ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ ---------------------
NGUYỄN THỊ ĐĂNG THU
NHỮNG TRỞ NGẠI ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN
THƢƠNG MẠI ĐIỆN TỬ LÀNH MẠNH Ở VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ
Hà Nội – 2014
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ --------------------
NGUYỄN THỊ ĐĂNG THU
NHỮNG TRỞ NGẠI ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN
THƢƠNG MẠI ĐIỆN TỬ LÀNH MẠNH Ở VIỆT NAM
Chuyên ngành : Kinh tế chính trị
Mã số: 60 31 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: GS. TS. ĐỖ THẾ TÙNG
Hà Nội – 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, dưới sự
hướng dẫn của GS. TS. Đỗ Thế Tùng. Các số liệu trong luận văn là trung
thực, bảo đảm tính khách quan. Các tài liệu tham khảo có nguồn gốc xuất xứ
rõ ràng.
Hà Nội, ngày tháng năm 2014
Tác giả
Nguyễn Thị Đăng Thu
MỤC LỤC
Danh mục các từ viết tắt …………………………………………………... i
Danh mục hình …………………………………………………………….. ii
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1: THƢƠNG MẠI ĐIỆN TỬ VÀ NHỮNG ĐIỀU KIỆN CẦN
THIẾT ĐỂ PHÁT TRIỂN THƢƠNG MẠI ĐIỆN TỬ LÀNH MẠNH ......... 12
1.1. Khái niệm, đặc trƣng cơ bản và các hình thức giao dịch chủ yếu của
TMĐT .............................................................................................................. 12
1.1.1. Khái niệm .......................................................................................... 12
1.1.2. Những đặc trưng của Thương mại điện tử ........................................ 15
1.1.3. Các hình thức giao dịch chủ yếu của TMĐT ................................... 16
1.1.4. Vai trò của Thương mại điện tử trong phát triển KT-XH ................. 23
1.2. Những điều kiện cơ bản để phát triển Thƣơng mại điện tử lành mạnh ... 27
1.2.1. Nguồn nhân lực ................................................................................. 28
1.2.2. Kết cấu hạ tầng công nghệ thông tin, công nghệ điện tử ................. 28
1.2.3. Môi trường pháp lý ........................................................................... 29
1.2.4. Sự quản lý của Nhà nước về thương mại điện tử ............................. 30
1.2.5. Các vấn đề khác phải quan tâm ....................................................... 31
CHƢƠNG 2: NHỮNG TRỞ NGẠI ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN THƢƠNG MẠI
ĐIỆN TỬ Ở VIỆT NAM THỜI GIAN QUA ................................................ 33
2.1. Những trở ngại đối với phát triển Thƣơng mại điện tử ............................ 33
2.1.1. Môi trường pháp lý chưa hoàn thiện ............................................... 34
2.1.2. Dịch vụ vận chuyển và giao nhận còn yếu ........................................ 37
2.1.3. Nguồn nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu ............................................ 38
2.1.4. Hệ thống thanh toán điện tử chưa phát triển .................................... 40
2.1.5. Nhận thức của người dân về Thương mại điện tử thấp .................... 47
2.1.6. An ninh mạng chưa đảm bảo ............................................................ 48
2.1.7. Môi trường xã hội và tập quán kinh doanh chưa phù hợp ............... 52
2.2. Một số mô hình kinh doanh mang danh nghĩa TMĐT còn tiềm ẩn nhiều
rủi ro ............................................................................................................ 54
2.2.1. Mô hình kinh doanh Groupon ........................................................... 55
2.2.2. Lợi dụng Thương mại điện tử để bán hàng đa cấp và những vụ lừa
đảo như MB24 ............................................................................................. 58
2.2.3. Bán hàng giả, kém chất lượng .......................................................... 62
2.2.4. Rao bán bằng cấp, chứng chỉ giả trên mạng .................................... 63
2.3. Ảnh hƣởng của những trở ngại trên đối với phát triển TMĐT và phát triển
KT-XH nói chung............................................................................................ 65
2.3.1. Thiệt hại về mặt kinh tế ..................................................................... 65
2.3.2. Làm mất lòng tin vào TMĐT và cản trở sự phát triển TMĐT .......... 66
CHƢƠNG 3: GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC TRỞ NGẠI ĐỂ PHÁT TRIỂN
THƢƠNG MẠI ĐIỆN TỬ LÀNH MẠNH .................................................... 69
3.1. Phƣơng hƣớng phát triển TMĐT của Việt Nam đến năm 2020 .............. 69
3.1.1. Mục tiêu phát triển TMĐT quốc gia đến năm 2020 ......................... 69
3.1.2. Định hướng phát triển ....................................................................... 70
3.1.3. Phương hướng triển khai .................................................................. 71
3.2. Nhóm giải pháp chủ yếu hỗ trợ cho TMĐT ............................................. 72
3.2.1. Tuyên truyền, phổ biến và đào tạo nguồn nhân lực cho TMĐT ....... 72
3.2.2. Hoàn thiện kết cấu hạ tầng ............................................................... 75
3.2.3. Chương trình xây dựng & hoàn thiện hệ thống pháp luật cho TMĐT
..................................................................................................................... 78
3.2.4. Chương trình cung cấp các dịch vụ công hỗ trợ TMĐT và ứng dụng
TMĐT trong mua sắm Chính phủ ............................................................... 81
3.2.5. Phát triển công nghệ hỗ trợ TMĐT .................................................. 81
3.3. Nhóm giải pháp về đảm bảo an toàn cho các giao dịch thƣơng mại ....... 82
3.3.1. Bảo vệ thông tin cá nhân ................................................................... 82
3.3.2. Quy định về chữ ký điện tử ................................................................ 84
3.3.3. Thừa nhận giá trị pháp lý đối với thông điệp dữ liệu trong TMĐT . 85
3.3.4. Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trong TMĐT ......................................... 86
3.3.5. Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong TMĐT ................................ 88
3.3.6. Giải quyết tranh chấp trong giao dịch mua bán hàng trực tuyến .... 90
3.3.7. Phòng ngừa và nghiêm trị tội phạm công nghệ cao trong TMĐT .... 90
3.3.8. Hợp tác quốc tế trong việc nghiêm trị tội phạm trong TMĐT .......... 92
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 95
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 97
PHỤ LỤC ...................................................................................................... 102
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
STT Ký hiệu Nguyên nghĩa
1 CNH Công nghiệp hóa
2 CNTT-TT Công nghệ thông tin truyền thông
3 B2B (Business – to – Business) TM ĐT giữa DN và DN
4 TM ĐT giữa DN và Chính phủ
5 TM ĐT giữa các cá nhân
6
7 B2G (Business – to – Government) C2C (Consumer – to – Consumer) G2C (Government – to – Consumer) GD TMĐT TM ĐT giữa Chính phủ và ngƣời tiêu dùng Giao dịch Thƣơng mại điện tử
8 HĐH Hiện đại hóa
9 TMĐT Thƣơng mại điện tử
10
APEC (Asia Pacific Economic Cooperation) Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á – Thái Bình Dƣơng
11
12 ASEAN (Association of Southeast Asia Nations) Máy giao dịch tự động
13
Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế
14
15
POS (Point of sale) Thiết bị bán hàng Ủy ban Liên hợp quốc về luật thƣơng mại quốc tế
ASEAN (Association of Southeast Asia Nations) ATM (Automatic Teller Machine) OECD (Organization for Economic Cooperation and Development) POS (Point of sale) Thiết bị bán hàng UNCITRAL (United Nations Commission on International Trade Law)
Tổ chức Thƣơng mại thế giới
16 WTO (World Trade Organization)
i
DANH MỤC HÌNH
STT Hình Nội dung Trang
Hình 1.1 Mô hình B2B 16 1
Hình 1.2 Giao dịch theo mô hình B2C 18 2
Hình 2.1 Đánh giá các trở ngại của ứng dụng TMĐT của 33 3
doanh nghiệp năm 2010
Hình 2.2 Khung pháp lý TMĐT 35 4
Hình 2.3 Tỷ lệ cán bộ chuyên trách về TMĐT qua các 39 5
năm
6 Hình 2.4 Các hình thức thanh toán trong giao dịch 41
TMĐT
7 Hình 2.5 Tỷ lệ website cung cấp dịch vụ TMĐT có khả 46
năng thanh toán trực tuyến
8 Hình 2.6 Tỷ lệ các doanh nghiệp sử dụng các biện pháp 51
an toàn thông tin
9 Hình 2.7 Số lƣợng ngƣời bán hàng đa cấp tăng mạnh 59
10 Hình 2.8 Những trở ngại khi mua sắm trực tuyến 62
11 Hình 2.9 Quảng cáo bằng giả công khai trên mạng 64
ii
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong một vài thập kỷ trở lại đây, sự phát triển nhƣ vũ bão của
công nghệ thông tin, vi điện tử đã dẫn đến mở rộng mạng Internet, và tạo
điều kiện phát triển Thương mại điện tử (E. Commerce), một phƣơng
thức kinh doanh hoàn toàn mới. Thƣơng mại điện tử (TMĐT), theo nghĩa
rộng, bao gồm mọi giao dịch tài chính và thƣơng mại bằng các phƣơng
tiện điện tử. Theo nghĩa hẹp, TMĐT chỉ gồm các hoạt động thƣơng mại,
đƣợc thực hiện thông qua mạng Internet và các mạng viễn thông khác.
Luận văn này sử dụng thƣơng mại điện tử theo nghĩa hẹp.
TMĐT ngày càng tỏ rõ tính ƣu việt nhƣ: Ít tốn thời gian, công sức,
tiền bạc cho những giao dịch. Nó mang lại lợi ích không chỉ cho doanh
nghiệp, ngƣời sản xuất mà còn có lợi cho ngƣời tiêu dùng.
Tuy nhiên, trong thời gian gần đây, sự phát triển TMĐT ở Việt Nam
gặp khá nhiều trở ngại nhƣ : môi trƣờng pháp lý chƣa hoàn thiện, nguồn
nhân lực chƣa đáp ứng yêu cầu, dịch vụ vận chuyển và giao nhận còn yếu,
hệ thống thanh toán điện tử chƣa phát triển, nhận thức của ngƣời dân về
thƣơng mại điện tử thấp, an ninh mạng chƣa đảm bảo, môi trƣờng xã hội và
tập quán kinh doanh chƣa phù hợp. Bên cạnh đó, việc xuất hiện nhiều hành
vi lừa đảo qua mạng và tình trạng tội phạm an ninh mạng đang ngày càng
gia tăng với nhiều chiêu thức khác nhau. Mới đây nhất là vụ án lừa đảo qua
mạng của Công ty cổ phần đào tạo mua bán trực tuyến MB24 đã trở thành
một trong những rào cản cho sự phát triển TMĐT ở Việt Nam. Để phát
triển TMĐT lành mạnh cần phải khắc phục những trở ngại nói trên.
1
Vì vậy, “Những trở ngại đối với sự phát triển thương mại điện tử
lành mạnh ở Việt Nam” đƣợc chọn làm đề tài luận văn này.
Phát triển Thƣơng mại điện tử ở Việt Nam là một vấn đề đang thu
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
hút nhiều sự quan tâm không chỉ của các nhà hoạch định chính sách, các
nhà quản lý doanh nghiệp, Chính phủ mà của cả nhiều nhà nghiên cứu và
hoạt động thực tiễn. Đã có nhiều công trình, bài báo, sách chuyên khảo,
luận án, luận văn và đề tài khoa học viết về TMĐT. Trong đó có:
Về khía cạnh kỹ thuật
Hồ Đức Thắng, “Hạ Tầng internet trong việc phát triển Thương
mại điện tử”, Mai Anh, “Thương mại điện tử, việc triển khai ở Việt Nam
và sự tham gia của Hội tin học Việt Nam”, đƣợc đăng trong kỷ yếu tuần lễ
tin học X, Hà Nội tháng 09/2001; Lê Hoài An “Bức tranh toàn cảnh về
Thương mại điện tử thế giới 2001” trên tạp chí Internet và TMĐT số 11
tháng 12/2001. Lê Đức Minh có bài “Các khái niệm cơ bản trong Thƣơng
mại điện tử”. Cũng trong năm 2001, Ban Thƣơng mại điện tử - Bộ Thƣơng
mại có báo cáo dự án quốc gia “Kỹ thuật Thương mại điện tử”;Phòng
Thƣơng mại và Công nghiệp Việt Nam cũng tổ chức hội thảo “Ứng dụng
và phát triển Thương mại điện tử ở Việt Nam”. Nhà xuất bản Khoa học kỹ
thuật, Hà Nội xuất bản cuốn “Thương mại điện tử cho doanh nghiệp” của
Trịnh Lê Nam và Nguyễn Phúc Trƣờng Sinh; Nhà xuất bản Thống kê
(2001) có “Hỏi đáp về Thương mại điện tử”. Nhìn chung những công trình
trên đã có những tiếp cận rất mới trên phƣơng diện kỹ thuật về vấn đề này.
Năm 2002 cũng xuất hiện hàng loạt những tài liệu chuyên khảo, bài
viết đƣợc đăng trên các kỷ yếu, giáo trình, tạp chí đề cập đến khía cạnh kỹ
2
thuật của TMĐT. Nguyễn Việt Hồng: “Mức độ sẵn sàng ứng dụng
Thương mại điện tử ở các nước” trên tạp chí Internet và Thƣơng mại điện
tử số 09 tháng 12/2002; Nhà xuất bản Bƣu điện Hà Nội cho xuất bản
cuốn “Giao dịch thương mại điện tử - một số vấn đề cơ bản” của nhóm
tác giả Nguyễn Văn Minh – Trần Hoài Nam; Xuân Hiền với “Hệ thống
thanh toán điện tử” đăng trên Internet và Thƣơng mại điện tử các số 20,
21, 22 và 23 năm 2002; Nhà xuất bản Thế giới cũng cho ra đời cuốn “Bí
quyết Thương mại điện tử hướng dẫn xuất khẩu cho các doanh nghiệp vừa
và nhỏ”; Luận văn thạc sĩ Trƣờng Đại học Ngoại Thƣơng “Cơ sở pháp lý
của Thương mại điện tử - Thực trạng và khả năng thực hiện ở Việt Nam”
của Hoàng Mai Hạnh.
Trong các năm 2003, 2004 Vụ Thƣơng mại – Bộ Thƣơng mại
cũng đƣa ra báo cáo (2003) “Hiện trạng ứng dụng Thương mại điện tử ở
Việt Nam” và “Kiến nghị về thực trạng ứng dụng thương mại điện tử ở một
số tổ chức, đơn vị”. Đặc biệt trong hai năm này có khá nhiều luận văn
nghiên cứu Thƣơng mại điện tử dƣới khía cạnh kỹ thuật nhƣ: Trƣờng Đại
học Kinh tế Quốc dân có hai luận văn thạc sĩ: Vũ Thị Minh Hiền với
“Giải pháp ứng dụng thương mại điện tử cho các doanh nghiệp thủ công
mỹ nghệ ở Hà Nội” và “Những giải pháp Marketting nhằm phát triển
quảng cáo trên mạng trong hoạt động thương mại điện tử ở Việt Nam” của
thương mại điê ̣n tử ” ,
Nguyễn Đình Toàn. “Kinh doanh điê ̣n tử và Zorayda Ruth Andam, Tháng 5/2003, Nhóm công tác e-ASEAN UNDP-
APDIP, sinh viên luật năm thứ 5 tại trƣờng đại học Philippin. Tiếp đó là
“Phát triển Thương mại điện tử ở Việt Nam trong thời gian tới” của
Nguyễn Văn Thụ - Học viện Chính trị quốc Gia Hồ Chí Minh, Hà Nội
2004. Luận văn nghiên cứu các vấn đề hiện trạng và xu hƣớng phát triển
của các hình thức giao dịch TMĐT trên thế giới (B2B & B2C), hiện trạng
3
TMĐT tại Việt Nam và đƣa ra một số giải pháp phát triển TMĐT giúp Việt
Nam nhanh chóng hội nhập với TMĐT trên thế giới. Luận văn thạc sĩ “Tìm
hiểu về kỹ thuật đàm phán quốc tế trong Thương mại điện tử và khả năng
áp dụng cho doanh nghiệp Việt Nam” của Đỗ Thị Hạnh Dung, Trƣờng
Đại học Ngoại thƣơng (2006); Lê Hà Vũ “Xây dựng khung pháp luật nhằm
phát triển Thương mại điện tử ở Việt Nam”, luận văn thạc sĩ Khoa Luật –
Trƣờng Đại học Quốc gia Hà Nội (2006).
Về tình hình phát triển Thương mại điện tử
Năm 2001, xuất hiện nhiều bài báo, tài liệu chuyên khảo nghiên cứu
về tình hình phát triển TMĐT, có thể kể tới: TS. Lê Danh Vĩnh “Tình hình
triển khai chương trình quốc gia về thương mại điện tử” đƣợc đăng trong
kỷ yếu tuần lễ tin học X, Hà Nội tháng 09/2001”; Lê Hoài An “Bức tranh
toàn cảnh về Thương mại điện tử thế giới 2001” trên tạp chí Internet và
TMĐT số 11 tháng 12/2001; Phan Minh Hoa “Thương mại điện tử Việt
nam – Bây giờ hoặc không bao giờ” Thị trƣờng Tài chính tiền tệ số 17
tháng 09/2001; Trƣơng Minh Hoàng “Báo cáo của Liên hiệp quốc về
Thương mại điện tử” trên tạp chí Internet và TMĐT số 8 tháng 12/2001.
Cũng trong năm này, Bộ Thƣơng mại đã công bố “Dự thảo đề án phát
triển Thương mại điện tử ở Việt Nam giai đoạn 2001 – 2005”.
Trƣờng Đại học Ngoại thƣơng có hai luận văn thạc sĩ là: “Giao dịch
Thương mại điện tử trong hoạt động ngoại thương Việt Nam – Thực trạng
và giải pháp” của Lê Hữu Cƣờng (2003) và “Thương mại điện tử ở các
nước đang phát triển và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam” của
Nguyễn Ngọc Lân (2004); Th.S Nguyễn Văn Thảo (Phó tổng thƣ ký
Phòng Thƣơng mại và Công nghiệp Việt Nam, Trƣởng ban quản lý sàn
giao dịch TMĐT) có bài viết “Thực trạng và định hướng phát triển Thương
mại điện tử ở Việt Nam” đƣợc đăng trên tạp chí Thƣơng mại số 06/2004, đã
4
xác định những cơ hội, thuận lợi và thách thức cho quá trình phát triển
TMĐT ở Việt Nam, bằng việc tổng kết kinh nghiệm phát triển TMĐT của
các nƣớc trên thế giới, ông đã đƣa ra những kiến giải nhằm tạo điều kiện
cho TMĐT phát triển ở nƣớc ta nhƣ: cần hình thành một hệ thống các
nguyên tắc chỉ đạo và quan điểm thiết lập kết cấu hạ tầng công nghệ, kết
hợp với xây dựng một chƣơng trình tổng thể về TMĐT để từng bƣớc triển
khai một cách đồng bộ và có hệ thống.
Cùng năm 2004, Tạp chí Thƣơng mại số 14 có bài “Tạo lập đồng
bộ các yếu tố thị trường mua bán theo phương thức thương mại điện tử ở
Việt Nam” của Đinh Thị Nga, cũng đƣa ra một số giải pháp tạo điều kiện
phát triển Thƣơng mại điện tử trong những năm tiếp đó nhƣ: Nâng cao
nhận thức, đào tạo nguồn nhân lực, hỗ trợ cho doanh nghiệp triển khai
TMĐT, phát triển hạ tầng công nghệ, phát triển kết cấu hạ tầng thanh toán
điện tử ... Trên tạp chí Internet và TMĐT 06/2004 cũng có bài “Các
nguyên tắc chỉ đạo về Thương mại điện tử ở các nước ASEAN”.
Năm 2005 cũng xuất hiện hàng loạt các bài viết: Lan Anh trong
mục Vấn đề quan tâm đã tổng kết tình hình ứng dụng TMĐT ở các doanh
nghiệp qua các năm 2003 và 2004, đƣa ra những yêu cầu về mặt pháp lý
nhằm cung cấp thông tin cho các doanh nghiệp phát triển loại hình thƣơng
mại mới này qua bài “Cởi trói cho Thương mại điện tử” đƣợc đăng trên tạp
chí Thƣơng mại số 18/2005; bài “Những gã khổng lồ trong Thương mại
điện tử nhắm đến Trung Quốc” của Cao Anh Đức trên tạp chí Thƣơng mại
số 11/2005, với những dẫn chứng xác thực về thị trƣờng TMĐT, đã nhấn
mạnh TMĐT Trung Quốc ngày càng có sức hút lớn đối với những ông
trùm về TMĐT trên thế giới.
Cũng trong năm này, luận văn thạc sĩ Trƣờng Đại học Ngoại
thƣơng Hà Nội “Mô hình phát triển Thương mại điện tử ở một số nước
5
Châu Á và một số giải pháp cho mô hình phát triển thương mại điện tử ở
Việt Nam” của Phạm Trung Đà đã đƣa ra một số giải pháp nhằm phát
triển TMĐT nƣớc ta sau khi tổng kết kinh nghiệm mô hình của một số
nƣớc trong khu vực Châu Á. Tới năm 2006, luận văn thạc sĩ của Phạm Văn
Vũ “Giải pháp đẩy mạnh thương mại điện tử trong doanh nghiệp xuất khẩu
tại Việt Nam” tại Trƣờng Đại học Ngoại thƣơng một lần nữa lại đề cập tới
vấn đề nêu trên.
Nguyễn Bá Thƣơng (2008), “Phát triển thương mại điện tử trong
các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt Nam”, Luận văn Thạc sĩ Trƣờng Đại
học Ngoại thƣơng.
Nguyễn Thị Hương (2011), Phát triển Thương mại điện tử ở Việt
Nam trong nền kinh tế thị trường, Luận văn thạc sĩ Trƣờng Đại học Quốc
gia Hà Nội.
Gần đây nhất là một loạt các bài viết đăng trong kỷ yếu hội thảo
“Thương mại điện tử trong quá trình hội nhập và phát triển” do Ủy ban
Quốc gia về Hợp tác kinh tế quốc tế, Cục Thƣơng mại – Bộ Công thƣơng
và Hiệp hội Thƣơng mại điện tử Việt Nam tổ chức tại Hà Nội tháng
12/2011 nhƣ: PGS. TS. Lê Danh Vĩnh “Thương mại điện tử trong tiến
trình hội nhập kinh tế quốc tế”; GS. TS. Đỗ Thế Tùng “Những giải pháp
chủ yếu đẩy mạnh sự phát triển thương mại điện tử ở Việt Nam”; Trịnh
Minh Anh “Thương mại điện tử trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế ở
Việt Nam”. TS. Nguyễn Văn Thoan “Phân tích tình hình phát triển
Thương mại điện tử tại Hoa Kỳ, EU và một số định hướng phát triển
Thương mại điện tử tại Việt Nam.
Ngày 29/3/2012 tại Phim trƣờng Đài Truyền hình Bình Dƣơng, đã
diễn ra cuộc tọa đàm về chủ đề “Lợi ích của Thương mại điện tử trong giao
thương hiện đại” trong chƣơng trình “ Hội nhập kinh tế thế giới”.
6
Đặc biệt, “Báo cáo Thương mại điện tử” của Bộ Công thƣơng từ
năm 2003 đến năm 2013” và “Báo cáo chỉ số Thương mại điện tử năm
2012”, “Báo cáo chỉ số Thương mại điện tử 2013” của Bộ Công thƣơng đã
phản ánh khá đầy đủ những bƣớc tiến của TMĐT Việt Nam so với các năm
trƣớc đó. Dựa trên kết quả điều tra, nghiên cứu, đánh giá chính sách về
TMĐT trong các doanh nghiệp trên toàn quốc, báo cáo Thƣơng mại điện tử
của từng năm đã đƣa ra một cái nhìn toàn cảnh về môi trƣờng vĩ mô cho
TMĐT cũng nhƣ tình hình ứng dụng TMĐT trong doanh nghiệp. Báo cáo
đƣa ra những cơ hội và thách thức trong bối cảnh Việt Nam là thành viên
của Tổ chức Thƣơng mại Thế giới WTO, những kết quả sau khi triển khai
luật giao dịch điện tử, sự phát triển vƣợt bậc của hạ tầng thanh toán và các
mô hình ứng dụng TMĐT điển hình trong cộng đồng doanh nghiệp.
Về mặt pháp lý
- Chỉ thị số 58 – CT/TW ngày 17/10/2000 của Ban chấp hành Trung
ƣơng Đảng về đẩy mạnh ứng dụng và phát triển CNTT đƣợc xem là văn
kiện quan trọng nhất phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH ở nƣớc ta.
- Quyết định số 222/2005/QĐ-TTg ngày 15/09/2005 của Thủ tƣớng
Chính phủ về việc phê duyệt kế hoạch tổng thể phát triển TMĐT giai đoạn
2006 – 2010.
- Nghị định số 26/2007/NĐ-CP ngày 23/02/2007 của Chính phủ về
giao dịch điện tử trong hoạt động tài chính. Nghị định gồm 11 chƣơng và
73 điều; Nghị định số 27/2007/NĐ-CP ngày 23/02/2007/NĐ-CP về giao
dịch điện tử trong hoạt động tài chính gồm 5 chƣơng 22 điều; Nghị định số
35/2007/NĐ-CP ngày 08/03/2007 về giao dịch điện tử trong hoạt động
ngân hàng gồm 5 chƣơng 30 điều; Nghị định số 63/2007/NĐ-CP ngày
10/04/2007 của Chính phủ quy định về xử phạt hành chính trong lĩnh vực
7
CNTT gồm 5 chƣơng 36 điều; Nghị định số 64/2007/NĐ-CP về ứng dụng
CNTT trong hoạt động của cơ quan Nhà nƣớc gồm 5 chƣơng 56 điều.
- Thông tƣ 09/2008 TT-BCT ngày 21/07/2008 của Bộ Công thƣơng
hƣớng dẫn Nghị định TMĐT về cung cấp thông tin và giao kết hợp đồng
trên Website TMĐT gồm 5 phần.
- Quyết định số 48/2009 QĐ-TTg ngày 31/03/2009 của Thủ tƣớng
Chính phủ phê duyệt Kế hoạch ứng dụng CNTT trong hoạt động của cơ
quan Nhà nƣớc giai đoạn 2009 – 2010; Quyết định số 50/2009/QĐ-TTg
ngày 03/04/2009 của Thủ tƣớng Chính phủ về việc ban hành “Quy chế
quản lý Chƣơng trình phát triển công nghiệp phần mềm và Chƣơng trình
phát triển công nghiệp nội dung số Việt Nam”; Quyết định số 698/QĐ-TTg
ngày 01/06/2009 của Thủ tƣớng Chính phủ về việc phê duyệt Kế hoạch
tổng thể phát triển nguồn nhân lực CNTT đến năm 2015 và định hƣớng đến
năm 2020.
Nhìn chung, Đảng và Chính phủ ta đã sớm thấy đƣợc vai trò quan
trọng của CNTT và TMĐT đối với quá trình phát triển đất nƣớc. Tuy
nhiên, hệ thống các văn bản pháp lý trong lĩnh vực này còn chƣa đồng bộ
và thiếu tính chặt chẽ.
Về vấn đề khó khăn, bất cập trong phát triển TMĐT
Lan Anh “Phát triển Thương mại điện tử tại Việt Nam – Rào cản
từ chính doanh nghiệp” Thời báo kinh tế Sài Gòn số 28 tháng 7/2001; Đào
Trọng Nghĩa (2002), “Thương mại điện tử và những vấn đề đặt ra đối với
Việt Nam”, Luận văn thạc sĩ Trƣờng Đại học Quốc Gia Hà Nội – Khoa
Kinh tế .
Hai bài “Thương mại điện tử - Cơ hội và rủi ro” và “Để Thương
mại điện tử thành hiện thực” trên Tạp chí Thƣơng mại số 18/2005 đã chỉ
một thách thức lớn đối với sự phát triển TMĐT ở Việt Nam. Đó là tình
8
trạng thiếu nhân lực và hiện tƣợng các doanh nghiệp, cá nhân tạo lập
website tràn lan, sử dụng không có hiệu quả đã gây lãng phí lớn.
Vũ Anh Tuấn (2008), “Bảo mật và àn toàn thông tin trong Thương
mại điện tử”, Luận văn thạc sĩ Trƣờng Đại học Thái Nguyên.
Th.s. Nguyễn Thị Hương “Những cản trở của thương mại điện tử ở
Việt Nam hiện nay và giải pháp”đăng trong kỷ yếu hội thảo “Thương mại
điện tử trong quá trình hội nhập và phát triển”(2011).
Gần đây nhất là một loạt bài đăng trong Kỷ yếu hội thảo “Phát triển
Thương mại điện tử trong bối cảnh tái cơ cấu nền kinh tế” đƣợc tổ chức tại
Thành phố Hồ Chí Minh tháng 11/2012: Nguyễn Ngọc Sơn “Những hạn
chế và rào cản trong quá trình ứng dụng Thương mại điện tử của các
doanh nghiệp Việt Nam”; Triệu Việt Cƣờng “Vấn đề an toàn trong thanh
toán điện tử tại Việt Nam”.
Nhƣ vậy, phát triển TMĐT là một đề tài thu hút đƣợc sự quan tâm
của nhiều nhà nghiên cứu. Tuy nhiên các công trình nêu trên chủ yếu tập
trung vào nghiên cứu lý luận về TMĐT hoặc một vài khía cạnh kỹ thuật về
phát triển TMĐT, còn ít đề cập một cách toàn diện đến những trở ngại
trong phát triển TMĐT và đề xuất giải pháp khả thi để khắc phục. Mặt
khác, trong giai đoạn hiện nay, tình hình tội phạm công nghệ cao lợi dụng
TMĐT để kiếm lợi cá nhân gây thiệt hại lớn cho xã hội đang là một vấn đề
bức xúc trên báo đài và các trang báo mạng. Do đó, việc đi vào nghiên cứu
những trở ngại trong phát triển TMĐT trở nên rất cấp thiết.
Luận văn này thừa kế những kết quả đã đƣợc công bố ở trên nhƣng
không đi sâu vào lý luận hay các nghiệp vụ trong TMĐT mà chủ yếu phát
hiện những trở ngại đối với sự phát triển TMĐT ở nƣớc ta hiện nay để từ
đó tìm ra nguyên nhân và cách khắc phục.
9
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích
Luận văn phân tích những trở ngại đối với sự phát triển TMĐT ở
nƣớc ta thời gian qua, từ đó đề xuất những giải pháp chủ yếu để khắc phục.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
Thứ nhất, kế thừa lý luận về TMĐT, làm rõ những điều kiện cần
thiết để phát triển TMĐT lành mạnh.
Thứ hai, phân tích những trở ngại đối với phát triển TMĐT ở Việt
Nam thời gian qua.
Thứ ba, đề xuất giải pháp khắc phục những trở ngại đó.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu những trở
ngại đối với phát triển TMĐT.
* Phạm vi nghiên cứu:
+ Về không gian: Luận văn nghiên cứu những trở ngại đối với phát
triển TMĐT ở Việt Nam.
+ Về thời gian: Từ năm 2000 đặc biệt là trong những năm (2005 –
2012).
