời của một ngành khoa học mới ở Nhật Bản: Địa

chính trị.

Đến thời kì chiến tranh thế giới thứ hai, tư tưởng địa chính trị của Nhật Bản đã

trở thành một tư tưởng chủ chốt trong chiến lược và chính sách bành trướng của Đế

quốc Nhật, được thể hiện thành chính sách đặc trưng chủ trương một Khu vực

Thịnh vượng chung Đại Đông Á, do thủ tướng Nhật Bản lúc bấy giờ là Fumimaro

Konoe đề ra vào năm 1940. Chính sách này chủ trương thành lập một khối Đại

Đông Á, bao gồm Nhật Bản, Mãn Châu, Trung Quốc, và các nước Đông Nam Á,

32

theo sự tuyền truyền của Nhật Bản, xây dựng một khu vực thịnh vượng chung cho

các nước châu Á,tất nhiên dưới sự lãnh đạo của Nhật Bản, để thoát khỏi ách thống

trị của chủ nghĩa thực dân phương Tây. Đây là chính sách dùng để biện hộ cho cuộc

xâm lược của Nhật Bản ở Đông Á trong những năm 1930, kéo dài cho đến khi kết

thúc chiến tranh thế giới thứ hai [4, tr.223-225].

Trong cuốn sách địa lý được xuất bản năm 1943 cho trường phổ thông, người

ta mô tả đất nước Nhật Bản theo tinh thần kích động lòng yêu nước và tinh thần

quân phiệt chủ nghĩa như sau:

“Các hình dạng mà theo đó mỗi quần đảo - quần đảo Kuril ở phía Bắc,

hòn đảo chính Honshu ở trung tâm, quần đảo Ryuku (Okinawa) ở phía Nam -

đều nhô ra Thái Bình Dương như một cánh cung, đã làm cho cả quần đảo Nhật

Bản được kéo căng ra. Từ hình dạng này, chúng ta có thể cảm thấy một sức mạnh

nào đó. Hình dạng Nhật Bản không phải là hình dạng thường. Chúng ta có thể

hình dung hình ảnh một người dẫn đầu lục địa châu Á đang hùng dũng tiến ra

Thái Bình Dương. Nhật Bản cũng được coi như đang đóng vai trò bảo vệ châu Á

khỏi mọi hiểm nguy xuất phát từ Thái Bình Dương. Theo cách này chúng ta cảm

thấy rằng Thượng đế đã thực sự tạo ra đất nước chúng ta, nước Nhật Bản, một

đất nước được Trời phú cho một lãnh thổ vô song về vị trí và hình dáng” .

Ngoài ra ở chương cuối của cuốn sách giáo khoa còn công khai coi Nhật Bản

là trung tâm của khối Đại Đông Á:

“Chính đất nước chúng ta, nước Nhật Bản, một đất nước mà từ đó mặt trời

mọc lên hàng ngày, là đất nước có vị trí nằm ở trung tâm Đại Đông Á, một khu vực

bao gồm Thái Bình Dương cũng những hòn đảo của nó, từ lục địa châu Á đến Ấn

Độ Dương. Theo ý chí của Thiên Hoàng, một trăm triệu đồng bào ta cần phải thực

hiện công cuộc lớn lao là xây dựng khu vực Đại Đông Á để không làm cho tổ tiên

thất vọng. Chúng ta chia sẻ niềm vui hòa bình vĩnh viễn của thế giới và sự thịnh

vượng chung cho mọi dân tộc” [4, tr.227].

Như vậy, có thể thấy rằng quan điểm địa chính trị của Nhật đề cao tinh thần

dân tộc chủ nghĩa. Nó coi Nhật Bản là trung tâm của châu Á và của khối Đại Đông

Á. Chính tư tưởng địa chính trị đề cao quá mức tinh thần dân tộc, thúc đẩy tinh thần

33

cực đoan dân tộc Nhật, phát xít hình thành, đưa nước Nhật đến chỗ phát động chiến

tranh bành trướng mở rộng ra toàn khu vực Đông Á trong cuộc chiến tranh thế giới

thứ hai.

Từ lý thuyết địa – chính trị tồn tại trước và trong cuộc chiến tranh thế giới thứ

II đã ảnh hưởng đến những chính sách an ninh quốc phòng, chính sách đối ngoại

của các cường quốc. Với ý đồ chính trị khác nhau, họ đã xây dựng lược lượng quân

sự của mình mà trong giai đoạn trước thế chiến II, hầu hết các nước đều xây dựng

lực lượng hải quân mạnh.

1.3. Tiêu chí lựa chọn các trận hải chiến

Trong cuộc chiến tranh thế giới thứ II, biển và đại dương là nơi diễn ra những

trận đánh ác liệt nhất, lôi kéo nhiều nước tham gia nhất, có lẽ cũng gây ra nhiều

thiệt hại nhất. Cuộc chiến tranh thế giới thứ II nổ ra khi mà những tư tưởng địa –

chính trị về vao trò của biển và sức mạnh của người làm chủ được biển. Nắm giữ

được bá quyền trên biển tạo điều kiện khống chế vùng đất trái tim. Có rất nhiều

cuộc chiến tranh trên biển. Nhưng với giới hạn của đề tài và tác giả. Tác giả dựa

trên những tiêu chí do mình đặt ra như sau:

Trận chiến diễn ra trực tiếp trên biển: nhưng không phải là cuộc hỗn độn mà là

những cuộc chiến có tính toán chiến lược, chiến thuật mang rõ yếu tố địa - chính trị.

Trận chiến phá hoại đường giao thương trên biển và đại dương của địch đối

với Đức,Ý. Đối với lực lượng Đồng minh trận chiến bảo vệ tuyến đường giao thông

trên biển và đại dương là những trận chiến trên Đại Tây Dương, Địa Trung Hải.

Trận hải chiến nhằm vào tiêu diệt các mục tiêu trên mặt đất của đối phương,

trợ giúp các đơn vị bộ binh gần bờ biển trong tấn công và phòng thủ; bảo vệ, chiếm

các căn cứ hải quân, tiêu diệt các lực lượng hải quân địch trên mặt biển, trong các

căn cứ những mục tiêu này chủ yếu tập trung vào trận chiến trên Thái Bình Dương.

Trận hải chiến lớn, có tác động quan trọng đối với toàn bộ tiến trình của chiến

tranh và để lại nhiều bài học kinh nghiệm.

34

Tiểu kết chương 1

Địa lý là khung cảnh của mọi hoạt động của con người và xã hội. Đó là điều

mà không ai có thể phủ nhận. Đặc biệt là các tiến trình và xung đột chính trị không

thể diễn ra bên ngoài khng cảnh địa lý. Lịch sử cũng cho thấy rằng không có động

cơ gì hấp dẫn chính trị bằng động cơ chính trị. Đó chính là tầm quan trọng của địa

chính trị. [4, tr257]. Với những khung cảnh địa lý nhất định các nước trên thế giới

cũng đưa ra những đối sách về đối nội, đối ngoại khác nhau, cũng chính yếu tố địa

lý cũng phần nào quy định tập tục văn hóa, chế độ chính trị của đất nước đó như

Napoleon Bonaparte đã nói: “Chính trị của một quốc gia nằm ở trong địa lý của

nó”. Cũng chính yếu tố địa lý quy định về những chính sách quốc phòng, chiến lược

phòng thủ quốc gia mỗi một nước. Xuất phát từ vấn đề này thì những tư tưởng địa

chính trị của các nước đã được hình thành khác nhau, trong mỗi giai đoạn lịch sử

cũng có sự khác nhau.

Trong suốt thế kỉ XX, các lý thuyết địa chính trị và đường lối, chính sách địa

chiến lược của các quốc gia đã gây ra nhiều biến động trong bức tranh trật tự thế

giới, đến mức các nhà khoa học đã gọi thế kỷ XX là thế kỉ địa chính trị.

Chiến tranh thế giới thứ hai là cuộc đối đầu giữa các quốc gia muốn xây dựng

các khối liên minh quân sự đủ mạnh (Đức, Nhật) và các quốc gia đề cao việc giao

thương hàng hải (Mỹ, Anh). Cuộc chiến mà hai bên đều muốn giành giật khu vực

tâm thế giới – vùng đất trái tim. Đức quốc xã coi đó là không gian sinh tồn, nên tìm

mọi cách chiếm bằng được. Đức đã tiến đánh Liên bang Xô để chiếm lấy không

gian sinh tồn. Bằng cố gắng bảo vệ tâm thế giới, Liên bang Xô viết trở thành đồng

minh của các quốc gia có sức mạnh về biển (Mỹ, Anh).

Trong chiến tranh thế giới thứ II, tâm thế giới được đặc biệt chú ý. Liên bang

Xô viết và đồng minh đã thành công khi dồn Đức quốc xã về sào huyệt cuối cùng là

Berlin, đây vẫn thuộc khu vực tâm thế giới. Nơi này trở thành pháo đài cuối cùng

của Đức quốc xã, các bên đều tập trung sức mạnh quân sự ở đây. Từ những tính

toán về khu vực vùng trái tim, về chiến lược để thâu tóm được khu vực này là liên

kết với nước Anh mà trong cuộc chiến tranh thế giới thứ hai chúng ta có thể thấy

rằng người Mỹ dường như quan tâm nhiều hơn đối với việc đưa quân tới châu Âu.

Trong những cuộc hội đàm để mở mặt trận thứ hai cũng thể hiện rất rõ điều đó.

35

Chương 2. NHỮNG TRẬN HẢI CHIẾN Ở ĐẠI TÂY DƯƠNG

VÀ ĐỊA TRUNG HẢI TRONG CHIẾN TRANH THẾ GIỚI II

2.1. Bối cảnh lịch sử

2.1.1. Quan hệ giữa các cường quốc trước chiến tranh thế giới thứ II

Khi cuộc chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, các nước Đồng minh thắng trận

triệu tập hội nghị để phân chia những thành quả của cuộc chiến. Các nước đồng

minh thắng trận đã thành lập hội Quốc Liên, giải giới nước Đức, chia nhau các

thuộc địa Đức và thừa nhận các xứ sở mới thành lập tại Trung Đông Âu.

Các hội viên của Hội Quốc Liên chấp nhận những điều bắt buộc không dùng

đến chiến tranh và điều khoản XVI của hiến chương hội nêu ra những sự trừng phạt

đối với hội viên gây ra chiến tranh. Bất cứ hội viên nào dùng chiến tranh và không

đếm xỉa gì đến hiến chương của hội sẽ bị xem như là đã gây chiến với tất cả các hội

viên. Các hội viên này sẽ lập tức gián đoạn các mối liên hệ về thương mại và tài

chính với các nước gây chiến.

Nước Đức mất hết cả thuộc địa nhưng tổng thống Mỹ Winlson ngăn chặn việc

Pháp đòi sát nhập vùng đất đai của Đức ở phía Tây sông Rhine lớn gần bằng nước

Bỉ. Nước Đức phải giải giới hay không được võ trang một khu vực rộng độ 50 km ở

phía Đông sông Rhur có trung tâm kỹ nghệ nặng của Đức. Nước Đức bị giải giới và

đây là bước đầu tiên tiến tới sự giới hạn vũ khí cho tất cả các quốc gia. Bộ Tổng

tham mưu Đức cũng chỉ được phép có một đạo quân dịch bị hủy bỏ. Chế độ Cộng

hòa Đức chỉ được phép có một đạo quân nhà nghề gồm 100.000 người với thời gian

phục vụ là 12 năm cho binh sĩ và 25 năm cho sĩ quan. Các lực lượng cảnh sát, các

đơn vị phòng thủ miền duyên hải, bảo vệ các vùng rừng, vùng biên giới cũng được

quy định cẩn thận. Hòa ước Versailles cũng nêu lên rằng mọi cơ sở giáo dục, các

viện đại học và tất cả các tổ chức cựu chiến binh hay các thứ hội hè không phụ trách

hay nghiên cứu bất cứ vấn đề quân sự nào cả. Quân đội Đức không có khí độc, máy

bay hay xe tăng. Chính phủ Đức phải cho tháo gỡ các nhà máy chế tạo vũ khí còn

sự nhập cảng hay xuất cảng các nhiên liệu chiến tranh đều bị cấm đoán. Người Đức

36

phải nộp cho Đồng minh các vũ khí sẵn có và chỉ được giữ 102.000 súng trường và

1926 máy bay mà thôi. Họ được giữ lại sáu chiến hạm cũ kỷ để giữ cán cân thăng

bằng với hạm đọi Nga trong biển Ban Tíc nhưng không được đóng tàu ngầm và

thay thế các chiến hạm cũ với các chiến hạm mới nặng trên 10.000 tấn. Các pháo

đài hay các cộng sự phòng thủ đảo Helgoland và các đường thông thường mặt biển

giữa Bắc Hải và biển Ban Tíc phải được phá hủy. Các ủy ban đồng minh phụ trách

việc kiểm soát sự thi hành các điều kể trên. Quân đội đồng minh chiếm đóng một

phần của vùng Rhineland trong năm, mười hay mười lăm năm [21, tr.12].

Như vậy, nước Đức mất đi khoảng 1/8 lãnh thổ bản quốc và 6.500.000 cư dân,

cùng với những thuộc địa của mình, nhưng nó không bị tàn phá cũng như không bị

chia cắt. Để ngăn cho quân Đức không còn có thể tung ra một cuộc chiến tranh nào

nữa, phe đồng minh đã cắt giảm số lính hiện dịch của quân đội Đức xuống còn

100.000 người và số lính hải quân còn 15.000 người. Bộ Tổng Tham mưu bị buộc

giải tán và chế độ quân dịch cũng phải hủy bỏ; việc chế tạo sản xuất chiến khí bị

hạn chế và quá trình nhập cảng vũ khí cũng bị cấm chỉ. Quân đội Đức không được

sử dụng xe tăng, xe bọc thép, máy bay chiến đấu, cả quân nhu đạn dược cho đến khí

đốt. Hạm đội Đức bị cắt giảm chỉ còn 6 hộ tống hạm và 6 ngư lôi hạm [1, tr.12].

Hội nghị Versailles có nhiệm vụ tái lập nền hòa bình, an ninh và thịnh vượng,

một châu Âu mà Đức tái vũ trang không bao giờ còn có thể đe đọa được nữa.

Những quốc gia mới được thành lập phải kiến thiết cùng với tất cả các dân tộc khác

cho phù hợp với đặc quyền tự quyết. Ngoài ra hòa ước Versailles cũng có điều

khoản bắt Đức nhận trách nhiệm đã gây ra chiến tranh. Điều này làm cho dân chúng

Đức bực mình khó chịu. Trong khi ấy nước Đức vẫn còn làm chủ vùng Rhineland

với các cơ sở kỹ nghệ nặng của Đức và điều này làm cho Đức vẫn còn có nguyên

vẹn khả năng kỹ nghệ chiến tranh.

Vấn đề nan giải là châu Âu phải phân chia lại, những chủ nghĩa già cỗi sẽ mau

chóng trỗi dậy trở lại với một sức mạnh hoàn toàn mới mẻ. Một Tiệp Khắc mới,

một Ba Lan hồi sinh, một nhóm các quốc gia nhỏ ở vùng Baltic, một Nam Tư, một

Áo, một Hungary bị chia cắt và xây dựng trên những tàn tích của các đế chế Nga,

Thổ Nhĩ Kỳ và Áo. Những quốc gia mới này không giữ đúng lời cam kết mà mọi

37

người đang chờ đợi. Họ quá yếu ớt để có thể cản trở được một cuộc tấn công bất

thần của Đức. Họ càng không có khả năng giải quyết các vấn đề của quốc gia mình.

Chính họ lại gây ra những cuộc tranh chấp sắc tộc và biên giới, để bọn Quốc xã có

thể chộp lấy cơ hội nhằm xua quân về phía Đông của Đệ Nhị Thế chiến [1, tr.9].

Chiến tranh vừa mới chấm dứt thì Ba Lan và Tiệp Khắc dường như lại bắt đầu

đánh nhau vì vùng Teschen. Ba Lan chiếm Vilna của Lithuaniee; nước này tự đoạt

lại bằng cách thôn tính Memel, và lão tướng đánh thuê Gabriele d’Annunzio cướp

lấy Fiume của Nam Tư. Mỗi nước bắt đầu đòi trả thù cho những người anh em cùng

chủng tộc của mình đang bị buộc phải sống trong một nước lân bang. Chính dự thù

địch này khiến cho tất cả mọi ý đồ cùng nhau kháng cự chống lại cuộc xâm lược

của bọn Quốc xã trở nên vô dụng [1, tr.14].

Như vậy, một Hội nghị Hòa bình để lập lại một trật sau chiến tranh lại là nơi

xuất hiện những mầm mống của cuộc chiến tranh mới.

Ở châu Á, trong năm 1914, Nhật Bản đã chiếm các đảo nhỏ Carolines và

Marshalls cũng như hải cảng Tsingtao và tô giới Đức tại tỉnh Sơn Đông của Trung

Hoa. Trong năm 1915 Nhật Bản lợi dụng tình thế chiến tranh và sự bận rộn của các

nước phương Tây để gởi bản 21 yêu sách đến chính phủ Trung Hoa do Viên Thế

Khải cầm đầu. Nếu thỏa mãn số yêu sách này Trung Hoa sẽ thành thuộc địa của

Nhật. Như vậy, Nhật Bản muốn mở rộng thế lực và ảnh hưởng tại châu Á.

Trong năm 1918, Nhật cũng cho quân đổ bộ lên hải cảng Hải Sâm Uy (là căn

cứ hải quân chính của Hạm đội Thái Bình Dương của Liên Xô, Vladivostok) và

vùng Đông Tây Bá Lợi Á (Sebia) nữa. Hoa Kỳ cũng cho đổ bộ một đạo quân nhỏ

lên Hải Sâm Uy đê coi chừng người Nhật. Để lôi cuốn Nhật Bản vào Hội quốc Liên,

tổng thống Mỹ Wilson chịu để cho Nhật thay thế Đức kiểm soát Sơn Đông của

Trung Hoa. Chính phủ Mỹ cũng có dời hạm đội chiến đấu về lại Thái Bình Dương

và hai nước Nhật – Mỹ thi đua nhau tăng cường hải quân [21,tr.15].

Mỹ thất bại trong Hội nghị Versailles quay về với chính sách biệt lập truyền

thống nhưng vẫn tiếp tục can thiệp và mở rộng anh hưởng ở những nơi khác – Mỹ

Latinh và Viễn Đông biểu hiện rõ nhất ở hội nghị Washington (1921-1922) bàn về

những quyền lợi ở châu Á, hải quân mà Hoa Kỳ và Nhật Bản chưa được thỏa mãn

38

tại hội nghị đã có sự nhân nhượng giữa các phe. Ba cường quốc hải quân là Anh,

Nhật và Hoa Kỳ chịu phá hủy các tàu cũ và chấp nhận trọng tải chung của chiến

hạm chủ lực và hàng không mẫu hạm với tỷ lệ: 5 – 5 - 3 - 1.75 - 1.75 cụ thể 5 cho

Anh và Hoa Kỳ và 3 cho Nhật tức 525.000 tấn và Nhật là 315.000 tấn. Còn Pháp và

Ý là 175.000 tấn. Trong 10 năm các nước không được đóng thiết giáp hạm chỉ trừ

hai tàu mà Anh quốc được đóng để đạt tới tỷ lệ đã được chấp nhận. Trừ chiến hạm

Hood ra, không chiến hạm nào trong tương lai được lớn hơn 35.000 tấn và có đại

bác lớn hơn 16 inches (406 cm). Như vậy cuộc tranh đua đóng chiến hạm đã được

ngưng lại. Song Hội nghị Washington không loại trừ sự đóng thêm tàu ngầm và

nước Pháp không chịu phê chuẩn một thỏa ước của hội nghị cấm đóng tàu ngầm để

đánh phá thương thuyền; các tuần dương hạm không được quá 10.000 tấn còn tuần

dương hạm cũng như hàng không mẫu hạm không được có đại bác quá 8 inches.

Hàng không mẫu hạm không được quá 27.000 trừ ra hai chiếc Saratoga và

LeXington của Hòa Kỳ loại 33.000 tấn mà Hoa Kỳ đã đóng trên sườn của hai chiến

hạm cũ. Anh quốc và Hoa Kỳ được có 135.000 tấn hàng không mẫu hạm, Nhật

81.000 tấn, còn Pháp và Ý mỗi nước 60.000 tấn. Số trọng tải lớn về hàng không

mẫu hạm đã làm cho hải quân của nước Nhật và Hoa Kỳ đã phát triển hàng không

mẫu hạm thành một vũ khí tấn công và giúp rất nhiều vào sự phát triển sức mạnh

của phi cơ hơn các chủ thuyết về phi cơ của tướng Mitchell. Sau sự thất bại của Hội

nghị Geneva năm 1922, hội nghị London năm 1930 thỏa thuận để Nhật Bản có tỷ lệ

tuần dương hạm là 7/10 còn về tàu ngầm thì bằng Anh và Hoa Kỳ. Hội nghị London

lần thứ hai (1935-1936) là một sự thất bại. Nhật Bản báo trước hai năm cho các

trọng tải thỏa thuận tại hội nghị Washington đã chấm dứt hay hết hiệu lực ngày 31

tháng 12 năm 1936. Từ ngày này cho đến khi Nhật Bản tấn công Trân châu cảng là

chưa được 5 năm [17], [21].

Vào năm 1921 và 1922, nhiều hội nghị đã nhóm họp ở Washington với chín

cường quốc có những quyền lợi ở Thái Bình Dương, nhằm xây dựng một giải pháp

sau chiến tranh cho vùng Viễn Đông. Các cường quốc đồng ý giữ nguyên trạng về

các căn cứ hải quân theo một khu vực có hình tam giác rộng lớn chạy từ phía Tây

39

1 và Alaska đến phía Bắc Tân Gia Ba1F

2 và Úc Đại Lợi2F

các đảo Hạ Uy Di0F

3, Guam và 4, người Anh không thể canh tân Hương Cảng. Nhật Bản không thể 5, Đài Loan các đảo Bonin, Carolinas

Phi Luật Tân3F

xây dựng căn cứ tại các đảo Kuriles, Lưu Cầu4F

và Marshall. Các sĩ quan Mỹ không mấy thích về điều khoản này còn các phần tử

cực đoan trong hải quân Nhật cũng không thích tỷ lệ 3/5 về thiết giáp hạm. Quốc

hội Mỹ lúc bấy giờ giảm bớt chi phí hải quân, đã không thực hiện chương trình năm

1916 nên không chú ý đến việc lập thêm căn cứ tại miền Tây Thái Bình Dương. Sự

liên minh Anh – Nhật được chấm dứt. Anh, Pháp – Hoa Kỳ và Nhật Bản đều cam

kết tôn trọng những lãnh thổ của nhau tại Châu Á và một hiệp ước chín nước xác

nhận lại chính sách “mở rộng cửa” tại Trung Hoa. Các hiệp ước ký kết tại hội nghị

Washington không nêu ra trừng phạt xứ nào vi phạm các điều đã cam kết. Khi phê

chuẩn các hiệp ước, Thượng viện nêu ra rằng Hoa Kỳ không cam kết liên minh hay

tham dự sự phòng thủ nào cả [21, tr.20].

Năm 1923, gần một năm sau khi hội nghị Washington bế mạc, ủy ban bồi

thường thiệt hại chiến tranh tuyên bố là Đức chậm trả bồi thường lần thứ ba. Quân

đội Pháp và Bỉ tràn sang chiếm vùng Rhur. Chính phủ Đức ra lệnh cho dân chúng

vùng này bất hợp tác với Pháp nghĩa là chống lại người Pháp một cách thụ động. Để

đài thọ cho công nhân cũng như chủ nhà máy tại vùng này chính phủ Đức đã in quá

nhiều bạc giấy gây ra một nạn lạm phát kinh khủng. Tình hình Đức trở nên hỗn độn

trong khi Pháp vận động tách rời vùng Rhineland ra khỏi nước Đức. Đồng quan

Pháp cũng bị sụt giá. Các chủ ngân hàng Anh và Mỹ soạn thảo một kế hoạch bồi

thường chiến tranh mới gọi là kế hoạch Dawes. Sau đấy, Anh – Pháp- Ý – Đức và

Bỉ ký hiệp ước Locarno thừa nhận biên giới ở phía Tây và cam kết ủng hộ nhau nếu

một trong các nước này bị xâm lăng. Quân đội Pháp – Bỉ cũng rút khỏi Đức. Năm

1926 Đức vào Hội quốc liên với một ghế tại Hội đồng Thường trực giống như hội

đồng Bảo An của Liên hiệp Quốc ngày nay. Ngoại trưởng Pháp Aristide Briand và

ngoại trưởng Mỹ Frank B. Kellog đề xướng một khoản ước lý tưởng loại trừ chiến 1 Tên hán việt của đảo Hawaii 2 Tên Hán việt của Singapore 3 Australia 4 Philippines 5 Quần đảo Nansei, Nhật Bản

40

tranh, 65 quốc gia bao gồm tất cả các cường quốc đều ký kết vào khoản ước này và

sự cam kết này có giá trị bắt đầu từ ngày 24 tháng 7 năm 1927. Một tháng sau người

Đức chấp nhận một kế hoạch bồi thường mới gọi là kế hoạch Young và quân đội

đồng minh rút ra khỏi vùng chiếm đóng được quy định theo hiệp ước Versailles [21,

tr.21].

Như vậy, sau cuộc chiến tranh thế giới thứ 1, các cường quốc đều cam kết loại

trừ chiến tranh và tuyên bố rầm rộ về vấn đề này. Tuy nhiên, như đã thấy bằng

những tính toán chính trị những mầm mống của một cuộc chiến tranh hình thành và

cuộc chiến tranh bùng nổ sau hơn 20 đình chiến.

2.1.2. Chiến lược hải quân của các nước trước cuộc chiến tranh thế giới thứ

II

Hải quân Hoàng gia Anh, kết thúc chiến tranh với sự vẻ vang, đánh bại hải

quân Đức duy trì việc kiểm soát các vùng biển. Tuy nhiên, trong những thập niên

1920, 1930, họ đã gặp phải những khó khăn về việc cắt giảm ngân sách. Họ vẫn giữ

lời hứa với Hoa Kỳ trong hội nghị Washington 1922 về hạn chế kích thước hạm

đội, vũ khí, tàu sân bay, tàu chiến, máy bay. Chính điều này đã ảnh hưởng bất lợi

đối với lực lượng hải quân Anh trước những mỗi đe dọa, khi mà lực lượng này được

rải khắp trên thế giới.

Vào những năm của thập niên 30, các nhà lãnh đạo quốc phòng Anh đã lo lắng

về những thách thức trong thực tế, tình hình quốc tế đang căng thẳng khi mà mục

tiêu chiến lược của các quốc gia đang mâu thuẫn lẫn nhau. Mẫu quốc Anh cũng

không còn đủ sức phân tán lực lượng để bảo vệ cho những lãnh thổ thuộc đế chế

Anh. Ở Viễn Đông lãnh thổ thuộc đế quốc bị đe dọa bởi sự nổi lên mạnh mẽ của đế

chế Nhật Bản hiếu chiến. Một căn cứ hải quân lớn được xây dựng tại Singapore,

dựa trên hạm đội được gửi từ mẫu quốc, tuy nhiên không lâu sau hạm đội này được

điều đến châu Âu, nơi mà vị trí của Anh quốc bị đe dọa ngày càng nhiều bởi phát

xít Ý. Nước đã khống chế tuyến đường biển quan trọng Địa Trung Hải. Sau năm

1933, do sự tái vũ trang Đức dưới quyền Adolf Hitler.

Một chương trình tái thiết được bắt đầu, tàu chiến mới King Geogre V trọng

tải 42 000 tấn, được trang bị súng 10 – 14 inch (356 mm). Những chương trình lớn

41

về xây dựng tàu sân bay được bắt đầu một cách chậm trễ, hoàn thành xong các nhà

chứa máy bay, được lệnh phải được bổ sung, thay thế những phần không đạt yêu

cầu trong cuộc thế chiến I – trận đánh cổ điển. Đến năm 1939, chương trình hải

quân mới về xây dựng đội tàu hộ tống, chống tàu ngầm tuy nhiên chương trình mở

rộng này đã bị cắt giảm bởi sự co rút của các cơ sở công nghiệp quân sự của đất

nước. Chính điều này đã hạn chế sức chiến đấu của người Anh trong cuộc chiến

tranh thế giới thứ 2. Sự thiếu hụt đó chỉ được lấp đầy bởi những nỗ lực phi thường

của nhà máy đóng tàu của Hoa Kỳ.

Sau nhiều năm tranh cãi thì đến năm 1937, trách nhiệm đối với hàng không

hải quân đường biển được trả lại cho hải quân Hoàng gia. Tuy nhiên, hàng không

hải quân nghiêm trọng đe dọa bởi sự sao nhãng nhiều năm: có quá nhiều hãng hàng

không quá nhỏ, được trang bị quá ít, máy bay quá lỗi thời, lực lượng sĩ quan không

được huấn luyện, không có nhiều hiểu biết về không quân. Tàu sân bay Lord là lực

lượng đầu tiên được Churchill bổ nhiệm vào tháng 9/1939 nằm trong tình trạng như

vậy, với nhiều khía cạnh thiếu sự chuẩn bị cho cuộc chiến sắp tới [27, p.11].

Về phía Đức, Hiệp ước Versailles kết thúc cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất

đã hạn chế nghiêm trọng lực lượng vũ trang của họ [mục 2.1]. Hải quân của họ bị

giới hạn đến 6 tháng trước chiến tranh thế giới thứ hai: 1 tàu chiến Dreadnought, 6

tàu tuần dương hạng nhẹ, 12 tàu khu trục, 12 tàu phóng ngư lôi còn tàu ngầm và

máy bay bị cấm. Đô đốc Erich Reader trở thành người đứng đầu hải quân Đức từ

tháng 10/1928 đến 1/1943. Tháng 4/1939, Reader lập luận rằng cuộc chiến tranh với

Anh quốc có thể tránh được, và ông tập trung đối phó với bất kỳ mối đe dọa tiềm

năng nào từ Pháp và Ba Lan. Bắt đầu tập trung xây dựng các đơn vị quân sự nặng,

các tàu ngầm bỏ túi, tàu tuần dương hạng nặng.

Năm 1933, với sự lên nắm quyền của Adolf Hitler một chương trình tái vũ

trang lớn được khởi xướng. Kết quả đầu tiên cho hải quân là 2 tàu Schanrhorst,

Gneisenau được trang bị đạn bắn 11 inch (279 mm) bắn tàu chiến. Reader buộc phải

dựa vào chiến lược của hải quân là đánh vào đội thương thuyền của đối phương, khi

mà Đức chưa đủ sức để đánh vào chính đối phương. Ông ủng hộ việc xây dựng một

đội quân mạnh trên mặt biển đó là thiết giáp hạm, năm 1936, hai thiết giáp hạm

42

Bismark và Tirpitz với trọng tải trên 42.000 tấn, được trang bị súng 8-15 inch (381

mm), có tầm bắn 30 hải lý.

Những năm 30, hải quân Đức nhận ra nhu cầu về xây dựng không quân riêng,

nhưng lại bị ngăn chặn bởi người đứng đầu Không quân Đức lúc bấy giờ là Hoeman

Georing, người tin tưởng rằng “tất cả mọi thứ có đường bay thuộc về tôi” . Năm

1936, tàu sân bay Graf Zeppelin trọng tải 23.000 tấn chứa 28 Ju-87D máy bay ném

bom đổ nhào, 12 Me-109G máy bay chiến đấu. Tuy nhiên, kế hoạch này đã bị đình

chỉ khi mới hoàn thành được 85% vào tháng 5/1940.

Năm 1935, Karl Donitz nguyên hạm đội trưởng tàu ngầm được bổ nhiệm tư

lệnh tập trung phát triển lực lượng tàu ngầm của hải quân Đức. Ông đã nỗ lực

thuyết phục Hitler để phát triển lực lượng tàu ngầm khoảng 300 chiếc nhưng bất

thành.

Vào năm 1938, trước sự ngạc nhiên của Hải quân Đức, Hitler đã làm rõ rằng

một cuộc chiến với Anh quốc là không thể tránh, một chương trình hải quân lớn về

xây dựng hạm đội được bắt đầu, xác định giả định chiến tranh sẽ không xảy ra cho

đến năm 1944, mục tiêu chính là tàn phá thương mại biển của đối phương. Tuy

nhiên, nó được gọi là để xây dựng một hạm đội tàu chiến mạnh mẽ, trong đó có 6

tàu có trọng tải 56 000 tấn có sức chiến đấu ở vùng biển Bắc nước Anh và tiến vào

vùng biển Đại Tây Dương. Tuy nhiên, với những bất lợi của Hải quân Đức, đô đốc

Reader cảnh báo với Hitler cuộc chiến với Anh quốc là có thể tránh [27, p.13].

Trước những căng thẳng ngày càng tăng lên ở châu Âu, Pháp cũng bắt đầu tái

trang bị cho hạm đội của mình mà trước hết là để chống lại được bất kì mối đe dọa

nào của Ý ở Địa Trung Hải và sự phát triển mạnh mẽ của Đức. Ví dụ: ở Dunkerque,

và Strasbourg có thiết giáp hạm 26.500 tấn, hoạt động 30 hải lý, gắn súng từ 8-13

inch (33o mm) được dự định để chống lại thiết giáp hạm Panzerschiffe của Đức.

Trong 5 năm trước khi bùng nổ cuộc chiến tranh thế giới thứ hai, chương trình tái

thiết hải quân nước Pháp đã tiêu tốn 27% ngân sách quân sự và hạm đội Pháp dưới

quyền chỉ huy của đô đốc Darlan trở thành hạm đội lớn thứ tư thế giới [27, p14].

Việc mở rộng sức mạnh hải quân của Pháp đã ảnh hưởng đến sự phát triển của

hải quân Ý. Giống như đô đốc Reader, người đứng đầu lực lượng hải quân Đức lúc

43

bấy giờ là đô đốc Cavagnari nhận định một cuộc chiến đối với đế quốc Anh là

không xảy ra vào những năm 30. Thay vào đó, hạm đội Ý được xây dựng tập trung

vào việc chống lại người Pháp. Tuy nhiên tàu của họ thiếu một số thiết bị quan

trọng hiện đại như bộ phát hiện âm thanh, radar chống tàu ngầm và hàng không hải

quân nằm trong tay không quân Ý[27, p.15].

Hoa Kỳ, kể từ khi Hiệp ước hải quân Washington, sự chú ý của hải quân được

chuyển sang Thái Bình Dương và cuộc chiến tranh với Nhật Bản. Ở đây chiếm phần

lớn hạm đội của Hoa Kỳ trong đó 15 tàu chiến chủ lực, 5 tàu sân bay. Tuy nhiên,

cuộc chiến ở Đại Tây Dương đã dần dần và lôi kéo Hoa Kỳ sau sự kiện tháng

9/1939, khi mà vùng biển châu Mỹ bị đe dọa bởi những hoạt động hiếu chiến của

Đức. Ở phía Bắc, cuộc chiến của hải quân Canada đã kết thúc với thiệt hại 365 tàu,

2000 người [27, p.15].

Trong những năm trước CTTG II, mỗi cường quốc đều có những tính toán

chiến lược của nhau. Trong những tính toán đó có chiến lược phát triển hải quân vì

hơn ai hết họ hiểu rằng, từ CTTG I thì việc nắm ưu thế trên mặt biển nắm vai trò

quan trọng cho sự phát triển đất nước, chiến lược an ninh phòng thủ quốc gia.

Dưới đây là bảng thống kê về sức mạnh hải quân của các nước đến tháng

1/1939

Anh quốc Đức Pháp

Thiết giáp hạm Tàu tuần dương chiến hạm Thiết giáp hạm bỏ túi Tuần dương hạm Hàng không mẫu hạm (TSB) Tàu sân bay có gắn thủy phi cơ Tàu khu trục Tàu phóng ngư lôi Tàu ngầm (tiềm thủy đĩnh) Tàu thả mìn Tàu chiến nhẹ và tàu hộ tống

12 3 - 62 7 2 159 11 54 1 38

2 2 3 6 - - 17 16 57 - 8

5 1 - 18 1 1 59 13 76 1 25

Ý Mỹ 15 4 - - - - 32 21 5 - - - 209 48 - 69 87 104 8 - - 32

Nhật Bản 9 - - 39 5 3 84 38 58 10 -

Pháo hạm và tàu tuần tra Tàu quét mìn

27 38

2 39

10 8

20 -

10 12

- 29 Nguồn: Phillip D. Grove, Mark J Grove & Alastair Finlan (2002), The second world war: vol 3: the war at sea. Osprey Publishing Ltd., Oxford, England, p.16

Bảng 2.1. Sức mạnh hải quân của các cường quốc, tháng 1 năm 1939

44

Với số liệu có được ở bảng 2.1 thấy rằng: nhìn chung đứng đầu về hải quân

vẫn là Mỹ, Anh rồi đến Nhật, Pháp, Ý, Đức. Tuy nhiên, khi thời gian giới hạn hải

quân hết hạn các cường quốc đua nhau phát triển hạm đội của mình. Thì hải quân

Đức và Nhật đã thực hiện chương trình tái vũ trang lớn. Sức mạnh hải quân của mỗi

nước đều có những điểm mạnh yếu khác nhau.

2.1.3. Sự phát triển về kỹ thuật Hải quân trước cuộc chiến tranh thế giới

lần thứ II

Trong những năm trước cuộc CTTG II, do những tham vọng cùng quyền lợi

không sao hòa hợp được, các cường quốc đã có những cải tiến về kỹ thuật của mình

Ngay từ năm 1915 Nhật Bản đã thông báo một chương trình kiến tạo 16 thiết

giáp hạm cũng chiến đấu tuần dương hạm với ý đồ trong vòng mười năm sẽ làm

chủ toàn thể Viễn Đông. Về phần Hoa Kì thì cũng quyết tâm xây dựng một lực

lượng hải lực hùng hậu không nước nào sánh kịp. Tháng 10 – 1916, Hoa Kì bắt đầu

cho đóng 10 thiết giáp hạm. Tuy đến năm 1917 mới hạ thủy được 3 song chiếc nào

cũng gắn đại bác pháo 406,4 mm – ngang ngửa với chiến hạm Nhật Bản.

