ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
========================
NGUYỄN THỊ NGUYỆT
TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG
VỚI VIỆC GIÁO DỤC, RÈN LUYỆN ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG
CỦA CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SỸ TRIẾT HỌC
Hà Nội - 2015
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
========================
NGUYỄN THỊ NGUYỆT
TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG
VỚI VIỆC GIÁO DỤC, RÈN LUYỆN ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG
CỦA CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SỸ
Chuyên ngành: Triết học
Mã số: 60 22 03 01
NGƢỜI HƢỚNG DẪN: PGS. TS. PHẠM VĂN NHUẬN
Hà Nội – 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là kết quả nghiên cứu của tôi dưới sự
hướng dẫn của PGS. TS. Phạm Văn Nhuận.
Tôi xin cam đoan đề tài này không trùng với bất cứ đề tài luận văn thạc sĩ
nào đã được công bố ở Việt Nam.
Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về nội dung của đề tài.
Người cam đoan
Nguyễn Thị Nguyệt
LỜI CẢM ƠN
Em xin chân thành cảm ơn PGS. TS. Phạm Văn Nhuận, hiện đang công tác
tại Viện Khoa học xã hội và nhân văn quân sự, đã hướng dẫn em hoàn thành
luận văn này.
Đồng thời, em cũng chân thành cảm ơn sự tận tình chỉ bảo của các thầy
giáo, cô giáo trong khoa Triết học, trường Đại học khoa học xã hội và Nhân
văn Hà Nội, và tất cả người thân, bạn bè đã luôn sát cánh giúp đỡ, trong suốt
quá trình học tập cũng như trong thời gian thực hiện luận văn vừa qua.
Em xin chân thành cảm ơn!
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU: .............................................................................................. 1
CHƢƠNG 1: NGUỒN GỐC VÀ NỘI DUNG TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG ........................................................... 6
1.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn hình thành tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng .................................................................................................. 6
1.1.1.Cơ sở lý luận ............................................................................................. 6
1.1.2.Cơ sở thực tiễn .......................................................................................... 9
1.1.3.Quan niệm của Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng .............................12
1.2. Nội dung tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng ....................18
1.2.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò của đạo đức cách mạng .........18
1.2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về những chuẩn mực đạo đức cơ bản của cán bộ, đảng viên ................................................................................................... 20
1.2.2. Những nguyên tắc cơ bản trong quan niệm của Hồ Chí Minh về xây dựng đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên ............................................ 30
CHƢƠNG 2: MỘT SỐ NỘI DUNG GIÁO DỤC VÀ RÈN LUYỆN ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CỦA CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY DƢỚI ÁNH SÁNG TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH ........................... 41
2.1. Thực trạng đạo đức của cán bộ, đảng viên ở Việt Nam hiện nay ..... 41
2.1.1. Những kết quả đạt được trong giáo dục rèn luyện đạo đức của cán bộ, đảng viên ở Việt Nam hiện nay ....................................................................... 41
2.1.2. Những hạn chế về đạo đức của cán bộ, đảng viên ở Việt Nam hiện nay ...... 50
2.1.3. Nguyên nhân .......................................................................................... 59
2.2. Một số vấn đề đặt ra trong việc giáo dục rèn luyện đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên ở Việt Nam hiện nay ......................................67
2.2.1. Nền kinh tế thị trường phát triển đã ảnh hưởng tiêu cực đến đạo đức của cán bộ, đảng viên ......................................................................................67
2.2.2. Kiên quyết xử lý nghiêm minh những cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống ....................................................................70
2.3. Những giải pháp chủ yếu nhằm kế thừa và phát huy đạo đức cách
mạng của Hồ Chí Minh trong việc giáo dục rèn luyện đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên ở Việt Nam hiện nay .................................................71
2.3.1. Đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên về tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh ....................................71
2.3.2. Thực hiện tốt việc“Tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh” góp phần nâng cao chất lượng giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên trong giai đoạn hiện nay .............75
2.3.3. Tăng cường công tác tổ chức cán bộ và sinh hoạt Đảng ......................79
2.3.4. Mỗi cán bộ, đảng viên luôn tích cực tự giáo dục, tự rèn luyện đạo đức cách mạng theo tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh để thực sự là công bộc của dân..............................................................................................82
KẾT LUẬN .....................................................................................................86
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................88
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ kính yêu của dân tộc Việt Nam, Người đã
hiến dâng cả cuộc đời cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta. Người đã
để lại tài sản vô giá là tư tưởng và tấm gương đạo đức cách mạng cao đẹp, kết tinh
những giá trị truyền thống của dân tộc, của nhân loại và thời đại. Học tập và làm
theo tấm gương đạo đức của Bác là niềm vinh dự, tự hào và trách nhiệm đối với
mỗi cán bộ, đảng viên và mỗi người Việt Nam.
Đảng ta lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư
tưởng, kim chỉ nam cho hoạt động cách mạng luôn vững vàng chèo lái con thuyền
cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này tới thắng lợi khác ngày càng to lớn hơn.
Đảng luôn tự chỉnh đốn, tự đổi mới, giữ vững vai trò lãnh đạo, tổ chức mọi thắng
lợi của cách mạng Việt Nam được quần chúng nhân dân tin cậy và yêu mến -
"Đảng ta là đạo đức là văn minh". Tuy vậy, trong những năm qua, trong Đảng có
nhiều biểu hiện yếu kém, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một
bộ phận cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp cần tập trung
đấu tranh ngăn chặn. Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ tư, khóa XI
đã ra Nghị quyết “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”. Trong đó,
một vấn đề cần thực hiện trước mắt là thực hiện Chỉ thị số 03-CT/TW (ngày 14 /
5 / 2011 của Bộ Chính trị) Về tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh một cách thiết thực, hiệu quả nhất. Đây là yêu cầu
vừa cơ bản lâu dài, vừa đòi hỏi cấp bách trong quá trình đổi mới đất nước ta hiện
nay, để đạo đức cách mạng của con người Việt trong thời đại mới không ngừng
được củng cố, phát triển. Bởi vậy việc tiếp tục đi sâu nghiên cứu, học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là điều rất quan trọng và cấp thiết đối với
toàn xã hội, mà trước hết là đối với đội ngũ cán bộ, đảng viên trong Đảng và bộ
máy Nhà nước.
Trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc trước đây, cũng như trong
1
công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay, đội
ngũ cán bộ, đảng viên luôn giữ vai trò rất quan trọng, là lực lượng nòng cốt đưa
đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước vào cuộc sống. Được tôi luyện,
trưởng thành trong bão táp cách mạng và kế thừa những tinh hoa của dân tộc, tiếp
thu những yếu tố tích cực, tiến bộ của thời đại, đội ngũ cán bộ đảng viên đã không
ngừng nâng cao trình độ chính trị, học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ, lãnh đạo,
quản lý và vận động quần chúng, phát huy vai trò tiên phong, gương mẫu, đủ cả
phẩm chất và năng lực góp phần xứng đáng vào thắng lợi của sự nghiệp cách
mạng.Tuy nhiên, trong quá trình xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, những mặt trái của cơ chế thị trường đã không ngừng tác động đến tư
tưởng, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên, làm tha hóa một bộ phận không
nhỏ cán bộ đảng viên, suy giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng, chế độ.
Đối với mỗi cán bộ, đảng viên, học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh là nhiệm vụ rất quan trọng và thường xuyên, qua đó để giáo dục, rèn luyện
mình xứng đáng là đảng viên của Đảng cộng sản Việt Nam là “người lãnh đạo,
người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”. Do đó, tôi quyết định chọn vấn đề
“Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng với việc giáo dục, rèn luyện
đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài luận
văn nghiên cứu của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh nói
riêng là một vấn đề lý luận cơ bản đã và đang thu hút được sự quan tâm
nghiên cứu và vận dụng của nhiều tổ chức và cá nhân, cả trong nước và trên
thế giới. Chương trình nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh (KX02) của quốc
gia do GS Đặng Xuân Kỳ làm chủ nhiệm, trong đó có đề tài: Tư tưởng Hồ
Chí Minh về đạo đức (KX 02.08), do PGS, PTS. Nguyễn Văn Truy - chủ
nhiệm, sau nghiệm thu được xuất bản cuốn sách mang tên “Tư tưởng Hồ Chí
Minh về đạo đức”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996. Đây là một công
trình nghiên cứu công phu của tập thể tác giả các nhà khoa học đã có nhiều
năm nghiên cứu về tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, Tư tưởng Hồ Chí Minh
2
về đạo đức nói riêng. Công trình đã nghiên cứu cơ bản, toàn diện về nguồn
gốc, đặc trưng và nội dung cơ bản và khẳng định giá trị trường tồn của tư
tưởng đạo đức Hồ Chí Minh làm cơ sở cho việc quán triệt và vận dụng tư
tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh vào thực tiễn cách mạng hiện nay.
Để phục vụ cho đề tài nghiên cứu cơ bản này, còn có các công trình nghiên
cứu chuyên khảo khác như: “Hồ Chí Minh về đạo đức” - trích dẫn tư tưởng
đạo đức của Hồ Chí Minh; “Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh - truyền thống và
nhân loại”, Kỷ yếu hội thảo (1993), cùng nhiều bài nghiên cứu khác được
đăng trên các báo, tạp chí ở cả trong nước và ngoài nước.