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu của khoa học Kinh
tế chính trị, đặc biệt coi trọng phƣơng pháp phân tích và tổng hợp, kết hợp
logic với lịch sử, phƣơng pháp thống kê, tổng hợp, khái quát hóa và hệ
thống hóa tài liệu.
6. Những đóng góp mới của luận văn
Luận văn đã phân tích rõ những hạn chế gây trở ngại cho phát triển
TMĐT ở Việt Nam, nhƣ môi trƣờng pháp lý chƣa hoàn thiện; dịch vụ vận
chuyển và giao nhận còn yếu; nguồn nhân lực chƣa đáp ứng yêu cầu phát
10
triển TMĐT; hệ thống thanh toán điện tử chƣa phát triển; nhận thức của
ngƣời dân về TMĐT còn thấp; an ninh mạng chƣa đảm bảo; môi trƣờng xã
hội và tập quán kinh doanh chƣa phù hợp. Có những mô hình kinh doanh
mang danh nghĩa TMĐT tiềm ẩn nhiều rủi ro; hay lừa đảo; bán hàng giả,
hàng kém chất lƣợng ... gây thiệt hại cho ngƣời tiêu dùng và làm mất lòng
tin của họ vào TMĐT. Từ đó, luận văn đã đề xuất những giải pháp để khắc
phục những hạn chế nêu trên.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung chính
của luận văn đƣợc trình bày trong ba chƣơng nhƣ sau:
Chƣơng 1:Thƣơng mại điện tử và những điều kiện cần thiết để phát triển
Thƣơng mại điện tử lành mạnh
Chƣơng 2: Những trở ngại đối với phát triển Thƣơng mại điện tử ở Việt
Nam thời gian qua
Chƣơng 3: Giải pháp khắc phục trở ngại để phát triển Thƣơng mại điện tử
lành mạnh.
11
CHƢƠNG 1: THƢƠNG MẠI ĐIỆN TỬ VÀ NHỮNG ĐIỀU KIỆN CẦN
THIẾT ĐỂ PHÁT TRIỂN THƢƠNG MẠI ĐIỆN TỬ LÀNH MẠNH
1.1. Khái niệm, đặc trƣng cơ bản và các hình thức giao dịch chủ yếu của
TMĐT
1.1.1. Khái niệm
1.1.1.1. Khái niệm TMĐT
Có nhiều khái niệm về “Thƣơng mại điện tử” (TMĐT), nhƣng hiểu một
cách tổng quát, TMĐT là việc tiến hành một phần hay toàn bộ hoạt động
thƣơng mại truyền thống thông qua các phƣơng tiện điện tử mới, các hoạt
động thƣơng mại đƣợc thực hiện nhanh hơn, hiệu quả hơn, giúp tiết kiệm chi
phí và mở rộng không gian kinh doanh.
Định nghĩa đƣợc đƣa ra trong Luật mẫu về TMĐT của Ủy ban Liên
hợp quốc UNCITRAL : Thuật ngữ Thƣơng mại cần đƣợc diễn đạt theo nghĩa
rộng để bao quát các vấn đề phát sinh từ mọi quan hệ mang tính chất thƣơng
mại dù có hay không có hợp đồng. Các quan hệ mang tính thƣơng mại bao
gồm các giao dịch sau đây: Bất cứ giao dịch thƣơng mại nào về cung cấp hoặc
trao đổi hàng hóa, dịch vụ; thỏa thuận phân phối, đại diện hoặc đại lý thƣơng
mại, ủy thác hoa hồng; cho thuê dài hạn; xây dựng các công trình; tƣ vấn; kỹ
thuật công trình; đầu tƣ; cấp vốn; ngân hàng; bảo hiểm; thỏa thuận khai thác
hoặc tô nhƣợng; liên doanh các hình thức về hợp tác công nghiệp hoặc kinh
doanh; chuyên chở hàng hóa hay hành khách bằng đƣờng biển, đƣờng không,
đƣờng sắt hoặc đƣờng bộ.
Định nghĩa của Liên minh Châu Âu: Thƣơng mại điện tử bao gồm các
giao dịch thƣơng mại thông qua các mạng viễn thông và sử dụng các phƣơng
tiện điện tử. Nó bao gồm TMĐT gián tiếp (trao đổi hàng hóa hữu hình) và
TMĐT trực tiếp (Trao đổi hàng hóa vô hình).
12
Định nghĩa của WTO: TMĐT bao gồm việc sản xuất, quảng cáo, bán
hàng và phân phối sản phẩm đƣợc mua bán và thanh toán trên mạng Internet,
nhƣng đƣợc giao nhận một cách hữu hình hoặc giao nhận qua Internet dƣới
dạng số hóa.
Định nghĩa của OECD (Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế thế giới):
TMĐT là việc kinh doanh thông qua mạng Internet, bán những hàng hóa và
dịch vụ có thể đƣợc phân phối thông qua mạng hoặc không thông qua mạng.
Nhƣ vậy, hiểu một cách tổng quát theo nghĩa rộng: TMĐT là việc ứng
dụng các thành tựu của CNTT và truyền thông vào các hoạt động quản lý và
kinh doanh thƣơng mại (hay là việc tiến hành các giao dịch thƣơng mại thông
qua mạng Internet, các mạng truyền thông và các phƣơng tiện điện tử khác).
Theo nghĩa hẹp, TMĐT là việc mua bán hàng hóa, dịch vụ thông qua các
phƣơng tiện điện tử và các mạng viễn thông. Luận văn này sử dụng khái niệm
TMĐT theo nghĩa hẹp.
Các phƣơng tiện kỹ thuật của TMĐT bao gồm: điện thoại, máy điện
báo (Telex) và máy fax, truyền hình, thiết bị kỹ thuật thanh toán điện tử,
mạng nội bộ và liên mạng nội bộ, internet. Các hình thái hoạt động của
TMĐT gồm thƣ điện tử (Electronic mail, gọi tắt là Email), thanh toán điện tử,
trao đổi dữ liệu điện tử (Electronic Data Interchange – EDI); giao gửi số hóa
các dung liệu (content), dung liệu là các hàng hóa và cái con ngƣời ta cần đến
là các nội dung của nó (hay nói cách khác chính nội dung là hàng hóa) chứ
không phải bản thân vật mang nội dung, ví dụ nhƣ tin tức, sách báo, nhạc,
phim, các ý kiến tƣ vấn, vé máy bay, vé xem phim, xem hát, các chƣơng trình
bán lẻ, hàng hóa hữu hình, tức là ngƣời bán xây dựng các “cửa hàng ảo” trên
mạng, ngƣời mua sử dụng mạng internet/web tìm trang web của cửa hàng
xem hàng hóa hiển thị trên màn hình, xác nhận mua, trả tiền bằng hình thức
thanh toán điện tử sau đó cửa hàng giao hàng tới tận nhà.
13
Giao dịch TMĐT (Electronic commerce transaction) bao gồm 4 kiểu:
giữa Ngƣời với Ngƣời: qua điện thoại, máy fax và email; Ngƣời với Máy tính
điện tử: một cách tực tiếp hoặc qua các mẫu biểu điện tử (Electronic Form) và
qua mạng internet; máy tính điện tử với máy tính điện tử: qua trao đổi EDI,
thẻ thông minh (smart card), các dữ liệu mà gọi là dữ liệu mã vạch; máy tính
điện tử với ngƣời: qua thƣ tín do máy tự động sinh ra, máy fax và thƣ điện tử.
Ở Việt Nam, TMĐT là thuật ngữ mới xuất hiện trong những năm gần
đây và cũng chƣa có văn bản pháp lý chính thức đƣa ra định nghĩa chính xác
về TMĐT. Phần lớn đều cho TMĐT là việc mua bán hàng hóa và dịch vụ
thông qua các phƣơng tiện điện tử và các mạng viễn thông, chủ yếu là máy
tính và internet. Tuy nhiên, căn cứ vào định nghĩa đã có trên thế giới và Việt
Nam, xét thực tế và tƣơng lai phát triển của TMĐT theo hƣớng “thƣơng mại”
theo nghĩa rộng (tức là thƣơng mại hiện đại) còn “điện tử” theo nghĩa hẹp. Có
nghĩa là “TMĐT là mọi hoạt động thƣơng mại đƣợc thực hiện thông qua
mạng Internet và các mạng viễn thông khác”. Luận văn cũng dùng khái niệm
này để nghiên cứu.
1.1.1.2. Khái niệm và tiêu chí đánh giá TMĐT lành mạnh
Khái niệm Thƣơng mại điện tử lành mạnh (tác giả đƣa ra) là việc các
doanh nghiệp thực hiện mua bán hàng hóa, dịch vụ thông qua các phƣơng tiện
điện tử và các mạng viễn thông tuân thủ và cạnh tranh theo đúng Hiến pháp
và pháp luật.
Hệ thống tiêu chí đánh giá TMĐT lành mạnh đƣợc đƣa ra dựa trên
những yếu tố nhƣ sau:
Thứ nhất, các doanh nghiệp kinh doanh TMĐT cần phải tạo lập sự tin
tƣởng của khách hàng thông qua chính sách bảo vệ thông tin cá nhân. Đồng
thời phải tuân thủ nghiêm ngặt mọi cam kết đã đƣa ra đối với khách hàng.
Đảm bảo mọi giao dịch đều diễn ra thành công.
14
Thứ hai, các sản phẩm mà doanh nghiệp đƣa ra phải đảm bảo uy tín,
chất lƣợng. Quy trình giao nhận đơn giản, rõ ràng và đúng hẹn.
Thứ ba, thể hiện sự công bằng trong chính sách giải quyết khiếu nại.
Đƣa ra chế tài xử phạt rõ ràng, nghiêm minh, đủ sức răn đe đối với những
hành vi vi phạm.
1.1.2. Những đặc trưng của Thương mại điện tử
So với các hoạt động thƣơng mại truyền thống TMĐT có một số điểm
khác biệt cơ bản sau:
1.1.2.1. Không cần tiếp xúc trực tiếp trong giao dịch thương mại
Các bên tiến hành giao dịch trong TMĐT không tiếp xúc trực tiếp với
nhau và không đòi hỏi phải biết nhau từ trƣớc.
Trong Thƣơng mại truyền thống, các bên thƣờng gặp nhau trực tiếp để
tiến hành giao dịch, chủ yếu là chuyển tiền, séc hóa đơn, vận đơn, gửi báo
cáo. Các phƣơng tiện viễn thông nhƣ fax, telex, … chỉ đƣợc sử dụng để trao
đổi số liệu kinh doanh. Tuy nhiên, việc sử dụng các phƣơng tiện điện tử trong
thƣơng mại truyền thống chỉ để chuyển tải thông tin một cách trực tiếp giữa
hai đối tác của cùng một giao dịch.
TMĐT cho phép mọi ngƣời từ nhiều vùng miền khác nhau có cơ hội
ngang nhau tham gia vào thị trƣờng giao dịch toàn cầu mà không đòi hỏi phải
có mối liên hệ từ trƣớc. Các giao dịch cũng đƣợc thực hiện một cách nhanh
chóng và linh hoạt hơn so với giao dịch thƣơng mại truyền thống.
1.1.2.2. Được thực hiện trong một thị trường thống nhất toàn cầu
Các giao dịch thƣơng mại truyền thống đƣợc thực hiện với sự tồn tại
của khái niệm biên giới quốc gia, còn thƣơng mại điện tử đƣợc thực hiện
trong một thị trƣờng không có biên giới. TMĐT trực tiếp tác động tới môi
trƣờng cạnh tranh toàn cầu. Với TMĐT thì bất kỳ một doanh nghiệp nào dù
15
mới thành lập cũng có thể tham gia giao dịch trong một thị trƣờng rộng lớn,
xuyên quốc gia mà không cần thiết phải bƣớc ra khỏi nhà.
1.1.2.3. Số lượng chủ thể giao dịch tối thiểu là 3 bên
Trong hoạt động giao dịch TMĐT đều có sự tham gia của ít nhất 3 chủ
thể; ngoài ngƣời bán và ngƣời mua còn có bên thứ ba là ngƣời cung cấp dịch
vụ mạng và cơ quan chứng thực. Ngoài các chủ thể tham gia quan hệ giao
dịch giống nhƣ giao dịch thƣơng mại truyền thống, trong giao dịch TMĐT đã
xuất hiện một bên thứ ba đóng vai trò là những ngƣời tạo môi trƣờng cho các
giao dịch TMĐT. Nhà cung cấp dịch vụ mạng và cơ quan chứng thực có
nhiệm vụ chuyển đi, lƣu giữ các thông tin giữa các bên tham gia giao dịch
thƣơng mại điện tử, đồng thời họ cũng xác nhận độ tin cậy của các thông tin
trong giao dịch thƣơng mại điện tử.
1.1.2.4. Mạng thông tin đóng vai trò quyết định trong hoạt động TMĐT
Đối với thƣơng mại truyền thống mạng lƣới thông tin chỉ là phƣơng
tiện để trao đổi dữ liệu, còn đối với TMĐT thì mạng lƣới thông tin là thị
trƣờng, đóng vai trò quyết định tới thành bại của hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp.
Thông qua TMĐT, nhiều loại hình kinh doanh mới đƣợc hình thành. Ví
dụ các siêu thị ảo, các trang web cung cấp hàng hóa và dịch vụ trên mạng máy
tính… ngày càng phát triển nhanh chóng khiến nhiều doanh nghiệp, cửa hàng
ngày nay đua nhau đƣa thông tin lên mạng nhằm khai thác mảng thị trƣờng vô
cùng rộng lớn này.
1.1.3. Các hình thức giao dịch chủ yếu của TMĐT
Ngƣời ta thƣờng phân chia các hình thức giao dịch của TMĐT theo đối
tƣợng tham gia, cụ thể hơn là các hình thức giao dịch giữa các chủ thể của
TMĐT là: Doanh nghiệp (B – Business), ngƣời tiêu dùng (C - Consumer) và
16
chính phủ (G - Government). Dựa vào chủ thể của TMĐT, có thể phân chia
TMĐT ra các loại hình phổ biến nhƣ sau:
Giao dịch giữa Doanh nghiệp với Doanh nghiệp (B2B): TMĐT B2B
đƣợc định nghĩa đơn giản là TMĐT giữa các công ty với nhau hay là loại hình
giao dịch qua các phƣơng tiện điện tử giữa Doanh nghiệp với Doanh nghiệp
đƣợc thực hiện trên các sàn giao dịch điện tử. Cụ thể, sau khi đăng kí trên các
sàn giao dịch B2B, các doanh nghiệp có thể chào hàng, tìm kiếm bạn hàng,
đặt hàng, ký kết hợp đồng, thanh toán qua hệ thống này.
Hình 1.1: Mô hình B2B
Nguồn: Thư viện Học liệu Mở Việt Nam (http://voer.edu.vn)
Đây là mô hình chiếm tỷ trọng lớn trong doanh số TMĐT của một quốc
gia, cũng là mô hình chiếm tỷ trọng chủ yếu trong doanh thu TMĐT toàn cầu.
Doanh số TMĐT B2B chiếm 92% - 95% doanh thu TMĐT toàn cầu trong 3
năm 2003-2005. Điển hình nhất và cũng là biểu hiện của mức độ phát triển
cao nhất của mô hình TMĐT B2B phải kể đến là website www.alibaba.com.
Trang Web hiện có hơn 4.830.000 thành viên đăng kí đến từ 240 nƣớc khác
nhau và là một trong những sàn giao dịch thƣơng mại Thế giới lớn nhất cung
cấp các dịch vụ Marketing trên mạng hàng đầu cho những nhà xuất khẩu và
nhập khẩu.
Mô hình TMĐT B2B ở Việt Nam thƣờng ít xuất hiện và còn gặp nhiều
khó khăn trong việc tìm kiếm nguồn vốn đầu tƣ. Có thể kể đến một vài
17
website B2B điển hình nhƣ: www.gophatdat.com; www.thuonghieuviet.com;
www.vnemart.com; www.ecvn.gov.vn; www.vietoffer.com.
Giao dịch giữa Doanh nghiệp với khách hàng (B2C) là mô hình kinh
doanh thƣơng mại điện tử mà các cửa hàng hoặc các công ty cung cấp cho
ngƣời tiêu dùng các hàng hóa, dịch vụ thông qua các trang website (chủ yếu
là mô hình bán lẻ). Ở đó các doanh nghiệp sử dụng các phƣơng tiện điện tử để
lựa chọn, đặt hàng, thanh toán và nhận hàng. Đây là hình thái sớm nhất của
TMĐT. Đơn giản hơn, chúng ta có thể hiểu Thƣơng mại điện tử B2C là việc
một doanh nghiệp thông qua mạng internet để trao đổi hàng hóa, dịch vụ do
mình tạo ra hoặc do mình phân phối. Đƣợc chia thành 2 mô hình con là B2C
trực tuyến và B2C kết hợp TMĐT với truyền thống.
Mô hình B2C trực tuyến đề cập đến giao dịch điện tử giữa doanh
nghiệp trực tuyến (hoặc ngƣời bán lẻ) đến ngƣời tiêu dùng.
Mô hình B2C TMĐT kết hợp với truyền thống là mô hình kết hợp giữa
các công ty hay cửa hàng truyền thống đến ngƣời tiêu dùng.
Hình 1.2: Giao dịch theo mô hình B2C
Nguồn: Thư viện Học liệu Mở Việt Nam (http://voer.edu.vn)
18
Hầu hết các doanh nghiệp thành công trong TMĐT B2C là những
doanh nghiệp cung cấp các sản phẩm, dịch vụ chất lƣợng cao với mức giá hấp
dẫn và tập trung chủ yếu ở những nơi có nền kinh tế rất phát triển, trình độ
ứng dụng CNTT cao, đây cũng là nơi có tỷ lệ ngƣời sử dụng internet cao nhất
thế giới. Các trang web khá thành công với hình thức này trên thế giới phải kể
đến Amazon.com, Drugstore.com, Beyond.com. Trong đó, điển hình phát
triển bậc nhất của mô hình B2B là website www.amazon.com. Đây là hệ
thống bán lẻ trực tuyến lớn nhất của Mỹ với doanh thu hàng tỷ đô la/năm
(34204 tỉ USD năm 2010). Amazon là công ty kinh doanh đa ngành, đa nghề
nhƣ sách, dịch vụ mua bán nhạc, phần mềm tin học, trang trí nội thất, game…
có tiềm năng và triển vọng bậc nhất hiện nay.
Ở Việt Nam có một số trang web hoạt động theo mô hình B2C nhƣ:
www.vatgia.com, www.lazada.vn, www.solo.vn, www.shoptretho.com.vn,
cho phép khách hàng quảng bá thƣơng hiệu, quảng bá sản phẩm miễn phí
hàng đầu của Việt Nam, chủ yếu là những mặt hàng điện tử, sách báo, quà
tặng, văn phòng phẩm, giày dép, quần áo….với nhiều hình thức thanh toán đa
dạng. Tuy nhiên, trong số đó có rất ít các doanh nghiệp quảng bá sản phẩm,
hàng hóa tự sản xuất ra mà đa số vẫn là kinh doanh thƣơng mại.
Giao dịch giữa Doanh nghiệp và Chính phủ (B2G) là loại hình giao
dịch điện tử giữa DN và các cơ quan Nhà nƣớc. Trong đó, cơ quan Nhà nƣớc
đóng vai trò là khách hàng, mua bán hàng hóa phục vụ cho các hoạt động
công bằng cách mua trực tiếp hoặc tiến hành đấu thầu trên mạng. Mặt khác,
các cơ quan Nhà nƣớc cũng thiết lập các website để cung cấp dịch vụ công
cho các DN nhƣ: hải quan điện tử; thuế điện tử, chứng nhận xuất xứ điện tử…
Giao dịch giữa cá nhân với cá nhân (C2C) là loại hình TMĐT giữa các
cá nhân với nhau. Ngƣời tiêu dùng tự mình tạo website hoặc thông qua các
sàn giao dịch sẵn có (nhƣ Napter, Ebay...) để thực hiện mua bán, đấu giá các
19
hàng hóa có nhu cầu. Bản chất của mô hình này là hình thức đấu giá trực
tuyến, chủ yếu dựa trên khả năng giao dịch tự do giữa những ngƣời tiêu dùng
ký kết hợp đồng trực tuyến, đặc biệt là đối với hàng hóa đã qua sử dụng.
Ngƣời mua có thể gửi yêu cầu lên web để ngƣời bán có thể thƣơng lƣợng và
hoàn tất giao dịch, ngƣời mua trong trƣờng hợp này có thể tìm đƣợc sản phẩm
với giá thấp.
Ebay là một website C2C đứng đầu trên thế giới với doanh thu khoảng
40 tỷ USD mỗi năm. Đây là một điển hình về kinh doanh TMĐT C2C theo
hình thức đấu giá trực tuyến.
Ở Việt Nam hiện đã có rất nhiều trang TMĐT hoạt động theo mô hình
C2C, tiêu biểu trong số đó là www.chodientu.vn, www.5giay.vn,
www.saigondaugia.com, www.aha.com.vn . Đó đều là các công ty có tiềm
năng và kinh doanh theo mô hình C2C, trong đó nổi bật nhất là
www.chodientu.vn. Mặc dù chƣa có thành công nào mang tính đột phá cho
các DN hoạt động theo mô hình này nhƣng đến nay họ cũng đã đạt đƣợc một
số thành tựu nhất định nhƣ: Liên kết với eBay, đầu tƣ từ Softbank, hệ thống
Adnet đƣợc nhiều website trong nƣớc sử dụng...
Giao dịch giữa chính phủ và người tiêu dùng (G2C) loại hình này
không phổ biến vì chủ yếu là các giao dịch mang tính hành chính giữa các cơ
quan Nhà nƣớc và ngƣời dân. Tuy nhiên, nó cũng có thể mang những yếu tố
của TMĐT nhƣ: hoạt động đóng thuế qua mạng, trả phí đăng ký hồ sơ...
Đây là những mô hình chủ yếu và đƣợc sử dụng phổ biến trên thế giới
và tại Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, bên cạnh đó còn tồn tại một vài mô hình
TMĐT vẫn chƣa đƣợc đề cập phổ biến nhƣ:
Mô hình C2B2C
Mô hình này đề cập đến một nhóm ngƣời tiêu dùng có chung sở thích
tiêu dùng và chia sẻ ý tƣởng cũng nhƣ cảm xúc thông qua Internet, từ đó hình
20
thành nên những nhóm tiêu dùng dựa trên những chủ đề (topic – based
consumption group) và khi những nhu cầu này đƣợc phản hồi về doanh
nghiệp họ sẽ cung cấp những sản phẩm thỏa mãn nhu cầu của nhóm ngƣời
tiêu dùng đó. Mô hình này dựa trên nền tảng mô hình TMĐT trung gian trong
đó loại bỏ đƣợc “Sự bất đối xứng về thông tin” đối với ngƣời tiêu dùng. Dựa
trên quan hệ cung và cầu của thị trƣờng, mô hình này có thể chia ra làm 2 mô
hình con: C2B2C định hƣớng nhu cầu (demand – based) và C2B2C định
hƣớng cung (Supply – based).
Với mô hình C2B2C định hƣớng nhu cầu, khi có nhu cầu mua sản
phẩm hoặc dịch vụ mà không có sẵn trực tuyến, ngƣời tiêu dùng (C2C) thông
báo cho trung gian là các công ty TMĐT (B), sau đó công ty cố gắng tìm ra
nguồn cung cấp từ các kênh khác nhau để đáp ứng nhu cầu của ngƣời tiêu
dùng (C).
Với mô hình C2B2C định hƣớng cung, khi cung cấp một số hàng hóa
để bán hàng trực tuyến, các nhà cung cấp (C) không thể tìm thấy ngƣời mua
kịp thời sẽ thông báo cho các công ty trung gian (B), sau đó công ty trung
gian sẽ cố gắng tìm kiếm khách hàng thông qua các kênh khác nhau để giải
quyết các vấn đề khó khăn của việc bán sản phẩm (C).
Những mô hình nhƣ 123mua cũng là một dạng của C2B2C, trên đó
ngƣời tiêu dùng mở shop của mình để bán hàng cho ngƣời tiêu dùng khác
thông qua dịch vụ của 123mua. Tuy nhiên, cũng không thể hoàn toàn là rạch
ròi C2B2C, bởi vì có nhiều dịch vụ nhƣ Tranh Thêu Chữ Thập, Cho thuê ô tô,
cty quà tặng doanh nghiệp,… mà ngƣời bán cũng chính là nhà sản xuất hoặc
một doanh nghiệp.
Mô hình B2B2C
Trong lĩnh vực Tài chính, Du lịch, các doanh nghiệp B2C thƣờng phải
tiêu tốn ngân sách để xây dựng website cá nhân và quảng bá để ngƣời tiêu
21
dùng sử dụng website đó. Nhƣng thực tế là ngƣời tiêu dùng thích vào một
trang web của đại lý bán vé máy bay, hay một tripadvisors (website du lịch
lớn nhất thế giới) để tìm kiếm tour du lịch cho mình, hoặc vào những trang
trung gian tài chính nơi mà họ tìm thấy cùng một lúc nhiều nhà cung cấp để
so sánh và lựa chọn. Từ đó có các mô hình kinh doanh dựa trên việc đi “thu
gom” các công ty B2C lại để hình thành nên B2B2C.
Hiểu một cách đơn giản, nếu nhƣ mô hình C2B2C là hai ngƣời tiêu
dùng thực hiện giao dịch mua bán thông qua một bên thứ ba thì B2B2C là mô
hình giao dịch mà ở đó DN bán sản phẩm hoặc dịch vụ cho ngƣời tiêu dùng
thông qua DN khác nhƣ một trung gian. Cách thức này chiếm một tỷ lệ khá
lớn trong các công ty đa quốc gia. Nó không còn hoàn toàn là B2B và cũng
không hoàn toàn là B2C mà nó là cả hai.
Trong thời đại offline (ngoại tuyến), chữ B thứ hai trong B2B2C đƣợc
gọi là “trung gian”, “kênh phân phối”. Nhƣng trong thời đại online (trực
tuyến), kênh phân phối không còn đơn giản chỉ là một “con ngựa” hay “cái
băng chuyền” giữa ngƣời sản xuất và ngƣời tiêu dùng nữa mà kênh trung gian
phân phối đƣợc coi là một DN đứng ra “đại diện mua hàng cho ngƣời tiêu
dùng” và đồng thời cũng lại chính là một đối tác kinh doanh của nhà sản xuất.
Ở Việt Nam, cách đây khoảng gần 10 năm, xuất hiện Siêu thị thông tin
Marofin (www.marofin.com và www.vuikhuyenmai.com) nhằm đáp ứng nhu
cầu mua của ngƣời tiêu dùng và nhu cầu bán của nhà sản xuất. Marofin cung
cấp cho ngƣời tiêu dùng những nhà cung cấp có uy tín trên thị trƣờng tạo
niềm tin cho khách hàng đang còn nghi ngờ về các thông tin trên mạng. Đây
là một trong những ví dụ của mô hình TMĐT B2B2C ở Việt Nam mặc dù mô
hình này đã bị phá sản trong một thời gian ngắn sau đó. Tuy nhiên, bài học từ
thất bại này để lại nhiều điều đáng suy ngẫm về sự phát triển TMĐT ở Việt
Nam hiện nay.
22
Một ví dụ điển hình về mô hình B2B2C là Rakuten, tập đoàn thƣơng
mại điện tử lớn nhất của Nhật Bản với tổng số vốn khoảng 13,5 tỷ USD và
doanh thu khoảng 4 tỷ USD/năm. Trong mô hình kinh doanh của Rakuten,
với một mức phí nhỏ, các nhà bán lẻ có thể nhờ trang web này bán hàng thay.
Khi một ngƣời tiêu dùng đặt hàng một sản phẩm qua mạng của Rakuten, đơn
đặt hàng này sẽ đƣợc chuyển đến nhà bán lẻ. Rakuten đƣợc nhận 2.6% doanh
thu bán hàng cho mỗi đơn hàng thành công.
Ngoài ra, còn phải kể đến một số trang web đang hoạt động theo mô
hình B2B2C ở Việt Nam đang phát triển khá thành công nhƣ: Enbac.com, chợ
trực tuyến, các công ty vừa và nhỏ đăng thông tin sản phẩm, bán hàng trực
tuyến, hỗ trợ quy trình thanh toán và giao nhận; Muachung.vn hoạt động theo
mô hình mua hàng theo nhóm.
1.1.4. Vai trò của Thương mại điện tử trong phát triển KT-XH
1.1.4.1 Góp phần mở rộng thị trường, rút ngắn khoảng cách giữa
doanh nghiệp và các quốc gia.
TMĐT cho phép tất cả mọi ngƣời, từ các tập đoàn đa quốc gia tới từng
cá nhân, từ đô thị đến những vùng xa xôi, từ những nƣớc phát triển đến những
nƣớc đang phát triển … cùng tham gia. Nếu nhƣ trƣớc đây, khi các phƣơng
thức kinh doanh mới ra đời thƣờng tạo nên lợi thế cho các công ty lớn có khả
năng tài chính dồi dào thì TMĐT lại đem lại cơ hội kinh doanh gần nhƣ
không khác biệt cho tất cả các doanh nghiệp. Một doanh nghiệp dù lớn hay
nhỏ cũng có thể thông qua mạng Internet để mở rộng thị trƣờng của mình ra
khắp toàn cầu chứ không chỉ giới hạn trong những thị trƣờng nhỏ hẹp. Bên
cạnh đó, ngƣời tiêu dùng ở bất cứ đâu với một máy tính kết nối mạng, nhờ sự
trợ giúp của các công cụ tìm kiếm trên Internet cũng có thể tìm thấy tất cả các
mặt hàng cần thiết từ các nhà cung cấp trên khắp thế giới. Việc mở rộng thị
trƣờng của cả ngƣời bán và ngƣời mua trên phạm vi toàn cầu sẽ góp phần rút
23
ngắn khoảng cách địa lý, tăng khả năng cạnh tranh giữa các doanh nghiệp,
thúc đẩy sản xuất phát triển, đƣa nền kinh tế của các nƣớc đến gần nhau hơn.
TMĐT còn giúp các nƣớc nghèo, các nƣớc đang phát triển có cơ hội
tiếp cận nền kinh tế tiên tiến của các nƣớc đang phát triển, tạo cơ hội rút ngắn
khoảng cách giữa các nƣớc trên thế giới. Nếu các nƣớc đang phát triển nhƣ
Việt Nam biết nắm bắt cơ hội, thực hiện các bƣớc đột phá để có thể tiến kịp
các nƣớc có nền kinh tế phát triển.
1.1.4.2. TMĐT góp phần làm giảm chi phí, tăng hiệu quả lao động xã
hội
TMĐT có tác động rất tích cực tới sự phát triển kinh tế, đó chính là
việc làm giảm đáng kể chi phí của cả ngƣời bán và ngƣời mua trong giao dịch
thƣơng mại. Đối với ngƣời bán, TMĐT giúp giảm chi phí sản xuất, kinh
doanh, trƣớc hết là chi phí văn phòng không giấy tờ, gọn nhẹ, hoạt động hiệu
quả hơn do đó tiết kiệm đƣợc nhân lực và vật lực. Hơn nữa, TMĐT còn giúp
doanh nghiệp giảm chi phí tiếp thị và bán hàng.