Nước Anh nghèo đi sau chiến tranh, tuy có ưu thế về số lượng song lại thất thế

về chất lượng: 11 chiến hạm chủ lực của Anh chỉ có đại pháo 304,8 mm mà chiếc

nào cũng đã già nua lỗi thời, cần phải được thay thế. Đến năm 1921, Anh quốc hạ

thủy 4 chiến đấu tuần dương hạm 48.000 tấn, dự trữ đóng thêm các thiết giáp hạm

gắn đại pháo 457,2 mm cùng các tuần dương hạm có đủ sức tranh phong với 13

chiến đấu tuần dương của Nhật (chiếc nào cũng có vành đai sắt bảo vệ dày 300,2

mm ở ngang lưng, có đặt 8 đại pháo 457,2 mm và có khả năng chạy nhanh 30

moeuds hay 55 km/ giờ) [8].

Trong hội nghị ở London năm 1931 các cường quốc thỏa thuận với nhau nới

rộng thời gian giới hạn việc chế tạo các chiến hạm chủ lực đã được dự trù tới sau

tháng 1.1937. Riêng Pháp và Ý được đồng ý cho đóng thêm mỗi nước hai tàu chiến

mới trong đó có chiếc diệt lôi hạm Le Terrible của Pháp (chiều dài 132m, trọng tải

230 tấn, 100.000 mã lực) đã đạt tốc độ phi thường: 45,25 noeud hay 83,8 km/ giờ.

Tuy nhiên về đại thể, vì những khó khăn tài chính, các đại cường quốc cũng bị

bó buộc phải tái tạo, tân trang các con tàu sẵn có hơn là kiến tạo các chiến hạm mới

45

toanh. Và đều theo chung 1 hướng: chú trọng tới khả năng không kích, phóng lôi

của phe mình cùng các biện pháp chống phi cơ, chống thủy lôi của đối thủ.

Qua 1937, thời gian hạn chế đóng thiết giáp mới vừa chấm dứt, mỗi cường

quốc hải quân phát triển hạm đội của mình theo một hướng riêng. Anh cho đặt các

đại pháo 350,6 mm trên các thiết giáp hạm mới đóng của mình. Đức hạ thủy hai

thiết giáp hạm Bismarck và Tirpitz mỗi chiếc gắn 8 đại pháo 381 mm đặt trong 4

pháo tháp; Mỹ thì gắn tới 9 đại pháo 406, 4mm trên các chiến hạm (loại

Washington) 35.000 tấn, có vành đai sắt bảo vệ dày 457 mm. Nhưng sau này đi xa

hơn cả là Nhật Bản: sau trận tập kích bất thần vào Pearl Harbor ngày 7-12-1941,

Nhật Bản hạ thủy 2 thiết giáp hạm khổng lồ là Yamato và Musashi, tải trọng 64.000

tấn tốc độ 27 noeud, có lớp thép bọc sàn tàu dày 228,5 mm và gắn 9 đại pháo 462,2

bắn những trái đạn nặng 1449,6k tới các mục tiêu ở xa 21.000m. Bất hạnh cho Nhật

Bản là ngay khi vừa hoàn tất, hai thiết giáp hạm khổng lồ này đã sớm trở nên lỗi

thời – vì tương quan lực lượng trên các đại dương đã bị các hàng không mẫu hạm

cùng các phi độ hải quân làm thay đổi hẳn [8].

Về hàng không mẫu hạm (tàu sân bay) thì Anh quốc tuy vẫn có số lượng nhiều

hơn hết song đều loại cũ, chỉ chở được từ 21 đến 33 máy bay so với tàu Nhật hay

tàu Mỹ có thế chở tới 90 hoặc 100 máy bay. Bù lại, tàu của Anh được bọc sắt che

chở chắc chắn hơn hẳn cả tàu Nhật lẫn tàu Mỹ nên “chịu đòn” giỏi hơn nhiều Tuy

nhiên, người Anh quan niệm tàu sân bay vẫn chỉ coi đó là trợ thủ cho các thiết giáp

hạm thay vì là chủ bài để giành ưu thế cả trên bầu trời lẫn trên biển. Trong khi đó

Nhật Bản và Hoa Kỳ đã ý thức được rất rõ và rất sớm về tầm mức quan trọng của

phi cơ cùng các mẫu hạm. Hơn nữa, cả Nhật lẫn Mỹ đều thấy ngay là cần phải có

những phi cơ kiểu chuyên biệt: khu trục, oanh tạc, phóng lôi, kể cả loại được thiết

kế đặc biệt để từ trên cao đâm nhào xuống gần sát mục tiêu rồi mới thả bom hoặc

phóng lôi cực kỳ nguy hiểm.

Vào giai đoạn mà các thỏa ước Washington còn hạn chế số chiến hạm chủ lực,

các nước đua nhau tìm cách chiếm ưu thế qua tuần dương hạm vì loại tàu này chỉ bị

giới hạn về tải trọng cùng hỏa lực (10.000 tấn, súng 203,2 mm) nhưng không bị hạn

chế về số lượng. Và trong khi Nhật cùng Mỹ đua nhau đóng các tuần dương hạng

46

nặng (trên dưới 10.000 tấn với đại pháo 200,6 mm hoặc 203,2 mm) thì Anh lại thích

có nhiều tuần dương hạm hạng vừa, gắn các đại pháo 152,4 mm vì vừa đỡ tốn kém

vừa dễ sử dụng. Còn nước Đức thì từ cuối thập niên 1920 đã biểu lộ khuynh hướng

dành ưu tiên cho các loại tàu chuyên đánh phá thương thuyền nhằm phong tỏa kinh

tế đối phương. Đến năm 1929 Đức cho hạ thủy một kiểu tuần dương hạm mới lạ gọi

là “ Thiết giáp hạm bỏ túi – chiếc đầu tiên là Deutechland, tải trọng 11.700 tấn có 2

pháo tháp gắn 6 đại pháo 279.4 mm bắn những trái đạn nặng 1821 ký tới các mục

tiêu ở xa trên 27.000 m. Với 3280 tất nhiên liệu mang theo, loại tàu này chạy máy

diesel có khả năng chạy nhanh 27 noeud và hoạt động xa căn cứ trên 18.500 km. [8]

Với các loại tàu nhỏ từ khu trục hạm xuống các hộ tống hạm, thông báo hạm,

giữa Anh với Mỹ và Nhật cũng có lựa chọn khác nhau: trong khi Anh chú tâm đến

các hộ tống hạm, thông báo hạm (tuy có tốc độ thấp, hỏa lực yếu hơn các khu trục

hạm song lại ít tốn kém và dễ điều động, rất thích hợp với việc truy diệt tiềm thủy

đĩnh) thì Nhật và Mỹ đều quan tâm kiến tạo hàng đoàn khu trục hạm lớn hơn, mạnh

hơn của Anh khá nhiều. Cuối cùng, Anh cũng bị bó buộc phải đi theo đường này để

khỏi bị bỏ lại quá xa) nhờ đó thế chiến thứ 2 bùng nổ ở châu Âu. Anh quốc không

đến nỗi quá lúng túng.

Khi chiến cuộc bùng nổ trên Thái Bình Dương thì hải quân Hoa Kỳ có đến

171 khu trục hạm trong đó 100 chiếc mới đóng từ 1933 trở lại – với đại pháo tiêu

chuẩn 127 mm và tầm hoạt động xa hơn 16.000km. Hải quân Nhật Bản vào lúc đó

có 130 khu trục hạm về đại thể rất giống của Hoa Kỳ - chỉ trừ các kiểu mới đóng về

sau, loại B, tuy cũng có tải trọng 2700 tấn song lại gắn đại pháo 99mm tác xạ rất

nhanh, xuyên phá rất mạnh, hơn hẳn loại 127mm của Hoa Kỳ và các nước khác [8]. 6, trong thập niên 20 Nhật Bản mới đóng các tàu chỉ có khả Về tiềm thủy đỉnh5F

năng hoạt động 20 ngày liền. Hành quân xa chừng 10.000 mille, sang thập niên 30

với loại KD 6A và 6B và J2,J3 có thể hoạt động liên tục từ 45 đến 60 ngày, đi xa

14.000 mille (25.928 km) kiểu A1 có thể hành quân trong 3 tháng liền, đó là còn

chưa kể một vài kiểu đặc biệt như J1 còn mang theo 1 thủy phi cơ và có tầm hoạt

động 25.000 mille (46.300 km), kiểu STD có tải trọng 6500 tấn, tầm hoạt động 6 Tàu ngầm

47

37.000 mille (68.524 km). Thế nhưng ưu thế nổi bật của Nhật Bản là về ngư lôi:

Kiểu vẫn được Anh, Mỹ nể sợ đặc biệt được gọi là Long Lance dùng Oxygene tạo

sức đẩy, có khả năng phong xa tới 25km với tốc độ 49 noeud (98km/ giờ) hoặc

46km với tốc độ 36 noeud, mang đầu nổ 500k trong khi các ngư lôi của Anh , Mỹ

chỉ có thể phóng xa 2,5 mille (4,6 km) với tốc độ 55km / giờ hoặc 6,25 mille với tốc

độ 30 noeud (55 km/ giờ và mang đầu nổ chỉ năng 320k) [8].

Tuy nhiên trong thực tế chiến đấu, các tiềm thủy đỉnh Nhật Bản đã không

được sử dụng với hiệu quả tối đa vì chủ trương sai lầm của bộ Tư lệnh hải quân

thay vì tung từng tàu ngầm đi đánh các tàu buồm thì lại phái từng nhóm nhỏ đi đánh

các tàu chiến lớn được bảo vệ nghiêm mật cả ở trên trời lẫn dưới nước do đó không

phát huy được uy lực của mình. Vì vậy, Hải quân Nhật Bản vào giai đoạn đầu của

Thế chiến II tuy được coi là đào tạo huấn luyện rất chu đáo, lập nhiều chiến công rất

hiển hách nhưng chiến cuộc càng kéo dài thì càng tỏ ra “thiếu nội lực” không đủ

sức bù đắp các tổn thất quá cao cả về nhân lực lẫn vũ khí, chiến hạm để rồi cuối

cùng bị đối phương “đánh gãy xương sống” ngay trên những vùng biển mới 4 năm

trước còn mặc sức vẫy vùng ngang dọc.

Trước khi cuộc chiến tranh thế giới thứ II, với tư tưởng địa – chính trị về tầm

quan trọng ở lực lượng hải quân trong việc kiểm soát các vùng biển, các cường

quốc đã bắt tay vào cải tiến kỹ thuật theo hướng chiến lược hải quân cả quốc gia

mình. Do sự chi phối khác nhau về tiềm lực của nền kinh tế quốc phòng, chiến lược

hải quân, ý đồ chính trị mà các cường quốc đã phát triển vũ khí hải quân theo hướng

khác nhau. Chính điều này đã ảnh hướng khônng nhỏ đến cuộc chiến.

2.1.4. Quan hệ quốc tế trực tiếp dẫn đến chiến tranh thế giới thứ II

Trong những năm 30 của thế kỉ XX, thế giới tư bản rơi vào những cuộc khủng

khoảng kinh tế sâu sắc. Chính những đợt khủng hoảng đó đã thúc đẩy nhanh chóng

những mâu thuẫn gay gắt vốn có càng trầm trọng hơn.

Trước hết là mâu thuẫn Anh – Đức. Sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế

Đức. Đức vượt Anh tới 1 lần rưỡi: sản xuất thép của Đức đạt 20 triệu tấn so với 13

triệu tấn của Anh, sản xuất điện của Đức là 49 tỉ KW/h so với 33 tỉ KW/h của Anh;

sản phẩm công nghiệp của Đức đứng hàng đầu châu Âu và chỉ đứng thứ hai trên thế

48

giới sau Mỹ; Đức chỉ kém Anh một chút trong sản xuất than (240 triệu tấn so với

244 triệu tấn của Anh), nhưng ở thị trường Tây Âu, Đức vẫn chiếm vị trí hàng đầu

về than, thép, sản phẩm hóa học và ô tô. Anh chỉ còn giữ được ưu thế trên thị

trường Bắc Âu. Trong vĩnh vực nông nghiệp Đức cũng vươn lên cạnh tranh gay gắt

với Anh, đặc biệt là khu vực Đông – Nam Âu và lòng chảo sông Danube. Năm

1937, khoảng 9 % nhập khẩu và 10% xuất khẩu của Đức là tiến hành với các nước ở

khu vực này của châu Âu. Không chỉ có vậy Đức còn tăng cường xâm nhập về

chính trị vào khu vực này, ủng hộ các lực lượng phát xít thân Đức ở đây để chuẩn bị

cho kế hoạch bành trướng xâm lược trong tương lai. Chẳng hạn, Đức đã đạt được

việc kí với Bulgaria Hiệp ước về cung cấp vũ khí, trong khi đó cả Anh và Pháp lại

thất bại trong ý đồ đạt được một hiệp định tương tự với Bulgaria [16, tr.138].

Mâu thuẫn Đức - Anh cũng đặc biệt căng thẳng ở khu vực Trung Cận Đông.

Có tới 50% tổng ngoại thương của Thổ Nhĩ Kỳ là tiến hành với Đức. Tại đây xuất

hiện nhan nhả các “chuyên gia” đủ mọi loại của nước Đức phát xít. Sách báo phát

xít tràn ngập Thổ Nhĩ Kỳ. Đức cũng tiến hành các hoạt động gián điệp phá hoại

chống Anh và Liên Xô trên lãnh thổ Iran. Về phần mình, Anh cũng có những hoạt

động chống trả, nhưng chỉ ở miền Nam Iran, còn hoàn toàn “để lỏng” ở miền Bắc,

các cảng ở biển Caspi cũng như phần Azerbaijan thuộc Iran, nhằm dùng các hoạt

động của Đức để làm suy yếu Liên Xô. Trong những năm 1938 -1939, tỉ trọng của

Đức trong ngoại thương của Iran tăng lên tới 41,5%. Còn với các nước Ả rập, năm

1938 Đức đứng thứ hai trong ngoại thương của Ai Cập, Palestine. Cũng trong năm

này, Đức thiết lập quan hệ ngoại giao với Ả rập Saudi. Tuy vậy, Anh vẫn còn giữ

được ưu thế của mình ở Trung Cận Đông. Trong năm 1937, dưới sự tác động và bảo

trợ của Anh, bốn nước Thổ Nhĩ Kì, Iram, Iraq và Afghanistan đã kí hiệp ước

Sadabat – hình thành khối hiệp ước Cận Đông [16, tr.139].

Không dừng lại ở châu Âu, vùng Trung Cận Đông, mâu thuẫn Anh – Đức còn

diễn ra ở châu Phi và Mỹ latinh. Hitler lên tiếng đòi phải trả lại cho Đức những

thuộc địa trước kia đã mất sau Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914 -1918). Người

Anh trong khi chống lại điều đó, lại chủ trương rằng, Anh sẽ không phản đối những

tham vọng của Đức đối với thuộc địa của các thực dân khác,chẳng hạn như Bỉ, Hà

49

Lan, và Bồ Đào Nha. Còn ở Mỹ Latinh, nhờ vào sự giúp đỡ của Nhà nước, tư bản

Đức cũng thâm nhập và cạnh tranh mạnh mẽ với tư bản Anh. Chẳng hạn, vào năm

1938, trong nhập khẩu của Brazil phần của Đức chiếm 25%, trong khi phần của

Anh chỉ có 10%; những con số tương ứng trong vấn đề này ở Chile là 26% của Đức

so với 9,5% của Anh, và ở Peru là 16% của Đức so với 8% của Anh [16, tr.139].

Tương tự như mẫu thuẫn Anh – Đức, mâu thuẫn Pháp – Đức trong những năm

cuối của thập niên 30 cũng không kém phần gay gắt, trước hết là ở Ba Lan,

Rumania và Nam Tư – vốn là những đồng minh gần gũi của Pháp. Do đó, trong khi

một bộ phận thuộc giới tư bản độc quyền Pháp có khuynh hướng nghiêng về việc

Pháp có thể chỉ đóng vai trò là người “bạn hàng” khiêm tốn của Đức, thì phần lớn

giai cấp tư sản Pháp vẫn chủ trương phải xích lại gần và củng cố liên minh với Anh

và Mỹ, vì vấn đề không đơn thuần chỉ là những mâu thuẫn với Đức, mà sau Đức

còn có Ý. Quan hệ Pháp – Ý vẫn thường xuyên trong tình trạng bất ổn do tham

vọng của Ý đối với đảo Corse, Nice, và vùng Savoie. Ngoài tham vọng đối với các

vùng lãnh thổ này của chính nước Pháp, phát xít Ý còn muốn gộp cả các thuộc địa

Tunisia và phần Somalia thuộc Pháp vào phần thuộc địa của mình ở Phi châu.

Mussolini rất muốn biến cảng Djibouti thành một trong những vị trí chiến lược của

Ý trên bờ biển châu Phi, và chiếm được tuyến đường sắt Djibouti – Addis Abeba

của Pháp. Tương tự như vậy, Mussolini muốn biến Địa Trung Hải thành một thứ

“ao nhà” của mình. Và điều này tất nhiên không thể không gây nên sự quan ngại

thực sự từ phía Pháp.

Ngoài những mâu thuẫn Anh – Đức, Pháp – Đức và Pháp – Ý như trên, ở bên

kia bờ Đại Tây Dương còn có thể thấy mâu thuẫn Mỹ - Đức cũng không kém phần

phức tạp và gay gắt, trong cả lĩnh vực kinh tế và chính trị. Chẳng hạn, trong tháng

10 -1937 đã phát sinh những xung đột do việc Đức có ý định đạt được những hợp

đồng tô nhượng về dầu mỏ ở Mexico. Tháng 3-1938, những xung đột tương tự cũng

đã xảy ra khi phái Đức đã lợi dụng việc chính phủ Mexico thi hành đạo luật quốc

hữu hóa ngành công nghiệp dầu mỏ thuộc về các công ti của Anh và Mỹ, để tiến

hành mua các nguồn dầu mỏ chiến lược. Sau đó, ngay trong tháng 5- 1938, các lực

lượng ngầm của Đức hoạt động ở Brazil đã tham gia tích cực vào âm mưu của các

50

phần tử phát xít Brazil chống chính phủ Brazil có khuynh hướng thân Mỹ của Tổng

thống Vargas. Về phần mình, Mỹ đã gây áp lực để Brazil yêu cầu Đức phải triệu hồi

Đại sứ của mình khỏi Rio de Janeiro; đồng thời thành lập một ủy ban đặc biệt ở các

cơ quan ngoại giao, quân sự, kinh tế của mình để có những biện pháp chống lại các

hoạt động xâm nhập của Đức ở Mĩ La tinh. Mặc dù vậy, tư bản Đức vẫn tiếp tục các

hoạt động cạnh tranh của họ không chỉ ở Mĩ La tinh, mà còn ở ngay trên thị trường

nước Mỹ. Sự cạnh tranh của tư bản Đức tại thị trường nội địa của Mỹ đã khiến cho

chính quyền của Tổng thống Roosevelt trên thực tế phải áp dụng một biểu thuế

quan có tính chất cấm đoán đối với các hàng hóa Đức. Ngoài ra, mâu thuẫn Mĩ –

Đức còn thể hiện ở một phương diện khác, là Mỹ kiên quyết chống lại các kế hoạch

phân chia các thuộc địa của Anh, Pháp. Vấn đề không phải là ở chỗ Mỹ ủng hộ Anh

và Pháp để chống lại Đức mà là ở chỗ những tính toán của Mỹ, Mỹ sẽ lợi dụng sự

suy yếu của Anh, Pháp trong những thời điểm và điều kiện thích hợp để thay chân

Anh, Pháp trong các thuộc địa này.

Trong những năm cuối của thập kỉ 30, ở châu Á - Viễn Đông, mâu thuẫn Nhật

– Mỹ, Nhật – Anh, và Nhật – Pháp cũng diễn ra không kém phần phức tạp và căng

thẳng. Tháng 11-1938, Thủ tướng Nhật– Konoye đã tuyên bố về một “Trật tự mới ở

Đông Á”, trong đó khẳng định rõ “mối quan hệ chặt chẽ” của Nhật với Trung Quốc

và Mãn Châu trong các lĩnh vực “kinh tế, chính trị và văn hóa”. Cả Anh, Pháp, Mĩ

đều lập tức có phản ứng đối với tuyên bố này của phía Nhật Bản. Ngày 31-12-1938,

Hoa Kỳ gửi công hàm cho chính phủ Nhật yêu cầu phải bảo vệ “tất cả các quyền,

quyền lợi của Hoa Kỳ và công dân Mỹ ở Trung Quốc. Đến lượt mình, Anh và Pháp

cũng có các công hàm tương tự gửi cho Nhật Bản.

Tháng 1 – 1939, Nội các Konoye từ chức, và thay vào đó là Nội các quân

phiệt hiếu chiến hơn của Thủ tưởng Hiramura. Tháng 2-1939, quân Nhật chiếm đảo

Hải Nam của Trung Quốc, và trong tháng 3 năm đó tiếp tục chiếm một số đảo ở

biển Đông trực tiếp uy hiếp Đông Dương thuộc Pháp. Tháng 5-1939, chính quyền

của Harimura đã yêu cầu Anh và Mỹ phải thừa nhận “quyền của Nhật Bản” đối với

việc quản lí các khu tô giới nước ngoài ở Thượng Hải và quyền kiểm soát đảo

Gulane. Phía Anh và Mỹ đều bác bỏ những yêu sách này của Nhật. Để gây áp lực,

51

ngày 27-7-1939, chính phủ Mỹ đã tuyên bố hủy bỏ Hiệp ước thương mại Nhật – Mỹ

được kí kết từ năm 1911. Mâu thuẫn Nhật – Mĩ ở khu vực Viễn Đông ngày càng trở

nên phức tạp và căng thẳng hơn.

Như vậy, trong quan hệ quốc tế ở giai đoạn cuối thập niên 30 đã chứng kiến

những mâu thuẫn phức tạp chằng chéo rất phức tạp, căng thẳng giữa các cường

quốc tư bản chủ nghĩa với nhau ở hầu hết các khu vực quan trọng trên thế giới. Tuy

nhiên, nhìn một cách khái quát có thể thấy, đến lúc này đã thực sự hình thành hai

khối đế quốc tư bản đối địch nhau: một là khối phát xít do Đức, Ý, Nhật cầm đầu;

hai là, khối đế quốc do Anh, Pháp, Mỹ cầm đầu, và cả hai khối này đều ra sức

chuẩn bị cho một cuộc chiến tranh quy mô lớn.

Điều đáng chú ý là, trong khi phe Trục: Đức, Ý, Nhật từ khá sớm trong thập

niên 30 đã chuyển nền kinh tế của mình sang hướng quân sự hóa phục vụ cho việc

chuẩn bị một cuộc chiến tranh lớn, thì ở khối đế quốc Anh, Pháp, Mỹ cho đến

khoảng những năm 1938 -1939 quá trình này mới chỉ bắt đầu. Chẳng hạn, tháng 5-

1938, Mỹ mới thông qua quyết định nâng trọng tải của Hạm đội Hải quân lên 20%;

và trong đầu năm 1939 Quốc hội Mĩ mới chuẩn y chương trình Không quân mới

tăng số máy bay Mĩ lên 5.500 đơn vị. Trong giới tư bản tài chính của Mĩ bắt đầu

lãnh đạo việc chuẩn bị trực tiếp về kinh tế cho chiến tranh, như trong Ủy ban dự trữ

chiến tranh của Mĩ (thành lập tháng 8-1939) có sự tham gia của đại diện thép

Morgan, tập đoàn General Motor và Công ti điện thoại – Điện tín Mĩ [16, tr.142].

Cuộc chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ với sức mạnh hung hãn của người

Đức, sự dung dưỡng của các nước phương Tây làm cho tốc độ cuộc chiến được thúc

đấy nhanh chóng. Cuộc hành quân của Phát xít Đức gần như không gặp phải một

trở ngại nào. Vì xét đến cùng trận chiến mà Đức gây ra vẫn đáng lo ngại cho Liên

Xô hơn là Anh, Pháp. Tướng Guenther Blumentritt Tham mưu trưởng Tập đoàn

quân A dưới quyền Rundstedt, kể lại cuộc họp giữa Hitler và Rundstedt ngày 24/5:

Hitler muốn đi đến tỏa thuận hòa bình hợp lý với Pháp để được rộng đường cho một

hiệp định với Anh. Ông tỏ ra ngưỡng mộ khi nói về Đế quốc Anh..., về nền văn

minh mà Anh đã mang ra thế giới...điều ông muốn từ Anh chỉ là Anh công nhận vị

thế của Đức trên lục địa châu Âu. Việc trả lại những thuộc địa của Đức là điều

52

mong ước nhưng không phải thiết yếu. Mục đích của ông là dàn hòa với Anh trên

cơ sở mà Anh xem là xoa dịu danh dự của họ để chấp nhận ý tưởng hòa bình [22,

Tr.712].

Hitler vô cùng tự tin là Anh sẽ đồng ý, tuy nhiên Churchill khẳng định họ

không thỏa hiệp với Đức, Anh không chịu thua : “chúng ta hãy gắng hết sức cho

những nghĩa vụ của mình, và nếu Đế quốc Anh và Liên hiệp Anh kéo dài một nghìn

năm, ta sẽ tỏ ra xứng đáng khi hậu thế nói : “Đấy là thời khắc quang vinh nhất của

họ” [22, Tr.724].

2.2. Hải chiến trên Đại Tây Dương và những phân tích địa chính trị

* Vai trò địa – chính trị của Đại Tây Dương

(xem hình 2.1)

Đại Tây Dương, đại dương lớn thứ 2 của Trái Đất, bắc giáp các đảo Grinlen,

Aixlen, đông giáp châu Âu, châu Phi, tây giáp châu Mỹ, nam giáp châu Nam cực,

diện tích 91.560.000 km2 (không kể các đảo), sâu trung bình 3.600m, sâu nhất

8.742m. Các cảng quan trọng nhất: Rôttecdam, Xanh Petecbua, Luân Đôn, Niu

Ooc, Hăm buôc, Macxay, Buê nôt Airet, Kep Tao, Đaca [2, tr.322]. Xung quanh bờ

Đại Tây Dương, là những quốc gia được hình thành và phát triển từ biển. Trong quá

trình đó diễn ra nhiều cuộc chiến để chiếm giữ con đường hàng hải này. Trong lịch

sử châu Âu cho thấy rằng việc kiểm soát biển là tiêu điểm của những cuộc chiến.

Nước nào nắm giữ được biển thì dễ trở thành những cường quốc mạnh. Trong lịch

sử hàng hải có Hà Lan, Anh quốc là những đế quốc hàng hải. Đại Tây Dương là còn

là con đường để nước Mỹ đi vào lục địa châu Âu.

Thời kỳ đại chiến thế giới thứ 2, nếu như con đường giao thông qua Địa Trung

Hải chỉ là mang tính cách sinh tử đối với một số xứ trong đế quốc thì đường thông

thương và tiếp tế qua Bắc Đại Tây Dương có tính cách sống còn đối với Anh quốc.

Do tách rời với lục địa nên để có thể tồn tại, nước Anh phải dựa vào hơn bao giờ hết

các nguồn nguyên liệu của Đế chế Anh và Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ [1, tr.148]. Để

tiếp tục chiến đấu chống Đức, mỗi tuần Anh cần một triệu tấn nguyên vật liệu.

Những đoàn tàu này thường là từ Hoa Kỳ theo phía nam Đại Tây Dương chở tiếp

vận và vũ khí đến Anh Quốc và Liên Xô, được hộ tống bởi hải quân và không quân

53

Anh và Canada.

Trong diễn văn gửi nhân dân Hoa Kỳ ngày 11-9-1941, Roosevelt nói: “Hitler

biết rằng để có thể giành thắng lợi quyết định trong nỗ lực thống trị thế giới, ông ta

phải kiểm soát được biển cả. Trước hết, ông ta phải phá tan tuyến đường băng qua

Đại Tây Dương, mà các con tàu của chúng ta đã tạo ra và nhờ nó mà chúng ta có

thể tiếp tục đưa vũ khí sang tiêu diệt ông ta” [7, Tr.91].

Để giành được một cuộc thương thuyết rảnh rang ở châu Âu, người Đức biết

rằng sẽ không thể là một cuộc đổ bộ trực tiếp lên vương quốc Anh, mà phải làm tàn

lụy nền kinh tế và với chiêu trò hòa bình của họ. Để đạt được mục đích, Hitler đã

quyết định ngăn chặn con đường huyết mạch mà Đại Tây Dương tạo ra bắt đầu từ

Canada và Hoa Kỳ. Nơi có những đoàn thương thuyền tiếp tế cho Anh quốc.

*Diễn biến

Cuộc chiến trên Đại Tây Dương, từ tiếng Anh "Battle of the Atlantic" do thủ

tướng Anh Winston Churchill nêu lên năm 1941. Đây là trận chiến lan rộng khắp

một vùng hải dương rộng lớn, kéo dài 6 năm, với hàng nghìn thuyền bè tham gia,

hơn 100 đoàn tàu bị tấn công và đến cả ngàn trận đánh một chọi một giữa hai chiến

hạm. Trận chiến Đại Tây Dương sẽ là một chuỗi diễn biến của những trận đánh

bằng tàu ngầm, những cuộc tập kích trên mặt biển, các cuộc đánh mìn và các cuộc

tấn công bằng máy bay trong các vùng bờ biển nước Anh [1, tr 148].

Nếu như xét về so sánh lực lượng hải quân thì hải quân Đức chưa thể đủ sức

mạnh để lấn át, tiêu diệt hải quân Anh, thêm vào đó lực lượng hạm đội hải quân

Đức trên Đại Tây Dương rõ ràng không có đồn bốt, tiền tiêu. Trong chiến lược quân

sự, các tướng hải quân và ngay cả Quốc trưởng Hitler cũng muốn tránh một cuộc

chiến tranh trực tiếp với Anh, đặc biệt là việc tấn công trực tiếp lên đảo quốc. Trong

cuộc chiến khi mà đối thủ là một đế chế hàng hải lâu đời. Karl Donitz một nhà

chiến thuật hàng đầu của hải quân Đức, nguyên hạm đội trưởng tàu ngầm thời Đệ

nhất thế chiến, năm 1935 được Hitler bổ nhiệm làm tư lệnh, tập trung phát triển lực

lượng tàu ngầm nhận định rằng: Đức chỉ có thể cậy vào tàu ngầm mới mong thủ

thắng được trận Đại Tây Dương, từ đó giúp Đức sớm kết thúc thế chiến. Ông đưa ra

chiến thuật “bầy sói”. Các tư lệnh khác phản bác quan điểm này. Theo họ, chỉ có

54

các chiến hạm không thể bị đánh chìm, được trang bị đại bác lớn mới là yếu tố

chính kiểm soát vùng biển. Thực tế đã nghiêng về nhận định của Donitz. Những

thiết giáp hạm khổng lồ “không thể bị đánh chìm” của Đức như Bismarck và Graf

Spee hạ đốc không bao lâu đã trở thành tít lớn trên báo chí do “bị hải quân Anh săn

lùng và tiêu diệt”. Trong khi trên Đại Tây Dương, lực lượng tàu ngầm Đức liên tục

khiến quân đồng minh khốn đốn bởi “bầy sói” [33].

Để cô lập và loại Anh quốc ra khỏi cuộc chiến, Donitz tính toán lượng hàng

hóa của nước này cần phải bị đánh chìm hằng ngày trên Đại Tây Dương. Như vậy,

nền kinh tế Anh sẽ lụn bại và đường tiếp vận của quân đồng minh cũng bị phong

tỏa. Từ tính toán trên, Donitz phác thảo cơ số tàu ngầm Đức cần có để thực hiện

chiến dịch. Nắm rất vững những thông số cần thiết, lên chiến thuật và với tiềm năng

của nước Đức lúc bấy giờ, Donitz khẳng định Đức có thể mở một cuộc chiến năm

ăn năm thua với hải quân Hoàng gia Anh dù đối phương có thực lực mạnh hơn cả

chục lần. Donitz tin rằng hải quân hoàng gia với những chiến đấu hạm được trang bị

đại bác lớn sẽ hoàn toàn “đề-mốt” trước chiến thuật hiện đại của tàu ngầm - được

chế tạo nhỏ nhưng cơ động trên mặt nước và lặn nhanh xuống biển.

Để có thể phong tỏa Anh quốc như theo tính toán, Donitz cần ít nhất khoảng

300 tàu ngầm để tung vào trận. Tuy nhiên, ông chỉ có trong tay 57 chiếc trong số đó

có 17 chiếc đang hoạt động ở biển.

Trong 9 tháng đầu của cuộc chiến, tàu ngầm Đức chưa phải là mối đe dọa

chính. Ngoại trừ những hoạt động nhỏ lẻ, đội tàu ngầm Đức đã bị hạm đội họ tống

vận tải dồn vào thế đường cùng và các hoạt động tấn công phá hoại của họ cũng

không đạt được hiệu quả cao. Tuy nhiên tháng 10/1939, đội tàu ngầm U-47 của Đức

đã xâm nhập vào khu vực neo thuyền cuả Home Fleet tại Scapa Flow ở Orkeys,

đánh đắm chiến thuyền Royal Oak. Quân Anh đã ý thức rõ về sự thiếu hụt về tàu hộ

tống áp tải thích hợp, ngày càng trở nên trầm trọng hơn với nhu cầu bảo vệ cho hệ

thống tiếp tế xuyên eo biển để hỗ trợ quân đội ở Pháp. Như vậy, hạm đội vận tải sẽ

được bảo vệ trước chuyến hành trình xuyên Đại Tây Dương bởi một tàu tuần dương

được trang bị vũ khí đầy đủ.

Việc săn lùng bắt tàu ngầm Đức do hàng không mẫu hạm đảm trách. Tuy

55

nhiên ở giai đoạn đầu bị vô hiệu hóa.

Tháng 8/1939, Hai chiếc tàu chiến bỏ túi, Deutchstchland và Grafspee tham

gia vào cuộc chiến trên Đại Tây Dương, nhưng hoạt động của 2 tàu này không gây

được nhiều nguy hại cho quân Anh. Chúng trở thành mục tiêu săn lùng, bắn phá của

quân Anh. Trong thời gian này, hai thuyền chiến chính khác đã tiến hành những

cuộc bắn phá chớp nhoáng vào Đại Tây Dương, mở đầu cho một cuộc tấn công bất

ngờ của đội thuyền Home Fleet vốn đã thất bại trong nỗ lực can thiệp của chúng.

Một mỗi đe dọa ban đầu khác chính là mìn từ tính, được phóng ra từ máy bay và tàu

ngầm ở các cảng của sông củ Anh. Loại mìn này là nguyên nhân chính gây ra vô số

các cuộc chìm tàu trước khi giải pháp kỹ thuật, thiết bị khử từ ra đời.

Ngày 10.5.1940, Đức xua quân tiến chiếm Pháp. Ngày 22.6.1940, Pháp đầu

hàng. Sự thất bại của Pháp đã làm tình hình thay đổi một cách đột ngột. Quân Đức

đã vượt qua được những trở ngại về ngư lôi và đội tàu ngầm của họ trở nên đáng tin

cậy hơn. Đặc biệt hơn là việc Donitz tiếp quản nhiều hải cảng quan trọng của Pháp

và thu ngắn được hải trình đến Đại Tây Dương điều này đồng nghĩa với việc nhiều

tàu ngầm Đức sẽ tham gia vào hoạt động tuần tra hơn. Đối với Hitler, sự thất bại

của Pháp làm cho mọi việc trở nên dễ dàng hơn. Những sân bay nhỏ của Pháp chỉ

tạm thời sử dụng ở những con lạch gần bờ biển và những cảng nhỏ của Anh. Những

căn cứ tàu ngầm Pháp chỉ làm tăng thêm khu vực hoạt động của các tàu ngầm Đức,

điều đó giờ đây cho phép chúng thực hiện hành quân xa trong trung tâm Đại Tây

Dương, ngoài tầm bảo vệ của không quân Anh. Bằng cách xuất phát từ các hải cảng

Pháp, các tàu thả mìn của Đức có thể nhồi nhét vào biển Manche những vũ khí nguy

hiểm của chúng. Ngoài ra xuất phát từ các căn cứ của Pháp và Na Uy, các tàu trên

mặt nước của Đức có thể xông đánh bất thần các tàu đồng minh bảo đảm sự thông

thương ở Bắc Đại Tây Dương. Việc tăng cường cuộc chiến bằng tàu ngầm, sau sự

thất trận của nước Pháp, đã nhanh chóng làm tăng gấp bội các tổn thất về tàu buôn

của quân Đồng minh. Những đoàn tàu của Đồng minh tắt đèn đi trong đêm, không

những chỉ bị các tàu ngầm đe dọa, mà lúc nào cũng phải hết sức chú ý tránh những

vụ va chạm. Trong các vùng biển của châu Âu, chúng cũng phải đề phòng các máy

bay ném bom có bán kính hoạt động tầm xa đặt căn cứ ở Pháp và Na Uy [1], [19].

56

Từ tháng 7 đến tháng 10.1940, tàu ngầm Đức đánh chìm thêm 220 tàu thuyền

của quân đồng minh. Hiện giờ, lực lượng không quân Luftwaffe cũng đã tham gia,

với các đơn vị Fockewult Condors tầm xa để định vị hạm đội áp tải và hướng dẫn

cho tàu ngầm Đức. Ngoài ra những đơn vị này cũng có thể tiến hành những cuộc

tấn công để đánh đắm tàu địch.