Nghiên cứu về cuộc đời và sự nghiệp của Hồ Chí Minh, giá trị quý
báu nhất thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà khoa học cả ở trong và
ngoài nước chính là những nội dung về tư tưởng và đạo đức Hồ Chí Minh;
có nhiều nội dung đề cập tới đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên hoạt
động trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Nhiều bài viết, công trình nghiên
cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng của người cán bộ, đảng
viên đã được xuất bản thành sách và công bố trên các báo, tạp chí trong và
ngoài nước. Chẳng hạn, về tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh có các cuốn sách:
“Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng” (Nxb Sự thật, Hà Nội, 1976); “Chủ
tịch Hồ Chí Minh với vấn đề đạo đức cách mạng” (Nxb Thông tin lý luận,
Hà Nội, 1986); “Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh” (Nxb Khoa học xã hội, Hà
Nội, 1993)… và các công trình khoa học: “Giáo dục, rèn luyện đạo đức
cách mạng cho cán bộ, đảng viên theo Di Chúc của chủ tịch Hồ Chí Minh”
(Lê Hữu Cát, Mạc Văn Nam, Tạp chí Triết học, số 9, Hà Nội, 2004); “Tư
tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng của người cán bộ quân đội”, TS.
Phạm Văn Nhuận (chủ biên), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2004; “ Tư
tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức” (Lê Trọng Ân, Tạp chí Triết học, số 1, Hà
Nội, 2005); “ Nói đi đôi với làm phải nêu gương về đạo đức - một nguyên
tắc cơ bản của đạo đức Hồ Chí Minh” (Song Thành, Tạp chí Cộng sản, số
11, Hà Nội, 2005); “ Đạo đức cách mạng trong tư tưởng Hồ Chí Minh qua
các phạm trù mà người đã sử dụng” (Hoàng Trung, Luận án Tiến sĩ Triết
3
học, Hà Nội, 2005); “Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh với việc nâng cao đạo
đức cán bộ, đảng viên hiện nay” (Lê Hữu Nghĩa, Tạp chí Cộng sản, số 2 - 3,
Hà Nội, 2006); “Học tập Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh - xây dựng nền văn
hóa đạo đức ở nước ta hiện nay”, PGS, TS. Thành Duy và TS Lê Quý Đức,
Nxb Lí luận Chính trị, Hà Nội, 2007; “Tư tưởng Hồ Chí Minh về nâng cao
đạo đức cách mạng và đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân” (Vũ Thị Hồng
Lê, Luận văn Thạc sĩ Triết học, Hà Nội, 2007); “Giáo dục, rèn luyện đạo
đức cách mạng theo tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trong
quân đội hiện nay”, PGS, TS. Phạm Văn Nhuận (Chủ biên), Nxb Quân đội
nhân dân, Hà Nội, 2008).v.v..
Các công trình nghiên cứu nêu trên đã đề cập và làm rõ những vấn đề
trong quan niệm của Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng, đem lại những
đóng góp thiết thực trong nghiên cứu, học tập, rèn luyện đạo đức cách
mạng cho các đối tượng khác nhau theo tư tưởng và tấm gương đạo đức
cách mạng của Người. Tuy nhiên, vấn đề Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
với việc nâng cao hiệu quả giáo dục, rèn luyện đạo đức của cán bộ, đảng
viên ở nước ta hiện nay vẫn chưa được tập trung nghiên cứu một cách cụ
thể, sâu sắc.
Vì vậy, để đẩy mạnh hơn nữa nghiên cứu Tư tưởng Hồ Chí Minh về
đạo đức cách mạng với việc giáo dục,rèn luyện đạo đức cách mạng của cán
bộ, đảng viên ở nước ta hiện nay là rất cơ bản và cấp thiết.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
- Mục đích: Làm sâu sắc những vấn đề lí luận và thực tiễn của tư tưởng
Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng; đồng thời làm rõ thực trạng giáo dục, rèn
luyện đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên ở Việt Nam hiện nay.
- Nhiệm vụ:
Nghiên cứu những quan điểm tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh với việc giáo
dục, rèn luyện đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên ở Việt Nam.
Tìm hiểu thực tiễn giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng của cán bộ,
4
đảng viên ở Việt Nam hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh .
Đề xuất những giải pháp cơ bản nhằm giáo dục, rèn luyện đạo đức cách
mạng của cán bộ, đảng viên ở Việt Nam hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
- Đối tượng: Những quan niệm, tư tưởng cơ bản của Hồ Chí Minh về
đạo đức cách mạng và thực trạng giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng của
cán bộ, đảng viên ở Việt Nam.
- Phạm vi: Đề tài tập trung nghiên cứu những vấn đề lí luận và thực tiễn
về đạo đức Hồ Chí Minh và vận dụng vào việc giáo dục, rèn luyện đạo đức
cách mạng của cán bộ, đảng viên ở Việt Nam hiện nay;
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài
- Cơ sở lý luận: Đề tài dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin
và Tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng về đạo đức cách mạng nhằm
phục vụ cho việc phát triển kinh tế - xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Phương pháp nghiên cứu: Đề tài đã sử dụng các phương pháp: phân tích,
tổng hợp, lôgic - lịch sử, so sánh.
6. Đóng góp mới về mặt khoa học của đề tài
Đề tài góp phần làm rõ quan niệm của Hồ Chí Minh về đạo đức cách
mạng; đề xuất những giải pháp cơ bản góp phần vào giáo dục và rèn luyện đạo
đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên theo tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
- Ý nghĩa lý luận: Đề tài góp phần vào việc tìm hiểu, làm sâu sắc tư
tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng với việc giáo dục và rèn luyện đạo
đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên.
- Ý nghĩa thực tiễn: Đề tài có thể dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ
nghiên cứu, học tập môn Triết học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các
chuyên ngành khoa học khác có liên quan.
8. Kết cấu của đề tài
5
Gồm mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, 2 chương, (5 tiết).
Chƣơng 1
NGUỒN GỐC VÀ NỘI DUNG TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG
1.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn hình thành tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về
đạo đức cách mạng
1.1.1. Cơ sở lý luận
Hồ Chí Minh là lãnh tụ thiên tài của cách mạng Việt Nam, một nhân
cách vĩ đại, mẫu mực. Người đã dày công xây dựng nền đạo đức cách mạng
ở Việt Nam. Người phát triển lý luận đạo đức Mác - Lênin và kế thừa xuất
sắc những tinh hoa đạo đức của dân tộc và nhân loại. Hồ Chí Minh luôn tự
tu dưỡng, rèn luyện mình trở thành con người mẫu mực nhất, là tấm gương
trong sáng nhất về đạo đức cách mạng. Trong con người Hồ Chí Minh luôn
có sự thống nhất chặt chẽ giữa tư tưởng và tấm gương đạo đức cách mạng.
Đó là nét đặc trưng làm nên sức sống, sự lan tỏa mạnh mẽ của đạo đức Hồ
Chí Minh sau khi ra đời đã nhanh chóng được mọi tầng lớp nhân dân tiếp
nhận, phổ biến trong toàn Đảng, toàn dân và nhanh chóng trở thành đạo đức
phổ biến, chủ đạo của xã hội.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng và tư tưởng đạo đức
truyền thống của dân tộc có mối quan hệ chặt chẽ; đạo đức Hồ Chí Minh là
đạo đức cộng sản chủ nghĩa nhưng mang những đặc điểm rất Việt Nam cả về
nội dung và hình thức biểu hiện. Đó là sự kết hợp sáng tạo thế giới quan của
chủ nghĩa Mác - Lênin, nhân sinh quan cộng sản chủ nghĩa với những tinh
hoa truyền thống của dân tộc Việt Nam, một dân tộc văn hiến, coi trọng phẩm
giá con người và những giá trị tinh thần trong đời sống xã hội.Từ ngàn xưa,
dân tộc ta đã sớm có ý thức cộng đồng, giàu lòng yêu nước, biết đoàn kết,cố
kết cộng đồng trong đấu tranh chống thiên tai, giặc dã, bảo vệ và xây dựng đất
nước. Hồ Chí Minh rất biết quý trọng truyền thống đạo đức dân tộc và thường
xuyên chắt lọc giá trị tốt đẹp, bồi đắp truyền thống yêu nước thương nòi của
6
dân tộc ta.
Đạo đức truyền thống của dân tộc ta khuyên bảo con người ăn ở có
tình, có nghĩa, có đức, có nhân, biết trung, biết hiếu, v.v.. Hồ Chí Minh đã
đưa vào những khái niệm đạo đức truyền thống ấy thế giới quan khoa học và
nhân sinh quan cộng sản, hình thành những nguyên tắc, chuẩn mực của một
nền đạo đức mới để giáo dục cán bộ, đảng viên và nhân dân. Hồ Chí Minh là
người đạt đến nghệ thuật trong việc sử dụng những từ ngữ quen thuộc với
quần chúng để diễn đạt nội dung của đạo đức mới một cách dễ hiểu, dễ đi
vào lòng người.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng còn chịu ảnh hưởng sâu
sắc của hoàn cảnh quê hương và gia đình vốn gắn bó với cuộc sống hàng ngày
của Người. Tính cách xứ Nghệ với những đặc điểm như: lý tưởng trong tâm
hồn, trung kiên trong bản chất, khắc khổ trong sinh hoạt, cứng cỏi trong giao
tiếp… mang ý nghĩa, giá trị đạo đức nhân văn sâu sắc. Đặc biệt, Nghệ Tĩnh là
nơi đã sản sinh ra nhiều tấm gương yêu nước, hy sinh vì độc lập tự do của dân
tộc. Hồ Chí Minh được sinh ra trong một gia đình nhà nho yêu nước, có nếp
sống văn hóa đạo đức rất tiêu biểu. Đó là những hoàn cảnh, môi trường văn hóa
đạo đức rất sâu sắc mà Hồ Chí Minh đã được tiếp nhận từ lúc thiếu thời, một
môi trường đặc biệt tác động, in đậm dấu ấn đến quá trình hình thành tư tưởng
Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng sau này của Người.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng còn được hình thành trên
cơ sở tiếp thu tinh hoa đạo đức phương Đông và phương Tây, mà cốt lõi là đạo
đức Mác - Lênin. Hồ Chí Minh là một người mác-xít nhưng Người không ngần
ngại, mà trái lại, luôn bày tỏ sự ngưỡng mộ của mình đối với những người sáng
lập các tôn giáo lớn trên thế giới và đặc biệt trân trọng các giá trị nhân văn đạo
đức cao cả mà các bậc vĩ nhân đó đã đúc rút, sáng tạo được và ngưỡng mộ
chính phẩm hạnh của họ. Hồ Chí Minh đã có nhận xét rất xác đáng rằng: "Học
thuyết của Khổng Tử có ưu điểm của nó là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân.Tôn
giáo Giê-su có ưu điểm của nó là lòng nhân ái cao cả.Chủ nghĩa Mác có ưu
7
điểm của nó là phương pháp làm việc biện chứng. Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có
ưu điểm là chính sách của nó thích hợp với điều kiện của nước ta. Khổng Tử,
Giê xu, Mác, Tôn Dật Tiên chẳng phải đã có những điểm chung đó sao? Họ
đều muốn "mưu hạnh phúc cho loài người, cho xã hội"... Tôi cố gắng làm
người học trò nhỏ của các vị ấy” [10,tr 51].