Bằng phƣơng tiện Internet/web, một nhân viên bán hàng có thể giao
dịch đƣợc với rất nhiều khách hàng, Catalog (danh mục sản phẩm) điện tử
trên web phong phú hơn nhiều và thƣờng xuyên cập nhật so với catalog in ấn
chỉ có khuôn khổ giới hạn và luôn luôn lỗi thời.
TMĐT cũng cho phép các doanh nghiệp giảm mức tồn kho cũng nhƣ
các chi phí quản lý khác. Việc giao dịch nhanh chóng và cập nhật thông tin về
nhu cầu khách hàng, giúp cắt giảm số lƣợng và thời gian lƣu kho cũng nhƣ
thay đổi phƣơng án sản phẩm nhằm bám sát nhu cầu thị trƣờng. Nhờ tính
công khai thông tin của tất cả các doanh nghiệp, giá cả hàng hóa trở nên minh
bạch. Không một doanh nghiệp nào có thể đẩy giá của mình lên quá cao so
với mặt bằng chung, cộng với việc tiết kiệm đƣợc các chi phí đầu vào, giá cả
hàng hóa sẽ có phần giảm hơn. Điều đó mang lại lợi ích cho cả ngƣời tiêu
24
dùng và doanh nghiệp. Khả năng phục vụ 24/24h hay nói cách khác là:
“Thƣơng mại không ngừng nghỉ” giúp cho các giao dịch trở nên hết sức thuận
tiện.
Nhƣ vậy, TMĐT góp phần làm tăng năng suất lao động thƣơng mại,
giảm chi phí, hạ giá thành sản phẩm, góp phần nâng cao đời sống nhân dân,
đem lại lợi ích cho toàn xã hội.
1.1.4.3. Tạo ra phương thức giao dịch mới, góp phần tăng cường quan
hệ thương mại
Thị trƣờng trong thƣơng mại truyền thống thƣờng nghiêng về phía cung
với việc sản xuất hàng hóa theo kiểu đại trà phục vụ cho nhiều ngƣời cùng
một lúc thì TMĐT lại nghiêng về phía cầu với phƣơng châm “khách hàng hóa
quá trình sản xuất”. Ở đây, khách hàng là đối tác chứ không phải là mục tiêu
nhƣ trong thƣơng mại truyền thống. TMĐT cũng làm thay đổi cách thức giao
tiếp, từ giao tiếp gặp mặt, trao đổi trực tiếp sang giao tiếp không gặp mặt, từ
đó làm tăng khả năng giao tiếp trên thị trƣờng.
Thông qua các mạng liên lạc trực tuyến, các nhà sản xuất, các nhà cung
cấp, phân phối và các đại lý có thể chia sẻ các thông tin về phát minh hay cải
tiến hàng hóa và dịch vụ của nhau. TMĐT còn cho phép “sản xuất mạng”, có
nghĩa là chia nhỏ từng phần quá trình sản xuất với các nhà thầu, những ngƣời
xa cách nhau về mặt địa lý nhƣng kết nối với nhau qua mạng máy tính. Với
sản xuất mạng, một công ty có thể phân công nhiệm vụ với các doanh nghiệp
thành viên trên thế giới với thời gian nhanh nhất. Lợi ích của sản xuất mạng
bao gồm giảm giá thành, tiếp thị chiến lƣợc tập trung hơn và hỗ trợ bán hàng
cho các sản phẩm, dịch vụ và hệ thống mới khi cần.
25
1.1.4.4. Góp phần nâng cao vai trò, hiệu quả quản lý Nhà nước về kinh
tế xã hội.
TMĐT tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình cung cấp thông tin về các
dịch vụ công cộng nhƣ y tế, giáo dục và các dịch vụ xã hội khác của Chính
phủ với giá ƣu đãi và chất lƣợng cao.
Trong y tế, cùng với sự ra đời của những trung tâm khám chữa bệnh từ
xa, trung tâm tƣ vấn sức khỏe qua mạng, hoạt động y tế cộng đồng đã có
những bƣớc tiến đáng kể, phục vụ và chăm sóc sức khỏe cho đông đảo ngƣời
dân. Các hình thức giáo dục nhƣ: giáo dục từ xa, đào tạo trực tuyến … có tác
dụng đa dạng hóa hoạt động giáo dục, đem đến cơ hội học tập và phát triển
cho nhiều ngƣời, nhất là những ngƣời ở vùng xa xôi. Các dịch vụ xã hội khác
nhƣ báo điện tử, hải quan điện tử, thuế … đƣợc cung cấp 24/24 giờ với địa
điểm không hạn chế sẽ giảm chi phí đáng kể cho cả ngƣời sử dụng và Chính
phủ. Quan hệ quản lý giữa Nhà nƣớc với doanh nghiệp và ngƣời dân thông
qua TMĐT sẽ thuận tiện, đơn giản và minh bạch hơn, giảm phiền hà, nhũng
nhiễu cho ngƣời dân, từ đó từng bƣớc hoàn thiện chính phủ điện tử.
Việc phát triển TMĐT cũng góp phần giải quyết các vấn đề nan giải
của xã hội nhƣ địa điểm xây dựng, giao thông …với các văn phòng, cửa hàng,
siêu thị trên mạng …sẽ làm giảm áp lực về đất đai đối với các doanh nghiệp.
Cũng nhờ có mạng máy tính và các phƣơng tiện điện tử hiện đại mà mọi
ngƣời ở nhà nhƣng vẫn làm việc, mua sắm, giải trí …đƣợc. Điều đó làm giảm
lƣu lƣợng tham gia giao thông, giảm ách tắc và tai nạn giao thông, làm cho xã
hội ổn định hơn.
Tuy có vai trò, tác dụng to lớn đối với sự phát triển kinh tế xã hội
nhƣng mặt khác nó cũng mang lại nhiều rủi ro, gây tác động tiêu cực, cản trở
sự phát triển của xã hội nói chung và nền kinh tế nói riêng, nhƣ khó đảm bảo
độ an toàn của thông tin trên mạng do nạn trộm cắp thông tin; nguy cơ lộ bí
26
mật thông tin giữa hai bên đối tác rất cao; sự cố kỹ thuật gây gián đoạn hoạt
động kinh doanh do mạch bị nghẽn. Trong một số trƣờng hợp, sự gián đoạn
kinh doanh có thể làm cho các hợp đồng thƣơng mại quốc tế bị vô hiệu hóa,
gây lãng phí nguồn nhân lực, dẫn đến sự phá sản nhanh chóng các doanh
nghiệp điện tử. Điều đó đòi hỏi sự quan tâm quản lý của cả phía Nhà nƣớc và
doanh nghiệp nhằm giảm bớt những tổn thất về kinh tế và tâm lý, tạo điều
kiện thuận lợi cho sự phát triển TMĐT.
1.1.4.5. Tạo điều kiện sớm tiếp cận kinh tế tri thức
TMĐT sẽ kích thích sự phát triển của ngành CNTT tạo cơ sở cho sự
phát triển nền kinh tế tri thức. Điều này mang tính chiến lƣợc và là chính sách
cần cho các nƣớc công nghiệp hóa. Bởi nếu không nhanh chóng tiếp cận nền
kinh tế tri thức thì sau khoảng một thập kỷ nữa, các nƣớc đang phát triển sẽ có
thể bị bỏ rơi hoàn toàn.
1.2. Những điều kiện cơ bản để phát triển Thƣơng mại điện tử lành mạnh
TMĐT bao trùm phạm vi rộng lớn các hoạt động kinh tế và xã hội, hạ
tầng của nó là cả một tổng hòa phức hợp: hạ tầng công nghệ; nguồn nhân lực;
bảo mật và an toàn; hạ tầng thanh toán tài chính tự động; bảo vệ sở hữu trí
tuệ; tác động văn hóa xã hội của Internet; lệ thuộc công nghệ. Chúng ta không
nên nhìn nhận TMĐT đơn thuần chỉ là sử dụng phƣơng tiện điện tử để thực
hiện các hoạt động thƣơng mại truyền thống, mà nên hiểu rằng một khi chấp
nhận và ứng dụng thƣơng mại điện tử thì toàn bộ hình thái hoạt động của một
nƣớc sẽ thay đổi, cả hệ thống giáo dục, tập quán làm việc, quan hệ quốc tế ...
Để ứng dụng TMĐT thì việc đầu tiên là cần có chính sách và quy định
về pháp lý của Nhà nƣớc, tham gia vào phần dịch vụ là các tổ chức nhƣ: ngân
hàng, tổ chức tài chính – tín dụng, tổ chức thẻ, các công ty bảo hiểm. Ngoài
ra, cần có mối liên hệ trực tuyến với quốc tế, thúc đẩy việc trao đổi và lƣu
27
thông hàng hóa với bên ngoài tiến tới toàn cầu hóa. Dƣới đây sẽ xem xét các
điều kiện cần thiết làm tiền đề và môi trƣờng cho hoạt động TMĐT.
1.2.1. Nguồn nhân lực
TMĐT có mối quan hệ từ ngƣời tiêu dùng, ngƣời sản xuất, phân phối
tới các cơ quan chính phủ và các nhà công nghệ. Việc áp dụng TMĐT tất yếu
làm nảy sinh hai đòi hỏi: Một là, mọi ngƣời đều quen thuộc và có khả năng
thành thạo hoạt động trên mạng. Hai là có một đội ngũ chuyên gia tin học
mạnh, thƣờng xuyên bắt kịp sự phát triển CNTT để phục vụ cho kinh tế số
hóa nói chung và TMĐT nói riêng (nay đã đến mức đổi mới hàng tuần), cũng
nhƣ có khả năng thiết kế các công cụ phần mềm đáp ứng nhu cầu hoạt động
của một nền kinh tế số hóa, tránh bị động, lệ thuộc hoàn toàn vào nƣớc khác.
Áp dụng TMĐT không những đòi hỏi mỗi ngƣời tham gia phải có khả
năng trao đổi thông tin một cách thành thạo trên mạng mà cần phải có những
hiểu biết cần thiết về kinh tế, thƣơng mại, luật pháp quốc tế, CNTT, và ngoại
ngữ. Do vậy, nhất thiết phải xây dựng đƣợc một đội ngũ chuyên gia giỏi,
thƣờng xuyên tiếp cận nhanh chóng và có hiệu quả những công nghệ mới để
đáp ứng kịp thời nhu cầu phát triển.
1.2.2. Kết cấu hạ tầng công nghệ thông tin, công nghệ điện tử
Để áp dụng TMĐT thì hạ tầng công nghệ phải đƣợc bảo đảm gồm:
CNTT; công nghệ viễn thông; công nghệ internet; công nghệ điện tử; công
nghệ điện lực; cùng với tổ chức hệ thống đào tạo và tiêu chuẩn công nghệ.
Hạ tầng CNTT là điều kiện tiên quyết bảo đảm thông tin (bao gồm
phần cứng và phần mềm) và các dịch vụ thích hợp để áp dụng và phát triển
TMĐT nhằm mang lại hiệu quả kinh tế. Tƣơng tự, hạ tầng công nghệ viễn
thông cũng là điều kiện thiết yếu để áp dụng và phát triển TMĐT. Trong khi
đó, hạ tầng công nghệ internet cung cấp thông tin phong phú, đa dạng, nhanh
28
chóng sẽ là điều kiện thúc đẩy lao động sáng tạo, tạo cơ hội thành công trong
cạnh tranh và đƣa lại hiệu quả tốt cho các hoạt động hợp tác trao đổi.
Ngoài ra, TMĐT muốn phát triển đƣợc cần tuân thủ tiêu chuẩn công
nghệ của quốc gia và quốc tế về: thƣơng mại, thanh toán, vận chuyển, hải
quan, tài chính... Những hệ thống công nghệ đơn lẻ sẽ không thể trao đổi
đƣợc với nhau trên phạm vi quốc gia hoặc toàn cầu nếu không tuân thủ những
tiêu chuẩn chung này. Do vậy, mỗi nƣớc ngoài việc xây dựng và áp dụng các
tiêu chuẩn quốc gia về công nghệ cho mình còn phải nghiên cứu và thừa nhận
các tiêu chuẩn quốc tế để đảm bảo sự tƣơng thích cho hội nhập toàn cầu.
Bên cạnh đó, hạ tầng công nghệ công nghiệp điện tử cũng là một điều
kiện quan trọng và cần thiết để chủ động chế tạo các thiết bị điện tử - tin học
– viễn thông đáp ứng nhu cầu sử dụng cho nhiều lĩnh vực kinh tế - xã hội
trong nƣớc và xuất khẩu. Trên cơ sở đó, sẽ có thể xây dựng đƣợc các công
nghệ tiên tiến, sử dụng nhiều loại thiết bị hiện đại và thích hợp đƣợc chế tạo
trong nƣớc dùng trong TMĐT, tránh lệ thuộc vào công nghệ nƣớc ngoài.
CNTT và TMĐT chỉ có thể hoạt động đáng tin cậy trên nền của một hạ
tầng điện lực vững chắc, đảm bảo cung cấp điện năng đầy đủ, ổn định, giá cả
hợp lý và rộng khắp trên phạm vi cả nƣớc. Đây là một trong những điều kiện
khó khăn đối với các nƣớc đang phát triển.
1.2.3. Môi trường pháp lý
Môi trƣờng pháp lý là vấn đề xuyên suốt và liên quan tới nhiều hoạt
động khác nhau của TMĐT. Cho nên để tạo điều kiện cho kết cấu hạ tầng
phát triển TMĐT đồng bộ thì các vấn đề pháp lý cần phải quan tâm là:
Khung pháp luật thƣơng mại phải có tính thống nhất để có thể điều
chỉnh cả các hoạt động thƣơng mại nói chung và các giao dịch nói riêng thông
qua các phƣơng tiện công nghệ đƣợc sử dụng trong hoạt động TMĐT. Mặt
khác, tính thống nhất của khung pháp luật về TMĐT không chỉ thể hiện trong
29
nƣớc mà còn phải mang tính toàn cầu, nghĩa là phải có luật thừa nhận tính
pháp lý của giao dịch TMĐT.
Các vấn đề: bảo vệ quyền tác giả, bảo hộ các cơ sở dữ liệu, bằng sáng
chế, thƣơng hiệu, tên miền, và các vấn đề liên quan đến mọi hình thức giao
dịch điện tử nhƣ bảo vệ bí mật cá nhân; bảo vệ an ninh; thừa nhận tính pháp
lý của chữ ký điện tử, chữ ký số cần đƣợc quan tâm xây dựng và hoàn thiện.
Đồng thời, cần có một thể chế pháp lý, các cơ quan pháp lý thích hợp cho việc
xác thực/chứng thực chữ ký điện tử và chữ ký số. Xây dựng một hệ thống
pháp lý để bảo vệ mạng thông tin là cần thiết nhằm chống tội phạm xâm nhập
với các mục đích bất hợp pháp, nhƣ thu nhập tin tức mật, thay đổi thông tin
trên trang mạng, thâm nhập vào các dữ liệu, sao chép trộm các phần mềm,
truyền virus phá hoại… Tới nay từng nƣớc đã có thể có các luật đơn hành này
nhƣng điều cần thiết là phải đƣa vào khuôn khổ của bộ luật hình sự, một khi
nền kinh tế số hóa đƣợc thừa nhận trên tầm quốc gia.
Trong các quan hệ giao dịch TMĐT, khả năng xảy ra tranh chấp là điều
khó tránh khỏi, vấn đề thi hành các phán quyết và quyết định của cơ quan giải
quyết tranh chấp đƣợc thực hiện nhƣ thế nào cũng là một trong những khó
khăn, thách thức lớn đối với việc hoàn thiện khung pháp lý cho TMĐT.
1.2.4. Sự quản lý của Nhà nước về thương mại điện tử
Đối tƣợng và phạm vi quản lý Nhà nƣớc về TMĐT bao quát hầu hết
các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội. Do vậy, trƣớc tiên cần phải xác
định quản lý Nhà nƣớc về TMĐT thuộc loại hình thức quản lý xã hội và là
một bộ phận quản lý Nhà nƣớc, nhƣng không đơn thuần là quản lý kinh tế hay
quản lý văn hóa, xã hội hoặc an ninh quốc gia mà nó là một kiểu quản lý Nhà
nƣớc có tính phức hợp, đan xen của cả ba hình thức nêu trên.
Đối tƣợng của quản lý Nhà nƣớc về TMĐT là toàn bộ các hoạt động
TMĐT của tất cả các chủ thể (Chính phủ, doanh nghiệp, ngƣời tiêu dùng) ở
30
mọi hình thức, mọi cấp độ và trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã
hội trong quá trình hình thành, ứng dụng và phát triển TMĐT.
Khi nói đến quản lý Nhà nƣớc về TMĐT là nói đến cả hai nội dung:
một là, quản lý bằng chiến lƣợc, luật pháp, chính sách và cơ chế; hai là, vai
trò mở đƣờng thúc đẩy, tổ chức tham gia của Nhà nƣớc bằng những hình
thức, phƣơng tiện và công cụ cụ thể. Vì vậy, về mặt phƣơng pháp luận không
thể tách rời vấn đề quản lý Nhà nƣớc với vấn đề vai trò của Chính phủ đối với
sự phát triển của TMĐT.
1.2.5. Các vấn đề khác phải quan tâm
Thứ nhất là môi trƣờng quốc gia: Chính phủ từng nƣớc phải thiết lập
đƣợc môi trƣờng kinh tế, pháp lý và xã hội (cả văn hóa giáo dục) cho nền
kinh tế số hóa nói chung và cho TMĐT nói riêng (ví dụ: các dịch vụ hành
chính, các dịch vụ thu trả thuế, các dịch vụ khác nhƣ thƣ tín, dự báo thời tiết,
thông báo giờ tàu xe…) và đƣa các nội dung của kinh tế số hóa vào văn hóa
và giáo dục các cấp.
Thứ hai là môi trƣờng quốc tế: TMĐT mang tính không biên giới nên
môi trƣờng kinh tế, pháp lý và xã hội quốc gia cũng phải thích ứng với môi
trƣờng kinh tế, pháp lý và xã hội quốc tế. Đây chính là khía cạnh làm mất đi
tính ranh giới địa lý vốn là đặc tính cố hữu của ngoại thƣơng truyền thống và
là nguyên nhân dẫn tới những khó khăn về luật áp dụng để điều chỉnh hợp
đồng; thanh toán; thu thuế; khó khăn hơn nữa là đánh thuế các dung liệu, các
hàng hóa “phi vật thể” (nhƣ âm nhạc, chƣơng trình truyền hình, chƣơng trình
phần mềm… đƣợc giao dịch trực tiếp giữa các đối tác qua mạng); thu thuế
trong trƣờng hợp thanh toán bằng thẻ thông minh; cách kiểm toán các công ty
buôn bán bằng phƣơng thức TMĐT; bảo vệ sở hữu trí tuệ, bảo vệ chính trị và
bảo vệ bí mật riêng tƣ trong thông tin xuyên quốc gia giữa các nƣớc có hệ
31
thống luật pháp và hệ thống chính trị khác nhau; pháp luật quốc tế về sử dụng
không gian liên quan đến việc phóng và khai thác các vệ tinh viễn thông…
Thứ ba là vấn đề lệ thuộc công nghệ: Phát triển TMĐT đang đƣợc coi
là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lƣợc của mỗi quốc gia. Sự du nhập của TMĐT
vào các nền kinh tế là điều tất yếu, hơn thế còn là cơ hội đối với các quốc gia.
Nhƣng nếu chỉ tham gia vì lợi ích kinh tế nhất thời thì không nên, mà mỗi
nƣớc phải có một chiến lƣợc thích hợp để khỏi trở thành quốc gia thứ cấp về
công nghệ.
Thứ tƣ là những yếu tố về văn hóa xã hội: Việc ứng dụng CNTT sâu
rộng trong các hoạt động xã hội tạo ra một phƣơng thức lao động mới thuận
lợi và hiệu quả hơn so với các phƣơng thức cũ. Đồng thời làm thay đổi tác
phong và tập quán kinh doanh của cả xã hội, hình thành tác phong làm việc
của thời đại CNTT.
Bên cạnh đó, sự tác động của những yếu tố tiêu cực về văn hóa xã hội
trên internet cũng là một mối quan tâm quốc tế. Mạng internet trở thành nơi
giao dịch mua bán mại dâm, ma túy, buôn lậu của các lực lƣợng phản xã hội
đƣa lên; các hoạt động tuyên truyền kích dục có mục đích đối với trẻ em; các
hƣớng dẫn làm bom thƣ, làm chất nổ phá hoại và các loại tuyên truyền kích
động bạo lực; phân biệt chủng tộc; kỳ thị tôn giáo… Ở một số nơi, internet đã
trở thành một phƣơng tiện thuận lợi cho các lực lƣợng chống đối sử dụng làm
diễn đàn ngôn luận, hoạt động tuyên truyền, kích động lật đổ Chính phủ hoặc
gây rối loạn trật tự xã hội.
32
CHƢƠNG 2: NHỮNG TRỞ NGẠI ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN THƢƠNG
MẠI ĐIỆN TỬ Ở VIỆT NAM THỜI GIAN QUA
2.1. Những trở ngại đối với phát triển Thƣơng mại điện tử
Theo kết quả điều tra, khảo sát của Cục TMĐT & CNTT, Bộ Công
thƣơng năm 2010 với 3.400 doanh nghiệp trên cả nƣớc nhằm đánh giá những
trở ngại đối với việc ứng dụng CNTT và TMĐT với thang điểm từ 1 tới 4,
trong đó, 4 là mức trở ngại cao nhất. Kết quả cho thấy, các trở ngại đƣợc
doanh nghiệp đánh giá từ thấp tới cao theo thứ tự:
2.60
2.55
2.55
2.50
2.54
2.45
2.49
2.40
2.39
2.35
2.30
2.32
2.30
2.29
2.25 2.20 2.15
An ninh mạng chƣa đảm bảo
Môi trƣờng pháp lý chƣa hoàn thiện
Dịch vụ vận chuyển và giao nhận còn yếu
Nguồn nhân lực chƣa đáp ứng yêu cầu
Hệ thống thanh toán điện tử chƣa phát triển
Nhận thức của ngƣời dân về TMĐT thấp
Môi trƣờng xã hội và tập quán kinh doanh chƣa phù hợp
Hình 2.1: Đánh giá các trở ngại đối với ứng dụng của TMĐT
của doanh nghiệp năm 2010
Nguồn: Khảo sát của Cục TM ĐT & CNTT năm 2010
33
Môi trƣờng pháp lý chƣa hoàn thiện luôn đƣợc đánh giá nằm trong
nhóm các trở ngại cao nhất trong giai đoạn 2005-2008. Nhƣng đến năm 2010,
môi trƣờng pháp lý chƣa hoàn thiện lại đƣợc coi là trở ngại thấp nhất đối với
doanh nghiệp trong việc ứng dụng TMĐT. Điều này cho thấy sự nỗ lực của
các cơ quan nhà nƣớc trong việc hoàn thiện chính sách và pháp luật đã đem
lại những thành quả nhất định.
Trở ngại lớn nhất, theo khảo sát của Cục TMĐT & CNTT năm 2010, là
nhận thức của ngƣời dân về TMĐT thấp, môi trƣờng xã hội và tập quán kinh
doanh chƣa phù hợp. Nhƣ vậy, mặc dù doanh nghiệp đã rất tích cực trong
việc áp dụng CNTT và TMĐT nhƣng thực tế phát triển của xã hội cho thấy,
vẫn cần thêm thời gian để đạt đƣợc những bƣớc tiến cần thiết cho việc thiết
lập môi trƣờng kinh doanh và tiêu dùng tiên tiến ở nƣớc ta hiện nay.
Ngoài ra, vấn đề an ninh mạng chƣa đảm bảo vẫn đƣợc đánh giá là trở
ngại cao thứ hai cho thấy doanh nghiệp đã nhận thức đƣợc tầm quan trọng của
việc đảm bảo an toàn an ninh thông tin đối với việc ứng dụng TMĐT.
Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn, những trở ngại đối với sự phát
triển TMĐT lành mạnh đƣợc trình bày theo thứ tự sau:
2.1.1. Môi trường pháp lý chưa hoàn thiện
Từ năm 2005 đến nay, sau khi Kế hoạch tổng thế phát triển TMĐT giai
đoạn 2006-2010 đƣợc thủ tƣớng Chính phủ phê duyệt ngày 15 tháng 9 năm
2005, hệ thống văn bản pháp luật của Việt Nam về lĩnh vực TMĐT liên tục
đƣợc bổ sung và hoàn thiện.
Văn bản đầu tiên điều chỉnh chuyên sâu về lĩnh vực này là Luật Giao
dịch điện tử đƣợc Quốc hội ban hành vào tháng 11 năm 2005, đặt nền tảng
pháp lý cơ bản cho các giao dịch điện tử trong xã hội thông qua việc thừa
nhận giá trị pháp lý của thông điệp dữ liệu và quy định về chữ ký điện tử.
Năm 2006, Quốc hội ban hành Luật Công nghệ thông tin quy định về các biện
34
pháp đảm bảo và phát triển CNTT; quyền và nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức,
cá nhân tham gia hoạt động ứng dụng và phát triển CNTT.
Từ năm 2006 đến năm 2010, đã có nhiều Nghị định và các văn bản
hƣớng dẫn triển khai các Nghị định thể hiện trong sơ đồ sau:
Luật giao dịch TMĐT Luật công nghệ thông tin
Nghị định về TMĐT Nghị định về dịch vụ Internet và cung cấp thông tin trên Internet
Nghị định về chống thƣ rác
Nghị định về ứng dụng CNTT trong cơ quan NN Nghị định về GDTMĐT trong hoạt động tài chính
Nghị định về chữ ký số và dịch vụ chứng thực chữ ký số
Nghị định về cung cấp thông tin và DVD trực tuyến trên website cơ quan NN Nghị định về GDTMĐT trong hoạt động ngân hàng
Hình 2.2: Khung pháp lý TMĐT
Nguồn: Báo cáo Thương mại điện tử năm 2013
Với hệ thống văn bản khá đầy đủ nhƣ trên, có thể khẳng định, đến hết
năm 2010, khung pháp lý về TMĐT tại Việt Nam đã hình thành, tạo điều kiện
thuận lợi cho việc triển khai các ứng dụng TMĐT trong xã hội.
35
Tuy nhiên, cho đến nay việc thực thi pháp luật về TMĐT còn tồn tại
một số nhƣợc điểm:
2.1.1.1. Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về TMĐT chưa được
chú trọng đúng mức
Các hoạt động này trong thời gian vừa qua chủ yếu tập trung vào cổ vũ,
động viên cho việc ứng dụng TMĐT, chƣa chú trọng vấn đề giáo dục pháp
luật. Một văn bản luật sau khi ban hành thƣờng chỉ đƣợc cơ quan chủ trì soạn
thảo tổ chức giới thiệu khoảng một đến hai lần cho một số ít đối tƣợng nên
tính phổ cập còn thấp. Hiện nay chƣa có cơ chế phối hợp hiệu quả trong hoạt
động giáo dục pháp luật giữa các cơ quan liên quan nhƣ cơ quan quản lý nhà
nƣớc và cơ quan thông tin đại chúng, các tổ chức đào tạo, v.v...
2.1.1.2. Cơ chế giám sát, chế tài chưa đủ mạnh
Nguồn lực giám sát còn hạn chế, tần suất các hoạt động thanh tra, kiểm
tra chuyên ngành thấp, hiệu quả chƣa cao, chƣa có cơ chế giám sát trực tuyến
các hoạt động trên môi trƣờng điện tử. Bên cạnh đó, nhiều quy định về mức
xử phạt đối với các hành vi vi phạm trong lĩnh vực TMĐT còn thấp, chƣa đủ
mạnh mẽ để răn đe, tạo ra sự tuân thủ tốt trong xã hội.
2.1.1.3. Thiếu cơ chế giải quyết tranh chấp
Thực tế hiện nay, nhiều website bán hàng trực tuyến có uy tín và hoạt
động mua bán trên mạng cũng khá phát triển nhƣng vẫn chỉ mang tính tự
phát, manh mún do chƣa có cơ chế giải quyết tranh chấp và chế tài xử lý đối
với các hành vi gian lận khi tham gia TMĐT, khi mua bán hàng hóa qua
mạng, nên khi xảy ra tranh chấp ngƣời mua là ngƣời phải chịu thiệt. Đây là
một trong những nguyên nhân chủ yếu khiến phần lớn ngƣời tiêu dùng Việt
Nam còn e ngại khi tham gia giao dịch TMĐT.
36
Việc hình thành cơ chế giải quyết tranh chấp sẽ giúp ngƣời tiêu dùng
tin tƣởng vào việc mua sắm trực tuyến, thanh toán điện tử góp phần thúc đẩy
TMĐT phát triển.
2.1.1.4. Tính pháp lý chưa chặt chẽ và thống nhất
Luật TMĐT bảo vệ ngƣời tiêu dùng mua bán trực tuyến ở nƣớc ta còn
khá lỏng lẻo, chƣa có nhiều điều luật bảo vệ tối ƣu lợi ích khách hàng giao
dịch trực tuyến. Thời gian qua, mặc dù hành lang pháp lý trong lĩnh vực thanh
toán đã đƣợc cải thiện, song vẫn chƣa đầy đủ và đồng bộ, đặc biệt là những
vấn đề liên quan đến thanh toán điện tử. Hệ thống văn bản pháp lý liên quan
đến lĩnh vực thanh toán vẫn còn những điểm cần phải tiếp tục đƣợc chỉnh sửa,
thay thế để có thể phù hợp với thông lệ quốc tế và nhu cầu của ngƣời sử dụng.
Hệ thống pháp lý bảo vệ thông tin cá nhân vẫn còn thiếu những quy định, chế
tài cụ thể về bảo vệ đối tƣợng sử dụng TMĐT .
Tóm lại, hành lang pháp lý về vấn đề này tại Việt Nam đã đƣợc hình
thành nhƣng chƣa thật sự đi sát với thực tiễn đang diễn ra. Chính vì điều này,
rất cần hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật, và trên hết là các nhà chức
trách cần có những biện pháp tuyên truyền thích hợp và thƣờng xuyên để hạn
chế những hành vi vi phạm do thiếu hiểu biết.
2.1.2. Dịch vụ vận chuyển và giao nhận còn yếu
Dịch vụ vận chuyển và giao nhận bị coi là trở ngại lớn nhất đối với hoạt
động mua sắm trực tuyến. Chƣa có đơn vị thứ 3 thực sự chuyên nghiệp để
đảm bảo tốt dịch vụ giao nhận mà không ảnh hƣởng đến chất lƣợng phục vụ
cho nên hầu hết các đơn vị làm TMĐT đều phải tự xây dựng đội ngũ giao
nhận để nắm quyền chủ động trong việc kiểm soát và điều phối hiệu quả cũng
nhƣ chất lƣợng phục vụ khách hàng.
37
Mặt khác, do đặc thù địa lý Việt Nam trải dài, thị trƣờng còn nhỏ hẹp,
đồng thời, việc tự tổ chức đội ngũ giao nhận cũng làm cho chi phí giao nhận
rất cao, chiếm từ 10-15% giá trị của 1 giao dịch.