Chỉ trong 3 tháng - từ 2.9 đến 2.12.1940, 157 tàu thuyền các loại của quân

Đồng minh đã bị đánh chìm với tổng lượng hàng tiếp vận là 847 ngàn tấn trong khi

Đức chỉ tổn thất 3 tàu ngầm. Tỷ lệ đánh đổi là 1:52. Những tổn thất liên tiếp khiến

lượng dầu mỏ nhập cảng vào Anh giảm hẳn một nửa và chỉ đáp ứng được 2/3 nhu

cầu. Kinh tế Anh bắt đầu rơi vào khủng hoảng đến nỗi Thủ tướng Winston

Churchill phải thú nhận ông sợ nước Anh sẽ thua ở trận hải chiến Đại Tây Dương

và như vậy, Anh sẽ mất luôn sức chiến đấu trong Đệ nhị thế chiến [33]. Trong một

bức thư gửi Tổng thống Roosevelt ngày 08-12-1940 Winston Churchill trình bày

viễn cảnh của năm 1941 theo cách nhìn riêng của ông: Nguy cơ của cuộc xâm lăng

thần tốc ồ ạt của Đức vào lãnh thổ Anh quả đã giảm đáng kể. Nhưng thay vào đó là

mối đe dọa chết người về việc Anh sẽ bị Đức bóp nghẹt từ từ bằng hoạt động phong

tỏa đường biển và đánh phá từ trên không. Đáng sợ hơn cả là “số tàu biển bị đánh

đắm ngày càng tăng lên mau chóng…vấn đề quan trọng hơn cả trong năm 1941 sẽ

là an ninh đường biển. Nếu chúng tôi không thể đảm bảo việc cung ứng cho đảo

quốc của mình các loại vũ khí và đạn dược chính, nếu chúng tôi không có khả năng

đưa quân đội của mình đến mọi nơi có thể diễn ra chiến sự để đánh bại Hitler và

đồng minh Mussolini của ông ta, chúng tôi sẽ ngã qụy [ 7, tr. 82].

Trong khi những con gió mạnh mùa đông làm giảm thiểu hoạt động của tàu

ngầm Đức thì lại xuất hiện mối đe dọa trên mặt biển.

Tháng 5/1941, chiến hạm Bismarck đã đánh niềm kiêu hãnh của Hải quân

Hoàng gia Anh, chiến hạm Hood. Gây ra tổn thất nặng nề: số tàu tổn thất là 500.000

tấn., điều đó đã đạt tới 7.000.000 tấn cho toàn bộ tổn thất kể từ lúc khởi sự cuộc

chiến. Mỗi một chiếc tàu được sản xuất ra từ các xưởng đóng tàu của Anh hay Hoa

Kỳ, thì Đức đã đánh chìm ba chiếc [1], [19].

Như vậy, chiến thuật “bầy sói” của Donitz lực lượng tàu ngầm Đức hoạt động

57

có hiệu quả trên Đại Tây Dương làm cho Anh quốc khủng hoảng. Một viễn cảnh

của năm 1941 là Anh quốc bị tấn công và nguy cơ về an ninh lãnh thổ của Hoa Kỳ

bị đe dọa.

*Những nỗ lực đối phó của Anh quốc

Để đối phó với Đức đồng thời nhằm giành lại thế chủ động trên Đại Tây

Dương, hải quân Anh đã đề ra hàng loạt chiến lược đối phó với “bầy sói” của Karl

Donitz. Ban đầu, họ đã sử dụng 50 tàu khu trục cũ của Mỹ được trao đổi ở các căn

cứ quân sự thuộc Caribbe. Đến cuối tháng 5, hạm đội vận tải xuyên Đại Tây Dương

đầu tiên của Anh đã giương buồm với nhóm hộ tống kéo dài theo sau.

Họ quyết định rút một số đông khu trục hạm đang giám sát khả năng xâm lược

của người Đức sang hộ tống các đoàn tàu hàng, bổ sung thêm các tàu hộ tống nhỏ

cùng chiến đấu hạm tải trọng dưới 1.000 tấn gia nhập đội quân “bảo kê” này. Mặt

khác, thành lập các đoàn tàu hộ tống chuyên nghiệp. Điều này khác hẳn quan niệm

cũ: cứ hễ là tàu chiến thì đương nhiên đủ sức hộ tống tàu hàng. Giờ đây, các tàu hộ

tống cùng thủy thủ đoàn được huấn luyện đặc biệt, đảm bảo có thể tác chiến đồng

đội, biết cách săn lùng và nắm vững được cách thức tiêu diệt tàu ngầm mới được

tung đi làm nhiệm vụ.

Dựa vào sự tiến bộ về kỹ nghệ quân sự, Anh quốc đã tăng cường trang thiết bị,

vũ khí cho các đoàn tàu hộ tống cũng là mấu chốt cơ bản của chiến lược chống trả.

Tàu hộ tống được trang bị thêm radar và vô tuyến số cự li ngắn. Radar thời này tuy

chưa đủ nhạy để dò ra tàu ngầm mỗi khi trồi lên mặt nước nhưng cùng với vô tuyến

số, các hạm trưởng có thể định vị được vị trí của tàu hàng, các tàu hộ tống khác, liên

lạc được với nhau và với các chiến đấu cơ, đặc biệt là khi phối hợp tấn công tàu

ngầm. Đặc biệt, người Anh nhận ra rằng mật mã cũ Naval Cypher No.3 đã lộ nên

quyết định thay bằng Naval Code Number 1. Việc thay thế này khiến sức tấn công

của tàu ngầm Đức giảm hẳn. Bộ phận giải mã B-Dienst của Đức “điếc đặc”, không

thể tiếp tục cung cấp thông tin tình báo về đường đi nước bước của đối phương.

Chính những yếu tố này giúp hải quân Anh đã vô hiệu hóa chiến thuật “bầy sói” của

Đức.

Cuối tháng 5/1941, cuộc không kích từ những máy bay trên hàng không mẫu

58

hạm đã làm chậm hải trình của Bismarck, bị đánh đắm bởi Home Fleet. Thất bại

này đánh dấu sự kết thúc của thời kỳ chiến đấu trên mặt biển ở Đại Tây Dương [33],

[19].

Sự can thiệp của Mỹ

Winston Churchill tìm kiếm sự ủng hộ của nước Mỹ. Vị Thủ tướng Anh lúc

bấy giờ tin rằng sự trợ giúp của Mỹ sẽ đóng vai trò quyết định trong việc đánh bại

người Đức. Washington đã nắm đầy đủ thông tin về những tổn thất kinh hoàng của

Anh quốc trên Đại Tây Dương và nhận định rằng: việc người Anh thua trận chỉ còn

là vấn đề thời gian. Ngoài ra, Washington bắt đầu cảm thấy Mỹ La-tinh cũng đang

chịu sự đe dọa của trục ba Berlin – Roma – Tokyo, nhất là khi Hiệp ước ba bên

Đức, Ý, Nhật được ký vào ngày 27.9.1940 tại Berlin.

Trong một “cuộc nói chuyện bên góc lò sưởi”, được phát trên radio ngày 29-

12, Tổng thống xác định tình thế của quốc gia: kể từ sau nội chiến Bắc – Nam, chưa

bao giờ đất nước lại “ở trong một tình thế hiểm nghèo như hiện nay”:

Nếu Anh quốc sụp đổ, những cường quốc của phe Trục sẽ kiểm soát các lục

địa châu Âu, châu Á, châu Phi và châu Úc; chúng sẽ thống trị trên các đại dương.

Kể từ lúc đó, các cường quốc ấy cũng sẽ chỉ đạo chống lại bán cầu của chúng ta

bằng những lực lượng hải quân và bộ binh khổng lồ. Về phương diện kinh tế cũng

như quân sự, không phải là cường điệu để nói rằng, tất cả chúng ta đang sống trước

họng pháo, một quả pháo nạp đầy những quả đạn công phá…Chúng ta phải sản xuất

ra những loại vũ khí và những chiếc tàu với tất cả năng lực và nguồn nguyên liệu

mà chúng ta có khả năng… Chúng ta phải là kho vũ khí cả các nước dân chủ…

Các dân tộc ở châu Âu đang lo tự vệ, không yêu cầu chúng ta đi chiến đấu ở

chỗ của họ. Họ yêu cầu chúng ta về chiến cụ, phi cơ, xe tăng, đại bác, để bảo vệ sự

tự do của họ và sự an toàn của chúng ta. Tôi khẩn thiết rằng: chúng ta cần phải cung

cấp đầy đủ những thú ấy cho họ một cách nhanh chóng để chính chúng ta và con

cháu mình không biết đến nỗi sợ hãi và những nỗi đau khổ của chiến tranh mà

người khác sẽ chịu đựng [1, Tr.163-164].

Tháng 1.1941, liên minh tối mật giữa Anh và Mỹ đã được lên kế hoạch và

trong chuyến thăm London, trợ lý của Nhà Trắng – Harry L.Hopkins.

59

Sự can thiệp của Mỹ cũng đóng vai trò hỗ trọ tích cực. Tuy nhiên, khi quân

Mỹ tham chiến thì Thời Hoàng Kim Thứ Hai cho tàu ngầm Đức đã xuất hiện. Trong

nửa đầu của năm 1942, tàu ngầm Đức chỉ tập trung hoạt động ở khu vực ven bờ

phía đông, nơi mà những lực lượng phòng thủ thiếu thốn các vũ khí chống tàu ngầm

cần thiết.

Trận chiến lở Đại Tây Dương đã ngày một trở nên quan trọn hơn với quân

Đồng minh. Trận chiến đó có thể mang đến chiến thắng trong bối cảnh tái xâm nhập

châu Âu lục địa để đánh bại nước Đức, ưu tiên hàng đầu hơn cả quân Nhật. Vì vậy,

số lượng tàu trinh sát, lực lượng tàu hộ tống đông hơn bao gồm cả hàng không mẫu

hạm (tàu sân bay), cũng như những biện pháp kỹ thuật hỗ trợ để phát hiện và phá

hủy tàu ngầm Đức được gia tăng. Tuy nhiên, bất chấp những nỗ lực hạn chế, bao

gồm cả phá hủy các nhà máy sản xuất, thì số lượng tàu gầm Đức vẫn gia tăng rất

nhanh chóng. Chiến thuật bầy sói được sử dụng, để gom các tuyến đường vận tải lại

tập trung tấn công vào hạm đội áp tải, đã mang lại những hiệu quả nhất định. Máy

bay chiến đấu ngày càng đóng vai trò quan trọng hơn trong cuộc chiến. Tuy nhiên,

trận chiến không thể quyết định được chiến thắng cho đến khi Vùng Đen ở giữa Đại

Tây Dương hoàn toàn bị khép lại. Mặt khác lực lượng máy bay chiến đấu và thuyền

chiến ở các căn cứ Na Uy của Đức, bao gồm Tirpitz, đang tạo ra những vấn đề đáng

báo động đối với các hạm đội hộ tống ở Bắc Băng Dương hỗ trợ cho quân Nga

thông qua các cảng biển phía Bắc.

Cực điểm của cuộc chiến đã xuất hiện vào mùa xuân năm 1943. Sau khi chiến

dịch lùa sói đánh bại hai hạm đội áp tải. Tình thế bỗng nhiên hoàn toàn đổi khác.

Vào tháng 5, có 41 tàu ngầm Đức bị đánh đắm, buộc quân Đức phải tạm thời

rút lui khỏi Đại Tây Dương. Ngoài ra, tỉ lệ thuyền buôn được chế tạo đã dần được

thay thế những con số mất mát đó. Tàu ngầm Đức nhanh chóng trở lại Đại Tây

Dương, nhưng họ không còn là một lực lương hùng mạnh như trước đây nữa, bất

chấp các cải tiến mới về ngư lôi đời mới và ống thông hơi, vốn giúp cho tàu ngầm

Đức có thể di chuyển lâu hơn dưới mặt nước và tránh được mối đe dọa từ không lực

của đối phương.

Thắng lợi của quân đội Đồng minh tỏ ra là sự thắng thế về công nghệ, và tiềm

60

lực công nghiệp quân sự: Cuộc chiến tranh trên biển dần dần trở thành một vấn đề

về lòng dũng cảm và tính kiên trì, nhưng cũng là một vấn đề về sản xuất, khoa học

và cả chiến thuật. Châu Mỹ thực hiện những điều thần kỳ trong lĩnh vực đóng tàu.

Vào năm 1942, đã đóng được những chiếc tàu có tổng trọng tải 800000 tấn. Năm

1943 là 20.000.000 tấn. Từ năm 1942 đến 1943, ngành đóng tàu buôn tăng gấp đôi

trong nước đồng minh, từ 7.000.000 tấn thô lên 14.500.000 tấn, điều này vượt qua

những tổn thất của gần 11.000.000 tấn [1], [19].

Chính trận đánh ở Đại Tây Dương đã lôi kéo, từ từ và chắc chắn Hoa Kỳ vào

cuộc chiến. Hoa Kỳ chú trọng vào châu Âu nhiều hơn ở Viễn Đông. Lý giải điều

này, Tiến sĩ sử học Lê Phụng Hoàng trong cuốn Tiểu sử chính trị của Roosevelt đã

viết:

Vì xét theo góc cạnh và được soi rọi bằng các giá trị tinh thần và giá trị vật

chất cơ bản nhất, châu Âu cho đến năm 1941 vẫn luôn có ý nghĩa sống còn đối với

Hoa Kỳ. Đó là nguồn gốc của đại bộ phận dân Mỹ, gốc tích của mọi sinh hoạt văn

hóa tinh thần của người Mỹ. Nếu không một ai có thể sống mà không có quá khứ,

thì Hoa Kỳ cũng không thể tồn tại với nghĩa đầy đủ của từ này, nếu thiếu vắng một

châu Âu như nó đã từng như vậy. Bất chấp học thuyết Moroe - nền tảng tư tưởng

của xu hướng biệt lập, Hoa Kì thực ra mà nói không gì khác hơn là sự tiếp xúc nối

xuyên Đại Tây Dương về mọi mặt của châu Âu, trước hết là Tây Âu. Đến cuối thế

kỉ XIX, khi chủ nghĩa tư bản từ giai đoạn tự do cạnh tranh chuyển sang giai đoạn

độc quyền, sự ngăn cách mà Đại Tây Dương tạo ra chỉ còn có ý nghĩa hết sức tương

đối về địa lý. Và với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, khoảng cách đó bị thu ngắn

thật nhanh chóng. Chiến tranh thế giới thứ nhất là minh họa không thể bác bỏ được

cho sự thu ngắn này. Tình trạng chia rẽ trong nhận thức chủ quan của công chúng

Mỹ không mảy may ảnh hưởng đến thực tại khách quan là số phận của Hoa Kỳ gắn

liền với châu Âu. Chính vì tầm quan trọng của châu Âu, mà chính phủ Roosevelt đã

quyết định chọn Đức là kẻ thù chính cần đánh bại trước tiên, kể cả sau khi Nhật

tham chiến.

Thắng lợi nhanh chóng và có phần dễ dàng của chủ nghĩa quốc xã Đức đã trở

thành mối đe dọa trực tiếp đến không chỉ an ninh, mà cả nền văn minh có nguồn

61

gốc châu Âu của Hoa Kỳ [7, tr.97].

Thắng lợi của phe Đồng minh tại Đại Tây Dương về việc tiệt trừ tàu ngầm có

kết quả đã đảm bảo cho các đoàn tiếp vận có thể vượt Đại Tây Dương và đổ bộ dễ

dàng lên đất Pháp.

Cuộc hải chiến Đại Tây Dương diễn ra với đầy đủ ý nghĩa của nó dưới góc độ

địa chính trị là cuộc chiến tranh để giành quyền kiểm soát con đường thương mại

biển, đó là quá trình tiếp viện cho Anh quốc, đất nước đảo quốc phụ thuộc rất nhiều

vào những nguyên vật liệu từ bên ngoài. Cuộc chiến này ngày càng phức tạp bởi

những quyền lợi về an ninh lãnh thổ của các bên có liên quan. Với nước Đức:

Thắng lợi này sẽ làm tàn lụy nền kinh tế nước Anh, vốn dĩ ở châu Âu, Anh quốc là

nước gây cho Đức nhiều cản trở trên con đường thu phục vùng đất trung tâm này.

Đối với Anh quốc, nếu thất bại thì Anh quốc sẽ mất đi sức mạnh thương mại trên

biển, đặc biệt là phải chịu số phận như Pháp, điều này sẽ không thể chấp nhận được

đối với một nền văn minh này. Đối với nước Hoa Kỳ, tham gia trận chiến Đại Tây

Dương không chỉ bởi lý do tinh thần, an ninh lãnh thổ mà Hoa Kỳ có lẽ còn vì mục

đích không muốn Đức làm bá chủ vùng đất trái tim, làm bá chủ thế giới.

Xét về nguyên nhân dẫn đến kết cục của cuộc chiến thì điểm nổi bật làm xoay

chuyển tình thế là sức mạnh của tiềm lực kinh tế, tiềm lực quân sự và sự phát triển

nền kĩ nghệ của các bên.

2.3. Hải chiến Địa Trung Hải và những phân tích địa chính trị

*Vai trò địa – chính trị

( xem hình 2.2)

Địa Trung Hải, biển thuộc Đại Tây Dương, là nơi phân chia giữa các lục địa

lớn ở châu Phi, Châu Á và Châu Âu, thông với Đại Tây Dương qua eo biển

Gibranta, với biển Đen qua eo biển Dacdannen, biển Macmara và eo biển Bôxpho,

với Biển Đỏ qua kênh Xuyê. Diện tích 2.505.000 km2, dài 3.900km, rộng 1.800km

phía tây sang phí đông từ Gibraltar đến Palestine. Qua Địa Trung Hải có nhiều

đường hàng hải quốc tế quan trọng. Những cảng và căn cứ quân sự chính:

Bacxelona (Tây Ban Nha), Macxay (Pháp), Gionova, Na pôli, Vê nê xia, Triex tê

(Italia), Tê xa nô li ki (Hi Lạp). Chính vì vậy, trong cuộc chiến tranh thế giới thứ 2,

62

nơi đây đã lôi kéo nhiều nước tham gia. Riêng đối với nước Anh, Địa Trung Hải là

tuyến giao thông huyết mạch để tiếp viện cho quân đội Anh ở Phi châu và Trung

Đông, và để tiếp viện cho nước Anh, Địa Trung Hải phải tiếp tục được mở rộng.

Đối với Anh quốc đường hàng hải qua Địa Trung Hải và vòng quanh châu Phi là

những đường giao thông có tính cách sinh tử đối với một số xứ trong đế quốc

Anh.[2],[27], [21]. Sức mạnh hải quân Anh được duy trì ở đây thông qua đội thuyền

Địa Trung Hải và các căn cứ hải quân ở Gibranltar lẫn về truyền thống vượt trội so

với Ý.

Đối với Ý, từ lâu Mussolini đã ôm ấp giấc mơ về một Đế chế Tân La Mã trải

rộng chung quanh một Địa Trung Hải được biến đổi thành cái hồ nước của Ý. Hắn

đặt viên đá đầu tiên cho giấc mơ ấy kể từ cuộc xâm chiến Ethiopie vào năm 1935,

và đã củng cố nó bằng việc xây dựng một đế chế Đông Phi bao gồm Erythree và

Somali thuộc Ý. Để thực hiện giấc mộng của mình về một Tân La Mã và về một

“Mare Nostrum” (Biển của chúng tôi), Mussolini phải đánh bại Pháp, chiến thắng

hạm đội của Anh ở Địa Trung Hải, phải xua quân xuyên qua Albanie cho tới tận Hy

Lạp để kiểm soát toàn bộ khu vực Địa Trung Hải, và phải tiến chiếm Ai Cập để có

thể thâu tóm bờ biển phía Nam của Địa Trung Hải và kênh đào Suez. Con đường

hướng về phía Moussoul và dầu hỏa của Trung Đông cũng sẽ được mở rộng [2,

Tr.153-154] .

Vì vậy, Cuộc chiến trên biển Địa Trung Hải là cuộc chiến giành kiểm soát và

tạo phương tiện cho các cuộc đổ bộ lên đất liền ở các khu vực chung quanh biển

này. Trận chiến Địa Trung Hải diễn ra với tộc độ chậm, nhưng rất phức tạp và dữ

dội với sự tham gia của Anh, Pháp, Đức, Hy Lạp, Ý và Hoa Kỳ.

*Diễn biến

Với vai trò địa – chính trị, lực lượng hải quân chủ chốt ở Địa Trung Hải là lực

lượng hải quân Anh, Pháp, Ý.

**Trận Taranto

(Xem hình 2.4)

Taranto là căn cứ hải quân chính của Italia trên bờ vịnh Taranto, biển Yonio

(thuộc biển Địa Trung Hải), cảng có độ sâu từ 6-25m [2, tr.902].

63

Rạng sáng ngày 12/ 11/1940, đô đốc Cunningham, chỉ huy hạm đội Anh ở

phía Đông Địa Trung Hải sử dụng không quân từ tàu sân bay đã đánh úp đội Ý

trong căn cứ của nó ở Tarente [Taranto]. Tàu Illustrions của Anh đã tiến vào biển

Ionienne cách căn cứ hải quân Taranto của Ý 170 dặm và tung ra một đợt oanh kích

với 21 máy bay phóng ngư lôi. Cuộc tấn công trong đêm đã không gây khó khăn

cho việc tiếp cận mục tiêu của lực lượng đột kích. Máy bay Anh đã phóng ngu lôi

trúng 3 thiết giáp hạm Ý: 1 chiếc chìm, 2 chiếc bị loại khỏi vòng chiến [18, tr 35].

Với sự tổn thất chỉ là hai máy bay, người Anh loại phân nửa số tàu chiến của Ý ra

ngoài vòng chiến. Năm tháng sau, trong khi hộ tống một đoàn tàu hướng về Hy

Lạp, một lần nữa Cunningham đã chặn đánh hạm đội Ý ở ngoài khơi mũi Matapan,

trong vùng biển Ionie. Ông ta đánh chìm 3 tuần dương hạm và hai khu trục hạm,

đồng thời gây tổn hại cho các tàu chiến khác. Người Ý đành phải tháo chạy và trốn

về các căn cứ của họ. Cán cân lực lượng ở Địa Trung Hải giờ đây nghiêng hẳn về

phía người Anh. Với trận Taranto lần đầu tiên không quân tàu sân bay được sử dụng

làm lực lượng tiến công chủ yếu của hạm đội. [2, tr.902]. Kinh nghiệm nóng hổi của

chiến trường Địa Trung Hải được người Nhật áp dụng cho cuộc tấn công vào Trân

Châu cảng.

**Trận chiến ở Manta

(Xem hình 2.5)

Manta là căn cứ hải quân của Anh, nằm gần nước Ý nên dĩ nhiên trở thành

mục tiêu quân sự đầu tiên của cuộc bành trướng phát xít. Ngày 11 tháng 6 năm

1940, Phát xít Ý tấn công Manta. Trong thời gian đầu bộ chỉ huy Anh không tiếp

ứng Manta vì cho rằng hòn đảo nhỏ này sẽ nhanh chóng bị Ý khuất phục. Quân

phòng vệ Manta lúc bấy giờ chỉ có 6 chiếc máy bay hai tầng cánh cũ kĩ. Nhưng sau

khi theo dõi cuộc không chiến đầu tiên của phe Trục, quân Đồng minh nhận thức

được Manta có vị trí chiến lược vô cùng quan trọng đảo này, từ đây có thể kiểm

soát lối vào Bắc Phi từ châu Âu và có thể chống chọi được với phe Trục. Nếu quân

phát xít chiếm giữ được khu vực này, Alexandria sẽ bị cô lập khỏi Gibraltar và cũng

sẽ không thể ngăn chặn các con đường tiếp tế cho quân phát xít đến Bắc Phi. Lập

tức quân Đồng minh kéo đến bảo vệ và tiếp viện cho Manta.

64

Ngày 28/3/1941, để ngăn cản hạm đội áp tải Anh đến Hy Lạp. Lực lượng đặc

nhiệm của hải quân Ý có 1 chiến hạm, 8 tàu tuần dương, 9 tàu khu trục. Đội thuyền

địa trung hải của Anh có 3 chiến hạm và một hàng không mẫu hạm.

Quân Đức than phiền rằng Ý thiếu nỗ lực trong việc ngăn chặn vận chuyển từ

Ai Cập đến Hy Lạp để hỗ trợ Anh trong cuộc chiến chống lại quân Ý. Để đáp lại lời

phàn nàn của quân Đức, một lực lượng đặc nhiệm Ý, dưới sự chỉ huy của Thủy sư

đô đốc Iachino, bắt đầu tiến về phía Bắc và Nam của đảo Crete với hy vọng chạm

mặt hạm đội áp tải. Tuy nhiên lực lượng này đã bị phát hiện bởi máy bay tuần tra.

Do đó, đội thuyền Địa Trung Hải, dưới sự chỉ huy của Thủy sư đô đốc

Cunningham, đã giương buồm từ Alexandria để ngăn chặn Iachino. Quân Ý hiện

giờ chạm mặt với lực lượng trên tàu tuần dương – khu trục của Anh, với nhiệm vụ

che chắn cho hạm đội áp tải. Hoàn cảnh này khiến họ phải tính đên đội thuyền

chính. Máy bay chiến đấu của Anh từ hàng không mẫu hạm Formidalble đã tiến

công chiến hạm Vittorio Veneto bằng một quả ngư lôi, tiếp đó quân Anh đã tấnc

ông vào tàu tuần dương của Ý. Trong nỗ lực giải thoát cho chiến thuyền này, quân

Ý lại chịu tổn thất thêm một số chiến thuyền khác. Số thương vong: Ý mất 3 tàu

tuần dương và hai tàu khu trục. Còn Anh bị hư hại 1 chiến hạm [19, tr.376].

Quân Ý một mặt bao vây đường biển một mặt mở các cuộc oanh tạc liên tục

cùng với sự tiếp sức của không quân Đức. Quân Đồng minh chịu thiệt hại hết sức

nặng nề. Trong một cuộc tiếp vận đường biển, một đoàn tàu hàng gồm 115 chiếc từ

Anh sang bị tấn công và chỉ 2 chiếc sống sót về đến bến. Mussolini vênh váo rằng

Địa Trung Hải lâu nay vẫn là Biển Riêng của Ý [40].

Đầu năm 1942, quân Anh cho thêm 61 chiếc Spitfire vào tăng cường sức

kháng cự của quân đội Manlta nhưng lương thực nhiên liệu vẫn khan hiếm. Dần dần

quân Đồng Minh đưa được tiếp tế đến Malta nhiều hơn nhưng phần lớn tàu hàng bị

phá hỏng không trở về Anh được.

Nhờ giữ được Malta, quân Đồng Minh kiểm soát được Địa Trung Hải. Từ đảo

này, hải quân Anh đưa tàu ngầm ra phá hủy rất nhiều tàu bè của quân phe Trục và

khống chế tiếp vận cho Rommel tại chiến trường Bắc Phi.

Một yếu tố ảnh hưởng rất lớn đến chiến lược ở Địa Trung Hải là lực lượng hải

65

quân Pháp. Không có sự hỗ trợ của hạm đội Pháp, sự phong tỏa châu Âu của Hitler

sẽ trở thành bấp bênh. Vì vậy sự thất bại của Pháp đối với người Anh là một mối lo

ngại - sự giao thông liên lạc của họ ở Địa Trung Hải sẽ bị đe dọa nhiều hơn. Mặt

khác, sự tham chiến của Ý đã làm thay đổi thế cân bằng lực lượng trên biển. Nếu

hải quân Pháp kết hợp với các hạm đội Ý và Đức, phe Trục sẽ chiếm được ưu thế về

hải quân so với Anh, và con đường dành cho cuộc xâm chiếm Anh sẽ được mở rộng

hay ít ra là gây bóp nghẹt sự giao thông liên lạc bằng đường biển.

Điều này còn gia tăng trầm trọng với sự đe dọa mạnh mẽ của thế lực hải quân

Nhật đối với khu vực Viễn Đông, với những mưu đồ của chúng ở Đông Dương, và

những hành động của chúng về phía Singapore.

Trong nỗi lo sợ nhìn thấy quân Đức chiếm hạm đội Pháp, trước những lời cam

đoan của họ và những bảo đảm của đô đốc Darlan, người Anh thể hiện một quyết

định rõ ràng, dứt khoát là bắn hạ hạm đội Pháp ở Mers-el-Kebir vì sợ rằng hạm đội

này rơi vào tay của phe Trục sẽ làm đảo ngược thế cân bằng lực lượng ở Địa Trung

Hải, gây bất lợi cho nước cho nước Anh.

Vì thế, nước Anh quyết định hạ thủ bạn đồng minh xưa cũ của mình. May

thay, một phần hạm đội Pháp đã nằm trong các hải cảng Anh, ở Plymouth và

Portsmouth, cũng như Alexandrie, Ai Cập.

Ngày 03/07/1940, quân Anh bắn hạ hạm đội Pháp ở Mers-el-Kebir, bất ngờ

chiếm đóng các tàu nằm ở Anh, kế đến thỏa thuận một Hiệp ước Giải trừ vũ khí với

hạm đội Pháp ở Ai Cập.

Nhưng các đơn vị quan trọng nhất nằm trong các hải cảng của khu vực Bắc

Phi, ở Oran, Alger và Casablanca, và những hải cảng khác ở Dakar, Madagascar và

Martinique. Một hạm đội Anh, do Đô đốc Somerville chỉ huy, đã được phái đi từ

Girbraltar tới Mers-el-Kebir (Oran). Sứ mạng của nó là đặt viên chỉ huy người

Pháp, Đô đốc Gensoul, trước phương án chọn lựa, hoặc qui tụ về một hải cảng của

Anh hoặc đi đến Martinique để được giải trừ vũ khí hay bị đánh đắm tại đó. Vì

không nhận được câu trả lời trong 6 tiếng đồng hồ, Somerville tuyên bố rằng ông ta

tự thấy buộc lòng, một cách miễn cưỡng, phải dùng vũ lực để ngăn chặn các tàu này

không rơi vào tay phe Trục.

66

Đô đốc Gensoul từ chối tối hậu thư và Somervile bất đắc dĩ phải tấn công.

Phần lớn các tàu Pháp bị đánh chìm hay bị hư hại, và một ngàn thủy thủ bị giết chết.

Tàu dương hạm chiến đấu “Strasbourg” và một bộ phận của hạm đội đã chọc thủng

vòng vây và chạy về căn cứ ở Toulon. Năm ngày sau, ngày 08/7, các phi cơ của hải

quân Anh gây tổn thương thiết giáp hạm “Richelieu” ở Dakar. Chiếc “Jean Bart”

chưa được hoàn thành, đã bị làm cho bất động ở Casablanca.

Kể từ đó, một hạm đội quan trọng của Pháp vẫn còn đặt căn cứ tại Toulon và

tạo ra mối đe dọa thường xuyên ở Địa Trung Hải. Nhưng không bao giờ người Đức

và cả người Anh có thể sử dụng những tàu này. Trước cuộc đổ bộ ở Bắc Phi, cũng

không sử dụng những tàu bị giam giữ ở Alexandrie hay bị đặt dưới quyền kiểm soát

của người Mỹ ở Martinique. Sự can thiệp thô bạo của Somerville ở Mers-el-Kebir

đã loại trừ Pháp với tư cách là một lực lượng chủ yếu ở Địa Trung Hải. Bấy giờ

người Anh có thể quay sang chống lại hạm đội của Ý [40].

Như vậy, có thể thấy rằng chính yếu tố địa lý đã tác động đến chiến lược,

chiến thuật của quân Đồng minh. Vị trí địa lý, ý đồ chính trị đã buộc các nước gọi là

đồng minh với nhau đã bất đắc dĩ hạ thủ nhau. Vấn đề làm chủ được mặt biển ảnh

hướng lớn đến chiến thuật của cuộc chiến.

67

Tiểu kết chương 2

Hơn 20 năm hưu chiến mỗi cường quốc đều tính toán chiến lược cho mình.

Khi hiệp ước về giới hạn quân sự chấm dứt, các nước cuộc chiến tranh thế giới thứ

hai nổ ra. Vẫn là châu Âu – vùng đất trái tim là nơi châm ngòi đầu tiên cho thế

chiến. Cuộc thế chiến 2 đã lôi kéo nhiều nước tham gia hơn, trên hầu khắp chiến

trường châu Âu, trong đó những cuộc chiến trên biển và đại dương diễn ra vô cùng

ác liệt, góp phần quan trọng cho thắng lợi chung cuộc của Đồng minh. Như

Churchill nhận định, trận Đại Tây Dương góp phần quyết định đến toàn bộ cuộc

chiến. Những thắng lợi trên Đại Tây Dương, Địa Trung Hải đã tạo điều kiện cho lực

lượng đồng minh đổ bộ thành công lên lục địa, kiểm soát được tuyến đường hàng

hải huyết mạch. Thắng lợi của lực lượng đồng mình cho thấy đó là thắng lợi của sức

sản xuất, nền kỹ nghệ hải quân, sự phối hợp nhịp nhàng của họ.

Xét về lý do địa lý gắn với an ninh lãnh thổ quốc gia thể hiện rõ đến chiến

lược của các nước. Lý giải vì sao Hoa Kỳ đứng đầu là vị Tổng thống Roosevelt giúp

đỡ Anh quốc. Người Đức, Ý trong những năm 30 đều không có chiến lược đối phó

Anh quốc, vẫn có quan điểm có thể tránh cuộc chiến với Anh quốc. Những chiến

lược quốc phòng của họ đều nhắm đến mối đe dọa từ nước Pháp.

Đại Tây Dương và biển Địa Trung Hải với vị trí chiến lược là cửa ngõ để cho

các cuộc tiếp vận lên đất liền, con đường đi vào kiểm soát vùng đất trái tim, hòn đảo

của giới. Vì vậy, xung quanh đây cũng hội tụ nhiều căn cứ quân sự, với sự hiện diện

của các quốc gia được hình thành và phát triển từ biển. Nên đây là chiến trường

mang tính quyết định của cuộc chiến.

68

Chương 3. NHỮNG TRẬN HẢI CHIẾN Ở THÁI BÌNH DƯƠNG

TRONG CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ II

3.1. Bối cảnh lịch sử

3.1.1. Chiến lược Thái Bình Dương của Hoa Kỳ, Nhật Bản

3.1.1.1. Hoa Kỳ

Như đã trình bày ở mục 2.1.1, không giành được nhiều quyền lợi ở hiệp ước

Versailles, người Mỹ mở hội nghị Washington trở về châu Á – Thái Bình Dương và

những hiệp ước giới hạn hải quân.

Cho đến tháng 9 năm 1939, khi cuộc chiến tranh thế giới thứ II bùng nổ ở

châu Âu, hải quân (Hoa Kỳ) khó có thể biết phải làm gì ở Đại Tây Dương, nhưng

trong bốn mươi năm nó đã biết điều cần làm ở Thái Bình Dương. Trách nhiệm đối

với Philippin, nước mà Hoa Kỳ đã giành được trong cuộc chiến tranh với Tây Ban

Nha vào năm 1898, liên quan đến chính trị Hoa Kỳ trong việc kiềm chế Nhật Bản

xuống phía Nam.

Trong những sự kiện hỗn độn ở Thái Bình Dương từ 1900 – 1941 xuất hiện 2

yếu tố chính là sự phát triển ngoài ý muốn của Trung Quốc và sức mạnh ngày càng

tăng của Nhật Bản. Chúng tôi đã cố gắng để nắm bắt được chính sách mở của của

John Hay, điều này có nghĩa là sức mạnh của các cường quốc châu Âu và Nhật Bản

có được là từ việc sát nhập một phần lãnh thổ Trung Quốc hoặc là những đặc quyền

có được trên các cảng của Trung Quốc. Sau đó, cuộc chiến tranh Nga – Nhật vào

1904 -1905, Nhật Bản đã chiếm Hàn Quốc và một khu vực mới ảnh hưởng ở Mãn

Châu. Điều này sẽ không đáp ứng được lâu dài cho Nhật Bản, và Philippin sẽ là

mục tiêu tiếp theo [28, tr.17].

Vào đầu năm 1903 cơ quan lớn của chúng tôi về chiến lược hải quân, thuyền

trưởng Mahan, thúc giục rằng Hải quân Hoa Kỳ tập trung vào Thái Bình Dương.

Các vị đứng đầu của lực lượng hải quân, tiền thân của tham mưu liên quân được đề

nghị 1905, cho rằng Hải chiến diễn ra ở vịnh Subic, Luzon. Tổng thống Theodore

Roosevelt từ chối hỗ trợ này. Ông đã làm điều đó, và quốc hội đã cho xây dựng

69

phòng thủ dọc bờ biển như là một sự “răn đe”, rằng Nhật Bản có thể không bao giờ

tấn công chúng tôi. Nhưng không thể nói trước được điều gì, một sự ngăn chặn thay

vì chỉ là sự khiêu khích. Căn cứ hạm đội chiến tại Philippin có thể đã khiêu khích

Nhật Bản để tấn công bất ngờ vào vịnh Subic, trước khi mở Kênh đào Panama vào

tháng 6/1914 cho phép tàu chiến có thể nhanh chóng di chuyển đến một đại dương

khác.

