TRÁNH NHẦM LẪN TƯ LIỆU LỊCH SỬ VỚI LỊCH SỬ PHONG CÁCH

TRONG NGHIÊN CỨU MỸ THUẬT CỔ

Cũ, vì hồ sơ di tích ấy, cơ

quan nghiên cứu của Vụ

Bảo tồn Bảo tàng - Bộ Văn

hóa (nay là Bộ Văn hóa Thể

thao và Du lịch) đã sưu tầm

được khá đầy đủ những nội

dung tư liệu ấy: Vũ Trung

tùy bút - Tang thương ngẫu

lục của Phạm Đình Hổ, văn

bia ở chùa, đặc biệt lời tự

của Phan Huy ích trên quả

chuông đồng chùa Tây

Phương nói về việc xây

dựng chùa vào thời Lê Vĩnh

Hựu (1735- 1740)...

Ngoài Vụ Bảo tồn Bảo tàng, còn 3 cơ quan chuyên ngành nữa là Bảo tàng Lịch sử

Việt Nam, Viện Mỹ thuật, Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam cũng lưu trữ hồ sơ hai di

tích và còn bổ sung thêm những tư liệu mới nữa. Tiếc rằng nhà nghiên cứu Trịnh

Quang Vũ đã chưa có dịp tới tham khảo “cạn” các nguồn tư liệu ấy, nên tác giả đã

công bố trùng tư liệu, lại cho rằng đó là những “phát hiện mới” về hai ngôi chùa cổ

danh tiếng ấy!?

Không ai phủ nhận những nguồn tư liệu lịch sử quý báu mà bia ký và thư tịch đã

để lại. Nhưng không phủ nhận, không có nghĩa là không tìm hiểu kỹ càng ngọn

nguồn về tư liệu. Cụ thể như việc khởi tạo, hay trùng tu, tu sửa bộ phận hay toàn

bộ cấu trúc công trình, hay làm mới hoàn toàn, không theo nếp cũ,v.v..

Chính vì vậy mà các nhà nghiên cứu điền dã thực địa đã lưu ý: “Nhiều công trình

vẫn mang tên cũ, nằm tại địa điểm xưa, khớp với lời ghi trong thư tịch cổ, nhưng

đã được xây dựng lại hoàn toàn mới theo phong cách của thời muộn hơn”.(1)

Chúng ta có thể liên hệ với bài viết của Trịnh Quang Vũ về hai ngôi chùa cổ. - Đặc

biệt với lời tự của Phan Huy ích nói về ngôi chùa Tây Phương xây dựng vào thời

Lê Vĩnh Hựu. Vì quá tin tưởng vào lời tự, tác giả đã bỏ quên nguyên tắc tối ưu

quan trọng của nhà nghiên cứu là không đối chiếu phong cách nghệ thuật của hai

ngôi chùa với phong cách mỹ thuật Lê Trung Hưng và Lê Mạt, trong khi có số

lượng lớn những ngôi đình làng đã ổn định phong cách Lê Trung Hưng, Lê Mạt là

đối chứng tốt nhất để so sánh. Chùa xây dựng vào thời Lê Vĩnh Hựu, sao không

lấy phong cách kiến trúc- điêu khắc đình Đình Bảng (Bắc Ninh) làm cùng thời Lê

Vĩnh Hựu mà so sánh, đối chiếu? Đó mới là chìa khóa vàng mở cánh cửa bí mật về

phong cách mỹ thuật của hai ngôi chùa cổ. Nếu không, chỉ là người đứng ngoài

cánh cửa khá kín bí mật mà lý giải dài dòng, vô bổ, vừa tốn công sức, vừa không

đạt được mục đích mong đợi.

Chính vì tuân thủ những nguyên tác nghiên cứu qua so sánh đối chiếu phong cách

mà tác giả Mỹ thuật thời Tây Sơn Nguyễn Đỗ Cung đã thành công, đã phát hiện

được phong cách mỹ thuật Tây Sơn. Đơn giản, ông đã so sánh Tây Phương, Kim

Liên với mỹ thuật Lê Trung Hưng, Lê Mạt trước đó với mỹ thuật Nguyễn liền kề

sau đó. Tất cả đều không có những đặc điểm tương đồng, hay đồng dạng. Nó mặc

nhiên đứng giữa phong cách Lê Trung Hưng, Lê Mạt và Nguyễn sơ nên ông đã đặt

đúng chỗ, đúng vị trí cho Mỹ thuật thời Tây Sơn là thế.