Ngoài ra, nghịch lý của TMĐT Việt Nam không chỉ nằm ở chi phí vận
chuyển mà còn cả thời gian vận chuyển. Mặc dù theo lý thuyết là do không
phải thuê mƣớn mặt bằng thì giá bán trên mạng sẽ luôn rẻ hơn giá bán tại các
cửa hàng/ siêu thị, nhƣng thực tế cho thấy nếu khách hàng yêu cầu giao hàng
tại nhà thì thƣờng giá lại cao hơn giá sản phẩm tại nơi kinh doanh có mặt
bằng bán lẻ, đặc biệt là các đơn hàng giao đi các tỉnh khác nơi bán hàng. Thời
gian vận chuyển thì thƣờng từ 1-3 ngày, thậm chí còn lâu hơn (5-7 ngày) mặc
dù trong cùng tỉnh/ thành phố.
Theo khảo sát của Cục TMĐT& CNTT, có tới 38% ngƣời tiêu dùng
cho rằng một trong những trở ngại lớn khi mua sắm trực tuyến là chất lƣợng
của dịch vụ chuyển phát chƣa cao khiến nhiều khi mua hàng trực tuyến phải
chịu giá cao hơn mua theo phƣơng thức truyền thống, việc trả lại hàng và
những dịch vụ liên quan khác còn phiền phức. Điều này vẫn còn là một khó
khăn, trở ngại lớn đối với sự phát triển của TMĐT ở Việt Nam hiện nay.
2.1.3. Nguồn nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu
Một trong những rào cản dễ nhận thấy trong phát triển TMĐT ở Việt
Nam chính là vấn đề nhân lực có kỹ năng. Cụ thể, theo Báo cáo tình hình đào
tạo TMĐT tại các trƣờng đại học và cao đẳng năm 2010 của Bộ Công
Thƣơng, trong số 125 trƣờng đại học và cao đẳng đƣợc điều tra có 49 trƣờng
đại học và 28 trƣờng cao đẳng đã giảng dạy TMĐT nhƣ một môn học.
Bên cạnh đó, trong khi đào tạo nguồn nhân lực về TMĐT vẫn còn
vƣớng mắc chuyện bằng cấp, chứng chỉ vì là ngành quá mới thì quan trọng
hơn nữa là chƣơng trình đào tạo cũng chƣa thực sự đƣợc chuẩn hóa, tính ứng
dụng thực tế chƣa cao, còn mang nhiều tính chất lý thuyết trong khi đòi hỏi
38
của thị trƣờng nhân sự ngành này là khá áp lực về khả năng làm việc thực tế,
kỹ năng tốt và tƣ duy nhạy bén theo những khó khăn và biến đổi của ngành,
cũng nhƣ đặc thù ngành kinh doanh của từng doanh nghiệp. Đa phần nhân sự
hiện tại là những nhân sự có kinh nghiệm về TMĐT do tự rèn luyện hay trải
nghiệm từ một số chuyên ngành khác nhƣ: quản trị kinh doanh, tiếp thị,
CNTT, hệ thống thông tin... chuyển sang chứ không phải là nhân sự đƣợc đào
tạo bài bản, chính quy ngay từ đầu.
Vì vậy, mặc dù TMĐT ở Việt Nam đã phát triển khá nhanh trong
những năm gần đây. Trong khi hạ tầng CNTT và viễn thông đã đáp ứng khá
tốt thì nguồn nhân lực đƣợc đào tạo chính quy cho lĩnh vực này còn rất thiếu.
Hơn nữa, kinh doanh TMĐT đòi hỏi phải có cán bộ chuyên trách có
hiểu biết và trình độ chuyên môn nghiệp vụ phù hợp thì theo kết quả điều tra
năm 2011 cho thấy chỉ có 23% doanh nghiệp có cán bộ chuyên trách về
TMĐT. Mặc dù con số này đã tăng lên 51% vào năm 2012 và 65 % vào năm
2013 nhƣng vẫn còn là chƣa đủ và chƣa bắt kịp với tốc độ phát triển nhanh
chóng của nền kinh tế số hóa hiện nay.
65%
51%
33%
20% 23%
2009 2010 2012 2013 2011
Hình 2.3: Tỷ lệ cán bộ chuyên trách về TMĐT qua các năm
Nguồn: Khảo sát của cục TMĐT và CNTT năm 2013
39
2.1.4. Hệ thống thanh toán điện tử chưa phát triển
Thập kỷ đầu tiên của thế kỷ 21, thị trƣờng Việt Nam đã chứng kiến sự
chuyển biến mạnh mẽ trong thanh toán không dùng tiền mặt với sự ra đời của
nhiều phƣơng tiện và dịch vụ thanh toán mới, hiện đại, tiện ích đáp ứng đƣợc
các nhu cầu của ngƣời sử dụng với phạm vi tiếp cận mở rộng tới các đối
tƣợng cá nhân và dân cƣ. Từ chỗ chỉ có khoảng 135.000 tài khoản ngân hàng
vào năm 2000, đến cuối năm 2004 đã tăng gần 10 lần lên 1.297.000 tài khoản
và năm 2007 là trên 7 triệu tài khoản. Theo Vụ Thanh toán – Ngân hàng Nhà
nƣớc, hiện nay, hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng đã đƣợc thiết lập,
kết nối 63 chi nhánh tại các tỉnh, thành phố. Từ chỗ chỉ có hơn 300 máy ATM
(Automatic Teller Machine) và khoảng 7000 POS (Point of Sale) năm 2003,
đến năm 2010, cả nƣớc có gần 11.000 máy ATM, hơn 37.000 các điểm chấp
nhận thẻ POS đƣợc lắp đặt và trên 24 triệu thẻ với 48 tổ chức phát hành thẻ và
hơn 190 thƣơng hiệu thẻ. Chiếc thẻ ngân hàng giờ đã mang lại khá nhiều tiện
ích khác nhƣ chuyển khoản, thanh toán tiền hàng hóa dịch vụ tại POS, trả phí
định kỳ với các khoản thanh toán thƣờng xuyên (tiền điện, tiền nƣớc, điện
thoại, internet), mua hàng trực tuyến tại các siêu thị…(Nguồn: Báo cáo hàng
năm của NHNN và Hiệp hội thẻ ngân hàng)
Tuy nhiên, việc mở rộng và sử dụng tài khoản thanh toán qua ngân
hàng trong khu vực dân cƣ vẫn còn ở mức khiêm tốn. Tỷ trọng tiền mặt so với
tổng phƣơng tiện thanh toán có xu hƣớng giảm dần từ mức 23,7% năm 2001
xuống còn 14.6% năm 2008 nhƣng vẫn còn ở mức cao so với thế giới. Tỷ
trọng này ở các nƣớc phát triển nhƣ Thụy Điển là 0,7%; Nauy là 1%, còn ở
các nƣớc đang phát triển nhƣ Trung quốc cũng chỉ ở mức 9,7%, còn Thái Lan
là 6,3%.
Những con số này cho thấy, những biến chuyển trong hoạt động thanh
toán ở Việt Nam dƣờng nhƣ vẫn chƣa bắt kịp với những biến động nhanh
40
chóng của toàn bộ nền kinh tế nói chung và của hệ thống ngân hàng nói riêng.
Tại Việt Nam thanh toán điện tử qua mạng vẫn đƣợc coi là một trở ngại lớn
cho sự phát triển của thƣơng mại điện tử bởi những nguyên nhân sau:
2. 1.4.1. Thói quen tiêu dùng tiền mặt
Tiền mặt ở Việt Nam là một công cụ thanh toán không hạn chế về đối
tƣợng và phạm vi sử dụng. Nó có điểm ƣu việt rất lớn là thanh toán tức thời
và vô danh, thủ tục đơn giản. Vì vậy, tiền mặt đã trở thành một công cụ rất
đƣợc ƣa chuộng trong mua sắm và từ lâu đã trở thành thói quen khó thay đổi
của ngƣời tiêu dùng và nhiều doanh nghiệp Việt Nam.
Theo khảo sát của Cục TMĐT&CNTT (Bộ Công thƣơng), tỷ lệ thanh
toán bằng tiền mặt trong các giao dịch TMĐT là rất lớn (74%) so với các hình
thức khác:
74%
41%
9% 11% 8%
Thẻ cào Thẻ thanh
Thanh toán tiền mặt toán Ví điện tử Chuyển khoản qua ngân hàng
Hình 2.4: Các hình thức thanh toán trong giao dịch TMĐT
Nguồn: Khảo sát của cục TMĐT và CNTT năm 2013
Với số dân khoảng 90,5 triệu ngƣời trong đó 65% dân số có độ tuổi trẻ
(dƣới 30) và số ngƣời dân Việt Nam sử dụng Internet là 24,3 triệu ngƣời
nhƣng tiền mặt vẫn là phƣơng tiện thanh toán chiếm tỷ trọng lớn trong khu
41
vực doanh nghiệp và chiếm đại đa số trong các giao dịch thanh toán của khu
vực dân cƣ.
Bên cạnh đó, cũng theo kết quả điều tra, đơn vị hƣởng lƣơng từ ngân
sách nhà nƣớc thực hiện trả lƣơng qua tài khoản là 45,5% nhƣng có không ít
tài khoản mà thời gian số dƣ tồn tại trên tài khoản chỉ tính bằng giờ không chỉ
bởi họ cần rút tiền để tiêu mà vẫn còn tâm lý “để tiền trong tài khoản ngân
hàng thì không yên tâm”, cứ phải tiền trong tay mới là tiền của mình, còn để
trong tài khoản thì không biết thế nào.
Điều này cho thấy, ngƣời dân vẫn chƣa mấy tin tƣởng vào hệ thống
thanh toán điện tử mà vẫn giữ thói quen “tiền trao cháo múc”, “tiền tƣơi thóc
thật”. Thói quen này cộng với tâm lý ngại công khai hoá thu nhập, doanh thu
đang cản trở, hạn chế phát triển thanh toán điện tử ở Việt Nam.
2.1.4.2. Hành lang pháp lý còn nhiều bất cập
Nhƣ trên đã phân tích, sau khi thực hiện công cuộc đổi mới kinh tế nói
chung, đổi mới hoạt động ngân hàng nói riêng thì tất cả những quy định về
quản lý tiền mặt đã từng đƣợc sử dụng trƣớc đó đều bị loại bỏ hoặc các văn
bản quy phạm pháp luật mới ban hành nhƣng không đi vào cuộc sống. Tiền
mặt nghiễm nhiên trở thành một công cụ thanh toán không hạn chế về đối
tƣợng và phạm vi sử dụng. Do vậy, tình trạng nền kinh tế tiền mặt ở Việt
Nam đã kéo dài trong nhiều năm là do không có một hành lang pháp lý ngay
từ đầu. Nhà nƣớc không quản lý và cũng không kiểm soát việc thanh toán
giữa các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế và giữa các tầng lớp dân cƣ với nhau,
vô hình chung đã tạo cho kinh tế “ngầm” phát triển.
Thời gian qua, mặc dù hành lang pháp lý trong lĩnh vực thanh toán đã
cải thiện khá nhiều song vẫn chƣa đầy đủ và đồng bộ, đặc biệt là những vấn
đề liên quan đến thanh toán điện nhƣng vẫn chƣa đủ cơ sở để các ngân hàng
tổ chức triển khai các kênh giao dịch điện tử vì chƣa tạo đƣợc một cơ chế
42
tổng hợp điều chỉnh hoạt động TMĐT trong ngành ngân hàng, chƣa có sự
chấp nhận đồng bộ giao dịch điện tử, chứng từ điện tử giữa các cơ quan quản
lý Nhà nƣớc có liên quan (nhƣ Tổng cục Thuế, Tổng cục Hải quan,…). Hệ
thống văn bản pháp lý liên quan đến lĩnh vực thanh toán vẫn còn những điểm
cần phải tiếp tục đƣợc chỉnh sửa, thay thế để có thể phù hợp với thông lệ quốc
tế và nhu cầu của ngƣời sử dụng, kể cả các loại hình tổ chức cung ứng dịch vụ
thanh toán không phải là ngân hàng, các tổ chức CNTT cung ứng những sản
phẩm, dịch vụ hỗ trợ cho các ngân hàng, các tổ chức làm dịch vụ thanh toán,
chẳng hạn nhƣ những công ty cung cấp giải pháp công nghệ qua mạng
Internet, các công ty kinh doanh dịch vụ thẻ, các tổ chức chuyên làm dịch vụ
thanh toán bù trừ.
Gần đây, để đẩy mạnh hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt,
Chính phủ đã có văn bản chỉ đạo các cơ quan chức năng xem xét xây dựng
phƣơng án miễn giảm thuế và phí cho những trƣờng hợp thanh toán qua thẻ
tín dụng. Song, vấn đề đặt ra là nên miễn giảm những loại thuế nào và giảm
bao nhiêu để cả ngƣời tiêu dùng và doanh nghiệp đƣợc hƣởng lợi khi giao
dịch qua thẻ ATM vẫn còn là vấn đề gây tranh cãi và còn nhiều bất cập.
2.1.4.3. Các sản phẩm dịch vụ được cung cấp còn hạn chế
Bên cạnh những bất cập về hệ thống pháp lý và thói quen sử dụng tiền
mặt của ngƣời dân, kinh phí để thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt cũng
là vấn đề không nhỏ đối với các ngân hàng. Thực tế cho thấy, đầu tƣ một máy
ATM hiện quá tốn kém mà phí bù đắp lại quá ít. Đơn cử, với mỗi chiếc máy
ATM, ngoài chi phí lắp đặt, duy trì thiết bị, thuê địa điểm thuận lợi, chi phí an
ninh… và số tiền nạp trong máy, ngân hàng phải dự trữ một lƣợng vốn tới
500 triệu đồng/máy. Số tiền này sau khi nhân với tổng số máy ATM sẽ là
không nhỏ và đây lại là số vốn không sinh lời cho ngân hàng, vì thế, có thể
gây khó khăn cho vốn lƣu động của ngân hàng, đặc biệt trong những thời
43
điểm ngân hàng đang “khát vốn”. Chất lƣợng, tiện ích và tính đa dạng về dịch
vụ thanh toán điện tử cũng chƣa phong phú, chƣa đáp ứng nhu cầu của nhiều
loại đối tƣợng sử dụng để có thể thay thế cho tiền mặt. Phƣơng thức giao dịch
chủ yếu vẫn là tiếp xúc trực tiếp, để đƣợc nhận một sản phẩm dịch vụ của
ngân hàng, các chủ thể tham gia thƣờng phải đến các điểm giao dịch của ngân
hàng, phƣơng thức giao dịch từ xa, dựa trên nền tảng CNTT hiện đại nhƣ giao
dịch qua internet, qua điện thoại... chƣa phát triển hoặc mới chỉ dừng lại ở quy
mô nhỏ hẹp.
Tính cạnh tranh trên thị trƣờng dịch vụ vẫn ở mức thô sơ và phát triển
dƣới mức tiềm năng. Cạnh tranh bằng thƣơng hiệu và chất lƣợng dịch vụ chƣa
phổ biến. Các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán, thay vì sáng tạo ra sản
phẩm mới hoặc tạo ra giá trị gia tăng trên sản phẩm cùng loại trên thị trƣờng
lại tập trung vào yếu tố giá cả nhằm đánh bại đối thủ cạnh tranh. Điều đó
không chỉ làm tổn hại chính lợi nhuận của các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh
toán mà còn tổn hại tới sự gắn kết chính bản thân họ và khách hàng. Hơn nữa,
khi cạnh tranh bằng giá, các tổ chức cung ứng dịch vụ sẽ tìm mọi cách giảm
giá thay vì phải tăng chất lƣợng dịch vụ và cải tiến phƣơng thức phục vụ, tạo
ra sự khác biệt về sản phẩm dịch vụ và điều này sẽ hạn chế sự phát triển thị
trƣờng này. Khi khách hàng không nhận thấy sự khác nhau, họ sẽ dễ dàng từ
bỏ một sản phẩm dịch vụ để chuyển sang sản phẩm khác chỉ đơn giản vì phí
rẻ hơn, và nhƣ vậy, các tổ chức cung ứng sẽ rất khó duy trì đƣợc cơ sở khách
hàng của mình.
2.1.4.4. Hạ tầng kỹ thuật phát triển chưa đồng bộ
Trƣớc hết, kết cấu hạ tầng kỹ thuật phục vụ cho hoạt động thanh toán
phát triển chƣa đồng bộ, mới tập trung ở các đô thị, chƣa vƣơn đến các vùng
nông thôn, miền núi; hệ thống POS chƣa phát triển và thiếu hệ thống chuyển
44
mạch; dịch vụ cho hệ thống ATM còn nghèo nàn. Số lƣợng máy ATM tuy có
tăng, nhƣng phân bổ chủ yếu ở các thành phố lớn, các khu công nghiệp.
Một trở ngại không nhỏ nữa đối với quá trình thúc đẩy thanh toán điện
tử là sự thiếu thống nhất trong hệ thống các thiết bị tiếp nhận thẻ tại Việt
Nam. Ngƣời dùng thẻ thanh toán tại Việt Nam gặp khó khăn do hệ thống chấp
nhận thẻ của các ngân hàng chƣa có sự liên thông đầy đủ. Thực tế hiện nay ở
một số trung tâm mua sắm và siêu thị có trang bị POS nhƣng lƣợng khách
thanh toán qua thẻ chỉ đếm trên đầu ngón tay bởi các máy POS này chỉ chấp
nhận thẻ VISA (thẻ tín dụng) và Mastercard (thẻ tín dụng quốc tế) chứ chƣa
dùng đƣợc cho các thẻ nội địa, vì thế gây bất tiện cho ngƣời dùng cũng nhƣ
lãng phí trong đầu tƣ.
2.1.4.5. Công tác thông tin tuyên truyền chưa được quan tâm, chú
trọng và định hướng đúng đắn.
Những mục tiêu chiến lƣợc, định hƣớng và các chính sách lớn để phát
triển hoạt động thanh toán chƣa đƣợc công bố đầy đủ cho công chúng. Công
tác thông tin tuyên truyền chƣa đƣợc chú trọng và định hƣớng đúng đắn. Vì
vậy, không chỉ ngƣời dân mà thậm chí nhiều doanh nghiệp còn rất ít hiểu biết
hoặc hiểu biết mơ hồ về các dịch vụ thanh toán và phƣơng tiện thanh toán
không dùng tiền mặt. Ngoài ra, các phƣơng tiện thông tin đại chúng đôi khi
còn phản ánh thiên lệch, khai thác những điểm yếu, lỗi kỹ thuật hoặc những
yếu tố tiêu cực mang tính cá biệt để đƣa lên công luận, thông tin đến với
những ngƣời tiêu dùng thƣờng một chiều, thậm chí sai lạc, gây mất lòng tin
vào một công cụ thanh toán nào đó ngay từ khi mới bắt đầu phát triển.
Một cuộc điều tra mới đây của Cục TMĐT & CNTT (Bộ Công thƣơng)
cho thấy trong 164 doanh nghiệp kinh doanh TMĐT tham gia khảo sát có
48% website có tích hợp chức năng thanh toán điện tử, hơn một nửa số còn lại
sẽ tích hợp trong tƣơng lai. Vì thế, dù có nhiều trang web mua bán hàng hóa
45
qua mạng nhƣng ngƣời ta vẫn phải sử dụng hình thức thanh toán bằng tiền
mặt, qua hình thức thẻ cào trả trƣớc, chuyển khoản ...
Có tích hợp 30% 48% Không
Sẽ tích hợp 22%
Hình 2.5: Tỷ lệ website cung cấp dịch vụ TMĐT
có khả năng thanh toán trực tuyến
Nguồn: Khảo sát của Cục TMĐT và CNTT năm 2013
Nhƣ vậy, có thể thấy rằng, phát triển thanh toán điện tử không chỉ là
vấn đề của ngành ngân hàng bởi thực chất ngân hàng chỉ là tổ chức trung
gian. Thanh toán điện tử chỉ có thể thực hiện đƣợc khi các chủ thể mở tài
khoản tiền gửi thanh toán tại ngân hàng. Việc mở tài khoản này lại phụ thuộc
vào thu nhập và nhu cầu thanh toán của chính chủ thể thanh toán. Nhƣng nhu
cầu này, thói quen này chỉ có đƣợc khi các chủ thể nhìn thấy những tiện ích,
những thuận lợi trong thanh toán điện tử mà điều này có đƣợc hay không lại
nhờ vào hệ thống ngân hàng. Tất nhiên, chỉ riêng những nỗ lực của hệ thống
ngân hàng thì không thể đẩy nhanh thanh toán điện tử trong nền kinh tế mà
cần và rất cần có hỗ trợ của Chính phủ để có những chủ trƣơng quyết liệt hơn,
những chủ trƣơng mang tính chất bắt buộc phải triển khai đồng bộ trên diện
rộng và phải giám sát chặt chẽ việc thực hiện. Đồng thời, cũng cần áp dụng
các mức phí ƣu đãi đối với các tổ chức sử dụng hình thức thanh toán điện tử
nhằm tạo ra sự chênh lệch với nơi sử dụng tiền mặt. Có nhƣ vậy mới thay đổi
46
đƣợc thói quen sử dụng tiền mặt của ngƣời dân, mới thay đổi đƣợc tƣ duy “rút
tiền mặt từ ATM để thanh toán tiền hàng” trong dân chúng.
2.1.5. Nhận thức của người dân về Thương mại điện tử thấp
Ngày nay, TMĐT đã và đang đi vào cuộc sống của ngƣời dân, nhƣng
trên thực tế, TMĐT ở nƣớc ta vẫn chƣa theo kịp với sự phát triển của TMĐT
thế giới. Một trong những nguyên nhân dẫn tới tình trạng này là do nhận thức
của các doanh nghiệp và ngƣời dân về TMĐT còn thấp.
Về phía các doanh nghiệp, theo điều tra của Ban CNTT & TMĐT (Nay
là Cục TMĐT & CNTT – Bộ Công thƣơng) năm 2003, 100% doanh nghiệp
đƣợc điều tra đều nhận thức đƣợc vai trò quan trọng của TMĐT đối với hoạt
động sản xuất kinh doanh. Đây là tín hiệu đáng mừng đối với các nhà hoạch
định chính sách phát triển TMĐT ở Việt Nam. Có 79% các doanh nghiệp
đƣợc điều tra đồng ý với các lợi ích của TMĐT nhƣ: Mở rộng kênh tiếp xúc
với khách hàng hiện có; Lôi kéo khách hàng mới; Cải thiện sự hài lòng của
khách hàng; Tăng doanh số; Tăng lợi nhuận và hiệu quả hoạt động của doanh
nghiệp... cho thấy hầu hết các doanh nghiệp đều nhận thức khá rõ ràng về các
lợi ích của TMĐT.
Trong số đó, có 96% số doanh nghiệp đƣợc khảo sát cho rằng TMĐT
giúp doanh nghiệp tăng một kênh bán hàng; 85% số doanh nghiệp mong
muốn thông qua việc tham gia TMĐT có thể xây dựng đƣợc hình ảnh cho
doanh nghiệp mình cho thấy hầu hết các doanh nghiệp có mục đích rõ ràng và
đúng đắn khi tham gia TMĐT. Chỉ có rất ít doanh nghiệp tham gia TMĐT
theo phong trào.
Về phía cá nhân, ngƣời tiêu dùng, trình độ nhận thức của ngƣời dân về
TMĐTđƣợc thể hiện ở một số tiêu chí nhƣ sau:
Thứ nhất, về kỹ năng tin học, ngƣời dân vẫn còn gặp khó khăn khi tiếp
cận với TMĐT vì thiếu những kỹ năng cơ bản về tin học.
47
Thứ hai, dân chúng hầu nhƣ chƣa đƣợc làm quen hoặc hiểu biết rất mơ
hồ về TMĐT. Cụ thể, đại đa số ngƣời tiêu dùng chƣa biết rõ về lợi ích của
TMĐT mà chủ yếu là tiếp cận ở những mặt trái của nó nhiều hơn do chƣa có
chƣơng trình tuyên truyền hiệu quả về lợi ích của TMĐT. Bên cạnh đó,mặc
dù, chứng thực điện tử đã đƣợc một số doanh nghiệp nghiên cứu triển khai
nhƣ VDC, ICB, tuy nhiên, số lƣợng doanh nghiệp tham gia khai thác dịch vụ
còn hạn chế, đại bộ phận doanh nghiệp và ngƣời tiêu dùng ít biết về ý nghĩa
của chứng thực điện tử đối với TMĐT bởi đây còn là vấn đề rất mới và chƣa
có nhiều chƣơng trình tuyên truyền về ý nghĩa của hệ thống chứng thực điện
tử. Đồng thời, ngƣời tiêu dùng vẫn chƣa quen và tin vào hệ thống thanh toán
trực tuyến.
Thứ ba, trình độ ngoại ngữ (Tiếng Anh) cũng là một trong những yếu
tố quan trọng giúp cho ngƣời tiêu dùng tiếp cận dễ dàng hơn với TMĐT. Tuy
nhiên, đây không phải là rào cản lớn nhất đối với doanh nghiệp và ngƣời tiêu
dùng bởi vì hiện nay số ngƣời biết và sử dụng thành thạo ngoại ngữ (Tiếng
Anh) khá nhiều.
Nhƣ vậy, thực tế cho thấy, về phía các doanh nghiệp hầu hết đã nhận
thức rõ tầm quan trọng và rất tích cực trong việc ứng dụng CNTT và TMĐT.
Tuy nhiên, về phía ngƣời dân, mặc dù họ đã bắt đầu tham gia vào ứng dụng
TMĐT nhƣng lại nhận đƣợc khá nhiều thông tin phản ánh sai lệch từ các
phƣơng tiện thông tin đại chúng về một phƣơng tiện giao dịch điện tử ngay từ
khi mới hình thành, đồng thời, qua nhiều vụ lừa đảo, gian lận đã dẫn đến làm
mất lòng tin của họ về TMĐT . Do đó, vấn đề nhận thức của ngƣời dân vẫn
đƣợc đánh giá là rào cản lớn nhất khi tham gia vào TMĐT.
2.1.6. An ninh mạng chưa đảm bảo
Vấn đề an ninh mạng trong giao dịch TMĐT đã không còn là vấn đề
mới mẻ. Các bằng chứng thu thập đƣợc từ hàng loạt các cuộc điều tra cho
48
thấy những vụ tấn công qua mạng hoặc tội phạm mạng trong thế giới TMĐT
đang gia tăng mạnh.
Ở Việt Nam đã bắt đầu xuất hiện nhiều loại tội phạm công nghệ cao
nhƣ đột nhập vào hệ thống máy tính của các công ty, ngân hàng để đánh cắp
dữ liệu khách hàng, từ đó làm giả thẻ tín dụng để rút tiền, hoặc ra lệnh giả để
chuyển tiền, và hàng loạt các vụ tấn công qua mạng Internet.
Một tình trạng phổ biến hiện nay là nhiều công ty trong nƣớc đang
chuyển từ hệ thống đóng - mạng công ty sang hệ thống mở - mạng internet để
thực hiện các giao dịch điện tử. Và khi tiến hành giao dịch điện tử, chúng ta
sẽ phải đối phó với nhiều nỗi lo về an ninh, đặc biệt từ các hacker (tin tặc –
dùng để chỉ những lập trình viên tìm cách xâm nhập trái phép vào các máy
tính, mạng máy tính). Đặc biệt là tình trạng đột nhập trái phép vào các cơ sở
dữ liệu của các lĩnh vực kinh tế quan trọng nhƣ bƣu chính, viễn thông, ngân
hàng, các website... để lấy cắp thông tin, chiếm đoạt tên miền, tài khoản thẻ
tín dụng "chùa" để mua bán, thanh toán trực tuyến ngày càng phổ biến, gây
thiệt hại về kinh tế và uy tín của Việt Nam trong giao dịch điện tử và thanh
toán trực tuyến.
Những hành vi lợi dụng công nghệ để phạm tội tăng lên, điển hình là
những vụ tấn công các website thƣơng mại điện tử www.vietco.com,
www.chodientu.com... Tình trạng đột nhập tài khoản, trộm thông tin thẻ thanh
toán, phát tán thông tin và hình ảnh riêng tƣ cũng đã gây ảnh hƣởng không
nhỏ đến các hoạt động TMĐT lành mạnh.
Tội phạm công nghệ cao còn phạm tội ở nhiều lĩnh vực nhƣ ăn trộm
cƣớc viễn thông; hacker đột nhập cơ sở dữ liệu sau đó bán lại tên, địa chỉ các
hộp thƣ điện tử, trang web cho các doanh nghiệp làm quảng cáo; sử dụng
mạng internet để tải phim, ảnh đồi trụy về máy chủ tại các quán cà phê cho
khách xem; sử dụng thƣ điện tử nặc danh đe dọa và làm xáo trộn cuộc sống
49
của ngƣời dân; sử dụng điện thoại để nhắn tin quấy rối và đe dọa... Đặc biệt là
hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản thông qua việc mua hàng qua mạng. Đối
tƣợng yêu cầu khách hàng đƣa tiền vào tài khoản sau đó sẽ chuyển hàng về
nhƣng khách hàng lại không nhận đƣợc số hàng nhƣ đã thỏa thuận.
Do tốc độ phát triển của CNTT, truyền thông ở Việt Nam diễn ra nhanh
chóng, vì thế loại tội phạm này ngày càng gia tăng mạnh mẽ và đã có tính
quốc tế rõ rệt. Hành vi này không chỉ gây thiệt hại về mặt kinh tế mà còn ảnh
hƣởng đến hoạt động giao dịch thƣơng mại của Việt Nam với đối tác nƣớc
ngoài.
Bên cạnh đó, mặc dù ở Việt Nam chƣa phát triển nhiều về hệ thống
CNTT nhƣng cũng không tránh khỏi những làn sóng tấn công trên internet:
virus tình yêu, virus mật mã đỏ, virus Ninda…
Nhƣ vậy, trong thời đại bùng nổ về CNTT thì vấn đề bảo mật, an ninh
trên mạng càng trở nên phức tạp và khó kiểm soát hơn. Đây là một trong
những vấn đề đƣợc tất cả các doanh nghiệp và cá nhân quan tâm nhiều nhất
trong quá trình tham gia vào TMĐT. Kết quả điều tra của Cục
TMĐT&CNTT (Bộ Công thƣơng) về đảm bảo an toàn thông tin tại các
doanh nghiệp năm 2013 cho thấy tỷ lệ các DN sử dụng các biện pháp an toàn
thông tin khá cao, trong đó có 53% sử dụng biện pháp tƣờng lửa, 86% sử
dụng các phần mềm diệt vi rút, 26% sử dụng các biện pháp phần cứng và 31%
sử dụng chữ ký số và chứng thực số.
50
86%
53%
31%
26%
0%
Biện pháp khác
Tƣờng lửa Diệt vi rút Phần cứng Chữ ký số, chứng thực số
Hình 2.6: Tỷ lệ các doanh nghiệp sử dụng các biện pháp
an toàn thông tin
Nguồn: Khảo sát của cục TMĐT và CNTT năm 2013
Điều này cho thấy, doanh nghiệp đã nhận thức đƣợc tầm quan trọng
của việc đảm bảo an toàn an ninh thông tin đối với việc ứng dụng TMĐT.