Nhật Bản một lần nữa gia tăng sức mạnh của mình bằng cách tham gia Thế

chiến thứ nhất là đồng minh của Anh với rất ít nỗ lực và thiệt hại tối thiểu, có được

các đảo của đế chế Đức – đảo Marshall và đảo Caroline, và tất cả các đảo Marianas

trừ đảo Guam. Tổng thống Wilson, có tầm nhìn xa về Nhật Bản hơn Theodore

Roosevelt, khi phản đối những nội dung tại Hội nghị Hòa bình về chương trình hải

quân năm 1916. Ông ủng hộ mạnh mẽ sự răn đe của Nhật Bản. Wilson đã được bác

bỏ vào điểm đầu tiên, và kế hoạch lớn về hải quân, như chúng ta đã thấy, đã bị hủy

bỏ sau chiến tranh. Nhật bản giữ các đảo thuộc vành đai phòng thủ với rất nhiều sân

bay và nhiều căn cứ hải quân có thể đã được xây dựng sau năm 1936.

Trong trường hợp có chiến tranh với Nhật Bản, kế hoạch Hải quân Hoa Kỳ đã

xem xét cho quân đội để bảo vệ Manila và giữ ra cho khoảng ba đến bốn tháng cho

đến khi Hạm đội chiến có thể vượt qua Thái Bình Dương và tăng cường bao vây.

Người Nhật sở hữu các đảo được uỷ quyền thực hiện nhiệm vụ này trừ khi vị trí chủ

chốt trong Marshalls và Caroline được đảm bảo đầu tiên, và những con nhện dọn

sạch; rằng tăng thời gian dự kiến cho quân đội để tổ chức ra ở Luzon đến chín

tháng. Và, như chúng ta đã thấy, một phần của Washington thỏa thuận năm 1922 là

chúng ta từ bỏ quyền tăng cường cơ sở của chúng tôi ở Guam và Philippines [28,

tr.18].

Một tình huống không thể trong chiến lược đã được tạo ra cho chúng ta, phần

lớn bởi sự điên rồ của chúng ta. Chúng tôi đã hứa sẽ bảo vệ sự toàn vẹn của Trung

Quốc và Philippines, mà không cần bất cứ điều gì ở quân đội có nghĩa là để thực

hiện một chính sách như vậy.

Trong khi chờ đợi sự tự do, nhóm phương Tây định hướng chính trị của Nhật

Bản, vốn đã được tham gia vào các biện pháp an ninh tập thể của Hội Quốc Liên, đã

70

bị quấy rối và sợ hãi bởi một phong trào gần song song với Đức quốc xã của Hitler.

Kodoha đã cho rằng việc đó là nhằm đặt Nhật Bản dưới sự kiểm soát quân đội, "giải

phóng" Trung Quốc, Ấn Độ, Philippines và Đông Á từ "đế quốc nước ngoài", và đặt

tất cả các nước châu Á dưới quyền bá chủ của Nhật Bản. Năm 1931 quân đội Nhật

hoàng di chuyển tới Mãn châu. Thư ký Stimson không thể thuyết phục Tổng thống

Hoover hành động chống lại sự xâm lược Mãn Châu và cùng năm đó là Thượng

Hải. Một ủy ban của Hội Quốc Liên lên án hành động của Nhật Bản và yêu cầu

Nhật rút khỏi Mãn Châu; câu trả lời của Nhật Bản là đã rút khỏi Hội Quốc Liên và

thông báo về phần mình các hiệp ước hạn chế hải quân sẽ kết thúc vào năm 1936.

Năm 1931, dấu hiệu tốt cho hải quân là đô đốc hải quân Carl Vinson của

Georgia được bổ nhiệm danh dự làm Chủ tịch Ủy ban hải quân vào Hạ viện. Vinson

không chỉ xử lý tốt cho hải quân, ông còn là một chuyên gia về kĩ thuật và đã cống

hiến sức lực của mình để bảo vệ đất nước. Đô đốc Furue đã viết: “không một thành

viên nào của Quốc hội” có hiểu biết tốt hơn về các nhu cầu của hải quân, cũng như

không có một ai tinh thông trong ngành lập pháp của chính phủ có thể nhận ra nhu

cầu đó” . Trong số các nhà Hải quân lớn Carl Vinson xứng đáng ở vị trí cao. Tuy

nhiên, trong kiến trúc sư chiến thắng là cựu trợ lý Bộ trưởng Hải quân trong Chiến

tranh thế giới I – người trở thành Tổng thống của Hoa Kỳ vào ngày 4/3/1933 đã

mang chính sách kinh tế mới “New Deal” cho lực lượng vũ trang cũng như quốc

gia. Nhưng ông cũng chưa sẵn sàng để kết thúc việc nhượng Nhật Bản [28, tr.19].

3.1.1.2. Nhật Bản

Ở mục 1.2.4 đã trình bày về tư tưởng địa chính trị của Nhật Bản. Theo nhiều

nhà nghiên cứu dựa trên những văn bản lưu trữ tại hoàng cung sau khi chiến tranh

kết thúc, Nhật Bản là một nước quân chủ chuyên chính lâu đời với những tư tưởng

tự tôn, tự đại và sùng bái cá nhân cực kỳ sâu sắc [14, tr.25]. Ở thời kỳ đầu của triều

đại Minh Trị, guồng máy quân sự vẫn đặt dưới quyền của Hội đồng Nhà nước, các

vấn đề quân sự không tách rời nhau. Đến năm 1878, thành lập thêm Bộ tổng tham

mưu quân đội chuyên trách vấn đề chiến tranh, coi như một cơ quan tách rời khỏi

Bộ Quốc phòng và cũng hoạt động độc lập ngoài sự chỉ đạo của chính phủ. Mặc dù

vậy, thì Thiên hoàng vẫn là thống soái tối cao, được hỗ trợ bởi các cơ quan tư vấn là

71

Bộ Tổng tham mưu Lục quân và Tổng tham mưu Hải quân. Các cơ quan Bộ tổng

tham mưu Lục quân và Hải quân thảo kế hoạch và thực hiện chức trách hoàn toàn

độc lập, không phụ thuộc vào chính phủ.

Nhà sử học Jacques Valette nhận xét: “Những quyết sách lớn về chính sách

đối ngoại của Nhật Bản đều soạn thảo dưới sức ép của các Bộ Tổng tham mưu Lục

quân và Hải quân” [Dẫn lại theo 14, tr.28]. Từ năm 1936, một nhóm sĩ quan đã

nghiên cứu kế hoạch về “sự cần thiết của Nhật Bản phải tiến xuống miền Nam Châu

Á nhằm mục đích kiểm soát các giếng dầu ở Borneo (Indonexia). Đầu tháng 9

/1936, trưởng phòng tác chiến Bộ Tổng tham mưu Hải quân đã soạn thảo một kế

hoạch đệ trình Tổng tham mưu trưởng: thành lập một hạm đội “tự quản” để thực

hiện các kế hoạch tác chiến đã soạn thảo, chuẩn bị cho những cuộc chiến đấu trên

biển Nam châu Á.

Khu vực Nam Á và Đông Nam Á là nơi có nhiều tài nguyên chiến lược quan

trọng đối với Nhật Bản. Theo số liệu trong đống hồ sơ mật được phanh phui sau khi

chiến tranh kết thúc, năm 1939 Nhật Bản phải nhập từ nước ngoài tới 100% cao su,

100% bô – xít, 93% dầu mỏ, 83 % quặng sắt, 17% gạo, 15% than đá. Để giải quyết

những khó khăn rất lớn về nguyên vật liệu chiến lược mà Nhật Bản đang gặp phải.

Sau khi cân nhắc hai con đường: Tây tiến nhằm xâm lược khu vực Viễn Đông của

Liên Xô và Nam tiến tràn xuống khu vực Đông Nam Á và Nam Á, hội nghị nghiên

theo hướng “Nam tiến”. Bộ trưởng Chiến tranh còn đưa ra phương án: bước đầu

chiếm đóng Đông Dương nhằm tạo bàn đạp; bước thứ hai từ Đông Dương tiến đánh

Nam Dương, và toàn khu vực Đông Nam Á rồi đánh rộng sang Nam Á.

Theo giới quân sự Nhật Bản, chiếm Đông Dương không những tạo đầu cầu

tiến xuống Nam Dương, Đông Nam Á rồi Nam Á mà còn cắt đứt luồng hàng tiếp tế

của phương Tây chi viện cho Trung Quốc, vận chuyển trên tuyến đường sắt từ của

biển Hải Phòng tới Côn Minh. Như vậy, tạo điều kiện thuận lợi để nhanh chóng

thúc đẩy giải quyết vấn đề Trung Quốc.

Trước cơn sốt mở rộng chiến tranh ở châu Âu, Hoàng đế Hirohito cùng với

giới quân nhân cũng phải cân nhắc kỹ: Pháp và Hà Lan rõ ràng đã suy yếu rõ rệt,

nhưng Anh còn có Mỹ là nước có tiềm lực kinh tế, quân sự lớn mạnh nhất, đáng

72

gờm nhất.

Như vậy, Nhật hoàng chấp nhận Nam tiến nhưng chỉ thị cần phải gây sức ép

bằng sức mạnh quân sự để đạt được mục đích tiến quân vào Đông Dương không

nên gây ra những “sự cố” như đã từng tiến hành ở Mãn Châu và Trung Quốc.

Nhà sử học Jacques Valette nhận xét, ngay từ đầu mùa hè năm 1940, Thủ

tướng Nhật Bản hồi đó là Đô đốc Yonai, rồi tiếp đó là Hoàng thân Konoye trở lại

chiếc ghế Thủ tướng rời bỏ từ đầu năm 1939 đều cho rằng “Một cuộc tiến công

quân sự chiếm đóng các thuộc địa của Hà Lan và Anh là không nên nghĩ đến mà chỉ

nên thương lượng đàm phán trên thế mạnh của sức ép quân sự”. Tháng 11/1940,

Nhật Bản đã bắt đầu tiến hành những “hoạt động ngoại giao” với Hà Lan và cả với

Mỹ. Đặc biệt việc người Nhật tìm cách trì hoãn tiến đánh Liên Xô khi mà người

Đức liên tiếp thúc giục đã cho thấy rằng, Nhật Bản quyết tâm “Nam tiến”, thành lập

khối Đại Đông Á, thâu tóm tài nguyên chiến lược, củng cố và phát triển binh lực rồi

mới tính đến chuyện tiến công Liên bang Liên Xô [Dẫn lại theo 14, tr.32].

3.1.2. Quan hệ Hoa Kỳ và Nhật Bản trước thế chiến II

Trong những năm trước cuộc chiến tranh thế giới thứ 2, với tư tưởng địa chính

trị đề cao chính phủ Nhật Bản thực hiện chính sách “Đại Đông Á” phát động cuộc

chiến nhằm bá quyền châu Á.

Cuộc phát động chiến tranh thù địch ở châu Âu đặt Nhật Bản trước một sự lựa

chọn. Phải chăng nó sẽ, cũng như đã làm trong điều đó để củng cố sức mạnh kinh tế

mà không phải trả bằng vàng hay máu cho cái giá của những cuộc chinh phục? Hay

là, còn dễ dàng hơn nữa, phải chăng nó sẽ xâm chiếm bằng sức mạnh với tất cả

những gì nó thèm khát? Quyền lợi kinh tế của Nhật đòi hỏi phải kết thúc “sự kiện

Trung Hoa”, nhưng phe quân sự không hề muốn nghe về vấn đề này. Rời bỏ tất cả

các cuộc chinh phục trong mười năm vừa qua đồng nghĩa với việc họ thừa nhận

rằng chương trình của mình dành cho sự phồn vinh của xứ sở - chương trình chính

xác hướng về những cuộc chinh phục – là một sự phá sản. Hòa bình đối với họ thật

nhục nhã và sẽ có nghĩa là mất đi sự thao túng toàn bộ chính quyền.

Trong khi người Anh và người Pháp lo lắng nhiều nhất về sự đe dọa của phe

Quốc xã, người Nhật lợi dụng điều đó để chiếm đóng Hải Nam vào ngày 10/2/1939

73

và quần đảo Spratley ngày 03/3, hai cột mốc chiến lược quan trọng trên đường hàng

hải Hongkon –Singapore mà Pháp đã khiếu nại. Vào tháng sáu, quân Nhật từ từ gia

tăng thêm sức ép lên các tô giới quốc tế ở Thượng Hải, Thiên Tân và Cửu Long và

chúng quấy phá một cách cân nhắc những tàu thuyền của Anh. Mưu đồ của chúng

là loại trừ Trung Hoa ra khỏi những lợi ích ngoại quốc và tước đi toàn bộ sự viện

trợ bên ngoài của Tưởng Giới Thạch [1, tr.212].

Trước hành động đẩy mạnh các hoạt động bành trướng ảnh hưởng ở Viễn

Đông và Trung Quốc, tăng cường chạy đua vũ trang, đặc biệt là hải quân Thái Bình

Dương trong các năm 1935 -1937, F.Roosevelt đã không thể có phản ứng tích cực,

hành động có ý nghĩa nhất mà Hoa Kì đã thực hiện trong khoảng thời gian 1937 -

1940 là tuyên bố được đưa ngày 26.7.1939 về việc đơn phương chấm dứt từ ngày

26.1.1940 Thương ước được hai nước kí năm 1911. Dù quan hệ thương mại giữa

hai nước vẫn tiếp tục, quyết định trên của Washington vẫn bị Tokyo xem như một

đòn giáng mạnh vào nền ngoại thương của Nhật. Hoạt động thương mại giữa hai

nước không còn chịu ràng buộc của bất kì thương ước chính thức nào, mà tùy thuộc

hoàn toàn vào đường lối riêng của từng chính phủ, nghĩa là có thể bị thu hẹp hoặc

đình chỉ bất cứ lúc nào bằng một quyết định đơn phương của Washington hay

Tokyo [7, Tr.94].

Như vậy, quan hệ Mỹ - Nhật bị buông lửng trong khi nền ngoại thương của

Nhật phụ thuộc nhiều vào Hoa Kỳ, đây là một thiệt hại lớn cho Nhật Bản. Tuy

nhiên tại sao Hoa Kỳ không ban hành chính sách cấm vận đối với Nhật, mà chỉ

dừng lại ở việc buông lửng. Xét về tình hình lúc bây giờ có thể thấy nếu Hoa Kỳ

hành động như vậy thì phái quân phiệt Nhật sẽ xem đây là lí do chính đáng biện

minh cho hành động xâm lăng Đông Ấn thuộc Hà Lan, nơi đây là nguồn cung cấp

nhiên liệu và một số nguyên liệu cần thiết cho cỗ máy chiến tranh Nhật.

Mặt khác, thắng lợi nhanh chóng và có phần dễ dàng của chủ nghĩa Đức quốc

xã đã trở thành mối đe dọa trực tiếp đến không chỉ an ninh, mà cả nền văn mình có

nguồn gốc châu Âu của Hoa Kỳ. Trong lúc đó, Nhật Bản, một đối thủ vừa ở rất xa,

vừa nhìn Hiệp ước Bất tương xâm Xô - Đức (được kí ngày 23-8-1939) như là sự

phủ nhận công khai Hiệp ước chống Quốc tế Cộng sản (được kí ngày 25-11-1936).

74

Bên cạnh đó, cho đến nửa đầu 1940, hướng tiến công chính của Nhật xem ra vẫn

chưa được xác định rõ ràng, vì từ tháng 5 đến tháng 8-1939, quân đội Nhật đã đánh

nhau một trận ác liệt với Hồng quân Xô viết ở khu vực sống Khalkhin Gol (Mông

Cổ). Chỉ sau khi Hà Lan và Pháp lần lượt bị bại trận ở châu Âu (6-1940) và Anh

phải vất vả một mình chống chọi Đức, Nhật mới chuyển sang phương án Nam tiến.

Vì vậy, phản ứng của Hoa Kì cũng phù hợp với tình hình vì trong lúc cần dồn

sức đối phó với sự hoành hành của Đức quốc xã ở châu Âu, phỏng có ích gì cho

Washington thực hiện chính sách dồn đẩy Nhật vào con đường gây chiến ở Đông

Nam Á. Việc chính phủ Mĩ ngày 26.7.1939 lên tiếng phủ định Hiệp định thương

mại 1911 sau thời hạn 6 tháng không thể được đánh giá một cách đơn giản là phản

ứng quá nhẹ nhàng và hàm ý dung dưỡng dù Hoa Kì quả thực vẫn tiếp tục cung cấp

dầu và các kim loại mà nền công nghiệp quốc phòng của Nhật cần. Joseph Grew,

đại sứ Hoa Kì ở Nhật, đã có lí lẽ riêng của mình để biện minh cho phản ứng vừa kể

của chính phủ nước ông: “Nếu chúng ta bắt đầu các biện pháp trừng phạt nhằm vào

Nhật, chúng ta sẽ phải áp dụng đến tận cùng, và chỗ tận cùng đó chỉ có thể là chiến

tranh…Nếu chúng ta chấm dứt việc cung cấp dầu lửa cho Nhật, và nếu Nhật nhận

ra rằng họ không thể kiếm đủ dầu bằng các nguồn thương mại khác để đảm bảo an

ninh quốc gia, chắc chắn họ sẽ tung hạm đội đi chinh phục Đông Ấn thuộc Hà

Lan…”. . [dẫn theo 7, Tr.98]. Xét theo góc độ về mặt kinh tế chúng ta thấy rằng

các nhu yếu phẩm, cao su, thiếc, nicken, crôm, sắt, gỗ, và động lực của chiến tranh

hiện đại, dầu hỏa mà Nhật rất cần, tất cả điều đó nằm ở phía Nam, ở Đông Dương,

Mã Lai, Philippines và quần đảo Nam Dương. Vì vậy, nếu viễn cảnh này xảy ra,

Hoa Kì lúc đó chắc chắn sẽ gần như đơn độc chống chọi với Nhật ở Thái Bình

Dương

Quan hệ giữa Mĩ – Nhật rẽ sang khúc quanh mới từ mùa hè năm 1940, khi

Nhật công khai bày tỏ tham vọng đối với quần đảo Đông Ấn thuộc Hà Làn và bắt

đầu đẩy mạnh các hoạt động mở rộng ảnh hưởng ở Đông Dương, thuộc địa của

nước Pháp bại trận, nhằm khóa chặt con đường vận chuyển số hàng hóa ngày càng

nhiều mà Hoa Kì cung cấp cho chính phủ Trùng Khánh. Cuối tháng 6.1940, thủ

tướng Nhật Yonai công bố các yêu sách: 1) Pháp để cho một phái bộ quân sự Nhật

75

vào Bắc Kì; 2) Anh đóng cửa con đường Miến Điện; 3) Chính phủ Hà Lan (đang

lưu vong ở Anh) tăng cường đáng kể việc cung cấp hàng hóa (chủ yếu là nguyên,

nhiên liệu) từ quần đảo Đông Ấn cho Nhật [7, Tr.98].

Phản ứng của chính phủ Roosevelt vẫn rất dè dặt. Washington lập luận rằng sự

chống đối quá quyết liệt từ phía Hoa Kì sẽ tạo cơ hội cho các thế lực hiếu chiến lên

cầm quyền ở Nhật. Ngoài ra, việc Anh tiếp tục kìm chân phần lớn quân đội Đức

trên lục địa châu Âu và việc Mĩ duy trì sự hiện diện của hạm đội Thái Bình Dương

ở quần đảo Hawaii sẽ khiến Nhật không dám đi quá xa.

Vào tháng 7/1940 và mùa xuân 1941, Hoa Kỳ vẫn còn giao xăng nhỏ giọt cho

Nhật. Vì họ là người cung cấp chính về xăng có độ octane cao, xe hơi, phi cơ, sắt,

thép và đồng, sự cấm vận của Hoa Kỳ buộc người Nhật phản ứng nhanh chóng.

Tuy nhiên sau sự kiện ngày 02/7 khi hội nghị vương triều quyết định thông

qua chiến dịch ở phía Nam, 50.000 người đổ bộ vào Đông Dương và biến đất nước

này thành xứ bảo hộ của Nhật. Quân Đồng minh đã phản ứng hết sức nhanh chóng.

Ngày 24/7, Hoa Kỳ đóng băng tài sản của người Nhật, đế quốc Anh cũng bắt chước

thực hiện điều này và Hà Lan thực hiện ngừng tất cả mọi cuộc giao dịch thương mại

và tài chính với Nhật. Bắt buộc phải rút cạn trong các kho dự trữ nguyên liệu của

mình, mà sự yếu kém có nguy cơ làm cho nó không còn khả năng chiến đấu, tiếp

theo là sự tăng cường phong tỏa, Nhật nhận thấy mình nằm trong một tình thế thực

sự nguy kịch [1, tr 215].

Ngày 25.7, chính phủ Washington đưa dầu lửa và sắt vụn vào danh sách các

mặt hàng bị xem xét cấm vận. Nhưng ngay ngày hôm sau, tổng thống Franklin

Roosevelt đã lên tiếng giải thích với giới truyền thông đại chúng rằng ông không có

ý định thực hiện “cấm vận” như báo chí loan tin, mà đúng hơn là nới rộng việc xem

xét cấp giấy phép đến những mặt hàng như dầu lửa và sắt vụn. Ngày 16.8, trong lúc

trò chuyện với bộ trưởng bộ Tài chính Hans Morgenthau, Roosevelt nói: “Trong lúc

này, chúng ta không nên gây sức ép quá mức cần thiết lên Nhật, chúng ta có thể đẩy

nước này đến chỗ chiếm Đông Ấn thuộc Hà Lan” [7, Tr.99].

Tuy nhiên, người Nhật dường như không thèm quan tâm đến thái độ kiềm chế,

mà có lẽ bị họ xem là mềm yếu kể trên của Tổng thống Hoa Kì. Ngày 24.9, Tokyo

76

đưa quân vào Bắc Kì. Biện pháp trả đũa từ phía Hoa Kì liền được công bố: Ngày

26.9, sắt vụn bị xấm xuất khẩu sang Nhật. Nước này không chịu thua kém, Ngày

27, Hiệp ước ba bên được kí giữa ba nước phe Trục (Đức, Italia và Nhật) công nhận

“trật tự mới” mà các nước này sẽ dựng lên ở châu Âu và Đông Á.

Nhà ngoại giao Hans Thomsen nới với Lovell: “Nếu Nhật bước vào cuộc

chiến tranh với Mỹ, thì ngay lập tức Đức sẽ hành động theo” (…). Nước Nhật biết

rằng trừ khi Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ đồng ý một số điều khoản hợp lý nào đó về

vùng Viễn Đông, Nhật Bản phải đối mặt với hiểm họa bị bóp nghẹt. Nếu Nhật bản

chờ đợi, thì Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ sẽ tương đối dễ dàng để siết cổ Nhật. Do vậy

giờ đây Nhật buộc phải tấn công ngay…[5, tr.174].

Câu trả lời từ phía Hoa Kì là khoản tín dụng 100 triệu USD cho chính phủ

Tưởng Giới Thạch được công bố ngay trong ngày Nhật công nhận chính phủ bù

nhìn Nam Kinh (30.11.1940). Song song đó, Mĩ phái sang Trung Quốc phi đội

mang tên “Cọp Bay” chiến đấu bên cạnh quân đội Trung Quốc. ngày 29.12.1940

tổng thống Franklin Roosevelt tuyên bố Hoa Kỳ trở thành “kho vũ khí của nền dân

chủ”.

Xem xét trong bối cảnh chung lúc đó, những phản ứng kể trên của chính phủ

Washington thực ra có ý nghĩa cảnh báo hơn là trả đũa, vì chiến lược của Hoa Kì về

cơ bản vẫn là tìm đủ cách làm chậm tiến trình dẫn đến một cuộc chiến tranh với

Nhật trong vùng Thái Bình Dương, trong lúc Hoa Kì đang bận đẩy mạnh quan hệ

hợp tác với Anh ở Bắc Đại Tây Dương. Tháng 3.1941, tổng thống Roosevelt nói với

đại sự Nomura rằng “những vấn đề giữa hai nước chúng ta chắc chắn có thể được

giải quyết mà không cần đến xung đột vũ trang”[Dẫn theo 7, tr.100]. Tuy nhiên,

trong giới cầm quyền ở Nhật Bản lúc bấy giờ phe chủ chiến đang chiếm ưu thế. Một

cuộc chiến tranh với Hoa Kỳ ở Thái Bình Dương vẫn được xúc tiến.

Ngày 13.4.1941, Nhật kí với Liên Xô Hiệp ước Trung lập có giá trị trong 5

năm, theo đó hai nước cam kết giữ trung lập nếu một bên kí kết tham gia chiến

tranh chống một nước khác. Xét theo bối cảnh của quan hệ quốc tế lúc đó, “nước

khác” đó chỉ có thể là Đức và Hoa Kì [7, Tr.100].

Ngày 24.7.1941, bước đầu của kế hoạch kể trên đã được mang ra thực hiện:

77

quân Nhật đổ bộ vào miền Nam bán đảo Đông Dương. Vào thời điểm đó cơ quan

tình báo của Hải quân Hoa Kì đã tìm ra chìa khóa giải bản mật mã chính của Nhật.

Trong chiến dịch có tên gọi “Magic”, người Mĩ thường xuyên thi và giải các bức

điện được chuyển bằng mật mã của Nhật. Nhờ vậy, Washington không chỉ biết

trước kế hoạch Nhật đưa quân vào Đông Dương, mà còn nắm rõ các bước tiếp theo

nhằm vào các thuộc địa của Anh và Hà Lan ở Đông Nam Á.

Tuy nhiên, người Nhật sẽ hướng bộ máy chiến tranh của họ vào hướng nào –

nam hay bắc – hãy còn là câu hỏi mà người Mĩ chưa tìm ra lời giải. Ngày 25.7,

chính phủ Roosevelt trả đũa bằng lệnh cấm vận đối với mọi hàng hóa (kể cả dầu

lửa) được vận chuyển từ Hoa Kì đến Nhật, kênh đào Panama được đóng lại đối với

từ nay quan hệ thương mại giữa hai nước coi như thực sự chấm dứt6F mọi tàu Nhật, mọi tài khoản của Nhật ở Mĩ đều bị đóng băng. Điều này có nghĩa là 7. Đối với một

đảo quốc Nhật Bản phụ thuộc nhiều vào các nguồn nguyên liệu từ bên ngoài.

Vài ngày sau, một phái đoàn Mĩ được phái đến Trùng Khánh với mục đích bàn

về việc áp dụng Đạo luật Lend –Lease cho Trung Quốc. Nhưng tại Hội nghị Đại

Tây Dương (8.1941), khi Churchill thúc giục Roosevelt đưa ra lời cảnh cảo cứng

rắn rằng một cuộc tiến công của Nhật vào thuộc địa Anh và Hà Lan ở Viễn Đông sẽ

buộc Hoa Kì “tiến hành những biện pháp trả đũa, ngay cả khi những biện pháp này

sẽ gây ra chiến tranh giữa Hoa Kì và Nhật” [dẫn theo 7, tr.102], thì Roosevelt vẫn

giữ lập trường rằng: “Cần ráng hết sức ngăn chặn không để bùng phát các hoạt

động quân sự chống Nhật” [dẫn theo 7, tr.102].

Ngày 17.8, trong khi tiếp Đại sứ Nhật Nomura ông đã lưu ý rằng nếu Nhật cứ

tiếp tục theo đuổi chính sách hay kế hoạch dùng hay đe dọa dùng vũ lực chống các

nước láng giềng, “chính phủ Hoa Kì sẽ buộc phải tiến hành ngay lập tức bất kì biện

pháp nào cần thiết nhằm bảo vệ quyền và quyền lợi chính đáng của đất nước và 7 Bình luận về các biện pháp kể trên, Douglas Waitley, một nhà nghiên cứu người Mĩ đã viết: “Đây là đòn trả đũa thiếu suy nghĩ và Roosevelt biết rõ như vậy, vì Nhật giờ đây phải chọn: hoặc chiến tranh quyết liệt, hoặc cúi đầu chịu nhục”. Thực vậy, vì cỗ máy chiến tranh Nhật phụ thuộc phần lớn vào việc nhập dầu và các nguyên liệu khác, giới quân phiệt Nhật giờ đứng trước một trong ba lựa chọn: a) từ bỏ chiến tranh xâm lược Trung Quốc; b) xâm lược Đông Nam Á và Tây Nam Thái Bình Dương để tìm kiếm các nguyên, nhiên liệu cần thiết, với cái giá phải trả là một cuộc chiến tranh với Hoa Kì; và c) tìm kiếm một thỏa thuận với Hoa Kì để chấm dứt sự phong tỏa kinh tế. Vừa xem chiến tranh là giải pháp cuối cùng, vừa không ngần ngại viện đến nó, giới cầm quyền Nhật tiếp tục các nỗ lực ngoại giao hướng đến giải pháp thứ 3, trong lúc đẩy mạnh chuẩn bị quân sự. [Dẫn theo 7, tr.101]

78

công dân Hoa Kì và đảm bảo an ninh Hoa Kì” [dẫn theo 7, tr.102]. Đồng thời

Roosevelt còn đưa ra đề nghị nối lại các cuộc đàm phán và thành lập một chương

trình hỗ trợ kinh tế cho vùng Thái Bình Dương, nếu Nhật sẵn sàng “đình chỉ các

hoạt động bành trướng…và khởi sự một kế hoạch hòa bình cho vùng Thái Bình

Dương” [dẫn theo 7, tr.102].

Phản ứng từ phía Nhật: ngày 28.8 là lời đề nghị về một cuộc gặp giữa thủ

tướng Nhật hoàng thần Konoye và thổng thống Hoa Kì Franklin Roosevelt. Bộ

trưởng Ngoại giao Cordell Hull đã yêu cầu Tokyo làm rõ trước những nhân nhượng

mà Nhật có thể đưa ra vì ông cho rằng Konoye không thể vận động sự ủng hộ của

phe chủ chiến cho một chương trình đàm phán có thể chấp nhận được đối với Hoa

Kì và lo lắng thất bại của cuộc gặp sẽ bị phía Nhật khai thác như một phương tiện

tuyên truyền nhằm trút trách nhiệm lên Hoa Kì.

Tuy nhiên, người Nhật muốn được công nhận “trật tự mới” tại Á châu.

Nomura cố thuyết phục Hoa Kỳ chấp nhận một số yêu sách cơ bản, chẳng hạn như

quyền thống trị của Nhật ở Trung Hoa, sự giải ngân các tài sản của Nhật, bình

thường hóa trở lại những cuộc trao đổi giữa hai nước và sự trợ giúp của Hoa Kỳ để

có được các nguyên liệu. Về điều này, người Mỹ trả lời rằng họ sẵn sàng nối lại các

quan hệ thương mại với Nhật với điều kiện là nước này trước tiên phải chấp nhận

rút khỏi toàn bộ Trung Hoa và Đông Dương, rằng Nhật tôn trọng, trong tương lai,

sự toàn vẹn lãnh thổi của Trung Hoa và nguyên tắc bình đẳng về các quyền lợi về

mặt kinh tế trong xứ này và rằng Nhật kể từ nay không can dự vào việc thay đổi, vì

lợi ích của mình, tình hình đã được thiết lập ở Viễn Đông [1, Tr. 216].

Lập trường của Nhật và Mỹ không thể dung hòa. Về phía Nhật Bản: Quân đội

Nhật không hề có ý định từ bỏ những cuộc chinh phục Trung Hoa, cũng không hề

xét lại quan điểm do mình đưa ra về vai trò của Nhật ở Á châu. Vì trong cuộc họp

tối cao diễn ra ngày 6-9-1941 tại Tokyo với sự hiện diện của Nhật hoàng Hirohito

đã quyết định rằng “nếu vào đầu tháng 10, những đòi hỏi của chúng ta không mong

gì được đáp ứng...,chúng ta sẽ tự đặt trong tư thái cho phép chúng ta sẵn sàng lâm

chiến chống Hoa Kỳ, Anh và Hà Lan. Những đòi hỏi tối thiếu đó là đóng cửa con

đường Miến Điện, chấm dứt giúp đỡ chế độ Tưởng Giới Thạch, ngừng tăng cường

79

lực lượng Mĩ ở Thái Bình Dương, tái lập quan hệ thương mại bình thường. Bù lại,

Nhật Bản sẽ không sử dụng Đông Dương như bàn đạp bành trướng xuống phía

Nam, tôn trọng Hiệp ước trung lập đã kí với Liên Xô và hứa sẽ rút khỏi Đông

Dương sau khi chiến tranh chấm dứt . Còn về phía Hoa Kỳ, họ không muốn một

Munich ở châu Á hoàn toàn hy sinh Trung Hoa. Nó không thể chấp nhận một thỏa

ước để cho Nhật có được thành quả của những cuộc xâm lược, cũng không chịu

khuất phục trước một “Trật tự mới” ở châu Á. Lúc đó Konoye yêu cầu diện kiến

Tổng thống Roosevelt, nhưng Tổng thống Hoa Kỳ từ lâu cũng đã từ chối rằng

người ta sẽ không bắt ông theo những đề nghị mới [1, Tr. 216] .

Ngày 18/10, khi thất bại trong việc đám phán chính phủ Konoye sụp đổ,

chính Tướng Tojo trở thành Thủ tướng. Ngày 17/11, một lần nữa ông ta điều một

Đặc phái viên, Saburo Kurusu, để đạt được thỏa ước của Hoa Kỳ về các yêu sách

của Nhật nhưng không đạt được kết quả gì. Trong khi các cuộc trao đổi tiếp diễn

không thành công ở Washington, quân Nhật bắt đầu khởi động các kế hoạch chiến

tranh.

Ngày 20.11, Saburo Kurusu đã trao cho Mĩ kế hoạch đàm phán B bao gồm

một số đề nghị như sau: 1) Không một chính phủ nào được đưa quân vào Đông

Nam Á hay vùng Nam Thái Bình Dương, ngoại trừ Đông Dương; (2) hai chính phủ

cùng cộng tác khai thác các vật liệu cần thiết ở Đông Ấn thuộc Hà Lan; (3) Quan hệ

thương mại sẽ được phục hồi như trước lúc các tài khoản bị đóng băng, Hoa Kì sẽ

cung cấp cho Nhật số dầu cần thiết; (4) chính phủ Hoa Kì “không việc đến các biện

pháp hay hoạt động có hại đến nỗ lực phục hồi hòa bình toàn diện giữa Nhật và

Trung Quốc”; (5) Nhật di chuyển số quân đang đóng ở miền Nam Đông Dương trở

ra miền bắc sau khi đạt được một thỏa thuận với Mĩ và sẽ rút toàn bộ quân khỏi

Đông Dương sau khi đã kí hòa ước với Trung Quốc, “hoặc sau khi một nền hòa

bình hợp lí được thiết lập trong vùng Thái Bình Dương” [dẫn theo 7, tr.104].

Về phần mình, ngày 26.11, bộ trưởng Ngoại giao Cordell Hull đã trao cho các

đại diện của Nhật một danh sác gồm 10 đề nghị có nội dung được tóm gọn như sau:

một hiệp ước bất tương xâm nhiều bên gồm Anh, Trung Quốc, Nhật, Hà Lan, Liên

Xô, Thái Lan và Hoa Kì; Nhật rút toàn bộ lực lượng hải, lục, không quân và cảnh

80

sát khỏi Trung Quốc và Đông Dương; Nhật không ủng một chế độ hay một chính

phủ khác ở Trung Quốc, ngoại trừ chế độ Tưởng Giới Thạch, Nhật từ bỏ Hiệp ước

ba bên. Đổi lại, Nhật sẽ được hưởng một số thuận lợi về kinh tế, như: các tài khoản

của Nhật ở Mĩ được giải toản; một thương ước sẽ được hai bên kí trên cơ sở quy

chế tối huệ quốc; tỉ lệ dollar – yên được ổn định; Mĩ giảm thiếu các rào cản thương

mại và chấp nhận nhượng đáng kể khác về kinh tế.

Như vậy, lập trường của hai bên tại bàn đàm phán là hoàn toàn xung khắc và

do đó, khó có thể được dung hòa. Một ngày sau khi trao đổi cho Nhật đề nghị nêu

trên, Hull nói với Henry Stimson: “Tôi đã làm xong phần việc của mình, bây giờ là

lúc công việc chuyển vào tay ông và Knox, Lục quân và Hải quân” [dẫn theo 7,

tr105].

Ngày 24 tháng 11 năm 1941 Luân Đôn loan báo, nếu Nhật tấn công Hoa Kỳ

thì Anh quốc sẽ chiến đấu bên cạnh Hoa Kỳ. Ngày 26-11-1941, chính phủ Mỹ gửi

cho Phái đoàn Nhật tại Washington một đề nghị như sau:

Nếu Nhật Bản:

1/ - Công nhận sự toàn vẹn lãnh thổ Đông Dương

2/- Rút hết quân đội ra khỏi Đông Dương và Trung Hoa

3/ - Bỏ rơi chính phủ Uông Tinh Vệ (Wang Chinh Wei) và công nhận chính

phủ Tưởng Giới Thạch

Thì Hoa Kỳ sẽ:

1/ - Hủy bỏ lệnh giới hạn xuất cảng nguyên liệu và nhiên liệu sang Nhật

2/ - Ký với Nhật những thương ước theo lời yêu cầu của Nhật.

3/ - Giúp đỡ Nhật trong việc ổn định tiền tệ [17, tr.65-66].

Ngoài ra Hoa Kỳ còn đề nghị Tokyo và Washington cùng ký vào một bản

tuyên ngôn chung nhìn những nguyên tác bất tương xâm và cộng tác với nhau để

giải quyết mọi việc quốc tế, quyền bình đẳng trong vùng Thái Bình Dương. Đề nghị

của Hoa Kỳ như lời khước từ đối với phái quân phiệt Nhật. Tình hình lại càng trở

nên căng thẳng. Chiến tranh như sắp bùng nổ.

Trong khi ấy Nhật đã hoàn toàn kiểm soát chặt chẽ toàn thể Đông Dương và

đang chuyển quân tới vùng này để chuẩn bị cho một cuộc phiêu lưu mới.. Cuối

81

tháng 11 năm 1941, hải quân Nhật tăng cường tại các đảo thuộc Nhật tại Thái Bình

Dương.

