ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ ---------------------

NGUYỄN THỊ ĐĂNG THU

NHỮNG TRỞ NGẠI ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN

THƢƠNG MẠI ĐIỆN TỬ LÀNH MẠNH Ở VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ

Hà Nội – 2014

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ --------------------

NGUYỄN THỊ ĐĂNG THU

NHỮNG TRỞ NGẠI ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN

THƢƠNG MẠI ĐIỆN TỬ LÀNH MẠNH Ở VIỆT NAM

Chuyên ngành : Kinh tế chính trị

Mã số: 60 31 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: GS. TS. ĐỖ THẾ TÙNG

Hà Nội – 2014

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, dưới sự

hướng dẫn của GS. TS. Đỗ Thế Tùng. Các số liệu trong luận văn là trung

thực, bảo đảm tính khách quan. Các tài liệu tham khảo có nguồn gốc xuất xứ

rõ ràng.

Hà Nội, ngày tháng năm 2014

Tác giả

Nguyễn Thị Đăng Thu

MỤC LỤC

Danh mục các từ viết tắt …………………………………………………... i

Danh mục hình …………………………………………………………….. ii

MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1

CHƢƠNG 1: THƢƠNG MẠI ĐIỆN TỬ VÀ NHỮNG ĐIỀU KIỆN CẦN

THIẾT ĐỂ PHÁT TRIỂN THƢƠNG MẠI ĐIỆN TỬ LÀNH MẠNH ......... 12

1.1. Khái niệm, đặc trƣng cơ bản và các hình thức giao dịch chủ yếu của

TMĐT .............................................................................................................. 12

1.1.1. Khái niệm .......................................................................................... 12

1.1.2. Những đặc trưng của Thương mại điện tử ........................................ 15

1.1.3. Các hình thức giao dịch chủ yếu của TMĐT ................................... 16

1.1.4. Vai trò của Thương mại điện tử trong phát triển KT-XH ................. 23

1.2. Những điều kiện cơ bản để phát triển Thƣơng mại điện tử lành mạnh ... 27

1.2.1. Nguồn nhân lực ................................................................................. 28

1.2.2. Kết cấu hạ tầng công nghệ thông tin, công nghệ điện tử ................. 28

1.2.3. Môi trường pháp lý ........................................................................... 29

1.2.4. Sự quản lý của Nhà nước về thương mại điện tử ............................. 30

1.2.5. Các vấn đề khác phải quan tâm ....................................................... 31

CHƢƠNG 2: NHỮNG TRỞ NGẠI ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN THƢƠNG MẠI

ĐIỆN TỬ Ở VIỆT NAM THỜI GIAN QUA ................................................ 33

2.1. Những trở ngại đối với phát triển Thƣơng mại điện tử ............................ 33

2.1.1. Môi trường pháp lý chưa hoàn thiện ............................................... 34

2.1.2. Dịch vụ vận chuyển và giao nhận còn yếu ........................................ 37

2.1.3. Nguồn nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu ............................................ 38

2.1.4. Hệ thống thanh toán điện tử chưa phát triển .................................... 40

2.1.5. Nhận thức của người dân về Thương mại điện tử thấp .................... 47

2.1.6. An ninh mạng chưa đảm bảo ............................................................ 48

2.1.7. Môi trường xã hội và tập quán kinh doanh chưa phù hợp ............... 52

2.2. Một số mô hình kinh doanh mang danh nghĩa TMĐT còn tiềm ẩn nhiều

rủi ro ............................................................................................................ 54

2.2.1. Mô hình kinh doanh Groupon ........................................................... 55

2.2.2. Lợi dụng Thương mại điện tử để bán hàng đa cấp và những vụ lừa

đảo như MB24 ............................................................................................. 58

2.2.3. Bán hàng giả, kém chất lượng .......................................................... 62

2.2.4. Rao bán bằng cấp, chứng chỉ giả trên mạng .................................... 63

2.3. Ảnh hƣởng của những trở ngại trên đối với phát triển TMĐT và phát triển

KT-XH nói chung............................................................................................ 65

2.3.1. Thiệt hại về mặt kinh tế ..................................................................... 65

2.3.2. Làm mất lòng tin vào TMĐT và cản trở sự phát triển TMĐT .......... 66

CHƢƠNG 3: GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC TRỞ NGẠI ĐỂ PHÁT TRIỂN

THƢƠNG MẠI ĐIỆN TỬ LÀNH MẠNH .................................................... 69

3.1. Phƣơng hƣớng phát triển TMĐT của Việt Nam đến năm 2020 .............. 69

3.1.1. Mục tiêu phát triển TMĐT quốc gia đến năm 2020 ......................... 69

3.1.2. Định hướng phát triển ....................................................................... 70

3.1.3. Phương hướng triển khai .................................................................. 71

3.2. Nhóm giải pháp chủ yếu hỗ trợ cho TMĐT ............................................. 72

3.2.1. Tuyên truyền, phổ biến và đào tạo nguồn nhân lực cho TMĐT ....... 72

3.2.2. Hoàn thiện kết cấu hạ tầng ............................................................... 75

3.2.3. Chương trình xây dựng & hoàn thiện hệ thống pháp luật cho TMĐT

..................................................................................................................... 78

3.2.4. Chương trình cung cấp các dịch vụ công hỗ trợ TMĐT và ứng dụng

TMĐT trong mua sắm Chính phủ ............................................................... 81

3.2.5. Phát triển công nghệ hỗ trợ TMĐT .................................................. 81

3.3. Nhóm giải pháp về đảm bảo an toàn cho các giao dịch thƣơng mại ....... 82

3.3.1. Bảo vệ thông tin cá nhân ................................................................... 82

3.3.2. Quy định về chữ ký điện tử ................................................................ 84

3.3.3. Thừa nhận giá trị pháp lý đối với thông điệp dữ liệu trong TMĐT . 85

3.3.4. Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trong TMĐT ......................................... 86

3.3.5. Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong TMĐT ................................ 88

3.3.6. Giải quyết tranh chấp trong giao dịch mua bán hàng trực tuyến .... 90

3.3.7. Phòng ngừa và nghiêm trị tội phạm công nghệ cao trong TMĐT .... 90

3.3.8. Hợp tác quốc tế trong việc nghiêm trị tội phạm trong TMĐT .......... 92

KẾT LUẬN ..................................................................................................... 95

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 97

PHỤ LỤC ...................................................................................................... 102

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

STT Ký hiệu Nguyên nghĩa

1 CNH Công nghiệp hóa

2 CNTT-TT Công nghệ thông tin truyền thông

3 B2B (Business – to – Business) TM ĐT giữa DN và DN

4 TM ĐT giữa DN và Chính phủ

5 TM ĐT giữa các cá nhân

6

7 B2G (Business – to – Government) C2C (Consumer – to – Consumer) G2C (Government – to – Consumer) GD TMĐT TM ĐT giữa Chính phủ và ngƣời tiêu dùng Giao dịch Thƣơng mại điện tử

8 HĐH Hiện đại hóa

9 TMĐT Thƣơng mại điện tử

10

APEC (Asia Pacific Economic Cooperation) Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á – Thái Bình Dƣơng

11

12 ASEAN (Association of Southeast Asia Nations) Máy giao dịch tự động

13

Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế

14

15

POS (Point of sale) Thiết bị bán hàng Ủy ban Liên hợp quốc về luật thƣơng mại quốc tế

ASEAN (Association of Southeast Asia Nations) ATM (Automatic Teller Machine) OECD (Organization for Economic Cooperation and Development) POS (Point of sale) Thiết bị bán hàng UNCITRAL (United Nations Commission on International Trade Law)

Tổ chức Thƣơng mại thế giới

16 WTO (World Trade Organization)

i

DANH MỤC HÌNH

STT Hình Nội dung Trang

Hình 1.1 Mô hình B2B 16 1

Hình 1.2 Giao dịch theo mô hình B2C 18 2

Hình 2.1 Đánh giá các trở ngại của ứng dụng TMĐT của 33 3

doanh nghiệp năm 2010

Hình 2.2 Khung pháp lý TMĐT 35 4

Hình 2.3 Tỷ lệ cán bộ chuyên trách về TMĐT qua các 39 5

năm

6 Hình 2.4 Các hình thức thanh toán trong giao dịch 41

TMĐT

7 Hình 2.5 Tỷ lệ website cung cấp dịch vụ TMĐT có khả 46

năng thanh toán trực tuyến

8 Hình 2.6 Tỷ lệ các doanh nghiệp sử dụng các biện pháp 51

an toàn thông tin

9 Hình 2.7 Số lƣợng ngƣời bán hàng đa cấp tăng mạnh 59

10 Hình 2.8 Những trở ngại khi mua sắm trực tuyến 62

11 Hình 2.9 Quảng cáo bằng giả công khai trên mạng 64

ii

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Trong một vài thập kỷ trở lại đây, sự phát triển nhƣ vũ bão của

công nghệ thông tin, vi điện tử đã dẫn đến mở rộng mạng Internet, và tạo

điều kiện phát triển Thương mại điện tử (E. Commerce), một phƣơng

thức kinh doanh hoàn toàn mới. Thƣơng mại điện tử (TMĐT), theo nghĩa

rộng, bao gồm mọi giao dịch tài chính và thƣơng mại bằng các phƣơng

tiện điện tử. Theo nghĩa hẹp, TMĐT chỉ gồm các hoạt động thƣơng mại,

đƣợc thực hiện thông qua mạng Internet và các mạng viễn thông khác.

Luận văn này sử dụng thƣơng mại điện tử theo nghĩa hẹp.

TMĐT ngày càng tỏ rõ tính ƣu việt nhƣ: Ít tốn thời gian, công sức,

tiền bạc cho những giao dịch. Nó mang lại lợi ích không chỉ cho doanh

nghiệp, ngƣời sản xuất mà còn có lợi cho ngƣời tiêu dùng.

Tuy nhiên, trong thời gian gần đây, sự phát triển TMĐT ở Việt Nam

gặp khá nhiều trở ngại nhƣ : môi trƣờng pháp lý chƣa hoàn thiện, nguồn

nhân lực chƣa đáp ứng yêu cầu, dịch vụ vận chuyển và giao nhận còn yếu,

hệ thống thanh toán điện tử chƣa phát triển, nhận thức của ngƣời dân về

thƣơng mại điện tử thấp, an ninh mạng chƣa đảm bảo, môi trƣờng xã hội và

tập quán kinh doanh chƣa phù hợp. Bên cạnh đó, việc xuất hiện nhiều hành

vi lừa đảo qua mạng và tình trạng tội phạm an ninh mạng đang ngày càng

gia tăng với nhiều chiêu thức khác nhau. Mới đây nhất là vụ án lừa đảo qua

mạng của Công ty cổ phần đào tạo mua bán trực tuyến MB24 đã trở thành

một trong những rào cản cho sự phát triển TMĐT ở Việt Nam. Để phát

triển TMĐT lành mạnh cần phải khắc phục những trở ngại nói trên.

1

Vì vậy, “Những trở ngại đối với sự phát triển thương mại điện tử

lành mạnh ở Việt Nam” đƣợc chọn làm đề tài luận văn này.

Phát triển Thƣơng mại điện tử ở Việt Nam là một vấn đề đang thu

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

hút nhiều sự quan tâm không chỉ của các nhà hoạch định chính sách, các

nhà quản lý doanh nghiệp, Chính phủ mà của cả nhiều nhà nghiên cứu và

hoạt động thực tiễn. Đã có nhiều công trình, bài báo, sách chuyên khảo,

luận án, luận văn và đề tài khoa học viết về TMĐT. Trong đó có:

Về khía cạnh kỹ thuật

Hồ Đức Thắng, “Hạ Tầng internet trong việc phát triển Thương

mại điện tử”, Mai Anh, “Thương mại điện tử, việc triển khai ở Việt Nam

và sự tham gia của Hội tin học Việt Nam”, đƣợc đăng trong kỷ yếu tuần lễ

tin học X, Hà Nội tháng 09/2001; Lê Hoài An “Bức tranh toàn cảnh về

Thương mại điện tử thế giới 2001” trên tạp chí Internet và TMĐT số 11

tháng 12/2001. Lê Đức Minh có bài “Các khái niệm cơ bản trong Thƣơng

mại điện tử”. Cũng trong năm 2001, Ban Thƣơng mại điện tử - Bộ Thƣơng

mại có báo cáo dự án quốc gia “Kỹ thuật Thương mại điện tử”;Phòng

Thƣơng mại và Công nghiệp Việt Nam cũng tổ chức hội thảo “Ứng dụng

và phát triển Thương mại điện tử ở Việt Nam”. Nhà xuất bản Khoa học kỹ

thuật, Hà Nội xuất bản cuốn “Thương mại điện tử cho doanh nghiệp” của

Trịnh Lê Nam và Nguyễn Phúc Trƣờng Sinh; Nhà xuất bản Thống kê

(2001) có “Hỏi đáp về Thương mại điện tử”. Nhìn chung những công trình

trên đã có những tiếp cận rất mới trên phƣơng diện kỹ thuật về vấn đề này.

Năm 2002 cũng xuất hiện hàng loạt những tài liệu chuyên khảo, bài

viết đƣợc đăng trên các kỷ yếu, giáo trình, tạp chí đề cập đến khía cạnh kỹ

2

thuật của TMĐT. Nguyễn Việt Hồng: “Mức độ sẵn sàng ứng dụng

Thương mại điện tử ở các nước” trên tạp chí Internet và Thƣơng mại điện

tử số 09 tháng 12/2002; Nhà xuất bản Bƣu điện Hà Nội cho xuất bản

cuốn “Giao dịch thương mại điện tử - một số vấn đề cơ bản” của nhóm

tác giả Nguyễn Văn Minh – Trần Hoài Nam; Xuân Hiền với “Hệ thống

thanh toán điện tử” đăng trên Internet và Thƣơng mại điện tử các số 20,

21, 22 và 23 năm 2002; Nhà xuất bản Thế giới cũng cho ra đời cuốn “Bí

quyết Thương mại điện tử hướng dẫn xuất khẩu cho các doanh nghiệp vừa

và nhỏ”; Luận văn thạc sĩ Trƣờng Đại học Ngoại Thƣơng “Cơ sở pháp lý

của Thương mại điện tử - Thực trạng và khả năng thực hiện ở Việt Nam”

của Hoàng Mai Hạnh.

Trong các năm 2003, 2004 Vụ Thƣơng mại – Bộ Thƣơng mại

cũng đƣa ra báo cáo (2003) “Hiện trạng ứng dụng Thương mại điện tử ở

Việt Nam” và “Kiến nghị về thực trạng ứng dụng thương mại điện tử ở một

số tổ chức, đơn vị”. Đặc biệt trong hai năm này có khá nhiều luận văn

nghiên cứu Thƣơng mại điện tử dƣới khía cạnh kỹ thuật nhƣ: Trƣờng Đại

học Kinh tế Quốc dân có hai luận văn thạc sĩ: Vũ Thị Minh Hiền với

“Giải pháp ứng dụng thương mại điện tử cho các doanh nghiệp thủ công

mỹ nghệ ở Hà Nội” và “Những giải pháp Marketting nhằm phát triển

quảng cáo trên mạng trong hoạt động thương mại điện tử ở Việt Nam” của

thương mại điê ̣n tử ” ,

Nguyễn Đình Toàn. “Kinh doanh điê ̣n tử và Zorayda Ruth Andam, Tháng 5/2003, Nhóm công tác e-ASEAN UNDP-

APDIP, sinh viên luật năm thứ 5 tại trƣờng đại học Philippin. Tiếp đó là

“Phát triển Thương mại điện tử ở Việt Nam trong thời gian tới” của

Nguyễn Văn Thụ - Học viện Chính trị quốc Gia Hồ Chí Minh, Hà Nội

2004. Luận văn nghiên cứu các vấn đề hiện trạng và xu hƣớng phát triển

của các hình thức giao dịch TMĐT trên thế giới (B2B & B2C), hiện trạng

3

TMĐT tại Việt Nam và đƣa ra một số giải pháp phát triển TMĐT giúp Việt

Nam nhanh chóng hội nhập với TMĐT trên thế giới. Luận văn thạc sĩ “Tìm

hiểu về kỹ thuật đàm phán quốc tế trong Thương mại điện tử và khả năng

áp dụng cho doanh nghiệp Việt Nam” của Đỗ Thị Hạnh Dung, Trƣờng

Đại học Ngoại thƣơng (2006); Lê Hà Vũ “Xây dựng khung pháp luật nhằm

phát triển Thương mại điện tử ở Việt Nam”, luận văn thạc sĩ Khoa Luật –

Trƣờng Đại học Quốc gia Hà Nội (2006).

Về tình hình phát triển Thương mại điện tử

Năm 2001, xuất hiện nhiều bài báo, tài liệu chuyên khảo nghiên cứu

về tình hình phát triển TMĐT, có thể kể tới: TS. Lê Danh Vĩnh “Tình hình

triển khai chương trình quốc gia về thương mại điện tử” đƣợc đăng trong

kỷ yếu tuần lễ tin học X, Hà Nội tháng 09/2001”; Lê Hoài An “Bức tranh

toàn cảnh về Thương mại điện tử thế giới 2001” trên tạp chí Internet và

TMĐT số 11 tháng 12/2001; Phan Minh Hoa “Thương mại điện tử Việt

nam – Bây giờ hoặc không bao giờ” Thị trƣờng Tài chính tiền tệ số 17

tháng 09/2001; Trƣơng Minh Hoàng “Báo cáo của Liên hiệp quốc về

Thương mại điện tử” trên tạp chí Internet và TMĐT số 8 tháng 12/2001.

Cũng trong năm này, Bộ Thƣơng mại đã công bố “Dự thảo đề án phát

triển Thương mại điện tử ở Việt Nam giai đoạn 2001 – 2005”.

Trƣờng Đại học Ngoại thƣơng có hai luận văn thạc sĩ là: “Giao dịch

Thương mại điện tử trong hoạt động ngoại thương Việt Nam – Thực trạng

và giải pháp” của Lê Hữu Cƣờng (2003) và “Thương mại điện tử ở các

nước đang phát triển và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam” của

Nguyễn Ngọc Lân (2004); Th.S Nguyễn Văn Thảo (Phó tổng thƣ ký

Phòng Thƣơng mại và Công nghiệp Việt Nam, Trƣởng ban quản lý sàn

giao dịch TMĐT) có bài viết “Thực trạng và định hướng phát triển Thương

mại điện tử ở Việt Nam” đƣợc đăng trên tạp chí Thƣơng mại số 06/2004, đã

4

xác định những cơ hội, thuận lợi và thách thức cho quá trình phát triển

TMĐT ở Việt Nam, bằng việc tổng kết kinh nghiệm phát triển TMĐT của

các nƣớc trên thế giới, ông đã đƣa ra những kiến giải nhằm tạo điều kiện

cho TMĐT phát triển ở nƣớc ta nhƣ: cần hình thành một hệ thống các

nguyên tắc chỉ đạo và quan điểm thiết lập kết cấu hạ tầng công nghệ, kết

hợp với xây dựng một chƣơng trình tổng thể về TMĐT để từng bƣớc triển

khai một cách đồng bộ và có hệ thống.

Cùng năm 2004, Tạp chí Thƣơng mại số 14 có bài “Tạo lập đồng

bộ các yếu tố thị trường mua bán theo phương thức thương mại điện tử ở

Việt Nam” của Đinh Thị Nga, cũng đƣa ra một số giải pháp tạo điều kiện

phát triển Thƣơng mại điện tử trong những năm tiếp đó nhƣ: Nâng cao

nhận thức, đào tạo nguồn nhân lực, hỗ trợ cho doanh nghiệp triển khai

TMĐT, phát triển hạ tầng công nghệ, phát triển kết cấu hạ tầng thanh toán

điện tử ... Trên tạp chí Internet và TMĐT 06/2004 cũng có bài “Các

nguyên tắc chỉ đạo về Thương mại điện tử ở các nước ASEAN”.

Năm 2005 cũng xuất hiện hàng loạt các bài viết: Lan Anh trong

mục Vấn đề quan tâm đã tổng kết tình hình ứng dụng TMĐT ở các doanh

nghiệp qua các năm 2003 và 2004, đƣa ra những yêu cầu về mặt pháp lý

nhằm cung cấp thông tin cho các doanh nghiệp phát triển loại hình thƣơng

mại mới này qua bài “Cởi trói cho Thương mại điện tử” đƣợc đăng trên tạp

chí Thƣơng mại số 18/2005; bài “Những gã khổng lồ trong Thương mại

điện tử nhắm đến Trung Quốc” của Cao Anh Đức trên tạp chí Thƣơng mại

số 11/2005, với những dẫn chứng xác thực về thị trƣờng TMĐT, đã nhấn

mạnh TMĐT Trung Quốc ngày càng có sức hút lớn đối với những ông

trùm về TMĐT trên thế giới.

Cũng trong năm này, luận văn thạc sĩ Trƣờng Đại học Ngoại

thƣơng Hà Nội “Mô hình phát triển Thương mại điện tử ở một số nước

5

Châu Á và một số giải pháp cho mô hình phát triển thương mại điện tử ở

Việt Nam” của Phạm Trung Đà đã đƣa ra một số giải pháp nhằm phát

triển TMĐT nƣớc ta sau khi tổng kết kinh nghiệm mô hình của một số

nƣớc trong khu vực Châu Á. Tới năm 2006, luận văn thạc sĩ của Phạm Văn

Vũ “Giải pháp đẩy mạnh thương mại điện tử trong doanh nghiệp xuất khẩu

tại Việt Nam” tại Trƣờng Đại học Ngoại thƣơng một lần nữa lại đề cập tới

vấn đề nêu trên.

Nguyễn Bá Thƣơng (2008), “Phát triển thương mại điện tử trong

các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt Nam”, Luận văn Thạc sĩ Trƣờng Đại

học Ngoại thƣơng.

Nguyễn Thị Hương (2011), Phát triển Thương mại điện tử ở Việt

Nam trong nền kinh tế thị trường, Luận văn thạc sĩ Trƣờng Đại học Quốc

gia Hà Nội.

Gần đây nhất là một loạt các bài viết đăng trong kỷ yếu hội thảo

“Thương mại điện tử trong quá trình hội nhập và phát triển” do Ủy ban

Quốc gia về Hợp tác kinh tế quốc tế, Cục Thƣơng mại – Bộ Công thƣơng

và Hiệp hội Thƣơng mại điện tử Việt Nam tổ chức tại Hà Nội tháng

12/2011 nhƣ: PGS. TS. Lê Danh Vĩnh “Thương mại điện tử trong tiến

trình hội nhập kinh tế quốc tế”; GS. TS. Đỗ Thế Tùng “Những giải pháp

chủ yếu đẩy mạnh sự phát triển thương mại điện tử ở Việt Nam”; Trịnh

Minh Anh “Thương mại điện tử trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế ở

Việt Nam”. TS. Nguyễn Văn Thoan “Phân tích tình hình phát triển

Thương mại điện tử tại Hoa Kỳ, EU và một số định hướng phát triển

Thương mại điện tử tại Việt Nam.

Ngày 29/3/2012 tại Phim trƣờng Đài Truyền hình Bình Dƣơng, đã

diễn ra cuộc tọa đàm về chủ đề “Lợi ích của Thương mại điện tử trong giao

thương hiện đại” trong chƣơng trình “ Hội nhập kinh tế thế giới”.

6

Đặc biệt, “Báo cáo Thương mại điện tử” của Bộ Công thƣơng từ

năm 2003 đến năm 2013” và “Báo cáo chỉ số Thương mại điện tử năm

2012”, “Báo cáo chỉ số Thương mại điện tử 2013” của Bộ Công thƣơng đã

phản ánh khá đầy đủ những bƣớc tiến của TMĐT Việt Nam so với các năm

trƣớc đó. Dựa trên kết quả điều tra, nghiên cứu, đánh giá chính sách về

TMĐT trong các doanh nghiệp trên toàn quốc, báo cáo Thƣơng mại điện tử

của từng năm đã đƣa ra một cái nhìn toàn cảnh về môi trƣờng vĩ mô cho

TMĐT cũng nhƣ tình hình ứng dụng TMĐT trong doanh nghiệp. Báo cáo

đƣa ra những cơ hội và thách thức trong bối cảnh Việt Nam là thành viên

của Tổ chức Thƣơng mại Thế giới WTO, những kết quả sau khi triển khai

luật giao dịch điện tử, sự phát triển vƣợt bậc của hạ tầng thanh toán và các

mô hình ứng dụng TMĐT điển hình trong cộng đồng doanh nghiệp.

Về mặt pháp lý

- Chỉ thị số 58 – CT/TW ngày 17/10/2000 của Ban chấp hành Trung

ƣơng Đảng về đẩy mạnh ứng dụng và phát triển CNTT đƣợc xem là văn

kiện quan trọng nhất phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH ở nƣớc ta.

- Quyết định số 222/2005/QĐ-TTg ngày 15/09/2005 của Thủ tƣớng

Chính phủ về việc phê duyệt kế hoạch tổng thể phát triển TMĐT giai đoạn

2006 – 2010.

- Nghị định số 26/2007/NĐ-CP ngày 23/02/2007 của Chính phủ về

giao dịch điện tử trong hoạt động tài chính. Nghị định gồm 11 chƣơng và

73 điều; Nghị định số 27/2007/NĐ-CP ngày 23/02/2007/NĐ-CP về giao

dịch điện tử trong hoạt động tài chính gồm 5 chƣơng 22 điều; Nghị định số

35/2007/NĐ-CP ngày 08/03/2007 về giao dịch điện tử trong hoạt động

ngân hàng gồm 5 chƣơng 30 điều; Nghị định số 63/2007/NĐ-CP ngày

10/04/2007 của Chính phủ quy định về xử phạt hành chính trong lĩnh vực

7

CNTT gồm 5 chƣơng 36 điều; Nghị định số 64/2007/NĐ-CP về ứng dụng

CNTT trong hoạt động của cơ quan Nhà nƣớc gồm 5 chƣơng 56 điều.

- Thông tƣ 09/2008 TT-BCT ngày 21/07/2008 của Bộ Công thƣơng

hƣớng dẫn Nghị định TMĐT về cung cấp thông tin và giao kết hợp đồng

trên Website TMĐT gồm 5 phần.

- Quyết định số 48/2009 QĐ-TTg ngày 31/03/2009 của Thủ tƣớng

Chính phủ phê duyệt Kế hoạch ứng dụng CNTT trong hoạt động của cơ

quan Nhà nƣớc giai đoạn 2009 – 2010; Quyết định số 50/2009/QĐ-TTg

ngày 03/04/2009 của Thủ tƣớng Chính phủ về việc ban hành “Quy chế

quản lý Chƣơng trình phát triển công nghiệp phần mềm và Chƣơng trình

phát triển công nghiệp nội dung số Việt Nam”; Quyết định số 698/QĐ-TTg

ngày 01/06/2009 của Thủ tƣớng Chính phủ về việc phê duyệt Kế hoạch

tổng thể phát triển nguồn nhân lực CNTT đến năm 2015 và định hƣớng đến

năm 2020.

Nhìn chung, Đảng và Chính phủ ta đã sớm thấy đƣợc vai trò quan

trọng của CNTT và TMĐT đối với quá trình phát triển đất nƣớc. Tuy

nhiên, hệ thống các văn bản pháp lý trong lĩnh vực này còn chƣa đồng bộ

và thiếu tính chặt chẽ.

Về vấn đề khó khăn, bất cập trong phát triển TMĐT

Lan Anh “Phát triển Thương mại điện tử tại Việt Nam – Rào cản

từ chính doanh nghiệp” Thời báo kinh tế Sài Gòn số 28 tháng 7/2001; Đào

Trọng Nghĩa (2002), “Thương mại điện tử và những vấn đề đặt ra đối với

Việt Nam”, Luận văn thạc sĩ Trƣờng Đại học Quốc Gia Hà Nội – Khoa

Kinh tế .

Hai bài “Thương mại điện tử - Cơ hội và rủi ro” và “Để Thương

mại điện tử thành hiện thực” trên Tạp chí Thƣơng mại số 18/2005 đã chỉ

một thách thức lớn đối với sự phát triển TMĐT ở Việt Nam. Đó là tình

8

trạng thiếu nhân lực và hiện tƣợng các doanh nghiệp, cá nhân tạo lập

website tràn lan, sử dụng không có hiệu quả đã gây lãng phí lớn.

Vũ Anh Tuấn (2008), “Bảo mật và àn toàn thông tin trong Thương

mại điện tử”, Luận văn thạc sĩ Trƣờng Đại học Thái Nguyên.

Th.s. Nguyễn Thị Hương “Những cản trở của thương mại điện tử ở

Việt Nam hiện nay và giải pháp”đăng trong kỷ yếu hội thảo “Thương mại

điện tử trong quá trình hội nhập và phát triển”(2011).

Gần đây nhất là một loạt bài đăng trong Kỷ yếu hội thảo “Phát triển

Thương mại điện tử trong bối cảnh tái cơ cấu nền kinh tế” đƣợc tổ chức tại

Thành phố Hồ Chí Minh tháng 11/2012: Nguyễn Ngọc Sơn “Những hạn

chế và rào cản trong quá trình ứng dụng Thương mại điện tử của các

doanh nghiệp Việt Nam”; Triệu Việt Cƣờng “Vấn đề an toàn trong thanh

toán điện tử tại Việt Nam”.

Nhƣ vậy, phát triển TMĐT là một đề tài thu hút đƣợc sự quan tâm

của nhiều nhà nghiên cứu. Tuy nhiên các công trình nêu trên chủ yếu tập

trung vào nghiên cứu lý luận về TMĐT hoặc một vài khía cạnh kỹ thuật về

phát triển TMĐT, còn ít đề cập một cách toàn diện đến những trở ngại

trong phát triển TMĐT và đề xuất giải pháp khả thi để khắc phục. Mặt

khác, trong giai đoạn hiện nay, tình hình tội phạm công nghệ cao lợi dụng

TMĐT để kiếm lợi cá nhân gây thiệt hại lớn cho xã hội đang là một vấn đề

bức xúc trên báo đài và các trang báo mạng. Do đó, việc đi vào nghiên cứu

những trở ngại trong phát triển TMĐT trở nên rất cấp thiết.

Luận văn này thừa kế những kết quả đã đƣợc công bố ở trên nhƣng

không đi sâu vào lý luận hay các nghiệp vụ trong TMĐT mà chủ yếu phát

hiện những trở ngại đối với sự phát triển TMĐT ở nƣớc ta hiện nay để từ

đó tìm ra nguyên nhân và cách khắc phục.

9

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

* Mục đích

Luận văn phân tích những trở ngại đối với sự phát triển TMĐT ở

nƣớc ta thời gian qua, từ đó đề xuất những giải pháp chủ yếu để khắc phục.

* Nhiệm vụ nghiên cứu

Thứ nhất, kế thừa lý luận về TMĐT, làm rõ những điều kiện cần

thiết để phát triển TMĐT lành mạnh.

Thứ hai, phân tích những trở ngại đối với phát triển TMĐT ở Việt

Nam thời gian qua.

Thứ ba, đề xuất giải pháp khắc phục những trở ngại đó.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

* Đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu những trở

ngại đối với phát triển TMĐT.

* Phạm vi nghiên cứu:

+ Về không gian: Luận văn nghiên cứu những trở ngại đối với phát

triển TMĐT ở Việt Nam.