Đạo đức phương Đông cũng đã có ảnh hưởng rất lớn đến việc hình thành
tư tưởng đạo đức cách mạng Hồ Chí Minh. Trong di sản văn hóa phương
Đông, Hồ Chí Minh không chỉ giản đơn sử dụng các khái niệm và mệnh đề
Nho giáo, mà trái lại, Người đã tiếp thu có chọn lọc những nội dung, mặt tích
cực của Nho giáo như: ở “sự tu dưỡng đạo đức cá nhân”; phẩm chất hiếu học;
về triết lý hành động, nhân nghĩa, ước vọng về một xã hội bình trị, hòa mục,
thế giới đại đồng; về một triết lý nhân sinh, tu thân, tề gia, trị quốc; đề cao văn
hóa trung hiếu “ dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh”. Các khái niệm
“trung, hiếu, trí, dũng, liêm” đã được Người kế thừa và phát triển một cách rất
sáng tạo, biết "gạn đục khơi trong" từ những lý thuyết cũ, chắt lọc lấy cái có giá
trị, bổ sung những nội dung mới.
Đối với Phật giáo, Hồ Chí Minh tiếp thu giá trị tư tưởng đạo đức: vị tha,
từ bi, bác ái, cứu khổ, cứu nạn, coi trọng tinh thần bình đẳng, chống phân biệt
đẳng cấp, chăm lo điều thiện,v.v..Hồ Chí Minh còn tiếp thu Chủ nghĩa tam dân
của Tôn Trung Sơn. Người ca ngợi chính sách của nó là “phù hợp với điều kiện
của nước ta” và sử dụng học thuyết Tam dân vào việc mưu cầu hạnh phúc cho
dân tộc. Các giá trị cơ bản như độc lập - tự do - hạnh phúc đã được Người lựa
chọn sử dụng làm mục tiêu phấn đấu, xây dựng một xã hội mới ở Việt Nam
xuyên suốt quá trình hoạt động cách mạng.
Nghiên cứu, tiếp thu những giá trị tư tưởng đạo đức phương Tây, Hồ Chí
Minh đã tìm thấy ở tư tưởng bác ái của Đức Chúa Giê-su “lòng nhân ái cao
cả”. Đặc biệt, Người chịu ảnh hưởng sâu sắc tư tưởng “tự do, bình đẳng, bác
ái” trong Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền (năm 1791) của Đại cách mạng
tư sản Pháp. Điều đó đã thôi thúc Người ra đi tìm đến tận quê hương của những
8
tư tưởng ấy để xem thực tế nó như thế nào. Về tư tưởng dân chủ của cách mạng
Mỹ, Người đã tiếp thu giá trị về quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu
hạnh phúc. Nước Pháp là nơi mà chủ nghĩa nhân văn rất phát triển. Chủ nghĩa
nhân văn là đạo đức về sự cao quý của con người. Ở đây, Hồ Chí Minh đã có
điều kiện tiếp xúc với các trào lưu tư tưởng triết học tiến bộ mà đại biểu là tư
tưởng của các nhà triết học thời kỳ Khai sáng và thời kỳ cách mạng tư sản
Pháp, như Diderot, Voltaire, Rousseau, Montesquieu… và chủ nghĩa xã hội
không tưởng của Xanhximông, Phuriê, Ôoen… Các nhà tư tưởng này đều
hướng đến một xã hội lý tưởng, đề cao con người. Hồ Chí Minh không chỉ học
hỏi, tiếp thu được kho tàng lý luận của phương Tây mà còn học hỏi được nhiều
điều từ bạn bè quốc tế trong quá trình sống và làm việc ở đó. Người hiểu được
tấm lòng khoan dung độ lượng của con người nơi đây.
Đặc biệt, từ năm 1920, Hồ Chí Minh đã đến được với chủ nghĩa Mác -
Lênin. Đây được coi là nguồn gốc lý luận trực tiếp quyết định bản chất của tư
tưởng Hồ Chí Minh, làm cho tư tưởng và hành động của Người trở nên khoa
học và cách mạng. Hồ Chí Minh không tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin một
cách rập khuôn, máy móc, giáo điều, mà Người nắm vững cái cốt lõi, linh hồn
sống của nó là phương pháp biện chứng duy vật để giải quyết thành công các
vấn đề thực tiễn của cách mạng Việt Nam. Hồ Chí Minh ca ngợi phương pháp
làm việc biện chứng, đề cao phần tinh túy nhất, sâu sắc nhất trong học thuyết
Mác - Lênin mang tính nhân đạo, nhân văn cao cả. Như vậy, học thuyết Mác -
Lênin nói chung, về đạo đức nói riêng không phải là nguồn gốc lý luận duy
nhất của tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức, nhưng là nguồn gốc lý luận nền
tảng và chủ yếu nhất, chính nhờ nguồn gốc này mà Hồ Chí Minh đã tiếp thu
và phát triển đạo đức truyền thống của dân tộc và nhân loại lên một tầm cao
mới, mang bản chất khoa học và cách mạng trở thành Đạo đức mới, Đạo đức
cách mạng Việt Nam.
1.1.2. Cơ sở thực tiễn
Cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, đất nước ta rơi vào cảnh nô lệ lầm than
9
dưới ách thống trị của đế quốc thực dân Pháp. Nhân dân ta đã liên tiếp nổi dậy
chống lại ách cai trị của thực dân Pháp nhưng do thiếu đường lối chính trị
đúng đắn lãnh đạo nên các phong trào đấu tranh đều lần lượt thất bại. Giữa
lúc đó, Hồ Chí Minh đã ra đi tìm đường cứu nước. Người đã đến nhiều nước
thuộc địa ở khắp các châu lục Á, Phi, Mỹ, Âu cũng như các nước tư bản phát
triển nhất - Mỹ, Anh, Pháp. Người vừa kiếm sống, vừa hoạt động trong các
phong trào công nhân và lao động ở nhiều nước trên thế giới. Người được tiếp
xúc với những người lao động nghèo khổ và thấy được những bất công của xã
hội tư bản. Điều đó càng thôi thúc Người tìm cho được con đường cứu nước,
giải phóng dân tộc, giải phóng nhân loại cần lao. Hồ Chí Minh ra sức học tập,
nghiên cứu các trào lưu tư tưởng cách mạng, các thể chế chính trị và từng
bước đến với chủ nghĩa Mác - Lênin; tìm thấy con đường đúng đắn cứu nước,
giải phóng dân tộc là con đường cách mạng vô sản. Từ đó, Người xây dựng
nên lý luận về cách mạng thuộc địa để lãnh đạo, tổ chức, xây dựng lực lượng,
đưa cách mạng Việt Nam tiến lên giành thắng lợi.
Như vậy, thực tiễn phong phú của thời đại và hoạt động thực tiễn cách
mạng mà Hồ Chí Minh đã từng trải qua là một nguồn gốc, cơ sở có ý nghĩa
quyết định đối với sự hình thành, phát triển và hoàn thiện tư tưởng Hồ Chí
Minh về đạo đức cách mạng. Còn về mặt chủ quan do chính nhân cách vĩ đại
của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, nói đi đôi với làm, lý luận gắn với thực
tiễn đã từng bước xây dựng nên tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, tư tưởng
về đạo đức cách mạng nói riêng. Có thể nói rằng, tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh là một tấm gương đạo đức của một vĩ nhân, một lãnh tụ cách
mạng vĩ đại, nhưng đó đồng thời cũng là tấm gương đạo đức của một người
bình thường, ai cũng có thể học theo để trở thành một người cách mạng chân
chính, một công dân tốt trong xã hội. Tấm gương đạo đức của Người được
thể hiện đó là:
Đạo đức Hồ Chí Minh là tấm gương trọn đời phấn đấu, hy sinh vì sự
nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người và nhân
10
loại. Hồ Chí Minh luôn có một ham muốn là làm sao cho nước nhà được hoàn
toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc,
ai cũng được học hành. Trên con đường thực hiện mục tiêu đó, Người đã chấp
nhận sự hy sinh, không quản gian nguy, kiên định, dũng cảm và sáng suốt để
vượt qua mọi khó khăn, thách thức, thực hiện bằng được mục tiêu đó. Sự kiên
định mục tiêu phấn đấu trong suốt cuộc đời của Hồ Chí Minh đã được nhân
dân thế giới thừa nhận và kính phục. Cuộc đời của Hồ Chí Minh là một chuỗi
năm tháng đấu tranh vô cùng gian khổ, vượt qua bao khó khăn, Người kiên trì
mục đích của cuộc sống, bảo vệ chân lý, giữ vững quan điểm, khí phách; bình
tĩnh, chủ động vượt qua mọi thử thách. Hồ Chí Minh là một người hết lòng
thương yêu, quý trọng đối với nhân dân. Người luôn đặt lợi ích của nhân dân
lên trên hết, luôn dựa vào dân, “lấy dân làm gốc”. Người giáo dục cán bộ, đảng
viên phải nêu cao tinh thần phục vụ, tinh thần trách nhiệm trước nhân dân, phải
chăm lo đời sống vật chất và tinh thần đối với nhân dân, bởi “nếu nước được
độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng không có
nghĩa lý gì”. Người dạy cán bộ phải gần dân, không được lên mặt “quan cách
mạng”, cậy quyền cậy thế đè đầu cưỡi cổ dân. Mặc dù uy tín rất cao, được nhân
dân suy tôn là “vị cha già dân tộc”, nhưng không bao giờ Người xem mình
đứng cao hơn nhân dân. Người coi việc gánh chức Chủ tịch cũng như việc
“người lính vâng mệnh lệnh quốc dân ra mặt trận”.