Tổng thống Roosevelt, hội kiến với các tướng lãnh Mỹ, đồng thời lệnh báo

động gửi đi Hawaii và Philippines.

Một lần nữa, để tránh một cuộc chiến có thể xảy ra giữa Hoa Kỳ và Nhật Bản,

ngày 6 tháng 12, Tổng thống Roosevelt gửi một thư riêng cho Nhật Hoàng Hirohito

bảo đảm rằng Hoa Kỳ không có ý định tấn công Đông Dương và xin đảm nhiệm

bảo đảm tương tự như vậy ở Trung Hoa, Thái Lan, Mã Lai và Indonesia nếu Nhật

rút hết quân đội ra khỏi lãnh thổ các quốc gia trên đây.

Ngày 7-12-1941 phái đoàn Nhật đệ trình chính phủ Mỹ bức thư của Tokyo về

đề nghị của Washington ngày 26-11, Nhật không thể chấp thuận đề nghị của Tổng

thống Hoa Kỳ như là những điểm căn bản cho một cuộc thương thuyết.

Như vậy, nỗ lực của người Mỹ mà đại diện là vị đứng đầu của chính phủ Hoa

Kỳ lúc bấy giờ Tổng thống Roosevelt để tránh một cuộc chiến với người Nhật ở

Thái Bình Dương là điều không thể tránh. Một cuộc chiến chỉ còn ngày, giờ.

3.2. Những trận hải chiến ở Thái Bình Dương trong chiến tranh thế giới

thứ II và những phân tích địa – chính trị.

Quan hệ giữa Hoa Kỳ - Nhật Bản đi đến ngõ cụt, chiến tranh nổ ra chỉ là vấn

đề thời gian. Ở châu Âu, chiến tranh Xô – Đức đang diễn ra cực kì ác liệt, chiến

tranh Anh với Đức – Ý tàn khốc ở Bắc Phi, trên mặt nước Đại Tây Dương, Bắc

Băng Dương. Cuộc hội kiến giữa Đô đốc Hart, phó đô đốc William R.Purnell và

chuẩn đô đốc W.Rockwell tư lệnh căn cứ Cavite, Tom Philips để trao đổi về mặt

trận châu Á.

Tư lệnh Hart đã nêu lên những nỗi lo âu của phía Mỹ về một cuộc tấn công

của người Nhật bất cứ lúc nào vì theo ông Nhật Bản sẽ lợi dụng những thắng lợi của

Đức trên chiến trường châu Âu từ tháng 6-1941, hơn thế nữa Hoa Kỳ đã phong tỏa

các trương mục ở ngân hàng mà Mỹ cho Nhật vay để mua dầu hỏa của Indonesia.

Từ ngày đầu tháng 12 -1941, ảnh chụp được trong cuộc không thám khắp biển

Đông của bộ Hải quân Mỹ cho thấy rằng hải quân Nhật đang di chuyển, nhiều dấu

hiệu cho thấy Nhật đang chuẩn bị những cuộc hành quân đổ bộ ở Thái Lan,

82

Philippines, Mã Lai và có thể Borneo.

Ông tin rằng, khi cuộc chiến bùng nổ thì Nhật sẽ đánh cả Mỹ, Anh lẫn Hà Lan.

Từ những phân tích đó, Hoa Kỳ đã đưa ra bản sơ thảo kế hoạch phòng ngự liên kết

với hải quân hoàng Anh và Hà Lan. Dựa vào kết quả không thám hai vị đô đốc Hart

và W.Rockwell đi đến kết luận: Người Nhật có thể đổ bộ một nơi nào đó trên bán

đảo Mã Lai, từ đó họ có thể tiến về Bangkok hay Singapore. Phía Mỹ lo ngại trước

sự có mặt ngày càng tăng của tàu ngầm Nhật ở Thái Bình Dương [18, Tr.16].

Chiều ngày 6-12, máy bay phòng thám Anh phát hiện đoàn tàu Nhật ở vĩ độ 8,

kinh độ 100, phía Nam Hòn Khoai (Cà Mau), di chuyển về hướng Tây.

Suốt ngày 7-12, mọi người Mỹ ở Philippines chờ đợi chiến tranh từng giờ

từng phút vì căn cứ không quân Nhật ở Đài Loan hoặc Hải Nam chỉ cách Manila độ

2 giờ bay. Tại sân bay Clark, 16 chiếc pháo đài bay B17 nằm kế nhau như đang chờ

một cuộc thanh tra. Căn cứ chính của không quân Hoa Kỳ ở Viễn Đông này đang

đợi một lực lượng bổ sung là 30 pháo đài bay. Tham mưu trưởng hạm đội châu Á

của Hoa Kỳ nói với tư lệnh của mình ở đô đốc Hart rằng: Chiến tranh chỉ là vấn đề

ngày giờ mà thôi.

Nhưng nơi nào sẽ bị Nhật đánh đầu tiên: Singapore, Philippines, kênh đào

Panama. Họ không bao giờ có ý nghĩ Nhật đánh Trân Châu Cảng. Một cuộc không

kích bất ngờ Trân Châu cảng – không phải là diễn tập.

3.2.1. Giai đoạn 1: Nhật Bản chiếm ưu thế

3.2.1.1. Trận Trân Châu Cảng

*Vị trí địa – chiến lược

(xem hình 3.1)

Quần đảo Hawaii của Mỹ ở giữa Thái Bình Dương là một chuỗi đảo dài nối

tiếp nhau theo hướng từ Tây – Tây Bắc sang Đông – Đông Nam có diện tích tổng cộng gần 17.000 km2 với khoảng nửa triệu người. Trong đó lớn nhất là đảo Hawaii (trên 10.000 km2) nằm ở cực đông quần đảo, nhưng quan trọng nhất lại là đảo Oahu với diện tích khoảng 150 km2, nằm cách Hawaii khoảng 140 dặm về phía Tây

Bắc.Trên bờ biển phía Nam đảo Oahu có thành phố Honolulu (200.000 dân), thủ

phủ của cả quần đảo. Cũng trên bờ biển phía Nam đảo, cách Honolulu về phía Tây

83

chừng 6 dặm là Trân Châu Cảng, căn cứ chính của hạm đội Thái Bình Dương Hoa

Kỳ (kể từ năm 1940).

Hạm đội Thái Bình Dương của Hoa Kỳ được dựng trên một vịnh biển ăn sâu

vào đất liền của đảo rồi chia thành nhiều vụng biển và luồng lạch kín đáo, lại có một

cù lao ở giữa vịnh được gọi là “đảo Ford” như một cầu tàu tự nhiên. Trân Châu

cảng có điều kiện tự nhiên lí tưởng để bảo vệ hạm đội chống lại mọi sự tấn công từ

bên ngoài. Việc bố phòng ở cảng hết sức cẩn mật với một hệ thống lưới thép đặc

biệt chống ngư lôi và tàu ngầm. Ngoài Trân Châu cảng ra, hạm đội còn một căn cứ

khác là cảng Lahaina trên đảo Maui, một đảo nằm ở khoảng giữa Oahu và Hawaii

[18, tr.46].

Hạm đội Thái Bình Dương của Hoa Kỳ thực sự là hạm đội mạnh nhất thế giới

lúc bấy giờ với khoảng 170 hạm tàu các loại mà lực lượng chủ yếu là 4 tàu sân bay:

Yorktown, Saratoga, Enterprise, Lexington; 11 thiết giáp hạm: Missisipi, Aidaho,

New Mexico, Oklahoma, Arizona, Califonia, West Virginia, Maryland, Tennessee

và kì hạm Pennsylvania và hàng chục tuần dương hạm. Toàn bộ lực lượng đồ sộ ấy

đặt dưới quyền chỉ huy của đô đốc Husband Kimmel, tư lệnh hạm đội từ tháng

2/1941.

Bảo vệ hạm đội và quần đảo, có một lực lượng lục quân gần 43.000 binh lính

và sĩ quan, trong đó 35.000 đóng tại Oahu. Lực lượng này được trang bị các vũ khí

rất hiện đại. Trên đảo Oahu có 5 sân bay, quan trọng nhất là sân bay Hickam ở ngay

gần Trân Châu Cảng và sân bay Wheeler ở phía Bắc đảo. Vào ngày 07/12/1941 trên

đảo có tất cả 233 máy bay quân sự của lục quân, trong đó có 150 chiến đấu cơ, 35

pháo đài bay hiện đại B17, còn lại là các máy bay ném bom khác. Với lực lượng nói

trên, tướng Walter Short, tư lệnh lục quân tại đảo Hawaii vẫn cho rằng ông thiếu

phương tiện phòng thủ, đặc biệt là những vũ khí để giáng trả những cuộc tấn công

bằng không quân của địch. Có 81 chiếc thủy phi cơ Catalina và bổ sung thêm 6

chiếc B17 là nhiệm vụ trinh sát cho toàn quần đảo, đô đốc Kimmel cũng cho rằng

ông không đủ khả năng thường xuyên thám sát từ xa toàn bộ vùng biển xung quanh

quần đảo. Vì vậy, ông chỉ chú trọng tuần tra vùng biển phía Nam, nơi quân đảo

Marshall của Nhật.

84

Trong bản đệ trình tổng thống Franklin Roosevelt ngày 24-4-1941, bộ trưởng

bộ quốc phòng Henry Stimso và tổng tham mưu lục quân George Marshall nhất trí

khẳng định rằng: “Nhờ sự phòng thủ vững chắc của mình, nhờ những lực lượng đồn

trú, nhờ những đặc điểm của thiên nhiên, đảo Oahu có thể coi là báo đài mạnh nhất

thế giới” [18, Tr.46-47].

Nằm giữa vùng Bắc Thái Bình Dương, Trân Châu Cảng vừa là căn cứ chỉ huy,

căn cứ hậu cần, là cơ sở bảo duỡng, sửa chữa các chiến hạm của hạm đội Thái Bình

Dương. Từ căn cứ này, Hạm đội Thái Bình Dương của Hải quân Hoa Kỳ có thể

khống chế toàn bộ vùng Bắc Thái Bình Dương bằng các lực lượng tàu nổi, tàu

ngầm và không quân của Hạm đội.

Nói đến sức mạnh của Trân Châu cảng Tướng Marshall nói với FDR rằng bến

cảng này là không thể bị đánh bại và nó là mục tiêu ít có khả năng nhất. Vị tướng

nói:

Đó là….pháo đài mạnh mẽ nhất trên thế giới…Những chiếc tàu chuyên

chở của kẻ địch, các đoàn hộ tống và vận chuyển của hải quân sẽ bắt đầu đến

trong tình trạng xảy ra cuộc không chiến ở cự ly khoảng 1267km. Cuộc tấn

công này sẽ gia tăng cường độ cho đến khi cách mục tiêu khoảng 338km, các

lực lượng của kẻ địch sẽ là đối tượng của tất cả các loại máy bay ném bom

được hỗ trợ chặt chẽ bởi những chiếc máy bay cường kích hiện đại của chúng

ta [dẫn theo 5, tr. 187]

Mặt khác, với địa hình của cảng Trân Châu, người Mỹ cho rằng, độ sâu của

vịnh biển chỉ khoảng 10m không thể phóng ngư lôi được, cho nên họ chỉ đề phòng

máy bay ném bom và tàu ngầm mà không thả lưới ngăn ngư lôi quanh các chiến

hạm. Giờ đây, họ đã phải bất ngờ chứng kiến phát minh mới của người Nhật về

cách dùng ngư lôi ở vùng biển nông cho máy bay bay sát với tốc độ chậm để phóng

ra những quả ngư lôi lướt trên mặt nước với tốc độ cũng rất chậm, chỉ khoảng 30-40

hải lí giờ [ 18, Tr.56].

Mặt khác, vào thời điểm quân Nhật tấn công Trân Châu cảng thì khả năng

phòng thủ ở đây rất thấp, Lãnh sự quán Nhật tại Honolulu Tadashi Morimura điện

về Tokyo báo rằng: Hoa Kỳ không chuẩn bị gì để đối phó với một cuộc tấn công

85

của Nhật Bản tại đây, “không có lưới chống ngư lôi quanh các thiết giáp hạm,

không có khí cầu phòng không gần Trân Châu cảng” và khẳng định “có thể lợi

dụng cơ hội rất thuận lợi này để tấn công bất ngờ”, tại vị trí của các chiến hạm

trong cảng ông nhấn mạnh “không có những phi vụ trinh sát xuất phát từ hạm đội”

[Dẫn theo 18, tr.20].

Như vậy, khi mà quan hệ Hoa Kỳ - Nhật Bản chỉ còn chờ chiến tranh diễn ra

thì Hoa Kỳ ở Hawaii không có một sự chuẩn bị tốt cho một cuộc chiến với Nhật

Bản cả về tinh thần, vật chất lẫn kĩ thuật. Đặc biệt là những kinh nghiệm của cuộc

chiến trên Đại Tây Dương của hải quân Anh đã không được hải quân Hoa Kỳ lưu ý

đúng mức.

* Kế hoạch của Nhật Bản

Ban đầu bộ tham mưu Nhật nghiên cứu mở cuộc tấn công cùng một lần vào

Mã Lai và Philippines rồi đánh chiém Nam Dương sau. Nhưng đô đốc Isoroku

Yamamoto, vị tư lệnh hạm đội phối hợp Nhật chống lại kế hoạch này vì nó không

nhắm vào lực lượng quan trọng nhất của Hoa Kỳ trong Thái Bình Dương là hạm

đội. Ông đề nghị tấn công làm tê liệt hạm đội Mỹ bằng một cuộc tấn công bất ngờ

vào Trân Châu cảng. Cùng một lúc quân đội Nhật cũng mở cuộc đổ bộ lên đảo

Wake, Guam, Hương Cảng, Mã Lai, Phi Luật Tân, các đảo Bắc Nam Dương và

chiếm đóng Thái Lan. Người Nhật hy vọng đánh chiếm Phi Luật Tân trong hai

tháng, Mã Lai trong ba tháng và kiểm soát được vùng giới hạn bởi đường phân chia

quốc tế và dãy các đảo từ Tân Anh Quốc đến Sumatra và miền trung Miến Điện

trong năm tháng.

Người Nhật dự trù một trận chiến tranh giới hạn với các mục tiêu kinh tế rõ

rệt. Các vị trí của phe Đồng minh có thể nói nằm trên hai vòng cách hải cảng Nhật

Yokohama độ 1500 và 3000 dặm. Vòng trong bao gồm Hương Cảng, Mali cách độ

1782 dặm, Guam 1352 dặm vào đảo Wake. Vòng ngoài bao gồm Tân Gia Ba,

Jakarta, Surabaya, Rabaul tại Tân Anh quốc 2526 dặm. Các mục tiêu khác ở ngoài

vòng này mà có Nhật có thể tấn công là Calcutta, Colombo, Sydney, Ackland 4789

dặm. Cựu Kim Sơn hay Vancouver cách 4262. Còn Pananma cách Yokohama đến

7682 dặm đường nghĩa là hơi gần hơn của vào kênh Suez ở phía Nam độ 100 dặm

86

[21, Tr.140]. Kế hoạch của Nhật lúc ban đầu không dự trù đánh chiếm vài vị trí nhỏ

trong vòng cách xa ba nghìn dặm như đảo Kiska trong số các đảo Aleutians cách

1977 dặm. Đảo Midway cách 2250 dặm và các cứ điểm tại các đảo xa hơn Rabaul

mà người Nhật có thể chiếm cách vị trí này tại Tây Nam Thái Bình Dương bằng

cách đánh từ đảo này qua đảo khác với phi cơ tại các hàng không mẫu hạm trợ lực

với các máy bay từ các phi trường trên bờ. Các cuộc hành quân đánh vào đảo

Midway hay Aleutians không có thể được sự yểm trợ của phi cơ phi trường trên bờ.

Ngoài ra Nhật bản không thể nào đánh vào lãnh thổ của Hoa Kỳ và Anh quốc và đe

dọa sự tồn tại của hai xứ này [21, tr.141].

Cuộc tấn công Trân Châu Cảng có nhiều mục đích. Trước tiên, người Nhật hi

vọng sẽ ngăn cản được Hạm đội Thái Bình Dương can thiệp vào việc Nhật chinh

phục Đông Ấn. Kế tiếp, người Nhật tranh thủ thời gian để củng cố vị thế và tăng

cường sức mạnh hải quân, trước khi các tàu chiến mới của Mỹ được chế tạo theo

Đạo luật Vinson-Walsh. Cuối cùng, nó được trù tính sẽ là một đòn mạnh giáng vào

tinh thần của người Mỹ, có thể gây nản lòng, cho phép Nhật tiếp tục chinh phục

Đông Nam Á mà không bị can thiệp. Như nhà Nhà bình luận quân sự Philippe

Mason đã viết: Cùng với bản kế hoạch quân sự, tướng Tojo cũng đã nghiên cứu một

kế hoạch chính trị nhằm độc chiếm toàn bộ Đông Nam Á, loại bỏ tất cả những

người da trắng Châu Âu để xây dựng một “khối thịnh vượng chung” tạo điều kiện

cho Nhật Bản có một nền kinh tế độc, nhờ có nguồn dầu mỏ Indonexia, thiếc và

nhất là cao su Malaixia. Công cuộc bành trướng chỉ liên quan tới việc tước đoạt

những quyền lợi của Hà Lan và Anh tại các xứ thuộc địa trong khu vực mà nhất

thiết phải xảy ra một cuộc chiến tranh với Mỹ. Với vị trí chiến lược của Philippines,

Mỹ có thể đe dọa tuyến giao thông hàng hải từ Nhật Bản xuống khu vực Đông Nam

Á. Chính vì vậy bộ Tư lệnh quân sự Nhật Bản phải tính đến chuyện tiêu diệt phần

lớn lực lượng chủ yếu của Mỹ tại Trân Châu Cảng ở Hawaii bằng một cuộc tiến

công bất ngờ [14, tr.23].

Cuộc tấn công vào Trân Châu cảng được dự định không phải để làm cho Nhật

Bản vướng vào một cuộc chiến tranh kéo dài chống lại Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ,

mà như một cú đấm nốc ao. Nhằm đạt được mục tiêu về kinh tế và chính trị. Nó

87

được trù tính là để loại bỏ pháo đài nổi của người Mỹ, hạm đội Thái Bình Dương,

do đó sẽ buộc Hoa Kỳ rút lui khỏi vùng Đông Nam Á phải bảo đảm chủ quyền trên

các vùng biển trong Thái Bình Dương và chuẩn bị con đường cho các cuộc chinh

phục trong khu vực Đông Nam Á – nơi sẽ mang lại đủ dầu và những nguồn tài

nguyên thiên quan trọng khác mà họ còn thiếu. Đặc biệt là khi, họ đã bị Mỹ cấm

vận. Một khi cuộc chinh phục này đã thực hiện xong, họ tính đến việc giam nhốt

các nước này trong vành đai phòng thủ mạnh đến nỗi người Mỹ không hề muốn tấn

công nó bởi vì nó phải làm họ phải trả giá rất đắt bằng những sinh mạng. Họ hi

vọng lúc đó có thể thương thuyết về một nền hòa bình cho phép Nhật củng cố và

bành trướng “Khu vực đồng phồn thịnh vĩ đại nhất” của nó tại Đông Á. Người Nhật

nhận thức rất rõ rằng Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ đã bắt đầu tập trung chú ý vào cuộc

chiến tranh ở châu Âu và Tổng thống Roosevelt mong muốn tham gia vào trận

chiến đó. Một điều mà người Nhật không thể hình dung được rằng người Mỹ có thể

đảm nhận được cuộc chiến kéo dài ở cả hai đại dương. Người Nhật đã không đánh

giá đúng tiềm lực của Hoa Kỳ [1], [5], [19].

Tác giả của kế hoạch tấn công tiêu diệt hạm đội Mỹ ở Trần Châu cảng là thủy

sư đô đốc Isoroku Yamamoto, 57 tuổi và đã 40 năm tận tậm phục vị hải quân

Hoàng gia Nhật, tính đến 1941.

Kế hoạch tấn công Trân Châu cảng có nguồn gốc từ chiến thuật của hải quân

Nhật trong chiến tranh Nga – Nhật (1904 -1905). Dưới sự chỉ huy của đô đốc

Heihachiro Togo, năm 1904 hạm đội Nhật không tuyên chiến và lợi dụng đêm tối

đã bất ngờ tấn công đánh tan hạm đội Nga tại cảng Lữ Thuận. Năm 1905, một cuộc

tấn công bất ngờ nữa của hạm đội Nhật tại eo biển Tsushima (Đối Mã) lại đánh

chìm hạm đội thứ hai của Nga hoàng, trong trận này thiếu úy trẻ Isoroku Yamamoto

thì đã bị thương ở chân và tay trái.

Trong những năm 30, tàu sân bay xuất hiện, Yamamoto là một trong những sĩ

quan hải quân tiên tiến nhanh chóng nhận rõ uy lực to lớn của đòn đột kích bằng

máy bay xuất phát từ các tàu sân bay vì vậy ông đã coi tàu sân bay là lực lượng tấn

công chủ yếu của hải quân thay vì các thiết giáp hạm với những đại bác khổng lồ.

Giới lãnh đạo hải quân Nhật luôn luôn chuẩn bị một cuộc chiến tranh chống

88

Mỹ theo chiến thuật lôi kéo hạm độ Mỹ ra khỏi căn cứ ở Hawaii tiến về phía Nhật

Bản và phục kích tiêu diệt nó ở vùng biển nước mình. Trong khi đó, Yamamoto lúc

bấy giờ là thủ trưởng hải quân, Yonai bộ trưởng hải quân luôn phản đối việc liên

minh với phe trục để tiến hành cuộc chiến chống Mỹ.

Yamamoto từng là sinh viên đại học Harvard và là tùy viên hải quân Nhật tại

Hoa Kì, ông hiểu rất rõ lực lượng vật chất của Mĩ so với Nhật. Ông khẳng định rằng

hải quân Thiên hoàng không thể thắng Mĩ, Anh được. Khi hoàng thân Konoe lên

làm Thủ tướng và hỏi ý kiến của ông về một cuộc chiến tranh với Anh, Mỹ, ông nói

ngay: “Nếu bảo đánh mà không cần biết đến hậu quả của nó, tôi sẽ đánh và sẽ

thắng trong sáu tháng hoặc một năm đầu; nhưng tôi không tin là sẽ thắng ở năm

thứ hai, và nhất là năm thứ ba. Tôi hy vọng ngày sẽ làm mọi việc để tránh một cuộc

chiến tranh Nhật –Mỹ” [dẫn theo 18, tr.35].

Bằng kinh nghiệm và sự hiểu biết về đối phương Yamamoto hiểu hơn ai hết

một cuộc chiến tranh giành thắng lợi lâu dài đối với sức mạnh của Hoa Kỳ là điều

không thế.

Tuy vậy, Yamamoto vẫn phát triển tư tưởng chiến thuật của ông theo giả thiết

về một cuộc chiến tranh với Mĩ. Ông chủ trương đánh hạm đội của Mĩ ở những

vùng biển xa nhất mà hạm đội Nhật có thể vươn tới được, như ở quần đảo Marshall.

Năm 1940, ông nói với chuẩn đô đốc Shigeru Fukudome, tham mưu trưởng

hạm đội của ông rằng: “Tôi nghĩ giờ đây một cuộc tấn công ở Hawaii có thể xảy ra,

và không quân của ta cần được huấn luyện theo hướng này để giành chiến thắng”

[dẫn theo 18, tr.35]. Ông dự định giáng một đòn bất ngờ vào Trân Châu cảng làm

què hạm đội Mĩ; đồng thời bằng mọi cách cho quân Nhật đánh chiếm Đông Nam Á

trước khi Hoa Kỳ kịp xây dựng lại lực lượng của hạm đội này.

Ở châu Âu, ngày 11- 11-1940 tàu sân bay “Illustrions” của Anh đã tiến vào

biển Ionienne cách căn cứ hải quân Taranto (của Ý) 170 dặm và tung ra một đợt

oanh kích với 21 máy bay phóng ngư lôi. Cuộc tấn công trong đêm trăng không gây

khó khắn cho việc tiếp cận mục tiêu của lực lượng đột kích ấy. Máy bay Anh đã

phóng ngư lôi trúng 3 thiết giáp hạm Ý: 1 chiếc chìm, 2 chiếc bị loại khỏi vòng

chiến.

89

Những kinh nghiệm trên chiến trường Đại Tây Dương về cuộc tấn công bằng

máy bay phóng lôi trong đêm tối mà không gặp bất cứ khó khăn nào đã giúp ích rất

nhiều cho hải quân Nhật Bản. Sau sự kiện này, đô đốc Yamamoto đã cho tập hợp tư

liệu để in ronéo một bản chỉ thị dày 500 trang về “phương thức hành động, lực

lượng và sự bố phòng của hạm đội Mĩ ở Hawaii” [dẫn theo 18, tr.35]. Quân Nhật

bắt đầu nghiên cứu một cuộc tấn công vào Hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ ở

Trân Châu cảng.

Cuộc tấn công vào Trân Châu cảng phải thực hiện mà không tuyên chiến để

cho phép hoàng đế, trong trường hợp thất bại, bác bỏ nó như hành vi vô trách nhiệm

của những cái đầu nóng bỏng nào đó.

Ngày 22/11, trong khi Kurusu và Nomura, có lẽ không biết về những gì đang

ngầm được chuẩn bị, theo đuổi những cuộc đàm phán ở Washington, một hạm đội

Nhật bí mật tập trung trong vịnh Tankan, ở quần đảo Lữ Thuận (Kouriles). Hạm đội

của Phó đô đốc Chuigi Nagumo gồm có 6 hàng không mẫu hạm, 2 thiết giáp hạm, 2

tuần dương hạm hạng nặng và 1 tuần dương hạm hạng nhẹ, cũng như sự bố cục

phòng vệ của các tàu ngầm, các khu trục hạm và các tàu chở dầu. Nó chuẩn bị nhổ

nêo ngày 26/11 và ra khơi về phí Bắc quần đảo Hawaii với sự cẩm chỉ thông tin qua

vô tuyến. Sáu ngày sau, ngày 2/12, đô đốc Isoroku Yamamoto, gửi quan vô tuyến

tới Nagumo tín hiệu mật mã của cuộc tấn công : “Hãy trèo lên Núi Niitaka”,

Nagumo đổi hướng và đi về phía quần đảo Hawaii.

Những cơ quan tình báo của Hải quân Hoa Kỳ biết được các mật mã quân sự

và hải quân của người Nhật, từ đó họ đã giải mã rất nhiều các tín hiệu, tuy nhiên họ

không biết sức mạnh của hạm đội Nagumo như thế nào. Washington đã được thông

tin về các sự di chuyển đáng lo ngại, trong vịnh Thái Lan, về đoàn tàu Nhật lên

đường, hoặc hướng về Mã Lai hoặc Thái Lan. Trong một nỗ lực cuối cùng để làm

cho họ quay trở lại, Tổng thống Roosevelt gửi một thông điệp cá nhân cho Hoàng

đế HiroHito ngày 06/12. Nhưng nó đã quá trễ. Các hàng không mẫu hạm của

Nagumo đã tiến gần đến quần đảo Hawaii.

Nhờ vào Magic (sự kỳ diệu) – tên đặt cho hệ thống giải được mật mã của Nhật

– Washington biết rõ, kể từ một thời gian nhất định, về quyết định không thể thay

90

đổi được của Nhật. Ngày 27/11/1941, Washington đã thông báo cho phó Đô đốc

Husband Kimmel và Trung tướng Walter Short thực hiện báo động ở Trân Châu

cảng, nhưng dường như nó đã không nhấn mạnh về tính khẩn cấp mà sự báo động

cần phải bao hàm. Thực ra, bất cứ sự trinh sát nào của không quân, hay tuần tra của

hải quân cũng không được tổ chức ngoài khơi hòn đảo, và bất cứ biện pháp bảo vệ

phòng không nào cũng được tiến hành trong boong các chiến tàu trong các công

trình quân sự. Phân nửa dàn đại bác phòng không đã bị tháo đạn ra; những chiếc tàu

bị bỏ phế và những chiếc máy bay trên phi trường ở Oahu nằm xếp hàng nối đuôi

nhau như những con vịt trên mặt nước. Các hàng không mẫu hạm, mục tiêu đối với

quân Nhật, đã rời khỏi Trân Châu cảng với các tuần dương hạm hộ tống để diễn tập

ở Wake và trong quần đỏa Midway.

*Diễn biến

Chủ nhật ngày 07/12/1941, bình minh vừa ló dạng, yên tĩnh và rực rõ, ở

Honolulu. Lúc 6 giờ sáng, cách Oahu 350 km về hướng Bắc, 353 phi cơ Nhật cất

cánh từ các hàng không mẫu hạm của Đô đốc Nagumo. Vào lúc 6giờ 45, khu trục

hạm Hoa Kỳ “Ward” trông thấy một tàu ngầm Nhật nên đã bắn đại bác từ trên

xuống, kế đó phóng vào nó mấy trái ngư lôi. Viên chỉ huy lập tức truyền đi một báo

cáo về “sự tiếp xúc” này, nhưng tín hiệu vô tuyến của ông ta không nói rõ liệu nó

thực sự trông thấy một tàu ngầm hay liệu nó đơn thuần đã có một “sự tiếp xúc dưới

nước” hay không. Chính điều đó giải thích rằng người ta đã không tuyên bố tình

trạng báo động. Lúc 7 giờ 2 phút, các binh sĩ Joseph Lockard và George Elliott, trực

gác phía trước màn hình ra –đa ở Opana, gần Haleiwa phía bắc của Trân Châu cảng,

phát hiện một phi đội không quân lớn đang tiến gần từ phía Bắc. Họ báo sự việc cho

viên sĩ quan trực nhưng anh ta trả lời họ “Hãy quên điều đó đi!” [1, tr.221].

Dù là pháo đài bất khả xâm phạm, hạm đội mạnh nhất thế giới nhưng trong lúc

mà quân Nhật tấn công thì không được sự chuẩn bị tốt về tinh thần cũng như vật

chất chính vì vậy cuộc chiến đánh nóc ao này của người Nhật được tiến hành mà ít

gặp trở ngại nào – trận đánh đơn phương chiến.

* Những tổn thất của 2 bên

Hiệu quả của cuộc tấn công đã trở thành một điều chắc chắn và tín hiệu qui

91

định “Tấn công bất ngờ”. Theo như nhìn nhận của chỉ huy phi đội Nhật, Mitsuo

Fuchida thì Trân châu cảng và căn cứ không quân của nó đã bị một trận đòn nê

thân. Đoàn tàu oai phong chỉ trong một giờ đồng hồ đã tan ra như tuyết dưới ánh

mặt trờ [1, Tr.224].

Cuộc tấn công vào Trân Châu cảng diễn ra 2 đợt, đợt một lúc 7 giờ 55, đợt hai

lúc 8 giờ 40. Lúc 19 giờ, tất cả đã xong xuôi. Các oanh tạc cơ bổ nhào và các chiến

oanh tạc cơ ở cao độ, các máy bay phóng ngư lôi và các máy bay tiêm kích chiến

đấu đã biến Trân Châu cảng thành những đống tro tàn bốc khói: 96 tàu chiến thả

neo trong hải cảng; 18 đã bị đánh chìm hay bị phá hỏng và trong số chúng có 8 thiết

giáp hạm và 3 tuần dương hạm. Về 394 máy bay đậu trên bốn phi trường của hòn

đảo, 108 chiếc bị hủy diệt hay hư hại. Tổn thất của người Mỹ lên đến 2343 người,

960 người mất tích và 1172 người bị thương. Quân Nhật chỉ chịu những tổn thất

nhỏ: 29 phi cơ, 55 người, 1 tàu ngầm và vài chiếc tàu ngầm bỏ túi bị hủy diệt. Bằng

một đòn được thực hiện xuất sắc cũng như được suy nghĩ táo bạo, quân Nhật vừa

tống khứ một đại bộ phận của lực lượng hải quân và không quân Hoa Kỳ ở Viễn

Đông.

Quân Nhật cũng khá thành công trong việc phá hủy những công sự trên mặt

đất của Trân Châu cảng, các kho cảng, các bồn xăng, các xưởng sửa chữa, mà sự

phá hủy chúng sẽ buộc hạm đội Thái Bình Dương rút lui về bờ biển phía Tây của

Hoa Kỳ.

Nhưng Trân Châu cảng không phải là một chiến thắng toàn diện. Do tập trung

chủ yếu việc tiêu là hạm đội của địch hơn và các công trình kinh tế, kho chứa dầu,

bến cảng. Trong khi đó thì 2 hạm đội Mỹ đã nhổ neo. Các hàng không mẫu hạm,

tuần dương hạm, tàu ngầm và tất cả các khu trục của Hoa Kỳ, ngoại trừ 3 chiếc, đã

thoát khỏi cuộc tấn công, để mà sáu tháng sau, các lực lượng hải quân Hoa Kỳ ở

Thái Bình Dương, được sự tăng cường bởi các đơn vị rút ra từ hạm đội ở Đại Tây

Dương, sẽ có khả năng đánh bại hạm đội Nhật trong biển San Hô (Corail) và ở quần

đảo Midway [1, tr.224].

*Hệ quả của thảm họa Trân Châu Cảng

Việc Nhật tấn công Trân Châu cảng không làm xã hội Hoa Kỳ hốt hoảng, trái

92

lại, nó đã làm cho mọi sự kình địch giữa hai khuynh hướng chủ yếu không còn lí do

tồn tại.

Từ lâu nhóm “can thiệp” đại diện cho quyền lợi của các tổ hợp công nghiệp

quân sự, cũng như giới quân sự và nhóm cực đoan, chủ trương Hoa Kỳ phải can

thiệp khắp nơi để giành quyền lợi. Đặc biệt là khi chiến tranh thế giới xảy ra.

Năm 1939 ở châu Âu, giới này hoạt động tích cực, hô hào Hoa Kì nên tuyên

chiến với Đức – Ý - Nhật và giúp đỡ tích cực Tưởng Giới Thạch chống Nhật.

Nhóm thứ hai chủ trương Hoa Kỳ nên lui về lo cho châu Mỹ, biến cả châu Mỹ

thành một thị trường khổng lồ, đánh bại ảnh hưởng kinh tế, chính trị, văn hóa của

các cường quốc phương Tây khác như Anh, Pháp, Tây Ban Nha, Đức, Hà Lan ở

khắp châu Mỹ và vịnh Caribbean. Nhóm này không muốn Mỹ dính líu đến những

chuyện xảy ra ở Trung Quốc, châu Âu. Giờ thì chiến tranh xảy ra, Hoa Kỳ buộc

phải lâm trận, nên nhóm thứ hai đành thúc thủ.

Tổng thống Roosevelt dù biết rằng Nhật sắp đánh một số căn cứ của Hoa Kỳ ở

Thái Bình Dương, qua những bức điện mật mã của Bộ ngoại giao và hải quân Nhật

mà họ đọc được qua chiến dịch MAGIC, ông vẫn không thể nghe lời cố vấn Harry

Hopkins khuyên nên “làm một cái gì trước đã”, chính vì ông sợ ảnh hưởng của

nhóm thứ hai này. Họ thường chỉ trích ông là một kẻ “hiếu chiến” mà họ thì đã quy

tụ đông đảo là phiếu ở vùng Trung Tây Hoa Kì, trong giới các tiểu nông, tiểu chủ và

thợ thuyền ở các thành phố [1, Tr.78 -79].

Ngay ngày 08/12 Tổng thống Roosevelt phát biểu tại Quốc hội như sau: “Hôm

qua, ngày 07/12 năm 1941 – một ngày sẽ còn được ghi nhớ bởi sự sỉ nhục – Hiệp

Chủng quốc Hoa Kỳ đã bị tấn công một cách bất ngờ và được cân nhắc kỹ bởi các

lực lượng hải – không của đế chế Nhật” – Quốc hội không chần chừ tuyên chiến

với Nhật Bản.

Có nhiều học giả đặt ra câu hỏi: Tại sao chính phủ Mỹ lại không hay biết là

Trân Châu cảng sẽ bị tấn công. Trong khi đó với nền kỹ nghệ, lực lượng tình báo

của mình. Họ phải biết điều đó. Đến nay, những tài liệu có được không đủ chứng cứ

để chỉ ra rằng Tổng thống Roosevelt mong muốn một cuộc chiến tranh ở vùng Thái

Bình Dương, và tất cả mọi bằng chứng đều chỉ ra rằng ông muốn bước cào cuộc

93

chiến tranh châu Âu.

* Phân tích địa - chính trị

Tiêu điểm địa chính trị của Nhật Bản trong thời kỳ này coi Nhật Bản là trung

tâm của châu Á và của khối Đại Đông Á theo tinh thần dân tộc chủ nghĩa, mà thể

hiện rõ trong sách giáo khoa Nhật Bản như sau:

Chính đất nước chúng ta, nước Nhật Bản, một đất nước mà từ đó mặt trời mọc

lên hàng ngày, là đất nước nằm ở trung tâm Đại Đông Á, một khu vực bao gồm

Thái Bình Dương cùng những hòn đảo của nó, từ lục địa châu Á đến Ấn Độ Dương.

Theo ý chí của Thiên Hoàng, một trăm triệu đồng bào ta cần phải thực hiện công

cuộc lớn lao là xây dựng khu vực Đại Đông Á để không làm cho tổ tiên thất vọng.

chúng ta phải chia sẻ niềm vui hòa bình vĩnh viễn của thế giới và sự thịnh vượng

chung cho mọi dân tộc [Dẫn theo 1, tr.227].