Tuy nhiên, cho đến trƣớc năm 2005, ở nƣớc ta vẫn chƣa có cơ quan,
đơn vị nào tiến hành nghiên cứu về những phƣơng pháp phát hiện tội phạm
máy tính, các quy trình phát hiện điều tra và chƣa có những định danh cụ thể,
cũng nhƣ chƣa có những điều luật cụ thể cho từng dạng của loại tội phạm này
mà mới chỉ có 3 điều luật chung trong Bộ Luật Hình sự 1999 quy định về các
hình thức sử dụng trái phép thông tin trên mạng hoặc lan truyền vi rút máy
tính. Chính vì vậy, hiện vẫn chƣa có số liệu chính thức về các hành vi phạm
tội và các vụ tấn công, đột nhập đƣợc thống kê và chính thức công bố. Số liệu
do các nhà cung cấp dịch vụ internet công bố hoặc không đầy đủ hoặc không
đƣợc quy định trong hệ thống luật pháp của Việt Nam.
51
2.1.7. Môi trường xã hội và tập quán kinh doanh chưa phù hợp
Tại diễn đàn "Thƣơng mại điện tử Việt Nam năm 2012” đƣợc tổ chức
tại Thành phố Hồ Chí Minh, hầu hết các đại biểu tham gia đều cho rằng, sự
phát triển TMĐT của Việt Nam đang gặp phải nhiều rào cản, ảnh hƣởng
không nhỏ đến sự tăng trƣởng bền vững, cũng nhƣ lòng tin của xã hội, trong
đó phải kể đến môi trƣờng kinh doanh kém tin cậy.
Ngƣời mua và ngƣời bán trong hoạt động kinh doanh TMĐT ở Việt
Nam vẫn chủ yếu thực hiện theo phƣơng thức “tiền trao cháo múc” và mua
bán xong là thôi nên ngƣời tiêu dùng rất lo ngại mua phải sản phẩm không
dùng đƣợc hoặc chất lƣợng không đạt hay mua phải hàng giả, hàng nhái, kém
chất lƣợng... Tình trạng ngƣời mua tỏ ra không mấy tin tƣởng khi mua hàng
qua mạng do quyền lợi của họ chƣa đƣợc bảo vệ chính đáng và sự lo lắng
trƣớc những thông tin sai phạm của một số website kinh doanh trực tuyến
đang ngày càng tăng lên. Rất nhiều khách hàng phản ánh rằng sản phẩm họ
nhận đƣợc khác xa với những gì họ nhìn thấy trên website, do vậy niềm tin
vào TMĐT cũng bị lung lay.
Nguyên nhân của thực trạng này là do TMĐT đang bị lạm dụng, bóp
méo bởi sự làm ăn thiếu chuyên nghiệp của các đơn vị cung cấp sản phẩm.
Điển hình nhƣ vụ việc MB24 đã lợi dụng danh nghĩa TMĐT để phục vụ lợi
ích riêng cho mình khiến cho khách hàng hiểu sai về TMĐT. Một số khác thì
dùng kênh TMĐT để phân phối hàng giả, hàng nhái kém chất lƣợng nhằm
qua mắt ngƣời tiêu dùng.
Hơn nữa, ngƣời Châu Á nói chung và ngƣời Việt Nam nói riêng thƣờng
thích giao dịch mặt đối mặt và các mối quan hệ đối tác lâu dài dựa trên sự tin
tƣởng, quan hệ gia đình hay các gắn bó về mặt lịch sử. Ngƣời dân chƣa có
thói quen mua bán (giao dịch đúng nghĩa) trên mạng mà phần lớn mọi
ngƣời vẫn chỉ ngắm nghía trên mạng và sau đó là đi sắm đồ ngoài chợ. Bên
52
cạnh đó, ngƣời Việt vẫn có thói quen ra cửa hàng tạp hoá đầu ngõ để mua
những đồ dùng thiết yếu hay ra các cửa hàng offline để mua sắm các đồ dùng,
đồ thời trang và đồ công nghệ, thói quen thích nhìn tận mắt, sờ tận tay và
thanh toán bằng tiền mặt cho an toàn.
Về phía các doanh nghiệp kinh doanh TMĐT ở Việt Nam nhìn chung
vẫn còn thiếu tính chuyên nghiệp. Điều này liên quan đến nhận thức của
doanh nghiệp trong việc cung cấp sản phẩm đến tận tay khách hàng. Có thể
thấy để thanh toán trong giao dịch TMĐT đƣợc phải trải qua nhiều công đoạn
nhiêu khê, phiền phức và thiếu quy chuẩn làm cho khách hàng không hào
hứng tham gia. Các siêu thị vốn là những doanh nghiệp tiếp cận nhiều với
hình thức kinh doanh trên mạng, nhƣng hầu hết vẫn chƣa dám hoàn tất bƣớc
cuối cùng là cho khách hàng tự thanh toán online, lý do vì chƣa đủ điều kiện
về kết cấu hạ tầng và khách hàng cũng không yên tâm sử dụng hình thức
thanh toán này. Đối với những khách hàng trong cùng khu vực, họ có thể đặt
hàng qua mạng, sau đó trả tiền mặt khi nhân viên giao hàng đến nhà. Nhƣng
với khách hàng ngoại tỉnh, họ phải chuyển tiền trƣớc vào tài khoản của doanh
nghiệp, gây ra tâm lý lo ngại.
Giao hàng là khâu cuối cùng song cũng không kém phần quan trọng
trong quy trình kinh doanh TMĐT. Có thể thấy, dịch vụ giao nhận của các
doanh nghiệp vẫn tập trung vào tự tổ chức hoặc ngƣời mua đến nhận hàng, rõ
ràng rất thiếu tính chuyên nghiệp, bất tiện khiến ngƣời mua cảm giác mua
hàng qua TMĐT không khác bao nhiêu so với mua hàng truyền thống.
Ngoài ra, vƣớng mắc về giấy tờ thanh toán với yêu cầu hoá đơn đỏ, chữ
ký, con dấu tƣơi trong phƣơng thức thanh toán đã cản trở TMĐT phát triển.
Theo kết quả điều tra có tới 74,1% doanh nghiệp sử dụng hình thức thanh
toán là khách hàng trả tiền mặt khi nhận hàng, 74,8% doanh nghiệp chấp nhận
53
thanh toán chuyển khoản qua ngân hàng và chỉ có 25% doanh nghiệp thanh
toán bằng chuyển tiền qua bƣu điện.
Các doanh nghiệp cũng rất vất vả để thay đổi phƣơng pháp kinh doanh.
Do lo ngại vì chƣa có thói quen kinh doanh trên sàn thƣơng mại điện tử nên
không biết nguồn dữ liệu khách hàng của sàn có đáng tin cậy hay không và
làm thế nào để kiểm chứng và thẩm định các khách hàng là đối tác nƣớc
ngoài.
Tất cả những vấn đề nêu trên đã làm cho TMĐT ở Việt Nam phát triển
một cách thiếu lành mạnh thậm chí là phát triển lệch lạc, không đúng hƣớng.
Nhất là vấn đề môi trƣờng xã hội và tập quán kinh doanh tại Việt Nam vẫn
còn thiếu tính chuyên nghiệp nhƣ hiện nay. Điều này đòi hỏi nhà nƣớc phải có
những chính sách phù hợp để từng bƣớc tạo lập niềm tin của ngƣời tiêu dùng
vào TMĐT đồng thời có những biện pháp mạnh để răn đe những hành vi lệch
lạc nhằm lợi dụng TMĐT vào mục đích xấu.
2.2. Một số mô hình kinh doanh mang danh nghĩa TMĐT còn tiềm ẩn
nhiều rủi ro
Hiện nay, các hình thức kinh doanh qua website TMĐT đang phát triển
mạnh, với nhiều mô hình hoạt động đa dạng nhƣ mô hình mua theo nhóm,
chợ điện tử, rao vặt, diễn đàn, mua sắm trên mạng xã hội, sàn bất động sản,
v.v… Điểm chung lớn nhất của những mô hình này là có nhiều ngƣời mua và
nhiều ngƣời bán tham gia giao dịch trên một không gian chung – website
thuộc sở hữu và quản lý của một thƣơng nhân hoặc tổ chức. Các website đã
đăng ký có mô hình hoạt động khá đa dạng, tuy nhiên có thể xếp chung thành
một số nhóm sau:
- Các sàn giao dịch điện tử đƣợc tổ chức theo mô hình trung tâm
thƣơng mại hoặc chợ điện tử, nơi các thành viên đƣợc mở “gian hàng ảo” và
54
có quyền quản lý, cập nhật thông tin, hình ảnh trên các gian hàng đó (ví dụ
chodientu, enbac, vatgia, 123mua, v.v…)
- Các website cung cấp dịch vụ kinh doanh theo nhóm, nơi nhiều doanh
nghiệp có thể thông qua website tiến hành hoạt động truyền thông, tiếp thị và
trực tiếp bán hàng hóa, dịch vụ cho khách hàng (muachung, muare, bookdeal,
v.v…)
- Các website rao vặt, diễn đàn, nơi thành viên có thể đăng ký tài khoản
và đƣa thông tin về nhu cầu mua bán ở dạng đơn giản nhƣ tin rao vặt hay chủ
đề thảo luận (ví dụ rongbay.com, nhavadat.vn, v.v…)
Trong các mô hình kinh doanh TMĐT nêu trên tồn tại một số mô hình
mang danh nghĩa kinh doanh TMĐT nhƣng còn tiềm ẩn nhiều rủi ro gây mất
lòng tin của ngƣời tiêu dùng.
2.2.1. Mô hình kinh doanh Groupon
Mô hình kinh doanh Groupon là mô hình mua theo nhóm, khi doanh
nghiệp thu hút đƣợc một lƣợng đủ lớn các khách hàng cùng mua hàng hóa,
dịch vụ của một nhà cung cấp vào cùng một thời điểm thì họ sẽ đƣợc hƣởng
siêu khuyến mại, mức giá phụ thuộc vào số lƣợng ngƣời mua nhà cung cấp sẽ
hạ giá bán xuống các mức giá khác nhau. Lƣợng ngƣời mua càng nhiều thì
giá càng rẻ, cứ nhƣ thế cho đến khi thời gian mua kết thúc.. Các sản phẩm phổ
biến của hình thức này thƣờng là thẻ ăn, phiếu ăn, dịch vụ làm đẹp, spa, vé
xem phim, ca nhạc, thẻ học ngoại ngữ, phiếu tập thể hình, thể dục thẩm mỹ,
khiêu vũ, du lịch ...
Nhiều ý kiến cho rằng mô hình kinh doanh Groupon là một hình thức
phát triển của TMĐT, cụ thể là mô hình thứ tƣ của TMĐT – Business To
Team (B2T), sau B2B, B2C và C2C. Nhƣng thực chất, mô hình kinh doanh
Groupon là một loại hình kinh doanh trong TMĐT B2B2C, mà cụ thể đây là
mô hình trung gian giao dịch.
55
Mục đích tham gia vào các trang web Groupon không đơn thuần là bán
đƣợc các phiếu khuyến mại mà quan trọng hơn là để quảng cáo cho sản phẩm,
dịch vụ của nhà cung cấp và quảng bá thƣơng hiệu cho các doanh nghiệp.
Khách hàng mua đƣợc hàng với giá rẻ hơn so với bình thƣờng khá nhiều. Nhà
cung cấp có cơ hội quảng bá thƣơng hiệu, thu đƣợc lƣợng lớn khách hàng mới
với chi phí thấp. Doanh nghiệp Groupon đƣợc hƣởng chiết khấu trên mỗi
phiếu coupon từ nhà cung cấp và thu tiền từ các quảng cáo khác.
Có mặt ở Việt Nam chỉ một vài năm trở lại đây, nhƣng hình thức mua
theo nhóm đã phát triển rất nhanh. Thống kê sơ bộ, từ tháng 4/2010 đã có 20
website groupon hoạt động tại Việt Nam nhƣ: cucre.vn, Zing Deal,
muachung.vn, nhommua.com, lazada.vn, hotdeal.vn, cungmua.com,
hoishoping ... Hiện nay, một số website TMĐT lớn nhƣ vatgia.com,
enbac.com, chodientu.vn, muare.vn… đã thu hút đông đảo thành viên tham
gia giao dịch. Theo số liệu của Cục TMĐT&CNTT (Bộ Công Thƣơng), trị giá
hàng hóa, dịch vụ tham gia giao dịch TMĐT đạt hơn 4 nghìn tỉ đồng (năm
2011) và gần 10 nghìn tỉ đồng (năm 2012). Tổng doanh thu các sàn giao dịch
TMĐT đạt 111 tỉ đồng (năm 2011) và gần 200 tỉ đồng (năm 2012). Đồng
thời, nhiều website kinh doanh theo mô hình này đã công bố những con số
khá ấn tƣợng. Nhƣ www.nhommua.com ƣớc doanh thu khoảng 20 tỷ
đồng/tháng với hơn 500 đối tác và trên 500.000 thành viên; hoishoping ƣớc
khoảng trên 6 tỷ đồng/tháng với hơn 100 đối tác, trên 100.000 thành viên;
www.muachung.vn tăng trƣởng 150% sau 6 tháng mở rộng tại thị trƣờng Hà
Nội (từ tháng 10/2010), đạt gần 72 tỷ đồng.
Tuy nhiên, thị trƣờng TMĐT Việt Nam vẫn đang chập chững nên loại
hình kinh doanh này vẫn còn gặp nhiều khó khăn:
Thứ nhất, ở Việt Nam, phần lớn các nhà cung cấp dịch vụ theo mô hình
Groupon đang chú trọng vào việc tăng trƣởng hàng hóa, dịch vụ khuyến mãi
56
và sử dụng phƣơng pháp giao hàng, thu tiền tại chỗ. Phƣơng pháp truyền
thống này có điểm hạn chế ở tính tiện lợi khi thanh toán và hoàn tiền, bên
cạnh đó, còn bị giới hạn về địa lý và làm tăng chi phí vận hành của nhà cung
cấp dịch vụ.
Thứ hai, mức độ uy tín của ngƣời bán tại Việt Nam chƣa cao nhƣ ở
Mỹ, châu Âu hoặc các quốc gia có nền TMĐT phát triển trong khu vực nhƣ
Nhật Bản, Hàn Quốc nên khi khách hàng sử dụng phiếu khuyến mãi, đặc biệt
ở mảng dịch vụ, họ thƣờng không đƣợc các nhân viên phục vụ chu đáo.
Không ít trƣờng hợp khách hàng than phiền về chất lƣợng phục vụ đối với các
dịch vụ đặt mua theo nhóm và điều này đã xảy ra ngay cả với các thƣơng
hiệu. Điểm khó nhất ở đây là các nhà cung cấp dịch vụ lại không thể đại diện
cho ngƣời bán để cam kết chất lƣợng.
Một khía cạnh cần lƣu ý khác là an toàn giao dịch. Đây là một vấn đề
chung của tất cả các mô hình Groupon trên thế giới chứ không chỉ riêng ở
Việt Nam. Với việc phát hành phiếu khuyến mãi do nhà cung cấp dịch vụ
đảm trách chứ không phải doanh nghiệp, nói chung sẽ khó khăn cho doanh
nghiệp khi xác thực phiếu khuyến mãi. Đề tài này đã đƣợc tranh luận nhiều ở
thị trƣờng Mỹ, có nhiều cách để tạo thành phiếu khuyến mãi giả trong trƣờng
hợp số seri là liên tục. Còn nếu số seri là ngẫu hứng thì doanh nghiệp sẽ mất
khá nhiều thời gian và công sức để có thể xác thực ngay lập tức với nhà cung
cấp dịch vụ khi họ nhận về phiếu khuyến mãi từ tay khách hàng. Khi khách
hàng đăng ký thông tin tại các trang web cung cấp dịch vụ thì thông tin này
phải đƣợc cam kết bảo mật tốt và không cung cấp ra ngoài cho các doanh
nghiệp đối tác của nhà cung cấp dịch vụ. Nếu không lƣu ý tốt việc này thì dễ
dẫn đến trƣờng hợp thông tin cá nhân của khách hàng (số điện thoại, địa chỉ
thƣ điện tử e-mail, địa chỉ liên lạc…) bị chia sẻ ra bên ngoài và khách sẽ phải
chịu những phiền toái nhƣ thƣ rác (spam mail), tin nhắn rác (spam SMS)...
57
Nhìn chung, dịch vụ hậu mãi, chăm sóc khách hàng của các doanh
nghiệp mua theo nhóm, mua chung còn thiếu chuyên nghiệp. Bên cạnh đó còn
rất nhiều những bất cập trong việc giải quyết, tháo gỡ những tranh chấp sau
bán hàng dần làm mất lòng tin từ phía ngƣời tiêu dùng. Điều này ảnh hƣởng
không nhỏ đến việc phát triển TMĐT tại Việt Nam hiện nay.
Bộ Công Thƣơng gần đây có đƣa ra các cảnh báo liên quan đến hình
thức TMĐT này nhƣng lại không có quy định ràng buộc, xử phạt chặt chẽ.
Kết quả là hàng loạt ngƣời phải gánh chịu hậu quả nhƣ mua phải hàng giả,
kém chất lƣợng. Trong khi đó, doanh nghiệp mở website TMĐT, doanh
nghiệp cung cấp hàng hóa qua hình thức mua chung thì chối bỏ hoặc đùn đẩy
trách nhiệm cho nhau, ngƣời dân vẫn là ngƣời phải chịu thiệt.
2.2.2. Lợi dụng Thương mại điện tử để bán hàng đa cấp và những vụ
lừa đảo như MB24
Hình thức kinh doanh đa cấp đã và đang gây nhiều tranh cãi trong xã
hội. Đây thực chất là một phƣơng thức tiếp thị sản phẩm đòi hỏi sự khôn khéo
của ngƣời tham gia để có thể liên tục mời thêm nhiều ngƣời. Họ có thể trực
tiếp đến mua hàng tại công ty (hoặc qua một nhà phân phối duy nhất) mà
không phải thông qua các đại lý hay cửa hàng bán lẻ. Nhờ vậy, hình thức này
tiết kiệm rất nhiều chi phí từ tiền sân bãi, kho chứa, vận chuyển hàng hóa,
khuyến mại, quảng cáo và các chƣơng trình tiếp thị khác. Số tiền này thay vào
đó, đƣợc dùng để trả thƣởng cho nhà phân phối và nâng cấp, cải tiến sản
phẩm.
Ở Việt Nam, số lƣợng doanh nghiệp bán hàng đa cấp đang tăng mạnh
trong thời gian gần đây. Đặc biệt, vào năm 2011, con số này đã lên đến hơn
một triệu doanh nghiệp kinh doanh đa cấp dƣới nhiều hình thức khác nhau.
58
Hình 2.7: Số lƣợng ngƣời tham gia bán hàng đa cấp tăng mạnh
Nguồn: Cục Quản lý cạnh tranh
Tuy nhiên, vấn đề nổi cộm hiện nay là một số doanh nghiệp lợi dụng
danh nghĩa TMĐT để thực hiện kinh doanh đa cấp bất chính, bán hàng đa cấp
không đăng ký với cơ quan chức năng, vi phạm về ghi nhãn hàng hóa, vi
phạm về quảng cáo sản phẩm, thực hiện không đúng chƣơng trình trả thƣởng
cho ngƣời tham gia nhƣ đã đăng ký với cơ quan có thẩm quyền… Một số
doanh nghiệp không đăng ký tổ chức bán hàng đa cấp nhƣng lại áp dụng
phƣơng thức kinh doanh này trong lĩnh vực dịch vụ, kết hợp với hình thức
TMĐT thông qua các website, rao bán các “gian hàng ảo”, bán sim điện thoại
và dịch vụ nạp tiền điện thoại, kinh doanh dịch vụ du lịch… nhƣng áp dụng
kế hoạch trả lƣơng theo mô hình đa cấp mà điển hình là vụ việc liên quan đến
Muaban24. Cách thức hoạt động điển hình của doanh nghiệp này là thiết lập
một website cung cấp dịch vụ sàn giao dịch TMĐT, trên đó cho phép những
thành viên đã nộp tiền đƣợc mở một gian hàng ảo để giới thiệu, quảng bá sản
phẩm hàng hóa, dịch vụ. Sau khi đóng một khoản phí ban đầu thì bên cạnh
việc đƣợc mở gian hàng ảo trên website, mỗi thành viên đƣợc thêm quyền lợi
là giới thiệu những ngƣời khác tham gia mua gian hàng ảo và hƣởng hoa hồng
59
vài chục phần trăm cho mỗi hợp đồng mà mình giới thiệu, nhờ tổng số tiền
hoa hồng một ngƣời có thể đƣợc hƣởng lên đến vài trăm triệu đồng. Do mức
hoa hồng hấp dẫn và cơ chế phân chia hoa hồng đa cấp, phần lớn những
ngƣời nộp phí mua gian hàng ảo trên website đều hƣớng tới mục tiêu thu lợi
nhuận từ hoạt động giới thiệu, lôi kéo ngƣời khác tham gia thay vì tiến hành
kinh doanh trên những gian hàng này.
Sở dĩ các hoạt động bán hàng đa cấp, giả danh TMĐT nhƣ Muaban24
có thể tồn tại, lừa đảo, chiếm đoạt tiền của nhiều ngƣời là do các đối tƣợng
xấu đã lợi dụng nhiều kẽ hở về quản lý Nhà nƣớc trong lĩnh vực này. Tuy
chƣa đƣợc cơ quan chức năng cấp phép giao dịch TMĐT nhƣng nhiều doanh
nghiệp vẫn treo băng rôn, quảng cáo là sàn giao dịch TMĐT mà không hề bị
cơ quan chức năng kiểm tra, xử lý. Ngoài ra, trong Nghị định 57⁄CP về
TMĐT cũng không có quy định về việc bán hàng đa cấp trong TMĐT. Từ đó,
Muaban24 đã lợi dụng kẽ hở này để lừa đảo, chiếm đoạt hàng trăm tỉ đồng
của nhiều ngƣời.
Cũng chiêu thức lừa đảo qua hình thức lập các trang mạng và gian
hàng ảo, Công ty Cổ phần tƣ vấn và đầu tƣ công nghệ Thăng Long đã tổ chức
nhiều chƣơng trình hội thảo để giới thiệu thanh thế công ty. Trong đó có
chƣơng trình TMĐT Vico24, chƣơng trình du lịch Vico Travel (Vicobuy).
Ngoài việc “tâng bốc” về công ty, các nhân viên của công ty này còn đƣa ra
hàng loạt các văn bản pháp lý để dẫn dụ ngƣời tham gia. Trƣớc đó, nhân viên
của công ty giới thiệu khi tham gia làm thành viên của hệ thống thì sẽ đƣợc
hƣởng các quyền lợi nhƣ: học vi tính miễn phí, đƣợc đào tạo tại chỗ và trực
tuyến về TMĐT và các chƣơng trình học tập khác nhằm nâng cao dân trí,
trình độ trong quá trình hội nhập. Ngoài ra, thành viên còn đƣợc mua hàng giá
rẻ hơn giá thị trƣờng tại các siêu thị liên kết Vico Mark của công ty này và
nhiều quyền lợi khác…
60
Cũng tƣơng tự nhƣ vậy, công ty Tâm Mặt Trời cũng là một trong
những “tập đoàn đa cấp” hoạt động tƣơng tự nhƣ mô hình của Muaban24.
Công ty Cộng Đồng Việt hoạt động với hình thức tinh vi hơn là huy
động vốn qua mạng internet quy định ngƣời góp vốn dƣới dạng “mã” (1,8
triệu đồng/mã), ít nhất phải đầu tƣ 3 “mã” (tức 5,4 triệu đồng). Khi thành viên
tham gia 3 “mã” lôi kéo thêm 4 “mã” nữa (tức 7 “mã” là 12,6 triệu đồng) thì
ngƣời có công tạo hệ thống đƣợc thƣởng 2 triệu đồng, gọi là thƣởng bậc 1.
Khi hệ thống ngƣời đó tạo lập đƣợc 49 “mã” (tức 88,2 triệu đồng) thì ngƣời
đứng đầu hệ thống đƣợc thƣởng bậc 2, với số tiền hàng chục triệu đồng.
Ngoài ra, những ngƣời tạo lập các nhánh góp vốn đƣợc hứa hẹn sẽ đƣợc
thƣởng nhiều phần thƣởng có giá trị nhƣ: điện thoại xịn, iPad, xe gắn máy tay
ga, xe ô tô du lịch đắt tiền…Để tạo lòng tin từ những ngƣời tham gia vào hệ
thống, công ty Cộng Đồng Việt dùng chiêu, khi ngƣời nào vừa đóng tiền tham
gia trong vòng 3 ngày sẽ đƣợc trả liền 1/3 số tiền đã đóng góp và tiền đƣợc
nhận đƣợc gọi là tiền lãi. Đánh trúng tâm lý ham lợi nhuận cao, hàng trăm
nghìn ngƣời khắp cả nƣớc đã bị lừa đảo, nhiều ngƣời tranh thủ đóng càng
nhiều tiền càng tốt, lôi kéo thêm nhiều ngƣời thì càng đƣợc thƣởng, số nạn
nhân cứ nhƣ thế đƣợc nhân lên theo cấp số nhân, ngƣời ít cũng vài trăm triệu
đồng, ngƣời nhiều thì lên đến vài tỷ đồng. Tuy nhiên khi ngƣời tham gia vào
chỉ nhân đƣợc mức lãi suất tƣợng trƣng ban đầu, sau đó thì không ai nhận
đƣợc bất kỳ khoản gì nữa dù gốc hay lãi.
Nhƣ vậy, hoạt động lừa đảo của các tập đoàn đa cấp nhƣ Muaban24,
Tâm Mặt Trời, Cộng Đồng Việt … với những thủ đoạn hết sức tinh vi, các
nạn nhân khi biết mình bị ''sập bẫy lừa'' thì đã quá muộn. Đây là những vụ án
lừa đảo xảy ra trong thời gian dài với số tài sản chiếm đoạt rất lớn, rất nhiều
ngƣời trên khắp cả nƣớc trở thành nạn nhân, hệ lụy của nó là không hề nhỏ.
61
Không chỉ gây ra tổn thất về mặt vật chất mà nó còn làm tổn hại nghiêm trọng
đến niềm tin của ngƣời tiêu dùng vào TMĐT.
2.2.3. Bán hàng giả, kém chất lượng
Theo điều tra của Cục TMĐT & CNTT – Bộ Công thƣơng, trở ngại lớn
nhất của ngƣời tiêu dùng khi mua sắm trực tuyến là do sản phẩm kém chất
lƣợng so với quảng cáo (77%).
77 % Sản phẩm kém chất lƣợng so với quảng cáo
40 % Giá cả (không thấp hơn mua trực tiếp/ không rõ ràng…)
38 % Dịch vụ vận chuyển và giao nhận còn yếu
Lo ngại thông tin bị tiết lộ 31 %
Cách thức đặt hàng quá rắc rối 29 %
20 % Website thiết kế chƣa chuyên nghiệp
Khác 2%
Hình 2.8 : Những trở ngại khi mua sắm trực tuyến
Nguồn: Khảo sát của Cục TMĐT&CNTT năm 2013
62
Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là do hạn chế của
TMĐT, ngƣời mua không đƣợc trực tiếp tiếp xúc với ngƣời bán và hàng hóa.
Do đó, mọi niềm tin đều đặt vào những dòng quảng cáo ngắn ngủi trên các
phƣơng tiện điện tử, mà phần nhiều những quảng cáo này đều “quá lời”.
Hơn nữa, vấn đề hàng cấm, hàng giả, hàng nhái vẫn thƣờng xuyên xuất
hiện trên các website TMĐT. Cụ thể, các đối tƣợng rao bán hàng hóa trên
mạng với nhiều chiêu thức khác nhau: giá rẻ, mẫu mã đẹp… nhƣng khi giao
hàng không đúng chất lƣợng, thời hạn nhƣ khi giao bán. Vì ham hàng giá rẻ
nên đã có hàng trăm ngƣời chuyển tiền vào tài khoản của các đối tƣợng để
mua hàng. Tƣởng sẽ mua đƣợc hàng tốt, nhƣng tất cả các khách hàng đều
nhận đƣợc hàng Trung Quốc cũ, hƣ hỏng, những thứ đồ chơi không thể sử
dụng đƣợc…
Trong khi đó, thực tế là khách hàng mua hàng thì dễ, đổi (trả) hàng vô
cùng khó. Hành lang pháp lý để xử lý vấn đề này cũng chƣa chặt chẽ. Đáng
lẽ, bối cảnh khó khăn là cơ hội tốt cho TMĐT nhƣng những yếu tố này là rào
cản cho sự phát triển của TMĐT tại Việt Nam. Cuộc chạy đua giữa ngƣời tiêu
dùng và kẻ lừa đảo sẽ không bao giờ có hồi kết nếu không có bàn tay can
thiệp mạnh hơn nữa của Nhà nƣớc. Bảo vệ ngƣời tiêu dùng trong giao dịch
điện tử là vấn đề bức thiết, bởi nếu để ngƣời dân quay lƣng lại với TMĐT thì
Việt Nam đi ngƣợc lại với xu thế của thế giới.
2.2.4. Rao bán bằng cấp, chứng chỉ giả trên mạng
Hiện nay, việc rao bán bằng giả đƣợc thực hiện công khai trên nhiều
trang mạng. Chỉ cần tìm cụm "làm bằng đại học giả", trong vòng 0,16 giây sẽ
cho ra một số lƣợng kết quả rất lớn với 9.800.000 kết quả. Chỉ với giá từ 6
đến 7 triệu đồng, ngƣời có nhu cầu sẽ có ngay đƣợc "tấm bằng đại học" danh
tiếng mà không cần mất chi phí học hành, thời gian công sức miệt mài trên
giảng đƣờng các trƣờng đại học, cao đẳng.
63
Trang mạng khá lớn là "lambanggiare.com", giá quảng cáo của các loại
bằng giả nhƣ sau:
Hình 2.9 : Quảng cáo bằng giả công khai trên mạng
Thực tế cho thấy, hiện nhiều ngƣời vì công cuộc mƣu sinh đã "đi tắt
đón đầu", dùng tiền thay cho thời gian, công sức học tập để có đƣợc tấm bằng
đại học với mục tiêu tìm kiếm một công việc, hoặc để thăng chức.
Việc sử dụng bằng cấp giả không chỉ gây hậu quả khôn lƣờng cho
ngƣời sử dụng mà còn là tác nhân kìm hãm sự phát triển của xã hội và gây
họa cho nhiều ngƣời. Điều quan trọng là việc làm sai trái này lại đƣợc “bày
bán” ngang nhiên trên những trang mạng điện tử. Nó có ảnh hƣởng không
nhỏ tới việc phát triển TMĐT, đồng thời, gây mất niềm tin của nhân dân vào
sự minh bạch trong hoạt động kinh doanh TMĐT vốn đang phát triển rất yếu
ớt tại Việt Nam.
64
2.3. Ảnh hƣởng của những trở ngại trên đối với phát triển TMĐT và
phát triển KT-XH nói chung
2.3.1. Thiệt hại về mặt kinh tế
Là một ngành có tiềm năng lớn, nhƣng chính các doanh nghiệp hoạt
động trong lĩnh vực TMĐT lại tự làm khó mình khi hoạt động thiếu minh
bạch, thậm chí có các hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng gây tổn thất rất
lớn không chỉ của riêng cá nhân ngƣời tiêu dùng và các doanh nghiệp kinh
doanh TMĐT mà còn gây tổn thất về kinh tế cho toàn xã hội. Thống kê trong
vòng 5 năm trở lại đây đã xuất hiện hàng chục vụ lừa đảo qua mạng làm thiệt
hại hàng trăm tỷ đồng với số lƣợng ngƣời “sập bẫy gian hàng ảo” lên đến
hàng trăm ngàn ngƣời, thậm chí có ngƣời chƣa biết khởi động máy tính
nhƣng cũng trở thành nạn nhân.