Hồ Chí Minh có một tấm lòng nhân ái, vị tha, khoan dung, nhân hậu hết
mực. Cả cuộc đời Người chăm lo cho hạnh phúc của nhân dân, cả cuộc đời
Người lo cho dân tộc Việt Nam. Trái tim yêu thương mênh mông của Người
ôm trọn mỗi nỗi đau khổ của nhân dân. Tình thương yêu đó được mở rộng đối
với nhân dân lao động toàn thế giới. Đối với những người lầm đường, ngay cả
những người chống đối hay kẻ thù, Hồ Chí Minh cũng thể hiện một tấm lòng
khoan dung, độ lượng hiếm có. Đối với kẻ thù khi chúng đã bị thất thế, đầu
hàng, Người luôn luôn nhắc nhở chúng ta phải đối xử với chúng một cách
khoan hồng, phải làm “cho thế giới biết rằng dân tộc ta là một dân tộc văn
11
minh, văn minh hơn bọn đi giết người, cướp nước”.
Hồ Chí Minh còn là con người chí công vô tư, luôn sống giản dị và khiêm
tốn, cần kiệm, ít lòng ham muốn về vật chất, đó là “tư cách của người cách
mạng”. Người đề ra và tự mình gương mẫu thực hiện. Cuộc đời của Người từ
một thợ ảnh bình thường ở ngõ hẻm Công-poanh đến khi làm chủ tịch nước,
sống giữa thủ đô Hà Nội, vẫn là một cuộc đời thanh bạch, giản dị, tao nhã.
Khách nước ngoài vào thăm nhà sàn của Bác đã rất xúc động khi được biết
Người không hề có một chút của riêng. Đó là một “cuộc đời thanh bạch chẳng
vàng son”, suốt đời thực hiện cần kiệm liêm chính. Nét nổi bật trong đạo đức Hồ
Chí Minh là sự khiêm tốn phi thường. Mặc dù có công lao rất lớn, Người không
để ai sùng bái cá nhân mình mà luôn luôn nêu cao sự nghiệp của toàn đảng, toàn
dân, toàn quân ta. Người nói: Quần chúng mới là người làm nên lịch sử và lịch
sử là lịch sử của chính họ chứ không phải của một cá nhân anh hùng nào.
Bấy nhiêu đức tính cao cả chung đúc lại trong một con người đã làm cho
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trở nên cao thượng tuyệt vời. Nhưng cũng
chính từ sự kết hợp của những đức tính đó, Người là tấm gương cụ thể, gần gũi
mà mọi người đều có thể noi theo.
Như vậy có thể nói, từ những học thuyết cổ, kim, đông, tây đã được Hồ
Chí Minh tiếp nhận sáng tạo, “gạn đục khơi trong” để xây dựng cho mình một
hệ thống tư tưởng Đạo đức mới, Đạo đức cách mạng Việt Nam.
1.1.3. Quan niệm của Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng
Trước khi nghiên cứu về đạo đức Hồ Chí Minh, chúng ta cần phải
nghiên cứu thật kỹ những khái niệm cơ bản như đạo đức, tư tưởng đạo đức
Hồ Chí Minh, quan điểm của Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng làm tiền đề
quan trọng để chúng ta có thể nhận thức được lý do tại sao cần phải giáo dục,
rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên ở Việt Nam hiện nay.
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, xuất hiện từ khi con người thoát
thai từ động vật và có những biến chuyển trong quá trình phát triển xã hội loài
người. Đạo đức thuộc về ý thức xã hội thể hiện sự phản ánh của con người
12
trong mối quan hệ với tự nhiên - xã hội và ngay chính bản thân con người với
nhau, thể hiện trình độ phát triển của con người trong những giai đoạn lịch sử
nhất định. Xét về yếu tố cá nhân, đạo đức là nhân tố quan trọng bậc nhất trong
nhân cách của mỗi một con người, nó thể hiện mối quan hệ giữa bản thân cá
nhân với cộng đồng xã hội và giới tự nhiên. Đây cũng là lý do tại sao trong
tác phẩm Luận cương về Phoi-ơ-bắc, C.Mác lại khẳng định: Trong tính hiện
thực của mình, bản chất con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội [35,
tr.11]. Con người là động vật cao cấp, nhưng khác biệt với tự nhiên, con
người có các mối quan hệ xã hội. Và chính đạo đức của con người được hình
thành từ các mối quan hệ xã hội đó, hay nói cách khác, đạo đức xã hội chính
là thành tố quan trọng của bản chất “xã hội” của con người.
Danh từ đạo đức bắt nguồn từ tiếng Latinh là mos, moris, nghĩa là lề
thói “moralis”, nghĩa là có liên quan đến lề thói, đạo nghĩa. Còn có một danh
từ thường được xem như đồng nghĩa với đạo đức là luân lý học, có gốc từ chữ
Hy Lạp là ethicos, cũng có nghĩa là lề thói, tập tục. Như vậy, khi ta nói đến
đạo đức là nói đến những lề thói, tập tục biểu hiện mối quan hệ nhất định giữa
người với người trong giao tiếp với nhau hàng ngày.
Ở phương Đông, các học thuyết về đạo đức của người Trung Quốc cổ
đại xuất hiện sớm. Đạo có nghĩa là con đường, đường đi, là đường sống của
con người trong xã hội. Đức dùng để nói đến nhân đức, đức tính và nhìn
chung đức là biểu hiện của đạo, là đạo nghĩa, là nguyên tắc luân lý. Như vậy
có thể nói đạo đức ở người Trung Quốc cổ đại chính là những yêu cầu, những
nguyên tắc do cuộc sống đặt ra mà con người phải tuân theo.
Quan điểm mác xít coi đạo đức là một trong những hình thái ý thức
xã hội, một chế định xã hội, nó phản ánh tồn tại xã hội, phản ánh hiện thực
đời sống. Đạo đức là sản phẩm của những điều kiện sinh hoạt vật chất của
xã hội, của cơ sở kinh tế. Sự hình thành, phát triển, hoàn thiện bản chất xã
hội của đạo đức được quy định bởi trình độ phát triển và hoàn thiện của thực
tiễn và nhận thức xã hội của con người. Ph.Ănghen viết: “Chung qui lại thì
13
mọi thuyết đạo đức đã có từ trước tới nay đều là sản phẩm của tình hình kinh
tế - xã hội lúc bấy giờ” [37, tr. 137]. Đạo đức chính là yếu tố bản chất của
con người trong quá trình phát triển của mình theo hướng ngày càng đạt tới
giá trị đích thực của cái thiện.
Đặc trưng quan trọng của đạo đức là năng lực ý thức và hành động tự
nguyện, tự giác của con người vì cái thiện, vì lợi ích và hạnh phúc của con
người và tiến bộ xã hội. Tính tự giác của đạo đức thể hiện ở sự quan tâm của
con người đến người khác, đến xã hội. Sự tự giác, tự nguyện là một trong
những cơ sở của tự do. Ph.Ăngghen khẳng định: “Người ta không thể bàn về
đạo đức và pháp quyền mà lại không nói đến vấn đề gọi là tự do ý chí, lương
tri của con người, quan hệ giữa tất yếu và tự do” [36, tr.162]. Người ta chỉ có
thể đạt được sự tự do của đạo đức khi có nhận thức sâu sắc nội dung, ý nghĩa
của những yêu cầu, quy phạm đạo đức xã hội, biến nó thành nhu cầu đạo đức
nội tại, thành chuẩn mực hành vi mà cá nhân tự giác, tự nguyện tuân thủ. Các
nhà mác xít cũng chỉ ra mối quan hệ của cơ sở kinh tế và đạo đức đồng thời
chủ trương xây dựng xã hội mới xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa làm
nền tảng hình thành và phát triển đạo đức cao đẹp - đạo đức cộng sản.
V.I.Lênin đã nêu giá trị đạo đức được xác định ở chỗ nó phục vụ cho tiến bộ
xã hội vì hạnh phúc của con người: "Đạo đức giúp cho xã hội loài người tiến
Ngày nay, có rất nhiều quan niệm khác nhau về đạo đức, song theo
lên trình độ cao hơn, thoát khỏi ách bóc lột lao động" [29, tr.356].
chúng tôi định nghĩa sau đây là phù hợp: “Đạo đức là một hình thái ý thức xã
hội, là tập hợp những nguyên tắc, qui tắc, chuẩn mực xã hội, nhằm điều chỉnh
và đánh giá cách ứng xử của con người trong quan hệ với nhau và quan hệ
với xã hội, chúng được thực hiện với niềm tin cá nhân, bởi truyền thống và
sức mạnh của dư luận xã hội” [34, tr.8]. Theo định nghĩa này, đạo đức được
xem xét ở ba phương diện chủ yếu:
Thứ nhất, đạo đức với tư cách là một hình thái ý thức xã hội bao gồm
toàn bộ những quan điểm, quy tắc, chuẩn mực nhằm điều chỉnh hành vi và
đánh giá cách ứng xử trong quan hệ con người với con người, con người với
14
xã hội nhằm đảm bảo quan hệ lợi ích của cá nhân với cộng đồng.
Thứ hai, đạo đức là phương thức để điều chỉnh hành vi của con người.
Những chuẩn mực và quy tắc là những yêu cầu của xã hội nhằm điều chỉnh
hành vi của mỗi cá nhân trong mối quan hệ với nhau và với xã hội.