Người Nhật mặc định đó là sứ mạng của đất nước họ. Như đã trình bày ở

chương 1, với tư tưởng địa chính trị như vậy phe quân phiệt trong chính phủ Nhật

từng bước phá bỏ hiệp ước Washington và nhanh chóng đi đến phát động 1 cuộc

chiến tranh bành trướng mở rộng ra toàn khu vực. Trên bước đường bành trướng

của mình ở châu Á, Nhật Bản chỉ gặp một trở ngại duy nhất là Hoa Kỳ. Tuy nhiên,

người Nhật hiểu rằng một cuộc chiến giành thắng lợi quyết định đối với Hoa Kỳ là

điều khó đạt được. Vì vậy, ngay từ đầu ý đồ của Nhật nhằm vào Hạm đội lớn mạnh

nhất của Hoa Kỳ là mong muốn đạt được một thỏa thuận ở châu Á, có lợi cho Nhật.

Bước vào cuộc chiến tranh thế giới để đạt được mục đích thì chiến lược quốc

gia của Nhật Bản chứa đựng 2 mục tiêu: thứ nhất là nhằm vào sự phong phú của các

biển phía Nam đặc biệt là dầu mỏ. Thứ hai, loại bỏ được lực lượng duy nhất có thể

đe dọa Nhật là Hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ. Chiến lược hải quân Nhật Bản

chú trọng nhiều hơn vào các hoạt phía Nam, đặc biệt là Philippines. Còn nguồn lực

tập trung vào mục tiêu chính là hạm đội của kẻ thù – hạm đội Thái Bình Dương [25,

p.62].

Năm 1948, đô đốc Morison tóm tắt những tác động của các cuộc tấn công của

Nhật Bản và Trân Châu cảng đã nói: “Người ta có thể tìm kiếm lịch sử quân sự vô

ích cho một hoạt động gây tử vong nhiều cho kẻ thù xâm lược” [29, p.132].

94

Về chiến thuật cuộc tấn công Trân Châu cảng tập trung vào tàu hơn là bể chưa

dầu, đó là một chiến dịch ngu ngốc. Hoạt động của nó đã không đủ để đạt được mục

tiêu làm tê liệt hạm đội Mỹ. Ở góc nhìn chính trị cao nó là một thảm họa. [25,

p.61].

Trong vòng 5 tháng, quân Nhật đã chinh phục một đại đế quốc mà họ mơ ước

từ hàng chục năm qua. Họ nắm trong tay 400.000.000 cư dân cũng như nhữngh

nguyên liệu chiến lược mà họ rất cần – dầu hỏa, cao su, thiếc, crôm, lúa

gạo…ngoại trừ sắt. Hải quân Hoàng gia Nhật giờ đây làm chủ trên Thái Bình

Dương, từ Midway cho tới biển Trung Hoa, từ Aleoutiennes cho tới Úc (Australia)

cũng như trong đại bộ phận của Ấn Độ Dương.

Quân đội hoàng gia giờ đây chiếm giữ một vành đai phòng thủ nổi tiếng tăng

cường sức mạnh cho nội địa, mà nó chắc chắn rồi các nước đồng mình không bao

giờ có thể xuyên thủng được.

Tất cả các mục tiêu đạt được cùng với 400.000 người, hay chỉ là 20% trong

tổng số quân hiện dịch của Nhật, với một tổn thất chỉ là 15.000 người chết và bị

thương. [1, tr.234].

Bàn về nguyên nhân dẫn đến những thành công của Nhật Bản khi tấn công bất

ngờ vào Trân Châu cảng có thể thấy rằng: Người Nhật đã có sự chuẩn bị tốt về tinh

thần, vật chất cả kế hoạch tác chiến cho một đòn tấn công quyết định vào hạm đội

Thái Bình Dương của Mỹ. Về phía người Mỹ họ đã không có một sự chuẩn bị tốt

nhất cho cuộc chiến. Đến nay đã có nhiều tài liệu nghiên cứu về tính bất ngờ của

Mỹ tuy nhiên chưa có đủ bằng chứng để khẳng định rằng người Mỹ biết trước về

cuộc tấn công ở Trân Châu Cảng. Chỉ trên những tài liệu có được tác giả nhận định

rằng người Mỹ đã chủ quan về cuộc tấn công này. Vì họ đã đánh giá không đúng

sức mạnh của hải quân Nhật Bản đặc biệt là thế hệ của tàu sân bay cũng như là khả

năng về phóng ngư lôi của người Nhật ở một địa hình không lý tưởng.

Xét đến cùng, cuộc tấn công của người Nhật đã cho người Mỹ đủ lý do để

bước vào cuộc đại chiến thế giới thứ hai cho dù mặt biển Thái Bình Dương chưa

phải là điều mà vị Tổng thống muốn.

Thắng lợi sau cuộc tấn công Trân Châu cảng, quân Nhật lần lượt chiếm các

95

đảo Guam (ngày 10-12), Wake (22-12) của Mĩ rồi đổ bộ lên đảo New Britain gần

quần đảo Salomons (23-1-1942) và từ đây tiến sang bờ đông đảo New Guinea (8-3),

trực tiếp uy hiếp Úc. Ngày giáng sinh năm 1941, Nhật chiếm Hng Kong. Ngày Tết

năm mới 1942 họ tiến vào đánh chiếm toàn bộ Mã Lai, Singapore, quân đảo

Andaman, phần lớn Miến Điện thuộc Anh, Indonesia của Hà Lan, Philippines của

Mỹ….Không dừng lại ở khu vực Đông Nam Á, Nhật Bản tiếp tục bành trướng hơn

nữa về cả hai phía Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương. Hải, lực, không quân Hoàng

gia quét sạch những nơi nào có quân Anh, Mĩ, Hà Lan, Úc. Đế quốc mặt trời đạt

đến giới hạn của nó [18, tr.98].

3.2.1.2. Trận chiến trên biển San Hô

Đến đầu năm 1942, làn sóng Nhật Bản đã đạt tới tầm vóc quan trọng đến mức

không có gì có thể ngăn nó lại. Nhưng sự kiện giữa trưa ngày 18 – 4, đoàn máy bay

oanh tạc Hoa Kỳ xuất hiện trên bầu trời Tokyo và trút bom xuống trước sự kinh

hoàng của người Nhật. Cuộc ném bom không gây nhiều thiệt về vật chất, nhưng đã

làm chấn động tâm lí giới lãnh đạo chiến tranh của Nhật, giúp cho quan điểm chiến

lược hải quân thắng thế.

Người ta thấy rằng nếu không tiếp tục tấn công đẩy lùi địch ra xa hơn nữa, thì

chẳng những vùng Đông Nam Á sẽ bị uy hiếp, mà ngay cả chính quốc Nhật Bản

cũng không thể yên được. Trên cơ sở đó, Bộ tư lệnh tối cao Nhật quyết định đẩy

mạnh tấn công trên hướng chính là Thái Bình Dương. Người ta cũng nhanh chóng

nhận ra ý nghĩa chiến lược trong kế hoạch đánh chiếm Midway của đô đốc

Yamamoto. Ngày 20-4, Tổng tham mưu trưởng hải quân Nagamo tuyên bố đưa kế

hoạch mang mật danh là “chiến dịch MO” sẽ được thực hiện ở biển San Hô phía

Nam Thái Bình Dương.

Với hai kết hoạch trên, cuộc tấn công mùa hè 1942 của Nhật Bản sẽ diễn ra

trên một không gian mênh mông suốt từ biển San Hô ở phía Nam qua Midway ở

trung tâm lên tận quần đảo Aleutian ở phía Bắc Thái Bình Dương. Họ sẽ tiến tới

giới hạn tột cùng của đế quốc Mặt Trời.

Từ Đông Nam Á, và Tây Thái Bình Dương, các lực lượng Nhật Bản liên tục

tiến xa về phía Nam. Vào tháng 4, các hàng không mẫu hạm của Nagumo, cũng

96

chính chúng đã tham gia vào cuộc tiến công ở Trân Châu cảng thực hiện một cuộc

không kích vào Ceylan (Sri –Lanka) đánh chìm hai tuần dương hạm và một hàng

không mẫu hạm của Anh, và hủy diệt một đoàn tàu quan trọng trong Ấn Độ Dương.

Có một hạm đội cũng đáng gờm như hạm đội của Nagumo tiến hành sự kiểm soát

trên các đảo Andaman trong vịnh Benganle, nó sẽ tạo đủ điều kiện cho Nhật chiếm

đóng, với sự tiếp tay của Vichy, căn cứ quan trọng ở Madagascar, để bảo đảm sự

chi phối toàn bộ trong vùng biển Ấn Độ. Đó là lý do tại sao người Anh ra tay hành

động trước. Ngày 05/05, họ đổ bộ vào Madagascar và chiếm hải cảng Diego Suarez.

Vào mùa thu cả hòn đảo bị chiếm hoàn toàn.

Chính cuộc ném bom của oanh tạc cơ Doolittle ở Nhật và tham vọng của Bộ

tham mưu Hoàng gia thúc giục nhanh chóng quân Nhật bành trướng thêm nữa khu

vực ảnh hưởng của họ. Họ xác định các mục tiêu chuyển biến theo hai đòi hỏi cấp

bách: một là bảo đảm sự an toàn ở các vùng đất xâm lược ở ngoại quốc và bảo vệ

chính quốc chống lại các cuộc không kích của phe đồng minh. Các mục tiêu này là

Ấn Độ, Úc, và Hawaii; tuy nhiên những mục tiêu này không được xem là mục đích

của cuộc xâm lăng. Người Nhật thúc đẩy mở rộng vành đai phòng thủ tại Thái Bình

Dương: Người Nhật muốn có quần đảo Aleoutienne ở phía Bắc, Midway ở trung

tâm và quần đảo Fidji, quần đảo Nouvelle – Caledonie ở phía Nam, và bán đảo

Papua ở Tân Ghi-nê, để đe dọa Hawaii và Úc, cắt đứt mọi thuyến đường tiếp tế của

Hoa Kỳ đi tới Úc và tăng cường sự bảo vệ chống lại các cuộc tấn công của không

quân đồng minh. Nhưng cũng chính trong việc cố gắng thực hiện các mục tiêu này

mà quân Nhật sẽ chứng kiến những sự thất bại đầu tiên của chúng.

Đầu tháng 5 – 1942, “chiến dịch MO” do phó đô đốc Shigeyoshi Inoue chỉ

huy bắt đầu thực hiện nhằm đánh chiến hải cảng Moresby trên bờ nam đảo New

Guiea thuộc biển San Hô. Chiếm được cảng này, Nhật Bản sẽ dễ dàng chiếm nốt

phần còn lại của hòn đảo lớn thứ hai trên thế giới, đồng thời đặt Úc trước một hiểm

họa sống còn [1], [18].

Trận đánh ở biển San Hô là cuộc quyết chiến một mất một còn giữa các hàng

không mẫu hạm, kéo dài trong năm ngày, từ ngày 04 tới ngày 08/05/1942. Đó là

cuộc giao chiến lớn đầu tiên của lịch sử hải quân trong đó các tàu chiến trên mặt

97

nước không bắn nhau một phát súng nào. May mắn cho người Mỹ, các cơ quan tình

báo “Magic” cung cấp trước cho phó Đô đốc Frank Fletcher thông tin về các kế

hoạch của Nhật. Quân Nhật dự tính chiếm Tulagi ở phía Nam quần đảo Salomon và

bao vây bằng một phân hạm đội mũi Đông của Tân Ghi-nê để chiếm hải cảng

Moresby. Cuộc đổ bộ ở Tulagi không gặp sự đối kháng vào ngày 03/05. Máy bay

của chiến hạm “Yorktown” chỉ đến nơi vào ngày hôm sau, quá trễ để tấn công hạm

đội hộ tống của Nhật, nhưng kịp lúc để ném bom các tàu bị bỏ rơi. Ngày 7/05, lực

lượng xâm lược xuất phát từ Rabaul bị phát hiện trong lúc nó trên đường hướng về

hải cảng Moresby. Phi cơ Hoa Kỳ lập tức tấn công và đánh chìm hàng không mẫu

hạm hạng nhẹ “Shoho”. Về phía mình, các máy bay Nhật trong cuộc truy tìm các

hàng không mẫu hạm Hoa Kỳ đã đánh chìm khu trục hạm “Sims”, tàu chở dầu

“Neosho”. Máy bay Nhật cũng đã phát hiện vị trí của các đơn vị Hoa Kỳ. Chiếc

“Lexington” và “Yorktown” đã bị trúng ngư lôi và bị oanh tạc.

Trận chiến kết thúc, người Nhật bị đánh chìm 2 tàu sân bay nhẹ, 1 khu trục

hạm và 3 tàu khác của địch trong khi chỉ mất 1 khu trục hạm và 1 tàu chở dầu, mỗi

bên có 1 tàu sân bay bị thương. Việc tàu sân o Lexington bị chìm. Takagi và giới

lãnh đạo Nhật đã có thể tuyên truyền rằng họ đã thắng. Nhưng thắng lợi thực sự

thuộc về Fletcher và phía Mỹ: Kế hoạch đánh chiếm Moresby của Nhật đã sụp đổ.

Lần đầu tiên kể từ Trân Châu cảng, một cuộc tiến công của Nhật Bản đã bị đánh

bại. Trong thời chiến thắng của đế quốc Mặt Trời, trận đánh biển San Hô đã chứa

đựng những triệu chứng không mấy tốt lành [18, tr.159].

Trận đánh biển San hô trước tiên chặn đứng sự tiến lên của quân Nhật và trận

đánh ở Midway sẽ làm đảo ngược diễn tiến của chiến tranh Thái Bình Dương

3.2.1.3 Hải chiến Midway

* Vị trí địa chiến lược của Midway

(Xem hình 3.2)

Midway (tiếng Anh, nghĩa là giữa đường) là hai hòn đảo kề nhau nằm chính

giữa con đường hàng hải xuyên Thái Bình Dương từ bờ biển phía Tây nước Mỹ

sang bờ biển Đông châu Á. Ai làm chủ nó, có thể kiểm soát di chuyển tàu bè từ Tây

bộ sang Đông bộ Thái Bình Dương và ngược lại. Midway được xem là “vọng gác

98

của Trân Châu Cảng” [dẫn theo 19, tr.397].

Chiếm được Midway: Mở rộng kiểm soát của Nhật Bản trên Thái Bình

Dương và vạch ra một tuyến phòng thủ cách xa bở biển Nhật ít nhất 3.500km, chạy

dài theo hướng Bắc – Nam từ quần đảo Aleutian ở phía Bắc, qua Midway đến các

quần đảo phía Nam Thái Bình Dương. Như vậy, toàn bộ vùng Thái Bình Dương ở

phía Tây phòng tuyến này sẽ thuộc về Nhật Bản. Yamamoto còn muốn một lần nữa

tiêu diệt hạm đội Thái Bình Dương của Hoa Kì, đặc biệt là các tàu sân bay đã thoát

khỏi thảm họa Trân Châu Cảng mà nay trở thành mối đe dọa đối với Nhật. [18,

tr.161]

Tuy nhiên, căn cứ Midway – cách xa tất cả các căn cứ của Nhật, gần Hawaii

của Mỹ. Vì vậy, nếu chiếm được thì khó giữ vì trở ngại trong vấn đề yểm trợ và tiếp

tế. Song sau khi phi đội Doolitte ném bom Tokyo vào ngày 18/6 thì buộc người

Nhật phải đi đến lựa chọn là mở rộng phạm vi phòng thủ.

*Diễn biến

Để đánh lừa quân Mỹ, Yamamoto đã lên kế hoạch để đồng thời chiếm giữ

Aleutians ở phía bắc Thái Bình Dương.Ngày 03/6, Hosogaya phải mở cuộc nghi

binh về phía quần đảo Aleoutienne, trong khi phần còn lại của hạm đội tập trung về

phía Midway. Ngày 04/6, các phi cơ của Nagumo phải bay là là trên đảo, ngày 05,

Kondo chiếm đảo san hô nhỏ bé có dạng chữ U này, tọa lạc ở chính giữa Thái Bình

Dương. Khi quân đội Hoa Kì tung ra cuộc phản công, các thiết giáp hạm mạnh và

nhanh của Yamamoto, nằm ngoài tầm hoạt động của các phi cơ Hoa Kỳ, sẽ cho nó

một cú ân huệ, sau khi các hàng không mẫu hạm đã hành họ nó nhừ tử. Một khi

Midway trở thành căn cứ không quân, nó sẽ dễ dàng làm thất bại các cuộc không

kích của hải quân Hoa Kỳ ở trung tâm Thái Bình Dương và vùng phía Nam. Nhật

sử dụng Midway như một bàn đạp cho cuộc xâm lấn quần đảo Hawaii [1, tr 244].

Máy giải mã của Mỹ (MAGIC) đã bắt được kế hoạch này và đội thuyền Thái

Bình Dương của quân đội Mỹ nên đã phái hai lực lượng đặc nhiệm, được thành lập

trên 3 hàng không mẫu hạm của họ đến Midway.

Lực lượng tấn công của Nhật bắt đầu giương buồm vào ngày 27/5, và vào

ngày 3/6, hai lực lượng đặc nhiệm Mỹ đã giáp mạt ở gần Midway. Sau đó, máy bay

99

trên hàng không mẫu hạm của Nhật đã tiến hành tấn công Midway, nhưng họ đã

thất bại trong việc trấn áp máy bay cất cánh từ mặt đất của quân đội Mỹ. Máy bay

của Nhật nhanh chóng được trang bị cải tiến với ngư lôi nhằm tấn công lực lượng

đặc nhiệm Mỹ. Tuy nhiên, sau nỗ lực sớm thất bại, máy bay trên hàng không mẫu

hạm Mỹ đa tìm thấy lực lượng tấn công ở Midway và tiêu diệt 3 trong số 4 hàng

không mẫu hạm Nhật ở đó. Hoạt động này diễn ra khi các chiến đấu cơ của Nhật

vẫn đang được trang bị cải tiến. 3 hàng không mẫu hạm này đã đắm vào này 5/6.

Cũng ngày 5/6, sau một cuộc do thám, quân đội Mỹ đã phát hiện vết tích của lực

lượng tấn công Nhật Bản. Ngày 7/6, quân Nhật giành được thắng lợi duy nhất, các

lực lượng tấn công đổ bộ vào Aleutians và một tàu ngầm Nhật đã đánh đắm hàng

không mẫu hạm Yorktown củ Mỹ [19, tr.400].

* Kết quả và tác động: Đánh chìm được chiếc Yorktown nhưng thiệt mất cả

bốn chiếc hàng không mẫu hạm (Akagi, Kaga, Soryu và Hiryu), 1 tàu tuần dương

hạm nặng, 6 chiếc tàu khác. Ngoài ra Nhật tổn thất 322 phi cơ mà 280 chiếc trên các

mẫu hạm mất 3.500 sinh mạng. Hoa Kỳ mất 1 tàu sân bay, 1 khu trục hạm, 147 phi

cơ và 307 sinh mạng [18, tr.180] . Như vậy, hải quân Nhật đã mất đi một phần lớn

sinh lực mà việc bù đắp khó khăn.

Các lực lượng Nhật dự trù đổ bộ lên chiếm đảo Midway phải rút lui. Vị tư

lệnh Mỹ là đô đốc Raymond A Spruance như thế đã chiến thắng rất vẻ vang và ông

không đuổi theo các chiến hạm Nhật.

Trận hải chiến Midway là trận quyệt định của trận chiến trong Thái Bình

Dương và như thế số phận của đế quốc Nhật đã không được quyết định trong vòng

của vị trí Nhật nhưng trong vòng 150 dặm cách xa Hawaii. Mọi mục tiêu chiến lược

của kế hoạch đánh chiếm Midway đã tiêu tan. Hải quân Hoàng gia đã mất đi một

quả đám thép. Người Mỹ bảo vệ được “con đê” của họ, giữa được quyền kiểm soát

Thái Bình Dương [18], [21].

Tại mặt trận châu Phi quân Đức – Ý dưới quyền tướng Rommel đã chiến

thắng tại Bir Hacheim nhưng mặc dầu ông Rommel đã tiến đến El Alamein nhưng

hai cường quốc phe Trục là Đức và Nhật không còn hy vọng gì tiến quân gặp nhau

tại Ai Cập, vùng kênh đào Suez hay Hồng Hải được vì Nhật Bản không còn hàng

100

không mẫu hạm lớn để tung hoành tại Ấn Độ Dương nữa.

Như vậy, với thất bại ở Midway, sự đe dọa của người Nhật đã không còn nữa.

Người Mỹ lập tức lấy lại quyền phát động những cuộc hành quân trên Thái Bình

Dương. Chiến thắng ở Midway cho thấy một cách tất yếu cho tính ưu việt về tinh

thần và vật chất của Hoa Kỳ. Vào năm 1943, Nhật Bản phải giải quyết dứt khoát về

sự phòng vệ của mình, đối mặt với một quốc gia năng động và trang bị tối đa, sự

phòng vệ sẽ chỉ có ý nghĩa là sự tàn phá với thời hạn không ít thì nhiều.

3.2.2. Giai đoạn 2: Quân Đồng minh phản công

3.2.2.1. Trận chiến giành quần đảo Salomons - Guadalcanal

Chiến trận ở Midway đã chặn đứng quân Nhật trong trung tâm Thái Bình

Dương và chiến trận ở biển San Hô làm thất bại cuộc tấn công của Nhật ở hải cảng

Moresby, Tân – Ghine. Trong mùa hè, Nhật cố gắng mở rộng vành đai phòng thủ

bằng cách đẩy các mũi tiến công về mỗi phía của biển San Hô, mũi này về hướng

hải cảng Moresby, còn mũi kia về hướng phía Nam của quần đảo Salomon. Đã

chiếm giữ hải cảng Tulagi, lúc đó chúng bắt đầu xây dựng một phi trường ở

Guadalcanal, phía bên kia của eo biển. Nếu thành công trong mưu đồ, quân Nhật sẽ

nắm quyền làm chủ toàn bộ trên biển San Hô, cắt đứt những con đường tiếp tế của

Hoa Kỳ về phía nước Úc, sẽ đe dọa nước này cũng như những căn cứ của Hoa Kỳ ở

Nouvelle – Caledonie và Nouvelle –Hebrides. Vì họ tin rằng đến mùa hè 1943 thì

may ra người Mỹ mới đủ sức phản công, người Mỹ mới đủ sức phản công. Người

Nhật tỏ ra không vội vã trong việc hoàn thành xây dựng sân bay này. Bằng lao động

chân tay và phương tiện cơ giới thô sơ, họ dự tính làm xong trong hai tháng [1],

[18].

Về phần mình, phe đồng minh, nếu thành công trong việc đẩy lùi quân Nhật

về phía Bắc, nắm được quyền kiểm soát Tân – Ghine và quần đảo Salomon, điều

này sẽ cho phép họ đi vòng ra phía sau quân Nhật và cô lập Rabaul và Kavieng, các

căn cứ hải quân Nhật ở quần đảo Bismarck trong khu vực Tây Nam Thái Bình

Dương.

Tại Melbourne (Úc), Bộ tư lệnh của tướng Mac Arthur chịu trách nhiệm chính

ở khu vực Tây-Nam Thái Bình Dương đã soạn thảo xong một kế hoạch phản công

101

chiến lược tại khu vực này. Phối hợp với Nimitz và xin thêm viện binh từ

Washington Mac Arthur dự định phản công theo 3 bước: bước 1: đánh chiếm căn

cứ không quân của hải quân Nhật ở Tulagi; bước 2: chiếm phần còn lại của quần

đảo Salomons và bước 3 chiếm lại New Guinea cùng căn cuws Rabaul trên đảo

New Britain.

Khi biết quân Nhật chiếm Guadalcanal và xây dựng sân bay ở đây, Mac

Arthur đã hiểu ngay ý đồ của họ. Ông quyết định đập tan ý đồ trong kế hoạch phản

công của mình. Thế là bước 1 bổ sung nhiệm vụ chiến giữ Guadalcanal và trở

thành “chiến dịch Watchtower” (Tháp canh), được Washington phê chuẩn giao cho

hạm đội Thái Bình Dương cùng các lực lượng của Mac Arthur thực hiện [18,

tr.184-185].

Chuẩn đô đốc Fletcher, người chiến thắng ở biển San Hô và Midway, được

Nimitz chọn cử làm tư lệnh chiến dịch. Dưới quyền công chuẩn đô đốc Richmond

Kelly Tuner và thiếu tướng Alexnder Vandegirft chỉ huy 17.000 thủy binh đổ bộ

chiếm đóng các mục tiêu.

Ngày 7/8 chiến dịch phản công đầu tiên của Hoa Kỳ ở Tây Nam Thái Bình

dương bắt đầu. Với sự tham gia của 82 tàu chở quân và hạm đội hộ tống, được sự

yểm trợ của 3 tàu sân bay, 1 thiết giáp hạm, 5 tuần dương hạm và 16 khu trục hạm,

đã đổ bộ quân cùng một lúc xuống Tulagi và Guadalcanal.

Cuộc đổ bộ của người Mỹ làm cho quân Nhật ở đây vô cùng bất ngờ, chạy

toán loạn. Trong đêm đó phó đô đốc Gunichi Makawa đem một hạm đội gồm 5 tuần

dương hạm nặng, 2 tuần dương hạm nhẹ và 1 khu trục xâm nhập vào giữa vùng biển

Guadalcanal và Tulagi đánh chìm 4 tuần dương hạm Mỹ, giết hại hơn 1000 người,

700 người bị thương. Hạm đội Mỹ buộc phải rút về Noumea (đảo thuộc Tân

Caledonia). Thắng lợi này đã làm cho bộ tư lệnh hành quân Nhật nhận định sai lầm

về sức mạnh của hạm đội Mỹ. Vì vậy phạm phải sai lầm này đến sai lầm khác.

Những trận hải chiến liên tục xảy ra như mong muốn vủa Yamamoto. Vị tư

lệnh hạm đội liên hợp muốn biến Gudalcanal trở thành cái mồi nhử hải quân Mỹ

đến đây để tiêu diệt. Ở đây người Mỹ đã chấp nhận giao chiến. Nhưng thất bại

thuộc về phía Nhật.

102

Tổn thất phía Mỹ: mất 2 đô đốc tài ba, 3 tàu sân bay bị hư nặng và nhiều chiến

hạm các loại khác. Trong khi đó Nhật Bản về hạm đội thì thiệt hại ít hơn Mỹ, những

về số máy bay thì bị hạ lên đến 893 chiếc [18, tr.195]. Thực sự đây là cuộc chảy

máu của con tim đối với người Nhật. Vì nền kỹ nhệ và nền sản xuất của Nhật khó

mà thay thế được những mất mát này. Không những vậy, số lượng phi công mà

người Mỹ mất cũng ít hơn, và họ sẽ sẵn sàng thay thế được những mất mát đó.

Ngược lại Nhạt mấ 2.362 phi công tài ba, được tôi rèn trong chiến thắng từ Trân

Châu cảng, Ấn Độ Dương. Và người Nhật còn lâu mới tạo ra được những con người

như vậy.

Như vậy, về mọi mặt, với thảm bại Guadalcanal, gió đã xoay chiều. Sự thuận

lợi không còn ở phía Nhật Bản nữa. Mỹ đã bắt đầu phản công và thắng lợi [18,

tr.196].

3.2.2.2. Hải chiến quần đảo Philipines

* Vị trí địa - chiến lược

Philippines bao gồm hơn 7000 đảo lớn nhỏ, trong đó có các đảo lớn, đông dân

là Luzon, Mindanao, Negros, Palawan, Mindoro, Leyte, Sebu nằm trải dài theo

hướng Bắc Nam khoảng 1.800 km. Nó là một chiếc cầu tự nhiên, tiếp cận với Đài

Loan (thuộc Nhật) và phía Nam là quần đảo Indonesia (thuộc Hà Lan) [18. Tr.117].

Quần đảo Philipines trước là thuộc địa của Tây Ban Nha. Sau cuộc chiến tranh

Mỹ - Tây Ban Nha (1898) được giải phóng nhưng vẫn phụ thuộc Hoa Kỳ về nhiều

mặt, nhất là quốc phòng, an ninh, đối ngoại. Manila, thủ phủ Philippin là nơi đặt

tổng hành dinh lực lượng Mỹ tại Viễn Đông. Đối với Mỹ đây là tấm lá chắn hình

vòng cung, che chở cho Mỹ từ xa. Giữa cánh cung Philippin và cánh cung kéo dài

từ quần đảo Aleutiennes với quần đảo Hawaii là một chuỗi căn cứ quân sự của Mỹ

đặt tại Guam, Wake, Midway… Ngay trên lãnh thổ Philippin cũng có căn cứ không

quân Clarkfild và căn cứ hải quân đặt trong vịnh Subic thuộc loại lớn nhất châu Á

với những pháo đài bay B.17, B.19 đặt tại căn cứ không quan Clark, bàn tay của Mỹ

có thể vươn tới Nam Nhật Bản, Đài Loan, Đông Dương, Nam Dương, Mã Lai..

Philippines còn là tiền đồn để người Mỹ tăng cường sức mạnh chính trị ở Viễn

Đông và kiềm chế Nhật Bản. Philippines nằm chắn ngang các tuyến đường vận

103

chuyển giữa Nhật Bản và vùng biển phía Nam. Từ Philippines mở các con đường ra

biển, tại đây hải quân Mỹ xây dựng hạm đội châu Á, sử dụng nó để chặn đoàn tàu

của Nhật, hạm đội này sẽ luôn là mối đe dọa cho tàu Nhật Bản [14], [18], [25].

Mặt khác, xét về phương diện chiến lược phòng thủ: Philippines là vòng cung

phòng ngự từ xa của bờ phía Tây lục địa Mỹ. Vòng cung thứ hai là quần đảo

Aleutian và Hawaii. Giữa hai hệ thống phòng thủ này có những đảo sân bay như

Guam, Wake, Midway. Còn trong tiến công thì Phillipines là những “tàu sân bay”

không chìm của đế quốc Mỹ. Với là pháo đài bay tân kì B.17, B.18 đậu tại sân bay

Clark thì Hoa Kỳ lúc nào cũng có thể giương nắm đấm đến tận Đài Loan, miền

Nam Nhật Bản, Đông Dương, Mã Lai, Indonesia. Tàu ngầm của Hoa Kỳ bất cứ lúc

nào cũng có thể ngăn cản, đe dọa sự qua lại bình thường ở Biển Đông và ở eo biển

Malacca, eo biển Đài Loan.

Về ý nghĩa của chiến dịch Philippine đối với người Nhật, đô đốc Toyoda đã

giải thích cho những người Mỹ thẩm vấn ông như sau:

Nếu chúng tôi thất bại trong các chiến dịch tại Philippines, cho dù hạm đội có

thể thoát được, thì con đường vận chuyển hàng hải về phía Nam cũng hoàn toàn bị

cắt đứt. Nếu hạm đội quay về vùng biển Nhật Bản, chúng không được cung cấp

dầu; còn nếu chúng ở lại vùng biển phía Nam, chúng không thể nhận tiếp liệu vũ

khí đạn dược. Không có cách nào cứu vớt được hạm đội nếu mất Philippines [38].

Với người Nhật, phải bằng mọi giá, không quân của hải quân Nhật phải quét

sạch sức mạnh của không quân Hoa Kỳ tại đây. Vì nó đe dọa cho sự an toàn của

miền Nam Nhật Bản và sự đi lại tự do của Nhật Bản về phương Nam.

Bộ tổng tư lệnh Hoa Kỳ ở Viễn Đông đặt tại đây, dưới quyền của Đại tướng

Mac Arthur. Về phía Nhật, trung tướng Masaharu Homma, người nguyên soái

Terauchi, Tổng tư lệnh chiến trường phương Nam đề cử làm tư lệnh hành quân ở

Philippines – ông là người có kinh nghiệm chiến đấu theo lối phương Tây, từng học

tám năm trong quân đội Anh và đã cũng quân Anh đổ bộ lên đất Pháp năm 1918.

Quân Nhật dưới sự tổng chỉ huy của Homma đã tiến hành những cuộc đổ bộ ở

Lingayen, Manila, Bataan và Corregidor. Tình hình nguy kịch, Tổng thống Quezon

của Phillipines và tổng tư lệnh Mac Arthur kêu gọi sự giúp đỡ tăng viện nhưng

104

không được Hoa Kỳ tiếp tục tăng viện.

Mac Arthur bị điều đi Úc, Wainright thay thế sự thất bại cuối cùng ở Bataan,

76 ngàn quân Hoa Kỳ - Phi đầu hàng. Philippines hoàn toàn rơi vào tay quân Nhật.

Sau trận Midway, mặt trời Nhật Bản bị chặn đứng, trận Guadalcanl gió đã

xoay chiều, phe Đồng minh bước vào giai đoạn phản công trên khắp chiến trường,

trên đất liền, Nhật Bản rơi vào cuộc khủng hoảng chính trị, thay đổi nội các. Trước

tình hình đó, như lời hứa danh dự của tướng Mac Arthur với Philippines, Mac

Arthur muốn trở lại.

*Sự trở lại của Hoa Kỳ

Theo quan điểm của Mac Arthur, con đường đánh bại Nhật Bản dứt khoát phải

đi qua Philippines và trận đánh ở đây có một vai trò then chốt. Do đó sau khi chiếm

xong New Guinea để làm bàn đạp, lại được chiến thắng Saipan của đô đốc Nitmitz

thôi thúc, Mac Arthur muốn tiến đánh ngay Philippines. Mặt khác, theo ông :

“Philippines là lãnh thổ thuộc Hoa Kỳ mà ở đó các lực lượng đơn độc của chính ta

đã bị đánh bại. Trên thực tế chúng ta đã không đủ khả năng giữ lời cam kết đối với

cộng đồng 17.000.000 người Philippines luôn trung thành với nước Mỹ rằng sẽ luôn

bảo vệ họ”. Nếu chúng ta vẫn không tiến hành giải phóng họ khi tay kẻ thù trong

thời gian sớm nhất có thể được, thì người Philippines sẽ tin rằng người Mỹ không

khi nào chịu hi sinh xương máu cho họ. Đó sẽ là một thất bại quan trọng về tâm lí

và chính trị đối với Hoa Kỳ trong nhiều năm sau [dẫn lại 18, tr.237].

Tuy nhiên, tại Washington ít có ai chia sẻ quan điểm của ông. Các lãnh đạo

hải quân, Bộ Tổng tham mưu lục quân đều phản đối. Họ cho rằng con đường đổ bộ

Đài Loan xong tiến đánh Okinawa là con đường ngắn nhất tiến đến Nhật Bản.

Đại tướng G.Marshall, tổng tham mưu trưởng lục quân đã nhắc nhở Mac

Arthur một cách dứt khoát rằng “không được để những cảm xúc cá nhân và những

vấn đề chính trị ở Philippines” che lấp mục đích trên hết của chiến tranh là giành

chiến thắng bằng con đường ngắn nhất. Ông cũng lí giải “bỏ qua” không có nghĩa là

“bỏ rơi” dân chúng Philippines [18, Tr.238].

Trong cuộc gặp gỡ tay ba diễn ra giữa MacArthur, Nimitz, và Tổng thống

Roosevelt đã giúp xác định Philippines là mục tiêu chiến lược. Cuối cùng việc mục

105

tiêu Philippin đã được thông qua sau khi cân nhắc việc tấn công Đài Loan đòi hỏi

phải huy động khoảng 12 sư đoàn Lục quân và Thủy quân Lục chiến, một lực lượng

vượt quá khả năng mà Mỹ có thể cung ứng được cho cả mặt trận Thái Bình Dương

vào cuối năm 1944, trong khi toàn bộ Lục quân Úc còn phải đang tiếp chiến tại

quần đảo Solomon, New Guinea, Đông Ấn thuộc Hà Lan và trên nhiều hòn đảo

khác tại Thái Bình Dương. Một điều kiện chỉ có thể đáp ứng được sau khi Đức thua

trận để có thể dành ra nhiều lực lượng hơn từ Châu Âu.

* Kế hoạch của Nhật Bản

Bộ Tổng tham mưu lục quân, hải quân Hoàng gia đã thông qua kế hoạch mang

tên “Chiến dịch Sho – Go” (Chiến thắng). Đây là kế hoạch phòng thủ từ xa đến gần.

Đoán biết chính xác được ý đồ chiến lược của Mỹ. Người Nhật dự định đánh địch

đổ bộ ở 4 khu vực: Philippines, Đài Loan – Okinawa, chính quốc Nhật Bản và quần

đảo Kurile ở phía Bắc. Phần 1 của kế hoạch này (mang tên Sho -1) chính là chiến

dịch phòng thủ Philippines được gọi là trận đánh quyết định sẽ diễn ra trên cả mặt

đất và trên biển.

Trong trận hải chiến tại Philippines có nhiều trận hải chiến xung quanh vùng

biển này. Trong đó trận chiến vịnh Leyte là trận hải chiến lớn nhất trong thế chiến II

có tác động lớn đến kết cục của cuộc chiến.

* Hải chiến vịnh Leyte

Đảo Leyte nằm giữa quần đảo Philippines, phía Đông Bắc có đảo Sammar tiếp

liền tới đảo chính, phía Nam là Mindanao, đảo lớn thứ hai. Như vậy, chiếm được

Leyte sẽ có một căn cứ trọng yếu để chống chế toàn quần đảo. Vịnh Leyte sâu kín

tiếp giáp bãi biển phía Đông đảo Leyte bằng phẳng chạy dài suốt 35 dặm rất thích

hợp với việc đổ bộ. Tuy nhiên, bên trong bãi biển đó là những ruộng lúa đàm lấy.

Phần lớn còn lại của đảo là núi non và rừng rậm gây khó khăn cho mọi hoạt động

quân sự.

Trên đảo có 1 triều dân, đa số sống bằng nghề nông. Một bộ phận người

Philippines cùng 3000 người Hoa và số ít người Âu, Mĩ, Nhật sống tại thành phố

thủ phủ Tacloban ở phía Bắc và thị trấn Dulag phía Nam Đảo. Cho đến phút cuối

cùng, sư đoàn 16 của tướng Makino trấn giữ Leyte vẫn không hay biết gì về nguy

106

cơ sắp ập lên đầu họ [18, Tr.244].