+ Về thời gian: Từ năm 2000 đặc biệt là trong những năm (2005 –

2012).

5. Phƣơng pháp nghiên cứu

Luận văn sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu của khoa học Kinh

tế chính trị, đặc biệt coi trọng phƣơng pháp phân tích và tổng hợp, kết hợp

logic với lịch sử, phƣơng pháp thống kê, tổng hợp, khái quát hóa và hệ

thống hóa tài liệu.

6. Những đóng góp mới của luận văn

Luận văn đã phân tích rõ những hạn chế gây trở ngại cho phát triển

TMĐT ở Việt Nam, nhƣ môi trƣờng pháp lý chƣa hoàn thiện; dịch vụ vận

chuyển và giao nhận còn yếu; nguồn nhân lực chƣa đáp ứng yêu cầu phát

10

triển TMĐT; hệ thống thanh toán điện tử chƣa phát triển; nhận thức của

ngƣời dân về TMĐT còn thấp; an ninh mạng chƣa đảm bảo; môi trƣờng xã

hội và tập quán kinh doanh chƣa phù hợp. Có những mô hình kinh doanh

mang danh nghĩa TMĐT tiềm ẩn nhiều rủi ro; hay lừa đảo; bán hàng giả,

hàng kém chất lƣợng ... gây thiệt hại cho ngƣời tiêu dùng và làm mất lòng

tin của họ vào TMĐT. Từ đó, luận văn đã đề xuất những giải pháp để khắc

phục những hạn chế nêu trên.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung chính

của luận văn đƣợc trình bày trong ba chƣơng nhƣ sau:

Chƣơng 1:Thƣơng mại điện tử và những điều kiện cần thiết để phát triển

Thƣơng mại điện tử lành mạnh

Chƣơng 2: Những trở ngại đối với phát triển Thƣơng mại điện tử ở Việt

Nam thời gian qua

Chƣơng 3: Giải pháp khắc phục trở ngại để phát triển Thƣơng mại điện tử

lành mạnh.

11

CHƢƠNG 1: THƢƠNG MẠI ĐIỆN TỬ VÀ NHỮNG ĐIỀU KIỆN CẦN

THIẾT ĐỂ PHÁT TRIỂN THƢƠNG MẠI ĐIỆN TỬ LÀNH MẠNH

1.1. Khái niệm, đặc trƣng cơ bản và các hình thức giao dịch chủ yếu của

TMĐT

1.1.1. Khái niệm

1.1.1.1. Khái niệm TMĐT

Có nhiều khái niệm về “Thƣơng mại điện tử” (TMĐT), nhƣng hiểu một

cách tổng quát, TMĐT là việc tiến hành một phần hay toàn bộ hoạt động

thƣơng mại truyền thống thông qua các phƣơng tiện điện tử mới, các hoạt

động thƣơng mại đƣợc thực hiện nhanh hơn, hiệu quả hơn, giúp tiết kiệm chi

phí và mở rộng không gian kinh doanh.

Định nghĩa đƣợc đƣa ra trong Luật mẫu về TMĐT của Ủy ban Liên

hợp quốc UNCITRAL : Thuật ngữ Thƣơng mại cần đƣợc diễn đạt theo nghĩa

rộng để bao quát các vấn đề phát sinh từ mọi quan hệ mang tính chất thƣơng

mại dù có hay không có hợp đồng. Các quan hệ mang tính thƣơng mại bao

gồm các giao dịch sau đây: Bất cứ giao dịch thƣơng mại nào về cung cấp hoặc

trao đổi hàng hóa, dịch vụ; thỏa thuận phân phối, đại diện hoặc đại lý thƣơng

mại, ủy thác hoa hồng; cho thuê dài hạn; xây dựng các công trình; tƣ vấn; kỹ

thuật công trình; đầu tƣ; cấp vốn; ngân hàng; bảo hiểm; thỏa thuận khai thác

hoặc tô nhƣợng; liên doanh các hình thức về hợp tác công nghiệp hoặc kinh

doanh; chuyên chở hàng hóa hay hành khách bằng đƣờng biển, đƣờng không,

đƣờng sắt hoặc đƣờng bộ.

Định nghĩa của Liên minh Châu Âu: Thƣơng mại điện tử bao gồm các

giao dịch thƣơng mại thông qua các mạng viễn thông và sử dụng các phƣơng

tiện điện tử. Nó bao gồm TMĐT gián tiếp (trao đổi hàng hóa hữu hình) và

TMĐT trực tiếp (Trao đổi hàng hóa vô hình).

12

Định nghĩa của WTO: TMĐT bao gồm việc sản xuất, quảng cáo, bán

hàng và phân phối sản phẩm đƣợc mua bán và thanh toán trên mạng Internet,

nhƣng đƣợc giao nhận một cách hữu hình hoặc giao nhận qua Internet dƣới

dạng số hóa.

Định nghĩa của OECD (Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế thế giới):

TMĐT là việc kinh doanh thông qua mạng Internet, bán những hàng hóa và

dịch vụ có thể đƣợc phân phối thông qua mạng hoặc không thông qua mạng.

Nhƣ vậy, hiểu một cách tổng quát theo nghĩa rộng: TMĐT là việc ứng

dụng các thành tựu của CNTT và truyền thông vào các hoạt động quản lý và

kinh doanh thƣơng mại (hay là việc tiến hành các giao dịch thƣơng mại thông

qua mạng Internet, các mạng truyền thông và các phƣơng tiện điện tử khác).

Theo nghĩa hẹp, TMĐT là việc mua bán hàng hóa, dịch vụ thông qua các

phƣơng tiện điện tử và các mạng viễn thông. Luận văn này sử dụng khái niệm

TMĐT theo nghĩa hẹp.

Các phƣơng tiện kỹ thuật của TMĐT bao gồm: điện thoại, máy điện

báo (Telex) và máy fax, truyền hình, thiết bị kỹ thuật thanh toán điện tử,

mạng nội bộ và liên mạng nội bộ, internet. Các hình thái hoạt động của

TMĐT gồm thƣ điện tử (Electronic mail, gọi tắt là Email), thanh toán điện tử,

trao đổi dữ liệu điện tử (Electronic Data Interchange – EDI); giao gửi số hóa

các dung liệu (content), dung liệu là các hàng hóa và cái con ngƣời ta cần đến

là các nội dung của nó (hay nói cách khác chính nội dung là hàng hóa) chứ

không phải bản thân vật mang nội dung, ví dụ nhƣ tin tức, sách báo, nhạc,

phim, các ý kiến tƣ vấn, vé máy bay, vé xem phim, xem hát, các chƣơng trình

bán lẻ, hàng hóa hữu hình, tức là ngƣời bán xây dựng các “cửa hàng ảo” trên

mạng, ngƣời mua sử dụng mạng internet/web tìm trang web của cửa hàng

xem hàng hóa hiển thị trên màn hình, xác nhận mua, trả tiền bằng hình thức

thanh toán điện tử sau đó cửa hàng giao hàng tới tận nhà.

13

Giao dịch TMĐT (Electronic commerce transaction) bao gồm 4 kiểu:

giữa Ngƣời với Ngƣời: qua điện thoại, máy fax và email; Ngƣời với Máy tính

điện tử: một cách tực tiếp hoặc qua các mẫu biểu điện tử (Electronic Form) và

qua mạng internet; máy tính điện tử với máy tính điện tử: qua trao đổi EDI,

thẻ thông minh (smart card), các dữ liệu mà gọi là dữ liệu mã vạch; máy tính

điện tử với ngƣời: qua thƣ tín do máy tự động sinh ra, máy fax và thƣ điện tử.

Ở Việt Nam, TMĐT là thuật ngữ mới xuất hiện trong những năm gần

đây và cũng chƣa có văn bản pháp lý chính thức đƣa ra định nghĩa chính xác

về TMĐT. Phần lớn đều cho TMĐT là việc mua bán hàng hóa và dịch vụ

thông qua các phƣơng tiện điện tử và các mạng viễn thông, chủ yếu là máy

tính và internet. Tuy nhiên, căn cứ vào định nghĩa đã có trên thế giới và Việt

Nam, xét thực tế và tƣơng lai phát triển của TMĐT theo hƣớng “thƣơng mại”

theo nghĩa rộng (tức là thƣơng mại hiện đại) còn “điện tử” theo nghĩa hẹp. Có

nghĩa là “TMĐT là mọi hoạt động thƣơng mại đƣợc thực hiện thông qua

mạng Internet và các mạng viễn thông khác”. Luận văn cũng dùng khái niệm

này để nghiên cứu.

1.1.1.2. Khái niệm và tiêu chí đánh giá TMĐT lành mạnh

Khái niệm Thƣơng mại điện tử lành mạnh (tác giả đƣa ra) là việc các

doanh nghiệp thực hiện mua bán hàng hóa, dịch vụ thông qua các phƣơng tiện

điện tử và các mạng viễn thông tuân thủ và cạnh tranh theo đúng Hiến pháp

và pháp luật.

Hệ thống tiêu chí đánh giá TMĐT lành mạnh đƣợc đƣa ra dựa trên

những yếu tố nhƣ sau:

Thứ nhất, các doanh nghiệp kinh doanh TMĐT cần phải tạo lập sự tin

tƣởng của khách hàng thông qua chính sách bảo vệ thông tin cá nhân. Đồng

thời phải tuân thủ nghiêm ngặt mọi cam kết đã đƣa ra đối với khách hàng.

Đảm bảo mọi giao dịch đều diễn ra thành công.

14

Thứ hai, các sản phẩm mà doanh nghiệp đƣa ra phải đảm bảo uy tín,

chất lƣợng. Quy trình giao nhận đơn giản, rõ ràng và đúng hẹn.

Thứ ba, thể hiện sự công bằng trong chính sách giải quyết khiếu nại.

Đƣa ra chế tài xử phạt rõ ràng, nghiêm minh, đủ sức răn đe đối với những

hành vi vi phạm.

1.1.2. Những đặc trưng của Thương mại điện tử

So với các hoạt động thƣơng mại truyền thống TMĐT có một số điểm

khác biệt cơ bản sau:

1.1.2.1. Không cần tiếp xúc trực tiếp trong giao dịch thương mại

Các bên tiến hành giao dịch trong TMĐT không tiếp xúc trực tiếp với

nhau và không đòi hỏi phải biết nhau từ trƣớc.

Trong Thƣơng mại truyền thống, các bên thƣờng gặp nhau trực tiếp để

tiến hành giao dịch, chủ yếu là chuyển tiền, séc hóa đơn, vận đơn, gửi báo

cáo. Các phƣơng tiện viễn thông nhƣ fax, telex, … chỉ đƣợc sử dụng để trao

đổi số liệu kinh doanh. Tuy nhiên, việc sử dụng các phƣơng tiện điện tử trong

thƣơng mại truyền thống chỉ để chuyển tải thông tin một cách trực tiếp giữa

hai đối tác của cùng một giao dịch.

TMĐT cho phép mọi ngƣời từ nhiều vùng miền khác nhau có cơ hội

ngang nhau tham gia vào thị trƣờng giao dịch toàn cầu mà không đòi hỏi phải

có mối liên hệ từ trƣớc. Các giao dịch cũng đƣợc thực hiện một cách nhanh

chóng và linh hoạt hơn so với giao dịch thƣơng mại truyền thống.

1.1.2.2. Được thực hiện trong một thị trường thống nhất toàn cầu

Các giao dịch thƣơng mại truyền thống đƣợc thực hiện với sự tồn tại

của khái niệm biên giới quốc gia, còn thƣơng mại điện tử đƣợc thực hiện

trong một thị trƣờng không có biên giới. TMĐT trực tiếp tác động tới môi

trƣờng cạnh tranh toàn cầu. Với TMĐT thì bất kỳ một doanh nghiệp nào dù

15

mới thành lập cũng có thể tham gia giao dịch trong một thị trƣờng rộng lớn,

xuyên quốc gia mà không cần thiết phải bƣớc ra khỏi nhà.

1.1.2.3. Số lượng chủ thể giao dịch tối thiểu là 3 bên

Trong hoạt động giao dịch TMĐT đều có sự tham gia của ít nhất 3 chủ

thể; ngoài ngƣời bán và ngƣời mua còn có bên thứ ba là ngƣời cung cấp dịch

vụ mạng và cơ quan chứng thực. Ngoài các chủ thể tham gia quan hệ giao

dịch giống nhƣ giao dịch thƣơng mại truyền thống, trong giao dịch TMĐT đã

xuất hiện một bên thứ ba đóng vai trò là những ngƣời tạo môi trƣờng cho các

giao dịch TMĐT. Nhà cung cấp dịch vụ mạng và cơ quan chứng thực có

nhiệm vụ chuyển đi, lƣu giữ các thông tin giữa các bên tham gia giao dịch

thƣơng mại điện tử, đồng thời họ cũng xác nhận độ tin cậy của các thông tin

trong giao dịch thƣơng mại điện tử.

1.1.2.4. Mạng thông tin đóng vai trò quyết định trong hoạt động TMĐT

Đối với thƣơng mại truyền thống mạng lƣới thông tin chỉ là phƣơng

tiện để trao đổi dữ liệu, còn đối với TMĐT thì mạng lƣới thông tin là thị

trƣờng, đóng vai trò quyết định tới thành bại của hoạt động kinh doanh của

doanh nghiệp.

Thông qua TMĐT, nhiều loại hình kinh doanh mới đƣợc hình thành. Ví

dụ các siêu thị ảo, các trang web cung cấp hàng hóa và dịch vụ trên mạng máy

tính… ngày càng phát triển nhanh chóng khiến nhiều doanh nghiệp, cửa hàng

ngày nay đua nhau đƣa thông tin lên mạng nhằm khai thác mảng thị trƣờng vô

cùng rộng lớn này.

1.1.3. Các hình thức giao dịch chủ yếu của TMĐT

Ngƣời ta thƣờng phân chia các hình thức giao dịch của TMĐT theo đối

tƣợng tham gia, cụ thể hơn là các hình thức giao dịch giữa các chủ thể của

TMĐT là: Doanh nghiệp (B – Business), ngƣời tiêu dùng (C - Consumer) và

16

chính phủ (G - Government). Dựa vào chủ thể của TMĐT, có thể phân chia

TMĐT ra các loại hình phổ biến nhƣ sau:

Giao dịch giữa Doanh nghiệp với Doanh nghiệp (B2B): TMĐT B2B

đƣợc định nghĩa đơn giản là TMĐT giữa các công ty với nhau hay là loại hình

giao dịch qua các phƣơng tiện điện tử giữa Doanh nghiệp với Doanh nghiệp

đƣợc thực hiện trên các sàn giao dịch điện tử. Cụ thể, sau khi đăng kí trên các

sàn giao dịch B2B, các doanh nghiệp có thể chào hàng, tìm kiếm bạn hàng,

đặt hàng, ký kết hợp đồng, thanh toán qua hệ thống này.

Hình 1.1: Mô hình B2B

Nguồn: Thư viện Học liệu Mở Việt Nam (http://voer.edu.vn)

Đây là mô hình chiếm tỷ trọng lớn trong doanh số TMĐT của một quốc

gia, cũng là mô hình chiếm tỷ trọng chủ yếu trong doanh thu TMĐT toàn cầu.

Doanh số TMĐT B2B chiếm 92% - 95% doanh thu TMĐT toàn cầu trong 3

năm 2003-2005. Điển hình nhất và cũng là biểu hiện của mức độ phát triển

cao nhất của mô hình TMĐT B2B phải kể đến là website www.alibaba.com.

Trang Web hiện có hơn 4.830.000 thành viên đăng kí đến từ 240 nƣớc khác

nhau và là một trong những sàn giao dịch thƣơng mại Thế giới lớn nhất cung

cấp các dịch vụ Marketing trên mạng hàng đầu cho những nhà xuất khẩu và

nhập khẩu.

Mô hình TMĐT B2B ở Việt Nam thƣờng ít xuất hiện và còn gặp nhiều

khó khăn trong việc tìm kiếm nguồn vốn đầu tƣ. Có thể kể đến một vài

17

website B2B điển hình nhƣ: www.gophatdat.com; www.thuonghieuviet.com;

www.vnemart.com; www.ecvn.gov.vn; www.vietoffer.com.

Giao dịch giữa Doanh nghiệp với khách hàng (B2C) là mô hình kinh

doanh thƣơng mại điện tử mà các cửa hàng hoặc các công ty cung cấp cho

ngƣời tiêu dùng các hàng hóa, dịch vụ thông qua các trang website (chủ yếu

là mô hình bán lẻ). Ở đó các doanh nghiệp sử dụng các phƣơng tiện điện tử để

lựa chọn, đặt hàng, thanh toán và nhận hàng. Đây là hình thái sớm nhất của

TMĐT. Đơn giản hơn, chúng ta có thể hiểu Thƣơng mại điện tử B2C là việc

một doanh nghiệp thông qua mạng internet để trao đổi hàng hóa, dịch vụ do

mình tạo ra hoặc do mình phân phối. Đƣợc chia thành 2 mô hình con là B2C

trực tuyến và B2C kết hợp TMĐT với truyền thống.

Mô hình B2C trực tuyến đề cập đến giao dịch điện tử giữa doanh

nghiệp trực tuyến (hoặc ngƣời bán lẻ) đến ngƣời tiêu dùng.

Mô hình B2C TMĐT kết hợp với truyền thống là mô hình kết hợp giữa

các công ty hay cửa hàng truyền thống đến ngƣời tiêu dùng.

Hình 1.2: Giao dịch theo mô hình B2C

Nguồn: Thư viện Học liệu Mở Việt Nam (http://voer.edu.vn)

18

Hầu hết các doanh nghiệp thành công trong TMĐT B2C là những

doanh nghiệp cung cấp các sản phẩm, dịch vụ chất lƣợng cao với mức giá hấp

dẫn và tập trung chủ yếu ở những nơi có nền kinh tế rất phát triển, trình độ

ứng dụng CNTT cao, đây cũng là nơi có tỷ lệ ngƣời sử dụng internet cao nhất

thế giới. Các trang web khá thành công với hình thức này trên thế giới phải kể

đến Amazon.com, Drugstore.com, Beyond.com. Trong đó, điển hình phát

triển bậc nhất của mô hình B2B là website www.amazon.com. Đây là hệ

thống bán lẻ trực tuyến lớn nhất của Mỹ với doanh thu hàng tỷ đô la/năm

(34204 tỉ USD năm 2010). Amazon là công ty kinh doanh đa ngành, đa nghề

nhƣ sách, dịch vụ mua bán nhạc, phần mềm tin học, trang trí nội thất, game…

có tiềm năng và triển vọng bậc nhất hiện nay.

Ở Việt Nam có một số trang web hoạt động theo mô hình B2C nhƣ:

www.vatgia.com, www.lazada.vn, www.solo.vn, www.shoptretho.com.vn,

cho phép khách hàng quảng bá thƣơng hiệu, quảng bá sản phẩm miễn phí

hàng đầu của Việt Nam, chủ yếu là những mặt hàng điện tử, sách báo, quà

tặng, văn phòng phẩm, giày dép, quần áo….với nhiều hình thức thanh toán đa

dạng. Tuy nhiên, trong số đó có rất ít các doanh nghiệp quảng bá sản phẩm,

hàng hóa tự sản xuất ra mà đa số vẫn là kinh doanh thƣơng mại.

Giao dịch giữa Doanh nghiệp và Chính phủ (B2G) là loại hình giao

dịch điện tử giữa DN và các cơ quan Nhà nƣớc. Trong đó, cơ quan Nhà nƣớc

đóng vai trò là khách hàng, mua bán hàng hóa phục vụ cho các hoạt động

công bằng cách mua trực tiếp hoặc tiến hành đấu thầu trên mạng. Mặt khác,

các cơ quan Nhà nƣớc cũng thiết lập các website để cung cấp dịch vụ công

cho các DN nhƣ: hải quan điện tử; thuế điện tử, chứng nhận xuất xứ điện tử…

Giao dịch giữa cá nhân với cá nhân (C2C) là loại hình TMĐT giữa các

cá nhân với nhau. Ngƣời tiêu dùng tự mình tạo website hoặc thông qua các

sàn giao dịch sẵn có (nhƣ Napter, Ebay...) để thực hiện mua bán, đấu giá các

19

hàng hóa có nhu cầu. Bản chất của mô hình này là hình thức đấu giá trực

tuyến, chủ yếu dựa trên khả năng giao dịch tự do giữa những ngƣời tiêu dùng

ký kết hợp đồng trực tuyến, đặc biệt là đối với hàng hóa đã qua sử dụng.

Ngƣời mua có thể gửi yêu cầu lên web để ngƣời bán có thể thƣơng lƣợng và

hoàn tất giao dịch, ngƣời mua trong trƣờng hợp này có thể tìm đƣợc sản phẩm

với giá thấp.

Ebay là một website C2C đứng đầu trên thế giới với doanh thu khoảng

40 tỷ USD mỗi năm. Đây là một điển hình về kinh doanh TMĐT C2C theo

hình thức đấu giá trực tuyến.

Ở Việt Nam hiện đã có rất nhiều trang TMĐT hoạt động theo mô hình

C2C, tiêu biểu trong số đó là www.chodientu.vn, www.5giay.vn,

www.saigondaugia.com, www.aha.com.vn . Đó đều là các công ty có tiềm

năng và kinh doanh theo mô hình C2C, trong đó nổi bật nhất là

www.chodientu.vn. Mặc dù chƣa có thành công nào mang tính đột phá cho

các DN hoạt động theo mô hình này nhƣng đến nay họ cũng đã đạt đƣợc một

số thành tựu nhất định nhƣ: Liên kết với eBay, đầu tƣ từ Softbank, hệ thống

Adnet đƣợc nhiều website trong nƣớc sử dụng...

Giao dịch giữa chính phủ và người tiêu dùng (G2C) loại hình này

không phổ biến vì chủ yếu là các giao dịch mang tính hành chính giữa các cơ

quan Nhà nƣớc và ngƣời dân. Tuy nhiên, nó cũng có thể mang những yếu tố

của TMĐT nhƣ: hoạt động đóng thuế qua mạng, trả phí đăng ký hồ sơ...

Đây là những mô hình chủ yếu và đƣợc sử dụng phổ biến trên thế giới

và tại Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, bên cạnh đó còn tồn tại một vài mô hình

TMĐT vẫn chƣa đƣợc đề cập phổ biến nhƣ:

Mô hình C2B2C

Mô hình này đề cập đến một nhóm ngƣời tiêu dùng có chung sở thích

tiêu dùng và chia sẻ ý tƣởng cũng nhƣ cảm xúc thông qua Internet, từ đó hình

20

thành nên những nhóm tiêu dùng dựa trên những chủ đề (topic – based

consumption group) và khi những nhu cầu này đƣợc phản hồi về doanh

nghiệp họ sẽ cung cấp những sản phẩm thỏa mãn nhu cầu của nhóm ngƣời

tiêu dùng đó. Mô hình này dựa trên nền tảng mô hình TMĐT trung gian trong

đó loại bỏ đƣợc “Sự bất đối xứng về thông tin” đối với ngƣời tiêu dùng. Dựa

trên quan hệ cung và cầu của thị trƣờng, mô hình này có thể chia ra làm 2 mô

hình con: C2B2C định hƣớng nhu cầu (demand – based) và C2B2C định

hƣớng cung (Supply – based).

Với mô hình C2B2C định hƣớng nhu cầu, khi có nhu cầu mua sản

phẩm hoặc dịch vụ mà không có sẵn trực tuyến, ngƣời tiêu dùng (C2C) thông

báo cho trung gian là các công ty TMĐT (B), sau đó công ty cố gắng tìm ra

nguồn cung cấp từ các kênh khác nhau để đáp ứng nhu cầu của ngƣời tiêu

dùng (C).

Với mô hình C2B2C định hƣớng cung, khi cung cấp một số hàng hóa

để bán hàng trực tuyến, các nhà cung cấp (C) không thể tìm thấy ngƣời mua

kịp thời sẽ thông báo cho các công ty trung gian (B), sau đó công ty trung

gian sẽ cố gắng tìm kiếm khách hàng thông qua các kênh khác nhau để giải

quyết các vấn đề khó khăn của việc bán sản phẩm (C).

Những mô hình nhƣ 123mua cũng là một dạng của C2B2C, trên đó

ngƣời tiêu dùng mở shop của mình để bán hàng cho ngƣời tiêu dùng khác

thông qua dịch vụ của 123mua. Tuy nhiên, cũng không thể hoàn toàn là rạch

ròi C2B2C, bởi vì có nhiều dịch vụ nhƣ Tranh Thêu Chữ Thập, Cho thuê ô tô,

cty quà tặng doanh nghiệp,… mà ngƣời bán cũng chính là nhà sản xuất hoặc

một doanh nghiệp.

Mô hình B2B2C

Trong lĩnh vực Tài chính, Du lịch, các doanh nghiệp B2C thƣờng phải

tiêu tốn ngân sách để xây dựng website cá nhân và quảng bá để ngƣời tiêu

21

dùng sử dụng website đó. Nhƣng thực tế là ngƣời tiêu dùng thích vào một

trang web của đại lý bán vé máy bay, hay một tripadvisors (website du lịch

lớn nhất thế giới) để tìm kiếm tour du lịch cho mình, hoặc vào những trang

trung gian tài chính nơi mà họ tìm thấy cùng một lúc nhiều nhà cung cấp để

so sánh và lựa chọn. Từ đó có các mô hình kinh doanh dựa trên việc đi “thu

gom” các công ty B2C lại để hình thành nên B2B2C.

Hiểu một cách đơn giản, nếu nhƣ mô hình C2B2C là hai ngƣời tiêu

dùng thực hiện giao dịch mua bán thông qua một bên thứ ba thì B2B2C là mô

hình giao dịch mà ở đó DN bán sản phẩm hoặc dịch vụ cho ngƣời tiêu dùng

thông qua DN khác nhƣ một trung gian. Cách thức này chiếm một tỷ lệ khá

lớn trong các công ty đa quốc gia. Nó không còn hoàn toàn là B2B và cũng

không hoàn toàn là B2C mà nó là cả hai.

Trong thời đại offline (ngoại tuyến), chữ B thứ hai trong B2B2C đƣợc

gọi là “trung gian”, “kênh phân phối”. Nhƣng trong thời đại online (trực

tuyến), kênh phân phối không còn đơn giản chỉ là một “con ngựa” hay “cái

băng chuyền” giữa ngƣời sản xuất và ngƣời tiêu dùng nữa mà kênh trung gian

phân phối đƣợc coi là một DN đứng ra “đại diện mua hàng cho ngƣời tiêu

dùng” và đồng thời cũng lại chính là một đối tác kinh doanh của nhà sản xuất.

Ở Việt Nam, cách đây khoảng gần 10 năm, xuất hiện Siêu thị thông tin

Marofin (www.marofin.com và www.vuikhuyenmai.com) nhằm đáp ứng nhu

cầu mua của ngƣời tiêu dùng và nhu cầu bán của nhà sản xuất. Marofin cung

cấp cho ngƣời tiêu dùng những nhà cung cấp có uy tín trên thị trƣờng tạo

niềm tin cho khách hàng đang còn nghi ngờ về các thông tin trên mạng. Đây

là một trong những ví dụ của mô hình TMĐT B2B2C ở Việt Nam mặc dù mô

hình này đã bị phá sản trong một thời gian ngắn sau đó. Tuy nhiên, bài học từ

thất bại này để lại nhiều điều đáng suy ngẫm về sự phát triển TMĐT ở Việt

Nam hiện nay.

22

Một ví dụ điển hình về mô hình B2B2C là Rakuten, tập đoàn thƣơng

mại điện tử lớn nhất của Nhật Bản với tổng số vốn khoảng 13,5 tỷ USD và

doanh thu khoảng 4 tỷ USD/năm. Trong mô hình kinh doanh của Rakuten,

với một mức phí nhỏ, các nhà bán lẻ có thể nhờ trang web này bán hàng thay.

Khi một ngƣời tiêu dùng đặt hàng một sản phẩm qua mạng của Rakuten, đơn

đặt hàng này sẽ đƣợc chuyển đến nhà bán lẻ. Rakuten đƣợc nhận 2.6% doanh

thu bán hàng cho mỗi đơn hàng thành công.

Ngoài ra, còn phải kể đến một số trang web đang hoạt động theo mô

hình B2B2C ở Việt Nam đang phát triển khá thành công nhƣ: Enbac.com, chợ

trực tuyến, các công ty vừa và nhỏ đăng thông tin sản phẩm, bán hàng trực

tuyến, hỗ trợ quy trình thanh toán và giao nhận; Muachung.vn hoạt động theo

mô hình mua hàng theo nhóm.

1.1.4. Vai trò của Thương mại điện tử trong phát triển KT-XH

1.1.4.1 Góp phần mở rộng thị trường, rút ngắn khoảng cách giữa

doanh nghiệp và các quốc gia.

TMĐT cho phép tất cả mọi ngƣời, từ các tập đoàn đa quốc gia tới từng

cá nhân, từ đô thị đến những vùng xa xôi, từ những nƣớc phát triển đến những

nƣớc đang phát triển … cùng tham gia. Nếu nhƣ trƣớc đây, khi các phƣơng

thức kinh doanh mới ra đời thƣờng tạo nên lợi thế cho các công ty lớn có khả

năng tài chính dồi dào thì TMĐT lại đem lại cơ hội kinh doanh gần nhƣ

không khác biệt cho tất cả các doanh nghiệp. Một doanh nghiệp dù lớn hay

nhỏ cũng có thể thông qua mạng Internet để mở rộng thị trƣờng của mình ra

khắp toàn cầu chứ không chỉ giới hạn trong những thị trƣờng nhỏ hẹp. Bên

cạnh đó, ngƣời tiêu dùng ở bất cứ đâu với một máy tính kết nối mạng, nhờ sự

trợ giúp của các công cụ tìm kiếm trên Internet cũng có thể tìm thấy tất cả các

mặt hàng cần thiết từ các nhà cung cấp trên khắp thế giới. Việc mở rộng thị

trƣờng của cả ngƣời bán và ngƣời mua trên phạm vi toàn cầu sẽ góp phần rút

23

ngắn khoảng cách địa lý, tăng khả năng cạnh tranh giữa các doanh nghiệp,

thúc đẩy sản xuất phát triển, đƣa nền kinh tế của các nƣớc đến gần nhau hơn.

TMĐT còn giúp các nƣớc nghèo, các nƣớc đang phát triển có cơ hội

tiếp cận nền kinh tế tiên tiến của các nƣớc đang phát triển, tạo cơ hội rút ngắn

khoảng cách giữa các nƣớc trên thế giới. Nếu các nƣớc đang phát triển nhƣ

Việt Nam biết nắm bắt cơ hội, thực hiện các bƣớc đột phá để có thể tiến kịp

các nƣớc có nền kinh tế phát triển.

1.1.4.2. TMĐT góp phần làm giảm chi phí, tăng hiệu quả lao động xã

hội

TMĐT có tác động rất tích cực tới sự phát triển kinh tế, đó chính là

việc làm giảm đáng kể chi phí của cả ngƣời bán và ngƣời mua trong giao dịch

thƣơng mại. Đối với ngƣời bán, TMĐT giúp giảm chi phí sản xuất, kinh

doanh, trƣớc hết là chi phí văn phòng không giấy tờ, gọn nhẹ, hoạt động hiệu

quả hơn do đó tiết kiệm đƣợc nhân lực và vật lực. Hơn nữa, TMĐT còn giúp

doanh nghiệp giảm chi phí tiếp thị và bán hàng.