Thứ ba, đạo đức là một hệ thống giá trị. Đó là các giá trị vật chất và tinh
thần; các giá trị sản xuất và tiêu dùng; các giá trị chính trị - xã hội, thẩm mỹ,
tôn giáo… Thiện là giá trị đạo đức cao nhất, là cái tốt đẹp mang lại cái có ích
lợi, đáp ứng nhu cầu của con người, cộng đồng, xã hội.
Đạo đức có các chức năng: chức năng nhận thức, chức năng điều chỉnh
hành vi và chức năng giáo dục.
Chức năng nhận thức của đạo đức giúp con người đi đến sự nhận biết,
phân biệt những giá trị: đúng sai, tốt xấu, thiện ác,... hướng tới giá trị bao
quát đó là cái chân, thiện, mỹ. Từ nhận thức này mà chủ thể hình thành và
phát triển thành các quan điểm và nguyên tắc sống của mình.
Chức năng điều chỉnh hành vi của đạo đức làm cá nhân và xã hội cùng
tồn tại và phát triển, bảo đảm quan hệ lợi ích cá nhân và cộng đồng.
Chức năng giáo dục của đạo đức là để hình thành những quan điểm cơ
bản nhất, những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực đạo đức cho con người; nó
còn giúp cho con người có khả năng lựa chọn, đánh giá các hiện tượng xã
hội; từ đó con người tự điều chỉnh hành vi của mình để không ngừng hoàn
thiện. Chức năng giáo dục đóng vai trò rất quan trọng trong việc hình thành
nhân cách con người.
Tóm lại, có thể thấy đạo đức ra đời, tồn tại và phát triển gắn liền với
sự tồn tại và phát triển của con người và xã hội loài người. Đạo đức là một
trong những nhân tố cơ bản điều chỉnh hành vi con người, là cội nguồn của
hạnh phúc và là động cơ, sức mạnh để chống lại cái ác, góp phần thúc đẩy
sự phát triển kinh tế, sự tiến bộ xã hội. Đạo đức có vai trò rất quan trọng
trong đời sống xã hội. Nói đến đạo đức là nói đến quan hệ giữa cái tốt và cái
xấu, giữa cái đúng và cái sai. Cơ chế vận hành của đạo đức trong đời sống
15
xã hội bao gồm: ý thức đạo đức, hành vi đạo đức và đánh giá đạo đức. Ý
thức đạo đức bao hàm những chuẩn mực, thói quen, tập quán và phong tục
đạo đức tác động đến tư tưởng, tình cảm và hành vi của con người. Chúng
có thể đóng vai trò định hướng tinh thần trong cuộc sống cá nhân và cộng
đồng . Các chuẩn mực đạo đức là cơ sở để con người sống với nhau một
cách hòa thuận, nhân ái.
Vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng đạo đức cách mạng của chủ
nghĩa Mác - Lênin và những tinh hoa văn hóa, đạo đức của nhân loại, trên cơ
sở truyền thống đạo đức của dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh đã để lại cho
chúng ta di sản quý báu trong đó có tư tưởng đạo đức của Người. Đó là là một
hệ thống các quan điểm về vai trò của đạo đức; những phẩm chất đạo đức cơ
bản, đạo đức cách mạng và những nguyên tắc xây dựng nền đạo đức mới.
Tư tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh gần gũi với mỗi người với những
chuẩn mực đạo đức cụ thể cho từng đối tượng, từ cán bộ, đảng viên, nông dân,
trí thức, công an, bộ đội, cho đến văn nghệ sĩ, nhà báo, thanh niên, thiếu niên.
Hơn nữa, không chỉ nêu những yêu cầu về đạo đức mà bản thân Chủ tịch Hồ
Chí Minh là một tấm gương sáng ngời về đạo đức, suốt đời không mệt mỏi tự
rèn mình, giáo dục, động viên cán bộ, đảng viên, nhân dân cùng thực hiện.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng là hệ thống các nguyên
tắc, quy tắc, chuẩn mực, giá trị đạo đức để định hướng, điều chỉnh, đánh giá
ý thức và hành vi đạo đức cách mạng của mọi tầng lớp nhân dân, trước hết là
cán bộ đảng viên tự nguyện, tự giác đấu tranh vì độc lập, tự do của Tổ quốc,
vì hạnh phúc của nhân dân. Vấn đề đạo đức được Hồ Chí Minh đặt ra và
xem xét một cách toàn diện trong tất cả mọi lĩnh vực hoạt động của con
người, từ việc tư đến việc công, từ lao động sản xuất ở hậu phương đến
chiến đấu ngoài mặt trận, từ học tập, công tác đến sinh hoạt hàng ngày. Việc
Hồ Chí Minh xem xét vấn đề đạo đức một cách toàn diện là một cách nhìn
khách quan, phù hợp với thực tiễn xã hội, đấu tranh cách mạng.
Hồ Chí Minh không đưa ra định nghĩa đạo đức là gì, nhưng trong sử
dụng, thuật ngữ đạo đức được hiểu là các qui tắc, chuẩn mực dùng điều chỉnh
16
ý thức và hành vi con người trong quan hệ: với tự mình, với người và với công
việc. Những tư tưởng về đạo đức cách mạng được Hồ Chí Minh khái quát, thể
hiện trong hành động và trong lối sống của mình trước rồi phổ biến cho mọi
người cùng thực hiện theo dần trở thành những nội dung cơ bản của Đạo đức
mới, Đạo đức cách mạng Việt Nam. Người diễn đạt nội dung đạo đức đó
thành những lời nói, cách nói dễ hiểu, dễ nhớ, thiết thực để mọi người cùng
làm, cùng hoàn thành nhiệm vụ. Chẳng hạn với bài thơ “Nghe tiếng giã gạo”,
Hồ Chí Minh không chỉ đơn thuần nói về công việc giã gạo mà qua đó còn toát
lên ý nghĩa giáo dục đạo đức rất sâu sắc.“Gạo đem vào giã bao đau đớn / Gạo
giã xong rồi trắng tựa bông./ Sống ở trên đời người cũng vậy,/ Gian nan rèn
luyện mới thành công” [42, tr 350].
Về đạo đức cách mạng, Hồ Chí Minh giải thích, đạo đức cách mạng
là đạo đức mới, không phải là đạo đức thủ cựu. Đạo đức mới kế thừa ,
phát triển truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc và của loài người theo
quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin. Hồ Chí Minh cho rằng đạo đức
cách mạng là tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân, quyết tâm
suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng, bất kỳ khó khăn nào cũng
kiên quyết làm đúng chính sách, nghị quyết của Đảng, làm gương cho
quần chúng, hòa mình với quần chúng thành một khối, tin quần chúng,
hiểu quần chúng, lắng nghe ý kiến của quần chúng, thực hiện cần, kiệm,
liêm, chính, chí công vô tư. Từ quan niệm về đạo đức cách mạng nêu trên,
Người coi đạo đức là cội nguồn của người cách mạng. Do đó, bồi dưỡng
đạo đức cách mạng gắn liền với chống chủ nghĩa cá nhân. Theo cách nói
của Người thì các căn bệnh quan liêu, lãng phí, tham nhũng đều do chủ
nghĩa cá nhân mà ra. Do sa vào chủ nghĩa cá nhân mà làm ô danh Đảng,
tham ô, hối lộ, nhũng nhiễu nhân dân làm mất tư cách của người cán bộ,
đảng viên. Nhưng đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân không phải là giày
xéo lên lợi ích cá nhân. Bác Hồ cũng đưa ra các nguyên tắc xây dựng đạo
đức cách mạng là tu dưỡng đạo đức cách mạng suốt đời, nói và làm đi
17
đôi, nêu gương đạo đức cách mạng, xây dựng dạo đức mới đi liền với
chống đạo đức lạc hậu…. Hồ Chí Minh đã khái quát bốn đức cơ bản nhất
của con người là cần, kiệm, liêm, chính.
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh thì người sức có mạnh mới gánh
được nặng và đi được xa, người đảng viên phải có đạo đức cách mạng mới
hoàn thành nhiệm vụ cách mạng vẻ vang. Do đó cần giáo dục đạo đức cách
mạng cho đảng viên nhận rõ được mục đích, động cơ vào Đảng, tự nguyện
phục vụ nhân dân và làm đúng chính sách của Đảng. Quan tâm lớn nhất của
Hồ Chí Minh là làm sao thấm nhuần đạo đức cách mạng. Người yêu cầu
đảng viên phải luôn trau dồi đức tính khiêm tốn, giản dị; cần, kiệm trong lao
động, học tập, công tác, có đời tư trong sáng. Giáo dục đạo đức cách mạng
cho đảng viên phải chú trọng cả rèn đức, luyện tài để họ vừa có đạo đức vừa
có tài, vừa có phẩm chất, vừa có năng lực. Có tài phải có đức. “Có tài không
có đức, tham ô có hại cho Nhà nước. Có đức không có tài như ông bụt ngồi
trong chùa, không giúp ích gì cho ai”. Hồ Chí Minh vừa là nhà đạo đức vừa
là một biểu tượng sáng ngời về đạo đức cách mạng.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng có sự hội tụ của nhiều
học thuyết cổ, kim, đông, tây, truyền thống của dân tộc Việt Nam và nhân
loại, nhưng quan trọng và mang ý nghĩa quyết định bản chất khoa học và
cách mạng của tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng là chủ nghĩa
Mác - Lênin. Trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, Người có cái nhìn biện
chứng trong việc tiếp thu những tư tưởng đạo đức mới, đạo đức cách mạng
phù hợp với yêu cầu thực tiễn của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc với
nhiều nội dung phong phú.
1.2. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng
1.2.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò của đạo đức cách mạng
Từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã khẳng định đạo đức là gốc của người cách
mạng. Trong tác phẩm “Đường cách mệnh”, Người đã nêu lên 23 điểm thuộc
“ tư cách một người cách mệnh”, trong đó chủ yếu các tiêu chuẩn về đạo đức,
18
thể hiện chủ yếu trong ba mối quan hệ: với mình, với người và với việc.