Vi phạm điển hình gần đây là vụ lừa đảo của Công ty Cổ phần Đào tạo
Mua bán trực tuyến MB24. Cơ quan điều tra đã tạm giam các lãnh đạo Công
ty Cổ phần Đào tạo Mua bán trực tuyến về hành vi sử dụng mạng máy tính,
mạng viễn thông, mạng internet, thiết bị số để chiếm đoạt tài sản. Lực lƣợng
chức năng đã thống kê sơ bộ hệ thống Muaban24 đã thu đƣợc hơn 600 tỉ đồng
do hơn 50 nghìn ngƣời “đầu tƣ” vào mua hơn 118 nghìn gian hàng ảo.
Vụ lừa đảo trên trang web Vico24.com của Công ty Cổ phần tƣ vấn và
đầu tƣ công nghệ Thăng Long. Từ khi thành lập, công ty này đã bán đƣợc 4
nghìn gian hàng ảo, thu về số tiền hơn 6 tỉ đồng và bán 300 thẻ thành viên
chƣơng trình du lịch thu số tiền 2 tỉ đồng. Trong vụ việc này có tới 10.000
nạn nhân, thiệt hại 8 tỷ đồng.
Về vụ công ty đa cấp Tâm Mặt Trời, theo thống kê sơ bộ của công an,
số nạn nhân của công ty Tâm Mặt Trời đã lên đến 40 ngàn ngƣời, số tiền họ
bị chiếm đoạt lên đến 130 tỷ đồng.
65
Bên cạnh đó, công ty Cổ phần đầu tƣ thƣơng mại dịch vụ Cộng Đồng
Việt có mạng lƣới vƣơn ra nhiều tỉnh thành khắp cả nƣớc. Số nạn nhân bị
công ty này lừa đảo chiếm đoạt tài sản lên đến gần một trăm ngàn ngƣời với
số tiền chiếm đoạt hơn 400 tỉ đồng.
Đây đều mới chỉ là những ví dụ điển hình các doanh nghiệp lợi dụng
danh nghĩa TMĐT để thu lợi từ việc lôi kéo ngƣời tham gia website, trong khi
không tập trung nâng cao chất lƣợng thông tin trên website, làm tổn hại tới
lòng tin của cộng đồng, gây thiệt hại nghiêm trọng về mặt kinh tế và cản trở
sự phát triển của lĩnh vực TMĐT đang khá sôi động ở Việt Nam.
2.3.2. Làm mất lòng tin vào TMĐT và cản trở sự phát triển TMĐT
Trong xã hội ngày nay, chữ tín đã trở thành một phẩm chất không thể
thiếu trong quan hệ giữa ngƣời với ngƣời. Chữ tín luôn đóng vai trò quyết
định tới sự thành bại của bất kỳ hoạt động kinh doanh nào. Kinh doanh
TMĐT với các đặc thù riêng nhƣ giao dịch mua bán đƣợc tiến hành trực
tuyến, sự tham gia của nhiều thành phần trong một hoạt động giao dịch
(ngƣời mua, nhà cung cấp sản phẩm, đơn vị sở hữu sàn giao dịch, trung gian
thanh toán, trung gian vận chuyển…) thì chữ tín lại càng trở nên cần thiết.
Để giữ đƣợc chữ tín trong hoạt động thƣơng mại truyền thống đã rất
khó, giữ chữ tín trong môi trƣờng kinh doanh “ảo” nhƣ TMĐT lại là vấn đề
nan giải hơn rất nhiều. Trên thế giới, một trong những yếu tố mang đến thành
công cho Amazon hay Ebay, Alibaba.v.v là nhờ họ biết tạo dựng đƣợc niềm
tin nơi khách hàng với các chính sách chặt chẽ bảo vệ cả ngƣời bán và ngƣời
mua khi tham gia các giao dịch điện tử. Còn tại Việt Nam, mặc dù số lƣợng
các đơn vị, cá nhân tham gia kinh doanh trực tuyến đang tăng lên theo từng
ngày nhƣng có rất ít đơn vị có thể đảm bảo đƣợc an toàn, tạo đƣợc niềm tin
cho ngƣời tiêu dùng.
66
Hiện tại ở Việt Nam, có thể liệt kê một vài hệ thống có thể có chữ tín
nhƣ vatgia.com, 5giay.vn, muare.vn, nhommua.com, enbac.com,
chodientu.vn .v.v. Tuy nhiên, bản chất của các sàn C2C là chỉ có tính chất làm
cầu nối giữa ngƣời mua và ngƣời bán, thế nên các giao dịch chỉ mang tính cá
nhân, không đủ ràng buộc về mặt pháp lý và tạo nhiều kẽ hở cho các doanh
nghiệp làm ăn bất chính, nhiều đối tƣợng xấu lợi dụng việc mua bán không
gặp mặt để thực hiện các hành vi lừa đảo. Phổ biến nhất vẫn là lợi dụng việc
mua bán chỉ bằng niềm tin để lừa đảo “chuyển tiền không giao hàng” hay
chuyển hàng nhái, hàng giả, không đúng mô tả… Các sản phẩm, dịch vụ mà
ngƣời tiêu dùng xem xét và chấp nhận đặt mua trên website TMĐT có thể
không hoàn toàn giống với sản phẩm thực tế họ nhận đƣợc, bằng các chiêu
thức rất tinh vi nhƣ tạo tình huống giả hay lập hẳn một website có địa chỉ,
thông tin rõ ràng nhƣng thực chất lại chỉ là những địa chỉ ảo…, điều này rất
dễ gây mất niềm tin cho ngƣời tiêu dùng.
Bên cạnh đó, giá cả của hàng hóa, dịch vụ trong lĩnh vực kinh doanh
TMĐT cũng không tạo đƣợc niềm tin nơi khách hàng. Cụ thể, trong giao dịch
điện tử, khách hàng luôn phải tuân theo các hợp đồng mà mình hoàn toàn
không có quyền thƣơng lƣợng, trong đó giá cả có thể bị đội lên nhiều lần so
với giá thực tế trên thị trƣờng, sau đó sử dụng chiêu thức giảm giá, khuyến
mại để thu hút ngƣời tiêu dùng. Việc thanh toán thực tuyến cũng khó khăn khi
phần lớn ngƣời tiêu dùng vẫn chƣa có thói quen thanh toán qua thẻ, và chế độ
bảo mật thẻ cũng không đƣợc các doanh nghiệp chú trọng.
Về vấn đề thông tin cá nhân, rất nhiều ngƣời tiêu dùng bức xúc khi tên
tuổi, số điện thoại, địa chỉ của họ có thể bị các doanh nghiệp sử dụng phƣơng
thức TMĐT cung cấp cho bên thứ ba, gây ảnh hƣởng đến sự an toàn và bảo
mật thông tin của khách hàng. Nghiên cứu gần đây của hãng nghiên cứu thị
trƣờng Cimigo về thị trƣờng TMĐT Việt Nam cho thấy, chỉ 13% khách hàng
67
cảm thấy mua sản phẩm trên mạng là an toàn. Đây là một con số quá nhỏ bé
so với tiềm năng phát triển của thị trƣờng TMĐT Việt Nam.
Bên cạnh đó, những vụ lừa đảo bán hàng qua mạng có giá trị lớn, lên
tới vài trăm triệu đồng nhƣ vụ MB24, Tâm Mặt Trời, Cộng đồng Việt…. và
còn rất nhiều vụ lừa đảo nhỏ từ vài trăm đến vài triệu đồng mà ngƣời mua
không biết kêu ai hoặc không ai đứng ra bảo vệ quyền lợi của họ nên khách
hàng đành “ngậm ngùi” chấp nhận mất tiền chiếm đến 90% các vụ lừa đảo
trực tuyến trên internet. Những trƣờng hợp “con sâu làm rầu nồi canh” nhƣ
thế này sẽ làm ảnh hƣởng xấu đến nền TMĐT của Việt Nam, ảnh hƣởng xấu
đến các doanh nghiệp bán hàng chân chính và ảnh hƣởng đến niềm tin của
ngƣời tiêu dùng với TMĐT.
Hơn nữa, không chỉ ngƣời mua mà ngay những ngƣời bán hàng trong
kinh doanh TMĐT cũng có thể dễ dàng bị lừa nếu không cảnh giác. Có rất
nhiều trƣờng hợp ngƣời tiêu dùng gọi điện đến mua hàng nhƣng khi nhân viên
đến giao hàng lại không có địa chỉ nhƣ trong đơn hàng. Điều này gây lãng phí
cho nhiều ngƣời và cản trở sự phát triển lành mạnh của TMĐT.
Nhƣ vậy, vấn đề giữ chữ “Tín” trong kinh doanh TMĐT đã trở thành
vấn đề mấu chốt dẫn tới sự thành công của các doanh nghiệp. TMĐT tại Việt
Nam không còn trẻ nữa, nhƣng có lẽ vẫn còn chƣa hết non trong những năm
tới nếu thiếu niềm tin của ngƣời tiêu dùng.
68
CHƢƠNG 3: GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC TRỞ NGẠI ĐỂ PHÁT TRIỂN
THƢƠNG MẠI ĐIỆN TỬ LÀNH MẠNH
3.1. Phƣơng hƣớng phát triển TMĐT của Việt Nam đến năm 2020
Việc ứng dụng TMĐT sẽ làm thay đổi các hình thái hoạt động kinh tế
trong tƣơng lai và sẽ trở thành phƣơng thức kinh doanh chủ yếu vì nó đáp ứng
đƣợc những yêu cầu đặt ra cho một nền kinh tế hội nhập.
Nhận thức đƣợc tầm quan trọng và tính tất yếu phải phát triển TMĐT ở
Việt Nam, Đảng và Nhà nƣớc ta đã rất quan tâm đến lĩnh vực này. Ngày 11
tháng 05 năm 2014 Thủ tƣớng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 689/QĐ-
TTg “Phê duyệt Chƣơng trình phát triển thƣơng mại điện tử quốc gia giai
đoạn 2014 - 2020”, xây dựng các hạ tầng cơ bản và triển khai các giải pháp,
hoạt động hỗ trợ phát triển lĩnh vực TMĐT ở Việt Nam, đƣa TMĐT trở thành
hoạt động phổ biến, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, thúc
đẩy quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nƣớc. Mục tiêu cụ thể nhƣ
sau:
3.1.1. Mục tiêu phát triển TMĐT quốc gia đến năm 2020
3.1.1.1. Về kết cấu hạ tầng TMĐT
- Xây dựng đƣợc hệ thống thanh toán TMĐT quốc gia để sử dụng rộng
rãi cho các mô hình TMĐT; đặc biệt là loại hình TMĐT doanh nghiệp –
ngƣời tiêu dùng (B2C);
- Thẻ thanh toán đƣợc sử dụng rộng rãi để giảm tỷ lệ sử dụng tiền mặt;
- Áp dụng phổ biến chứng thực chữ ký số để đảm bảo an toàn, bảo mật
cho các giao dịch TMĐT;
- Các tiêu chuẩn trao đổi thông điệp dữ liệu đƣợc sử dụng rộng rãi cho
các mô hình TMĐT loại hình doanh nghiệp – doanh nghiệp (B2B).
3.1.1.2. Về môi trường ứng dụng TMĐT
69
- Mua sắm trực tuyến trở thành hình thức mua hàng phổ biến của ngƣời
tiêu dùng;
- Doanh nghiệp ứng dụng rộng rãi các loại hình TMĐT nhƣ doanh
nghiệp – doanh nghiệp (B2B), doanh nghiệp – ngƣời tiêu dùng (B2C), doanh
nghiệp – chính phủ (B2G) trong hoạt động kinh doanh, xuất nhập khẩu.
3.1.1.3. Về nguồn nhân lực TMĐT
- 50.000 lƣợt doanh nghiệp, cán bộ quản lý nhà nƣớc đƣợc tham dự
khóa đào tạo ngắn hạn về TMĐT;
- 10.000 sinh viên đƣợc đào tạo về chuyên ngành TMĐT, đáp ứng đƣợc
nhu cầu triển khai ứng dụng TMĐT cho doanh nghiệp.
3.1.2. Định hướng phát triển
Để đạt đƣợc mục tiêu trên, Việt Nam phải xác định rõ hƣớng đi cho
mình. Trong đó cần chú ý đến các vấn đề nhƣ sau:
- Ứng dụng rộng rãi CNTT – TT là yếu tố có ý nghĩa chiến lƣợc để
thực hiện mục tiêu thiên niên kỷ, hình thành xã hội thông tin, rút ngắn quá
trình CNH – HĐH đất nƣớc, góp phần tăng trƣởng kinh tế, phát triển xã hội.
Ứng dụng CNTT – TT phải gắn với quá trình đổi mới và bám sát mục tiêu
phát triển kinh tế xã hội, phải đƣợc lồng ghép trong các chƣơg trình, hoạt
động chính trị, quản lý, kinh tế, xã hội, văn hóa, khoa học công nghệ và an
ninh quốc phòng.
- Phát triển nguồn nhân lực TMĐT là yếu tố then chốt và có ý nghĩa
quyết định đối với sự phát triển của TMĐT nói chung và đối với việc phát
triển và ứng dụng CNTT – TT nói riêng. Phát triển nguồn nhân lực TMĐT
phải đảm bảo chất lƣợng đồng bộ, chuyển dịch nhanh về cơ cấu theo hƣớng
tăng nhanh tỷ lệ nguồn nhân lực có chất lƣợng cao, nâng cao năng lực CNTT
– TT quốc gia.
70
- Ứng dụng TMĐT ở Việt Nam cần theo hƣớng xã hội hóa, tạo mọi
điều kiện cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế và cá nhân tham
gia, trong đó các doanh nghiệp nhà nƣớc phải giữ vai trò đi tiên phong.
- Ứng dụng TMĐT vào Việt Nam cần định hƣớng vào thị trƣờng thông
qua việc tạo lập đƣợc môi trƣờng pháp lý mềm dẻo, thuận lợi.
3.1.3. Phương hướng triển khai
- Ứng dụng TMĐT trong mọi lĩnh vực, khai thác có hiệu quả thông tin
và tri thức trong tất cả các ngành. Xây dựng và phát triển một xã hội với công
dân điện tử, Chính phủ điện tử, doanh nghiệp điện tử. Hình thành nên xã hội
thông tin.
- Phổ cập kiến thức, tuyên truyền nhận thức đúng về TMĐT trƣớc tiên
là cho các doanh nghiệp và cơ quan chính phủ.
- Xây dựng đƣợc hạ tầng CNTT tiên tiến sẵn sàng cho mọi giao dịch
trong nƣớc và quốc tế.
- Củng cố và hoàn thiện hành lang pháp lý làm cơ sở điều chỉnh hoạt
động TMĐT.
- Phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật cho hệ thống thanh toán điện tử, đảm
bảo khả năng phát triển nhanh chóng của giao dịch TMĐT trên mạng.
- Tăng cƣờng áp dụng các sản phẩm mật mã trong ứng dụng TMĐT,
đặc biệt chú trọng phát triển hạ tầng mã khóa công khai.
- Mở rộng các hình thức giao dịch của TMĐT cho các doanh nghiệp
(kể cả doanh nghiệp nhà nƣớc và tƣ nhân), các giao dịch bao gồm từ việc
chào hàng, đàm phán, ký kết hợp đồng đến việc thanh toán qua mạng, …
- Áp dụng chính sách thuế trong TMĐT.
- Thiết lập hệ thống tiêu chuẩn công nghiệp và thƣơng mại quốc gia
phù hợp với sự phát triển của TMĐT.
71
- Tích cực, chủ động tiến hành từng bƣớc, vừa làm vừa tiếp thu kinh
nghiệm, từ phạm vi hẹp rồi mở rộng dần.
- Tích cực tham gia hợp tác quốc tế tranh thủ sự giúp đỡ về kỹ thuật,
đào tạo nguồn nhân lực và nguồn kinh phí cho phát triển TMĐT.
Trên cơ sở những quan điểm và định hƣớng chung của Chính phủ, mỗi
cơ quan, doanh nghiệp, cá nhân cần phải coi ứng dụng TMĐT là giải pháp
quan trọng để phát triển các hình thức trao đổi thƣơng mại trong giai đoạn
bùng nổ thông tin nhƣ hiện nay.
3.2. Nhóm giải pháp chủ yếu hỗ trợ cho TMĐT
3.2.1. Tuyên truyền, phổ biến và đào tạo nguồn nhân lực cho TMĐT
Là ngành mũi nhọn của kinh tế tri thức, sự phát triển của CNTT và
TMĐT phụ thuộc rất nhiều vào công tác đào tạo nguồn nhân lực đặc biệt là
nhân lực trình độ cao. Để đáp ứng yêu cầu về nhân lực trình độ cao cho
TMĐT, cần phải tiến hành đồng bộ các nhóm giải pháp nhƣ sau:
3.2.1.1. Công tác tuyên truyền, phổ biến và giáo dục về TMĐT vẫn
được coi là biện pháp hàng đầu để phát triển TMĐT ở Việt Nam.
Trong nhiều năm qua, hoạt động tuyên truyền về TMĐT đã đƣợc các
cơ quan quản lý nhà nƣớc, cơ quan thông tin đại chúng và nhiều doanh nghiệp
hết sức quan tâm. Đến nay, nhận thức của doanh nghiệp và ngƣời tiêu dùng
về lợi ích của TMĐT đã có những dấu hiệu đáng mừng. Tuy nhiên, trong thời
gian tới, hoạt động tuyên truyền cần phải tập trung sâu hơn nữa vào các nội
dung cụ thể nhƣ: giới thiệu các mô hình ứng dụng TMĐT hiệu quả; đảm bảo
an toàn an ninh trong giao dịch TMĐT; bảo vệ thông tin cá nhân; lợi ích của
mua sắm qua mạng và thanh toán điện tử. Bên cạnh đó, cần phải coi hoạt
động phổ biến, tuyên truyền về TMĐT là một loại hình dịch vụ công mà Nhà
nƣớc cần đứng ra đảm nhiệm chứ không phải là hoạt động riêng của các
doanh nghiệp kinh doanh TMĐT nhƣ trƣớc đây.
72
Việc tuyên truyền, phổ biến về TMĐT cần đƣợc tiến hành nhƣ sau:
Thứ nhất, phổ biến, tuyên truyền trƣớc hết cần tập trung vào những lĩnh
vực kinh doanh thuận lợi cho phát triển TMĐT nhƣ: dịch vụ du lịch, tài chính,
vận tải, giải trí, việc phân phối và cung ứng thiết bị CNTT và truyền thông.
Thứ hai, phổ biến, tuyên truyền cho các cán bộ lãnh đạo doanh nghiệp
nhất là doanh nghiệp nhà nƣớc và các tổng công ty nhà nƣớc. Cho họ thấy lợi
ích của TMĐT và tiến hành triển khai ứng dụng TMĐT tại đơn vị mình.
Thứ ba, phổ biến, tuyên truyền cho cán bộ lãnh đạo các cấp, các nhà
hoạch định chính sách, những ngƣời đóng vai trò quan trọng trong việc xây
dựng chính sách và thực thi pháp luật liên quan đến TMĐT. Cần tuyên truyền
cho họ về lợi ích và những rủi ro trong hoạt động TMĐT để từ đó đƣa ra
những chính sách điều tiết phù hợp cho sự phát triển lành mạnh của TMĐT.
Thứ tƣ, tuyên truyền, phổ biến sâu rộng lợi ích của TMĐT tới ngƣời
tiêu dùng thông qua các phƣơng tiện thông tin đại chúng nhằm thay đổi thói
quen, tập quán mua sắm trực tiếp tại các siêu thị, các chợ gần nhà thành thói
quen mua sắm qua mạng.
3.2.1.2. Đào tạo chính quy về TMĐT
Cùng với đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến những kiến thức về TMĐT,
cần thúc đẩy đào tạo nguồn nhân lực TMĐT đi vào chiều sâu. Nguồn nhân
lực về TMĐT đƣợc đào tạo chính quy ngay từ đầu vẫn là yếu tố cơ bản, là
nòng cốt quyết định sự phát triển của TMĐT. Bên cạnh các Bộ, ngành liên
quan, Bộ Giáo dục và Đào tạo đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng
các chƣơng trình khung về đào tạo TMĐT trong các trƣờng đại học, cao đẳng
và trung học chuyên nghiệp; xây dựng chính sách khuyến khích đào tạo chính
quy về TMĐT. Trong đó việc trƣớc mắt cần làm ngay là tăng cƣờng đào tạo
chính quy về TMĐT cho thế hệ trẻ Việt Nam thuộc tất cả các loại hình đào
tạo từ cấp trung học cho đến đại học và sau đại học.
73
Hơn nữa, ngành TMĐT là một ngành còn rất mới trong hệ thống giáo
dục của Việt Nam, để đầu tƣ phát triển nhân lực theo chiều sâu thì cần phải có
sự quan sát, học hỏi kinh nghiệm của một số nƣớc phát triển ngành TMĐT
nhƣ Mỹ, Australia, Canada, Singapore, Hàn Quốc và Thái Lan. Hầu hết các
quốc gia này đều đào tạo TMĐT ở cả trình độ Đại học và sau đại học. Tuy
nhiên, mỗi quốc gia lại tập trung đào tạo ở một trình độ nhất định nhƣ:
Canada tập trung đào tạo TMĐT ở các trƣờng Cao đẳng, Australia tập trung
đào tạo thạc sĩ quản trị kinh doanh chuyên ngành TMĐT…Những bài học
kinh nghiệm đƣợc rút ra qua quá trình khảo sát tình hình đào tạo của các nƣớc
có thể kể đến nhƣ sau:
Thứ nhất, do có nhiều chính sách ƣu đãi của Chính phủ và các Bộ,
ngành liên quan cho nên số lƣợng các trƣờng cao đẳng, đại học đào tạo
TMĐT và số sinh viên theo học chuyên ngành này có xu hƣớng tăng nhanh.
Thứ hai, các trƣờng đại học trên thế giới rất quan tâm, chú trọng đến
việc giảng dạy lý thuyết phải gắn với thực tiễn, tạo điều kiện cơ sở vật chất tốt
nhất cho sinh viên thực hành và tổ chức cho sinh viên tham dự nhiều buổi
thuyết trình của các doanh nghiệp thành công trong lĩnh vực TMĐT.
Thứ ba, Chính phủ đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ và thúc
đẩy TMĐT phát triển. Ở Hàn Quốc, Chính phủ đặt ra kế hoạch phát triển
nhân lực TMĐT, không những mở rộng và nâng cao chất lƣợng hệ thống kết
cấu hạ tầng cho việc đào tạo mà còn hỗ trợ các trƣờng xây dựng giáo trình
TMĐT và công nghệ thông tin; mở rộng đào tạo trực tuyến và tạo điều kiện
cho sinh viên du học ở nƣớc ngoài về lĩnh vực tin học. Chính phủ cũng đào
tạo tin học cho ngƣời dân, công chức, quân nhân và ngƣời làm việc nhà. Tại
Singapore, các dịch vụ của chính phủ điện tử đang đƣợc triển khai trực
tuyến. Trong khi Chính phủ Thái Lan thành lập Trung tâm nguồn lực
TMĐT thuộc Trung tâm công nghệ máy tính và điện tử quốc gia…
74
Thứ tƣ, Các trƣờng rất tích cực tổ chức các buổi hội thảo chuyên đề
TMĐT, đây là hoạt động cần thiết và phù hợp giúp các cơ sở đào tạo định
hƣớng chuyên môn và bắt kịp nhịp độ phát triển của công nghệ.
Về chƣơng trình đào tạo TMĐT, hầu hết các trƣờng đi theo hai hƣớng
tiếp cận chính là tiếp cận theo hƣớng CNTT và kinh tế-quản trị kinh
doanh. Nội dung đào tạo của mỗi chuyên ngành tập trung sâu vào hƣớng tiếp
cận của chuyên ngành đó. Hƣớng tiếp cận liên ngành rất tốt, nhƣng còn quá
mới cho nên chƣa đƣợc áp dụng phổ biến ở các nƣớc.
Kinh phí đầu tƣ cho đào tạo chuyên ngành TMĐT khá lớn, do đó mức
học phí của ngành học này thƣờng cao hơn so với các ngành học khác.
Các quốc gia đi sau cũng cần tích cực đào tạo liên kết với các quốc
gia đi đầu trong lĩnh vực TMĐT nhƣ Canada, Hoa Kỳ…Đồng thời cử sinh
viên du học nƣớc ngoài ở trình độ thạc sĩ và tiến sĩ nhằm nâng cao năng lực
cũng nhƣ bổ sung thêm giảng viên đào tạo TMĐT trong nƣớc.
Đây là những bài học kinh nghiệm quý báu trong việc đào tạo nguồn
nhân lực TMĐT Việt Nam hiện nay.
Bên cạnh đó, trong thời gian tới cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa Bộ
Giáo dục & Đào tạo và Bộ Công thƣơng trong việc dự báo nhu cầu nguồn
nhân lực cũng nhƣ đánh giá chất lƣợng đào tạo TMĐT để có những biện pháp
kịp thời thúc đẩy hoạt động này đi vào chiều sâu, đáp ứng nhu cầu ngày càng
tăng về nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn cao, phù hợp với yêu cầu của
thực tiễn.
3.2.2. Hoàn thiện kết cấu hạ tầng
Kết cấu hạ tầng công CNTT, công nghệ viễn thông và mạng Internet là
ba điều kiện tiên quyết bảo đảm các dịch vụ thích hợp để phát triển TMĐT.
Hạ tầng CNTT đƣợc các nƣớc trong khối ASEAN coi nhƣ một trong
những nguyên tắc chỉ đạo hành động trong lĩnh vực TMĐT. Tuy nhiên ở Việt
75
Nam hiện nay hạ tầng CNTT cho TMĐT vẫn rất cần đƣợc đầu tƣ và mở rộng
hơn nữa, nhất là ở các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, dân tộc thiểu số.
Mặc dù vậy nhƣng thực tế cho thấy việc đầu tƣ vào toàn bộ kết cấu hạ tầng
cho TMĐT là rất tốn kém và yêu cầu phải đồng bộ, không thể tiến hành riêng
lẻ. Trong khi ngân sách hạn hẹp mà tất cả các lĩnh vực đều có nhu cầu đầu tƣ
thì riêng với hạ tầng CNTT cần phải xây dựng những hạng mục ƣu tiên trƣớc.
Trƣớc mắt, đầu tƣ cho CNTT cần đầu tƣ phát triển công nghệ phần mềm, coi
đây là đòn bẩy để phát triển nội lực trong nƣớc, tạo đà tăng trƣởng cho CNTT
và TMĐT. Sau đó tập trung nghiên cứu, chế tạo phần cứng cho tƣơng xứng
với nhu cầu phát triển. Bên cạnh đó, cũng cần tập trung vào phát triển công
nghệ kỹ thuật ứng dụng trong chữ ký số và chứng thực chữ ký số.
Để phát triển TMĐT, cần xây dựng hạ tầng CNTT đạt tiêu chuẩn từ
DN tới các cơ quan nhà nƣớc, đồng thời, cũng cần đảm bảo tiêu chuẩn này
phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế. Muốn làm đƣợc điều này cần phải đẩy mạnh
hơn nữa hợp tác song phƣơng, hợp tác đa phƣơng trong việc ứng dụng và phát
triển CNTT.
Ngày nay, CNTT thực sự trở thành nền tảng của phƣơng thức phát triển
mới, gần đây, Thủ tƣớng Chính phủ đã yêu cầu các bộ, ngành, địa phƣơng và
cộng đồng doanh nghiệp, các chuyên gia cùng triển khai 7 nhiệm vụ, giải
pháp nhƣ sau:
- Nâng cao nhận thức, quán triệt quan điểm CNTT là một nền tảng của
phƣơng thức phát triển mới trong các cấp quản lý, các ngành kinh tế xã hội,
trong mỗi doanh nghiệp và toàn xã hội. Phát triển và ứng dụng CNTT trong
sản xuất, kinh doanh và quản lý hƣớng tới mục tiêu nâng cao toàn diện năng
lực cạnh tranh quốc gia, coi đây là con đƣờng ngắn nhất để Việt Nam tiến kịp
các nƣớc phát triển - tiến kịp thời đại.
76
- Xây dựng hệ thống hạ tầng thông tin quốc gia, ban hành chuẩn thông
tin quốc gia bảo đảm khả năng kết nối liên thông, đồng bộ, chú trọng công tác
an ninh, an toàn và bảo mật thông tin quốc gia.
- Đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu, làm chủ các bí quyết, giải pháp công
nghệ mới. Ƣu tiên đào tạo, phát triển nguồn nhân lực CNTT của từng ngành,
lĩnh vực, từng địa phƣơng, doanh nghiệp và của cả quốc gia.
- Xây dựng cơ chế chính sách tạo thuận lợi và hiệu quả cao nhất nhằm
bảo đảm việc ứng dụng CNTT trở thành một yêu cầu tiên quyết trong mọi
ngành, mọi lĩnh vực, mọi công trình, dự án đầu tƣ trong tiến trình phát triển.
- Tạo môi trƣờng thuận lợi cho phát triển thị trƣờng CNTT, hỗ trợ các
doanh nghiệp phát triển, tạo chỗ đứng vững chắc trên thị trƣờng trong nƣớc
và xây dựng năng lực canh tranh vƣơn ra thị trƣờng nƣớc ngoài.
- Tăng cƣờng hợp tác quốc tế, huy động mọi nguồn lực, đặc biệt là
nguôn lực của ngƣời Việt Nam ở nƣớc ngoài để phát triển CNTT.
- Phát triển và ứng dụng CNTT đƣợc coi là nhiệm vụ quan trọng của
toàn bộ hệ thống chính trị và xã hội. Ngƣời đứng đầu tất cả các cấp, các
ngành trực tiếp chỉ đạo và chịu trách nhiệm về triển khai ứng dụng hiệu quả
CNTT vì mục tiêu phát triển nhanh, bền vững.
Đối với hạ tầng công nghệ viễn thông, để phát triển TMĐT thì cần một
mạng viễn thông toàn cầu, thông suốt và hiện đại, phải xây dựng kết cấu hạ
tầng viễn thông tƣơng thích với hệ thống quốc tế. Đây là hạ tầng thiết yếu cho
việc truyền đƣa các thông tin, dữ liệu số, thông điệp điện tử. Tại Singapore,
ngƣời ta đã thiết lập hệ thống băng thông rộng quốc gia Singapore-one và
mạng này hoạt động có hiệu quả trở thành băng thông rộng quốc gia tiên tiến
nhất trên thế giới, tạo thuận lợi cho phát triển TMĐT. Đối với Việt Nam là
nƣớc đi sau, điều đầu tiên là cần xây dựng kết cấu hạ tầng viễn thông cơ bản
với chi phí thấp. Để làm đƣợc điều này rất cần có sự điều tiết của Chính phủ
77
trong việc dỡ bỏ những rào cản đối với nhập khẩu các thiết bị viễn thông, linh
kiện máy tính, linh kiện điện tử trong lĩnh vực viễn thông. Thúc đẩy và duy trì
sự cạnh tranh trong ngành này với mức chi phí hợp lý và dịch vụ mạng ổn
định, đảm bảo cho mọi ngƣời dân có thể truy cập đƣợc. Cần thiết phải thu hút
các nhà đầu tƣ nƣớc ngoài tham gia đầu tƣ ở một mức độ nhất định vào lĩnh
vực này.