Để người nghiên cứu và người thưởng thức dễ theo dõi tiến trình phát hiện ra

phong cách mới mỹ thuật thời Tây Sơn, Nguyễn Đỗ Cung đã sắp xếp lại các sự

việc cho dễ nhớ như sau:

- 1788 (mùa đông năm Mậu Thân): Phan Huy ích đi qua chùa Tây Phương cũ mà

“bồi hồi phỏng cổ”

- 1789 (tháng Giêng năm Kỷ Dậu): Vua Quang Trung đánh tan quân của Tôn Sỹ

Nghị.

- 1792 (tháng tám năm Nhâm Tý): dân phường Nghi Tàm làm chùa Kim Liên cho

phường mình. “Đồng phường Sùng tu” (lời trên bia).

- 1792 (tháng mười năm Nhâm Tý, Quang Trung năm thứ năm): chùa Kim Liên

làm xong, ghi bài ký mà nay ta thấy ở bia “Hậu Phật”.

- 1794 (tháng chạp năm Giáp Dần- ghi trên xà nóc): dân thôn Nguyên Xá làm chùa

Tây Phương. “ấp Trung Thiện tín... tương dữ mộ hóa, cưu công, tu tập di tự” (Dân

ấp chiêu mộ của cải, họp thợ tạo dựng lại ngôi chùa mới. (Bản dịch Viện Mỹ

thuật).

- 1796 (niên điểm này rút ra ở tập Dụ am ngâm Lục của Phan Huy ích): đúc chiếc

chuông đồng hiện treo ở chùa Tây Phương.

- 1798 (tháng tư năm Mậu Ngọ): khắc lời tự và bài minh của ông Phan Huy ích vào

chiếc chuông đó.

Có nhiều sự việc cần phải được đặt chúng vào trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể của

nó thì mới hiểu nó được. (2)

Sự thực bắt đầu được khai mở từ chuyến đi khảo sát chùa Kim Liên, tình cờ các

nhà nghiên cứu trẻ do ông đào tạo đã phát hiện được tấm bia “hậu phật” của chùa

mang niên đại “Quang Trung ngũ niên” bị cột che khuất lâu ngày. Ai cũng biết

chùa Kim Liên rất giống chùa Tây Phương đến mức “đồng dạng”. Và từ niên đại

“Quang Trung ngũ niên” ấy mà tra ra, nhà nghiên cứu Nguyễn Đỗ Cung đã giải mã

được dòng chữ mang đầy bí mật lâu năm ghi trên xà nóc của chùa “Giáp Dần

niên... tạo”, là vào năm Giáp Dần, Cảnh Thịnh đời thứ hai nhà Tây Sơn, 1794. Thật

là đúng, chính xác: “Phong cách Tây Phương này, tôi đã bắt gặp ở nhiều đồ rải rác

tại nhiều nơi và đã suy nghĩ rất nhiều. Tấm bia đã giúp tôi một căn cứ thật là quý

báu để hiểu ra một cách rứt khoát tời tự của Phan Huy ích mà từ trước tôi chưa hề

dám sử dụng đến nghiên cứu”, tác giả tự bạch. (Tạp chí nghiên cứu mỹ thuật, số đã

dẫn).

Cùng với hai ngôi chùa nổi tiếng, sau 23 năm khảo sát (từ 1962 đến 1985), các nhà

nghiên cứu đã tìm được 350 di tích kiến trúc cổ, trong đó riêng mỹ thuật thời Tây

Sơn đã phát hiện được 11 di tích(3) Gần đây, cuối năm 2009, các nhà khảo cổ còn

phát hiện được một quả chuông đồng có niên đại “Quang Trung tứ niên” (1791),

tại ngôi chùa làng La Trữ cách cố đô Huế của triều Nguyễn 7km. Chuông do Ngự

tiền Thái Bảo ngự giá Quận công Võ Văn Dũng cùng nhạc phụ là Lê Công Học

đứng ra làm hội chủ cúng dường. Chuông cao 0,92m, đường kính miệng chuông

1,78m.(4) Thập kỷ 70 thế kỷ XX, Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam còn trưng bày một

trống đồng mang niên hiệu Cảnh Thịnh, thời Tây Sơn cùng với một số pho tượng

tạc các vị Tổ chùa Tây Phương, phong cách rất hiện thực, sống động nữa.

Một triều đại tồn tại ngắn ngủi, chỉ hơn 10 năm trời (1789- 1802), nhưng lại có võ

công hiển hách chống xâm lăng, song song với chiến công ấy, lại có một nền nghệ

thuật độc đáo. Đúng như quy luật phát triển của các vương triều thời thịnh Việt

Nam sau khi đã chiến thắng xâm lăng, như Lý- Trần- Lê sơ, đều có những nền

nghệ thuật riêng, rực rỡ, độc đáo.