Người viết: “Làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới là một sự
nghiệp rất vẻ vang, nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu
tranh rất phức tạp, lâu dài, gian khổ. Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi
được xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng mới
hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang” [60, tr 283].
Với mỗi người, Hồ Chí Minh ví đạo đức là nguồn nuôi dưỡng và phát
triển con người, như gốc của cây, ngọn nguồn của sông suối. Người viết:
“Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây
phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức,
không có đạo đức thì dù có tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”
[49, tr 252 - 253]. Theo Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng giúp cho con người
vững vàng trong mọi thử thách. Người viết: “Có đạo đức cách mạng, thì khi
gặp khó khăn gian khổ, thất bại, cũng không sợ sệt, rụt rè, lùi bước… khi gặp
thuận lợi và thành công cũng vẫn gữ vững tinh thần gian khổ, chất phác,
khiêm tốn, lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ, lo hoàn thành nhiệm vụ cho tốt
chứ không kèn cựa về mặt hưởng thụ; không công thần, không quan liêu,
không kiêu ngạo, không hủ hóa” [60, tr 284]. Với yêu cầu đó, Hồ Chí Minh
nêu năm điểm đạo đức mà người đảng viên phải giữ gìn cho đúng, đó là:
- Đạo đức cách mạng là tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân.
- Là ra sức phấn đấu để thực hiện mục tiêu của Đảng.
- Vô luận trong hoàn cảnh nào cũng phải quyết tâm chống mọi kẻ địch,
luôn luôn cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu, quyết không chịu khuất phục, không
chịu cúi đầu.
- Vô luận trong hoàn cảnh nào, người đảng viên cũng phải đặt lợi ích
của Đảng lên trên hết.
- Đạo đức cách mạng là hòa mình với quần chúng thành một khối, tin
quần chúng, hiểu quần chúng, lắng nghe ý kiến của quần chúng.
Đối với Đảng, tổ chức tiền phong chiến đấu của giai cấp công nhân, nhân
dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh yêu cầu phải xây dựng
19
Đảng ta thật trong sạch, vững mạnh, Đảng phải “là đạo đức, là văn minh”.
Vấn đề đạo đức đã được Hồ Chí Minh đề cập một cách toàn diện.
Người nêu yêu cầu đạo đức đối với các giai cấp, tầng lớp và các nhóm xã hội,
trên mọi lĩnh vực hoạt động, trong mọi phạm vi, từ gia đình đến xã hội, trong
cả ba mối quan hệ của con người: đối với mình, đối với người, đối với việc.
Tư tưởng Hồ Chí Minh đặc biệt được mở rộng trong lĩnh vực đạo đức của cán
bộ, đảng viên, nhất là khi đảng đã trở thành Đảng cầm quyền. Trong bản Di
chúc bất hủ, Người viết: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và
cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng , thật sự cần kiệm liêm
chính, chí công vô tư” [66, tr 498].
Là một hình thái ý thức xã hội, đạo đức không phải hoàn toàn một chiều
phụ thuộc vào tồn tại xã hội, vào những điều kiện vật chất kinh tế. Nó có khả
năng tác động tích cực trở lại, cải biến tồn tại xã hội, giá trị đạo đức tinh thần
một khi được con người chấp nhận sẽ biến thành một sức mạnh vật chất. Hồ
Chí Minh nhấn mạnh sức mạnh tinh thần của đạo đức cách mạng và coi đó là
nhân tố quan trọng, góp phần xây dựng và phát triển con người, hướng con
người tới chủ nghĩa nhân văn cao đẹp, chủ nghĩa nhân văn cộng sản.
1.2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về những chuẩn mực đạo đức cơ bản
của cán bộ, đảng viên
Một là, trung với nước, hiếu với dân. Theo Hồ Chí Minh phẩm chất đạo
đức cơ bản hàng đầu cần phải có của mỗi cán bộ, đảng viên nói riêng và nhân
dân nói chung là “Trung với nước, hiếu với dân”, hết lòng,hết sức phục vụ Tổ
quốc, phục vụ Đảng, phục vụ nhân dân.
Trung, hiếu là đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam và phương
Đông, đã được Hồ Chí Minh kế thừa và phát triển trong điều kiện mới. Trung
với nước là trung thành với sự nghiệp dựng nước, giữ nước, phát triển đất
nước. Nước là của dân, dân là chủ của đất nước, trung với nước là trung với
dân, “Bao nhiêu quyền hạn đều của dân”; “bao nhiêu lợi ích đều vì dân”. Hiếu
với dân nghĩa là cán bộ đảng, cán bộ nhà nước “vừa là người lãnh đạo, vừa là
20
người đầy tớ trung thành của nhân dân”.
Trải qua hàng ngàn năm lịch sử trong quan hệ văn hóa - đạo đức
truyền thống của dân tộc ta mối quan hệ giữa dân và nước, giữa cá nhân
với Tổ quốc là mối quan hệ lớn nhất, có vai trò chi phối các mối quan hệ
khác. Do đó, trung với nước, hiếu với dân là phẩm chất đạo đức hàng đầu.
Trung và hiếu là những phẩm chất đạo đức truyền thống nhưng đến Hồ Chí
Minh, quan niệm trung và hiếu không còn bị bó hẹp trong khái niệm trung
với vua, hiếu với cha mẹ nữa mà đã được Người kế thừa và mở rộng hơn
rất nhiều, biến đổi về chất. Theo Hồ Chí Minh, trung với nước, hiếu với
dân gắn bó chặt chẽ với nhau vì “dân là dân nước, nước là nước của dân”,
nhân dân là chủ nhân của đất nước. “Trung với nước” là trung thành với sự
nghiệp cách mạng của dân tộc, suốt đời phấn đấu vì hạnh phúc và tương lai
của nhân dân. Trung với nước còn là trung với Đảng, với Tổ quốc, có trách
nhiệm thực hiện nghĩa vụ cá nhân đối với sự nghiệp dựng nước và giữ
nước. Trung với nước còn thể hiện tinh thần yêu nước, đặt lợi ích của dân
tộc lên trên hết; mọi hoạt động của cán bộ tập trung phục vụ lợi ích cho dân
tộc và cho nhân dân và là người kiên quyết chống lại những hành động và
tư tưởng trái với quyền lợi của Tổ quốc.
Còn “Hiếu với dân” theo Hồ Chí Minh là hết lòng phục vụ và hy sinh
cho quyền lợi của nhân dân, dám xả thân vì hạnh phúc của nhân dân. Hiếu
với dân được cụ thể hóa bằng chủ trương “bao nhiêu quyền hạn đều của
dân”, “bao nhiêu lợi ích đều vì dân”, “bao nhiêu quyền hành và lực lượng
đều ở nơi dân”, “Đảng và Chính phủ là đầy tớ của nhân dân”. Chính quyền
phải có trách nhiệm lo cho dân: “Làm cho dân có ăn, làm cho dân có mặc,
làm cho dân có chỗ ở, làm cho dân có học hành”. Người nhấn mạnh: “Cũng
như trung là trung với Tổ quốc, hiếu là hiếu với nhân dân; ta thương cha mẹ
ta, mà còn phải thương cha mẹ người, phải cho mọi người đều biết thương
cha mẹ” [51, tr 640].
Ở Hồ Chí Minh, hiếu với dân không dừng lại ở chỗ thương dân mà
chủ yếu tin dân, dựa vào dân, gần dân, giúp đỡ dân, lo cho cuộc sống của
21
nhân dân ngày càng tốt hơn. Người khuyên cán bộ, đảng viên phải dựa vào
dân, gắn bó với dân, “lấy dân làm gốc”. Người còn dạy rằng, hiếu với dân
thì phải “làm sao cho dân biết hưởng quyền dân chủ, biết dùng quyền dân
chủ của mình, dám nói, dám làm. Người coi là có lỗi vì chưa hoàn thành
nhiệm vụ như ý muốn khi nước đã độc lập mà dân không được hưởng tự
do, ấm no, hạnh phúc. Người chỉ rõ: “Chính sách của Đảng và Chính phủ là
phải hết sức chăm nom đến đời sống của nhân dân. Nếu dân đói, Đảng và
Chính phủ có lỗi; nếu dân rét là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân dốt là
Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân ốm là Đảng và Chính phủ có lỗi. Vì
vậy, cán bộ đảng và chính quyền từ trên xuống dưới, đều phải hết sức quan
tâm đến đời sống của nhân dân” [56, tr572], nghĩa là gánh vác việc chung
cho dân”. Và Người nhấn mạnh “việc gì có lợi cho dân ta phải hết sức làm,
việc gì có hại cho dân ta phải hết sức tránh” [45, tr56 - 57]. Cách mạng là
sự nghiệp của quần chúng “lật thuyền mới biết sức dân mạnh”. Nên, người
cán bộ luôn tự nhắc mình phải thấm nhuần tư tưởng hiếu với dân đó là yêu
mến, quý trọng nhân dân, chăm lo cho cuộc sống và bảo vệ quyền lợi của
nhân dân. Tình yêu đó không chỉ dành cho cá nhân, gia đình mà còn cho cả
dân tộc và nhân loại: “Mình không những cứu bố mẹ mình mà còn cứu bố
mẹ người khác, bố mẹ của cả nước. Phải hiểu chữ hiếu của cách mạng rộng
rãi như vậy” [54, tr60]. Để cho cán bộ có nhận thức đúng, hiểu đúng về đạo
đức cách mạng của người cán bộ, trong buổi tập huấn cho cán bộ tự vệ -
Những người lính xung kích và cảm tử bảo vệ thành quả cách mạng của
cách mạng tháng Tám năm 1945, Hồ Chí Minh đã dạy: “Đạo đức ngày
trước thì chỉ trung với vua, hiếu với cha mẹ. Ngày nay, thời đại mới, đạo
đức cũng phải mới. Phải trung với nước. Phải hiếu với toàn dân, với đồng
bào” [46, tr149]. “Trung với nước, hiếu với dân” là hạt nhân cơ bản nhất
của tư tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh.