Bên cạnh đó, kết cấu hạ tầng công nghệ điện tử để tạo ra các thiết bị
điện tử, tin học, viễn thông và điện lực cung cấp điện năng đầy đủ, rộng khắp
cũng là điều kiện cho các phƣơng tiện trên hoạt động. Trong đó mạng quốc
gia tốc độ cao là then chốt cho Chính phủ điện tử, đƣợc xây dựng bằng ngân
sách nhà nƣớc, giành cho các cơ quan công quyền, các viện nghiên cứu và các
trƣờng học truy cập với giá thấp. Mạng nghiên cứu tốc độ cao cũng do Chính
phủ xây dựng phục vụ cho nghiên cứu khoa học của các viện, các trƣờng và
các trung tâm. Hệ thống mạng công cộng là các mạng cáp quang do các nhà
cung cấp dịch vụ viễn thông xây dựng, phục vụ cả các hoạt động thƣơng mại
và phi thƣơng mại. Trong thời gian tới, Chính phủ cũng cần có chính sách hỗ
trợ để đảm bảo khả năng cung cấp điện năng đầy đủ với giá cả hợp lý cho mọi
ngƣời dân.
3.2.3. Chương trình xây dựng & hoàn thiện hệ thống pháp luật cho TMĐT
Ở Việt Nam, nhìn chung, môi trƣờng pháp luật cho TMĐT đang từng
bƣớc đƣợc hoàn thiện. Trong thời gian tới, để phát triển TMĐT lành mạnh,
cần phải giải quyết đƣợc một số nhiệm vụ nhƣ sau:
3.2.3.1. Nâng cao công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về TMĐT
Hiện nay, công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về TMĐT ở Việt
Nam vẫn chƣa đƣợc thực hiện sâu rộng trong quần chúng nhân dân, trong các
doanh nghiệp và cơ quan nhà nƣớc. Nhiều ngƣời vẫn còn hiểu biết rất mơ hồ
về những điều luật liên quan đến TMĐT, tạo kẽ hở cho những đối tƣợng làm
78
ăn bất chính. Do đó việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật cần đƣợc tiến hành
một cách chặt chẽ, liên tục cập nhật những điều luật mới, quy định mới trong
lĩnh vực TMĐT cho các doanh nghiệp cũng nhƣ ngƣời dân. Để làm đƣợc điều
này, cần phải có cơ chế phối hợp hiệu quả trong hoạt động giáo dục pháp luật
giữa các cơ quan liên quan nhƣ cơ quan quản lý nhà nƣớc và cơ quan thông
tin đại chúng, các tổ chức đào tạo, v.v...
3.2.3.2. Xây dựng và hoàn thiện cơ chế giám sát, đưa ra các chế tài,
quy định xử phạt nghiêm minh mọi hành vi vi phạm trong lĩnh vực kinh doanh
TMĐT
Muốn thực hiện tốt giải pháp này phải tăng cƣờng công tác thanh kiểm
tra các hoạt động trong lĩnh vực TMĐT của tất cả các doanh nghiệp, đơn vị,
cơ quan nhà nƣớc. Trƣớc tiên, cần phải huy động đƣợc nguồn lực giám sát có
năng lực chuyên môn nghiệp vụ cao, có nhiều kinh nghiệm hoạt động trong
lĩnh vực TMĐT và quan trọng phải có thái độ làm việc khách quan, không vụ
lợi trƣớc mắt có khả năng đƣa ra cơ chế giám sát trực tuyến các hoạt động
trên môi trƣờng điện tử. Bên cạnh đó, cần có quy định cụ thể về mức xử phạt
đối với các hành vi vi phạm trong lĩnh vực TMĐT đủ mạnh mẽ răn đe, tạo ra
sự tuân thủ tốt trong xã hội.
3.2.3.3. Cần có một cơ chế thích đáng để giải quyết tranh chấp trong
lĩnh vực TMĐT
Một trong những nguyên nhân chủ yếu khiến phần lớn ngƣời tiêu dùng
Việt Nam còn e ngại khi tham gia giao dịch TMĐT là họ vẫn chƣa đƣợc bảo
vệ thích đáng trong các vụ tranh chấp xảy ra khi mua bán hàng hóa trên mạng.
Do đó, xây dựng cơ chế giải quyết tranh chấp trong TMĐT là một trong việc
ƣu tiên hàng đầu của các cơ quan quản lý Nhà nƣớc cần giải quyết trong thời
gian tới. Bởi việc hình thành cơ chế giải quyết tranh chấp sẽ giúp ngƣời tiêu
79
dùng tin tƣởng vào việc mua sắm trực tuyến, thanh toán điện tử, góp phần
thúc đẩy TMĐT phát triển.
3.2.3.4. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật TMĐT ngày càng
chặt chẽ và thống nhất
Để TMĐT phát triển lành mạnh cần phải hoàn thiện hệ thống pháp luật,
thông qua việc ban hành và thực thi các đạo luật và các văn bản dƣới luật điều
chỉnh các hoạt động thƣơng mại, thích ứng với luật pháp và tập quán quốc tế
về giao dịch TMĐT. Việc xây dựng các điều luật cũng nhƣ quá trình sửa đổi,
bổ sung phải đƣợc tiến hành chặt chẽ và đảm bảo tính thống nhất. Đồng thời,
luật pháp TMĐT phải bao quát trên phạm vi rộng, tránh tạo kẽ hở cho kẻ xấu
lợi dụng.
Singapore là quốc gia có hệ thống văn bản luật pháp về TMĐT đầy đủ
và có hiệu lực vào loại nhất thế giới, nên TMĐT phát triển nhanh và ổn định.
Hàn Quốc cũng coi trọng việc hoàn thiện khung pháp lý TMĐT, gồm luật
khung về TMĐT; Luật bảo vệ ngƣời tiêu dùng; Luật chữ ký điện tử, Luật phát
triển ngành đào tạo nhân lực cho TMĐT; Luật ứng dụng mạng công nghệ
thông tin truyền thông và bảo vệ thông tin. Một số luật khác có liên quan đến
TMĐT, nhƣ Luật kinh doanh tài chính và tín dụng; Luật hóa đơn điện
tử…Các luật và văn bản dƣới luật chú trọng việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ,
thƣơng hiệu, tên miền, bảo vệ bí mật cá nhân, an ninh mạng, xử lý các tranh
chấp trong giao dịch TMĐT …
Bên cạnh đó, tính chặt chẽ, thống nhất và bao quát trên phạm vi rộng
còn thể hiện ở việc điều chỉnh các vấn đề liên quan đến quy định bảo vệ
ngƣời tiêu dùng khỏi các quảng cáo, thông tin rác, an toàn thông tin cá nhân;
đảm bảo tính cạnh tranh lành mạnh và có những chính sách ƣu đãi hỗ trợ
doanh nghiệp vừa và nhỏ tham gia vào lĩnh vực TMĐT. Đây là việc làm cần
80
thiết trong thời gian tới nhằm hoàn thiện môi trƣờng pháp lý cho TMĐT ở
Việt Nam.
3.2.4. Chương trình cung cấp các dịch vụ công hỗ trợ TMĐT và ứng
dụng TMĐT trong mua sắm Chính phủ
Nhà nƣớc không những đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ đào
tạo nhân lực và phổ cập kiến thức về TMĐT; tạo môi trƣờng pháp lý; xây
dựng kết cấu hạ tầng cho TMĐT và quản lý các giao dịch TMĐT để bảo vệ
lợi ích của ngƣời tham gia mà còn phải phát triển các dịch vụ công nhằm thúc
đẩy sự phát triển của TMĐT.
Những việc mà Nhà nƣớc và Chính phủ cần làm trong thời gian tới là:
Đẩy mạnh cung cấp các dịch vụ công, nhƣ hải quan điện tử; kê khai thuế và
nộp thuế, làm các thủ tục xuất, nhập khẩu; đăng ký kinh doanh và các loại
giấy phép chuyên ngành liên quan đến thƣơng mại, giải quyết tranh chấp
…trên mạng. Các cơ quan nhà nƣớc phải ứng dụng TMĐT trong mua sắm
công, đấu thầu; gắn với cải cách hành chính, minh bạch hóa, nâng cao hiệu
lực nền hành chính quốc gia, và xây dựng chính phủ điện tử.
Bên cạnh đó, các ngân hàng nhà nƣớc cũng cần tích cực triển khai đề
án thanh toán không dùng tiền mặt và tiếp tục hoàn thiện cơ sở pháp lý liên
quan đến thanh toán điện tử, một khâu rất quan trọng trong hoạt động TMĐT.
3.2.5. Phát triển công nghệ hỗ trợ TMĐT
Để TMĐT phát triển một cách có hiệu quả cần phải có một hạ tầng
công nghệ đủ năng lực, một nền công nghiệp điện tử vững mạnh làm nền
tảng. Trên thế giới, Ebay và Amazon là hai trong số các tập đoàn đạt đƣợc
thành công lớn trong TMĐT đều đƣợc sinh ra trong cái nôi công nghệ của thế
giới đó là Hoa Kỳ và tại những nƣớc hội tụ các yếu tố thuận lợi cho TMĐT
phát triển.
81
Việt Nam không phải là nƣớc có lợi thế về mặt công nghệ để hỗ trợ cho
TMĐT phát triển. Do đó, việc cần làm trƣớc tiên là Chính phủ cần có sự can
thiệp trong việc đƣa ra những chính sách khuyến khích nhập khẩu các linh
kiện, thiết bị tin học, những công nghệ mới, hiện đại trong lĩnh vực điện tử,
viễn thông. Đẩy mạnh hợp tác, liên doanh với các công ty nƣớc ngoài trong
việc chuyển giao khoa học công nghệ. Triển khai xây dựng các cơ sở sản
xuất, lắp ráp, chế tạo thiết bị truyền thông và tin học chuyên dụng đáp ứng
nhu cầu phát triển công nghệ trong nƣớc và xuất khẩu ra nƣớc ngoài. Tổ chức
đƣa các chuyên gia trong lĩnh vực này ra nƣớc ngoài học tập, nghiên cứu,
đồng thời, mời những chuyên gia nƣớc ngoài về Việt Nam giảng dạy.
Đây là những chính sách cần đƣợc chú ý nhằm phát triển khoa học
công nghệ hỗ trợ TMĐT Việt Nam bắt kịp xu thế phát triển chung của TMĐT
thế giới.
3.3. Nhóm giải pháp về đảm bảo an toàn cho các giao dịch thƣơng mại
3.3.1. Bảo vệ thông tin cá nhân
Việc xây dựng năng lực bảo vệ thông tin cá nhân trong TMĐT là chủ
đề rất quan trọng, có thể giúp nâng cao năng lực và xây dựng mô hình TMĐT
điển hình cho Việt Nam và các nƣớc trên thế giới. Vấn đề đảm bảo an toàn và
bảo vệ thông tin cá nhân luôn đƣợc quan tâm hàng đầu từ phía các cơ quan
nhà nƣớc, các doanh nghiệp và cá nhân tham gia vào hoạt động TMĐT. Vì
vậy, để thực hiện tốt giải pháp này cần phải có sự tham gia từ nhiều phía và
cần tiến hành nhƣ sau:
Về phía các doanh nghiệp, cần đƣa ra một giải pháp tổng thể liên quan
tới các vấn đề về con ngƣời, chính sách và công nghệ. Con ngƣời ở đây có thể
là các nhà điều hành, các kỹ sƣ CNTT, các kỹ thuật viên của các công ty,
doanh nghiệp kinh doanh TMĐT. Yêu cầu đặt ra với họ trƣớc tiên phải là
những con ngƣời có năng lực, tiếp sau đó phải là những con ngƣời yêu nghề,
82
có tinh thần trách nhiệm cao trong việc đảm bảo an toàn thông tin cá nhân. Về
chính sách, mỗi doanh nghiệp cần phải xây dựng cho mình một chính sách
phù hợp để đảm bảo an toàn thông tin cá nhân cho khách hàng, giữ đƣợc niềm
tin từ phía các đối tác và khách hàng của mình. Việc lựa chọn công nghệ phần
mềm để đảm bảo an toàn thông tin cho khách hàng cũng là khâu quan trọng.
Lựa chọn công nghệ an toàn, phù hợp với chiến lƣợc kinh doanh rất cần đƣợc
doanh nghiệp quan tâm chú trọng đúng mức.
Về phía Chính phủ và các cơ quan nhà nƣớc, việc đƣa nội dung bảo vệ
thông tin cá nhân vào Luật an toàn thông tin là hết sức cần thiết. Nội dung
đƣa ra cần xuất phát từ các yêu cầu của thực tiễn Việt Nam, khái quát, hệ
thống hóa lại các quy định riêng rẽ đã đƣợc đƣa ra và bao trùm lên các quy
định này, để tạo hành lang pháp lý rõ ràng cho việc bảo vệ thông tin cá nhân
tại Việt Nam. Bên cạnh đó, từ năm 2007 đến nay, trên thế giới đã ghi nhận
nhiều vụ xung đột mạng dẫn đến chiến tranh thông tin giữa các quốc gia mà
một trong các nguyên nhân đó có thể là sự rò rỉ thông tin cá nhân đƣợc lan
truyền qua mạng. Do vậy, Chính phủ phải có sự phối hợp chặt chẽ mang tính
toàn cầu đối với việc bảo vệ thông tin cá nhân, bí mật riêng tƣ, bảo vệ quyền
lợi của ngƣời tiêu dùng.
Về phía các cá nhân, ngƣời tiêu dùng, cần phải nâng cao cảnh giác với
nạn trộm cắp thông tin cá nhân và đề phòng với loại tội phạm này bằng một
số biện pháp nhƣ: chỉ cung cấp thông tin tối thiểu khi đƣợc yêu cầu; không
đƣa thông tin chi tiết thẻ tín dụng với mọi cửa hàng; không cung cấp chi tiết
địa chỉ nhà riêng; sử dụng một số điện thoại thay thế; không khai đầy đủ họ
tên; sử dụng nhiều địa chỉ email….Để thực hiện tốt giải pháp này, ngoài sự
cảnh giác từ phía các cá nhân cũng cần có sự bảo vệ, can thiệp từ các cơ quan
chức năng trong việc tuyên truyền đến họ những thông tin cần thiết để tự bảo
vệ mình, tránh gặp rủi ro trong các giao dịch TMĐT.
83
3.3.2. Quy định về chữ ký điện tử
Chữ ký điện tử (Electronic Signature) là thông tin đi kèm theo dữ
liệu (văn bản, hình ảnh, video...) nhằm mục đích xác định ngƣời chủ của dữ
liệu đó, đƣợc sử dụng trong các giao dịch điện tử. Về bản chất chữ ký điện tử
tƣơng đƣơng chữ ký tay, cần đảm bảo các chức năng: xác định đƣợc ngƣời
chủ của một dữ liệu nào đó: văn bản, ảnh, video,... dữ liệu đó có bị thay đổi
hay không.
Có nhiều loại chữ ký điện tử khác nhau nhƣ chữ ký số, chữ ký sinh trắc
học, chữ ký dựa trên số nhận dạng cá nhân (số PIN), chữ ký tạo bằng thẻ
thông minh… Hiện nay, chữ ký số là loại chữ ký điện tử đƣợc sử dụng phổ
biến nhất. Một chữ ký điện tử sẽ là một chữ ký số nếu nó sử dụng một phƣơng
pháp mã hóa nào đó để đảm bảo tính toàn vẹn (thông tin) và tính xác thực. Ví
dụ nhƣ một bản dự thảo hợp đồng soạn bởi bên bán hàng gửi bằng email tới
ngƣời mua sau khi đƣợc ký (điện tử).
Sự thừa nhận giá trị pháp lý của chữ ký điện tử là một vấn đề hết sức
quan trọng trong TMĐT. Nó thừa nhận tính hợp pháp của các tài liệu giao
dịch của chủ thể thông qua mạng Internet, thừa nhận các hợp đồng điện tử. Vì
vậy, nếu không thừa nhận chữ ký điện tử thì cũng có nghĩa là không thừa
nhận tính hợp pháp của TMĐT. Cũng vì thế mà ở hầu hết các nƣớc có luật về
TMĐT cũng đều có luật về chữ ký điện tử riêng biệt, hay đƣợc đƣa kèm ngay
trong luật Thƣơng mại điện tử. Theo luật về giao dịch điện tử của Singapore
(Singapore Electronic Transaction Act): “Chữ ký điện tử là bất kỳ chữ nào, ký
tự nào, các con số hay các biểu tượng khác dưới dạng số hóa, được gắn vào
hay liên quan một cách logic vào các tài liệu điện tử được thực hiện với ý
định xác nhận, đồng ý về tài liệu điện tử đó”.
Ở Việt Nam hành lang pháp lý cho chữ ký số và dịch vụ chứng thực
chữ ký số đã hình thành và ngày càng đƣợc hoàn thiện. Tuy nhiên, trong quá
84
trình triển khai cho thấy nhiều bất cập liên quan đến yếu tố kỹ thuật nhƣ: khi
xây dựng hạ tầng khóa công khai chƣa đƣợc quy định cụ thể và thống nhất.
Đây là yếu tố cản trở sự phát triển nói chung của TMĐT và chính phủ điện tử
tại Việt Nam. Do đó, trong thời gian tới, cần đƣa ra những quy định về chữ ký
số và các nội dung cần thiết liên quan đến sử dụng chữ ký số, bao gồm chứng
thƣ số; việc quản lý, cung cấp và sử dụng dịch vụ chứng thực chữ ký số. Đây
là những quy định nền tảng để thiết lập một cơ chế đảm bảo an ninh an toàn
cũng nhƣ độ tin cậy của các giao dịch điện tử, thúc đẩy TMĐT phát triển
mạnh mẽ hơn.
3.3.3. Thừa nhận giá trị pháp lý đối với thông điệp dữ liệu trong
TMĐT
Thông điệp dữ liệu là hình thức thông tin đƣợc trao đổi qua phƣơng
tiện điện tử trong các giao dịch TMĐT. Thừa nhận giá trị pháp lý của các
thông điệp dữ liệu là cơ sở cho việc thừa nhận các giao dịch TMĐT, thể hiện
dƣới các khía cạnh: có thể thay thế văn bản giấy (hoặc văn bản kèm chữ ký),
có giá trị nhƣ bản gốc, có giá trị lƣu trữ và chứng cứ, xác định trách nhiệm
các bên và thời gian, địa điểm gửi, nhận thông điệp dữ liệu.
Tài liệu giấy thông thƣờng luôn đƣợc coi là cơ sở pháp lý đáng tin cậy,
sao chụp đƣợc và không thể biến đổi trong các giao dịch sử dụng nó. Những
cơ sở nêu trên cũng đƣợc thừa nhận đối với một tài liệu điện tử khi thoả mãn
những quy định pháp luật yêu cầu thông tin phải dƣới dạng chữ viết và có thể
truy cập đƣợc. Nhằm chứng minh ý định giao kết hợp đồng dƣới dạng văn
bản thông thƣờng, toà án có thể căn cứ vào các bằng chứng ngoài hợp đồng
nhƣ biên bản ghi những cuộc đàm phán giữa các bên. Theo cách này, pháp
luật cần thừa nhận giá trị bằng chứng của thƣ điện tử hoặc bản ghi đƣợc lƣu
trữ trên phƣơng tiện điện tử thể hiện ý định giao kết hợp đồng giữa các bên.
85
Ở Việt Nam hiện nay, cùng với sự phát triển của TMĐT, chứng từ điện
tử đang trở nên khá phổ biến trong giao dịch giữa các đối tác kinh doanh, đặc
biệt ở những bƣớc tiến tới giao kết hợp đồng. Về mặt pháp lý, Luật Giao dịch
điện tử, Nghị định Thƣơng mại điện tử và Nghị định về Giao dịch điện tử
trong hoạt động tài chính đã cung cấp đầy đủ cơ sở để doanh nghiệp có thể sử
dụng chứng từ điện tử trong các hoạt động giao dịch thƣơng mại nói chung.
Tuy nhiên, luật cũng quy định rõ với những tình huống đòi hỏi độ xác thực
cao của thông tin chứa trong chứng từ điện tử, các bên cần đặc biệt lƣu ý đến
những biện pháp kỹ thuật để đảm bảo giá trị pháp lý của chứng từ trong
trƣờng hợp xảy ra tranh chấp.
Khác với thƣ điện tử trao đổi trực tiếp giữa hai bên, chứng từ điện tử
đƣợc hiển thị hoặc khởi tạo trên website khó xác định các yếu tố cấu thành giá
trị pháp lý. Do đó, khách hàng thƣờng chịu bất lợi khi tham gia giao dịch trên
website do thiếu kiến thức, kinh nghiệm và không đƣợc cung cấp đầy đủ
thông tin. Việc hƣớng dẫn và cung cấp thông tin đầy đủ từ phía ngƣời bán
đóng vai trò quan trọng trong việc phòng ngừa những rủi ro trong giao dịch
điện tử.
Vì vậy, cùng với việc thừa nhận giá trị pháp lý của thông điệp dữ liệu
điện tử cũng cần phải đƣa ra những quy định về việc gắn trách nhiệm của
ngƣời bán trong việc cung cấp các điều khoản trong hợp đồng trên website
TMĐT, thiết lập khung cơ bản cho một quy trình giao kết hợp đồng trên
website, và quy định chi tiết một số yếu tố cấu thành nên giá trị pháp lý của
chứng từ điện tử trong quá trình giao kết hợp đồng góp phần thúc đẩy TMĐT
phát triển lành mạnh hơn.
3.3.4. Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trong TMĐT
Với sự xuất hiện của nhiều công nghệ mới, đặc biệt là các ứng dụng
CNTT, việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ có ý nghĩa hết sức quan trọng trong
86
việc phát triển TMĐT. Phần lớn các đối tƣợng thuộc quyền sở hữu trí tuệ nhƣ
tác phẩm văn học - nghệ thuật, tài liệu khoa học - kỹ thuật, chƣơng trình máy
tính, cơ sở dữ liệu có tính sáng tạo, nhãn hiệu thƣơng mại, bí mật thƣơng mại,
chỉ dẫn địa lý… đều có thể xuất hiện dƣới hình thức cho phép truyền tải dễ
dàng qua Internet và các mạng mở khác. Nhiều vấn đề mới liên quan tới tên
miền; tính năng liên kết, dẫn chiếu giữa các tài liệu trên môi trƣờng nối mạng,
trách nhiệm của các nhà cung cấp dịch vụ mạng… khiến các quy định về
phạm vi bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trƣớc đây ở nƣớc ta không còn phù hợp.
Để có thể bảo hộ tốt trong TMĐT, pháp luật về sở hữu trí tuệ cần đƣợc
điều chỉnh theo chiều hƣớng nhƣ sau:
Thứ nhất, việc hình thành những đối tƣợng quyền sở hữu trí tuệ mới
nhƣ phần mềm máy tính và cơ sở dữ liệu nguồn đòi hỏi phải có những quy
định mới thừa nhận và bảo hộ chúng, cách thức bảo hộ có thể nhƣ với đối
tƣợng của quyền tác giả hay quyền sở hữu công nghiệp. Pháp luật cần chỉ rõ
các thuộc tính cơ bản phân biệt với các đối tƣợng quyền sở hữu trí tuệ khác,
xác lập các quyền nhân thân, quyền sở hữu và các nghĩa vụ liên quan, đƣa ra
các giới hạn, ngoại lệ đối với các quyền và nghĩa vụ, hình thành cơ chế xử lý
vi phạm.
Thứ hai, nhiều đối tƣợng quyền sở hữu trí tuệ có thể đƣợc biểu hiện
dƣới dạng các ứng dụng CNTT nhƣ tên miền, giao diện website, từ khoá sử
dụng để tìm kiếm thông tin và các ứng dụng CNTT khác. Do pháp luật chƣa
quy định cụ thể (chƣa xác định chúng thuộc đối tƣợng quyền sở hữu trí tuệ
nào) nên không biết cơ chế bảo hộ. Ví dụ: website có nên coi là hình thức
biểu hiện của một tác phẩm nghệ thuật không? Tên miền của một công ty có
đƣợc hƣởng các cơ chế bảo hộ nhƣ nhãn hiệu thƣơng mại không? ...
Ngoài ra, internet và các mạng mở khác là môi trƣờng lý tƣởng cho
việc trao đổi, chia sẻ các đối tƣợng của quyền sở hữu trí tuệ. Một tác phẩm
87
văn học có thể nhanh chóng bị phát tán trên internet; các bí mật kinh doanh
đƣợc lƣu trên máy tính một công ty có thể bị tiết lộ ra bên ngoài qua kết nối
internet; một bản nhạc mới đƣợc phát hành, nếu đƣa lên mạng thì ai cũng có
thể tải về sử dụng… Môi trƣờng mới tác động đến các quyền và nghĩa vụ liên
quan tới mọi đối tƣợng quyền sở hữu trí tuệ. Vì vậy, pháp luật sở hữu trí tuệ
phải hình thành các quy định thêm về giới hạn, ngoại lệ thực hiện các quyền
và nghĩa vụ cho phù hợp.
Điều này đòi hỏi cần phải có sự nghiên cứu kỹ lƣỡng về những đối
tƣợng mới của quyền sở hữu trí tuệ trong TMĐT để tiến hành bổ sung những
điều luật mới, những quy định cụ thể cho từng đối tƣợng, tránh tạo ra những
sơ hở để kẻ xấu lợi dụng gây mất lòng tin của ngƣời dân.
3.3.5. Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong TMĐT
Vấn đề bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu dùng đang ngày càng đƣợc quan
tâm và việc Quốc hội lần đầu tiên thông qua Luật bảo vệ ngƣời tiêu dùng vào
cuối năm 2010 đã phản ánh tầm quan trọng của vấn đề này trong hệ thống
pháp luật kinh tế - dân sự Việt Nam.
Quyền lợi ngƣời tiêu dùng trong TMĐT có thể bị tác động bởi 2 nhóm
yếu tố: thứ nhất là những yếu tố của môi trƣờng thƣơng mại truyền thống nhƣ
thông tin, chất lƣợng hàng hóa, dịch vụ, v.v…; thứ hai là những yếu tố đặc
thù của môi trƣờng điện tử nhƣ bảo vệ thông tin cá nhân, ngăn chặn quảng
cáo không mong muốn (thƣ rác), vấn đề an ninh an toàn trong giao dịch,
v.v…Do vậy, các quy định pháp luật về bảo vệ ngƣời tiêu dùng trong TMĐT
thời gian qua đã đƣợc xây dựng dựa trên các nguyên tắc cơ bản nhƣ sau:
- Giao dịch TMĐT phải tuân thủ các quy định pháp luật chung về bảo
vệ ngƣời tiêu dùng. Những tranh chấp về chất lƣợng hàng hóa, quảng cáo
không đúng sự thật, thông tin sai lệch … sẽ đƣợc xử lý nhƣ trong các giao
dịch truyền thống.
88
- Mức độ bảo vệ của pháp luật đối với ngƣời tiêu dùng trong giao dịch
TMĐT cũng tƣơng đƣơng nhƣ trong môi trƣờng truyền thống. Ngƣời bán
trong môi trƣờng điện tử không phải tuân thủ những quy định khắt khe hơn
hay đƣợc hƣởng ƣu đãi hơn so với ngƣời bán trong môi trƣờng truyền thống.
- Hệ thống pháp luật TMĐT chỉ điều chỉnh những khía cạnh đặc thù
của giao dịch điện tử liên quan đến vấn đề bảo vệ ngƣời tiêu dùng.
Với tinh thần trên, các văn bản liên quan đến vấn đề bảo vệ ngƣời tiêu
dùng trong TMĐT thời gian qua chủ yếu tập trung vào 2 khía cạnh đặc thù là
bảo vệ thông tin cá nhân của ngƣời tiêu dùng và bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu
dùng trong quá trình giao kết hợp đồng trên website TMĐT. Bảo vệ ngƣời
tiêu dùng trong quá trình giao kết hợp đồng trên website TMĐT chủ yếu đƣợc
giải quyết thông qua các quy định về nghĩa vụ cung cấp thông tin và quy trình
giao kết hợp đồng trên môi trƣờng điện tử, nhằm thu hẹp khoảng cách về bất
bình đẳng thông tin đối với ngƣời tiêu dùng và nâng cao tính minh bạch của
môi trƣờng TMĐT.
Các đối tác tham gia vào một giao dịch TMĐT trên internet hoặc các
mạng mở khác không nhất thiết hoặc không thể gặp mặt nhau, họ tiến hành
các giao dịch chủ yếu thông qua những công nghệ mới và trong một môi
trƣờng khác biệt so với truyền thống. Thông thƣờng, ngƣời tiêu dùng không
biết rõ các thông tin về hàng hoá, dịch vụ đƣợc cung cấp nhƣ ngƣời bán, khả
năng bị thiệt hại cao hơn, vì vậy cần có những quy định pháp luật bảo vệ họ.
Tóm lại, để bảo vệ đƣợc quyền lợi của ngƣời tiêu dùng trong lĩnh vực
TMĐT thì cần phải tác động trực tiếp tới các doanh nghiệp. Trƣớc tiên, cần
đƣa ra những quy định bắt buộc về việc cung cấp rõ thông tin về doanh
nghiệp, hàng hóa, dịch vụ cũng nhƣ bắt buộc họ phải có những chính sách
riêng để bảo vệ thông tin của ngƣời tiêu dùng. Sau đó, là cơ chế giải quyết
tranh chấp và yêu cầu bồi thƣờng từ phía sai phạm. Đồng thời, xử lý nghiêm
89
những trƣờng hợp lợi dụng TMĐT để lừa đảo, quảng cáo không đúng sự thật
về hàng hóa, dịch vụ mà doanh nghiệp đó cung cấp. Nếu thực hiện triệt để
giải pháp này sẽ làm cho TMĐT phát triển lành mạnh hơn và có đƣợc sự tin
tƣởng, ủng hộ từ phía ngƣời tiêu dùng.
3.3.6. Giải quyết tranh chấp trong giao dịch mua bán hàng trực tuyến
Hoạt động thƣơng mại nói chung bao giờ cũng gắn liền với giải quyết
tranh chấp. Trong khi bộ máy và cơ chế giải quyết các tranh chấp trong hoạt
động thƣơng mại truyền thống đã tƣơng đối hoàn chỉnh thì trên thế giới cũng
nhƣ ở Việt Nam hầu nhƣ chƣa xác lập đƣợc bộ máy và cơ chế giải quyết các
tranh chấp phát sinh trên cơ sở ứng dụng TMĐT.
Vì vậy, trong giai đoạn tới Chính phủ cần tập trung xây dựng cơ chế,
bộ máy giải quyết tranh chấp có hiệu quả để sẵn sàng giải quyết một cách
thỏa đáng các tranh chấp phát sinh trong TMĐT thông qua các hình thức nhƣ
giải quyết tranh chấp qua cơ chế tự hòa giải, cơ quan trọng tài kinh tế, các cơ
quan hành chính hay tòa án kinh tế hoặc tòa án hành chính. Đồng thời, việc
xây dựng cơ chế giải quyết tranh chấp trong các giao dịch TMĐT cũng cần
phải đƣợc bổ sung liên tục phù hợp với thực tế nƣớc ta hiện nay.