Trận hải chiến tại vịnh Leyte đã xảy ra giữa các hạm đội Nhật và Mỹ diễn ra

ngày 23-26 tháng 10 năm 1944 tại vịnh Leyte của Philippines. Trận này gồm bốn

trận đụng độ là trận biến Sibuyan ngày 24/10, trận co Eurugao 24-25 tháng 10, trận

ngoài khơi Samar (25/10) và trận ngoài khơi mũi Engano (25-26 tháng 10). Leyte

là trận hải chiến lớn nhất trong lịch sử từ xưa đến nay. Nếu như trong trận Jutland

của cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất có 151 chiến hạm Anh đánh nhau với 99

chiến hạm Đức, thì trong trận Leyte số chiến hạm tham chiến là 282 trong đó Hoa

Kỳ có 210 chiếc và Nhật Bản 64. Đây cũng là những trận hải chiến mà lần đầu tiên

máy bay Nhật Bản sử dụng chiến thuật cảm tử Kamikaze. Xét về tương quan lực

lượng tại thời điểm này, Nhật Bản rõ ràng yếu thế hơn cả về số lượng máy bay lẫn

về số lượng tàu chiến, tàu ngầm, thuyến chiến rất ít tầu hỗ trợ.

Bảng 3.1: Bảng thống kê lực lượng tham gia trận Leyte

Lực lượng tham gia Liên quân Mỹ - Nhật Bản

Úc

Tàu sân bay hạng nặng 8 8

Tàu hộ tống 18 9

Tàu chiến nhẹ 12 14

Tàu tuần dương 24 6

Tàu khu trục 141 35

Máy bay 1500 300

Nguồn: http://en.wikipedia.org/wiki/Battle_of_Leyte_Gulf

Ngày 20 tháng 10, quân Mỹ đã chiếm đảo Leyte như là một phần chiến lược

nhằm cô lập Nhật ra khỏi các quốc gia bị Nhật Bản chiếm đóng trong vùng Đông

Nam Á và chia cắt lực lượng Nhật Bản ra khỏi những nguồn cung cấp dầu mỏ chiến

lược. Hải quân Nhật Bản đã được huy động hầu như toàn bộ lực lượng có thể có

nhằm ngăn chặn cuộc đổ bộ này của quân Đồng Minh bao gồm lực lượng của hạm

107

đội 3 và hạm đội 7 của Mỹ và Úc.

Các chiến hạm Nhật chia ra ba hạm đội. Hạm đội thứ nhất dưới quyền dưới

quyền đô đốc Ozawa gồm một hàng không mẫu hạm đã dự trận Trân Châu cảng, 3

mẫu hạm nhỏ và hai thiết giáp hạm từ Nhật đến. Các phi công của hạm đội này

chưa được huấn luyện đầy đủ nên được lệnh đáp xuống các phi trường trên bộ sau

khi bay đi tấn công chiến hạm Mỹ. Nhiệm vụ của đô đốc Ozawa là dẫn dụ hạm đội

của đô đốc Halsey ra khỏi vùng vịnh Leyte và nơi đổ bộ. Trong khi ấy hạm đội

Nhật thứ hai dưới quyền đô đốc Kurita với lực lượng chính gồm 5 thiết giáp hạm

vượt eo biển San Bernando và cùng một lúc một hạm đội nhỏ khác có hai thiết giáp

hạm cũ và dưới quyền đô đốc Shima vượt eo biển Surigao ở phía Nam. Hạm đội thứ

hai và hạm đội thứ ba của Nhật tràn vào diệt các tàu Mỹ đổ bộ quân trong vịnh

Leyte như hai gọng kìm rồi sau đấy đối phó với hạm đội Halsey. Nhưng các nhược

điểm của người Nhật là thiếu không lực, liên lạc với nhau rất sút kém, thực hiện các

cuộc hành quân chậm trễ với phối hợp kém.

Trong khi ấy, các chiến hạm Mỹ được phân phối ra hai hạm đội. Hạm đội dưới

quyền đô đốc Halsey gồm 5 hàng không mẫu hạm lớn, 6 mẫu hạm nhỏ và thiết giáp

hạm chạy về hướng Bắc để chận đánh đối phương. Còn hạm đội thứ hai dưới

quyền đô đốc Kinkaid gồm thiết giáp hạm củ và 18 mẫu hạm nhẹ lo việc yểm trợ

cho cuộc đổ bộ của tướng Mac Arthur. Cả hai vị đô đốc Mỹ đều không biết rõ trách

nhiệm của nhau. Ông Halsey cho rằng ông Kinkaid vẫn giữ vị trí gần bãi biển đổ

bộ, còn ông Kinkaid lại cho rằng ông Halsey vẫn phòng thủ mặt Bắc của ông. Đô

đốc Kinkaid phá hủy được hạm đội thứ ba của Nhật trong eo biển San Bernando sau

khi bị tổn thất thiết giáp hạm Musashi bị đắm vì ngư lôi và bom. Nguyên nhân là đô

đốc Halsey không để chiến hạm nào canh phòng eo biển này trong khi ông tấn công

vào các hàng không mẫu hạm dưới quyền đô đốc Nhật Ozawa. Đô đốc Kurita đã

gặp được đa số hàng không mẫu hạm của đô đốc Halsey và ông có thể thắng lợi nếu

bình tỉnh và chỉ huy phối hợp cuộc tấn công thay vì để mọi chiến hạm tự do đánh

nhau. Ông cũng không có gan dạ xông tới tấn công vào các tàu đổ bộ trong Leyte

nữa.

Trong trận hải chiến quanh quần đảo Philippines từ sáng 22 đến sáng 26-10,

108

Mục tiêu của Nhật là hủy diệt đoàn tàu đổ bộ Mỹ đã không đạt được, hải quân Mỹ

chỉ bị thiệt hại nhẹ: 1 tàu sân bay nhẹ, 2 tàu sân bay hộ tống cỡ nhỏ và 3 khu trục

hạm bị đánh chìm. 1 tàu sân bay nhỏ và 1 khu trục hạm bị thương. Trong khi đó,

phía Nhật bị tổn thất rất nặng sau trận này họ không còn tham gia bất kỳ được cuộc

chiến nào quy mô trên biển nữa, gần như lực lượng của họ đã mất: 1 tàu sân bay

nặng, 3 tàu sân bay nhẹ, 3 thiết giáp hạm, 6 tuần dương hạm nặng, 3 tuần dương

hạm nhẹ và 10 khu trục bị đánh đắm, mất 300.000 tấn trọng tải tàu, bằng ¼ tổng

khối lượng tàu Nhật bị chìm kể từ đầu chiến tranh. Về số người chết, quân đồng

minh mất 1.500 người thì Nhật mất 10.000 người. Những tổn thất không thể bù đắp

này làm cho hải quân Hoàng gia suy yếu đến mức chỉ đóng vai trò thứ yếu trong

giai đoạn còn lại của chiến tranh [18],[35].

Sau trận này tướng Mac Arthur tiến vào miền trung Philippines, đến Mindoro

(15-12), lên đảo Luzon ngày 9-1-1945 và cắt đường giao thông giữa Nhật Bản và

vùng nguyên liệu tại Nam Á Châu.

Người Nhật muốn có một “Trận đánh quyết định” ở Phillippines, họ đã được

toại nguyện, nhưng người Nhật đã thất bại và chịu tổn thất nặng nề. Trận hải chiến

này là một đại bại của hải quân Nhật và có thể xem là trận Trafalgar của Nhật Bản.

[21, Tr.163]. Từ đó trở đi, Nhật Bản không còn khả năng tấn công bằng hải quân

nữa. Hầu như tất cả các tầu chiến, tầu chở dầu lớn của Nhật Bản không còn khả

năng ra khơi cho đến khi cuộc chiến kết thúc. Không những vậy, đây còn là một

thất bại chiến thuật: lục quân Nhật ở Philippines hết hi vọng ở sự trợ giúp của hải

quân.

Như vậy, với thất bại này, người Nhật đã không đánh đuổi được lực lượng

xâm chiếm Đồng Minh khỏi Leyte đồng nghĩa với việc mất Philippines không sao

tránh khỏi, mà điều này sẽ dẫn đến việc Nhật Bản sẽ bị cắt đứt khỏi những lãnh thổ

chiếm đóng tại Đông Nam Á. Những nơi này đang cung cấp nguồn nguyên liệu

sống còn cho Nhật Bản, đặc biệt là xăng dầu cho tàu chiến và máy bay, và vấn đề

này càng thêm trầm trọng vì các xưởng tàu và nguồn tiếp liệu khác như đạn dược

đều ở ngay tại chính quốc. Mặt khác, việc mất Leyte đã mở đường cho việc tấn

công quần đảo Ryukyu trong năm 1945.

109

3.3. Những yếu tố ảnh hưởng đến cuộc chiến tranh Thái Bình Dương

Nhận định về những thắng lợi của các bên nhà bình luận quân sự Philippe

Mason đã có những bình luận về các bên tham chiến:

Những tư liệu trong tập hồ sơ lưu trữ của Nhật Bản cho biết, trên văn bản,

cuộc chiến tranh Thái Bình Dương được phát động từ ngày 1 tháng 12 năm 1941.

Trong ngày hôm đó, Đại tướng Hideki Tojo (thay Hoàng thân Fuminaro Konoye

làm thủ tướng từ ngày 17/10/1941) đã hoàn tất mọi việc chuẩn bị, trình bày trước

nội các kế hoạch chiến lược phát động cuộc chiến tranh Thái Bình Dương, được

Hoàng đế Hirohito phê chuẩn và ấn định mở đầu cuộc tiến công vào ngày

7/12/1941.

Cùng với bản kế hoạch quân sự, tướng Tojo cũng đã nghiên cứu một kế hoạch

chính trị nhằm độc chiếm toàn bộ Đông Nam Á, loại bỏ tất cả những người da trắng

Châu Âu để xây dựng một “khối thịnh vượng chung” tạo điều kiện cho Nhật Bản

có một nền kinh tế độc, nhờ có nguồn dầu mỏ Indonexia, thiếc và nhất là cao su

Malaixia. Công cuộc bành trướng chỉ liên quan tới việc tước đoạt những quyền lợi

của Hà Lan và Anh tại các xứ thuộc địa trong khu vực mà nhất thiết phải xảy ra một

cuộc chiến tranh với Mỹ. Với vị trí chiến lược của Philippines, Mỹ có thể đe dọa

tuyến giao thông hàng hải từ Nhật Bản xuống khu vực Đông Nam Á. Chính vì vậy

bộ Tư lệnh quân sự Nhật Bản phải tính đến chuyện tiêu diệt phần lớn lực lượng chủ

yếu của Mỹ tại Trân Châu Cảng ở Hawaii bằng một cuộc tiến công bất ngờ.

Để chống lại sự phản công của Mỹ, Bộ tham mưu của Thiên hoàng cũng đã

phải tính đến chuyện tạo một vòng đai phòng thủ bao trùm Mianma, Malaixia,

Inđônêxia, New Guinea, và các quần đảo Thái Bình Dương. Những tư liệu lưu trữ

cũng ghi rõ, hồi đó Nhật Bản tin chắc rằng người lính của Thiên hoàng hơn hẳn lính

Mỹ. Phía Mỹ sẽ phải đương đầu với một cuộc chiến tranh kéo dài, hao mòn, tốn

kém và cuối cùng sẽ phải thương lượng với Nhật Bản, chấp nhận để Nhật Bản làm

bá chủ bành trướng trên toàn cõi Nam Dương. Giả thiết này được coi như có khả

năng xảy ra, vì lúc này Nhật Bản tham gia liên minh quân sự tay ba Đức – Italia –

Nhật Bản. Chiến tranh đã bùng nổ ở châu Âu, nay lại bùng nổ ở Thái Bình Dương.

Mỹ phải chiến đấu trên hai mặt trận, trong khi Nhật Bản chỉ dồn sức vào một mặt

110

trận, vì đã kí hiệp ước “trung lập, không xâm phạm lẫn nhau” với Liên Xô cũng như

đã trung lập khi Đức tiến hành đánh Liên Xô. Trên thực tế khi bị Đức thúc ép chính

quyền Nhật Bản vẫn giữ quyết định không tham chiến cùng với Đức tiến đánh Liên

Xô để chiếm đoạt những nguồn lợi kinh tế vùng Xibia, những lợi ích này không

thấm thía gì so với tài nguyên chiến lược ở Đông Nam Á. Đó là những lí do khiến

cho nội các Tojo ung dung tiến hành một cuộc chiến tranh độc lập, riêng rẽ tại châu

Á, song song với cuộc chiến tranh Mỹ, Anh phải tiến hành ở châu Âu, và cuộc

chiến tranh châu Âu càng có lợi cho Nhật Bản.

Để tiến hành thắng lợi cuộc chiến tranh chinh phục châu Á, cũng là cuộc chiến

tranh chống Mỹ và đồng minh của Mỹ, Nhật Bản dựa vào đội quân thiện chiến,

được huấn luyện chu đáo, tích lũy được nhiều kinh nghiệm trong cuộc chiến tranh

xâm lược Trung Quốc, có một tinh thần hi sinh quả cảm đặc biệt vì Thiên Hoàng.

Bên cạnh lục quân, Nhật Bản còn có một lực lượng hải quân rất đáng gờm không

thua kém lắm so với hải quân Mỹ. Hơn nữa, Nhật Bản còn có một lực lượng máy

bay của hải quân có ưu thế hơn lực lượng không quân của Mỹ và các nước đồng

minh trong khu vực Thái Bình Dương. Trước ngày tiến đánh cảng Trân Châu, Nhật

Bản có 11 tàu thiết giáp, 11 tàu sân bay, 34 tàu tuần dương, 110 tàu phóng ngư lôi,

1 250 máy bay hiện đại, trong khi Mỹ và đồng minh tại khu vực Thái Bình Dương

chỉ có 10 tàu thiết giáp, 4 tàu sân bay, 36 tàu tuần dương, 90 tàu phóng ngư lôi, 1

100 máy bay loại cũ.

Với bản kế hoạch chiến lược có vẻ hợp lý này, Bộ Thống soái tối cao Nhật

Bản vốn thiếu hiểu biết về đối phương lại quá tự tin đã không tính đến những yếu tố

bất lợi cho Nhật Bản, như tiềm năng kinh tế nhất là nguồn năng lượng dồi dào của

Mỹ, cộng với nỗ lực của nhân dân Mỹ khi phải đương đầu với một thách thức và

phải hoàn thành nhiệm vụ chống trả. Trên thực tế, mặc dù huy động suốt 3 năm

chiến tranh đến năm 1944 sản xuất công nghiệp Mỹ đã phát triển gấp 10 lần Nhật

Bản tính từ cột mốc đầu tiên năm 1941. Về mặt quân sự, quân đội Nhật Bản dù gắn

bó chặt chẽ và có ý chí quyết chiến, đến thời điểm năm 1944 vẫn thua Mỹ về mặt

hiện đại hóa. Đến lúc này thì hải quân Nhật Bản đang thụt lùi so với những ngày

đầu tiến công cảng Trân Châu và tiến đánh Mã Lai. Lực lượng máy bay đang trở

111

thành “đứa con nghèo nàn” của hải quân. Tuy được trang bị những vũ khí tối tân

nhưng ngư lôi chứa oxy và tuy có các loại máy bay khu trục mang số hiệu Zero rất

lợi hại, nhưng hải quân Nhật Bản vẫn thiếu các thiết bị do thám và dẫn đường hiện

đại như sonar, radar... Đã thế, hải quân Nhật Bản phải hoạt động trên một đại dương

rộng lớn, nhưng lại thiếu các tàu vận tải tiếp tế, thiếu các tàu hộ tống vì vậy đã bị

thua thiệt nặng.

Cuối cùng, trên lĩnh vực tình báo quân sự, việc Mỹ sử dụng những thiết bị

nghe lén và giải mã (Magic) được bức điện mật của hải quân, của Bộ chiến tranh và

Bộ ngoại giao Nhật Bản cũng đã dẫn đến nhiều tai họa cho Nhật Bản vì nhiều

phương án chiến lược bị bộc lộ trước khi thực hiện.

Từ trận Pearl Harbor đến trận Midway, do được tổ chức tốt, huấn luyện kỹ,

quân đội Nhật Bản liên tiếp thu được nhiều chiến thắng. Các thuộc địa của Anh liên

tục bị Nhật Bản chiếm lĩnh. Hồng Koong bị mất ngày 25/12/1941, Mã Lai bị chiếm

đóng đầu thắng 1/1942, pháo đài Singapoer xin hàng ngày 15/2/1942, hớn 100.000

binh sĩ bị Nhật Bản bắt làm tù binh. Đó là thất bại lớn nhất của Anh trong cuộc

chiến tranh Thái Bình Dương.

Cũng trong thời gian này Nhật Bản đã chiếm được các căn cứ quân sự của Mỹ

đặt tại đảo Wake và đảo Guam, đang tiến đánh Philippines. Sau khi chiếm được thủ

phủ Philippines là Manila ngày 24/12/1941, Nhật Bản vấp phải sự kháng cự kéo dài

của Mỹ tại bán đảo Bataan cho đến tận tháng 4/1942. Một tháng sau, đến lượt pháo

đài Corregidor, được coi là “không thể đánh chiếm” cũng xin đầu hàng Nhật Bản.

Vài tuần sau, theo lệnh của chính phủ Mỹ, Đại tướng Mỹ Mac Arthur phải rút khỏi

phần đất còn lại ở Philippines sau khi tuyên bố “Hẹn gặp lại”.

Sau trận hải chiến trong vùng biển Java từ 28 đến 29/2/1942 trong đó Nhật

Bản tiêu diệt toàn bộ một hạm đội Đồng minh gồm các tàu tuần dương Hà Lan,

Anh, Mỹ, quân đội Nhật Bản tiếp tục mở nhiều cuộc tiến công xâm chiếm

Indonexia. Ngày 5/3, Nhật Bản chiếm được Batavia. Bốn ngày sau, toàn bộ quân

đội Hà Lan trên lãnh thổ Indonexia, đông tới 80.000 binh sĩ, xin đầu hàng Nhật

Bản. Lực lượng Nhật BẢn, sau khi đã chiếm lĩnh Rabaul và quần đảo Salomon đổ

bộ lên New Guinea, uy hiếp vùng bờ biển Bắc Australia.

112

Trong khi đó quân đội Nhật Bản cũng hoàn thành việc chiếm đóng Myanma.

Đến tháng 4/1942, một hạm đội mạnh của Nhật Bản, gồm 5 tàu sân bay và 4 tàu

thiết giáp tiến vào Ấn Độ Dương, ném bom bắn phá Sri Lanka, Colombo,

Trincomalee, tiêu diệt 2 tàu tuần dương hạng nặng và 1 tàu sân bay của Anh. Số tàu

còn lại của Anh phải di tản sang tận vùng biển miền Đông Châu Phi thuộc Anh.

Như vậy là, đến tháng 4/1942, Nhật Bản đã chiếm được tất cả các mục tiêu

chiến lược từ Myanmar đến tận New Guinea. Nhật Bản đã tiêu diệt được toàn bộ

lực lượng đồng minh trong khu vực Viễn Đông, bắt giữ được hơn 300.000 tù binh.

Những mục tiêu chiến lược này đã được đánh chiếm với tổn thất đặc biệt rất ít của

Nhật Bản. Quân đội Thiên hoàng chỉ mất 15.000 binh sĩ, 400 máy bay, 5 tàu phóng

lôi, 12 tàu ngầm, trong khi chính phương án tác chiến của Nhật Bản sự trù phải hy

sịnh tới 1/3 lực lượng hải quân” [dẫn lại theo 14, tr.122-127].

Với thắng lợi nhanh chóng của người Nhật trong giai đoạn đầu của cuộc chiến

Phillipin Masson nhận xét:

Sỡ sĩ Nhật Bản đạt được những thắng lợi to lớn như vậy là do có một đạo

quân tinh nhuệ, tinh thần chiến đấu đặc biệt dũng cảm của người lính, tính chủ

động trong các hoạt động chiến đấu phối hợp giữa lục quân và hải quân, hệ

thống liên lạc chỉ huy tuyệt vời giữa lục quân, hải quân và các máy bay của

lục quân, hải quân. Trong khi đó, suốt giai đoạn bi thảm kéo dài của cuộc

chiến này, hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ do đô đốc Nimitz chỉ huy chỉ có

thể tiến hành ném bom, bắn phá bằng các máy bay đậu trên các tàu sân bay ở

phần phía Đông chiến trường, từ các đảo Marshall, Gilbert, Wake, New

Guinea. Hành động phản kích gây ấn tượng nhất của Mỹ là trận ném bom

bằng máy bay xuất phát từ tàu sân bay xuống thủ phủ Tokyo, nhưng sau đó

đội máy bay này đã không đủ chất đốt để quay trở lại tàu sân bay, đành phải

hạ cánh khẩn cấp xuống vùng đất Trung Quốc bị Nhật Bản chiếm đóng, toàn

thể các đội phi hành cũng như đội máy bay ném bom đều bị Nhật bắt giữ [dẫn

theo 14, tr.127].

Tuy nhiên, đến tháng 3.1942 Bộ chỉ huy tối cao của Nhật Bản đã bộc lộ một

số thiếu sót về chỉ đạo chiến lược. Ngay trong trận đầu tiên đánh phá Pearl Harbor,

113

đô đốc Yamamoto, tư lệnh hạm đội liên hợp đã phạm phải một sai lầm là đánh vào

mục tiêu có những căn cứ bố trí phân tán, các tàu sân bay Mỹ ngày hôm đó lại

không có mặt tại Pearl Harbor nên không bị tiêu diệt. Trận Pearl Harbor còn phạm

sai lầm về mặt chính trị. Do tiến công Mỹ quá sớm nên trận tiến công này cũng làm

tiêu tan sớm những tư tưởng muốn giữ thái độ “trung lập” của Mỹ, thúc đẩy chính

phủ và nhân dân Mỹ từ bỏ chủ trương biệt lập, tuyên chiến với Nhật Bản và tiến

hành cuộc chiến cho tới khi Nhật Bản bị đánh bại.

Tiếp đó, Yamamoto còn phạm sai lầm ở chỗ nghĩ rằng nếu chiếm được

Midway sẽ trực tiếp uy hiếp quần đảo Hawaii và đẩy xa thêm vành đanh phòng thủ

của Nhật Bản. Đảo Midway chính là nơi Mỹ tập trung 4 tàu sân bay từ Hawaii về

đó sau khi Nhật Bản tiến công Pearl Harbor. Đô đốc Yamamoto đã huy động hầu

như toàn bộ lực lượng chủ lực của hải quân Nhật Bản vào canh bạc Midway, hi

vọng nếu chiếm được đảo San hô của tâm chiến lược này, Mỹ sẽ phải xin thương

lượng ngừng bắn chấp nhận cho Nhật Bản làm bá chủ khu vực Viễn Đông. Chính

xuất phát từ nhận định, tính toán sai lầm này, kế hoạch tác chiến Yamamoto đã dẫn

đến một thất bại nặng, hậu quả của những thiếu sót trong điều hành chiến đấu.

Đầu tháng 5 năm 1942, việc đánh chiếm quân cảng Moresby ở New Guinea đã

dẫn đến trận hải chiến trong vùng biển San hô. Đây là trận đầu tiên Nhật Bản đưa

hạm đội ra xa “ngoài phía chân trời” quá tầm với của lực lượng không quân trên đất

liền, chỉ có thể yểm trợ bằng các máy bay trên tàu sân bay. Mặc dù thu được thắng

lợi về chiến thuật, chỉ có một tàu sân bay nhỏ trong khi Mỹ bị mất một thất bại

nghiệm trọng về chiến lược. Bộ tư lệnh hạm đội Nhật Bản đã phải bỏ kế hoạch đổ

bộ đánh chiếm quân cảng Moreby sau khi hai tàu chiến lớn nhất của hạm đội bị hư

hỏng nặng cần phải có thời gian sửa chữa.

Mặc dù vậy, khi tiến đánh Midway, đô đốc Nhật Bản Yamamoto còn chia lực

lượng tiến công làm hai bộ phận, tiến đánh quần đảo Aleutian ở phía Bắc và đảo

Midway ở phía Nam, cách xa nhau trong cùng một thời gian. Lực lượng tiến đánh

Aleutian chiếm được hai đảo nhỏ Kiska và Attu trong hai ngày 7 và 8 tháng 6 năm

1942. Nhưng lực lượng tiến đánh Midway trong cuộc hành quân xuống phía Nam

đã tách bộ phận đi đầu gồm các tàu sân bay quá xa đại bộ phận phía sau những 300

114

hải lý, khiến cho bộ phận phía sau không thể nào theo kịp bộ phận phía trước dù mở

hết tốc độ. Chính vì vậy, Nhật Bản đã tự chuộc lấy thật bại nặng, bị mất tới 4 tàu

sân bay. Mỹ chỉ mất có 1 tàu sân bay.

Giữa lúc Đức và Italia đang còn thu được nhiều chiến thắng tại Bắc Phi và

Liên Xô, trận hải chiến Midway được coi là chiến thắng đầu tiên của Đồng minh và

tạo một bước ngoạt lớn trong chiến tranh Thái Binh Dương. Phía Mỹ đã lập được

thế quân bình trong lực lượng so sánh với Nhật Bản, và đã có thể tập trung lực

lượng trên chiến trường Châu Âu, dồn sức “đánh thắng Đức trước tiên” như đã

thống nhất với Đồng minh trong hội nghị Arcadie.

Sau trận Midway, chiến tranh Thái Bình Dương chuyển sang giai đoạn hai,

giai đoạn tiêu hao lực lược giữa các bên tham chiến. Về phía Nhật Bản, bộ tư lệnh

hạm đội liên hợp của đô đốc Yamamoto tập trung phần lớn lực lượng tại đảo Truk

trong khi chờ đợi thành lập lại đội tàu sân bay với những chiếc tàu mới, đang đưa

xuống nước. Cũng trong lúc đó, bộ thống soái tối cao Nhật Bản cũng quyết định

hoàn tất chiến dịch đổ bộ đánh chiếm New Guinea và quần đảo Salomon. Với quyết

định chiến lược này, Nhật Bản đổ bộ lên Guadalcanal và vấp phải cuộc kháng cự

quyết liệt của Mỹ trên qui mô lớn. Ngày 7/8/1942, bộ tư lệnh Mỹ cũng đổ vộ 2000

quân lên Guadalcanal tỏ rõ quyết tâm ngăn chặn Nhật Bản ngay trên tuyến đầu bảo

vệ vùng bờ biển Bắc Australia. Suốt 5 tháng liền Mỹ và Nhật Bản tổ chức những

cuộc giao tranh gành đi giật lại đảo, song song với những cuọc hải chiến và những

cuộc đọ sức bằng máy bay hải quân trên vùng trời Guadalcanal.

Để tiếp tế, tăng viện cho lực lượng bộ binh và lính thủy bộ đang giao tranh

kịch liệt cả Mỹ lẫn Nhật Bản đều tổ chức những đợt hành quân tiếp viện, xuất phát

từ các bến cảng Rabaul và Espiritu Santo. Cuộc tiến công và bảo vệ các đoàn tàu

vận tải của cả hai bên đã dẫn đến nhiều trận “ngộ chiến”, bắt gặp vào giao chiến với

nhau ở giữa đoạn đường thường xảy ra trong đêm tối, như các trận đụng độ lẫn

nhau tại Savo, Salomon, Santa Cruz, Guadalcanal, Tassafaronga…cả hai bên đều

gặp nhiều tổn thất tương đương nhau. Nhưng cuối cùng, đến đầu 2/1943 Nhật Bản

do quá mệt mỏi đã phải tự mình rút khỏi Guadacanal.

Cuộc rút quân đầu tiên tại một vị trí chiến lược này sau cuộc chiến tranh đã

115

được tiết lộ trong tập hồ sơ mật là do thiếu trang thiết bị không đưa đến kịp, thiếu

cơ sở y tế hậu cần và cũng do bộ thống soái tối cao Nhật Bản muốn bảo tồn lực

lượng hải quân để còn sử dụng lâu dài về sau, trong khi phía Mỹ nhờ có hậu phương

đang nỗ lực cao đọ, sản xuất các phương tiện chiến tranh tiếp ứng, vẫn lao gần hết

các lực lượng máy bay, tàu chiến ở Thái Bình Dương vào trận giành giật lại

Guadalcanal.

Trước những thắng lợi vừa đạt được, Tổng tư lệnh Thái Bình Dương Mac

Arthur và đô đốc tư lệnh hạm đội Thái Bình Dương Nimitz, quyết định tiến lên

giành lại Salomon. Tuy nhiên, chiến dịch tái chiến này đã phải tiến hành khó khăn

và chậm chạp. Mở đầu bằng những cuộc đổ bộ lên Rendova, Vela Lavella,

Choiseul, Bougainville mãi đến năm 1943 mới kết thúc. Đối với Mỹ, một loạt

những cuộc chiến đấu này đã giúp cho hải quân, rút kinh nghiệm, hoàn thiện kỹ

thuật đổ bộ, thủ nghiệm các thiệt bị, phương tiện mới đồng thời tiếp tục làm tiêu

hao lực lượng máy bay của hải quân Nhật Bản. [dẫn theo 14, tr.128-132].

Mặt khác, cuộc chiến ở Thái Bình Dương còn bị ảnh hưởng bởi sức mạnh vật

chất của người Mỹ.

Vào khoảng năm 1943, Hoa Kỳ đã gần hoàn thành hạm đội cho hai đại dương.

Các lực lượng chính của hạm đội này bao gồm:

1. Một đơn vị tấn công với 26 hàng không mẫu hạm chạy nhanh và được hạ

thủy từ trận Trân Châu Cảng cho đến cuối chiến tranh và 8 thiết giáp hạm mới để

dành quyền bá chủ trên mặt biển, hướng dẫn các cuộc tấn công ban đầu của phi cơ

và cô lập khu vực bị tấn công.

2. Một đoàn gồm các thiết giáp hạm và mẫu hạm hộ tống – độ 114 chiếc loại

này được hạ thủy – để cung cấp cho các lực lượng đổ bộ hỏa lực yểm trợ và không

lực yểm trợ.

3. Một số lớn tuần dương hạm 48 tàu, 850 khu trục hộ tống, 203 tàu ngầm và

2703 tàu gài mìn, gở mìn hay tuần tiểu.

4. Một đoàn tàu gồm 1541 chiếc phụ trách việc tiếp vận mọi thứ cần dùng và

vừa là một căn cứ lưu động để sửa chữa các chiến hạm bị hư hại. Đoàn tàu này bằng

cả hạm đội tiền chiến Mỹ.

116

5. Các tiểu đoàn công binh gọi là Ong biển (Sea Bees) chuyên về các công tác

như sửa chữa các phi trường chiếm được của địch để sử dụng phi cơ đáp trên bộ và

để như thế hàng không mẫu hạm có thể đến hành quân tại các nơi khác.

6. Một số rất lớn là 105-398 tàu đổ bộ.

Ngoài ra hạm đội hai địa dương này cũng có phiều phi cơ đậu trên đất liền để

giúp cho lục quân mở các cuộc phản công có tính cách quyết định và buộc Nhật

Bản phải đầu hàng 14 tháng sau vụ đổ bộ lên đảo Saipan chỉ cách Đông Kinh 1585

dặm về phía Nam trong các đảo Marianas gần Guam trong tháng 6 năm 1944 [21,

tr.153-155].

Trong khi đó phía Nhật Bản gặp những khó khăn: 55% ngân khoản hải quân

được dùng để chế tạo phi cơ và phần lớn của 16% ngân khoản để thay thế những

chiếc bị đánh đắm trong năm 1942. Trong 1942 -1943 người Nhật chỉ hoàn thành

được chín hàng không mẫu hạm. Trong số này chỉ có hai hàng không mẫu hạm

thuộc hạm lớn mà thôi. Hải quân Nhật dự trù đóng xong 9 hàng không mẫu hạm lớn

và một chiếc nhỏ trong năm 1944 nên người Mỹ hy vọng buộc Nhật phải tham

chiến trước khi các hàng không mẫu hạm mới được hoàn thành và sẵn sàng. Các

mẫu hạm này sẽ được sự yểm trợ của các phi trường trên các đảo tại miền Trung và

Tây Nam Thái Bình Dương. Tuy nhiên, sự phòng thủ tại các đảo này không được

tiến hành khả quan vì người Nhật thiếu tàu, máy bay, và số vật liệu cũng như binh sĩ

chở đến tăng cường đều bị đánh đắm nhiều. Cường độ của sự phản công của người

Mỹ làm cho quân đội Nhật ngạc nhiên. Trên đảo Saipan khi cuộc tấn công của quân

lực Mỹ bắt đầu, người Nhật chưa xây xong các công sự phòng thủ. Tại đảo này

Nhật có 32 nghìn quân sĩ tức gấp đôi số dự đoán của Hoa Kỳ. Trong tháng 9-1944,

sức sản xuất cho chiến tranh của Nhật đạt mức tối đa, sau Đức hai tháng, nhưng

Nhật không thể nào theo kịp được Hoa Kỳ dầu chỉ kể mặt trận Thái Bình Dương mà

thôi. Trong tháng 1-1943 sau trận đánh tại Guadalcanal và Papua các lực lượng lục

quân và không quân của Nhật và Hoa Kỳ tương đương với nhau. Nhưng chỉ một

năm sau Hoa Kỳ có lực lượng gấp 3 lần người Nhật [21, tr 155 –tr156].

Mặt khác, lúc bấy giờ Nhật Bản xảy ra nạn khủng hoảng về thương thuyền,

thiếu tàu và nhất là quá nhiều tàu tiếp vận bị chiến hạm Mỹ nhất là tàu ngầm đánh

117

đắm. Các kho dữ trữ nguyên liệu cũng hao mòn dần và chính ngay trên lãnh thổ

Nhật bị không quân Mỹ oanh tạc.

Các chiến thắng giòn giã của Hoa Kỳ khiến cho Bộ tổng tham mưu quân lực

Hoàng gia phải duyệt xét toàn bộ đường lối điều hành và khả năng sản xuất của

guồng máy chiến tranh Nhật. Từ con số sản xuất 15.300 máy bay trong năm 1943,

hỏi cung ứng 26.000 chiếc7F làm sao có thể sản xuất 45.000 máy bay trong năm 1944 mà riêng hải quân đã đòi 8. Đó là chỉ riêng về máy bay mà thôi, còn thuốc men,

quân trang, quân dụng ngày càng thiếu. Sản xuất không đủ, mà đến tận tay binh lính

lại càng thiếu hơn vì cuộc chiến tranh tàu ngầm của Mỹ đánh chìm mọi tàu Nhật đi

trên biển. Cuối cùng, số lượng tàu bè mà các cơ sở đóng tàu hạ thủy không thay thế

được số bị chìm [18, tr.233-234].

Sau nhiều thất bại trên chiến trường thì chính trong nội các Nhật cũng diễn ra

nhiều thay đổi. Thủ tướng Tojo trở thành đối tượng mà nhiều người đặt nghi vấn,

nhiều người cho rằng Tojo muốn trở thành một nhà độc tài. Ngày 21-02 khi Tổng

tham mưu trưởng lục quân, nguyên soái Sugiyama từ chức và ông ta năm luôn chức

này. Trước hành động đó nhiều người đã phản ứng mãnh mẽ. Ngày 17-7, Thủ tưởng

Tojo cách chức Bộ trưởng hải quân của đô đốc Shimada mới Yonai lên thay thế

nhưng bị từ chối. Trước tình cảnh đó, ngày 18-7, Tojo bệ kiến Thiên hoàng xin từ

chức. Người Nhật rơi vào tình trạng khủng hoảng sâu sắc. Người ta bắt đầu tìm

8 Số lượng máy bay thực sử sản xuất được của hai nước Nhật, Mĩ (đơn vị: chiếc) 1942 1943 1944 Nhật 8.000 15.300 28.200 Mĩ 47.859 86.000 96.370

kiếm con đường rút lui.

118

Tiểu kết chương 3

Cuộc chiến Thái Bình Dương là cuộc chiến mà các bên đã tháy nhau mắc

những sai lầm. Như đô đốc Ugaki nói rằng: “chiến tranh là một chuỗi sai lầm mà cả

hai bên đều phạm phải. Chiến thắng về với kẻ nào ít phạm lỗi nhất” [dẫn theo 18,

tr.183].

Ban đầu, quân của Hoàng gia Nhật Bản đã có được những thành công liên tục

theo sau trận đánh Trân Châu cảng, gây nên những bất ngờ không kém những gì mà

quân Đức đã tọ ra trong năm đầu tiên của cuộc chiến. Thất bại của quân Đồng Minh

có thể thấy đó là do thái độ xem thường đối phương. Họ xem thường chính cách tổ

chức binh lực chiến đấu và vũ khí trang bị của quân Nhật. Vì họ quên rằng những

con người mang dòng máu võ sĩ đạo tham gia vào cuộc chiến này với sự lỳ lợm và

kinh nghệ dồi dào sau cuộc chiến với Trung Quốc, cũng như những lần giao tranh

với Liên Xô. So với quân đội Đồng minh, lính Nhật vô cùng gan dạ va có thể sống

sót với nhu cầu tiếp tế từ hậu cần ít hơn nhiều so với địch. Khả năng điều động quân

đội với những đội hình không rỗi loạn. Quân Nhật khi tham gia vào cuộc chiến với

lực lượng không quân vượt trội yếu tố được xem là quan trọng nhất lúc bấy giờ.