Bằng phƣơng tiện Internet/web, một nhân viên bán hàng có thể giao

dịch đƣợc với rất nhiều khách hàng, Catalog (danh mục sản phẩm) điện tử

trên web phong phú hơn nhiều và thƣờng xuyên cập nhật so với catalog in ấn

chỉ có khuôn khổ giới hạn và luôn luôn lỗi thời.

TMĐT cũng cho phép các doanh nghiệp giảm mức tồn kho cũng nhƣ

các chi phí quản lý khác. Việc giao dịch nhanh chóng và cập nhật thông tin về

nhu cầu khách hàng, giúp cắt giảm số lƣợng và thời gian lƣu kho cũng nhƣ

thay đổi phƣơng án sản phẩm nhằm bám sát nhu cầu thị trƣờng. Nhờ tính

công khai thông tin của tất cả các doanh nghiệp, giá cả hàng hóa trở nên minh

bạch. Không một doanh nghiệp nào có thể đẩy giá của mình lên quá cao so

với mặt bằng chung, cộng với việc tiết kiệm đƣợc các chi phí đầu vào, giá cả

hàng hóa sẽ có phần giảm hơn. Điều đó mang lại lợi ích cho cả ngƣời tiêu

24

dùng và doanh nghiệp. Khả năng phục vụ 24/24h hay nói cách khác là:

“Thƣơng mại không ngừng nghỉ” giúp cho các giao dịch trở nên hết sức thuận

tiện.

Nhƣ vậy, TMĐT góp phần làm tăng năng suất lao động thƣơng mại,

giảm chi phí, hạ giá thành sản phẩm, góp phần nâng cao đời sống nhân dân,

đem lại lợi ích cho toàn xã hội.

1.1.4.3. Tạo ra phương thức giao dịch mới, góp phần tăng cường quan

hệ thương mại

Thị trƣờng trong thƣơng mại truyền thống thƣờng nghiêng về phía cung

với việc sản xuất hàng hóa theo kiểu đại trà phục vụ cho nhiều ngƣời cùng

một lúc thì TMĐT lại nghiêng về phía cầu với phƣơng châm “khách hàng hóa

quá trình sản xuất”. Ở đây, khách hàng là đối tác chứ không phải là mục tiêu

nhƣ trong thƣơng mại truyền thống. TMĐT cũng làm thay đổi cách thức giao

tiếp, từ giao tiếp gặp mặt, trao đổi trực tiếp sang giao tiếp không gặp mặt, từ

đó làm tăng khả năng giao tiếp trên thị trƣờng.

Thông qua các mạng liên lạc trực tuyến, các nhà sản xuất, các nhà cung

cấp, phân phối và các đại lý có thể chia sẻ các thông tin về phát minh hay cải

tiến hàng hóa và dịch vụ của nhau. TMĐT còn cho phép “sản xuất mạng”, có

nghĩa là chia nhỏ từng phần quá trình sản xuất với các nhà thầu, những ngƣời

xa cách nhau về mặt địa lý nhƣng kết nối với nhau qua mạng máy tính. Với

sản xuất mạng, một công ty có thể phân công nhiệm vụ với các doanh nghiệp

thành viên trên thế giới với thời gian nhanh nhất. Lợi ích của sản xuất mạng

bao gồm giảm giá thành, tiếp thị chiến lƣợc tập trung hơn và hỗ trợ bán hàng

cho các sản phẩm, dịch vụ và hệ thống mới khi cần.

25

1.1.4.4. Góp phần nâng cao vai trò, hiệu quả quản lý Nhà nước về kinh

tế xã hội.

TMĐT tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình cung cấp thông tin về các

dịch vụ công cộng nhƣ y tế, giáo dục và các dịch vụ xã hội khác của Chính

phủ với giá ƣu đãi và chất lƣợng cao.

Trong y tế, cùng với sự ra đời của những trung tâm khám chữa bệnh từ

xa, trung tâm tƣ vấn sức khỏe qua mạng, hoạt động y tế cộng đồng đã có

những bƣớc tiến đáng kể, phục vụ và chăm sóc sức khỏe cho đông đảo ngƣời

dân. Các hình thức giáo dục nhƣ: giáo dục từ xa, đào tạo trực tuyến … có tác

dụng đa dạng hóa hoạt động giáo dục, đem đến cơ hội học tập và phát triển

cho nhiều ngƣời, nhất là những ngƣời ở vùng xa xôi. Các dịch vụ xã hội khác

nhƣ báo điện tử, hải quan điện tử, thuế … đƣợc cung cấp 24/24 giờ với địa

điểm không hạn chế sẽ giảm chi phí đáng kể cho cả ngƣời sử dụng và Chính

phủ. Quan hệ quản lý giữa Nhà nƣớc với doanh nghiệp và ngƣời dân thông

qua TMĐT sẽ thuận tiện, đơn giản và minh bạch hơn, giảm phiền hà, nhũng

nhiễu cho ngƣời dân, từ đó từng bƣớc hoàn thiện chính phủ điện tử.

Việc phát triển TMĐT cũng góp phần giải quyết các vấn đề nan giải

của xã hội nhƣ địa điểm xây dựng, giao thông …với các văn phòng, cửa hàng,

siêu thị trên mạng …sẽ làm giảm áp lực về đất đai đối với các doanh nghiệp.

Cũng nhờ có mạng máy tính và các phƣơng tiện điện tử hiện đại mà mọi

ngƣời ở nhà nhƣng vẫn làm việc, mua sắm, giải trí …đƣợc. Điều đó làm giảm

lƣu lƣợng tham gia giao thông, giảm ách tắc và tai nạn giao thông, làm cho xã

hội ổn định hơn.

Tuy có vai trò, tác dụng to lớn đối với sự phát triển kinh tế xã hội

nhƣng mặt khác nó cũng mang lại nhiều rủi ro, gây tác động tiêu cực, cản trở

sự phát triển của xã hội nói chung và nền kinh tế nói riêng, nhƣ khó đảm bảo

độ an toàn của thông tin trên mạng do nạn trộm cắp thông tin; nguy cơ lộ bí

26

mật thông tin giữa hai bên đối tác rất cao; sự cố kỹ thuật gây gián đoạn hoạt

động kinh doanh do mạch bị nghẽn. Trong một số trƣờng hợp, sự gián đoạn

kinh doanh có thể làm cho các hợp đồng thƣơng mại quốc tế bị vô hiệu hóa,

gây lãng phí nguồn nhân lực, dẫn đến sự phá sản nhanh chóng các doanh

nghiệp điện tử. Điều đó đòi hỏi sự quan tâm quản lý của cả phía Nhà nƣớc và

doanh nghiệp nhằm giảm bớt những tổn thất về kinh tế và tâm lý, tạo điều

kiện thuận lợi cho sự phát triển TMĐT.

1.1.4.5. Tạo điều kiện sớm tiếp cận kinh tế tri thức

TMĐT sẽ kích thích sự phát triển của ngành CNTT tạo cơ sở cho sự

phát triển nền kinh tế tri thức. Điều này mang tính chiến lƣợc và là chính sách

cần cho các nƣớc công nghiệp hóa. Bởi nếu không nhanh chóng tiếp cận nền

kinh tế tri thức thì sau khoảng một thập kỷ nữa, các nƣớc đang phát triển sẽ có

thể bị bỏ rơi hoàn toàn.

1.2. Những điều kiện cơ bản để phát triển Thƣơng mại điện tử lành mạnh

TMĐT bao trùm phạm vi rộng lớn các hoạt động kinh tế và xã hội, hạ

tầng của nó là cả một tổng hòa phức hợp: hạ tầng công nghệ; nguồn nhân lực;

bảo mật và an toàn; hạ tầng thanh toán tài chính tự động; bảo vệ sở hữu trí

tuệ; tác động văn hóa xã hội của Internet; lệ thuộc công nghệ. Chúng ta không

nên nhìn nhận TMĐT đơn thuần chỉ là sử dụng phƣơng tiện điện tử để thực

hiện các hoạt động thƣơng mại truyền thống, mà nên hiểu rằng một khi chấp

nhận và ứng dụng thƣơng mại điện tử thì toàn bộ hình thái hoạt động của một

nƣớc sẽ thay đổi, cả hệ thống giáo dục, tập quán làm việc, quan hệ quốc tế ...

Để ứng dụng TMĐT thì việc đầu tiên là cần có chính sách và quy định

về pháp lý của Nhà nƣớc, tham gia vào phần dịch vụ là các tổ chức nhƣ: ngân

hàng, tổ chức tài chính – tín dụng, tổ chức thẻ, các công ty bảo hiểm. Ngoài

ra, cần có mối liên hệ trực tuyến với quốc tế, thúc đẩy việc trao đổi và lƣu

27

thông hàng hóa với bên ngoài tiến tới toàn cầu hóa. Dƣới đây sẽ xem xét các

điều kiện cần thiết làm tiền đề và môi trƣờng cho hoạt động TMĐT.

1.2.1. Nguồn nhân lực

TMĐT có mối quan hệ từ ngƣời tiêu dùng, ngƣời sản xuất, phân phối

tới các cơ quan chính phủ và các nhà công nghệ. Việc áp dụng TMĐT tất yếu

làm nảy sinh hai đòi hỏi: Một là, mọi ngƣời đều quen thuộc và có khả năng

thành thạo hoạt động trên mạng. Hai là có một đội ngũ chuyên gia tin học

mạnh, thƣờng xuyên bắt kịp sự phát triển CNTT để phục vụ cho kinh tế số

hóa nói chung và TMĐT nói riêng (nay đã đến mức đổi mới hàng tuần), cũng

nhƣ có khả năng thiết kế các công cụ phần mềm đáp ứng nhu cầu hoạt động

của một nền kinh tế số hóa, tránh bị động, lệ thuộc hoàn toàn vào nƣớc khác.

Áp dụng TMĐT không những đòi hỏi mỗi ngƣời tham gia phải có khả

năng trao đổi thông tin một cách thành thạo trên mạng mà cần phải có những

hiểu biết cần thiết về kinh tế, thƣơng mại, luật pháp quốc tế, CNTT, và ngoại

ngữ. Do vậy, nhất thiết phải xây dựng đƣợc một đội ngũ chuyên gia giỏi,

thƣờng xuyên tiếp cận nhanh chóng và có hiệu quả những công nghệ mới để

đáp ứng kịp thời nhu cầu phát triển.

1.2.2. Kết cấu hạ tầng công nghệ thông tin, công nghệ điện tử

Để áp dụng TMĐT thì hạ tầng công nghệ phải đƣợc bảo đảm gồm:

CNTT; công nghệ viễn thông; công nghệ internet; công nghệ điện tử; công

nghệ điện lực; cùng với tổ chức hệ thống đào tạo và tiêu chuẩn công nghệ.

Hạ tầng CNTT là điều kiện tiên quyết bảo đảm thông tin (bao gồm

phần cứng và phần mềm) và các dịch vụ thích hợp để áp dụng và phát triển

TMĐT nhằm mang lại hiệu quả kinh tế. Tƣơng tự, hạ tầng công nghệ viễn

thông cũng là điều kiện thiết yếu để áp dụng và phát triển TMĐT. Trong khi

đó, hạ tầng công nghệ internet cung cấp thông tin phong phú, đa dạng, nhanh

28

chóng sẽ là điều kiện thúc đẩy lao động sáng tạo, tạo cơ hội thành công trong

cạnh tranh và đƣa lại hiệu quả tốt cho các hoạt động hợp tác trao đổi.

Ngoài ra, TMĐT muốn phát triển đƣợc cần tuân thủ tiêu chuẩn công

nghệ của quốc gia và quốc tế về: thƣơng mại, thanh toán, vận chuyển, hải

quan, tài chính... Những hệ thống công nghệ đơn lẻ sẽ không thể trao đổi

đƣợc với nhau trên phạm vi quốc gia hoặc toàn cầu nếu không tuân thủ những

tiêu chuẩn chung này. Do vậy, mỗi nƣớc ngoài việc xây dựng và áp dụng các

tiêu chuẩn quốc gia về công nghệ cho mình còn phải nghiên cứu và thừa nhận

các tiêu chuẩn quốc tế để đảm bảo sự tƣơng thích cho hội nhập toàn cầu.

Bên cạnh đó, hạ tầng công nghệ công nghiệp điện tử cũng là một điều

kiện quan trọng và cần thiết để chủ động chế tạo các thiết bị điện tử - tin học

– viễn thông đáp ứng nhu cầu sử dụng cho nhiều lĩnh vực kinh tế - xã hội

trong nƣớc và xuất khẩu. Trên cơ sở đó, sẽ có thể xây dựng đƣợc các công

nghệ tiên tiến, sử dụng nhiều loại thiết bị hiện đại và thích hợp đƣợc chế tạo

trong nƣớc dùng trong TMĐT, tránh lệ thuộc vào công nghệ nƣớc ngoài.

CNTT và TMĐT chỉ có thể hoạt động đáng tin cậy trên nền của một hạ

tầng điện lực vững chắc, đảm bảo cung cấp điện năng đầy đủ, ổn định, giá cả

hợp lý và rộng khắp trên phạm vi cả nƣớc. Đây là một trong những điều kiện

khó khăn đối với các nƣớc đang phát triển.

1.2.3. Môi trường pháp lý

Môi trƣờng pháp lý là vấn đề xuyên suốt và liên quan tới nhiều hoạt

động khác nhau của TMĐT. Cho nên để tạo điều kiện cho kết cấu hạ tầng

phát triển TMĐT đồng bộ thì các vấn đề pháp lý cần phải quan tâm là:

Khung pháp luật thƣơng mại phải có tính thống nhất để có thể điều

chỉnh cả các hoạt động thƣơng mại nói chung và các giao dịch nói riêng thông

qua các phƣơng tiện công nghệ đƣợc sử dụng trong hoạt động TMĐT. Mặt

khác, tính thống nhất của khung pháp luật về TMĐT không chỉ thể hiện trong

29

nƣớc mà còn phải mang tính toàn cầu, nghĩa là phải có luật thừa nhận tính

pháp lý của giao dịch TMĐT.

Các vấn đề: bảo vệ quyền tác giả, bảo hộ các cơ sở dữ liệu, bằng sáng

chế, thƣơng hiệu, tên miền, và các vấn đề liên quan đến mọi hình thức giao

dịch điện tử nhƣ bảo vệ bí mật cá nhân; bảo vệ an ninh; thừa nhận tính pháp

lý của chữ ký điện tử, chữ ký số cần đƣợc quan tâm xây dựng và hoàn thiện.

Đồng thời, cần có một thể chế pháp lý, các cơ quan pháp lý thích hợp cho việc

xác thực/chứng thực chữ ký điện tử và chữ ký số. Xây dựng một hệ thống

pháp lý để bảo vệ mạng thông tin là cần thiết nhằm chống tội phạm xâm nhập

với các mục đích bất hợp pháp, nhƣ thu nhập tin tức mật, thay đổi thông tin

trên trang mạng, thâm nhập vào các dữ liệu, sao chép trộm các phần mềm,

truyền virus phá hoại… Tới nay từng nƣớc đã có thể có các luật đơn hành này

nhƣng điều cần thiết là phải đƣa vào khuôn khổ của bộ luật hình sự, một khi

nền kinh tế số hóa đƣợc thừa nhận trên tầm quốc gia.

Trong các quan hệ giao dịch TMĐT, khả năng xảy ra tranh chấp là điều

khó tránh khỏi, vấn đề thi hành các phán quyết và quyết định của cơ quan giải

quyết tranh chấp đƣợc thực hiện nhƣ thế nào cũng là một trong những khó

khăn, thách thức lớn đối với việc hoàn thiện khung pháp lý cho TMĐT.

1.2.4. Sự quản lý của Nhà nước về thương mại điện tử

Đối tƣợng và phạm vi quản lý Nhà nƣớc về TMĐT bao quát hầu hết

các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội. Do vậy, trƣớc tiên cần phải xác

định quản lý Nhà nƣớc về TMĐT thuộc loại hình thức quản lý xã hội và là

một bộ phận quản lý Nhà nƣớc, nhƣng không đơn thuần là quản lý kinh tế hay

quản lý văn hóa, xã hội hoặc an ninh quốc gia mà nó là một kiểu quản lý Nhà

nƣớc có tính phức hợp, đan xen của cả ba hình thức nêu trên.

Đối tƣợng của quản lý Nhà nƣớc về TMĐT là toàn bộ các hoạt động

TMĐT của tất cả các chủ thể (Chính phủ, doanh nghiệp, ngƣời tiêu dùng) ở

30

mọi hình thức, mọi cấp độ và trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã

hội trong quá trình hình thành, ứng dụng và phát triển TMĐT.

Khi nói đến quản lý Nhà nƣớc về TMĐT là nói đến cả hai nội dung:

một là, quản lý bằng chiến lƣợc, luật pháp, chính sách và cơ chế; hai là, vai

trò mở đƣờng thúc đẩy, tổ chức tham gia của Nhà nƣớc bằng những hình

thức, phƣơng tiện và công cụ cụ thể. Vì vậy, về mặt phƣơng pháp luận không

thể tách rời vấn đề quản lý Nhà nƣớc với vấn đề vai trò của Chính phủ đối với

sự phát triển của TMĐT.

1.2.5. Các vấn đề khác phải quan tâm

Thứ nhất là môi trƣờng quốc gia: Chính phủ từng nƣớc phải thiết lập

đƣợc môi trƣờng kinh tế, pháp lý và xã hội (cả văn hóa giáo dục) cho nền

kinh tế số hóa nói chung và cho TMĐT nói riêng (ví dụ: các dịch vụ hành

chính, các dịch vụ thu trả thuế, các dịch vụ khác nhƣ thƣ tín, dự báo thời tiết,

thông báo giờ tàu xe…) và đƣa các nội dung của kinh tế số hóa vào văn hóa

và giáo dục các cấp.

Thứ hai là môi trƣờng quốc tế: TMĐT mang tính không biên giới nên

môi trƣờng kinh tế, pháp lý và xã hội quốc gia cũng phải thích ứng với môi

trƣờng kinh tế, pháp lý và xã hội quốc tế. Đây chính là khía cạnh làm mất đi

tính ranh giới địa lý vốn là đặc tính cố hữu của ngoại thƣơng truyền thống và

là nguyên nhân dẫn tới những khó khăn về luật áp dụng để điều chỉnh hợp

đồng; thanh toán; thu thuế; khó khăn hơn nữa là đánh thuế các dung liệu, các

hàng hóa “phi vật thể” (nhƣ âm nhạc, chƣơng trình truyền hình, chƣơng trình

phần mềm… đƣợc giao dịch trực tiếp giữa các đối tác qua mạng); thu thuế

trong trƣờng hợp thanh toán bằng thẻ thông minh; cách kiểm toán các công ty

buôn bán bằng phƣơng thức TMĐT; bảo vệ sở hữu trí tuệ, bảo vệ chính trị và

bảo vệ bí mật riêng tƣ trong thông tin xuyên quốc gia giữa các nƣớc có hệ

31

thống luật pháp và hệ thống chính trị khác nhau; pháp luật quốc tế về sử dụng

không gian liên quan đến việc phóng và khai thác các vệ tinh viễn thông…

Thứ ba là vấn đề lệ thuộc công nghệ: Phát triển TMĐT đang đƣợc coi

là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lƣợc của mỗi quốc gia. Sự du nhập của TMĐT

vào các nền kinh tế là điều tất yếu, hơn thế còn là cơ hội đối với các quốc gia.

Nhƣng nếu chỉ tham gia vì lợi ích kinh tế nhất thời thì không nên, mà mỗi

nƣớc phải có một chiến lƣợc thích hợp để khỏi trở thành quốc gia thứ cấp về

công nghệ.

Thứ tƣ là những yếu tố về văn hóa xã hội: Việc ứng dụng CNTT sâu

rộng trong các hoạt động xã hội tạo ra một phƣơng thức lao động mới thuận

lợi và hiệu quả hơn so với các phƣơng thức cũ. Đồng thời làm thay đổi tác

phong và tập quán kinh doanh của cả xã hội, hình thành tác phong làm việc

của thời đại CNTT.

Bên cạnh đó, sự tác động của những yếu tố tiêu cực về văn hóa xã hội

trên internet cũng là một mối quan tâm quốc tế. Mạng internet trở thành nơi

giao dịch mua bán mại dâm, ma túy, buôn lậu của các lực lƣợng phản xã hội

đƣa lên; các hoạt động tuyên truyền kích dục có mục đích đối với trẻ em; các

hƣớng dẫn làm bom thƣ, làm chất nổ phá hoại và các loại tuyên truyền kích

động bạo lực; phân biệt chủng tộc; kỳ thị tôn giáo… Ở một số nơi, internet đã

trở thành một phƣơng tiện thuận lợi cho các lực lƣợng chống đối sử dụng làm

diễn đàn ngôn luận, hoạt động tuyên truyền, kích động lật đổ Chính phủ hoặc

gây rối loạn trật tự xã hội.

32

CHƢƠNG 2: NHỮNG TRỞ NGẠI ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN THƢƠNG

MẠI ĐIỆN TỬ Ở VIỆT NAM THỜI GIAN QUA

2.1. Những trở ngại đối với phát triển Thƣơng mại điện tử

Theo kết quả điều tra, khảo sát của Cục TMĐT & CNTT, Bộ Công

thƣơng năm 2010 với 3.400 doanh nghiệp trên cả nƣớc nhằm đánh giá những

trở ngại đối với việc ứng dụng CNTT và TMĐT với thang điểm từ 1 tới 4,

trong đó, 4 là mức trở ngại cao nhất. Kết quả cho thấy, các trở ngại đƣợc

doanh nghiệp đánh giá từ thấp tới cao theo thứ tự:

2.60

2.55

2.55

2.50

2.54

2.45

2.49

2.40

2.39

2.35

2.30

2.32

2.30

2.29

2.25 2.20 2.15

An ninh mạng chƣa đảm bảo

Môi trƣờng pháp lý chƣa hoàn thiện

Dịch vụ vận chuyển và giao nhận còn yếu

Nguồn nhân lực chƣa đáp ứng yêu cầu

Hệ thống thanh toán điện tử chƣa phát triển

Nhận thức của ngƣời dân về TMĐT thấp

Môi trƣờng xã hội và tập quán kinh doanh chƣa phù hợp

Hình 2.1: Đánh giá các trở ngại đối với ứng dụng của TMĐT

của doanh nghiệp năm 2010

Nguồn: Khảo sát của Cục TM ĐT & CNTT năm 2010

33

Môi trƣờng pháp lý chƣa hoàn thiện luôn đƣợc đánh giá nằm trong

nhóm các trở ngại cao nhất trong giai đoạn 2005-2008. Nhƣng đến năm 2010,

môi trƣờng pháp lý chƣa hoàn thiện lại đƣợc coi là trở ngại thấp nhất đối với

doanh nghiệp trong việc ứng dụng TMĐT. Điều này cho thấy sự nỗ lực của

các cơ quan nhà nƣớc trong việc hoàn thiện chính sách và pháp luật đã đem

lại những thành quả nhất định.

Trở ngại lớn nhất, theo khảo sát của Cục TMĐT & CNTT năm 2010, là

nhận thức của ngƣời dân về TMĐT thấp, môi trƣờng xã hội và tập quán kinh

doanh chƣa phù hợp. Nhƣ vậy, mặc dù doanh nghiệp đã rất tích cực trong

việc áp dụng CNTT và TMĐT nhƣng thực tế phát triển của xã hội cho thấy,

vẫn cần thêm thời gian để đạt đƣợc những bƣớc tiến cần thiết cho việc thiết

lập môi trƣờng kinh doanh và tiêu dùng tiên tiến ở nƣớc ta hiện nay.

Ngoài ra, vấn đề an ninh mạng chƣa đảm bảo vẫn đƣợc đánh giá là trở

ngại cao thứ hai cho thấy doanh nghiệp đã nhận thức đƣợc tầm quan trọng của

việc đảm bảo an toàn an ninh thông tin đối với việc ứng dụng TMĐT.

Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn, những trở ngại đối với sự phát

triển TMĐT lành mạnh đƣợc trình bày theo thứ tự sau:

2.1.1. Môi trường pháp lý chưa hoàn thiện

Từ năm 2005 đến nay, sau khi Kế hoạch tổng thế phát triển TMĐT giai

đoạn 2006-2010 đƣợc thủ tƣớng Chính phủ phê duyệt ngày 15 tháng 9 năm

2005, hệ thống văn bản pháp luật của Việt Nam về lĩnh vực TMĐT liên tục

đƣợc bổ sung và hoàn thiện.

Văn bản đầu tiên điều chỉnh chuyên sâu về lĩnh vực này là Luật Giao

dịch điện tử đƣợc Quốc hội ban hành vào tháng 11 năm 2005, đặt nền tảng

pháp lý cơ bản cho các giao dịch điện tử trong xã hội thông qua việc thừa

nhận giá trị pháp lý của thông điệp dữ liệu và quy định về chữ ký điện tử.

Năm 2006, Quốc hội ban hành Luật Công nghệ thông tin quy định về các biện

34

pháp đảm bảo và phát triển CNTT; quyền và nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức,

cá nhân tham gia hoạt động ứng dụng và phát triển CNTT.

Từ năm 2006 đến năm 2010, đã có nhiều Nghị định và các văn bản

hƣớng dẫn triển khai các Nghị định thể hiện trong sơ đồ sau:

Luật giao dịch TMĐT Luật công nghệ thông tin

Nghị định về TMĐT Nghị định về dịch vụ Internet và cung cấp thông tin trên Internet

Nghị định về chống thƣ rác

Nghị định về ứng dụng CNTT trong cơ quan NN Nghị định về GDTMĐT trong hoạt động tài chính

Nghị định về chữ ký số và dịch vụ chứng thực chữ ký số

Nghị định về cung cấp thông tin và DVD trực tuyến trên website cơ quan NN Nghị định về GDTMĐT trong hoạt động ngân hàng

Hình 2.2: Khung pháp lý TMĐT

Nguồn: Báo cáo Thương mại điện tử năm 2013

Với hệ thống văn bản khá đầy đủ nhƣ trên, có thể khẳng định, đến hết

năm 2010, khung pháp lý về TMĐT tại Việt Nam đã hình thành, tạo điều kiện

thuận lợi cho việc triển khai các ứng dụng TMĐT trong xã hội.

35

Tuy nhiên, cho đến nay việc thực thi pháp luật về TMĐT còn tồn tại

một số nhƣợc điểm:

2.1.1.1. Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về TMĐT chưa được

chú trọng đúng mức

Các hoạt động này trong thời gian vừa qua chủ yếu tập trung vào cổ vũ,

động viên cho việc ứng dụng TMĐT, chƣa chú trọng vấn đề giáo dục pháp

luật. Một văn bản luật sau khi ban hành thƣờng chỉ đƣợc cơ quan chủ trì soạn

thảo tổ chức giới thiệu khoảng một đến hai lần cho một số ít đối tƣợng nên

tính phổ cập còn thấp. Hiện nay chƣa có cơ chế phối hợp hiệu quả trong hoạt

động giáo dục pháp luật giữa các cơ quan liên quan nhƣ cơ quan quản lý nhà

nƣớc và cơ quan thông tin đại chúng, các tổ chức đào tạo, v.v...

2.1.1.2. Cơ chế giám sát, chế tài chưa đủ mạnh

Nguồn lực giám sát còn hạn chế, tần suất các hoạt động thanh tra, kiểm

tra chuyên ngành thấp, hiệu quả chƣa cao, chƣa có cơ chế giám sát trực tuyến

các hoạt động trên môi trƣờng điện tử. Bên cạnh đó, nhiều quy định về mức

xử phạt đối với các hành vi vi phạm trong lĩnh vực TMĐT còn thấp, chƣa đủ

mạnh mẽ để răn đe, tạo ra sự tuân thủ tốt trong xã hội.

2.1.1.3. Thiếu cơ chế giải quyết tranh chấp

Thực tế hiện nay, nhiều website bán hàng trực tuyến có uy tín và hoạt

động mua bán trên mạng cũng khá phát triển nhƣng vẫn chỉ mang tính tự

phát, manh mún do chƣa có cơ chế giải quyết tranh chấp và chế tài xử lý đối

với các hành vi gian lận khi tham gia TMĐT, khi mua bán hàng hóa qua

mạng, nên khi xảy ra tranh chấp ngƣời mua là ngƣời phải chịu thiệt. Đây là

một trong những nguyên nhân chủ yếu khiến phần lớn ngƣời tiêu dùng Việt

Nam còn e ngại khi tham gia giao dịch TMĐT.

36

Việc hình thành cơ chế giải quyết tranh chấp sẽ giúp ngƣời tiêu dùng

tin tƣởng vào việc mua sắm trực tuyến, thanh toán điện tử góp phần thúc đẩy

TMĐT phát triển.

2.1.1.4. Tính pháp lý chưa chặt chẽ và thống nhất

Luật TMĐT bảo vệ ngƣời tiêu dùng mua bán trực tuyến ở nƣớc ta còn

khá lỏng lẻo, chƣa có nhiều điều luật bảo vệ tối ƣu lợi ích khách hàng giao

dịch trực tuyến. Thời gian qua, mặc dù hành lang pháp lý trong lĩnh vực thanh

toán đã đƣợc cải thiện, song vẫn chƣa đầy đủ và đồng bộ, đặc biệt là những

vấn đề liên quan đến thanh toán điện tử. Hệ thống văn bản pháp lý liên quan

đến lĩnh vực thanh toán vẫn còn những điểm cần phải tiếp tục đƣợc chỉnh sửa,

thay thế để có thể phù hợp với thông lệ quốc tế và nhu cầu của ngƣời sử dụng.

Hệ thống pháp lý bảo vệ thông tin cá nhân vẫn còn thiếu những quy định, chế

tài cụ thể về bảo vệ đối tƣợng sử dụng TMĐT .

Tóm lại, hành lang pháp lý về vấn đề này tại Việt Nam đã đƣợc hình

thành nhƣng chƣa thật sự đi sát với thực tiễn đang diễn ra. Chính vì điều này,

rất cần hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật, và trên hết là các nhà chức

trách cần có những biện pháp tuyên truyền thích hợp và thƣờng xuyên để hạn

chế những hành vi vi phạm do thiếu hiểu biết.

2.1.2. Dịch vụ vận chuyển và giao nhận còn yếu

Dịch vụ vận chuyển và giao nhận bị coi là trở ngại lớn nhất đối với hoạt

động mua sắm trực tuyến. Chƣa có đơn vị thứ 3 thực sự chuyên nghiệp để

đảm bảo tốt dịch vụ giao nhận mà không ảnh hƣởng đến chất lƣợng phục vụ

cho nên hầu hết các đơn vị làm TMĐT đều phải tự xây dựng đội ngũ giao

nhận để nắm quyền chủ động trong việc kiểm soát và điều phối hiệu quả cũng

nhƣ chất lƣợng phục vụ khách hàng.

37

Mặt khác, do đặc thù địa lý Việt Nam trải dài, thị trƣờng còn nhỏ hẹp,

đồng thời, việc tự tổ chức đội ngũ giao nhận cũng làm cho chi phí giao nhận

rất cao, chiếm từ 10-15% giá trị của 1 giao dịch.