Hai là, yêu thương con người, sống có nghĩa, có tình. Lòng yêu
thương con người là một giá trị nổi bật của đạo đức truyền thống Việt
Nam. Giá trị ấy đã được Hồ Chí Minh kế thừa và phát triển dựa trên sự kết
22
hợp với chủ nghĩa nhân đạo cộng sản. Đó là một trong những phẩm chất
cao đẹp của con người mới Việt Nam. Tình thương yêu con người ở Hồ
Chí Minh rất bao la, rộng lớn. Người luôn dành tình yêu thương của mình
cho các dân tộc và con người bị áp bức đau khổ. Hồ Chí Minh luôn sống
giữa cuộc đời và gần gũi với mọi người. Đó cũng là lý do tại sao mà tình
yêu thương con người trong tư tưởng đạo đức của Người thể hiện ở mọi
mối quan hệ của con người là đòi hỏi mọi người phải thật sự rộng rãi, độ
lượng với người khác, phải thật sự tôn trọng người khác, phải sống với
nhau có tình có nghĩa. Người viết: “Học chủ nghĩa Mác – Lênin là phải
sống với nhau có tình có nghĩa. Nếu thuộc bao nhiêu sách mà sống không
có tình có nghĩa thì sao gọi là hiểu chủ nghĩa Mác – Lênin được” [67, tr
554]. Tuy nhiên, không phải vì thế mà bao che khuyết điểm cho nhau, mà
phải trên nguyên tắc phê bình và tự phê bình, giúp nhau sửa chữa khuyết
điểm, phát huy ưu điểm để không ngừng tiến bộ.
Ba là cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Để giáo dục đạo đức cho
cán bộ, đảng viên và nhân dân ta, Hồ Chí Minh đã có nhiều tác phẩm viết về
vấn đề này. Ngay từ năm 1927, trong tác phẩm “Ðường Kách mệnh”, chương
đầu tiên của cuốn sách là Tư cách một người cách mệnh; và tiêu chuẩn đầu
tiên trong Tư cách một người cách mệnh chính là: cần kiệm. Sau này là các
tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” (10-1947), “Thực hành tiết kiệm, chống tham
ô, lãng phí, chống bệnh quan liêu” (1952). “Đạo đức cách mạng” (12-1958)
và các bài báo như “Chớ kiêu ngạo, phải khiêm tốn”, “Cần kiệm, liêm,
chính”, “Cần tẩy sạch bệnh quan liêu, mệnh lệnh”, “Nâng cao đạo đức cách
mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân”…Trước lúc đi xa, trong bản di chúc để
lại cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta, Người nhắc “Đảng ta là một đảng
cầm quyền, Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách
mạng, thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư… [66, tr 498]” . Người
đã phát động nhân dân thực hiện cần, kiệm, liêm, chính. Và chính Người là
một tấm gương sáng trong việc thực hiện tinh thần cần kiệm liêm chính trong
23
cuộc sống sinh hoạt hàng ngày cũng như trong làm việc.
Đối với cán bộ, Bác chỉ rõ: “Ngày nay ta đề ra cần, kiệm, liêm, chính
cho cán bộ thực hiện, làm gương cho nhân dân theo để lợi cho nước cho dân”
[52, tr 321]. Và cần, kiệm, liêm, chính là nền tảng của đời sống mới, là đức
tính mới của con người sống dưới chế độ mới và là khẩu hiệu thi đua cách
mạng của toàn đảng, toàn quân và toàn dân ta thực hiện trong suốt hai cuộc
kháng chiến thần thánh của dân tộc. Nhấn mạnh, đức tính cần, liệm, liêm,
chính đối với cán bộ, Người đã so sánh với những hiện tượng thiên nhiên trở
thành quy luật rất gần gũi với con người:
“Trời có bốn mùa: xuân, hạ, thu, đông
Đất có bốn phương: đông, tây, nam, bắc
Người có bốn đức: Cần, kiệm. liêm, chính…
Thiếu một đức thì không thành người” [51, tr 631].
Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, vốn là các khái niệm cơ bản của
đạo đức Nho giáo và đạo đức truyền thống Việt Nam, đã được Hồ Chí Minh
tiếp thu và bổ sung thêm nhiều nội dung mới phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ
mới của đất nước. Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư đã được Hồ Chí
Minh giải thích một cách ngắn gọn, giản dị, cụ thể, dễ hiểu và dễ làm theo.
Cần: là lao động cần cù, siêng năng, có kế hoạch, sáng tạo, có năng
suất cao; lao động với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng, không ỷ
lại, không dựa dẫm; phải kiên trì, bền bỉ, dẻo dai. Phải thấy rõ lao động là
nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của con người. Cán
bộ, đảng viên phải hăng say làm việc, phải tính toán cẩn thận và phân công cụ
thể, rõ ràng, phải kiên quyết đấu tranh chống lại lười biếng. Vì lười biếng là
kẻ địch của chữ cần, kẻ địch của dân tộc.
Kiệm: là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của dân,
của nước, của bản thân mình, tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ, vì nhiều cái nhỏ
cộng lại thành cái to; không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi, không
phô trương, hình thức. Tiết kiệm là để tích trữ vốn, mở rộng sản xuất. Tiết
kiệm khác với bủn xỉn, “xem đồng tiền to bằng cái nống” (cái nong). Bác dạy:
24
“Khi không nên tiêu xài thì một đồng xu cũng không nên tiêu. Khi có việc
đáng làm, việc ích lợi cho đồng bào, cho Tổ quốc, thì dù bao nhiêu công, tốn
bao nhiêu của, cũng vui lòng. Như thế mới đúng là kiệm. Việc đáng tiêu mà
không tiêu, là bủn xỉn, chứ không phải là kiệm” [51, tr 637]. Bác khuyên cán
bộ, đảng viên phải tiết kiệm: “Giấy bút, vật liệu đều tốn tiền của Chính phủ
tức là của dân; ta cần phải tiết kiệm. Nếu một miếng giấy nhỏ đủ viết, thì chớ
dùng một tờ to. Một cái phong bì có thể dùng hai ba lần. Mỗi ngày, công sở
cả nước dùng hàng mấy vạn tờ giấy và phong bì. Nơi nào cũng tiết kiệm một
chút, thì trong một năm đỡ được hàng vạn tấn giấy, tức là hàng triệu đồng
bạc. Các vật liệu khác cũng vậy. Nhờ các công sở tiết kiệm mà lợi cho dân rất
nhiều” [48, tr 104 - 105].
Hồ Chí Minh còn chỉ rõ mối liên hệ mật thiết giữa cần và kiệm. Người
căn dặn: Cần và kiệm phải đi đôi với nhau như hai chân của con người. “Cần
mà không kiệm” thì làm chừng nào xào chừng ấy”. Cũng như một cái thùng
không có đáy; nước đổ vào chừng nào, chảy ra hết chừng ấy, không lại hoàn
không. Kiệm mà không cần thì “không tăng thêm, không phát triển được”
[51, tr 635]. Một mặt chúng ta phải thi đua kiệm, một mặt chúng ta phải thi
đua cần. Kết quả của cần và kiệm sẽ là “bộ đội sẽ đầy đủ, nhân dân sẽ ấm no,
kháng chiến sẽ mau thắng lợi, kiến quốc sẽ mau thành công, nước ta sẽ mau
giầu mạnh ngang hàng với các nước tiên tiến trên thế giới” [51, tr 639].
Liêm là trong sạch, không tham lam, không tham ô, luôn tôn trọng, giữ
gìn của công, của dân, không chiếm dụng của công làm của tư, không sách
nhiễu nhân dân. Không tham địa vị, không tham tiền tài, không tham sung
sướng. Không ham người tâng bốc mình. Vì vậy mà quang minh chính đại.
Không bao giờ hủ hóa. Chỉ có một thứ ham là ham học, ham làm, ham tiến bộ.
Chữ Liêm phải đi đôi với chữ Kiệm, cũng như chữ Kiệm phải đi đôi với
chữ Cần. Có Kiệm mới Liêm được. Vì xa xỉ mà sinh tham lam. Hồ Chí Minh
chỉ rõ, tham tiền của, tham địa vị, tham danh tiếng, tham ăn ngon, sống yên đều
là bất liêm: “Do bất liêm mà đi đến tội ác trộm cắp. Công khai hay bí mật, trực
tiếp hay gián tiếp, bất liêm tức là trộm cắp” [51, tr 641]. Không chỉ người có
25
chức quyền mới phải liêm mà mọi người đều phải liêm, nhưng cán bộ phải
thực hành chữ liêm trước, để làm kiểu mẫu cho dân. Dân phải biết quyền hạn
của mình, phải biết kiểm soát cán bộ, để giúp cán bộ thực hiện chữ liêm. Cán
bộ thi đua thực hành liêm khiết thì sẽ gây nên tính liêm khiết trong nhân dân.
Đồng thời pháp luật phải thẳng tay trừng trị những kẻ bất liêm, bất kỳ kẻ ấy ở
địa vị nào, làm nghề nghiệp gì. Hồ Chí Minh khẳng định việc thực hiện tốt
Cần, Kiệm, Liêm, Chính có ý nghĩa rất to lớn đối với sự phát triển của dân tộc.
Người viết: “Một dân tộc biết cần, kiệm, biết liêm, là một dân tộc giàu về vật
chất, mạnh về tinh thần, là một dân tộc văn minh tiến bộ” [51, tr 642].