Tuy nhiên, Bộ chỉ huy Nhật cũng gặp phải nhiều sai lầm khi họ đạt được

những thành công dường như hơi dễ dàng. Họ đã không tuỏng tượng được sức

mạnh của quân đội Đồng minh đứng đầu ở Thái Binh Dương là Mỹ. Đã đánh giá

thấp sự phục hồi của hạm đội Thái Bình Dương cũng như khả năng cung ứng của

nền kinh tế quốc phòng người Mỹ cho cuộc chiến. Bước vào cuộc chiến không có

được một sự chuẩn bị tốt nhất về vật chất cũng như tinh thần. Nhưng người Mỹ đã

nhanh chóng nhập cuộc. Đặc biệt châu Mỹ đã có những thần kỳ trong ngành sản

xuất đóng tau, tiềm lực của họ đủ để thay thế kịp thời những tổn thất.

Mặt khác, sự thất bại của quân Nhật trên Thái Bình Dương còn là sự thất bại

về chiến thuật bời những sai lầm nối tiếp sai lầm khi nhận định sai tình huống. Sự

thất bại này còn thể hiện sự thua kém của nền kỹ nghệ của của Nhật Bản so với Hoa

Kỳ. Trong khi đó, trên đại dương mênh mông này quân Nhật đã dàn trận quá rộng,

quá phân tán, dẫn đến không thế phối hợp được nhịp nhàng, không đủ sức để giữ

những vùng đất mà họ chiếm được.

119

KẾT LUẬN

Đại dương bao phủ 70 % diện tích địa cầu – nơi mà đủ lại tàu bè vận chuyển

85% nguyên liệu tối cần cho hầu hết các quốc gia trên thế giới. Chính vì lẽ đó, trong

lịch sử chiến tranh từ thế kỷ XIX về trước, sự thắng – bại thường được quyết định

phần lớn qua các trận hải chiến ác liệt trên các đại dương trập trung sóng lượn.

Như đã trình bày trong chương 1, thế kỉ XX là thế kỷ địa chính trị. Các tư

tưởng địa chính trị của các nước ra đời, được phát triển mạnh mẽ dựa trên những

chính sách quốc gia, chiến lược quốc phòng an ninh của mỗi nước. Cuộc chiến

tranh thế giới thứ nhất kết thúc, thế giới tồn tại dưới hệ thống Versailles –

Washington. Những nội dung của nó không đến nối quá trừng phạt các nước bại

trận nhưng nó cũng đã nung nấu những thù oán dân tộc đặc biệt là nước Đức. Với

bối cảnh đó thì địa chính trị như một lời giải thích, một lý do cho sự bành trướng

của các nước Phát xít hóa bộ máy nhà nước.

Người Đức gây chiến để mở rộng không gian sinh tồn của họ, kiểm soát vùng

đất trái tim ở châu Âu. Trước sức mạnh của Đức, sự dung dưỡng của Anh, Pháp

quân đội Hitler đã giành những thắng lợi chớp nhoáng thu phục toàn lục địa châu

Âu.

Để ngăn chặn việc người Đức kiểm soát lục địa châu Âu – vùng đất trái tim thì

người Mỹ đã dần dần giúp đỡ người Anh. Cuộc chiến tranh thế giới thứ hai đã cho

thấy sự liên minh của các quốc gia biển và đất liền.

Ở châu Á – Thái Bình Dương, trong tư tưởng địa chính trị người Nhật luôn coi

mình là anh cả da vang, có sứ mệnh khai hóa Đông Nam Á ý đồ thành lập một khối

thịnh vượng Đông Á do Nhật Bản đứng đầu.

Với vị trí đảo quốc, lãnh thổ nhỏ hẹp, chủ yếu đảo, tài nguyên thiên nhiên đặc

biệt là nguồn dầu mỏ, sắt không tự đáp ứng được cho nền công nghiệp quân sự.

Người Nhật đã sớm dòm ngó đến Mãn Châu, Trung Quốc, các nước Đông Nam Á.

Tuy vậy, trong ý đồ của Nhật có rào cản lớn là Hoa Kỳ, lại thêm người Mỹ có trách

nhiệm với Phillpines một nước vừa giàu dầu mỏ vừa chiếm một vị trí chiến lược

đặc biệt quan trọng là đe dọa an ninh của lãnh thổ Nhật Bản, sự thông thương tự do

của nền thương mại hàng hải của Nhật. Đồng thời như một cửa ngõ chặn con đường

120

về phương Nam của Đế chế Nhật. Hơn ai hết, phe quân sự hóa muốn phá được rào

cản đó.

Vận dụng tư tưởng của nhà chiến lược Mahan là đánh trận quyết định vào hạm

đội của địch. Với những kinh nghiệm nóng hổi ở Địa Trung Hải người Nhật đã tấn

công một đòn bất ngờ vào Hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ đang neo đậu ở

Hawaii. Với mục đích chính là tiêu diệt hạm đội chủ lực của họ. Tuy nhiên theo như

những đánh giá của nhà lịch sử quân sự Mỹ: đó là một điều khó tin, là ngu ngốc.

Mặc dù, người Nhật cũng đã có những thành tựu lớn khi giáng cho Hạm đội này

một đòn không có thể gượng dậy được thì có ý kiến cho rằng đây không phải là

thắng lợi hoàn toàn.

Trong thế chiến thứ hai, chiến trường trên biển là nơi diễn ra cuộc chiến khốc

liệt nhất. Những trận chiến này mặc dù không là nơi trực tiếp kết thúc cuộc chiến

tranh nhưng với những kết quả đạt được có thể thấy nó đóng vai trò quyết định ở

trên các mặt trận Đại Tây Dương, Địa Trung Hải và Thái Bình Dương. Nếu như

trận chiến trên Đại Tây Dương và Địa Trung Hải thắng lợi của quân đội Đồng minh

đã đảm bảo cho việc tiếp tế hàng hóa vào Anh Quốc và các chiến trường lân cận,

tránh nguy cơ tàn lụy của nền kinh tế Anh. Cuộc chiến này cũng đã tạo điều kiện

cho quân đội Đồng minh đổ bộ thành công lên các bến cảng, mở mặt trận thứ hai.

Thì ở Thái Bình Dương là cuộc chiến của quân đội đồng minh mà điển hình là Mỹ

để chống lại sự bành trướng, chọc thủng vành đai phòng thủ của người Nhật, chặn

đứng con đường xuống phía Nam của người Nhật. Cuộc chiến làm tàn lụy dần nước

Nhật về cả vật chất và tinh thần. Xét đến yếu tố để đảm bảo cho cuộc chiến thì

những trận đánh trên biển là quyết định. Chứ không phải là trận đánh của Liên Xô

tiêu diệt 1 vạn quân Quan Đông.

Cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai kết thúc với sự thắng lợi của quân đồng

minh. Những trận chiến ở đại dương đã cho phép chúng ta thấy rõ được sức mạnh

của nền sản xuất, kỹ nghệ của mỗi quốc gia. Trong giai đoạn đầu của cuộc chiến

trên Đại Tây Dương, người Đức với chiến thuật “bầy sói” đã làm chao đảo Anh

quốc mặc dù bằng những tài liệu mà tác giả có được thì Hitler muốn thương lượng

với Churchill để nhằm rảnh rang ở châu Âu chứ không thực sự muốn đánh lên đảo

121

quốc này. Tuy nhiên, Anh quốc bước vào cuộc chiến trên đại dương không được sự

hậu thuẫn của nền sản xuất công nghiệp vật chất. May mắn thay sự thiếu hụt đó đã

được sự bù đắp của Hoa Kỳ. Ở giai đoạn sau, với sự gia tăng của đội tàu hộ tống,

phát triển của nền kỹ nghệ sản xuất radar, máy dò tàu ngầm siêu âm thì Anh quốc

đã dần khống chế được giao thông trên biển, vô hiệu hóa chiến thuật bầy sói của hệ

thống tàu ngầm Đức, tiêu diệt Bismark biểu tượng của nền hàng hải Đức. Ở Thái

Bình Dương, bằng sự chuẩn bị chu đáo về vật chất và tinh thần hải quân Hoàng gia

Nhật đã giành những thắng lợi liên tiếp, mở rộng vành đai phòng thủ lên đến 35.000 km2 . Nếu như trong trận Trân Châu cảng, Hoa Kỳ không ngờ đến được sức mạnh,

lợi ích của tàu sân bay, của khả năng phóng ngư lôi của Nhật Bản. Thì ngay sau đó,

người Nhật đã chủ quan, đánh giá không đúng khả năng phục hồi của hạm đội Thái

Bình Dương, sức mạnh của nền sản xuất vật chất Mỹ. Hoàng gia Nhật có những

thủy phi cơ cảm tử tuy nhiên số mà người Nhật dày công đào tạo ra đã không đủ,

kịp cho cuộc chiến. Thiệt hại của người Nhật không gì có thể bù đáp nổi. Đến năm

1942, người Mỹ đã hoàn thành hạm đội 2 đại dương, sức sản xuất gấp 3 lần Nhật

Bản. Nền công ghệ kỹ thuật tiên tiến, hiện đại. Nếu như người Nhật phải lò dò trong

đêm, việc liên lạc giữa các đoàn rất khó khăn thì người Mỹ nhờ vào hệ thống thông

tin liên lạc đã phối hợp nhịp nhàng, nhờ vào hệ thống giải mã thần kỳ “Magic” biết

được chính xác kế hoạch tác chiến của địch. Một lần nữa thắng lợi thuộc về những

quốc gia hàng hải lâu đời, của sức mạnh của nền tiềm lực kinh tế quân sự, sức sản

xuất, nội lực là người Anh và người Mỹ.

Các lực lượng hải quân trong Chiến tranh thế giới thứ II vẫn theo đuổi các

mục tiêu truyền thống, trong đó, hai mục tiêu tối thượng nhất là giành được ưu thế

vượt trội về sức mạnh hải quân, cồn với việc làm sao để đánh phá thuyền vận tải

của quân địch. Trong cả hai trường hợp điểm khác biệt so với những cuộc chiến

trước đây chính là vai trò của không lực hải quân. Cuộc chiến tranh thế giới II, một

lần nữa đã cho thấy vai trò của phi cơ, các hàng không mẫu hạm - tàu sân bay: các

trận hải chiến lớn nhất không chỉ là sự giao tranh giữa các chiến thuyền, các hạm

đội đối nghịch nữa, mặc dù mới ra đời được trên chục năm, phi cơ đã sớm góp mặt

trên các trận đánh lớn, không riêng trên đất liền mà ở cả ngoài biển khơi, trong

122

những cuộc hành quân độc lập.

Những thành tích, chiến công của các Phi đội không lực Hải quân ở cả hai phe

Đức – Nhật và Đồng minh trong mấy năm đầu Thế chiến thứ 2 đã cho thấy rõ ràng

là khi không có cái dù của lực lượng phi cơ hải vận và của không quân – nói chung

– thì ngay cả những thiết giáp khổng lồ lẫn các hàng không mẫu hạm trên dưới

40.000 tấn cũng chỉ là những miếng mồi ngon cho các phi cơ oanh tác và phong lôi

đủ loại. Trong thế chiến II, vai trò chủ yếu trong hạm đội và rồi trên đại dương đã

chuyển từ các thiết giáp hạm sang hàng không mẫu hạm. Trở thành những quân chủ

bài trong các trận hải không chiến có tính cách quyết định trên Thái Bình Dương

trong thế chiến thứ hai [10].

Những trận hải chiến quyết liệt từ năm 1941 – 1943 trên chiến trường Đại Tây

Dương và Thái Bình Dương đã cho thấy là “ngón đòn sát thủ” không còn là của các

Thiết giáp hạm – với khả năng phóng non hàng chục tấn thuốc nổ đi xa gần 40 km

mà là của các Hàng không mẫu hạm có khả năng phóng từ 50 đến 60 phi có đi đánh

các mục tiêu ở xa hàng ngàn kilomets bất kể là ở trên đất liền, trên mặt biển hay

dưới mặt biển và với những hiệu quả “kinh thiên động địa”. Phi cơ hải vận đã thay

thế cho trọng pháo chiến hạm trong các trận hải chiến quyết định và đã đưa hàng

không mẫu hạm lên chiếm ngôi bá chủ đại dương [9].

Cuộc chiến tranh trên biển dần dần trở thành một vấn đề về lòng dũng cảm và

tính kiên trì, nhưng cũng là một vấn đề về sản xuất, khoa học, và cả chiến thuật.

123

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng Việt

1. Abraham Rothberg (2009), Lịch sử sống động của đệ nhị thế chiến, ng.d Nguyễn

Quốc Dũng, Nxb Từ điển bách khoa.

2. Bộ quốc phòng (2004), Từ điển bách khoa quân sự Việt Nam, Nxb Quân đội

nhân dân.

3. Zbigniew Brzezinski (1999), Bàn cờ lớn, ng.d Lê Phương Thúy, Nxb Chính trị

quốc gia, Hà Nội.

4. Nguyễn Văn Dân (2012), Địa chính trị trong chiến lược và chính sách phát triển

quốc gia, Nxb Khoa học xã hội.

5. Joseph E. Persico (2009), Cuộc chiến bí mật của Roosevelt: FDR & Hoạt động

gián điệp trong thế chiến thứ 2, ng.d Nguyễn Kim Dân, Nxb.Khoa học xã hội.

6. Nguyễn Quốc Hùng (2005), Sự thất bại của quân phiệt Nhật trong chiến tranh

thế giới thứ 2, Nxb. Chính trị quốc gia.

7. Lê Phụng Hoàng (2004), Franklin D.Roosevelt tiểu sử chính trị, Nxb ĐHSP. Tp.

HCM.

8. Khoa học phổ thông (1989), “Cải tiến kỹ thuật và chiến thuật những năm giữa

hai thế chiến”, Vũ khí trên biển và những tiến bộ kỹ thuật hiện đại, 4-1989 (6),

tr.6-8..

9. Khoa học phổ thông (1989), “Cái chết của đại kình ngư”, tạp chí khoa học phổ

thông, 4-1989 (6), tr.9-15.

10. Khoa học phổ thông (1989), “Cánh tay nối dài của hạm đội không lực trên đại

dương”, tạp chí khoa học phổ thông, 4-1989 (6), tr.19-20.

11. Khoa học phổ thông (1989), “Nhận diện chiến hạm” (1989), tạp chí khoa học

phổ thông, 4-1989 (6), tr.16-18.

12. Vũ Văn Lê (1967), Danh từ quân sự Anh-Việt, Nxb Đại học Vạn Hạnh, Sài

Gòn.

13. Alfred Thayer Mahan (2012), Ảnh hưởng của sức mạnh trên biển đối với lịch

sử, 1660 – 1783, ng.d Phạm Nguyên Trường, Nxb Tri Thức.

14. Nhiều tác giả (2004), Nhật Bản trong chiến tranh thế giới thứ 2, Ng.d Lê Kim,

124

Nxb Công an nhân dân.

15. Nguyễn Nghị, Lê Minh Đức (1994), Lịch sử nước Mỹ, Nxb Văn hóa thông tin.

16. Lê Văn Quang (2003), Lịch sử quan hệ quốc tế từ 1917 đến 1945, Nxb Giáo

dục.

17. Nguyễn Mạnh Quang (1973), Đệ nhị thế chiến và chiến tranh lạnh, Nxb Sáng

tạo, Sài Gòn.

Lê Vinh Quốc, Huỳnh Văn Tòng (2002), Cuộc chiến tranh Thái Bình Dương 18.

1941 – 1945, Nxb. Văn Nghệ, Tp. Hồ Chí Minh.

19. Robin Cross (2011), Bách khoa toàn thư về chiến tranh, ng.dịch Thế Anh,

Nxb Văn hóa Thông tin.

20. Nguyễn Anh Thái (cb) (2005), Lịch sử thế giới hiện đại, Nxb.Giáo Dục.

21. Hoàng Ngọc Thành (2005) , Chiến lược và chiến thuật trong đệ nhất và đệ nhị

thế chiến, quyển II, Nxb Lửa Thiêng, Sài Gòn.

22. William L.Shirer (2008), Sự trỗi dậy và suy tàn của để chế thứ ba: Lịch sử

Đức quốc xã, ng.d Diệp Minh Tâm, Nxb. Tri thức.

Tiếng Anh

23. Alan Brinkeg (2004), The unifinished nation: A cocise History of the

American peope, New York.

24. Craig L Symonds (2011), The Battle of Midway, Oxford press.

25. John A. Adams (2008), If Manhan ran the great Pacific war: An analysis of

world war II naval strategy, Indiana University Press.

26. Mark Stille (2013), The naval Battles for Guadalcanal, 1942, clash for

supremacy in the pacific, Osprey bublishing

27. Phillip D. Grove, Mark J Grove & Alastair Finlan (2002), The second world

war: vol 3: the war at sea. Osprey Publishing Ltd., Oxford, England.

28. Samuel Eliot Mirison (1963), The Two Ocean war a short history of the

United states navy in the second world war, Boston

29. Samuel Eliot Mirison (2001), History of US Naval in the World War II,

Operation, vol.3. University of Illinois Press.

30. William Bruce Johnson (2006), The Pacific Campaign in World War II: From

125

Pearl Harbor to Guadalcanal (Naval Policy and History) (Naval Policy and

History), Routledge, 270 Madison Ave, New York.

Internet

31. http://boxitvn.blogspot.co.uk/2014/02/ia-chinh-tri-ky-2.html

32. http://petrotimes.vn/news/vn/bien-dong/hai-chien-dinh-cao-nghe-thuat-quan-

su/nhung-tran-hai-chien-noi-tieng-the-gioi-hai-chien-dai-tay-duong.html

33. http://www.vnmilitaryhistory.net/index.php?topic=8892.0

34. http://en.wikipedia.org/wiki/Battle_of_Leyte_Gulf

35. http://www.reds.vn/index.php/thoi-su/quan-su/4371-tu-bay-soi-ngam-tau-san-

bay-den-chien-tranh-khong-hai

36. http://www.reds.vn/index.php/thoi-su/quan-su/4350-chien-thuat-hai-quan-cua-

viet-nam-tren-bien-dong

37. http://nongnghiep.vn/nongnghiepvn/vi-vn/25/99392/phong-su/tran-chien-vinh-

leyte-1944.html

38. http://www.reds.vn/index.php/lich-su/ho-so-tu-lieu/4333-tran-leyte-va-cai-

chet-yamato

39. http://vi.wikipedia.org/wiki/Chi%E1%BA%BFn_tranh_th%E1%BA%BF_gi%

E1%BB%9Bi_th%E1%BB%A9_hai#Chi.E1.BA.BFn_tr.C6.B0.E1.BB.9Dng_

.C4.90.E1.BB.8Ba_Trung_H.E1.BA.A3i.

40. http://vi.wikipedia.org/wiki/Chi%E1%BA%BFn_tr%C6%B0%E1%BB%9Dn

g_%C4%90%E1%BB%8Ba_Trung_H%E1%BA%A3i_v%C3%A0_Trung_%

C4%90%C3%B4ng_(Chi%E1%BA%BFn_tranh_th%E1%BA%BF_gi%E1%

BB%9Bi_th%E1%BB%A9_hai)#H.E1.BA.A3i_chi.E1.BA.BFn

41. http://www.naval-history.net/Map00Index.htm

42. http://www.naval-history.net/MapB1941-Matapan.GIF

43. http://www.naval-history.net/MapB1940-Taranto.GIF

44. http://www.naval-history.net/Maps1939-08RNStations.GIF

45. http://www.naval-history.net/Maps1940-06ItalyandMidMed.GIF

46. http://www.39-45war.com/merchantnavy.html

PHỤ LỤC

Phụ lục 1

MỘT SỐ THUẬT NGỮ, KHÁI NIỆM

KHU TRỤC HẠM có đặc điểm chính là tính cơ động cao và tốc độ lớn, tải

trọng khoảng trên dưới 3000 tấn, gắn đại pháo cỡ 96mm đến 130mm, ban đầu

chuyên trách việc phóng ngư lôi, sang thế chiến I chuyển sang truy diệt tiềm thủy

đĩnh, qua Thế chiến II, thêm nhiệm vụ phòng không nên sau trở thành một thứ chiến

hạm đa năng trong tất cả các hạm đội [ 2].

TÀU CHIẾN, tàu được trang bị vũ khí, tổ hợp vũ khí và phương tiện kỹ thuật

quân sự khác để tác chiến và phục vụ tác chiến ở các vùng nước (biển, sông, hồ…).

Theo công dụng, có: tàu tuần dương, tàu khu trục, tàu hộ vệ, tàu quét mìn, tàu sân

bay, tàu đổ bộ, tàu săn ngầm… Theo trang bị vũ khí chính, có: tàu pháo, tàu tên lửa,

tào phóng lôi…Theo môi trường hoạt động, có: tàu mặt nước (tàu nổi), tàu ngầm.

Theo dạng năng lượng của động cơ, có: tàu (tàu ngầm ( nguyên tử (hạt nhân), tàu

chạy nhiên liệu thường (đi e zen), tàu chạy bằng hơi nước, tàu tuabin khí. Theo kết

cấu dẫn động, có: tàu chân vịt, tàu chạy bằng bơm thủy lực (phản lực)…Ngoài ra,

tàu chiến còn được phân loại theo các dấu hiệu chiến thuật, ví dụ: tàu chủ lực, tàu

phụ (của hạm đội), tàu có mục đích chiến lược (mang vũ khí và tạo các đòn đánh

chiến lược) và tàu có mục đích chiến thuật)… Các tàu chiến (cả tàu mặt nước và tàu

ngầm) được chế tạo theo cùng một thiết kế gọi là lớp (kiểu) ví dụ: Ôhaiô, Taiphun,

Đenta…[2, tr.903].

TÀU CHỦ LỰC, tàu chiến lớn, trang bị hỏa lực mạnh để thực hiện các nhiệm

vụ chính của hạm đội. Trong các hạm đội thuyền buồm cuối thế kỉ 17 đầu thế kỉ 19,

tàu chủ lực là những tàu chiến lớn nhất, có 4 cột buồm. Tùy theo số tầng (boong)

đặt pháo, tàu chủ lực được chia thành 2 tầng và tàu 3 tầng. Thế kỉ 19 tàu chủ lực

chạy bằng máy hơi nước có lượng choán nước đến 5000 tấn, là một trong những tàu

chủ yếu trong hạm đội tàu thiết giáp dùng để tiêu diệt các loại tàu, cũng như phá

hủy các mục tiêu ven bờ của đối phương. Nửa đầu thế kỉ 20, đội tàu chủ lực trong

hạm đội hải quân các nước lớn gồm các tàu tuần dương, tàu thiết giáp trang bị pháo

lớn cỡ 280mm -381mm. Trước chiến tranh thế giới 2, các nước Mĩ, Anh, Nhật,

Tàu chủ lực lớn nhất thế giới là tàu thiết giáp Iarmato8F Đức, Italia, Pháp có khoảng 55 tàu chủ lực đang hoạt động và 30 chiếc đang đóng. 9 của Nhật Bản đóng năm

1940, dài 240m, rộng 39m, lượng giãn nước 64.170 tấn, tốc độ 27,5 hải lý/h, bọc

thép dày 406 – 650mm, trang bị 9 pháo cõ 456mm [2, tr.903].

TÀU HỘ TỐNG, tàu chiến mặt nước có nhiệm vụ trinh sát hộ tống, bảo vệ

các tàu chiến (hoặc đoàn tàu chiến) khác trong tác chiến, hàng quân, ra vào căn cứ.

Có thể dùng để bảo vệ cảng, bảo vệ căn cứ và tuần tiễu ven biển, trên sông. Được

chia ra: Tàu hộ vệ hạng nặng và tàu hộ vệ hạng nhẹ. Tàu hộ vệ hạng nặng có lượng

choán nước từ 600 – 3000 tấn (cá biệt 5000 tấn), tốc độ 35 hải lí/h (65km/h), trang

bị pháo 76-127 mm, pháo phòng không 20 -40 mm, súng phóng bom chìm phản lực

chống ngầm, tên lửa chống ngầm, tên lửa phòng không và có thể có máy bay trực

thăng chống ngầm. Tàu hộ vệ hạng nhẹ có lượng choán nước dưới 150 tấn, tốc độ

40 hải lí/h, trang bị pháo 40mm, súng máy phòng không…Trên tàu hộ vệ có thiết bị

thủy âm và thiết bị vô tuyến [2, tr.904].

TÀU KHU TRỤC, tàu chiến mặt nước đa năng, dùng để tiến công (hoặc đánh

chặn) các tàu mặt nước, tàu ngầm của đối phương. Còn làm các nhiệm vụ: trinh sát,

cảnh giới, bảo vệ (tàu, đoàn tàu và căn cứ), chi viện hỏa lực, pháo kích lên bờ, thả

thủy lôi, rải mìn…có lượng choán nước từ 3000 – 8000 tấn, tốc độ trên 35 hải lí/h

(65km/h), tầm hoạt động trên 6000 hải lí. Được trang bị tên lửa, pháo, thủy lôi, ngư

lôi, các tổ hợp vũ khí – khí tài chống ngầm, radar, sona và có thể có 1-2 máy bay

trực thăng [2, tr.904].

TÀU NGẦM, tàu có khả năng lặn và hoạt động dưới mặt nước trong một thời

gian dài. Tàu ngầm quân sự dùng để tiêu diệt các mục tiêu trên và dưới mặt nước,

trên đất liền của đối phương. Tàu ngầm còn được dùng để trinh sát, vận tải, đổ bộ

các lực lượng đặc nhiệm…Theo nguồn động lực, có: Tàu ngầm điêzen, tàu ngầm

nguyên tử. Theo loại vũ khí được trang bị, có: tàu ngầm tên lửa, tàu ngầm phóng

lôi, tàu ngầm tên lửa –ngư lôi [2, tr.905].

TÀU NGẦM CHỐNG NGẦM, tàu ngầm chuyên dụng để tìm và diệt tàu

ngầm của đối phương. Được trang bị sona, vũ khí chống tàu ngầm (ngư lôi, thủy lôi, 9 Thiết giáp hạm Yamamoto

tên lửa –ngư lôi…), các thiết bị dò tìm khác (có khả năng ghi được các trường vật lí

của tàu ngầm, tên lửa – ngư lôi, thủy lôi của đối phương, để cung cấp số liệu cho

các máy bắn và hệ thống điều khiển bắn). Nhiệm vụ chủ yếu của tàu ngầm chống

ngầm: tiêu diệt, đánh chặn tàu ngầm đối phương, bám sát, theo dõi săn ngầm, cảnh

giới bảo vệ giao thông trên biển, bố trí khu vực thủy lôi hống tàu ngầm đối phương

[2, tr.905].

10, tàu ngầm cực nhỏ (lượng giãn nước 20 - 400 tấn), chủ

TÀU NGẦM MINI9F

yếu là nhiệm vụ trinh sát hoặc tác chiến đặc biệt. Các tàu ngầm mini cỡ vài chục tấn

có thê được chứa trong tàu mẹ để chở đến khu vực tác chiến. Trong trận Trân Châu

Cảng, các tàu ngầm mini I-16 của Nhật Bản đã lọt qua các lưới chống ngầm vào

cảng (do quân Mĩ đóng) để trinh sát, 5 tàu ngầm mini I-16 bị đánh chìm [2, tr.905].

TÀU PHÓNG LÔI, tàu chiến mặt nước hạng nhẹ dùng để diệt tàu đối

phương bằng ngư lôi. Có lượng choán nước 80-240 tấn, tốc độ tới 50 hải lí/h (92,6

km/h), tầm hoạt động tới 1000 hải lí (trên 1.850 km), được trang bị 2-4 ống phóng

lôi cỡ 450 -533mm, 2-6 pháo 20-30 mm, pháo phòng không (37-57 mm), súng máy,

bom chìm, thủy lôi, thiết bị thả khói [2, tr.906].

TÀU QUÉT MÌN, tàu mặt nước được trang bị các khí tài chuyên dụng để tìm

và phá thủy lôi trên biển (sông, hồ, kênh) và dẫn đường cho các tàu thuyền khác (đi

sau lưới quét mìn) qua khu vực có thủy lôi, khí tài thủy âm, thiết bị vô tuyến truyền

hình,…để phát hiện, phân loại và diệt thủy lôi. Tính năng chính: lượng choán nước

tù 100 tới 1.300 tấn, tốc độ lớn nhất từ 22 đến 45,4 km/h. Vũ khí: Súng máy phòng

không, pháo phòng không 20-40mm, pháo đa năng 76-100mm. Tàu quét mìn đầu

tiên là loại được cải biển từ tàu phục vụ theo sáng kiến của đô đốc X.O.Macarop

(Nga) và dùng trong chiến đấu tại cảng Lữ Thuận (Actua) trong chiến trang Nga –

Nhật (1904-1905). Tàu quét mìn chuyên dụng đầu tiên được đóng 1909 tại Xanh Pê

tecbua. Được sử dụng rộng rãi trong Chiến tranh thế giới I, II [2,tr906].

TÀU RẢI MÌN, tàu mặt nước hoặc tàu ngầm có trang bị chuyên dụng để bố

trí (rải) thủy lôi, nhằm phong tỏa, ngăn trở hoạt động của tàu thuyền đối phương ở

những vùng biển nhất định hoặc bảo vệ của sông, cảng, vịnh, nơi neo đậu tàu 10 Tác giả: Tàu ngầm bỏ tui

thuyền khỏi sự thâm nhập, tiến công của đôi phương [2, tr.906].

TÀU SĂN NGẦM, tàu chiến mặt nước dùng để tìm và diệt tàu ngầm của đối

phương. Có thể hoạt động độc lập hoặc trong đội hình làm nhiệm vụ tuần liễu, bảo

vệ. Có các loại, tàu săn ngầm cỡ lớn (lượng choán nước 108-450 tấn), cỡ nhỏ

(lượng choán nước dưới 100 tấn) và tàu săn ngầm tuần dương (tàu săn ngầm lớn có

mang trục thăng săn ngầm). Tàu được trang bị sona, rada, các thiết bị quan sát và

liên lạc vô tuyến, ngư lôi, tên lửa- ngư lôi…để phát hiện và tiêu diệt tàu ngầm đối

phương [2, tr.906-907].

TÀU SÂN BAY, tàu chiến mặt nước có cấu tạo và trang bị đặc biệt để làm

căn cứ và nơi cất hạ cánh cho máy bay, máy bay trực thăng chiến đấu của hải quân.

Tàu sân bay có đài chỉ huy, đường băng cất hạ cánh, khoang chứa máy bay, khoang

sửa chữa và bảo dưỡng máy bay, khoang chứa nhiên liệu, khoang thiết bị động lưc,

khoang chứa bom, khoang ở và sinh hoạt của thủy lôi…Được trang bị các tổ hợp

tên lửa phòng không, pháo và pháo phòng không để tự vệ, thiết bị liên lạc vô tuyến,

rada điều khiển máy bay cất hạ cánh…theo sức chưa máy bay và lượng choán nước,

có tàu sân bay hạng nặng (tới 100 máy bay, lượng choán nước 30.000 -100.000

tấn), hạng nhẹ (30 máy bay, lượng choán nước 30.000 tấn). Theo chức năng có: Tàu

sân bay đột kích, chống ngầm, lên thẳng đổ bộ, đột kích chống ngầm. Tàu sân bay

xuất hiện từ chiến tranh thế giới I, trong chiến tranh thế giới II có trong biên chế của

hải quân Mĩ, Anh, Nhật. Tuy nhiên, tàu sân bay có nhược điểm: dễ cháy, nổ vì

chứa nhiều nhiên liệu, bom, đạn; kích thước và tải lượng trọng lớn hạn chế tính cơ

động, là mục tiêu khó bảo vệ đối với máy bay, tên lửa của đối phương; hoạt động củ

máy bay phụ thuộc vào thời tiết và sóng gió [2, tr.907].

THIẾT GIÁP HẠM là chiến hạm chủ lực trong các hạm đội từ cuối thế kỷ

XIX sang tới đầu thập niên 1940, thường có trọng tải trên 20.000 tấn, thân tàu được

nhiều lớp sắt thép bảo vệ theo cả chiều dọc lẫn chiều ngang, được trang bị vũ khí

chính là đại pháo cỡ 280 đến 457 mm với nhiệm vụ chủ yếu là quyết đấu với chiến

hạm địch và dùng phòng không bảo vệ các Hàng không mẫu hạm của phe mình [4].

TUẦN DƯƠNG HẠM với đặc điểm có tốc độ nhanh, tầm hoạt động xa, đổi

lại vì không được bọc sắt như thiết giáp hạm nên sức “chịu đòn” yếu hơn nhiều,

trọng tải từ 6 000 tấn đến 17000 tấn, được trang bị các đại pháo cỡ 96 đến 203mm

có hỏa lực tương đương một trung đoàn pháo binh, thường đóng vai trò quan trọng

trong việc hộ tống các đoàn tàu, các đạo quân đổ bộ hoặc oanh tạc các hải cảng, căn

cứ địch và truy diệt các chiến hạm địch [4].

TIỀM LỰC KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, khả năng về khoa học và

công nghệ có thể huy động để giải quyết những nhiệm vụ trước mắt và lâu dài của

xã hội. được biểu hiện ở trình độ phát triển khoa học và công nghệ; số lượng và chất

lượng đội ngũ cán bộ khoa học công nghệ; cơ sở vật chất phục vụ cho công tác

nghiên cứu, phổ biến và ứng dụng, TLKHVCN của đất nước có ảnh hưởng tích cực

đến sự phát triển của khoa học và công nghệ trong lĩnh vực QS, quốc phòng….Mức

độ động viên TLKHVCN của đất nước phục vụ nhiệm vụ QS, quốc phòng và chiến

trang phụ thuộc trực tiếp vào mục đích, tính chất của cuộc chiến trang và nhiệm vụ

Quân sự, quốc phòng, vào bản chất chế độ chính trị - xã hội, và trình độ phát triển

lực lượng sản xuất của mỗi nước [2, tr.954].

TIỀM LỰC KINH TẾ, khả năng về kinh tế bao gồm cả kinh tế quân sự có

thể huy động để phục vụ nhiệm vụ phá triển kinh tế- xã hội, củng cố quốc phòng

hoặc tiến hành chiến tranh; cơ sở vật chất của các tiềm lực khác. Được biểu hiện ở

trình và khối lượng sản xuất xã hội; nhịp độ tăng trưởng của nền kinh tế; nguồn dự

trữ tài nguyên và lao động…trong lĩnh vực QS, TLKT được biểu hiện ở các mặt chủ

yếu như: Khối lượng và chất lượng các nguồn lực có thể động viên đáp ứng nhu cầu

QS, quốc phòng, chiến tranh; tính cơ động và sức sống của nền kinh tế trước sự thử

thách ác liệt của chiến tranh [2,tr.954].

TIỀM LỰC QUÂN SỰ, khả năng về vật chất và tinh thần có thể huy động

để tạo thành sức mạnh hiện thực phục vụ nhiệm vụ QS và tiến hành chiến tranh.

Được bểu hiện trước hết ở khả năng duy trì, hoàn thiện và không ngừng phát triển

năng lực và trình độ chiến đấu (về nhân lực, vũ khí trang bị, cơ sở vật chất bảo đảm,

khoa học QS, nghệ thuật QS…); nguồn dự trữ về sức người, sức của phục vụ nhiệm

vụ QS và tiến hành chiến tranh. Tiềm lực QS được xây dựng dựa trên nền tảng của

các tiềm lực về kinh tế, tiềm lực chính trị -tinh thần, tiềm lực khoa học –công nghệ

[2,tr.954].

Phụ lục 2. Các bảng

Anh quốc

Đức

Pháp

Mỹ

Nhật Bản

Ý

12 3 - 62 7 2

4 - - 21 - -

15 - - 32 5 -

5 1 - 18 1 1

9 - - 39 5 3

2 2 3 6 - -

Thiết giáp hạm Tàu tuần dương chiến hạm Thiết giáp hạm bỏ túi Tuần dương hạm Hàng không mẫu hạm (TSB) Tàu sân bay có gắn thủy phi cơ Tàu khu trục Tàu phóng ngư lôi Tàu ngầm (tiềm thủy đĩnh) Tàu thả mìn Tàu chiến nhẹ và tàu hộ tống

159 11 54 1 38

48 69 104 - 32

209 - 87 8 -

59 13 76 1 25

84 38 58 10 -

17 16 57 - 8

Pháo hạm và tàu tuần tra Tàu quét mìn

27 38

2 39

20 -

10 8

10 12

- 29

Bảng 2.1. Sức mạnh hải quân của các cường quốc, tháng 1 năm 1939

Nguồn: Phillip D. Grove, Mark J Grove & Alastair Finlan (2002), The second

world war: vol 3: the war at sea. Osprey Publishing Ltd., Oxford, England, p.16

Bảng 3.1. Bảng thống kê lực lượng tham gia trận Leyte

Lực lượng tham gia Liên quân Mỹ - Úc Nhật Bản

8 8 Tàu sân bay hạng nặng

9 18 Tàu hộ tống

14 12 Tàu chiến nhẹ

6 24 Tàu tuần dương

35 141 Tàu khu trục

300 1500 Máy bay

Nguồn: http://en.wikipedia.org/wiki/Battle_of_Leyte_Gulf

Phụ lục 3. Hệ thống các bản bản đồ.

Nguồn: Bộ quốc phòng

Hình 2.1. Chiến tranh thế giới thứ II

Nguồn: Phillip D. Grove, Mark J Grove & Alastair Finlan (2002), The second

world war: vol 3: the war at sea. Osprey Publishing Ltd., Oxford, England, p.87

Hình 2.2. Khu vực diễn ra hải chiến căng thẳng

Nguồn: Bộ Quốc Phòng [2]\

Hình: 2.3. Hải chiến Địa Trung Hải

Nguồn: http://www.naval-history.net/MapB1940-Taranto.GIF

Hình 2.4. Trận Taranto 11/10/1940

Nguồn: http://www.naval-history.net/MapB1941-Matapan.GIF

Hình 2.5. Trận chiến ở mũi Matapan 28/3/1941

Nguồn: Bộ quốc phòng

Hình 3.1. Bản đồ chiến tranh Thái Bình Dương

Nguồn: Robin cross, Bách khoa toàn thư chiến tranh

Hình 3.2. Hải chiến Midway