Ngoài ra, nghịch lý của TMĐT Việt Nam không chỉ nằm ở chi phí vận

chuyển mà còn cả thời gian vận chuyển. Mặc dù theo lý thuyết là do không

phải thuê mƣớn mặt bằng thì giá bán trên mạng sẽ luôn rẻ hơn giá bán tại các

cửa hàng/ siêu thị, nhƣng thực tế cho thấy nếu khách hàng yêu cầu giao hàng

tại nhà thì thƣờng giá lại cao hơn giá sản phẩm tại nơi kinh doanh có mặt

bằng bán lẻ, đặc biệt là các đơn hàng giao đi các tỉnh khác nơi bán hàng. Thời

gian vận chuyển thì thƣờng từ 1-3 ngày, thậm chí còn lâu hơn (5-7 ngày) mặc

dù trong cùng tỉnh/ thành phố.

Theo khảo sát của Cục TMĐT& CNTT, có tới 38% ngƣời tiêu dùng

cho rằng một trong những trở ngại lớn khi mua sắm trực tuyến là chất lƣợng

của dịch vụ chuyển phát chƣa cao khiến nhiều khi mua hàng trực tuyến phải

chịu giá cao hơn mua theo phƣơng thức truyền thống, việc trả lại hàng và

những dịch vụ liên quan khác còn phiền phức. Điều này vẫn còn là một khó

khăn, trở ngại lớn đối với sự phát triển của TMĐT ở Việt Nam hiện nay.

2.1.3. Nguồn nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu

Một trong những rào cản dễ nhận thấy trong phát triển TMĐT ở Việt

Nam chính là vấn đề nhân lực có kỹ năng. Cụ thể, theo Báo cáo tình hình đào

tạo TMĐT tại các trƣờng đại học và cao đẳng năm 2010 của Bộ Công

Thƣơng, trong số 125 trƣờng đại học và cao đẳng đƣợc điều tra có 49 trƣờng

đại học và 28 trƣờng cao đẳng đã giảng dạy TMĐT nhƣ một môn học.

Bên cạnh đó, trong khi đào tạo nguồn nhân lực về TMĐT vẫn còn

vƣớng mắc chuyện bằng cấp, chứng chỉ vì là ngành quá mới thì quan trọng

hơn nữa là chƣơng trình đào tạo cũng chƣa thực sự đƣợc chuẩn hóa, tính ứng

dụng thực tế chƣa cao, còn mang nhiều tính chất lý thuyết trong khi đòi hỏi

38

của thị trƣờng nhân sự ngành này là khá áp lực về khả năng làm việc thực tế,

kỹ năng tốt và tƣ duy nhạy bén theo những khó khăn và biến đổi của ngành,

cũng nhƣ đặc thù ngành kinh doanh của từng doanh nghiệp. Đa phần nhân sự

hiện tại là những nhân sự có kinh nghiệm về TMĐT do tự rèn luyện hay trải

nghiệm từ một số chuyên ngành khác nhƣ: quản trị kinh doanh, tiếp thị,

CNTT, hệ thống thông tin... chuyển sang chứ không phải là nhân sự đƣợc đào

tạo bài bản, chính quy ngay từ đầu.

Vì vậy, mặc dù TMĐT ở Việt Nam đã phát triển khá nhanh trong

những năm gần đây. Trong khi hạ tầng CNTT và viễn thông đã đáp ứng khá

tốt thì nguồn nhân lực đƣợc đào tạo chính quy cho lĩnh vực này còn rất thiếu.

Hơn nữa, kinh doanh TMĐT đòi hỏi phải có cán bộ chuyên trách có

hiểu biết và trình độ chuyên môn nghiệp vụ phù hợp thì theo kết quả điều tra

năm 2011 cho thấy chỉ có 23% doanh nghiệp có cán bộ chuyên trách về

TMĐT. Mặc dù con số này đã tăng lên 51% vào năm 2012 và 65 % vào năm

2013 nhƣng vẫn còn là chƣa đủ và chƣa bắt kịp với tốc độ phát triển nhanh

chóng của nền kinh tế số hóa hiện nay.

65%

51%

33%

20% 23%

2009 2010 2012 2013 2011

Hình 2.3: Tỷ lệ cán bộ chuyên trách về TMĐT qua các năm

Nguồn: Khảo sát của cục TMĐT và CNTT năm 2013

39

2.1.4. Hệ thống thanh toán điện tử chưa phát triển

Thập kỷ đầu tiên của thế kỷ 21, thị trƣờng Việt Nam đã chứng kiến sự

chuyển biến mạnh mẽ trong thanh toán không dùng tiền mặt với sự ra đời của

nhiều phƣơng tiện và dịch vụ thanh toán mới, hiện đại, tiện ích đáp ứng đƣợc

các nhu cầu của ngƣời sử dụng với phạm vi tiếp cận mở rộng tới các đối

tƣợng cá nhân và dân cƣ. Từ chỗ chỉ có khoảng 135.000 tài khoản ngân hàng

vào năm 2000, đến cuối năm 2004 đã tăng gần 10 lần lên 1.297.000 tài khoản

và năm 2007 là trên 7 triệu tài khoản. Theo Vụ Thanh toán – Ngân hàng Nhà

nƣớc, hiện nay, hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng đã đƣợc thiết lập,

kết nối 63 chi nhánh tại các tỉnh, thành phố. Từ chỗ chỉ có hơn 300 máy ATM

(Automatic Teller Machine) và khoảng 7000 POS (Point of Sale) năm 2003,

đến năm 2010, cả nƣớc có gần 11.000 máy ATM, hơn 37.000 các điểm chấp

nhận thẻ POS đƣợc lắp đặt và trên 24 triệu thẻ với 48 tổ chức phát hành thẻ và

hơn 190 thƣơng hiệu thẻ. Chiếc thẻ ngân hàng giờ đã mang lại khá nhiều tiện

ích khác nhƣ chuyển khoản, thanh toán tiền hàng hóa dịch vụ tại POS, trả phí

định kỳ với các khoản thanh toán thƣờng xuyên (tiền điện, tiền nƣớc, điện

thoại, internet), mua hàng trực tuyến tại các siêu thị…(Nguồn: Báo cáo hàng

năm của NHNN và Hiệp hội thẻ ngân hàng)

Tuy nhiên, việc mở rộng và sử dụng tài khoản thanh toán qua ngân

hàng trong khu vực dân cƣ vẫn còn ở mức khiêm tốn. Tỷ trọng tiền mặt so với

tổng phƣơng tiện thanh toán có xu hƣớng giảm dần từ mức 23,7% năm 2001

xuống còn 14.6% năm 2008 nhƣng vẫn còn ở mức cao so với thế giới. Tỷ

trọng này ở các nƣớc phát triển nhƣ Thụy Điển là 0,7%; Nauy là 1%, còn ở

các nƣớc đang phát triển nhƣ Trung quốc cũng chỉ ở mức 9,7%, còn Thái Lan

là 6,3%.

Những con số này cho thấy, những biến chuyển trong hoạt động thanh

toán ở Việt Nam dƣờng nhƣ vẫn chƣa bắt kịp với những biến động nhanh

40

chóng của toàn bộ nền kinh tế nói chung và của hệ thống ngân hàng nói riêng.

Tại Việt Nam thanh toán điện tử qua mạng vẫn đƣợc coi là một trở ngại lớn

cho sự phát triển của thƣơng mại điện tử bởi những nguyên nhân sau:

2. 1.4.1. Thói quen tiêu dùng tiền mặt

Tiền mặt ở Việt Nam là một công cụ thanh toán không hạn chế về đối

tƣợng và phạm vi sử dụng. Nó có điểm ƣu việt rất lớn là thanh toán tức thời

và vô danh, thủ tục đơn giản. Vì vậy, tiền mặt đã trở thành một công cụ rất

đƣợc ƣa chuộng trong mua sắm và từ lâu đã trở thành thói quen khó thay đổi

của ngƣời tiêu dùng và nhiều doanh nghiệp Việt Nam.

Theo khảo sát của Cục TMĐT&CNTT (Bộ Công thƣơng), tỷ lệ thanh

toán bằng tiền mặt trong các giao dịch TMĐT là rất lớn (74%) so với các hình

thức khác:

74%

41%

9% 11% 8%

Thẻ cào Thẻ thanh

Thanh toán tiền mặt toán Ví điện tử Chuyển khoản qua ngân hàng

Hình 2.4: Các hình thức thanh toán trong giao dịch TMĐT

Nguồn: Khảo sát của cục TMĐT và CNTT năm 2013

Với số dân khoảng 90,5 triệu ngƣời trong đó 65% dân số có độ tuổi trẻ

(dƣới 30) và số ngƣời dân Việt Nam sử dụng Internet là 24,3 triệu ngƣời

nhƣng tiền mặt vẫn là phƣơng tiện thanh toán chiếm tỷ trọng lớn trong khu

41

vực doanh nghiệp và chiếm đại đa số trong các giao dịch thanh toán của khu

vực dân cƣ.

Bên cạnh đó, cũng theo kết quả điều tra, đơn vị hƣởng lƣơng từ ngân

sách nhà nƣớc thực hiện trả lƣơng qua tài khoản là 45,5% nhƣng có không ít

tài khoản mà thời gian số dƣ tồn tại trên tài khoản chỉ tính bằng giờ không chỉ

bởi họ cần rút tiền để tiêu mà vẫn còn tâm lý “để tiền trong tài khoản ngân

hàng thì không yên tâm”, cứ phải tiền trong tay mới là tiền của mình, còn để

trong tài khoản thì không biết thế nào.

Điều này cho thấy, ngƣời dân vẫn chƣa mấy tin tƣởng vào hệ thống

thanh toán điện tử mà vẫn giữ thói quen “tiền trao cháo múc”, “tiền tƣơi thóc

thật”. Thói quen này cộng với tâm lý ngại công khai hoá thu nhập, doanh thu

đang cản trở, hạn chế phát triển thanh toán điện tử ở Việt Nam.

2.1.4.2. Hành lang pháp lý còn nhiều bất cập

Nhƣ trên đã phân tích, sau khi thực hiện công cuộc đổi mới kinh tế nói

chung, đổi mới hoạt động ngân hàng nói riêng thì tất cả những quy định về

quản lý tiền mặt đã từng đƣợc sử dụng trƣớc đó đều bị loại bỏ hoặc các văn

bản quy phạm pháp luật mới ban hành nhƣng không đi vào cuộc sống. Tiền

mặt nghiễm nhiên trở thành một công cụ thanh toán không hạn chế về đối

tƣợng và phạm vi sử dụng. Do vậy, tình trạng nền kinh tế tiền mặt ở Việt

Nam đã kéo dài trong nhiều năm là do không có một hành lang pháp lý ngay

từ đầu. Nhà nƣớc không quản lý và cũng không kiểm soát việc thanh toán

giữa các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế và giữa các tầng lớp dân cƣ với nhau,

vô hình chung đã tạo cho kinh tế “ngầm” phát triển.

Thời gian qua, mặc dù hành lang pháp lý trong lĩnh vực thanh toán đã

cải thiện khá nhiều song vẫn chƣa đầy đủ và đồng bộ, đặc biệt là những vấn

đề liên quan đến thanh toán điện nhƣng vẫn chƣa đủ cơ sở để các ngân hàng

tổ chức triển khai các kênh giao dịch điện tử vì chƣa tạo đƣợc một cơ chế

42

tổng hợp điều chỉnh hoạt động TMĐT trong ngành ngân hàng, chƣa có sự

chấp nhận đồng bộ giao dịch điện tử, chứng từ điện tử giữa các cơ quan quản

lý Nhà nƣớc có liên quan (nhƣ Tổng cục Thuế, Tổng cục Hải quan,…). Hệ

thống văn bản pháp lý liên quan đến lĩnh vực thanh toán vẫn còn những điểm

cần phải tiếp tục đƣợc chỉnh sửa, thay thế để có thể phù hợp với thông lệ quốc

tế và nhu cầu của ngƣời sử dụng, kể cả các loại hình tổ chức cung ứng dịch vụ

thanh toán không phải là ngân hàng, các tổ chức CNTT cung ứng những sản

phẩm, dịch vụ hỗ trợ cho các ngân hàng, các tổ chức làm dịch vụ thanh toán,

chẳng hạn nhƣ những công ty cung cấp giải pháp công nghệ qua mạng

Internet, các công ty kinh doanh dịch vụ thẻ, các tổ chức chuyên làm dịch vụ

thanh toán bù trừ.

Gần đây, để đẩy mạnh hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt,

Chính phủ đã có văn bản chỉ đạo các cơ quan chức năng xem xét xây dựng

phƣơng án miễn giảm thuế và phí cho những trƣờng hợp thanh toán qua thẻ

tín dụng. Song, vấn đề đặt ra là nên miễn giảm những loại thuế nào và giảm

bao nhiêu để cả ngƣời tiêu dùng và doanh nghiệp đƣợc hƣởng lợi khi giao

dịch qua thẻ ATM vẫn còn là vấn đề gây tranh cãi và còn nhiều bất cập.

2.1.4.3. Các sản phẩm dịch vụ được cung cấp còn hạn chế

Bên cạnh những bất cập về hệ thống pháp lý và thói quen sử dụng tiền

mặt của ngƣời dân, kinh phí để thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt cũng

là vấn đề không nhỏ đối với các ngân hàng. Thực tế cho thấy, đầu tƣ một máy

ATM hiện quá tốn kém mà phí bù đắp lại quá ít. Đơn cử, với mỗi chiếc máy

ATM, ngoài chi phí lắp đặt, duy trì thiết bị, thuê địa điểm thuận lợi, chi phí an

ninh… và số tiền nạp trong máy, ngân hàng phải dự trữ một lƣợng vốn tới

500 triệu đồng/máy. Số tiền này sau khi nhân với tổng số máy ATM sẽ là

không nhỏ và đây lại là số vốn không sinh lời cho ngân hàng, vì thế, có thể

gây khó khăn cho vốn lƣu động của ngân hàng, đặc biệt trong những thời

43

điểm ngân hàng đang “khát vốn”. Chất lƣợng, tiện ích và tính đa dạng về dịch

vụ thanh toán điện tử cũng chƣa phong phú, chƣa đáp ứng nhu cầu của nhiều

loại đối tƣợng sử dụng để có thể thay thế cho tiền mặt. Phƣơng thức giao dịch

chủ yếu vẫn là tiếp xúc trực tiếp, để đƣợc nhận một sản phẩm dịch vụ của

ngân hàng, các chủ thể tham gia thƣờng phải đến các điểm giao dịch của ngân

hàng, phƣơng thức giao dịch từ xa, dựa trên nền tảng CNTT hiện đại nhƣ giao

dịch qua internet, qua điện thoại... chƣa phát triển hoặc mới chỉ dừng lại ở quy

mô nhỏ hẹp.

Tính cạnh tranh trên thị trƣờng dịch vụ vẫn ở mức thô sơ và phát triển

dƣới mức tiềm năng. Cạnh tranh bằng thƣơng hiệu và chất lƣợng dịch vụ chƣa

phổ biến. Các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán, thay vì sáng tạo ra sản

phẩm mới hoặc tạo ra giá trị gia tăng trên sản phẩm cùng loại trên thị trƣờng

lại tập trung vào yếu tố giá cả nhằm đánh bại đối thủ cạnh tranh. Điều đó

không chỉ làm tổn hại chính lợi nhuận của các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh

toán mà còn tổn hại tới sự gắn kết chính bản thân họ và khách hàng. Hơn nữa,

khi cạnh tranh bằng giá, các tổ chức cung ứng dịch vụ sẽ tìm mọi cách giảm

giá thay vì phải tăng chất lƣợng dịch vụ và cải tiến phƣơng thức phục vụ, tạo

ra sự khác biệt về sản phẩm dịch vụ và điều này sẽ hạn chế sự phát triển thị

trƣờng này. Khi khách hàng không nhận thấy sự khác nhau, họ sẽ dễ dàng từ

bỏ một sản phẩm dịch vụ để chuyển sang sản phẩm khác chỉ đơn giản vì phí

rẻ hơn, và nhƣ vậy, các tổ chức cung ứng sẽ rất khó duy trì đƣợc cơ sở khách

hàng của mình.

2.1.4.4. Hạ tầng kỹ thuật phát triển chưa đồng bộ

Trƣớc hết, kết cấu hạ tầng kỹ thuật phục vụ cho hoạt động thanh toán

phát triển chƣa đồng bộ, mới tập trung ở các đô thị, chƣa vƣơn đến các vùng

nông thôn, miền núi; hệ thống POS chƣa phát triển và thiếu hệ thống chuyển

44

mạch; dịch vụ cho hệ thống ATM còn nghèo nàn. Số lƣợng máy ATM tuy có

tăng, nhƣng phân bổ chủ yếu ở các thành phố lớn, các khu công nghiệp.

Một trở ngại không nhỏ nữa đối với quá trình thúc đẩy thanh toán điện

tử là sự thiếu thống nhất trong hệ thống các thiết bị tiếp nhận thẻ tại Việt

Nam. Ngƣời dùng thẻ thanh toán tại Việt Nam gặp khó khăn do hệ thống chấp

nhận thẻ của các ngân hàng chƣa có sự liên thông đầy đủ. Thực tế hiện nay ở

một số trung tâm mua sắm và siêu thị có trang bị POS nhƣng lƣợng khách

thanh toán qua thẻ chỉ đếm trên đầu ngón tay bởi các máy POS này chỉ chấp

nhận thẻ VISA (thẻ tín dụng) và Mastercard (thẻ tín dụng quốc tế) chứ chƣa

dùng đƣợc cho các thẻ nội địa, vì thế gây bất tiện cho ngƣời dùng cũng nhƣ

lãng phí trong đầu tƣ.

2.1.4.5. Công tác thông tin tuyên truyền chưa được quan tâm, chú

trọng và định hướng đúng đắn.

Những mục tiêu chiến lƣợc, định hƣớng và các chính sách lớn để phát

triển hoạt động thanh toán chƣa đƣợc công bố đầy đủ cho công chúng. Công

tác thông tin tuyên truyền chƣa đƣợc chú trọng và định hƣớng đúng đắn. Vì

vậy, không chỉ ngƣời dân mà thậm chí nhiều doanh nghiệp còn rất ít hiểu biết

hoặc hiểu biết mơ hồ về các dịch vụ thanh toán và phƣơng tiện thanh toán

không dùng tiền mặt. Ngoài ra, các phƣơng tiện thông tin đại chúng đôi khi

còn phản ánh thiên lệch, khai thác những điểm yếu, lỗi kỹ thuật hoặc những

yếu tố tiêu cực mang tính cá biệt để đƣa lên công luận, thông tin đến với

những ngƣời tiêu dùng thƣờng một chiều, thậm chí sai lạc, gây mất lòng tin

vào một công cụ thanh toán nào đó ngay từ khi mới bắt đầu phát triển.

Một cuộc điều tra mới đây của Cục TMĐT & CNTT (Bộ Công thƣơng)

cho thấy trong 164 doanh nghiệp kinh doanh TMĐT tham gia khảo sát có

48% website có tích hợp chức năng thanh toán điện tử, hơn một nửa số còn lại

sẽ tích hợp trong tƣơng lai. Vì thế, dù có nhiều trang web mua bán hàng hóa

45

qua mạng nhƣng ngƣời ta vẫn phải sử dụng hình thức thanh toán bằng tiền

mặt, qua hình thức thẻ cào trả trƣớc, chuyển khoản ...

Có tích hợp 30% 48% Không

Sẽ tích hợp 22%

Hình 2.5: Tỷ lệ website cung cấp dịch vụ TMĐT

có khả năng thanh toán trực tuyến

Nguồn: Khảo sát của Cục TMĐT và CNTT năm 2013

Nhƣ vậy, có thể thấy rằng, phát triển thanh toán điện tử không chỉ là

vấn đề của ngành ngân hàng bởi thực chất ngân hàng chỉ là tổ chức trung

gian. Thanh toán điện tử chỉ có thể thực hiện đƣợc khi các chủ thể mở tài

khoản tiền gửi thanh toán tại ngân hàng. Việc mở tài khoản này lại phụ thuộc

vào thu nhập và nhu cầu thanh toán của chính chủ thể thanh toán. Nhƣng nhu

cầu này, thói quen này chỉ có đƣợc khi các chủ thể nhìn thấy những tiện ích,

những thuận lợi trong thanh toán điện tử mà điều này có đƣợc hay không lại

nhờ vào hệ thống ngân hàng. Tất nhiên, chỉ riêng những nỗ lực của hệ thống

ngân hàng thì không thể đẩy nhanh thanh toán điện tử trong nền kinh tế mà

cần và rất cần có hỗ trợ của Chính phủ để có những chủ trƣơng quyết liệt hơn,

những chủ trƣơng mang tính chất bắt buộc phải triển khai đồng bộ trên diện

rộng và phải giám sát chặt chẽ việc thực hiện. Đồng thời, cũng cần áp dụng

các mức phí ƣu đãi đối với các tổ chức sử dụng hình thức thanh toán điện tử

nhằm tạo ra sự chênh lệch với nơi sử dụng tiền mặt. Có nhƣ vậy mới thay đổi

46

đƣợc thói quen sử dụng tiền mặt của ngƣời dân, mới thay đổi đƣợc tƣ duy “rút

tiền mặt từ ATM để thanh toán tiền hàng” trong dân chúng.

2.1.5. Nhận thức của người dân về Thương mại điện tử thấp

Ngày nay, TMĐT đã và đang đi vào cuộc sống của ngƣời dân, nhƣng

trên thực tế, TMĐT ở nƣớc ta vẫn chƣa theo kịp với sự phát triển của TMĐT

thế giới. Một trong những nguyên nhân dẫn tới tình trạng này là do nhận thức

của các doanh nghiệp và ngƣời dân về TMĐT còn thấp.

Về phía các doanh nghiệp, theo điều tra của Ban CNTT & TMĐT (Nay

là Cục TMĐT & CNTT – Bộ Công thƣơng) năm 2003, 100% doanh nghiệp

đƣợc điều tra đều nhận thức đƣợc vai trò quan trọng của TMĐT đối với hoạt

động sản xuất kinh doanh. Đây là tín hiệu đáng mừng đối với các nhà hoạch

định chính sách phát triển TMĐT ở Việt Nam. Có 79% các doanh nghiệp

đƣợc điều tra đồng ý với các lợi ích của TMĐT nhƣ: Mở rộng kênh tiếp xúc

với khách hàng hiện có; Lôi kéo khách hàng mới; Cải thiện sự hài lòng của

khách hàng; Tăng doanh số; Tăng lợi nhuận và hiệu quả hoạt động của doanh

nghiệp... cho thấy hầu hết các doanh nghiệp đều nhận thức khá rõ ràng về các

lợi ích của TMĐT.

Trong số đó, có 96% số doanh nghiệp đƣợc khảo sát cho rằng TMĐT

giúp doanh nghiệp tăng một kênh bán hàng; 85% số doanh nghiệp mong

muốn thông qua việc tham gia TMĐT có thể xây dựng đƣợc hình ảnh cho

doanh nghiệp mình cho thấy hầu hết các doanh nghiệp có mục đích rõ ràng và

đúng đắn khi tham gia TMĐT. Chỉ có rất ít doanh nghiệp tham gia TMĐT

theo phong trào.

Về phía cá nhân, ngƣời tiêu dùng, trình độ nhận thức của ngƣời dân về

TMĐTđƣợc thể hiện ở một số tiêu chí nhƣ sau:

Thứ nhất, về kỹ năng tin học, ngƣời dân vẫn còn gặp khó khăn khi tiếp

cận với TMĐT vì thiếu những kỹ năng cơ bản về tin học.

47

Thứ hai, dân chúng hầu nhƣ chƣa đƣợc làm quen hoặc hiểu biết rất mơ

hồ về TMĐT. Cụ thể, đại đa số ngƣời tiêu dùng chƣa biết rõ về lợi ích của

TMĐT mà chủ yếu là tiếp cận ở những mặt trái của nó nhiều hơn do chƣa có

chƣơng trình tuyên truyền hiệu quả về lợi ích của TMĐT. Bên cạnh đó,mặc

dù, chứng thực điện tử đã đƣợc một số doanh nghiệp nghiên cứu triển khai

nhƣ VDC, ICB, tuy nhiên, số lƣợng doanh nghiệp tham gia khai thác dịch vụ

còn hạn chế, đại bộ phận doanh nghiệp và ngƣời tiêu dùng ít biết về ý nghĩa

của chứng thực điện tử đối với TMĐT bởi đây còn là vấn đề rất mới và chƣa

có nhiều chƣơng trình tuyên truyền về ý nghĩa của hệ thống chứng thực điện

tử. Đồng thời, ngƣời tiêu dùng vẫn chƣa quen và tin vào hệ thống thanh toán

trực tuyến.

Thứ ba, trình độ ngoại ngữ (Tiếng Anh) cũng là một trong những yếu

tố quan trọng giúp cho ngƣời tiêu dùng tiếp cận dễ dàng hơn với TMĐT. Tuy

nhiên, đây không phải là rào cản lớn nhất đối với doanh nghiệp và ngƣời tiêu

dùng bởi vì hiện nay số ngƣời biết và sử dụng thành thạo ngoại ngữ (Tiếng

Anh) khá nhiều.

Nhƣ vậy, thực tế cho thấy, về phía các doanh nghiệp hầu hết đã nhận

thức rõ tầm quan trọng và rất tích cực trong việc ứng dụng CNTT và TMĐT.

Tuy nhiên, về phía ngƣời dân, mặc dù họ đã bắt đầu tham gia vào ứng dụng

TMĐT nhƣng lại nhận đƣợc khá nhiều thông tin phản ánh sai lệch từ các

phƣơng tiện thông tin đại chúng về một phƣơng tiện giao dịch điện tử ngay từ

khi mới hình thành, đồng thời, qua nhiều vụ lừa đảo, gian lận đã dẫn đến làm

mất lòng tin của họ về TMĐT . Do đó, vấn đề nhận thức của ngƣời dân vẫn

đƣợc đánh giá là rào cản lớn nhất khi tham gia vào TMĐT.

2.1.6. An ninh mạng chưa đảm bảo

Vấn đề an ninh mạng trong giao dịch TMĐT đã không còn là vấn đề

mới mẻ. Các bằng chứng thu thập đƣợc từ hàng loạt các cuộc điều tra cho

48

thấy những vụ tấn công qua mạng hoặc tội phạm mạng trong thế giới TMĐT

đang gia tăng mạnh.

Ở Việt Nam đã bắt đầu xuất hiện nhiều loại tội phạm công nghệ cao

nhƣ đột nhập vào hệ thống máy tính của các công ty, ngân hàng để đánh cắp

dữ liệu khách hàng, từ đó làm giả thẻ tín dụng để rút tiền, hoặc ra lệnh giả để

chuyển tiền, và hàng loạt các vụ tấn công qua mạng Internet.

Một tình trạng phổ biến hiện nay là nhiều công ty trong nƣớc đang

chuyển từ hệ thống đóng - mạng công ty sang hệ thống mở - mạng internet để

thực hiện các giao dịch điện tử. Và khi tiến hành giao dịch điện tử, chúng ta

sẽ phải đối phó với nhiều nỗi lo về an ninh, đặc biệt từ các hacker (tin tặc –

dùng để chỉ những lập trình viên tìm cách xâm nhập trái phép vào các máy

tính, mạng máy tính). Đặc biệt là tình trạng đột nhập trái phép vào các cơ sở

dữ liệu của các lĩnh vực kinh tế quan trọng nhƣ bƣu chính, viễn thông, ngân

hàng, các website... để lấy cắp thông tin, chiếm đoạt tên miền, tài khoản thẻ

tín dụng "chùa" để mua bán, thanh toán trực tuyến ngày càng phổ biến, gây

thiệt hại về kinh tế và uy tín của Việt Nam trong giao dịch điện tử và thanh

toán trực tuyến.

Những hành vi lợi dụng công nghệ để phạm tội tăng lên, điển hình là

những vụ tấn công các website thƣơng mại điện tử www.vietco.com,

www.chodientu.com... Tình trạng đột nhập tài khoản, trộm thông tin thẻ thanh

toán, phát tán thông tin và hình ảnh riêng tƣ cũng đã gây ảnh hƣởng không

nhỏ đến các hoạt động TMĐT lành mạnh.

Tội phạm công nghệ cao còn phạm tội ở nhiều lĩnh vực nhƣ ăn trộm

cƣớc viễn thông; hacker đột nhập cơ sở dữ liệu sau đó bán lại tên, địa chỉ các

hộp thƣ điện tử, trang web cho các doanh nghiệp làm quảng cáo; sử dụng

mạng internet để tải phim, ảnh đồi trụy về máy chủ tại các quán cà phê cho

khách xem; sử dụng thƣ điện tử nặc danh đe dọa và làm xáo trộn cuộc sống

49

của ngƣời dân; sử dụng điện thoại để nhắn tin quấy rối và đe dọa... Đặc biệt là

hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản thông qua việc mua hàng qua mạng. Đối

tƣợng yêu cầu khách hàng đƣa tiền vào tài khoản sau đó sẽ chuyển hàng về

nhƣng khách hàng lại không nhận đƣợc số hàng nhƣ đã thỏa thuận.

Do tốc độ phát triển của CNTT, truyền thông ở Việt Nam diễn ra nhanh

chóng, vì thế loại tội phạm này ngày càng gia tăng mạnh mẽ và đã có tính

quốc tế rõ rệt. Hành vi này không chỉ gây thiệt hại về mặt kinh tế mà còn ảnh

hƣởng đến hoạt động giao dịch thƣơng mại của Việt Nam với đối tác nƣớc

ngoài.

Bên cạnh đó, mặc dù ở Việt Nam chƣa phát triển nhiều về hệ thống

CNTT nhƣng cũng không tránh khỏi những làn sóng tấn công trên internet:

virus tình yêu, virus mật mã đỏ, virus Ninda…

Nhƣ vậy, trong thời đại bùng nổ về CNTT thì vấn đề bảo mật, an ninh

trên mạng càng trở nên phức tạp và khó kiểm soát hơn. Đây là một trong

những vấn đề đƣợc tất cả các doanh nghiệp và cá nhân quan tâm nhiều nhất

trong quá trình tham gia vào TMĐT. Kết quả điều tra của Cục

TMĐT&CNTT (Bộ Công thƣơng) về đảm bảo an toàn thông tin tại các

doanh nghiệp năm 2013 cho thấy tỷ lệ các DN sử dụng các biện pháp an toàn

thông tin khá cao, trong đó có 53% sử dụng biện pháp tƣờng lửa, 86% sử

dụng các phần mềm diệt vi rút, 26% sử dụng các biện pháp phần cứng và 31%

sử dụng chữ ký số và chứng thực số.

50

86%

53%

31%

26%

0%

Biện pháp khác

Tƣờng lửa Diệt vi rút Phần cứng Chữ ký số, chứng thực số

Hình 2.6: Tỷ lệ các doanh nghiệp sử dụng các biện pháp

an toàn thông tin

Nguồn: Khảo sát của cục TMĐT và CNTT năm 2013

Điều này cho thấy, doanh nghiệp đã nhận thức đƣợc tầm quan trọng

của việc đảm bảo an toàn an ninh thông tin đối với việc ứng dụng TMĐT.