3.3.7. Phòng ngừa và nghiêm trị tội phạm công nghệ cao trong
TMĐT
Thực tế đấu tranh với các vụ tội phạm công nghệ cao cho thấy rằng,
những hậu quả do các hành vi phạm tội gây ra là rất nặng nề, gây thiệt hại lớn
cho nhiều tổ chức, cá nhân. Nhƣng, công tác đấu tranh với tội phạm công
nghệ cao hiện nay đang gặp rất nhiều khó khăn.
Khó khăn đầu tiên đó là hành lang pháp lý của Việt Nam quy định về
loại tội phạm này vừa thiếu vừa có nhiều điểm bất cập. Ví dụ nhƣ các quy
định về pháp luật đang bắt cơ quan điều tra chứng minh quá nhiều. Trong một
vụ án lừa đảo bằng công nghệ cao chẳng hạn, có tới hàng trăm ngƣời bị hại ở
90
khắp các nơi trên thế giới nhƣng luật quy định cơ quan điều tra phải xác minh,
ghi lời khai của tất cả ngần ấy ngƣời thì yêu cầu đó vƣợt quá khả năng của cơ
quan điều tra.
Hơn nữa, ý thức phòng ngừa tội phạm công nghệ cao của nhiều tổ
chức, doanh ghiệp còn chƣa cao. Các phần mềm còn chƣa thực sự hoàn hảo,
lỗ hổng thông tin còn nhiều, tạo cơ hội để tội phạm dễ thâm nhập, tấn công.
Đây cũng là một yếu tố làm gia tăng tội phạm công nghệ cao ở Việt Nam.
Bên cạnh đó, kinh nghiệm phòng chống tội phạm công nghệ cao của
Cảnh sát Việt Nam còn ít trong khi tình hình tội phạm trong lĩnh vực này lại
đang phát triển rất nhanh.
Để hoạt động phòng ngừa và nghiêm trị tội phạm công nghệ cao đạt
hiệu quả, cần thiết phải chú trọng những giải pháp và thực hiện những yêu
cầu chủ yếu sau đây:
Trƣớc tiên, cần xây dựng các dự án nâng cao năng lực của lực lƣợng
chuyên trách phòng chống tội phạm công nghệ cao với đội ngũ cán bộ có
năng lực thực sự cao, đƣợc trang bị phần mềm hiện đại tiệm cận với trình độ
quốc tế phục vụ công tác đấu tranh phòng chống tội phạm. Để làm đƣợc điều
này, cần có một đội ngũ chuyên gia công nghệ thông tin giỏi, chuyên gia điều
tra có khả năng đánh giá, phân tích những chứng cứ điện tử thực hiện việc
điều tra các vụ tội phạm công nghệ cao và tiếp tục có kế hoạch đào tạo để
phát triển đội ngũ này ngày càng lớn mạnh. Đồng thời, gửi các cán bộ, chiến
sỹ đi đào tạo ở nƣớc ngoài và thực hành làm việc tại các trung tâm chống tội
phạm công nghệ cao ở một số nƣớc tiên tiến để tiếp thu, học hỏi kinh nghiệm
về áp dụng tại Việt Nam.
Thứ hai, về phía quốc gia, cần phải kết hợp giữa lập pháp, hành pháp
và tƣ pháp. Cụ thể là: Về mặt lập pháp, các cơ quan lập pháp và hoạch định
chính sách cần xây dựng các quy phạm pháp luật cụ thể, chi tiết về phòng
91
chống tội phạm công nghệ cao, trong đó có những biện pháp tuyên truyền
giáo dục cộng đồng, cơ chế phối hợp quốc tế và tham gia công ƣớc chung về
phòng chống tội phạm công nghệ cao.
Về hành pháp và tƣ pháp, các cơ quan thi hành pháp luật và cơ quan xét
xử cần phải đƣợc trang bị kiến thức sâu và rộng về công nghệ thông tin, nỗ
lực hợp tác quốc tế trong đấu tranh, phòng chống tội phạm công nghệ cao.
Công tác xét xử cần nghiêm minh và mang tính giáo dục, cƣỡng chế đối với
các tội phạm công nghệ thông tin. Tăng cao hiệu quả phòng ngừa và ngăn
chặn loại tội phạm mới này.
Tích cực tổ chức đấu tranh phòng ngừa để cuộc đấu tranh chống tội
phạm nói chung trong đó có tội phạm công nghệ cao đạt hiệu quả tốt hơn.
Bên cạnh đó, một số cơ quan đầu não của Chính phủ và của các ngành
cũng cần phải kết nối mạng trong tiến trình phát triển chung của xã hội cũng
nhƣ lộ trình xây dựng Chính phủ, Quốc hội điện tử ở Việt Nam.
Ngoài ra còn cần có các cơ chế phối hợp liên ngành để đảm bảo việc
phòng chống tội phạm công nghệ cao đạt đƣợc hiệu quả cao nhất.
3.3.8. Hợp tác quốc tế trong việc nghiêm trị tội phạm trong TMĐT
Trong những năm qua, hoạt động hợp tác quốc tế về TMĐT đã đƣợc
Đảng, nhà nƣớc quan tâm thích đáng. Hợp tác quốc tế về TMĐT đƣợc tiến
hành ở cả cấp độ song phƣơng và đa phƣơng với các mục tiêu chủ yếu là nâng
cao năng lực quản lý nhà nƣớc và hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm
pháp luật liên quan đến Thƣơng mại điện tử; thúc đẩy phát triển thƣơng mại
phi giấy tờ, tăng cƣờng niềm tin và thu hút ngƣời tiêu dùng tham gia giao dịch
thƣơng mại điện tử; hỗ trợ các doanh nghiệp nâng cao hiệu quả sản xuất kinh
doanh, tăng cƣờng năng lực cạnh tranh trong bối cảnh toàn cầu hóa đang diễn
ra mạnh mẽ.
92
Tuy nhiên, thực tế tình hình tội phạm sử dụng công nghệ cao trong lĩnh
vực TMĐT ở nƣớc ta đang diễn biến phức tạp, qua từng năm loại tội phạm
này tăng cả số vụ lẫn mức độ thiệt hại và phƣơng thức ngày càng tinh vi hơn,
việc phát hiện và xử lý cũng gặp nhiều khó khăn. Vì tội phạm công nghệ cao
có tính chất quốc tế đòi hỏi các lực lƣợng đấu tranh chống tội phạm phải liên
kết trên phạm vi toàn cầu. Do đó, hợp tác quốc tế về TMĐT không những vì
mục tiêu nêu trên mà còn cần phải hợp tác trong việc nghiêm trị tội phạm
công nghệ cao, học hỏi kinh nghiệm của các nƣớc đi trƣớc trong việc xử lý
nhóm tội phạm nguy hiểm này.
Nhận thức đƣợc tầm quan trọng đó, ngày 7/4/2014 Chính phủ đã ban
hành Nghị định số 25/NĐ-CP quy định về hoạt động phòng ngừa, phát hiện
và xử lý tội phạm và vi phạm pháp luật khác có sử dụng công nghệ cao; hợp
tác quốc tế trong phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật khác có sử
dụng công nghệ cao; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp và cá
nhân trong phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật khác có sử dụng công
nghệ cao.
Tuy nhiên, hoạt động hợp tác quốc tế trong việc nghiêm trị tội phạm sử
dụng công nghệ cao hiện nay vẫn chƣa đƣợc nhiều tổ chức, cá nhân quan tâm
một cách đúng mức, tâm lý lo ngại, sợ bị ảnh hƣởng, liên lụy…vẫn còn tồn
tại. Vì vậy, hoạt động này cần thiết phải đƣợc tuyên truyền, phổ biến sâu rộng
trong nhân dân để họ có kinh nghiệm trong phòng ngừa loại tội phạm này.
Trong quá trình tham gia hợp tác quốc tế, các nƣớc có thể học hỏi kinh
nghiệm lẫn nhau trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm. Ví dụ, ở
Singapore, Chính phủ đã quyết định treo giải thƣởng hàng chục ngàn đôla cho
hacker nào đột nhập vào một trong những máy chủ đặt sẵn trong lãnh
thổ Singapore. Biện pháp này đƣợc đƣa ra nhằm giúp cho cơ quan nghiên cứu
các kỹ thuật điều tra tội phạm máy tính có thêm kinh nghiệm đấu tranh.
93
Cũng theo kinh nghiệm phối hợp đấu tranh và từ kết quả trao đổi thông
tin với cảnh sát nƣớc ngoài cho thấy: Nhiều nƣớc nhƣ Singapore, Malaysia đã
xây dựng Luật Chống tội phạm máy tính riêng không chỉ quy định về hành vi
nguy hiểm cho xã hội (quy định tội danh) mà còn quy định các biện pháp đặc
biệt đƣợc áp dụng đấu tranh với tội phạm máy tính. Trong khi đó, ở Việt
Nam, theo quy định của Bộ luật Hình sự hiện hành, mới chỉ có 3 điều luật
điều chỉnh những hành vi vi phạm trong lĩnh này.
Hay để đối phó với tình trạng mất an ninh qua mạng, các nƣớc đã thành
lập những trung tâm an ninh mạng mang tính quốc gia, nhƣ Trung tâm bảo vệ
Cơ sở hạ tầng quốc gia (NIPC) trực thuộc FBI (Federal Bureau of
Investigation) của Mỹ, có chức năng ngăn chặn và bảo vệ hạ tầng quốc gia về
viễn thông, năng lƣợng, giao thông vận tải, ngân hàng và tài chính, các hoạt
động cấp cứu và các hoạt động khác của chính phủ.
Các quốc gia cũng đã nhóm họp lại, đánh giá thực trạng tình hình tội
phạm công nghệ cao trên thế giới nói chung và từng khu vực nói riêng, từ đó
đề ra những chiến lƣợc, những giải pháp để lực lƣợng thi hành pháp luật mỗi
nƣớc có thể hợp tác với nhau, hỗ trợ lẫn nhau trong quá trình đấu tranh chống
tội phạm công nghệ cao.
Nhƣ vậy, hợp tác quốc tế là một giải pháp quan trọng trong phát triển
TMĐT. Việt Nam là nƣớc đi sau, có xuất phát điểm thấp nên cũng rất cần
phải tích cực tham gia vào các hoạt động hợp tác quốc tế về Thƣơng mại điện
tử nhằm bắt kịp sự phát triển của thế giới trong lĩnh vực này.
94
KẾT LUẬN
TMĐT đang đƣợc ứng dụng trên toàn thế giới, đặc biệt là ở các nƣớc
công nghiệp phát triển có kết cấu hạ tầng CNTT tiên tiến, luật pháp hoàn
chỉnh, con ngƣời có tri thức cao, hạ tầng kinh tế vững mạnh và đang đƣợc
khẳng định là xu thế tất yếu cho phát triển kinh tế toàn cầu trong thế kỷ 21.
Đối với nƣớc ta, TMĐT là cơ hội giúp các doanh nghiệp nâng cao khả
năng cạnh tranh trên trƣờng quốc tế, mở rộng thị trƣờng xuất khẩu hàng hóa,
phát huy mọi tiềm năng chƣa đƣợc khai thác trong nƣớc, nâng cao hiệu quả
hệ thống quản lý Nhà nƣớc, giúp ngƣời tiêu dùng có nhiều cơ hội lựa chọn
hàng hóa với giá cả hợp lý, tiếp cận với kho tàng kiến thức của nhân loại.
TMĐT có vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển kinh tế xã hội
nhƣ: Góp phần mở rộng thị trƣờng, rút ngắn khoảng cách giữa các doanh
nghiệp, các quốc gia; làm giảm chi phí, tăng hiệu quả lao động xã hội; tăng
cƣờng quan hệ thƣơng mại, xây dựng quan hệ với đối tác nhờ việc tạo ra một
phƣơng thức giao dịch mới là yếu tố tích cực trong việc nâng cao hiệu quả
quản lý Nhà nƣớc về kinh tế - xã hội; tạo điều kiện để Việt Nam sớm tiếp cận
nền kinh tế tri thức.
Kinh nghiệm phát triển TMĐT ở một số nƣớc, cụ thể là Hàn Quốc,
Nhật Bản, Thái Lan, Singapore, Canada đã cho thấy để phát triển TMĐT lành
mạnh phải chú trọng phát triển nguồn nhân lực, hoàn thiện cơ chế chính sách,
pháp luật và cơ chế điều tiết phù hợp, kết hợp với hoàn thiện kết cấu hạ tầng
công nghệ, hỗ trợ các doanh nghiệp tham gia TMĐT, đặc biệt là phải đảm bảo
an ninh, an toàn cho các giao dịch TMĐT.
Trong bối cảnh đó, Việt Nam đã xây dựng đƣợc hệ thống chính sách
pháp luật tƣơng đối đầy đủ và hoàn thiện, triển khai dịch vụ chứng thực chữ
ký số; cung cấp thông tin và giao kết hợp đồng trên website TMĐT.v.v…
95
Các doanh nghiệp trong cả nƣớc đã và đang đầu tƣ, ứng dụng CNTT và
phát triển TMĐT trong doanh nghiệp mình, nhất là trong lĩnh vực dịch vụ,
chứng khoán hay bán lẻ.
Tuy nhiên, trong quá trình ứng dụng và phát triển TMĐT trong các
doanh nghiệp còn gặp nhiều rào cản nhƣ: môi trƣờng pháp lý chƣa hoàn thiện,
dịch vụ vận chuyển và giao nhận còn yếu, nguồn nhân lực chƣa đáp ứng yêu
cầu, hệ thống thanh toán điện tử chƣa phát triển, nhận thức của ngƣời dân về
thƣơng mại điện tử thấp, an ninh mạng chƣa đảm bảo, môi trƣờng xã hội và
tập quán kinh doanh chƣa phù hợp. Tất cả những điều đó tạo thành rào cản
cho sự phát triển TMĐT lành mạnh ở Việt Nam hiện nay.
Để khắc phục tình trạng đó thì cần phải tiến hành hai nhóm giải pháp
cơ bản nhƣ sau:
Nhóm giải pháp chủ yếu hỗ trợ cho TMĐT bao gồm: Tuyên truyền
phổ biến và đào tạo nguồn nhân lực cho TMĐT; hoàn thiện kết cấu hạ tầng;
xây dựng & hoàn thiện hệ thống pháp luật cho TMĐT; cung cấp các dịch vụ
công hỗ trợ TMĐT và ứng dụng TMĐT trong mua sắm Chính phủ; phát triển
công nghệ hỗ trợ TMĐT.
Nhóm giải pháp về đảm bảo an toàn cho các giao dịch thƣơng mại
bao gồm: bảo vệ thông tin cá nhân, quy định về chữ ký điện tử, thừa nhận
giá trị pháp lý đối với thông điệp dữ liệu trong TMĐT, bảo hộ quyền sở hữu
trí tuệ trong TMĐT, bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu dùng trong TMĐT, giải
quyết tranh chấp trong giao dịch mua bán hàng trực tuyến, phòng ngừa và
nghiêm trị tội phạm công nghệ cao trong TMĐT, hợp tác quốc tế trong việc
nghiêm trị tội phạm sử dụng công nghệ cao trong TMĐT.
Để những giải pháp này đạt đƣợc kết quả tốt nhất thì cần có sự hợp tác
và nỗ lực của nhân dân, doanh nghiệp và Chính phủ.
96
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Lê Hoài An (2001), “Bức tranh toàn cảnh về Thƣơng mại điện tử thế giới
2001”, Tạp chí Internet và TMĐT, số 11 tháng 09/2001.
2. Mai Anh (2001), Thương mại điện tử, việc triển khai ở Việt Nam và sự
tham gia của Hội tin học Việt Nam, Kỷ yếu tuần lễ tin học X diễn ra tại Hà
Nội tháng 09/2001.
3. Lan Anh (2001), “Phát triển Thƣơng mại điện tử tại Việt Nam – Rào cản
từ chính doanh nghiệp”, Thời báo kinh tế Sài Gòn (28).
4. Ban Công nghệ thông tin và Thƣơng mại điện tử - Bộ Thƣơng mại (2003),
Báo cáo Hiện trạng ứng dụng Thương mại điện tử ở Việt Nam.
5. Bộ Thƣơng mại (2005), Báo cáo Thương mại điện tử Việt Nam từ năm
2003 đến năm 2005.
6. Bộ Thƣơng mại (2007), Báo cáo Thương mại điện tử Việt Nam 2006.
7. Cục Thƣơng mại điện tử và Công nghệ thông tin - Bộ Công Thƣơng
(2008), Báo cáo Thương mại điện tử Việt Nam 2007.
8. Cục Thƣơng mại điện tử và Công nghệ thông tin - Bộ Công Thƣơng
(2009), Báo cáo Thương mại điện tử Việt Nam 2008.
9. Cục Thƣơng mại điện tử và Công nghệ thông tin - Bộ Công Thƣơng
(2010), Báo cáo Thương mại điện tử Việt Nam 2009.
97
10. Cục Thƣơng mại điện tử và Công nghệ thông tin - Bộ Công Thƣơng
(2011), Báo cáo Thương mại điện tử Việt Nam 2010.
11. Cục Thƣơng mại điện tử và Công nghệ thông tin - Bộ Công Thƣơng
(2012), Báo cáo Thương mại điện tử Việt Nam 2011.
12. Cục Thƣơng mại điện tử và Công nghệ thông tin - Bộ Công Thƣơng
(2013), Báo cáo Thương mại điện tử Việt Nam 2012.
13. Cục Thƣơng mại điện tử và Công nghệ thông tin - Bộ Công Thƣơng
(2014), Báo cáo Thương mại điện tử Việt Nam 2013.
14. Đỗ Thị Hạnh Dung (2006), Tìm hiểu về kỹ thuật đàm phán quốc tế thương
mại điện tử và khả năng áp dụng cho doanh nghiệp Việt Nam, Luận văn
thạc sĩ, Trƣờng Đại học ngoại thƣơng.
15. Phạm Trung Đà (2005), Mô hình phát triển Thương mại điện tử ở một số
nước Châu Á và một số giải pháp cho mô hình phát triển Thương mại điện
tử ở Việt Nam, Luận văn thạc sĩ, Trƣờng Đại học Ngoại Thƣơng.
16. Nguyễn Đăng Hậu (2004), Kiến thức Thương mại điện tử, Viện Đào tạo
công nghệ và Quản lý quốc tế.
17. Hiệp hội Thƣơng mại điện tử Việt Nam (2012), Báo cáo Chỉ số Thương
mại điện tử Việt Nam năm 2012.
18. Hiệp hội Thƣơng mại điện tử Việt Nam (2013), Báo cáo Chỉ số Thương
mại điện tử Việt Nam năm 2013.
98
19. Xuân Hiền (2002), “Hệ Thống thanh toán điện tử”, Tạp chí Internet và
thương mại điện tử, (Tr. 20,21,22,23).
20. Nguyễn Thị Hƣơng (2011), Phát triển thương mại điện tử ở Việt Nam
trong nền kinh tế thị trường, Luận văn thạc sĩ Kinh tế chính trị, Trung tâm
đào tạo, bồi dƣỡng giảng viên lý luận chính trị - Trƣờng Đại học quốc gia
Hà Nội.
21. Nguyễn Văn Minh – Trần Hoài Nam (2002), Giao dịch thương mại điện
tử - một số vấn đề cơ bản, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
22. Đào Trọng Nghĩa (2002), Thương mại điện tử và những vấn đề đặt ra đối
với Việt Nam, Luận văn thạc sĩ, Trƣờng Đại học Quốc gia Hà Nội.
23. Nguyễn Ngọc Sơn (2012), Những hạn chế và rào cản trong quá trình ứng
dụng Thương mại điện tử của các doanh nghiệp Việt Nam, Kỷ yếu hội
thảo Phát triển Thƣơng mại điện tử trong bối cảnh tái cơ cấu nền kinh tế,
tổ chức tại Thành phố Hồ Chí Minh.
24. Nguyễn Văn Thoan (2010), Ký kết và thực hiện hợp đồng điện tử trong
điều kiện Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế, Luận án tiến sĩ, Trƣờng Đại
học Ngoại thƣơng.
25. Nguyễn Văn Thụ (2004), Phát triển Thương mại điện tử ở Việt Nam trong
thời gian tới, Luận văn Thạc sĩ, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh,
Hà Nội.
99
26. Vũ Anh Tuấn (2011), Bảo mật và an toàn thông tin trong Thương mại
điện tử, Luận văn thạc sĩ, Trƣờng Đại học Thái Nguyên.
27. Đỗ Thế Tùng (2011), Học viện chính trị hành chính quốc gia Hồ Chí
Minh, “Những giải pháp chủ yếu đẩy mạnh sự phát triển thương mại điện
tử ở Việt Nam”, bài đăng trong kỷ yếu hội thảo Thƣơng mại điện tử trong
quá trình hội nhập và phát triển do Ủy ban quốc gia về hợp tác kinh tế
quốc tế, Cục thƣơng mại điện tử - Bộ công thƣơng và Hiệp hội Thƣơng
mại điện tử Việt Nam phối hợp tổ chức tháng 12/2011.
28. Đặng Thị Việt Đức, Nguyễn Thanh Tuyên (2012), Vai trò của CNTT&TT
trong nền kinh tế tri thức và trường hợp của Việt Nam, bài viết đăng trên
trang Web: http://www.baomoi.com.
29. Lê Danh Vĩnh (2001), Tình hình triển khai chương trình quốc gia về
Thương mại điện tử, Kỷ yếu tuần lễ tin học X, Hà Nội tháng 09/2001.
30. Lê Hà Vũ (2006), Xây dựng khung pháp luật nhằm phát triển Thương mại
điện tử ở Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Khoa Luật, Trƣờng Đại học Quốc
gia Hà Nội.
2. Tiếng Anh
31. International Trade Center UNCTAD/WTO (2011), Secrets of Electronic
Commerce : Aguide for small and medium – sized exporters, Geneva.
100
32. Markus Stern (2002), “E-Commerce: the enabler of the global village?
Survey, potential and visions”, E-Trade Bridge, Hanoi 21/22-01-2002,
Hochiminh city 24/25-01-2002.
33. Internet Crime Complaint Center (IC3) (2011), The 2011 IC3 Internet
Crime Reportreveals both the scope of online crime and IC3’s battle
against it, American.
34. Schneider G.P. (5 edition) (2005), Electronic Commerce, Thompson
Course Technology, Canada.
Website
35. http://www.baomoi.com.
36. http://www.google.com.
37. http://www.tailieuso.udn.vn.
38. http://vi.wikipedia.org.
39. http://voer.edu.vn.
40. http://www.ytuongso.vn.
101
PHỤ LỤC
Phụ lục 1: Cập nhật khung pháp lý cho TMĐT tại Việt Nam năm 2013
Thời gian Luật
21/12/1999 Bộ luật Hình sự
14/06/2005 Bộ luật Dân sự
14/06/2005 Bộ luật Thƣơng mại
29/11/2005 Luật Giao dịch điện tử (GDĐT)
29/06/2006 Luật CNTT
23/11/2009 Luật Viễn thông
Bộ luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ 19/06/2009 luật Hình sự 1999 số 37/2009/QH12
21/06/2012 Luật Quảng cáo
Nghị định hƣớng dẫn luật Văn bản căn cứ
Nghị định số 26/2007/ NĐ-CP quy định chi
15/02/2007 tiết thi hành Luật Giao dịch điện tử về Chữ Luật GDĐT
ký số và Dịch vụ chứng thực chữ ký số
Nghị định số 27/2007/ NĐ-CP về giao dịch 23/02/2007 Luật GDĐT điện tử trong hoạt động tài chính
Nghị định số 35/2007/ NĐ-CP về giao dịch 08/03/2007 Luật GDĐT điện tử trong lĩnh vực ngân hàng
Nghị định số 90/2008/ NĐ-CP về chống thƣ 13/08/2008 Luật GDĐT rác
Nghị định số 25/2011/ NĐ-CP quy định chi
06/04/2011 tiết và hƣớng dẫn thi hành một số điều của Luật Viễn thông
Luật Viễn thông
13/06/2011 Nghị định số 43/2011/ NĐ-CP quy định về Luật CNTT
102
việc cung cấp thông tin và dịch vụ công trực
tuyến trên trang thông tin điện tử hoặc cổng
thông tin điện tử của cơ quan Nhà nƣớc.
Nghị định số 106/2011/ NĐ-CP sửa đổi
23/11/2011 Nghị định 26/2007/NĐ-CP về Chữ ký số và Luật GDĐT
Dịch vụ chứng thực chữ ký số
Nghị định số 77/2012/ NĐ-CP sửa đổi Nghị 5/10/2012 Luật GDĐT định 90/2008/NĐ-CP về chống thƣ rác
Nghị định số 101/2012/ NĐ-CP về thanh 22/11/2012 Luật CNTT toán không dùng tiền mặt
Nghị định số 52/2013/ NĐ-CP về thƣơng 16/05/2013 Luật GDĐT mại điện tử
Nghị định số 72/2013/ NĐ-CP về Quản lý,
15/07/2013 cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông Luật CNTT
tin trên mạng
Nghị định số 181/2013/ NĐ-CP quy định chi 14/11/2013 Luật Quảng cáo tiết thi hành một số điều Luật Quảng cáo
Xử lý vi phạm hành chính Văn bản căn cứ
Nghị định số 53/2007/ NĐ-CP quy định xử
10/04/2007 phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực Luật Quảng cáo
CNTT
Nghị định số 83/2011/ NĐ-CP quy định xử 20/09/2011 Luật Viễn thông phạt hành chính trong lĩnh vực viễn thông
Nghị định số 158/2013/ NĐ-CP quy định xử
12/11/2013 phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực văn Luật CNTT
hóa, thể thao du lịch và quảng cáo
103
Nghị định số 174/2013/ NĐ-CP quy định xử
13/11/2013 phạt hành chính trong lĩnh vực bƣu chính
viễn thông, CNTT và tần số vô tuyến điện
Nghị định số 185/2013/ NĐ-CP quy định xử
phạt hành chính trong hoạt động thƣơng mại, 15/11/2013 sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và
bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu dùng
Thông tƣ hƣớng dẫn thi hành một số nội Văn bản bên trên dung của các Nghị định
Thông tƣ số 78/2008/TT-BTTTT hƣớng dẫn
thi hành một số nội dung của Nghị định Nghị định 15/09/2008 27/2007/NĐ-CP về giao dịch điện tử trong 27/2007/NĐ-CP
hoạt động tài chính
Thông tƣ số 12/2008/TT-BTC hƣớng dẫn thi
hành một số nội dung của Nghị định Nghị định 30/12/2008 90/2008/NĐ-CP của chính phủ về chống thƣ 90/2008/NĐ-CP
rác
Thông tƣ số 03/2009/TT-BTTTT quy định
về mã số quản lý đối với nhà cung cấp dịch Nghị định 02/03/2009 vụ quảng cáo bằng thƣ điện tử, tin nhắn; nhà 90/2008/NĐ-CP
cung cấp dịch vụ tin nhắn qua mạng Internet
Thông tƣ số 50/2009/TT-BTC về việc hƣớng Nghị định 16/03/2009 dẫn giao dịch điện tử trên thị trƣờng chứng 27/2007/NĐ-CP khoán
Thông tƣ số 26/2009/TT-BTTTT quy định Nghị định 31/07/2009 về việc cung cấp thông tin và đảm bảo khả 64/2007/NĐ-CP năng truy cập thuận tiện đối với trang thông
104
tin điện tử của cơ quan nhà nƣớc
Thông tƣ số 37/2009/TT-BTTTT quy định
về hồ sơ và thử tục liên quan đến cấp phép, Nghị định 14/12/2009 đăng ký, công nhận các tổ chức cung cấp 26/2007/NĐ-CP
dịch vụ chứng thực chữ ký số
Thông tƣ số 17/2010/TT-BKH quy định chi Nghị định 22/07/2010 tiết thí điểm đấu thầu qua mạng 26/2007/NĐ-CP
Thông tƣ số 23/2008/TT-NHNN quy định về Nghị định 09/11/2010 việc quản lý, vận hành và sử dụng Hệ thống 35/2007/NĐ-CP Thanh toán điện tử liên ngân hàng
Thông tƣ số 180/2010/TT-BTC hƣớng dẫn Nghị định 10/11/2010 giao dịch điện tử trong lĩnh vực thuế 27/2007/NĐ-CP
Thông tƣ số 25/2010/TT-BTTTT quy định
về việc thu thập, sử dụng, chia sẻ, đảm bảo Nghị định 15/11/2010 an toàn và bảo vệ thông tin cá nhân trên 64/2007/NĐ-CP trang thông tin điện tử hoặc cổng thông tin
điện tử của cơ quan nhà nƣớc
Thông tƣ số 209/2010/TT-BTC quy định Nghị định 20/12/2010 giao dịch điện tử trong hoạt động nghiệp vụ 27/2007/NĐ-CP kho bạc nhà nƣớc
Thông tƣ số 32/2011/TT-BTC hƣớng dẫn Nghị định 14/03/2011 khởi tạo, phát hành và sử dụng hóa đơn điện 27/2007/NĐ-CP tử bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ
Thông tƣ liên tịch số 10/2012/TTLT-BCA-
BQP-BTP-BTTTT-VKSNDTC-TANDTC 10/09/2012 Bộ Luật hình sự hƣớng dẫn áp dụng quy định của Bộ Luật
hình sự về một số tội phạm trong lĩnh vực
105
CNTT và truyền thông
Thông tƣ số 12/2013/TT-BTC quy định thủ Nghị định 20/06/2013 tục thông báo, đăng ký và công bố thông tin 52/2013/NĐ-CP liên quan đến website thƣơng mại điện tử
Thông tƣ số 10/2013/TT-BVHTTDL quy
định chi tiết và hƣớng dẫn thực hiện một số
điều của Luật Quảng cáo và Nghị định Nghị định 06/12/2013 181/2013/NĐ-CP ngày 14 tháng 11 năm 181/2013/NĐ-CP
2013 của Chính phủ quy định chi tiết thi
hành một số điều của Luật Quảng cáo
106
Phụ lục 2: Tổng hợp đánh giá các trở ngại trong triển khai TMĐT
giai đoạn 2009 – 2013
Các trở ngại 2009 2010 2011 2012 2013
An ninh mạng 2,83 2,54 2,38 2,45 2,35
Nhận thức xã hội và môi trƣờng 3,07 2,55 2,36 2,47 2,42 kinh doanh
Hệ thống thanh toán điện tử 2,76 2,39 2,30 2,29 2,13
Nguồn nhân lực 2,68 2,32 2,26 2,06 1,90
Môi trƣờng pháp lý 2,69 2,29 2,25 2,21 2,05
Dịch vụ vận chuyển và giao nhận 2,56 2,30 2,11 2,55 2,07
Nhận thức của ngƣời dân 2,89 2,49 - - -
Điểm trung bình 2,78 2,41 2,28 2,29 2,15
Độ lệch của điểm cao nhất và điểm 0,51 0,26 0,27 0,41 0,52 thấp nhất
107