Tuy nhiên, cho đến trƣớc năm 2005, ở nƣớc ta vẫn chƣa có cơ quan,

đơn vị nào tiến hành nghiên cứu về những phƣơng pháp phát hiện tội phạm

máy tính, các quy trình phát hiện điều tra và chƣa có những định danh cụ thể,

cũng nhƣ chƣa có những điều luật cụ thể cho từng dạng của loại tội phạm này

mà mới chỉ có 3 điều luật chung trong Bộ Luật Hình sự 1999 quy định về các

hình thức sử dụng trái phép thông tin trên mạng hoặc lan truyền vi rút máy

tính. Chính vì vậy, hiện vẫn chƣa có số liệu chính thức về các hành vi phạm

tội và các vụ tấn công, đột nhập đƣợc thống kê và chính thức công bố. Số liệu

do các nhà cung cấp dịch vụ internet công bố hoặc không đầy đủ hoặc không

đƣợc quy định trong hệ thống luật pháp của Việt Nam.

51

2.1.7. Môi trường xã hội và tập quán kinh doanh chưa phù hợp

Tại diễn đàn "Thƣơng mại điện tử Việt Nam năm 2012” đƣợc tổ chức

tại Thành phố Hồ Chí Minh, hầu hết các đại biểu tham gia đều cho rằng, sự

phát triển TMĐT của Việt Nam đang gặp phải nhiều rào cản, ảnh hƣởng

không nhỏ đến sự tăng trƣởng bền vững, cũng nhƣ lòng tin của xã hội, trong

đó phải kể đến môi trƣờng kinh doanh kém tin cậy.

Ngƣời mua và ngƣời bán trong hoạt động kinh doanh TMĐT ở Việt

Nam vẫn chủ yếu thực hiện theo phƣơng thức “tiền trao cháo múc” và mua

bán xong là thôi nên ngƣời tiêu dùng rất lo ngại mua phải sản phẩm không

dùng đƣợc hoặc chất lƣợng không đạt hay mua phải hàng giả, hàng nhái, kém

chất lƣợng... Tình trạng ngƣời mua tỏ ra không mấy tin tƣởng khi mua hàng

qua mạng do quyền lợi của họ chƣa đƣợc bảo vệ chính đáng và sự lo lắng

trƣớc những thông tin sai phạm của một số website kinh doanh trực tuyến

đang ngày càng tăng lên. Rất nhiều khách hàng phản ánh rằng sản phẩm họ

nhận đƣợc khác xa với những gì họ nhìn thấy trên website, do vậy niềm tin

vào TMĐT cũng bị lung lay.

Nguyên nhân của thực trạng này là do TMĐT đang bị lạm dụng, bóp

méo bởi sự làm ăn thiếu chuyên nghiệp của các đơn vị cung cấp sản phẩm.

Điển hình nhƣ vụ việc MB24 đã lợi dụng danh nghĩa TMĐT để phục vụ lợi

ích riêng cho mình khiến cho khách hàng hiểu sai về TMĐT. Một số khác thì

dùng kênh TMĐT để phân phối hàng giả, hàng nhái kém chất lƣợng nhằm

qua mắt ngƣời tiêu dùng.

Hơn nữa, ngƣời Châu Á nói chung và ngƣời Việt Nam nói riêng thƣờng

thích giao dịch mặt đối mặt và các mối quan hệ đối tác lâu dài dựa trên sự tin

tƣởng, quan hệ gia đình hay các gắn bó về mặt lịch sử. Ngƣời dân chƣa có

thói quen mua bán (giao dịch đúng nghĩa) trên mạng mà phần lớn mọi

ngƣời vẫn chỉ ngắm nghía trên mạng và sau đó là đi sắm đồ ngoài chợ. Bên

52

cạnh đó, ngƣời Việt vẫn có thói quen ra cửa hàng tạp hoá đầu ngõ để mua

những đồ dùng thiết yếu hay ra các cửa hàng offline để mua sắm các đồ dùng,

đồ thời trang và đồ công nghệ, thói quen thích nhìn tận mắt, sờ tận tay và

thanh toán bằng tiền mặt cho an toàn.

Về phía các doanh nghiệp kinh doanh TMĐT ở Việt Nam nhìn chung

vẫn còn thiếu tính chuyên nghiệp. Điều này liên quan đến nhận thức của

doanh nghiệp trong việc cung cấp sản phẩm đến tận tay khách hàng. Có thể

thấy để thanh toán trong giao dịch TMĐT đƣợc phải trải qua nhiều công đoạn

nhiêu khê, phiền phức và thiếu quy chuẩn làm cho khách hàng không hào

hứng tham gia. Các siêu thị vốn là những doanh nghiệp tiếp cận nhiều với

hình thức kinh doanh trên mạng, nhƣng hầu hết vẫn chƣa dám hoàn tất bƣớc

cuối cùng là cho khách hàng tự thanh toán online, lý do vì chƣa đủ điều kiện

về kết cấu hạ tầng và khách hàng cũng không yên tâm sử dụng hình thức

thanh toán này. Đối với những khách hàng trong cùng khu vực, họ có thể đặt

hàng qua mạng, sau đó trả tiền mặt khi nhân viên giao hàng đến nhà. Nhƣng

với khách hàng ngoại tỉnh, họ phải chuyển tiền trƣớc vào tài khoản của doanh

nghiệp, gây ra tâm lý lo ngại.

Giao hàng là khâu cuối cùng song cũng không kém phần quan trọng

trong quy trình kinh doanh TMĐT. Có thể thấy, dịch vụ giao nhận của các

doanh nghiệp vẫn tập trung vào tự tổ chức hoặc ngƣời mua đến nhận hàng, rõ

ràng rất thiếu tính chuyên nghiệp, bất tiện khiến ngƣời mua cảm giác mua

hàng qua TMĐT không khác bao nhiêu so với mua hàng truyền thống.

Ngoài ra, vƣớng mắc về giấy tờ thanh toán với yêu cầu hoá đơn đỏ, chữ

ký, con dấu tƣơi trong phƣơng thức thanh toán đã cản trở TMĐT phát triển.

Theo kết quả điều tra có tới 74,1% doanh nghiệp sử dụng hình thức thanh

toán là khách hàng trả tiền mặt khi nhận hàng, 74,8% doanh nghiệp chấp nhận

53

thanh toán chuyển khoản qua ngân hàng và chỉ có 25% doanh nghiệp thanh

toán bằng chuyển tiền qua bƣu điện.

Các doanh nghiệp cũng rất vất vả để thay đổi phƣơng pháp kinh doanh.

Do lo ngại vì chƣa có thói quen kinh doanh trên sàn thƣơng mại điện tử nên

không biết nguồn dữ liệu khách hàng của sàn có đáng tin cậy hay không và

làm thế nào để kiểm chứng và thẩm định các khách hàng là đối tác nƣớc

ngoài.

Tất cả những vấn đề nêu trên đã làm cho TMĐT ở Việt Nam phát triển

một cách thiếu lành mạnh thậm chí là phát triển lệch lạc, không đúng hƣớng.

Nhất là vấn đề môi trƣờng xã hội và tập quán kinh doanh tại Việt Nam vẫn

còn thiếu tính chuyên nghiệp nhƣ hiện nay. Điều này đòi hỏi nhà nƣớc phải có

những chính sách phù hợp để từng bƣớc tạo lập niềm tin của ngƣời tiêu dùng

vào TMĐT đồng thời có những biện pháp mạnh để răn đe những hành vi lệch

lạc nhằm lợi dụng TMĐT vào mục đích xấu.

2.2. Một số mô hình kinh doanh mang danh nghĩa TMĐT còn tiềm ẩn

nhiều rủi ro

Hiện nay, các hình thức kinh doanh qua website TMĐT đang phát triển

mạnh, với nhiều mô hình hoạt động đa dạng nhƣ mô hình mua theo nhóm,

chợ điện tử, rao vặt, diễn đàn, mua sắm trên mạng xã hội, sàn bất động sản,

v.v… Điểm chung lớn nhất của những mô hình này là có nhiều ngƣời mua và

nhiều ngƣời bán tham gia giao dịch trên một không gian chung – website

thuộc sở hữu và quản lý của một thƣơng nhân hoặc tổ chức. Các website đã

đăng ký có mô hình hoạt động khá đa dạng, tuy nhiên có thể xếp chung thành

một số nhóm sau:

- Các sàn giao dịch điện tử đƣợc tổ chức theo mô hình trung tâm

thƣơng mại hoặc chợ điện tử, nơi các thành viên đƣợc mở “gian hàng ảo” và

54

có quyền quản lý, cập nhật thông tin, hình ảnh trên các gian hàng đó (ví dụ

chodientu, enbac, vatgia, 123mua, v.v…)

- Các website cung cấp dịch vụ kinh doanh theo nhóm, nơi nhiều doanh

nghiệp có thể thông qua website tiến hành hoạt động truyền thông, tiếp thị và

trực tiếp bán hàng hóa, dịch vụ cho khách hàng (muachung, muare, bookdeal,

v.v…)

- Các website rao vặt, diễn đàn, nơi thành viên có thể đăng ký tài khoản

và đƣa thông tin về nhu cầu mua bán ở dạng đơn giản nhƣ tin rao vặt hay chủ

đề thảo luận (ví dụ rongbay.com, nhavadat.vn, v.v…)

Trong các mô hình kinh doanh TMĐT nêu trên tồn tại một số mô hình

mang danh nghĩa kinh doanh TMĐT nhƣng còn tiềm ẩn nhiều rủi ro gây mất

lòng tin của ngƣời tiêu dùng.

2.2.1. Mô hình kinh doanh Groupon

Mô hình kinh doanh Groupon là mô hình mua theo nhóm, khi doanh

nghiệp thu hút đƣợc một lƣợng đủ lớn các khách hàng cùng mua hàng hóa,

dịch vụ của một nhà cung cấp vào cùng một thời điểm thì họ sẽ đƣợc hƣởng

siêu khuyến mại, mức giá phụ thuộc vào số lƣợng ngƣời mua nhà cung cấp sẽ

hạ giá bán xuống các mức giá khác nhau. Lƣợng ngƣời mua càng nhiều thì

giá càng rẻ, cứ nhƣ thế cho đến khi thời gian mua kết thúc.. Các sản phẩm phổ

biến của hình thức này thƣờng là thẻ ăn, phiếu ăn, dịch vụ làm đẹp, spa, vé

xem phim, ca nhạc, thẻ học ngoại ngữ, phiếu tập thể hình, thể dục thẩm mỹ,

khiêu vũ, du lịch ...

Nhiều ý kiến cho rằng mô hình kinh doanh Groupon là một hình thức

phát triển của TMĐT, cụ thể là mô hình thứ tƣ của TMĐT – Business To

Team (B2T), sau B2B, B2C và C2C. Nhƣng thực chất, mô hình kinh doanh

Groupon là một loại hình kinh doanh trong TMĐT B2B2C, mà cụ thể đây là

mô hình trung gian giao dịch.

55

Mục đích tham gia vào các trang web Groupon không đơn thuần là bán

đƣợc các phiếu khuyến mại mà quan trọng hơn là để quảng cáo cho sản phẩm,

dịch vụ của nhà cung cấp và quảng bá thƣơng hiệu cho các doanh nghiệp.

Khách hàng mua đƣợc hàng với giá rẻ hơn so với bình thƣờng khá nhiều. Nhà

cung cấp có cơ hội quảng bá thƣơng hiệu, thu đƣợc lƣợng lớn khách hàng mới

với chi phí thấp. Doanh nghiệp Groupon đƣợc hƣởng chiết khấu trên mỗi

phiếu coupon từ nhà cung cấp và thu tiền từ các quảng cáo khác.

Có mặt ở Việt Nam chỉ một vài năm trở lại đây, nhƣng hình thức mua

theo nhóm đã phát triển rất nhanh. Thống kê sơ bộ, từ tháng 4/2010 đã có 20

website groupon hoạt động tại Việt Nam nhƣ: cucre.vn, Zing Deal,

muachung.vn, nhommua.com, lazada.vn, hotdeal.vn, cungmua.com,

hoishoping ... Hiện nay, một số website TMĐT lớn nhƣ vatgia.com,

enbac.com, chodientu.vn, muare.vn… đã thu hút đông đảo thành viên tham

gia giao dịch. Theo số liệu của Cục TMĐT&CNTT (Bộ Công Thƣơng), trị giá

hàng hóa, dịch vụ tham gia giao dịch TMĐT đạt hơn 4 nghìn tỉ đồng (năm

2011) và gần 10 nghìn tỉ đồng (năm 2012). Tổng doanh thu các sàn giao dịch

TMĐT đạt 111 tỉ đồng (năm 2011) và gần 200 tỉ đồng (năm 2012). Đồng

thời, nhiều website kinh doanh theo mô hình này đã công bố những con số

khá ấn tƣợng. Nhƣ www.nhommua.com ƣớc doanh thu khoảng 20 tỷ

đồng/tháng với hơn 500 đối tác và trên 500.000 thành viên; hoishoping ƣớc

khoảng trên 6 tỷ đồng/tháng với hơn 100 đối tác, trên 100.000 thành viên;

www.muachung.vn tăng trƣởng 150% sau 6 tháng mở rộng tại thị trƣờng Hà

Nội (từ tháng 10/2010), đạt gần 72 tỷ đồng.

Tuy nhiên, thị trƣờng TMĐT Việt Nam vẫn đang chập chững nên loại

hình kinh doanh này vẫn còn gặp nhiều khó khăn:

Thứ nhất, ở Việt Nam, phần lớn các nhà cung cấp dịch vụ theo mô hình

Groupon đang chú trọng vào việc tăng trƣởng hàng hóa, dịch vụ khuyến mãi

56

và sử dụng phƣơng pháp giao hàng, thu tiền tại chỗ. Phƣơng pháp truyền

thống này có điểm hạn chế ở tính tiện lợi khi thanh toán và hoàn tiền, bên

cạnh đó, còn bị giới hạn về địa lý và làm tăng chi phí vận hành của nhà cung

cấp dịch vụ.

Thứ hai, mức độ uy tín của ngƣời bán tại Việt Nam chƣa cao nhƣ ở

Mỹ, châu Âu hoặc các quốc gia có nền TMĐT phát triển trong khu vực nhƣ

Nhật Bản, Hàn Quốc nên khi khách hàng sử dụng phiếu khuyến mãi, đặc biệt

ở mảng dịch vụ, họ thƣờng không đƣợc các nhân viên phục vụ chu đáo.

Không ít trƣờng hợp khách hàng than phiền về chất lƣợng phục vụ đối với các

dịch vụ đặt mua theo nhóm và điều này đã xảy ra ngay cả với các thƣơng

hiệu. Điểm khó nhất ở đây là các nhà cung cấp dịch vụ lại không thể đại diện

cho ngƣời bán để cam kết chất lƣợng.

Một khía cạnh cần lƣu ý khác là an toàn giao dịch. Đây là một vấn đề

chung của tất cả các mô hình Groupon trên thế giới chứ không chỉ riêng ở

Việt Nam. Với việc phát hành phiếu khuyến mãi do nhà cung cấp dịch vụ

đảm trách chứ không phải doanh nghiệp, nói chung sẽ khó khăn cho doanh

nghiệp khi xác thực phiếu khuyến mãi. Đề tài này đã đƣợc tranh luận nhiều ở

thị trƣờng Mỹ, có nhiều cách để tạo thành phiếu khuyến mãi giả trong trƣờng

hợp số seri là liên tục. Còn nếu số seri là ngẫu hứng thì doanh nghiệp sẽ mất

khá nhiều thời gian và công sức để có thể xác thực ngay lập tức với nhà cung

cấp dịch vụ khi họ nhận về phiếu khuyến mãi từ tay khách hàng. Khi khách

hàng đăng ký thông tin tại các trang web cung cấp dịch vụ thì thông tin này

phải đƣợc cam kết bảo mật tốt và không cung cấp ra ngoài cho các doanh

nghiệp đối tác của nhà cung cấp dịch vụ. Nếu không lƣu ý tốt việc này thì dễ

dẫn đến trƣờng hợp thông tin cá nhân của khách hàng (số điện thoại, địa chỉ

thƣ điện tử e-mail, địa chỉ liên lạc…) bị chia sẻ ra bên ngoài và khách sẽ phải

chịu những phiền toái nhƣ thƣ rác (spam mail), tin nhắn rác (spam SMS)...

57

Nhìn chung, dịch vụ hậu mãi, chăm sóc khách hàng của các doanh

nghiệp mua theo nhóm, mua chung còn thiếu chuyên nghiệp. Bên cạnh đó còn

rất nhiều những bất cập trong việc giải quyết, tháo gỡ những tranh chấp sau

bán hàng dần làm mất lòng tin từ phía ngƣời tiêu dùng. Điều này ảnh hƣởng

không nhỏ đến việc phát triển TMĐT tại Việt Nam hiện nay.

Bộ Công Thƣơng gần đây có đƣa ra các cảnh báo liên quan đến hình

thức TMĐT này nhƣng lại không có quy định ràng buộc, xử phạt chặt chẽ.

Kết quả là hàng loạt ngƣời phải gánh chịu hậu quả nhƣ mua phải hàng giả,

kém chất lƣợng. Trong khi đó, doanh nghiệp mở website TMĐT, doanh

nghiệp cung cấp hàng hóa qua hình thức mua chung thì chối bỏ hoặc đùn đẩy

trách nhiệm cho nhau, ngƣời dân vẫn là ngƣời phải chịu thiệt.

2.2.2. Lợi dụng Thương mại điện tử để bán hàng đa cấp và những vụ

lừa đảo như MB24

Hình thức kinh doanh đa cấp đã và đang gây nhiều tranh cãi trong xã

hội. Đây thực chất là một phƣơng thức tiếp thị sản phẩm đòi hỏi sự khôn khéo

của ngƣời tham gia để có thể liên tục mời thêm nhiều ngƣời. Họ có thể trực

tiếp đến mua hàng tại công ty (hoặc qua một nhà phân phối duy nhất) mà

không phải thông qua các đại lý hay cửa hàng bán lẻ. Nhờ vậy, hình thức này

tiết kiệm rất nhiều chi phí từ tiền sân bãi, kho chứa, vận chuyển hàng hóa,

khuyến mại, quảng cáo và các chƣơng trình tiếp thị khác. Số tiền này thay vào

đó, đƣợc dùng để trả thƣởng cho nhà phân phối và nâng cấp, cải tiến sản

phẩm.

Ở Việt Nam, số lƣợng doanh nghiệp bán hàng đa cấp đang tăng mạnh

trong thời gian gần đây. Đặc biệt, vào năm 2011, con số này đã lên đến hơn

một triệu doanh nghiệp kinh doanh đa cấp dƣới nhiều hình thức khác nhau.

58

Hình 2.7: Số lƣợng ngƣời tham gia bán hàng đa cấp tăng mạnh

Nguồn: Cục Quản lý cạnh tranh

Tuy nhiên, vấn đề nổi cộm hiện nay là một số doanh nghiệp lợi dụng

danh nghĩa TMĐT để thực hiện kinh doanh đa cấp bất chính, bán hàng đa cấp

không đăng ký với cơ quan chức năng, vi phạm về ghi nhãn hàng hóa, vi

phạm về quảng cáo sản phẩm, thực hiện không đúng chƣơng trình trả thƣởng

cho ngƣời tham gia nhƣ đã đăng ký với cơ quan có thẩm quyền… Một số

doanh nghiệp không đăng ký tổ chức bán hàng đa cấp nhƣng lại áp dụng

phƣơng thức kinh doanh này trong lĩnh vực dịch vụ, kết hợp với hình thức

TMĐT thông qua các website, rao bán các “gian hàng ảo”, bán sim điện thoại

và dịch vụ nạp tiền điện thoại, kinh doanh dịch vụ du lịch… nhƣng áp dụng

kế hoạch trả lƣơng theo mô hình đa cấp mà điển hình là vụ việc liên quan đến

Muaban24. Cách thức hoạt động điển hình của doanh nghiệp này là thiết lập

một website cung cấp dịch vụ sàn giao dịch TMĐT, trên đó cho phép những

thành viên đã nộp tiền đƣợc mở một gian hàng ảo để giới thiệu, quảng bá sản

phẩm hàng hóa, dịch vụ. Sau khi đóng một khoản phí ban đầu thì bên cạnh

việc đƣợc mở gian hàng ảo trên website, mỗi thành viên đƣợc thêm quyền lợi

là giới thiệu những ngƣời khác tham gia mua gian hàng ảo và hƣởng hoa hồng

59

vài chục phần trăm cho mỗi hợp đồng mà mình giới thiệu, nhờ tổng số tiền

hoa hồng một ngƣời có thể đƣợc hƣởng lên đến vài trăm triệu đồng. Do mức

hoa hồng hấp dẫn và cơ chế phân chia hoa hồng đa cấp, phần lớn những

ngƣời nộp phí mua gian hàng ảo trên website đều hƣớng tới mục tiêu thu lợi

nhuận từ hoạt động giới thiệu, lôi kéo ngƣời khác tham gia thay vì tiến hành

kinh doanh trên những gian hàng này.

Sở dĩ các hoạt động bán hàng đa cấp, giả danh TMĐT nhƣ Muaban24

có thể tồn tại, lừa đảo, chiếm đoạt tiền của nhiều ngƣời là do các đối tƣợng

xấu đã lợi dụng nhiều kẽ hở về quản lý Nhà nƣớc trong lĩnh vực này. Tuy

chƣa đƣợc cơ quan chức năng cấp phép giao dịch TMĐT nhƣng nhiều doanh

nghiệp vẫn treo băng rôn, quảng cáo là sàn giao dịch TMĐT mà không hề bị

cơ quan chức năng kiểm tra, xử lý. Ngoài ra, trong Nghị định 57⁄CP về

TMĐT cũng không có quy định về việc bán hàng đa cấp trong TMĐT. Từ đó,

Muaban24 đã lợi dụng kẽ hở này để lừa đảo, chiếm đoạt hàng trăm tỉ đồng

của nhiều ngƣời.

Cũng chiêu thức lừa đảo qua hình thức lập các trang mạng và gian

hàng ảo, Công ty Cổ phần tƣ vấn và đầu tƣ công nghệ Thăng Long đã tổ chức

nhiều chƣơng trình hội thảo để giới thiệu thanh thế công ty. Trong đó có

chƣơng trình TMĐT Vico24, chƣơng trình du lịch Vico Travel (Vicobuy).

Ngoài việc “tâng bốc” về công ty, các nhân viên của công ty này còn đƣa ra

hàng loạt các văn bản pháp lý để dẫn dụ ngƣời tham gia. Trƣớc đó, nhân viên

của công ty giới thiệu khi tham gia làm thành viên của hệ thống thì sẽ đƣợc

hƣởng các quyền lợi nhƣ: học vi tính miễn phí, đƣợc đào tạo tại chỗ và trực

tuyến về TMĐT và các chƣơng trình học tập khác nhằm nâng cao dân trí,

trình độ trong quá trình hội nhập. Ngoài ra, thành viên còn đƣợc mua hàng giá

rẻ hơn giá thị trƣờng tại các siêu thị liên kết Vico Mark của công ty này và

nhiều quyền lợi khác…

60

Cũng tƣơng tự nhƣ vậy, công ty Tâm Mặt Trời cũng là một trong

những “tập đoàn đa cấp” hoạt động tƣơng tự nhƣ mô hình của Muaban24.

Công ty Cộng Đồng Việt hoạt động với hình thức tinh vi hơn là huy

động vốn qua mạng internet quy định ngƣời góp vốn dƣới dạng “mã” (1,8

triệu đồng/mã), ít nhất phải đầu tƣ 3 “mã” (tức 5,4 triệu đồng). Khi thành viên

tham gia 3 “mã” lôi kéo thêm 4 “mã” nữa (tức 7 “mã” là 12,6 triệu đồng) thì

ngƣời có công tạo hệ thống đƣợc thƣởng 2 triệu đồng, gọi là thƣởng bậc 1.

Khi hệ thống ngƣời đó tạo lập đƣợc 49 “mã” (tức 88,2 triệu đồng) thì ngƣời

đứng đầu hệ thống đƣợc thƣởng bậc 2, với số tiền hàng chục triệu đồng.

Ngoài ra, những ngƣời tạo lập các nhánh góp vốn đƣợc hứa hẹn sẽ đƣợc

thƣởng nhiều phần thƣởng có giá trị nhƣ: điện thoại xịn, iPad, xe gắn máy tay

ga, xe ô tô du lịch đắt tiền…Để tạo lòng tin từ những ngƣời tham gia vào hệ

thống, công ty Cộng Đồng Việt dùng chiêu, khi ngƣời nào vừa đóng tiền tham

gia trong vòng 3 ngày sẽ đƣợc trả liền 1/3 số tiền đã đóng góp và tiền đƣợc

nhận đƣợc gọi là tiền lãi. Đánh trúng tâm lý ham lợi nhuận cao, hàng trăm

nghìn ngƣời khắp cả nƣớc đã bị lừa đảo, nhiều ngƣời tranh thủ đóng càng

nhiều tiền càng tốt, lôi kéo thêm nhiều ngƣời thì càng đƣợc thƣởng, số nạn

nhân cứ nhƣ thế đƣợc nhân lên theo cấp số nhân, ngƣời ít cũng vài trăm triệu

đồng, ngƣời nhiều thì lên đến vài tỷ đồng. Tuy nhiên khi ngƣời tham gia vào

chỉ nhân đƣợc mức lãi suất tƣợng trƣng ban đầu, sau đó thì không ai nhận

đƣợc bất kỳ khoản gì nữa dù gốc hay lãi.

Nhƣ vậy, hoạt động lừa đảo của các tập đoàn đa cấp nhƣ Muaban24,

Tâm Mặt Trời, Cộng Đồng Việt … với những thủ đoạn hết sức tinh vi, các

nạn nhân khi biết mình bị ''sập bẫy lừa'' thì đã quá muộn. Đây là những vụ án

lừa đảo xảy ra trong thời gian dài với số tài sản chiếm đoạt rất lớn, rất nhiều

ngƣời trên khắp cả nƣớc trở thành nạn nhân, hệ lụy của nó là không hề nhỏ.

61

Không chỉ gây ra tổn thất về mặt vật chất mà nó còn làm tổn hại nghiêm trọng

đến niềm tin của ngƣời tiêu dùng vào TMĐT.

2.2.3. Bán hàng giả, kém chất lượng

Theo điều tra của Cục TMĐT & CNTT – Bộ Công thƣơng, trở ngại lớn

nhất của ngƣời tiêu dùng khi mua sắm trực tuyến là do sản phẩm kém chất

lƣợng so với quảng cáo (77%).

77 % Sản phẩm kém chất lƣợng so với quảng cáo

40 % Giá cả (không thấp hơn mua trực tiếp/ không rõ ràng…)

38 % Dịch vụ vận chuyển và giao nhận còn yếu

Lo ngại thông tin bị tiết lộ 31 %

Cách thức đặt hàng quá rắc rối 29 %

20 % Website thiết kế chƣa chuyên nghiệp

Khác 2%

Hình 2.8 : Những trở ngại khi mua sắm trực tuyến

Nguồn: Khảo sát của Cục TMĐT&CNTT năm 2013

62

Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là do hạn chế của

TMĐT, ngƣời mua không đƣợc trực tiếp tiếp xúc với ngƣời bán và hàng hóa.

Do đó, mọi niềm tin đều đặt vào những dòng quảng cáo ngắn ngủi trên các

phƣơng tiện điện tử, mà phần nhiều những quảng cáo này đều “quá lời”.

Hơn nữa, vấn đề hàng cấm, hàng giả, hàng nhái vẫn thƣờng xuyên xuất

hiện trên các website TMĐT. Cụ thể, các đối tƣợng rao bán hàng hóa trên

mạng với nhiều chiêu thức khác nhau: giá rẻ, mẫu mã đẹp… nhƣng khi giao

hàng không đúng chất lƣợng, thời hạn nhƣ khi giao bán. Vì ham hàng giá rẻ

nên đã có hàng trăm ngƣời chuyển tiền vào tài khoản của các đối tƣợng để

mua hàng. Tƣởng sẽ mua đƣợc hàng tốt, nhƣng tất cả các khách hàng đều

nhận đƣợc hàng Trung Quốc cũ, hƣ hỏng, những thứ đồ chơi không thể sử

dụng đƣợc…

Trong khi đó, thực tế là khách hàng mua hàng thì dễ, đổi (trả) hàng vô

cùng khó. Hành lang pháp lý để xử lý vấn đề này cũng chƣa chặt chẽ. Đáng

lẽ, bối cảnh khó khăn là cơ hội tốt cho TMĐT nhƣng những yếu tố này là rào

cản cho sự phát triển của TMĐT tại Việt Nam. Cuộc chạy đua giữa ngƣời tiêu

dùng và kẻ lừa đảo sẽ không bao giờ có hồi kết nếu không có bàn tay can

thiệp mạnh hơn nữa của Nhà nƣớc. Bảo vệ ngƣời tiêu dùng trong giao dịch

điện tử là vấn đề bức thiết, bởi nếu để ngƣời dân quay lƣng lại với TMĐT thì

Việt Nam đi ngƣợc lại với xu thế của thế giới.

2.2.4. Rao bán bằng cấp, chứng chỉ giả trên mạng

Hiện nay, việc rao bán bằng giả đƣợc thực hiện công khai trên nhiều

trang mạng. Chỉ cần tìm cụm "làm bằng đại học giả", trong vòng 0,16 giây sẽ

cho ra một số lƣợng kết quả rất lớn với 9.800.000 kết quả. Chỉ với giá từ 6

đến 7 triệu đồng, ngƣời có nhu cầu sẽ có ngay đƣợc "tấm bằng đại học" danh

tiếng mà không cần mất chi phí học hành, thời gian công sức miệt mài trên

giảng đƣờng các trƣờng đại học, cao đẳng.

63

Trang mạng khá lớn là "lambanggiare.com", giá quảng cáo của các loại

bằng giả nhƣ sau:

Hình 2.9 : Quảng cáo bằng giả công khai trên mạng

Thực tế cho thấy, hiện nhiều ngƣời vì công cuộc mƣu sinh đã "đi tắt

đón đầu", dùng tiền thay cho thời gian, công sức học tập để có đƣợc tấm bằng

đại học với mục tiêu tìm kiếm một công việc, hoặc để thăng chức.

Việc sử dụng bằng cấp giả không chỉ gây hậu quả khôn lƣờng cho

ngƣời sử dụng mà còn là tác nhân kìm hãm sự phát triển của xã hội và gây

họa cho nhiều ngƣời. Điều quan trọng là việc làm sai trái này lại đƣợc “bày

bán” ngang nhiên trên những trang mạng điện tử. Nó có ảnh hƣởng không

nhỏ tới việc phát triển TMĐT, đồng thời, gây mất niềm tin của nhân dân vào

sự minh bạch trong hoạt động kinh doanh TMĐT vốn đang phát triển rất yếu

ớt tại Việt Nam.

64

2.3. Ảnh hƣởng của những trở ngại trên đối với phát triển TMĐT và

phát triển KT-XH nói chung

2.3.1. Thiệt hại về mặt kinh tế

Là một ngành có tiềm năng lớn, nhƣng chính các doanh nghiệp hoạt

động trong lĩnh vực TMĐT lại tự làm khó mình khi hoạt động thiếu minh

bạch, thậm chí có các hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng gây tổn thất rất

lớn không chỉ của riêng cá nhân ngƣời tiêu dùng và các doanh nghiệp kinh

doanh TMĐT mà còn gây tổn thất về kinh tế cho toàn xã hội. Thống kê trong

vòng 5 năm trở lại đây đã xuất hiện hàng chục vụ lừa đảo qua mạng làm thiệt

hại hàng trăm tỷ đồng với số lƣợng ngƣời “sập bẫy gian hàng ảo” lên đến

hàng trăm ngàn ngƣời, thậm chí có ngƣời chƣa biết khởi động máy tính

nhƣng cũng trở thành nạn nhân.

Vi phạm điển hình gần đây là vụ lừa đảo của Công ty Cổ phần Đào tạo

Mua bán trực tuyến MB24. Cơ quan điều tra đã tạm giam các lãnh đạo Công

ty Cổ phần Đào tạo Mua bán trực tuyến về hành vi sử dụng mạng máy tính,

mạng viễn thông, mạng internet, thiết bị số để chiếm đoạt tài sản. Lực lƣợng

chức năng đã thống kê sơ bộ hệ thống Muaban24 đã thu đƣợc hơn 600 tỉ đồng

do hơn 50 nghìn ngƣời “đầu tƣ” vào mua hơn 118 nghìn gian hàng ảo.

Vụ lừa đảo trên trang web Vico24.com của Công ty Cổ phần tƣ vấn và

đầu tƣ công nghệ Thăng Long. Từ khi thành lập, công ty này đã bán đƣợc 4

nghìn gian hàng ảo, thu về số tiền hơn 6 tỉ đồng và bán 300 thẻ thành viên

chƣơng trình du lịch thu số tiền 2 tỉ đồng. Trong vụ việc này có tới 10.000

nạn nhân, thiệt hại 8 tỷ đồng.

Về vụ công ty đa cấp Tâm Mặt Trời, theo thống kê sơ bộ của công an,

số nạn nhân của công ty Tâm Mặt Trời đã lên đến 40 ngàn ngƣời, số tiền họ

bị chiếm đoạt lên đến 130 tỷ đồng.

65

Bên cạnh đó, công ty Cổ phần đầu tƣ thƣơng mại dịch vụ Cộng Đồng

Việt có mạng lƣới vƣơn ra nhiều tỉnh thành khắp cả nƣớc. Số nạn nhân bị

công ty này lừa đảo chiếm đoạt tài sản lên đến gần một trăm ngàn ngƣời với

số tiền chiếm đoạt hơn 400 tỉ đồng.

Đây đều mới chỉ là những ví dụ điển hình các doanh nghiệp lợi dụng

danh nghĩa TMĐT để thu lợi từ việc lôi kéo ngƣời tham gia website, trong khi

không tập trung nâng cao chất lƣợng thông tin trên website, làm tổn hại tới

lòng tin của cộng đồng, gây thiệt hại nghiêm trọng về mặt kinh tế và cản trở

sự phát triển của lĩnh vực TMĐT đang khá sôi động ở Việt Nam.

2.3.2. Làm mất lòng tin vào TMĐT và cản trở sự phát triển TMĐT

Trong xã hội ngày nay, chữ tín đã trở thành một phẩm chất không thể

thiếu trong quan hệ giữa ngƣời với ngƣời. Chữ tín luôn đóng vai trò quyết

định tới sự thành bại của bất kỳ hoạt động kinh doanh nào. Kinh doanh

TMĐT với các đặc thù riêng nhƣ giao dịch mua bán đƣợc tiến hành trực

tuyến, sự tham gia của nhiều thành phần trong một hoạt động giao dịch

(ngƣời mua, nhà cung cấp sản phẩm, đơn vị sở hữu sàn giao dịch, trung gian

thanh toán, trung gian vận chuyển…) thì chữ tín lại càng trở nên cần thiết.

Để giữ đƣợc chữ tín trong hoạt động thƣơng mại truyền thống đã rất

khó, giữ chữ tín trong môi trƣờng kinh doanh “ảo” nhƣ TMĐT lại là vấn đề

nan giải hơn rất nhiều. Trên thế giới, một trong những yếu tố mang đến thành

công cho Amazon hay Ebay, Alibaba.v.v là nhờ họ biết tạo dựng đƣợc niềm

tin nơi khách hàng với các chính sách chặt chẽ bảo vệ cả ngƣời bán và ngƣời

mua khi tham gia các giao dịch điện tử. Còn tại Việt Nam, mặc dù số lƣợng

các đơn vị, cá nhân tham gia kinh doanh trực tuyến đang tăng lên theo từng

ngày nhƣng có rất ít đơn vị có thể đảm bảo đƣợc an toàn, tạo đƣợc niềm tin

cho ngƣời tiêu dùng.

66

Hiện tại ở Việt Nam, có thể liệt kê một vài hệ thống có thể có chữ tín

nhƣ vatgia.com, 5giay.vn, muare.vn, nhommua.com, enbac.com,

chodientu.vn .v.v. Tuy nhiên, bản chất của các sàn C2C là chỉ có tính chất làm

cầu nối giữa ngƣời mua và ngƣời bán, thế nên các giao dịch chỉ mang tính cá

nhân, không đủ ràng buộc về mặt pháp lý và tạo nhiều kẽ hở cho các doanh

nghiệp làm ăn bất chính, nhiều đối tƣợng xấu lợi dụng việc mua bán không

gặp mặt để thực hiện các hành vi lừa đảo. Phổ biến nhất vẫn là lợi dụng việc

mua bán chỉ bằng niềm tin để lừa đảo “chuyển tiền không giao hàng” hay

chuyển hàng nhái, hàng giả, không đúng mô tả… Các sản phẩm, dịch vụ mà

ngƣời tiêu dùng xem xét và chấp nhận đặt mua trên website TMĐT có thể

không hoàn toàn giống với sản phẩm thực tế họ nhận đƣợc, bằng các chiêu

thức rất tinh vi nhƣ tạo tình huống giả hay lập hẳn một website có địa chỉ,

thông tin rõ ràng nhƣng thực chất lại chỉ là những địa chỉ ảo…, điều này rất

dễ gây mất niềm tin cho ngƣời tiêu dùng.

Bên cạnh đó, giá cả của hàng hóa, dịch vụ trong lĩnh vực kinh doanh

TMĐT cũng không tạo đƣợc niềm tin nơi khách hàng. Cụ thể, trong giao dịch

điện tử, khách hàng luôn phải tuân theo các hợp đồng mà mình hoàn toàn

không có quyền thƣơng lƣợng, trong đó giá cả có thể bị đội lên nhiều lần so

với giá thực tế trên thị trƣờng, sau đó sử dụng chiêu thức giảm giá, khuyến

mại để thu hút ngƣời tiêu dùng. Việc thanh toán thực tuyến cũng khó khăn khi

phần lớn ngƣời tiêu dùng vẫn chƣa có thói quen thanh toán qua thẻ, và chế độ

bảo mật thẻ cũng không đƣợc các doanh nghiệp chú trọng.

Về vấn đề thông tin cá nhân, rất nhiều ngƣời tiêu dùng bức xúc khi tên

tuổi, số điện thoại, địa chỉ của họ có thể bị các doanh nghiệp sử dụng phƣơng

thức TMĐT cung cấp cho bên thứ ba, gây ảnh hƣởng đến sự an toàn và bảo

mật thông tin của khách hàng. Nghiên cứu gần đây của hãng nghiên cứu thị

trƣờng Cimigo về thị trƣờng TMĐT Việt Nam cho thấy, chỉ 13% khách hàng

67

cảm thấy mua sản phẩm trên mạng là an toàn. Đây là một con số quá nhỏ bé

so với tiềm năng phát triển của thị trƣờng TMĐT Việt Nam.

Bên cạnh đó, những vụ lừa đảo bán hàng qua mạng có giá trị lớn, lên

tới vài trăm triệu đồng nhƣ vụ MB24, Tâm Mặt Trời, Cộng đồng Việt…. và

còn rất nhiều vụ lừa đảo nhỏ từ vài trăm đến vài triệu đồng mà ngƣời mua

không biết kêu ai hoặc không ai đứng ra bảo vệ quyền lợi của họ nên khách

hàng đành “ngậm ngùi” chấp nhận mất tiền chiếm đến 90% các vụ lừa đảo

trực tuyến trên internet. Những trƣờng hợp “con sâu làm rầu nồi canh” nhƣ

thế này sẽ làm ảnh hƣởng xấu đến nền TMĐT của Việt Nam, ảnh hƣởng xấu

đến các doanh nghiệp bán hàng chân chính và ảnh hƣởng đến niềm tin của

ngƣời tiêu dùng với TMĐT.

Hơn nữa, không chỉ ngƣời mua mà ngay những ngƣời bán hàng trong

kinh doanh TMĐT cũng có thể dễ dàng bị lừa nếu không cảnh giác. Có rất

nhiều trƣờng hợp ngƣời tiêu dùng gọi điện đến mua hàng nhƣng khi nhân viên

đến giao hàng lại không có địa chỉ nhƣ trong đơn hàng. Điều này gây lãng phí

cho nhiều ngƣời và cản trở sự phát triển lành mạnh của TMĐT.

Nhƣ vậy, vấn đề giữ chữ “Tín” trong kinh doanh TMĐT đã trở thành

vấn đề mấu chốt dẫn tới sự thành công của các doanh nghiệp. TMĐT tại Việt

Nam không còn trẻ nữa, nhƣng có lẽ vẫn còn chƣa hết non trong những năm

tới nếu thiếu niềm tin của ngƣời tiêu dùng.

68

CHƢƠNG 3: GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC TRỞ NGẠI ĐỂ PHÁT TRIỂN

THƢƠNG MẠI ĐIỆN TỬ LÀNH MẠNH

3.1. Phƣơng hƣớng phát triển TMĐT của Việt Nam đến năm 2020

Việc ứng dụng TMĐT sẽ làm thay đổi các hình thái hoạt động kinh tế

trong tƣơng lai và sẽ trở thành phƣơng thức kinh doanh chủ yếu vì nó đáp ứng

đƣợc những yêu cầu đặt ra cho một nền kinh tế hội nhập.

Nhận thức đƣợc tầm quan trọng và tính tất yếu phải phát triển TMĐT ở

Việt Nam, Đảng và Nhà nƣớc ta đã rất quan tâm đến lĩnh vực này. Ngày 11

tháng 05 năm 2014 Thủ tƣớng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 689/QĐ-

TTg “Phê duyệt Chƣơng trình phát triển thƣơng mại điện tử quốc gia giai

đoạn 2014 - 2020”, xây dựng các hạ tầng cơ bản và triển khai các giải pháp,

hoạt động hỗ trợ phát triển lĩnh vực TMĐT ở Việt Nam, đƣa TMĐT trở thành

hoạt động phổ biến, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, thúc

đẩy quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nƣớc. Mục tiêu cụ thể nhƣ

sau:

3.1.1. Mục tiêu phát triển TMĐT quốc gia đến năm 2020

3.1.1.1. Về kết cấu hạ tầng TMĐT

- Xây dựng đƣợc hệ thống thanh toán TMĐT quốc gia để sử dụng rộng

rãi cho các mô hình TMĐT; đặc biệt là loại hình TMĐT doanh nghiệp –

ngƣời tiêu dùng (B2C);

- Thẻ thanh toán đƣợc sử dụng rộng rãi để giảm tỷ lệ sử dụng tiền mặt;

- Áp dụng phổ biến chứng thực chữ ký số để đảm bảo an toàn, bảo mật

cho các giao dịch TMĐT;

- Các tiêu chuẩn trao đổi thông điệp dữ liệu đƣợc sử dụng rộng rãi cho

các mô hình TMĐT loại hình doanh nghiệp – doanh nghiệp (B2B).

3.1.1.2. Về môi trường ứng dụng TMĐT

69

- Mua sắm trực tuyến trở thành hình thức mua hàng phổ biến của ngƣời

tiêu dùng;

- Doanh nghiệp ứng dụng rộng rãi các loại hình TMĐT nhƣ doanh

nghiệp – doanh nghiệp (B2B), doanh nghiệp – ngƣời tiêu dùng (B2C), doanh

nghiệp – chính phủ (B2G) trong hoạt động kinh doanh, xuất nhập khẩu.

3.1.1.3. Về nguồn nhân lực TMĐT

- 50.000 lƣợt doanh nghiệp, cán bộ quản lý nhà nƣớc đƣợc tham dự

khóa đào tạo ngắn hạn về TMĐT;

- 10.000 sinh viên đƣợc đào tạo về chuyên ngành TMĐT, đáp ứng đƣợc

nhu cầu triển khai ứng dụng TMĐT cho doanh nghiệp.

3.1.2. Định hướng phát triển

Để đạt đƣợc mục tiêu trên, Việt Nam phải xác định rõ hƣớng đi cho

mình. Trong đó cần chú ý đến các vấn đề nhƣ sau:

- Ứng dụng rộng rãi CNTT – TT là yếu tố có ý nghĩa chiến lƣợc để

thực hiện mục tiêu thiên niên kỷ, hình thành xã hội thông tin, rút ngắn quá

trình CNH – HĐH đất nƣớc, góp phần tăng trƣởng kinh tế, phát triển xã hội.

Ứng dụng CNTT – TT phải gắn với quá trình đổi mới và bám sát mục tiêu

phát triển kinh tế xã hội, phải đƣợc lồng ghép trong các chƣơg trình, hoạt

động chính trị, quản lý, kinh tế, xã hội, văn hóa, khoa học công nghệ và an

ninh quốc phòng.

- Phát triển nguồn nhân lực TMĐT là yếu tố then chốt và có ý nghĩa

quyết định đối với sự phát triển của TMĐT nói chung và đối với việc phát

triển và ứng dụng CNTT – TT nói riêng. Phát triển nguồn nhân lực TMĐT

phải đảm bảo chất lƣợng đồng bộ, chuyển dịch nhanh về cơ cấu theo hƣớng

tăng nhanh tỷ lệ nguồn nhân lực có chất lƣợng cao, nâng cao năng lực CNTT

– TT quốc gia.

70

- Ứng dụng TMĐT ở Việt Nam cần theo hƣớng xã hội hóa, tạo mọi

điều kiện cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế và cá nhân tham

gia, trong đó các doanh nghiệp nhà nƣớc phải giữ vai trò đi tiên phong.

- Ứng dụng TMĐT vào Việt Nam cần định hƣớng vào thị trƣờng thông

qua việc tạo lập đƣợc môi trƣờng pháp lý mềm dẻo, thuận lợi.

3.1.3. Phương hướng triển khai

- Ứng dụng TMĐT trong mọi lĩnh vực, khai thác có hiệu quả thông tin

và tri thức trong tất cả các ngành. Xây dựng và phát triển một xã hội với công

dân điện tử, Chính phủ điện tử, doanh nghiệp điện tử. Hình thành nên xã hội

thông tin.

- Phổ cập kiến thức, tuyên truyền nhận thức đúng về TMĐT trƣớc tiên

là cho các doanh nghiệp và cơ quan chính phủ.

- Xây dựng đƣợc hạ tầng CNTT tiên tiến sẵn sàng cho mọi giao dịch

trong nƣớc và quốc tế.

- Củng cố và hoàn thiện hành lang pháp lý làm cơ sở điều chỉnh hoạt

động TMĐT.

- Phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật cho hệ thống thanh toán điện tử, đảm

bảo khả năng phát triển nhanh chóng của giao dịch TMĐT trên mạng.

- Tăng cƣờng áp dụng các sản phẩm mật mã trong ứng dụng TMĐT,

đặc biệt chú trọng phát triển hạ tầng mã khóa công khai.

- Mở rộng các hình thức giao dịch của TMĐT cho các doanh nghiệp

(kể cả doanh nghiệp nhà nƣớc và tƣ nhân), các giao dịch bao gồm từ việc

chào hàng, đàm phán, ký kết hợp đồng đến việc thanh toán qua mạng, …

- Áp dụng chính sách thuế trong TMĐT.

- Thiết lập hệ thống tiêu chuẩn công nghiệp và thƣơng mại quốc gia

phù hợp với sự phát triển của TMĐT.

71

- Tích cực, chủ động tiến hành từng bƣớc, vừa làm vừa tiếp thu kinh

nghiệm, từ phạm vi hẹp rồi mở rộng dần.

- Tích cực tham gia hợp tác quốc tế tranh thủ sự giúp đỡ về kỹ thuật,

đào tạo nguồn nhân lực và nguồn kinh phí cho phát triển TMĐT.

Trên cơ sở những quan điểm và định hƣớng chung của Chính phủ, mỗi

cơ quan, doanh nghiệp, cá nhân cần phải coi ứng dụng TMĐT là giải pháp

quan trọng để phát triển các hình thức trao đổi thƣơng mại trong giai đoạn

bùng nổ thông tin nhƣ hiện nay.

3.2. Nhóm giải pháp chủ yếu hỗ trợ cho TMĐT

3.2.1. Tuyên truyền, phổ biến và đào tạo nguồn nhân lực cho TMĐT

Là ngành mũi nhọn của kinh tế tri thức, sự phát triển của CNTT và

TMĐT phụ thuộc rất nhiều vào công tác đào tạo nguồn nhân lực đặc biệt là

nhân lực trình độ cao. Để đáp ứng yêu cầu về nhân lực trình độ cao cho

TMĐT, cần phải tiến hành đồng bộ các nhóm giải pháp nhƣ sau:

3.2.1.1. Công tác tuyên truyền, phổ biến và giáo dục về TMĐT vẫn

được coi là biện pháp hàng đầu để phát triển TMĐT ở Việt Nam.

Trong nhiều năm qua, hoạt động tuyên truyền về TMĐT đã đƣợc các

cơ quan quản lý nhà nƣớc, cơ quan thông tin đại chúng và nhiều doanh nghiệp

hết sức quan tâm. Đến nay, nhận thức của doanh nghiệp và ngƣời tiêu dùng

về lợi ích của TMĐT đã có những dấu hiệu đáng mừng. Tuy nhiên, trong thời

gian tới, hoạt động tuyên truyền cần phải tập trung sâu hơn nữa vào các nội

dung cụ thể nhƣ: giới thiệu các mô hình ứng dụng TMĐT hiệu quả; đảm bảo

an toàn an ninh trong giao dịch TMĐT; bảo vệ thông tin cá nhân; lợi ích của

mua sắm qua mạng và thanh toán điện tử. Bên cạnh đó, cần phải coi hoạt

động phổ biến, tuyên truyền về TMĐT là một loại hình dịch vụ công mà Nhà

nƣớc cần đứng ra đảm nhiệm chứ không phải là hoạt động riêng của các

doanh nghiệp kinh doanh TMĐT nhƣ trƣớc đây.

72

Việc tuyên truyền, phổ biến về TMĐT cần đƣợc tiến hành nhƣ sau:

Thứ nhất, phổ biến, tuyên truyền trƣớc hết cần tập trung vào những lĩnh

vực kinh doanh thuận lợi cho phát triển TMĐT nhƣ: dịch vụ du lịch, tài chính,

vận tải, giải trí, việc phân phối và cung ứng thiết bị CNTT và truyền thông.

Thứ hai, phổ biến, tuyên truyền cho các cán bộ lãnh đạo doanh nghiệp

nhất là doanh nghiệp nhà nƣớc và các tổng công ty nhà nƣớc. Cho họ thấy lợi

ích của TMĐT và tiến hành triển khai ứng dụng TMĐT tại đơn vị mình.

Thứ ba, phổ biến, tuyên truyền cho cán bộ lãnh đạo các cấp, các nhà

hoạch định chính sách, những ngƣời đóng vai trò quan trọng trong việc xây

dựng chính sách và thực thi pháp luật liên quan đến TMĐT. Cần tuyên truyền

cho họ về lợi ích và những rủi ro trong hoạt động TMĐT để từ đó đƣa ra

những chính sách điều tiết phù hợp cho sự phát triển lành mạnh của TMĐT.

Thứ tƣ, tuyên truyền, phổ biến sâu rộng lợi ích của TMĐT tới ngƣời

tiêu dùng thông qua các phƣơng tiện thông tin đại chúng nhằm thay đổi thói

quen, tập quán mua sắm trực tiếp tại các siêu thị, các chợ gần nhà thành thói

quen mua sắm qua mạng.

3.2.1.2. Đào tạo chính quy về TMĐT

Cùng với đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến những kiến thức về TMĐT,

cần thúc đẩy đào tạo nguồn nhân lực TMĐT đi vào chiều sâu. Nguồn nhân

lực về TMĐT đƣợc đào tạo chính quy ngay từ đầu vẫn là yếu tố cơ bản, là

nòng cốt quyết định sự phát triển của TMĐT. Bên cạnh các Bộ, ngành liên

quan, Bộ Giáo dục và Đào tạo đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng

các chƣơng trình khung về đào tạo TMĐT trong các trƣờng đại học, cao đẳng

và trung học chuyên nghiệp; xây dựng chính sách khuyến khích đào tạo chính

quy về TMĐT. Trong đó việc trƣớc mắt cần làm ngay là tăng cƣờng đào tạo

chính quy về TMĐT cho thế hệ trẻ Việt Nam thuộc tất cả các loại hình đào

tạo từ cấp trung học cho đến đại học và sau đại học.

73

Hơn nữa, ngành TMĐT là một ngành còn rất mới trong hệ thống giáo

dục của Việt Nam, để đầu tƣ phát triển nhân lực theo chiều sâu thì cần phải có

sự quan sát, học hỏi kinh nghiệm của một số nƣớc phát triển ngành TMĐT

nhƣ Mỹ, Australia, Canada, Singapore, Hàn Quốc và Thái Lan. Hầu hết các

quốc gia này đều đào tạo TMĐT ở cả trình độ Đại học và sau đại học. Tuy

nhiên, mỗi quốc gia lại tập trung đào tạo ở một trình độ nhất định nhƣ:

Canada tập trung đào tạo TMĐT ở các trƣờng Cao đẳng, Australia tập trung

đào tạo thạc sĩ quản trị kinh doanh chuyên ngành TMĐT…Những bài học

kinh nghiệm đƣợc rút ra qua quá trình khảo sát tình hình đào tạo của các nƣớc

có thể kể đến nhƣ sau:

Thứ nhất, do có nhiều chính sách ƣu đãi của Chính phủ và các Bộ,

ngành liên quan cho nên số lƣợng các trƣờng cao đẳng, đại học đào tạo

TMĐT và số sinh viên theo học chuyên ngành này có xu hƣớng tăng nhanh.

Thứ hai, các trƣờng đại học trên thế giới rất quan tâm, chú trọng đến

việc giảng dạy lý thuyết phải gắn với thực tiễn, tạo điều kiện cơ sở vật chất tốt

nhất cho sinh viên thực hành và tổ chức cho sinh viên tham dự nhiều buổi

thuyết trình của các doanh nghiệp thành công trong lĩnh vực TMĐT.

Thứ ba, Chính phủ đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ và thúc

đẩy TMĐT phát triển. Ở Hàn Quốc, Chính phủ đặt ra kế hoạch phát triển

nhân lực TMĐT, không những mở rộng và nâng cao chất lƣợng hệ thống kết

cấu hạ tầng cho việc đào tạo mà còn hỗ trợ các trƣờng xây dựng giáo trình

TMĐT và công nghệ thông tin; mở rộng đào tạo trực tuyến và tạo điều kiện

cho sinh viên du học ở nƣớc ngoài về lĩnh vực tin học. Chính phủ cũng đào

tạo tin học cho ngƣời dân, công chức, quân nhân và ngƣời làm việc nhà. Tại

Singapore, các dịch vụ của chính phủ điện tử đang đƣợc triển khai trực

tuyến. Trong khi Chính phủ Thái Lan thành lập Trung tâm nguồn lực

TMĐT thuộc Trung tâm công nghệ máy tính và điện tử quốc gia…

74

Thứ tƣ, Các trƣờng rất tích cực tổ chức các buổi hội thảo chuyên đề

TMĐT, đây là hoạt động cần thiết và phù hợp giúp các cơ sở đào tạo định

hƣớng chuyên môn và bắt kịp nhịp độ phát triển của công nghệ.

Về chƣơng trình đào tạo TMĐT, hầu hết các trƣờng đi theo hai hƣớng

tiếp cận chính là tiếp cận theo hƣớng CNTT và kinh tế-quản trị kinh

doanh. Nội dung đào tạo của mỗi chuyên ngành tập trung sâu vào hƣớng tiếp

cận của chuyên ngành đó. Hƣớng tiếp cận liên ngành rất tốt, nhƣng còn quá

mới cho nên chƣa đƣợc áp dụng phổ biến ở các nƣớc.

Kinh phí đầu tƣ cho đào tạo chuyên ngành TMĐT khá lớn, do đó mức

học phí của ngành học này thƣờng cao hơn so với các ngành học khác.

Các quốc gia đi sau cũng cần tích cực đào tạo liên kết với các quốc

gia đi đầu trong lĩnh vực TMĐT nhƣ Canada, Hoa Kỳ…Đồng thời cử sinh

viên du học nƣớc ngoài ở trình độ thạc sĩ và tiến sĩ nhằm nâng cao năng lực

cũng nhƣ bổ sung thêm giảng viên đào tạo TMĐT trong nƣớc.

Đây là những bài học kinh nghiệm quý báu trong việc đào tạo nguồn

nhân lực TMĐT Việt Nam hiện nay.

Bên cạnh đó, trong thời gian tới cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa Bộ

Giáo dục & Đào tạo và Bộ Công thƣơng trong việc dự báo nhu cầu nguồn

nhân lực cũng nhƣ đánh giá chất lƣợng đào tạo TMĐT để có những biện pháp

kịp thời thúc đẩy hoạt động này đi vào chiều sâu, đáp ứng nhu cầu ngày càng

tăng về nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn cao, phù hợp với yêu cầu của

thực tiễn.

3.2.2. Hoàn thiện kết cấu hạ tầng

Kết cấu hạ tầng công CNTT, công nghệ viễn thông và mạng Internet là

ba điều kiện tiên quyết bảo đảm các dịch vụ thích hợp để phát triển TMĐT.

Hạ tầng CNTT đƣợc các nƣớc trong khối ASEAN coi nhƣ một trong

những nguyên tắc chỉ đạo hành động trong lĩnh vực TMĐT. Tuy nhiên ở Việt

75

Nam hiện nay hạ tầng CNTT cho TMĐT vẫn rất cần đƣợc đầu tƣ và mở rộng

hơn nữa, nhất là ở các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, dân tộc thiểu số.

Mặc dù vậy nhƣng thực tế cho thấy việc đầu tƣ vào toàn bộ kết cấu hạ tầng

cho TMĐT là rất tốn kém và yêu cầu phải đồng bộ, không thể tiến hành riêng

lẻ. Trong khi ngân sách hạn hẹp mà tất cả các lĩnh vực đều có nhu cầu đầu tƣ

thì riêng với hạ tầng CNTT cần phải xây dựng những hạng mục ƣu tiên trƣớc.

Trƣớc mắt, đầu tƣ cho CNTT cần đầu tƣ phát triển công nghệ phần mềm, coi

đây là đòn bẩy để phát triển nội lực trong nƣớc, tạo đà tăng trƣởng cho CNTT

và TMĐT. Sau đó tập trung nghiên cứu, chế tạo phần cứng cho tƣơng xứng

với nhu cầu phát triển. Bên cạnh đó, cũng cần tập trung vào phát triển công

nghệ kỹ thuật ứng dụng trong chữ ký số và chứng thực chữ ký số.

Để phát triển TMĐT, cần xây dựng hạ tầng CNTT đạt tiêu chuẩn từ

DN tới các cơ quan nhà nƣớc, đồng thời, cũng cần đảm bảo tiêu chuẩn này

phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế. Muốn làm đƣợc điều này cần phải đẩy mạnh

hơn nữa hợp tác song phƣơng, hợp tác đa phƣơng trong việc ứng dụng và phát

triển CNTT.

Ngày nay, CNTT thực sự trở thành nền tảng của phƣơng thức phát triển

mới, gần đây, Thủ tƣớng Chính phủ đã yêu cầu các bộ, ngành, địa phƣơng và

cộng đồng doanh nghiệp, các chuyên gia cùng triển khai 7 nhiệm vụ, giải

pháp nhƣ sau:

- Nâng cao nhận thức, quán triệt quan điểm CNTT là một nền tảng của

phƣơng thức phát triển mới trong các cấp quản lý, các ngành kinh tế xã hội,

trong mỗi doanh nghiệp và toàn xã hội. Phát triển và ứng dụng CNTT trong

sản xuất, kinh doanh và quản lý hƣớng tới mục tiêu nâng cao toàn diện năng

lực cạnh tranh quốc gia, coi đây là con đƣờng ngắn nhất để Việt Nam tiến kịp

các nƣớc phát triển - tiến kịp thời đại.

76

- Xây dựng hệ thống hạ tầng thông tin quốc gia, ban hành chuẩn thông

tin quốc gia bảo đảm khả năng kết nối liên thông, đồng bộ, chú trọng công tác

an ninh, an toàn và bảo mật thông tin quốc gia.

- Đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu, làm chủ các bí quyết, giải pháp công

nghệ mới. Ƣu tiên đào tạo, phát triển nguồn nhân lực CNTT của từng ngành,

lĩnh vực, từng địa phƣơng, doanh nghiệp và của cả quốc gia.

- Xây dựng cơ chế chính sách tạo thuận lợi và hiệu quả cao nhất nhằm

bảo đảm việc ứng dụng CNTT trở thành một yêu cầu tiên quyết trong mọi

ngành, mọi lĩnh vực, mọi công trình, dự án đầu tƣ trong tiến trình phát triển.

- Tạo môi trƣờng thuận lợi cho phát triển thị trƣờng CNTT, hỗ trợ các

doanh nghiệp phát triển, tạo chỗ đứng vững chắc trên thị trƣờng trong nƣớc

và xây dựng năng lực canh tranh vƣơn ra thị trƣờng nƣớc ngoài.

- Tăng cƣờng hợp tác quốc tế, huy động mọi nguồn lực, đặc biệt là

nguôn lực của ngƣời Việt Nam ở nƣớc ngoài để phát triển CNTT.

- Phát triển và ứng dụng CNTT đƣợc coi là nhiệm vụ quan trọng của

toàn bộ hệ thống chính trị và xã hội. Ngƣời đứng đầu tất cả các cấp, các

ngành trực tiếp chỉ đạo và chịu trách nhiệm về triển khai ứng dụng hiệu quả

CNTT vì mục tiêu phát triển nhanh, bền vững.

Đối với hạ tầng công nghệ viễn thông, để phát triển TMĐT thì cần một

mạng viễn thông toàn cầu, thông suốt và hiện đại, phải xây dựng kết cấu hạ

tầng viễn thông tƣơng thích với hệ thống quốc tế. Đây là hạ tầng thiết yếu cho

việc truyền đƣa các thông tin, dữ liệu số, thông điệp điện tử. Tại Singapore,

ngƣời ta đã thiết lập hệ thống băng thông rộng quốc gia Singapore-one và

mạng này hoạt động có hiệu quả trở thành băng thông rộng quốc gia tiên tiến

nhất trên thế giới, tạo thuận lợi cho phát triển TMĐT. Đối với Việt Nam là

nƣớc đi sau, điều đầu tiên là cần xây dựng kết cấu hạ tầng viễn thông cơ bản

với chi phí thấp. Để làm đƣợc điều này rất cần có sự điều tiết của Chính phủ

77

trong việc dỡ bỏ những rào cản đối với nhập khẩu các thiết bị viễn thông, linh

kiện máy tính, linh kiện điện tử trong lĩnh vực viễn thông. Thúc đẩy và duy trì

sự cạnh tranh trong ngành này với mức chi phí hợp lý và dịch vụ mạng ổn

định, đảm bảo cho mọi ngƣời dân có thể truy cập đƣợc. Cần thiết phải thu hút

các nhà đầu tƣ nƣớc ngoài tham gia đầu tƣ ở một mức độ nhất định vào lĩnh

vực này.

Bên cạnh đó, kết cấu hạ tầng công nghệ điện tử để tạo ra các thiết bị

điện tử, tin học, viễn thông và điện lực cung cấp điện năng đầy đủ, rộng khắp

cũng là điều kiện cho các phƣơng tiện trên hoạt động. Trong đó mạng quốc

gia tốc độ cao là then chốt cho Chính phủ điện tử, đƣợc xây dựng bằng ngân

sách nhà nƣớc, giành cho các cơ quan công quyền, các viện nghiên cứu và các

trƣờng học truy cập với giá thấp. Mạng nghiên cứu tốc độ cao cũng do Chính

phủ xây dựng phục vụ cho nghiên cứu khoa học của các viện, các trƣờng và

các trung tâm. Hệ thống mạng công cộng là các mạng cáp quang do các nhà

cung cấp dịch vụ viễn thông xây dựng, phục vụ cả các hoạt động thƣơng mại

và phi thƣơng mại. Trong thời gian tới, Chính phủ cũng cần có chính sách hỗ

trợ để đảm bảo khả năng cung cấp điện năng đầy đủ với giá cả hợp lý cho mọi

ngƣời dân.

3.2.3. Chương trình xây dựng & hoàn thiện hệ thống pháp luật cho TMĐT

Ở Việt Nam, nhìn chung, môi trƣờng pháp luật cho TMĐT đang từng

bƣớc đƣợc hoàn thiện. Trong thời gian tới, để phát triển TMĐT lành mạnh,

cần phải giải quyết đƣợc một số nhiệm vụ nhƣ sau:

3.2.3.1. Nâng cao công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về TMĐT

Hiện nay, công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về TMĐT ở Việt

Nam vẫn chƣa đƣợc thực hiện sâu rộng trong quần chúng nhân dân, trong các

doanh nghiệp và cơ quan nhà nƣớc. Nhiều ngƣời vẫn còn hiểu biết rất mơ hồ

về những điều luật liên quan đến TMĐT, tạo kẽ hở cho những đối tƣợng làm

78

ăn bất chính. Do đó việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật cần đƣợc tiến hành

một cách chặt chẽ, liên tục cập nhật những điều luật mới, quy định mới trong

lĩnh vực TMĐT cho các doanh nghiệp cũng nhƣ ngƣời dân. Để làm đƣợc điều

này, cần phải có cơ chế phối hợp hiệu quả trong hoạt động giáo dục pháp luật

giữa các cơ quan liên quan nhƣ cơ quan quản lý nhà nƣớc và cơ quan thông

tin đại chúng, các tổ chức đào tạo, v.v...

3.2.3.2. Xây dựng và hoàn thiện cơ chế giám sát, đưa ra các chế tài,

quy định xử phạt nghiêm minh mọi hành vi vi phạm trong lĩnh vực kinh doanh

TMĐT

Muốn thực hiện tốt giải pháp này phải tăng cƣờng công tác thanh kiểm

tra các hoạt động trong lĩnh vực TMĐT của tất cả các doanh nghiệp, đơn vị,

cơ quan nhà nƣớc. Trƣớc tiên, cần phải huy động đƣợc nguồn lực giám sát có

năng lực chuyên môn nghiệp vụ cao, có nhiều kinh nghiệm hoạt động trong

lĩnh vực TMĐT và quan trọng phải có thái độ làm việc khách quan, không vụ

lợi trƣớc mắt có khả năng đƣa ra cơ chế giám sát trực tuyến các hoạt động

trên môi trƣờng điện tử. Bên cạnh đó, cần có quy định cụ thể về mức xử phạt

đối với các hành vi vi phạm trong lĩnh vực TMĐT đủ mạnh mẽ răn đe, tạo ra

sự tuân thủ tốt trong xã hội.

3.2.3.3. Cần có một cơ chế thích đáng để giải quyết tranh chấp trong

lĩnh vực TMĐT

Một trong những nguyên nhân chủ yếu khiến phần lớn ngƣời tiêu dùng

Việt Nam còn e ngại khi tham gia giao dịch TMĐT là họ vẫn chƣa đƣợc bảo

vệ thích đáng trong các vụ tranh chấp xảy ra khi mua bán hàng hóa trên mạng.

Do đó, xây dựng cơ chế giải quyết tranh chấp trong TMĐT là một trong việc

ƣu tiên hàng đầu của các cơ quan quản lý Nhà nƣớc cần giải quyết trong thời

gian tới. Bởi việc hình thành cơ chế giải quyết tranh chấp sẽ giúp ngƣời tiêu

79

dùng tin tƣởng vào việc mua sắm trực tuyến, thanh toán điện tử, góp phần

thúc đẩy TMĐT phát triển.

3.2.3.4. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật TMĐT ngày càng

chặt chẽ và thống nhất

Để TMĐT phát triển lành mạnh cần phải hoàn thiện hệ thống pháp luật,

thông qua việc ban hành và thực thi các đạo luật và các văn bản dƣới luật điều

chỉnh các hoạt động thƣơng mại, thích ứng với luật pháp và tập quán quốc tế

về giao dịch TMĐT. Việc xây dựng các điều luật cũng nhƣ quá trình sửa đổi,

bổ sung phải đƣợc tiến hành chặt chẽ và đảm bảo tính thống nhất. Đồng thời,

luật pháp TMĐT phải bao quát trên phạm vi rộng, tránh tạo kẽ hở cho kẻ xấu

lợi dụng.

Singapore là quốc gia có hệ thống văn bản luật pháp về TMĐT đầy đủ

và có hiệu lực vào loại nhất thế giới, nên TMĐT phát triển nhanh và ổn định.

Hàn Quốc cũng coi trọng việc hoàn thiện khung pháp lý TMĐT, gồm luật

khung về TMĐT; Luật bảo vệ ngƣời tiêu dùng; Luật chữ ký điện tử, Luật phát

triển ngành đào tạo nhân lực cho TMĐT; Luật ứng dụng mạng công nghệ

thông tin truyền thông và bảo vệ thông tin. Một số luật khác có liên quan đến

TMĐT, nhƣ Luật kinh doanh tài chính và tín dụng; Luật hóa đơn điện

tử…Các luật và văn bản dƣới luật chú trọng việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ,

thƣơng hiệu, tên miền, bảo vệ bí mật cá nhân, an ninh mạng, xử lý các tranh

chấp trong giao dịch TMĐT …

Bên cạnh đó, tính chặt chẽ, thống nhất và bao quát trên phạm vi rộng

còn thể hiện ở việc điều chỉnh các vấn đề liên quan đến quy định bảo vệ

ngƣời tiêu dùng khỏi các quảng cáo, thông tin rác, an toàn thông tin cá nhân;

đảm bảo tính cạnh tranh lành mạnh và có những chính sách ƣu đãi hỗ trợ

doanh nghiệp vừa và nhỏ tham gia vào lĩnh vực TMĐT. Đây là việc làm cần

80

thiết trong thời gian tới nhằm hoàn thiện môi trƣờng pháp lý cho TMĐT ở

Việt Nam.

3.2.4. Chương trình cung cấp các dịch vụ công hỗ trợ TMĐT và ứng

dụng TMĐT trong mua sắm Chính phủ

Nhà nƣớc không những đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ đào

tạo nhân lực và phổ cập kiến thức về TMĐT; tạo môi trƣờng pháp lý; xây

dựng kết cấu hạ tầng cho TMĐT và quản lý các giao dịch TMĐT để bảo vệ

lợi ích của ngƣời tham gia mà còn phải phát triển các dịch vụ công nhằm thúc

đẩy sự phát triển của TMĐT.

Những việc mà Nhà nƣớc và Chính phủ cần làm trong thời gian tới là:

Đẩy mạnh cung cấp các dịch vụ công, nhƣ hải quan điện tử; kê khai thuế và

nộp thuế, làm các thủ tục xuất, nhập khẩu; đăng ký kinh doanh và các loại

giấy phép chuyên ngành liên quan đến thƣơng mại, giải quyết tranh chấp

…trên mạng. Các cơ quan nhà nƣớc phải ứng dụng TMĐT trong mua sắm

công, đấu thầu; gắn với cải cách hành chính, minh bạch hóa, nâng cao hiệu

lực nền hành chính quốc gia, và xây dựng chính phủ điện tử.

Bên cạnh đó, các ngân hàng nhà nƣớc cũng cần tích cực triển khai đề

án thanh toán không dùng tiền mặt và tiếp tục hoàn thiện cơ sở pháp lý liên

quan đến thanh toán điện tử, một khâu rất quan trọng trong hoạt động TMĐT.

3.2.5. Phát triển công nghệ hỗ trợ TMĐT

Để TMĐT phát triển một cách có hiệu quả cần phải có một hạ tầng

công nghệ đủ năng lực, một nền công nghiệp điện tử vững mạnh làm nền

tảng. Trên thế giới, Ebay và Amazon là hai trong số các tập đoàn đạt đƣợc

thành công lớn trong TMĐT đều đƣợc sinh ra trong cái nôi công nghệ của thế

giới đó là Hoa Kỳ và tại những nƣớc hội tụ các yếu tố thuận lợi cho TMĐT

phát triển.

81

Việt Nam không phải là nƣớc có lợi thế về mặt công nghệ để hỗ trợ cho

TMĐT phát triển. Do đó, việc cần làm trƣớc tiên là Chính phủ cần có sự can

thiệp trong việc đƣa ra những chính sách khuyến khích nhập khẩu các linh

kiện, thiết bị tin học, những công nghệ mới, hiện đại trong lĩnh vực điện tử,

viễn thông. Đẩy mạnh hợp tác, liên doanh với các công ty nƣớc ngoài trong

việc chuyển giao khoa học công nghệ. Triển khai xây dựng các cơ sở sản

xuất, lắp ráp, chế tạo thiết bị truyền thông và tin học chuyên dụng đáp ứng

nhu cầu phát triển công nghệ trong nƣớc và xuất khẩu ra nƣớc ngoài. Tổ chức

đƣa các chuyên gia trong lĩnh vực này ra nƣớc ngoài học tập, nghiên cứu,

đồng thời, mời những chuyên gia nƣớc ngoài về Việt Nam giảng dạy.

Đây là những chính sách cần đƣợc chú ý nhằm phát triển khoa học

công nghệ hỗ trợ TMĐT Việt Nam bắt kịp xu thế phát triển chung của TMĐT

thế giới.

3.3. Nhóm giải pháp về đảm bảo an toàn cho các giao dịch thƣơng mại

3.3.1. Bảo vệ thông tin cá nhân

Việc xây dựng năng lực bảo vệ thông tin cá nhân trong TMĐT là chủ

đề rất quan trọng, có thể giúp nâng cao năng lực và xây dựng mô hình TMĐT

điển hình cho Việt Nam và các nƣớc trên thế giới. Vấn đề đảm bảo an toàn và

bảo vệ thông tin cá nhân luôn đƣợc quan tâm hàng đầu từ phía các cơ quan

nhà nƣớc, các doanh nghiệp và cá nhân tham gia vào hoạt động TMĐT. Vì

vậy, để thực hiện tốt giải pháp này cần phải có sự tham gia từ nhiều phía và

cần tiến hành nhƣ sau:

Về phía các doanh nghiệp, cần đƣa ra một giải pháp tổng thể liên quan

tới các vấn đề về con ngƣời, chính sách và công nghệ. Con ngƣời ở đây có thể

là các nhà điều hành, các kỹ sƣ CNTT, các kỹ thuật viên của các công ty,

doanh nghiệp kinh doanh TMĐT. Yêu cầu đặt ra với họ trƣớc tiên phải là

những con ngƣời có năng lực, tiếp sau đó phải là những con ngƣời yêu nghề,

82

có tinh thần trách nhiệm cao trong việc đảm bảo an toàn thông tin cá nhân. Về

chính sách, mỗi doanh nghiệp cần phải xây dựng cho mình một chính sách

phù hợp để đảm bảo an toàn thông tin cá nhân cho khách hàng, giữ đƣợc niềm

tin từ phía các đối tác và khách hàng của mình. Việc lựa chọn công nghệ phần

mềm để đảm bảo an toàn thông tin cho khách hàng cũng là khâu quan trọng.

Lựa chọn công nghệ an toàn, phù hợp với chiến lƣợc kinh doanh rất cần đƣợc

doanh nghiệp quan tâm chú trọng đúng mức.

Về phía Chính phủ và các cơ quan nhà nƣớc, việc đƣa nội dung bảo vệ

thông tin cá nhân vào Luật an toàn thông tin là hết sức cần thiết. Nội dung

đƣa ra cần xuất phát từ các yêu cầu của thực tiễn Việt Nam, khái quát, hệ

thống hóa lại các quy định riêng rẽ đã đƣợc đƣa ra và bao trùm lên các quy

định này, để tạo hành lang pháp lý rõ ràng cho việc bảo vệ thông tin cá nhân

tại Việt Nam. Bên cạnh đó, từ năm 2007 đến nay, trên thế giới đã ghi nhận

nhiều vụ xung đột mạng dẫn đến chiến tranh thông tin giữa các quốc gia mà

một trong các nguyên nhân đó có thể là sự rò rỉ thông tin cá nhân đƣợc lan

truyền qua mạng. Do vậy, Chính phủ phải có sự phối hợp chặt chẽ mang tính

toàn cầu đối với việc bảo vệ thông tin cá nhân, bí mật riêng tƣ, bảo vệ quyền

lợi của ngƣời tiêu dùng.

Về phía các cá nhân, ngƣời tiêu dùng, cần phải nâng cao cảnh giác với

nạn trộm cắp thông tin cá nhân và đề phòng với loại tội phạm này bằng một

số biện pháp nhƣ: chỉ cung cấp thông tin tối thiểu khi đƣợc yêu cầu; không

đƣa thông tin chi tiết thẻ tín dụng với mọi cửa hàng; không cung cấp chi tiết

địa chỉ nhà riêng; sử dụng một số điện thoại thay thế; không khai đầy đủ họ

tên; sử dụng nhiều địa chỉ email….Để thực hiện tốt giải pháp này, ngoài sự

cảnh giác từ phía các cá nhân cũng cần có sự bảo vệ, can thiệp từ các cơ quan

chức năng trong việc tuyên truyền đến họ những thông tin cần thiết để tự bảo

vệ mình, tránh gặp rủi ro trong các giao dịch TMĐT.

83

3.3.2. Quy định về chữ ký điện tử

Chữ ký điện tử (Electronic Signature) là thông tin đi kèm theo dữ

liệu (văn bản, hình ảnh, video...) nhằm mục đích xác định ngƣời chủ của dữ

liệu đó, đƣợc sử dụng trong các giao dịch điện tử. Về bản chất chữ ký điện tử

tƣơng đƣơng chữ ký tay, cần đảm bảo các chức năng: xác định đƣợc ngƣời

chủ của một dữ liệu nào đó: văn bản, ảnh, video,... dữ liệu đó có bị thay đổi

hay không.

Có nhiều loại chữ ký điện tử khác nhau nhƣ chữ ký số, chữ ký sinh trắc

học, chữ ký dựa trên số nhận dạng cá nhân (số PIN), chữ ký tạo bằng thẻ

thông minh… Hiện nay, chữ ký số là loại chữ ký điện tử đƣợc sử dụng phổ

biến nhất. Một chữ ký điện tử sẽ là một chữ ký số nếu nó sử dụng một phƣơng

pháp mã hóa nào đó để đảm bảo tính toàn vẹn (thông tin) và tính xác thực. Ví

dụ nhƣ một bản dự thảo hợp đồng soạn bởi bên bán hàng gửi bằng email tới

ngƣời mua sau khi đƣợc ký (điện tử).

Sự thừa nhận giá trị pháp lý của chữ ký điện tử là một vấn đề hết sức

quan trọng trong TMĐT. Nó thừa nhận tính hợp pháp của các tài liệu giao

dịch của chủ thể thông qua mạng Internet, thừa nhận các hợp đồng điện tử. Vì

vậy, nếu không thừa nhận chữ ký điện tử thì cũng có nghĩa là không thừa

nhận tính hợp pháp của TMĐT. Cũng vì thế mà ở hầu hết các nƣớc có luật về

TMĐT cũng đều có luật về chữ ký điện tử riêng biệt, hay đƣợc đƣa kèm ngay

trong luật Thƣơng mại điện tử. Theo luật về giao dịch điện tử của Singapore

(Singapore Electronic Transaction Act): “Chữ ký điện tử là bất kỳ chữ nào, ký

tự nào, các con số hay các biểu tượng khác dưới dạng số hóa, được gắn vào

hay liên quan một cách logic vào các tài liệu điện tử được thực hiện với ý

định xác nhận, đồng ý về tài liệu điện tử đó”.

Ở Việt Nam hành lang pháp lý cho chữ ký số và dịch vụ chứng thực

chữ ký số đã hình thành và ngày càng đƣợc hoàn thiện. Tuy nhiên, trong quá

84

trình triển khai cho thấy nhiều bất cập liên quan đến yếu tố kỹ thuật nhƣ: khi

xây dựng hạ tầng khóa công khai chƣa đƣợc quy định cụ thể và thống nhất.

Đây là yếu tố cản trở sự phát triển nói chung của TMĐT và chính phủ điện tử

tại Việt Nam. Do đó, trong thời gian tới, cần đƣa ra những quy định về chữ ký

số và các nội dung cần thiết liên quan đến sử dụng chữ ký số, bao gồm chứng

thƣ số; việc quản lý, cung cấp và sử dụng dịch vụ chứng thực chữ ký số. Đây

là những quy định nền tảng để thiết lập một cơ chế đảm bảo an ninh an toàn

cũng nhƣ độ tin cậy của các giao dịch điện tử, thúc đẩy TMĐT phát triển

mạnh mẽ hơn.

3.3.3. Thừa nhận giá trị pháp lý đối với thông điệp dữ liệu trong

TMĐT

Thông điệp dữ liệu là hình thức thông tin đƣợc trao đổi qua phƣơng

tiện điện tử trong các giao dịch TMĐT. Thừa nhận giá trị pháp lý của các

thông điệp dữ liệu là cơ sở cho việc thừa nhận các giao dịch TMĐT, thể hiện

dƣới các khía cạnh: có thể thay thế văn bản giấy (hoặc văn bản kèm chữ ký),

có giá trị nhƣ bản gốc, có giá trị lƣu trữ và chứng cứ, xác định trách nhiệm

các bên và thời gian, địa điểm gửi, nhận thông điệp dữ liệu.

Tài liệu giấy thông thƣờng luôn đƣợc coi là cơ sở pháp lý đáng tin cậy,

sao chụp đƣợc và không thể biến đổi trong các giao dịch sử dụng nó. Những

cơ sở nêu trên cũng đƣợc thừa nhận đối với một tài liệu điện tử khi thoả mãn

những quy định pháp luật yêu cầu thông tin phải dƣới dạng chữ viết và có thể

truy cập đƣợc. Nhằm chứng minh ý định giao kết hợp đồng dƣới dạng văn

bản thông thƣờng, toà án có thể căn cứ vào các bằng chứng ngoài hợp đồng

nhƣ biên bản ghi những cuộc đàm phán giữa các bên. Theo cách này, pháp

luật cần thừa nhận giá trị bằng chứng của thƣ điện tử hoặc bản ghi đƣợc lƣu

trữ trên phƣơng tiện điện tử thể hiện ý định giao kết hợp đồng giữa các bên.

85

Ở Việt Nam hiện nay, cùng với sự phát triển của TMĐT, chứng từ điện

tử đang trở nên khá phổ biến trong giao dịch giữa các đối tác kinh doanh, đặc

biệt ở những bƣớc tiến tới giao kết hợp đồng. Về mặt pháp lý, Luật Giao dịch

điện tử, Nghị định Thƣơng mại điện tử và Nghị định về Giao dịch điện tử

trong hoạt động tài chính đã cung cấp đầy đủ cơ sở để doanh nghiệp có thể sử

dụng chứng từ điện tử trong các hoạt động giao dịch thƣơng mại nói chung.

Tuy nhiên, luật cũng quy định rõ với những tình huống đòi hỏi độ xác thực

cao của thông tin chứa trong chứng từ điện tử, các bên cần đặc biệt lƣu ý đến

những biện pháp kỹ thuật để đảm bảo giá trị pháp lý của chứng từ trong

trƣờng hợp xảy ra tranh chấp.

Khác với thƣ điện tử trao đổi trực tiếp giữa hai bên, chứng từ điện tử

đƣợc hiển thị hoặc khởi tạo trên website khó xác định các yếu tố cấu thành giá

trị pháp lý. Do đó, khách hàng thƣờng chịu bất lợi khi tham gia giao dịch trên

website do thiếu kiến thức, kinh nghiệm và không đƣợc cung cấp đầy đủ

thông tin. Việc hƣớng dẫn và cung cấp thông tin đầy đủ từ phía ngƣời bán

đóng vai trò quan trọng trong việc phòng ngừa những rủi ro trong giao dịch

điện tử.

Vì vậy, cùng với việc thừa nhận giá trị pháp lý của thông điệp dữ liệu

điện tử cũng cần phải đƣa ra những quy định về việc gắn trách nhiệm của

ngƣời bán trong việc cung cấp các điều khoản trong hợp đồng trên website

TMĐT, thiết lập khung cơ bản cho một quy trình giao kết hợp đồng trên

website, và quy định chi tiết một số yếu tố cấu thành nên giá trị pháp lý của

chứng từ điện tử trong quá trình giao kết hợp đồng góp phần thúc đẩy TMĐT

phát triển lành mạnh hơn.

3.3.4. Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trong TMĐT

Với sự xuất hiện của nhiều công nghệ mới, đặc biệt là các ứng dụng

CNTT, việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ có ý nghĩa hết sức quan trọng trong

86

việc phát triển TMĐT. Phần lớn các đối tƣợng thuộc quyền sở hữu trí tuệ nhƣ

tác phẩm văn học - nghệ thuật, tài liệu khoa học - kỹ thuật, chƣơng trình máy

tính, cơ sở dữ liệu có tính sáng tạo, nhãn hiệu thƣơng mại, bí mật thƣơng mại,

chỉ dẫn địa lý… đều có thể xuất hiện dƣới hình thức cho phép truyền tải dễ

dàng qua Internet và các mạng mở khác. Nhiều vấn đề mới liên quan tới tên

miền; tính năng liên kết, dẫn chiếu giữa các tài liệu trên môi trƣờng nối mạng,

trách nhiệm của các nhà cung cấp dịch vụ mạng… khiến các quy định về

phạm vi bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trƣớc đây ở nƣớc ta không còn phù hợp.

Để có thể bảo hộ tốt trong TMĐT, pháp luật về sở hữu trí tuệ cần đƣợc

điều chỉnh theo chiều hƣớng nhƣ sau:

Thứ nhất, việc hình thành những đối tƣợng quyền sở hữu trí tuệ mới

nhƣ phần mềm máy tính và cơ sở dữ liệu nguồn đòi hỏi phải có những quy

định mới thừa nhận và bảo hộ chúng, cách thức bảo hộ có thể nhƣ với đối

tƣợng của quyền tác giả hay quyền sở hữu công nghiệp. Pháp luật cần chỉ rõ

các thuộc tính cơ bản phân biệt với các đối tƣợng quyền sở hữu trí tuệ khác,

xác lập các quyền nhân thân, quyền sở hữu và các nghĩa vụ liên quan, đƣa ra

các giới hạn, ngoại lệ đối với các quyền và nghĩa vụ, hình thành cơ chế xử lý

vi phạm.

Thứ hai, nhiều đối tƣợng quyền sở hữu trí tuệ có thể đƣợc biểu hiện

dƣới dạng các ứng dụng CNTT nhƣ tên miền, giao diện website, từ khoá sử

dụng để tìm kiếm thông tin và các ứng dụng CNTT khác. Do pháp luật chƣa

quy định cụ thể (chƣa xác định chúng thuộc đối tƣợng quyền sở hữu trí tuệ

nào) nên không biết cơ chế bảo hộ. Ví dụ: website có nên coi là hình thức

biểu hiện của một tác phẩm nghệ thuật không? Tên miền của một công ty có

đƣợc hƣởng các cơ chế bảo hộ nhƣ nhãn hiệu thƣơng mại không? ...

Ngoài ra, internet và các mạng mở khác là môi trƣờng lý tƣởng cho

việc trao đổi, chia sẻ các đối tƣợng của quyền sở hữu trí tuệ. Một tác phẩm

87

văn học có thể nhanh chóng bị phát tán trên internet; các bí mật kinh doanh

đƣợc lƣu trên máy tính một công ty có thể bị tiết lộ ra bên ngoài qua kết nối

internet; một bản nhạc mới đƣợc phát hành, nếu đƣa lên mạng thì ai cũng có

thể tải về sử dụng… Môi trƣờng mới tác động đến các quyền và nghĩa vụ liên

quan tới mọi đối tƣợng quyền sở hữu trí tuệ. Vì vậy, pháp luật sở hữu trí tuệ

phải hình thành các quy định thêm về giới hạn, ngoại lệ thực hiện các quyền

và nghĩa vụ cho phù hợp.

Điều này đòi hỏi cần phải có sự nghiên cứu kỹ lƣỡng về những đối

tƣợng mới của quyền sở hữu trí tuệ trong TMĐT để tiến hành bổ sung những

điều luật mới, những quy định cụ thể cho từng đối tƣợng, tránh tạo ra những

sơ hở để kẻ xấu lợi dụng gây mất lòng tin của ngƣời dân.

3.3.5. Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong TMĐT

Vấn đề bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu dùng đang ngày càng đƣợc quan

tâm và việc Quốc hội lần đầu tiên thông qua Luật bảo vệ ngƣời tiêu dùng vào

cuối năm 2010 đã phản ánh tầm quan trọng của vấn đề này trong hệ thống

pháp luật kinh tế - dân sự Việt Nam.

Quyền lợi ngƣời tiêu dùng trong TMĐT có thể bị tác động bởi 2 nhóm

yếu tố: thứ nhất là những yếu tố của môi trƣờng thƣơng mại truyền thống nhƣ

thông tin, chất lƣợng hàng hóa, dịch vụ, v.v…; thứ hai là những yếu tố đặc

thù của môi trƣờng điện tử nhƣ bảo vệ thông tin cá nhân, ngăn chặn quảng

cáo không mong muốn (thƣ rác), vấn đề an ninh an toàn trong giao dịch,

v.v…Do vậy, các quy định pháp luật về bảo vệ ngƣời tiêu dùng trong TMĐT

thời gian qua đã đƣợc xây dựng dựa trên các nguyên tắc cơ bản nhƣ sau:

- Giao dịch TMĐT phải tuân thủ các quy định pháp luật chung về bảo

vệ ngƣời tiêu dùng. Những tranh chấp về chất lƣợng hàng hóa, quảng cáo

không đúng sự thật, thông tin sai lệch … sẽ đƣợc xử lý nhƣ trong các giao

dịch truyền thống.

88

- Mức độ bảo vệ của pháp luật đối với ngƣời tiêu dùng trong giao dịch

TMĐT cũng tƣơng đƣơng nhƣ trong môi trƣờng truyền thống. Ngƣời bán

trong môi trƣờng điện tử không phải tuân thủ những quy định khắt khe hơn

hay đƣợc hƣởng ƣu đãi hơn so với ngƣời bán trong môi trƣờng truyền thống.

- Hệ thống pháp luật TMĐT chỉ điều chỉnh những khía cạnh đặc thù

của giao dịch điện tử liên quan đến vấn đề bảo vệ ngƣời tiêu dùng.

Với tinh thần trên, các văn bản liên quan đến vấn đề bảo vệ ngƣời tiêu

dùng trong TMĐT thời gian qua chủ yếu tập trung vào 2 khía cạnh đặc thù là

bảo vệ thông tin cá nhân của ngƣời tiêu dùng và bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu

dùng trong quá trình giao kết hợp đồng trên website TMĐT. Bảo vệ ngƣời

tiêu dùng trong quá trình giao kết hợp đồng trên website TMĐT chủ yếu đƣợc

giải quyết thông qua các quy định về nghĩa vụ cung cấp thông tin và quy trình

giao kết hợp đồng trên môi trƣờng điện tử, nhằm thu hẹp khoảng cách về bất

bình đẳng thông tin đối với ngƣời tiêu dùng và nâng cao tính minh bạch của

môi trƣờng TMĐT.

Các đối tác tham gia vào một giao dịch TMĐT trên internet hoặc các

mạng mở khác không nhất thiết hoặc không thể gặp mặt nhau, họ tiến hành

các giao dịch chủ yếu thông qua những công nghệ mới và trong một môi

trƣờng khác biệt so với truyền thống. Thông thƣờng, ngƣời tiêu dùng không

biết rõ các thông tin về hàng hoá, dịch vụ đƣợc cung cấp nhƣ ngƣời bán, khả

năng bị thiệt hại cao hơn, vì vậy cần có những quy định pháp luật bảo vệ họ.

Tóm lại, để bảo vệ đƣợc quyền lợi của ngƣời tiêu dùng trong lĩnh vực

TMĐT thì cần phải tác động trực tiếp tới các doanh nghiệp. Trƣớc tiên, cần

đƣa ra những quy định bắt buộc về việc cung cấp rõ thông tin về doanh

nghiệp, hàng hóa, dịch vụ cũng nhƣ bắt buộc họ phải có những chính sách

riêng để bảo vệ thông tin của ngƣời tiêu dùng. Sau đó, là cơ chế giải quyết

tranh chấp và yêu cầu bồi thƣờng từ phía sai phạm. Đồng thời, xử lý nghiêm

89

những trƣờng hợp lợi dụng TMĐT để lừa đảo, quảng cáo không đúng sự thật

về hàng hóa, dịch vụ mà doanh nghiệp đó cung cấp. Nếu thực hiện triệt để

giải pháp này sẽ làm cho TMĐT phát triển lành mạnh hơn và có đƣợc sự tin

tƣởng, ủng hộ từ phía ngƣời tiêu dùng.

3.3.6. Giải quyết tranh chấp trong giao dịch mua bán hàng trực tuyến

Hoạt động thƣơng mại nói chung bao giờ cũng gắn liền với giải quyết

tranh chấp. Trong khi bộ máy và cơ chế giải quyết các tranh chấp trong hoạt

động thƣơng mại truyền thống đã tƣơng đối hoàn chỉnh thì trên thế giới cũng

nhƣ ở Việt Nam hầu nhƣ chƣa xác lập đƣợc bộ máy và cơ chế giải quyết các

tranh chấp phát sinh trên cơ sở ứng dụng TMĐT.

Vì vậy, trong giai đoạn tới Chính phủ cần tập trung xây dựng cơ chế,

bộ máy giải quyết tranh chấp có hiệu quả để sẵn sàng giải quyết một cách

thỏa đáng các tranh chấp phát sinh trong TMĐT thông qua các hình thức nhƣ

giải quyết tranh chấp qua cơ chế tự hòa giải, cơ quan trọng tài kinh tế, các cơ

quan hành chính hay tòa án kinh tế hoặc tòa án hành chính. Đồng thời, việc

xây dựng cơ chế giải quyết tranh chấp trong các giao dịch TMĐT cũng cần

phải đƣợc bổ sung liên tục phù hợp với thực tế nƣớc ta hiện nay.

3.3.7. Phòng ngừa và nghiêm trị tội phạm công nghệ cao trong

TMĐT

Thực tế đấu tranh với các vụ tội phạm công nghệ cao cho thấy rằng,

những hậu quả do các hành vi phạm tội gây ra là rất nặng nề, gây thiệt hại lớn

cho nhiều tổ chức, cá nhân. Nhƣng, công tác đấu tranh với tội phạm công

nghệ cao hiện nay đang gặp rất nhiều khó khăn.

Khó khăn đầu tiên đó là hành lang pháp lý của Việt Nam quy định về

loại tội phạm này vừa thiếu vừa có nhiều điểm bất cập. Ví dụ nhƣ các quy

định về pháp luật đang bắt cơ quan điều tra chứng minh quá nhiều. Trong một

vụ án lừa đảo bằng công nghệ cao chẳng hạn, có tới hàng trăm ngƣời bị hại ở

90

khắp các nơi trên thế giới nhƣng luật quy định cơ quan điều tra phải xác minh,

ghi lời khai của tất cả ngần ấy ngƣời thì yêu cầu đó vƣợt quá khả năng của cơ

quan điều tra.

Hơn nữa, ý thức phòng ngừa tội phạm công nghệ cao của nhiều tổ

chức, doanh ghiệp còn chƣa cao. Các phần mềm còn chƣa thực sự hoàn hảo,

lỗ hổng thông tin còn nhiều, tạo cơ hội để tội phạm dễ thâm nhập, tấn công.

Đây cũng là một yếu tố làm gia tăng tội phạm công nghệ cao ở Việt Nam.

Bên cạnh đó, kinh nghiệm phòng chống tội phạm công nghệ cao của

Cảnh sát Việt Nam còn ít trong khi tình hình tội phạm trong lĩnh vực này lại

đang phát triển rất nhanh.

Để hoạt động phòng ngừa và nghiêm trị tội phạm công nghệ cao đạt

hiệu quả, cần thiết phải chú trọng những giải pháp và thực hiện những yêu

cầu chủ yếu sau đây:

Trƣớc tiên, cần xây dựng các dự án nâng cao năng lực của lực lƣợng

chuyên trách phòng chống tội phạm công nghệ cao với đội ngũ cán bộ có

năng lực thực sự cao, đƣợc trang bị phần mềm hiện đại tiệm cận với trình độ

quốc tế phục vụ công tác đấu tranh phòng chống tội phạm. Để làm đƣợc điều

này, cần có một đội ngũ chuyên gia công nghệ thông tin giỏi, chuyên gia điều

tra có khả năng đánh giá, phân tích những chứng cứ điện tử thực hiện việc

điều tra các vụ tội phạm công nghệ cao và tiếp tục có kế hoạch đào tạo để

phát triển đội ngũ này ngày càng lớn mạnh. Đồng thời, gửi các cán bộ, chiến

sỹ đi đào tạo ở nƣớc ngoài và thực hành làm việc tại các trung tâm chống tội

phạm công nghệ cao ở một số nƣớc tiên tiến để tiếp thu, học hỏi kinh nghiệm

về áp dụng tại Việt Nam.

Thứ hai, về phía quốc gia, cần phải kết hợp giữa lập pháp, hành pháp

và tƣ pháp. Cụ thể là: Về mặt lập pháp, các cơ quan lập pháp và hoạch định

chính sách cần xây dựng các quy phạm pháp luật cụ thể, chi tiết về phòng

91

chống tội phạm công nghệ cao, trong đó có những biện pháp tuyên truyền

giáo dục cộng đồng, cơ chế phối hợp quốc tế và tham gia công ƣớc chung về

phòng chống tội phạm công nghệ cao.

Về hành pháp và tƣ pháp, các cơ quan thi hành pháp luật và cơ quan xét

xử cần phải đƣợc trang bị kiến thức sâu và rộng về công nghệ thông tin, nỗ

lực hợp tác quốc tế trong đấu tranh, phòng chống tội phạm công nghệ cao.

Công tác xét xử cần nghiêm minh và mang tính giáo dục, cƣỡng chế đối với

các tội phạm công nghệ thông tin. Tăng cao hiệu quả phòng ngừa và ngăn

chặn loại tội phạm mới này.

Tích cực tổ chức đấu tranh phòng ngừa để cuộc đấu tranh chống tội

phạm nói chung trong đó có tội phạm công nghệ cao đạt hiệu quả tốt hơn.

Bên cạnh đó, một số cơ quan đầu não của Chính phủ và của các ngành

cũng cần phải kết nối mạng trong tiến trình phát triển chung của xã hội cũng

nhƣ lộ trình xây dựng Chính phủ, Quốc hội điện tử ở Việt Nam.

Ngoài ra còn cần có các cơ chế phối hợp liên ngành để đảm bảo việc

phòng chống tội phạm công nghệ cao đạt đƣợc hiệu quả cao nhất.

3.3.8. Hợp tác quốc tế trong việc nghiêm trị tội phạm trong TMĐT

Trong những năm qua, hoạt động hợp tác quốc tế về TMĐT đã đƣợc

Đảng, nhà nƣớc quan tâm thích đáng. Hợp tác quốc tế về TMĐT đƣợc tiến

hành ở cả cấp độ song phƣơng và đa phƣơng với các mục tiêu chủ yếu là nâng

cao năng lực quản lý nhà nƣớc và hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm

pháp luật liên quan đến Thƣơng mại điện tử; thúc đẩy phát triển thƣơng mại

phi giấy tờ, tăng cƣờng niềm tin và thu hút ngƣời tiêu dùng tham gia giao dịch

thƣơng mại điện tử; hỗ trợ các doanh nghiệp nâng cao hiệu quả sản xuất kinh

doanh, tăng cƣờng năng lực cạnh tranh trong bối cảnh toàn cầu hóa đang diễn

ra mạnh mẽ.

92

Tuy nhiên, thực tế tình hình tội phạm sử dụng công nghệ cao trong lĩnh

vực TMĐT ở nƣớc ta đang diễn biến phức tạp, qua từng năm loại tội phạm

này tăng cả số vụ lẫn mức độ thiệt hại và phƣơng thức ngày càng tinh vi hơn,

việc phát hiện và xử lý cũng gặp nhiều khó khăn. Vì tội phạm công nghệ cao

có tính chất quốc tế đòi hỏi các lực lƣợng đấu tranh chống tội phạm phải liên

kết trên phạm vi toàn cầu. Do đó, hợp tác quốc tế về TMĐT không những vì

mục tiêu nêu trên mà còn cần phải hợp tác trong việc nghiêm trị tội phạm

công nghệ cao, học hỏi kinh nghiệm của các nƣớc đi trƣớc trong việc xử lý

nhóm tội phạm nguy hiểm này.

Nhận thức đƣợc tầm quan trọng đó, ngày 7/4/2014 Chính phủ đã ban

hành Nghị định số 25/NĐ-CP quy định về hoạt động phòng ngừa, phát hiện

và xử lý tội phạm và vi phạm pháp luật khác có sử dụng công nghệ cao; hợp

tác quốc tế trong phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật khác có sử

dụng công nghệ cao; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp và cá

nhân trong phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật khác có sử dụng công

nghệ cao.

Tuy nhiên, hoạt động hợp tác quốc tế trong việc nghiêm trị tội phạm sử

dụng công nghệ cao hiện nay vẫn chƣa đƣợc nhiều tổ chức, cá nhân quan tâm

một cách đúng mức, tâm lý lo ngại, sợ bị ảnh hƣởng, liên lụy…vẫn còn tồn

tại. Vì vậy, hoạt động này cần thiết phải đƣợc tuyên truyền, phổ biến sâu rộng

trong nhân dân để họ có kinh nghiệm trong phòng ngừa loại tội phạm này.

Trong quá trình tham gia hợp tác quốc tế, các nƣớc có thể học hỏi kinh

nghiệm lẫn nhau trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm. Ví dụ, ở

Singapore, Chính phủ đã quyết định treo giải thƣởng hàng chục ngàn đôla cho

hacker nào đột nhập vào một trong những máy chủ đặt sẵn trong lãnh

thổ Singapore. Biện pháp này đƣợc đƣa ra nhằm giúp cho cơ quan nghiên cứu

các kỹ thuật điều tra tội phạm máy tính có thêm kinh nghiệm đấu tranh.

93

Cũng theo kinh nghiệm phối hợp đấu tranh và từ kết quả trao đổi thông

tin với cảnh sát nƣớc ngoài cho thấy: Nhiều nƣớc nhƣ Singapore, Malaysia đã

xây dựng Luật Chống tội phạm máy tính riêng không chỉ quy định về hành vi

nguy hiểm cho xã hội (quy định tội danh) mà còn quy định các biện pháp đặc

biệt đƣợc áp dụng đấu tranh với tội phạm máy tính. Trong khi đó, ở Việt

Nam, theo quy định của Bộ luật Hình sự hiện hành, mới chỉ có 3 điều luật

điều chỉnh những hành vi vi phạm trong lĩnh này.

Hay để đối phó với tình trạng mất an ninh qua mạng, các nƣớc đã thành

lập những trung tâm an ninh mạng mang tính quốc gia, nhƣ Trung tâm bảo vệ

Cơ sở hạ tầng quốc gia (NIPC) trực thuộc FBI (Federal Bureau of

Investigation) của Mỹ, có chức năng ngăn chặn và bảo vệ hạ tầng quốc gia về

viễn thông, năng lƣợng, giao thông vận tải, ngân hàng và tài chính, các hoạt

động cấp cứu và các hoạt động khác của chính phủ.

Các quốc gia cũng đã nhóm họp lại, đánh giá thực trạng tình hình tội

phạm công nghệ cao trên thế giới nói chung và từng khu vực nói riêng, từ đó

đề ra những chiến lƣợc, những giải pháp để lực lƣợng thi hành pháp luật mỗi

nƣớc có thể hợp tác với nhau, hỗ trợ lẫn nhau trong quá trình đấu tranh chống

tội phạm công nghệ cao.

Nhƣ vậy, hợp tác quốc tế là một giải pháp quan trọng trong phát triển

TMĐT. Việt Nam là nƣớc đi sau, có xuất phát điểm thấp nên cũng rất cần

phải tích cực tham gia vào các hoạt động hợp tác quốc tế về Thƣơng mại điện

tử nhằm bắt kịp sự phát triển của thế giới trong lĩnh vực này.

94

KẾT LUẬN

TMĐT đang đƣợc ứng dụng trên toàn thế giới, đặc biệt là ở các nƣớc

công nghiệp phát triển có kết cấu hạ tầng CNTT tiên tiến, luật pháp hoàn

chỉnh, con ngƣời có tri thức cao, hạ tầng kinh tế vững mạnh và đang đƣợc

khẳng định là xu thế tất yếu cho phát triển kinh tế toàn cầu trong thế kỷ 21.

Đối với nƣớc ta, TMĐT là cơ hội giúp các doanh nghiệp nâng cao khả

năng cạnh tranh trên trƣờng quốc tế, mở rộng thị trƣờng xuất khẩu hàng hóa,

phát huy mọi tiềm năng chƣa đƣợc khai thác trong nƣớc, nâng cao hiệu quả

hệ thống quản lý Nhà nƣớc, giúp ngƣời tiêu dùng có nhiều cơ hội lựa chọn

hàng hóa với giá cả hợp lý, tiếp cận với kho tàng kiến thức của nhân loại.

TMĐT có vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển kinh tế xã hội

nhƣ: Góp phần mở rộng thị trƣờng, rút ngắn khoảng cách giữa các doanh

nghiệp, các quốc gia; làm giảm chi phí, tăng hiệu quả lao động xã hội; tăng

cƣờng quan hệ thƣơng mại, xây dựng quan hệ với đối tác nhờ việc tạo ra một

phƣơng thức giao dịch mới là yếu tố tích cực trong việc nâng cao hiệu quả

quản lý Nhà nƣớc về kinh tế - xã hội; tạo điều kiện để Việt Nam sớm tiếp cận

nền kinh tế tri thức.

Kinh nghiệm phát triển TMĐT ở một số nƣớc, cụ thể là Hàn Quốc,

Nhật Bản, Thái Lan, Singapore, Canada đã cho thấy để phát triển TMĐT lành

mạnh phải chú trọng phát triển nguồn nhân lực, hoàn thiện cơ chế chính sách,

pháp luật và cơ chế điều tiết phù hợp, kết hợp với hoàn thiện kết cấu hạ tầng

công nghệ, hỗ trợ các doanh nghiệp tham gia TMĐT, đặc biệt là phải đảm bảo

an ninh, an toàn cho các giao dịch TMĐT.

Trong bối cảnh đó, Việt Nam đã xây dựng đƣợc hệ thống chính sách

pháp luật tƣơng đối đầy đủ và hoàn thiện, triển khai dịch vụ chứng thực chữ

ký số; cung cấp thông tin và giao kết hợp đồng trên website TMĐT.v.v…

95

Các doanh nghiệp trong cả nƣớc đã và đang đầu tƣ, ứng dụng CNTT và

phát triển TMĐT trong doanh nghiệp mình, nhất là trong lĩnh vực dịch vụ,

chứng khoán hay bán lẻ.

Tuy nhiên, trong quá trình ứng dụng và phát triển TMĐT trong các

doanh nghiệp còn gặp nhiều rào cản nhƣ: môi trƣờng pháp lý chƣa hoàn thiện,

dịch vụ vận chuyển và giao nhận còn yếu, nguồn nhân lực chƣa đáp ứng yêu

cầu, hệ thống thanh toán điện tử chƣa phát triển, nhận thức của ngƣời dân về

thƣơng mại điện tử thấp, an ninh mạng chƣa đảm bảo, môi trƣờng xã hội và

tập quán kinh doanh chƣa phù hợp. Tất cả những điều đó tạo thành rào cản

cho sự phát triển TMĐT lành mạnh ở Việt Nam hiện nay.

Để khắc phục tình trạng đó thì cần phải tiến hành hai nhóm giải pháp

cơ bản nhƣ sau:

Nhóm giải pháp chủ yếu hỗ trợ cho TMĐT bao gồm: Tuyên truyền

phổ biến và đào tạo nguồn nhân lực cho TMĐT; hoàn thiện kết cấu hạ tầng;

xây dựng & hoàn thiện hệ thống pháp luật cho TMĐT; cung cấp các dịch vụ

công hỗ trợ TMĐT và ứng dụng TMĐT trong mua sắm Chính phủ; phát triển

công nghệ hỗ trợ TMĐT.

Nhóm giải pháp về đảm bảo an toàn cho các giao dịch thƣơng mại

bao gồm: bảo vệ thông tin cá nhân, quy định về chữ ký điện tử, thừa nhận

giá trị pháp lý đối với thông điệp dữ liệu trong TMĐT, bảo hộ quyền sở hữu

trí tuệ trong TMĐT, bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu dùng trong TMĐT, giải

quyết tranh chấp trong giao dịch mua bán hàng trực tuyến, phòng ngừa và

nghiêm trị tội phạm công nghệ cao trong TMĐT, hợp tác quốc tế trong việc

nghiêm trị tội phạm sử dụng công nghệ cao trong TMĐT.

Để những giải pháp này đạt đƣợc kết quả tốt nhất thì cần có sự hợp tác

và nỗ lực của nhân dân, doanh nghiệp và Chính phủ.

96

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng Việt

1. Lê Hoài An (2001), “Bức tranh toàn cảnh về Thƣơng mại điện tử thế giới

2001”, Tạp chí Internet và TMĐT, số 11 tháng 09/2001.

2. Mai Anh (2001), Thương mại điện tử, việc triển khai ở Việt Nam và sự

tham gia của Hội tin học Việt Nam, Kỷ yếu tuần lễ tin học X diễn ra tại Hà

Nội tháng 09/2001.

3. Lan Anh (2001), “Phát triển Thƣơng mại điện tử tại Việt Nam – Rào cản

từ chính doanh nghiệp”, Thời báo kinh tế Sài Gòn (28).

4. Ban Công nghệ thông tin và Thƣơng mại điện tử - Bộ Thƣơng mại (2003),

Báo cáo Hiện trạng ứng dụng Thương mại điện tử ở Việt Nam.

5. Bộ Thƣơng mại (2005), Báo cáo Thương mại điện tử Việt Nam từ năm

2003 đến năm 2005.

6. Bộ Thƣơng mại (2007), Báo cáo Thương mại điện tử Việt Nam 2006.

7. Cục Thƣơng mại điện tử và Công nghệ thông tin - Bộ Công Thƣơng

(2008), Báo cáo Thương mại điện tử Việt Nam 2007.

8. Cục Thƣơng mại điện tử và Công nghệ thông tin - Bộ Công Thƣơng

(2009), Báo cáo Thương mại điện tử Việt Nam 2008.

9. Cục Thƣơng mại điện tử và Công nghệ thông tin - Bộ Công Thƣơng

(2010), Báo cáo Thương mại điện tử Việt Nam 2009.

97

10. Cục Thƣơng mại điện tử và Công nghệ thông tin - Bộ Công Thƣơng

(2011), Báo cáo Thương mại điện tử Việt Nam 2010.

11. Cục Thƣơng mại điện tử và Công nghệ thông tin - Bộ Công Thƣơng

(2012), Báo cáo Thương mại điện tử Việt Nam 2011.

12. Cục Thƣơng mại điện tử và Công nghệ thông tin - Bộ Công Thƣơng

(2013), Báo cáo Thương mại điện tử Việt Nam 2012.

13. Cục Thƣơng mại điện tử và Công nghệ thông tin - Bộ Công Thƣơng

(2014), Báo cáo Thương mại điện tử Việt Nam 2013.

14. Đỗ Thị Hạnh Dung (2006), Tìm hiểu về kỹ thuật đàm phán quốc tế thương

mại điện tử và khả năng áp dụng cho doanh nghiệp Việt Nam, Luận văn

thạc sĩ, Trƣờng Đại học ngoại thƣơng.

15. Phạm Trung Đà (2005), Mô hình phát triển Thương mại điện tử ở một số

nước Châu Á và một số giải pháp cho mô hình phát triển Thương mại điện

tử ở Việt Nam, Luận văn thạc sĩ, Trƣờng Đại học Ngoại Thƣơng.

16. Nguyễn Đăng Hậu (2004), Kiến thức Thương mại điện tử, Viện Đào tạo

công nghệ và Quản lý quốc tế.

17. Hiệp hội Thƣơng mại điện tử Việt Nam (2012), Báo cáo Chỉ số Thương

mại điện tử Việt Nam năm 2012.

18. Hiệp hội Thƣơng mại điện tử Việt Nam (2013), Báo cáo Chỉ số Thương

mại điện tử Việt Nam năm 2013.

98

19. Xuân Hiền (2002), “Hệ Thống thanh toán điện tử”, Tạp chí Internet và

thương mại điện tử, (Tr. 20,21,22,23).

20. Nguyễn Thị Hƣơng (2011), Phát triển thương mại điện tử ở Việt Nam

trong nền kinh tế thị trường, Luận văn thạc sĩ Kinh tế chính trị, Trung tâm

đào tạo, bồi dƣỡng giảng viên lý luận chính trị - Trƣờng Đại học quốc gia

Hà Nội.

21. Nguyễn Văn Minh – Trần Hoài Nam (2002), Giao dịch thương mại điện

tử - một số vấn đề cơ bản, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

22. Đào Trọng Nghĩa (2002), Thương mại điện tử và những vấn đề đặt ra đối

với Việt Nam, Luận văn thạc sĩ, Trƣờng Đại học Quốc gia Hà Nội.

23. Nguyễn Ngọc Sơn (2012), Những hạn chế và rào cản trong quá trình ứng

dụng Thương mại điện tử của các doanh nghiệp Việt Nam, Kỷ yếu hội

thảo Phát triển Thƣơng mại điện tử trong bối cảnh tái cơ cấu nền kinh tế,

tổ chức tại Thành phố Hồ Chí Minh.

24. Nguyễn Văn Thoan (2010), Ký kết và thực hiện hợp đồng điện tử trong

điều kiện Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế, Luận án tiến sĩ, Trƣờng Đại

học Ngoại thƣơng.

25. Nguyễn Văn Thụ (2004), Phát triển Thương mại điện tử ở Việt Nam trong

thời gian tới, Luận văn Thạc sĩ, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh,

Hà Nội.

99

26. Vũ Anh Tuấn (2011), Bảo mật và an toàn thông tin trong Thương mại

điện tử, Luận văn thạc sĩ, Trƣờng Đại học Thái Nguyên.

27. Đỗ Thế Tùng (2011), Học viện chính trị hành chính quốc gia Hồ Chí

Minh, “Những giải pháp chủ yếu đẩy mạnh sự phát triển thương mại điện

tử ở Việt Nam”, bài đăng trong kỷ yếu hội thảo Thƣơng mại điện tử trong

quá trình hội nhập và phát triển do Ủy ban quốc gia về hợp tác kinh tế

quốc tế, Cục thƣơng mại điện tử - Bộ công thƣơng và Hiệp hội Thƣơng

mại điện tử Việt Nam phối hợp tổ chức tháng 12/2011.

28. Đặng Thị Việt Đức, Nguyễn Thanh Tuyên (2012), Vai trò của CNTT&TT

trong nền kinh tế tri thức và trường hợp của Việt Nam, bài viết đăng trên

trang Web: http://www.baomoi.com.

29. Lê Danh Vĩnh (2001), Tình hình triển khai chương trình quốc gia về

Thương mại điện tử, Kỷ yếu tuần lễ tin học X, Hà Nội tháng 09/2001.

30. Lê Hà Vũ (2006), Xây dựng khung pháp luật nhằm phát triển Thương mại

điện tử ở Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Khoa Luật, Trƣờng Đại học Quốc

gia Hà Nội.

2. Tiếng Anh

31. International Trade Center UNCTAD/WTO (2011), Secrets of Electronic

Commerce : Aguide for small and medium – sized exporters, Geneva.

100

32. Markus Stern (2002), “E-Commerce: the enabler of the global village?

Survey, potential and visions”, E-Trade Bridge, Hanoi 21/22-01-2002,

Hochiminh city 24/25-01-2002.

33. Internet Crime Complaint Center (IC3) (2011), The 2011 IC3 Internet

Crime Reportreveals both the scope of online crime and IC3’s battle

against it, American.

34. Schneider G.P. (5 edition) (2005), Electronic Commerce, Thompson

Course Technology, Canada.

Website

35. http://www.baomoi.com.

36. http://www.google.com.

37. http://www.tailieuso.udn.vn.

38. http://vi.wikipedia.org.

39. http://voer.edu.vn.

40. http://www.ytuongso.vn.

101

PHỤ LỤC

Phụ lục 1: Cập nhật khung pháp lý cho TMĐT tại Việt Nam năm 2013

Thời gian Luật

21/12/1999 Bộ luật Hình sự

14/06/2005 Bộ luật Dân sự

14/06/2005 Bộ luật Thƣơng mại

29/11/2005 Luật Giao dịch điện tử (GDĐT)

29/06/2006 Luật CNTT

23/11/2009 Luật Viễn thông

Bộ luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ 19/06/2009 luật Hình sự 1999 số 37/2009/QH12

21/06/2012 Luật Quảng cáo

Nghị định hƣớng dẫn luật Văn bản căn cứ

Nghị định số 26/2007/ NĐ-CP quy định chi

15/02/2007 tiết thi hành Luật Giao dịch điện tử về Chữ Luật GDĐT

ký số và Dịch vụ chứng thực chữ ký số

Nghị định số 27/2007/ NĐ-CP về giao dịch 23/02/2007 Luật GDĐT điện tử trong hoạt động tài chính

Nghị định số 35/2007/ NĐ-CP về giao dịch 08/03/2007 Luật GDĐT điện tử trong lĩnh vực ngân hàng

Nghị định số 90/2008/ NĐ-CP về chống thƣ 13/08/2008 Luật GDĐT rác

Nghị định số 25/2011/ NĐ-CP quy định chi

06/04/2011 tiết và hƣớng dẫn thi hành một số điều của Luật Viễn thông

Luật Viễn thông

13/06/2011 Nghị định số 43/2011/ NĐ-CP quy định về Luật CNTT

102

việc cung cấp thông tin và dịch vụ công trực

tuyến trên trang thông tin điện tử hoặc cổng

thông tin điện tử của cơ quan Nhà nƣớc.

Nghị định số 106/2011/ NĐ-CP sửa đổi

23/11/2011 Nghị định 26/2007/NĐ-CP về Chữ ký số và Luật GDĐT

Dịch vụ chứng thực chữ ký số

Nghị định số 77/2012/ NĐ-CP sửa đổi Nghị 5/10/2012 Luật GDĐT định 90/2008/NĐ-CP về chống thƣ rác

Nghị định số 101/2012/ NĐ-CP về thanh 22/11/2012 Luật CNTT toán không dùng tiền mặt

Nghị định số 52/2013/ NĐ-CP về thƣơng 16/05/2013 Luật GDĐT mại điện tử

Nghị định số 72/2013/ NĐ-CP về Quản lý,

15/07/2013 cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông Luật CNTT

tin trên mạng

Nghị định số 181/2013/ NĐ-CP quy định chi 14/11/2013 Luật Quảng cáo tiết thi hành một số điều Luật Quảng cáo

Xử lý vi phạm hành chính Văn bản căn cứ

Nghị định số 53/2007/ NĐ-CP quy định xử

10/04/2007 phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực Luật Quảng cáo

CNTT

Nghị định số 83/2011/ NĐ-CP quy định xử 20/09/2011 Luật Viễn thông phạt hành chính trong lĩnh vực viễn thông

Nghị định số 158/2013/ NĐ-CP quy định xử

12/11/2013 phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực văn Luật CNTT

hóa, thể thao du lịch và quảng cáo

103

Nghị định số 174/2013/ NĐ-CP quy định xử

13/11/2013 phạt hành chính trong lĩnh vực bƣu chính

viễn thông, CNTT và tần số vô tuyến điện

Nghị định số 185/2013/ NĐ-CP quy định xử

phạt hành chính trong hoạt động thƣơng mại, 15/11/2013 sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và

bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu dùng

Thông tƣ hƣớng dẫn thi hành một số nội Văn bản bên trên dung của các Nghị định

Thông tƣ số 78/2008/TT-BTTTT hƣớng dẫn

thi hành một số nội dung của Nghị định Nghị định 15/09/2008 27/2007/NĐ-CP về giao dịch điện tử trong 27/2007/NĐ-CP

hoạt động tài chính

Thông tƣ số 12/2008/TT-BTC hƣớng dẫn thi

hành một số nội dung của Nghị định Nghị định 30/12/2008 90/2008/NĐ-CP của chính phủ về chống thƣ 90/2008/NĐ-CP

rác

Thông tƣ số 03/2009/TT-BTTTT quy định

về mã số quản lý đối với nhà cung cấp dịch Nghị định 02/03/2009 vụ quảng cáo bằng thƣ điện tử, tin nhắn; nhà 90/2008/NĐ-CP

cung cấp dịch vụ tin nhắn qua mạng Internet

Thông tƣ số 50/2009/TT-BTC về việc hƣớng Nghị định 16/03/2009 dẫn giao dịch điện tử trên thị trƣờng chứng 27/2007/NĐ-CP khoán

Thông tƣ số 26/2009/TT-BTTTT quy định Nghị định 31/07/2009 về việc cung cấp thông tin và đảm bảo khả 64/2007/NĐ-CP năng truy cập thuận tiện đối với trang thông

104

tin điện tử của cơ quan nhà nƣớc

Thông tƣ số 37/2009/TT-BTTTT quy định

về hồ sơ và thử tục liên quan đến cấp phép, Nghị định 14/12/2009 đăng ký, công nhận các tổ chức cung cấp 26/2007/NĐ-CP

dịch vụ chứng thực chữ ký số

Thông tƣ số 17/2010/TT-BKH quy định chi Nghị định 22/07/2010 tiết thí điểm đấu thầu qua mạng 26/2007/NĐ-CP

Thông tƣ số 23/2008/TT-NHNN quy định về Nghị định 09/11/2010 việc quản lý, vận hành và sử dụng Hệ thống 35/2007/NĐ-CP Thanh toán điện tử liên ngân hàng

Thông tƣ số 180/2010/TT-BTC hƣớng dẫn Nghị định 10/11/2010 giao dịch điện tử trong lĩnh vực thuế 27/2007/NĐ-CP

Thông tƣ số 25/2010/TT-BTTTT quy định

về việc thu thập, sử dụng, chia sẻ, đảm bảo Nghị định 15/11/2010 an toàn và bảo vệ thông tin cá nhân trên 64/2007/NĐ-CP trang thông tin điện tử hoặc cổng thông tin

điện tử của cơ quan nhà nƣớc

Thông tƣ số 209/2010/TT-BTC quy định Nghị định 20/12/2010 giao dịch điện tử trong hoạt động nghiệp vụ 27/2007/NĐ-CP kho bạc nhà nƣớc

Thông tƣ số 32/2011/TT-BTC hƣớng dẫn Nghị định 14/03/2011 khởi tạo, phát hành và sử dụng hóa đơn điện 27/2007/NĐ-CP tử bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ

Thông tƣ liên tịch số 10/2012/TTLT-BCA-

BQP-BTP-BTTTT-VKSNDTC-TANDTC 10/09/2012 Bộ Luật hình sự hƣớng dẫn áp dụng quy định của Bộ Luật

hình sự về một số tội phạm trong lĩnh vực

105

CNTT và truyền thông

Thông tƣ số 12/2013/TT-BTC quy định thủ Nghị định 20/06/2013 tục thông báo, đăng ký và công bố thông tin 52/2013/NĐ-CP liên quan đến website thƣơng mại điện tử

Thông tƣ số 10/2013/TT-BVHTTDL quy

định chi tiết và hƣớng dẫn thực hiện một số

điều của Luật Quảng cáo và Nghị định Nghị định 06/12/2013 181/2013/NĐ-CP ngày 14 tháng 11 năm 181/2013/NĐ-CP

2013 của Chính phủ quy định chi tiết thi

hành một số điều của Luật Quảng cáo

106

Phụ lục 2: Tổng hợp đánh giá các trở ngại trong triển khai TMĐT

giai đoạn 2009 – 2013

Các trở ngại 2009 2010 2011 2012 2013

An ninh mạng 2,83 2,54 2,38 2,45 2,35

Nhận thức xã hội và môi trƣờng 3,07 2,55 2,36 2,47 2,42 kinh doanh

Hệ thống thanh toán điện tử 2,76 2,39 2,30 2,29 2,13

Nguồn nhân lực 2,68 2,32 2,26 2,06 1,90

Môi trƣờng pháp lý 2,69 2,29 2,25 2,21 2,05

Dịch vụ vận chuyển và giao nhận 2,56 2,30 2,11 2,55 2,07

Nhận thức của ngƣời dân 2,89 2,49 - - -

Điểm trung bình 2,78 2,41 2,28 2,29 2,15

Độ lệch của điểm cao nhất và điểm 0,51 0,26 0,27 0,41 0,52 thấp nhất

107