Chính là không tà, là thẳng thắn, đứng đắn. Điều gì không đứng đắn,
thẳng thắn, tức là tà. Cần, kiệm, liêm là gốc rễ của chính; nhưng một cây cần
có gốc rễ, lại có nhành, lá, hoa, quả mới là hoàn toàn. Một người phải cần,
kiệm, liêm, nhưng còn phải chính mới là người hoàn toàn. Hồ Chí Minh chỉ
rõ: “Người có thiện và ác; việc có chính và tà. Làm việc chính là người
thiện; làm việc tà là người ác” [51, tr 643]. Chính đối với mình là không tự
cao, tự đại, luôn luôn chịu khó học tập, cầu tiến bộ, phát triển điều hay và
sửa chữa khuyết điểm của mình. Đối với người phải yêu quý, kính trọng,
giúp đỡ, không nịnh hót người trên, xem khinh người dưới. Phải để việc
nước, việc công lên trên việc tư, việc nhà. Công việc dù to hay nhỏ đều phải
cố gắng hoàn thành. Phải luôn luôn nhớ “việc thiện thì dù nhỏ mấy cũng
làm. Việc ác thì dù nhỏ mấy cũng tránh” [51, tr 645].
Chí công là rất mực công bằng, công tâm; vô tư là không được có lòng
riêng, thiên tư, thiên vị “tri ân, tri huệ, tri oán, tri thù”, đem lòng chí công vô
tư đối với người, với việc. Khi làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình
trước, khi hưởng thụ thì mình nên đi sau, lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ; là
lòng mình chỉ biết vì Đảng, vì Tổ quốc, vì đồng bào. Muốn “chí công vô tư”
phải chiến thắng được chủ nghĩa cá nhân, phải kiên quyết quét sạch chủ nghĩa
cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng. Bởi vì, chủ nghĩa cá nhân là trái với
chủ nghĩa tập thể, trái với đạo đức cách mạng. Chủ nghĩa cá nhân là một kẻ
thù rất gian xảo, xảo quyệt, nó khéo dỗ dành người ta đi xuống dốc. Nó là một
26
thứ vi trùng rất độc hại. Nó đẻ ra hàng trăm thứ bệnh nguy hiểm như: quan
liêu, mệnh lệnh, bè phái, chủ quan, tham ô, lãng phí, xa hoa, tham danh trục
lợi, thích địa vị quyền hành, tự cao tự đại, coi thường tập thể, xem khinh quần
chúng, độc đoán, chuyên quyền, quan liêu mệnh lệnh.v.v..
Do chủ nghĩa cá nhân mà mất đoàn kết, thiếu tính tổ chức, kỷ luật,
kém tinh thần trách nhiệm, không chấp hành đúng đường lối, chính sách của
Đảng và Nhà nước, làm hại đến lợi ích của cách mạng, của nhân dân. Chủ
nghĩa cá nhân, tư tưởng tiểu tư sản còn ẩn nấp trong mình mỗi người chúng
ta, nó chờ dịp, hoặc dịp thất bại, hoặc dịp thắng lợi để ngóc đầu dậy. Vì vậy,
đạo đức cách mạng là bất kỳ trong hoàn cảnh nào cũng phải quyết tâm đấu
tranh chống mọi kẻ địch. Chủ nghĩa cá nhân là một trở ngại cho việc xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Cho nên thắng lợi của chủ nghĩa xã hội không thể
tách rời thắng lợi của cuộc đấu tranh trừ bỏ chủ nghĩa cá nhân. Hồ Chí Minh
chỉ rõ, đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân không phải là dày xéo lên lợi ích
cá nhân, mà phải giải quyết hài hòa quan hệ chung - riêng. Nghĩ đến lợi ích
riêng nhưng cần ưu tiên lợi ích chung. Nếu lợi ích cá nhân mâu thuẫn với lợi
ích tập thể, thì đạo đức cách mạng đòi hỏi lợi ích riêng của cá nhân phải
phục tùng lợi ích chung của tập thể. Chí công vô tư, thực chất là nối tiếp cần
kiệm liêm chính. Đây là chuẩn mực của người lãnh đạo, người “giữ cán cân
công lý”, không được vì lòng riêng mà chà đạp lên pháp luật.
Cần, kiệm, liêm, chính có quan hệ chặt chẽ với nhau và với chí công,
vô tư. Cần, kiệm, liêm, chính sẽ dẫn đến chí công, vô tư. Ngược lại, đã chí
công, vô tư, một lòng vì nước, vì dân, vì Đảng thì nhất định sẽ thực hiện được
cần, kiệm, liêm, chính.
Hồ Chí Minh không chỉ đề ra và yêu cầu cán bộ, đảng viên phải thực
hiện cần, kiệm, liêm, chính, mà chính cuộc đời Người là một tấm gương mẫu
mực về “cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư”. Cần- kiệm- liêm- chính là
cốt, là phẩm chất của đạo đức cách mạng, là những đức không thể thiếu đối
với cán bộ, đảng viên. Người cán bộ giữ được cần, kiệm, liêm, chính là người
chí công vô tư tức là chính tâm, thân dân. Ngược lại, người chí công, vô tư,
27
một lòng vì nước, vì dân, vì Đảng thì nhất định sẽ thực hiện được cần, kiệm,
liêm, chính.Tư tưởng “Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư" là nguyên tắc
chỉ đạo thường xuyên trong suốt toàn bộ tư tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh.
Đó là tài sản tinh thần vô giá mà Người để lại cho Đảng và nhân dân ta, là
nguồn gốc tạo nên sức mạnh để dân tộc vượt qua khó khăn, thử thách, để
không ngừng tiến lên trong thời đại mới. Hồ Chí Minh là hiện thân rực rỡ của
đạo đức “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”, là con người mà “giàu sang
không thể quyến rũ, nghèo khó không thể chuyển lay, uy vũ không thể khuất
phục”, kiên cường vượt qua mọi thử thách hiểm nguy để thực hiện lý tưởng.
Bốn là tinh thần quốc tế trong sáng. Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh về
đoàn kết quốc tế là sự mở rộng quan niệm đạo đức nhân đạo, nhân văn của
Người ra phạm vi toàn nhân loại, vì Người là “người Việt Nam nhất” đồng
thời là nhà văn hóa kiệt xuất của thế giới, anh hùng giải phóng dân tộc, chiến
sĩ lỗi lạc của phong trào cộng sản quốc tế. Tinh thần quốc tế trong sáng trong
tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh về thực chất là tinh thần quốc tế vô sản. Nội
dung của nó rộng lớn và sâu sắc. Đó là sự tôn trọng và thương yêu tất cả các
dân tộc, nhân dân các nước, chống sự hằn thù, bất bình đẳng dân tộc và sự
phân biệt chủng tộc. Đó là tinh thần đoàn kết với các dân tộc bị áp bức, với
nhân dân lao động và loài người tiến bộ trên toàn thế giới, cùng nhau xây
dựng một thế giới hòa bình, độc lập dân chủ và tiến bộ xã hội.
Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết
Thành công, thành công, đại thành công.
Hồ Chí Minh cho rằng “Đại đoàn kết dân tộc không chỉ là mục tiêu,
nhiệm vụ hàng đầu của Đảng mà còn là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cả
dân tộc”. Bởi vì đại đoàn kết dân tộc chính là nhiệm vụ của quần chúng, do
quần chúng, vì quần chúng. Đảng có sứ mệnh thức tỉnh, tập hợp, đoàn kết
quần chúng tạo thành sức mạnh vô địch trong cuộc đấu tranh vì độc lập cho
dân tộc, tự do cho nhân dân, hạnh phúc cho con người. Vì thế cho nên mỗi
cán bộ đảng viên cần phải giữ gìn sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, phải
gương mẫu trong đoàn kết dân tộc, trong học tập và trong lao động, phải
28
thương yêu, kính trọng nhân dân.
Trong bản Di chúc thiêng liêng để lại cho muôn đời sau, nội dung đầu
tiên Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập trong công tác xây dựng Đảng là vấn đề
đoàn kết, thống nhất. Đây là nhân tố quan trọng nhất đảm bảo cho Đảng thực
sự vững mạnh, vượt qua mọi khó khăn, thách thức để hoàn thành thắng lợi sứ
mệnh lịch sử, đó là lãnh đạo thành công sự nghiệp cách mạng. Người khẳng
định: “ Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và nhân dân
ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần giữ gìn sự đoàn kết nhất trí
của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình” [66, tr 497].
Theo Hồ Chí Minh, đoàn kết trong Đảng là cơ sở vững chắc để xây dựng
khối đoàn kết trong nhân dân. Như vậy, đoàn kết thống nhất trong Đảng là cội
nguồn tạo nên sức mạnh lãnh đạo cách mạng của Đảng, là nhân tố để phát huy
cao độ trí tuệ và khả năng sáng tạo của những người làm cách mạng. Bác rất
coi trọng tự phê bình và phê bình. Bác khuyên cán bộ, đảng viên của Đảng phải
thương yêu, giúp đỡ nhau, giữ gìn đạo đức, lối sống, gắn bó với tập thể, với
nhân dân; chống các căn bệnh công thần, địa vị, hẹp hòi, cục bộ, kèn cựa. Bác
yêu cầu: “Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm
chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố phát triển sự đoàn kết
thống nhất… Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau” [66, tr 497 - 498].
Hồ Chí Minh quan niệm rằng, đoàn kết trong Đảng phải thể hiện ở tư
tưởng và hành động phải thống nhất. Đảng tuy có nhiều Đảng viên, song khi
tiến hành nhiệm vụ cách mạng thì chỉ như một người, trong Đảng không cho
phép có tình trạng trống đánh xuôi, kèn thổi ngược. Sự đoàn kết thống nhất
trong Đảng trước hết phải dựa trên nền tảng đường lối, quan điểm của Đảng.
Người không chỉ kêu gọi, vận động toàn Đảng, toàn dân phải đoàn kết, mà
chính Người là hiện thân của tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc. Người đã
tập hợp, cảm hóa mọi người bằng chính tấm gương cần kiệm liêm chính, chí
công vô tư, tận trung với nước, tận hiếu với dân, bằng tình thương yêu vô
hạn đối với con người, trước hết là những người lao động. Sự thống nhất
giữa tư tưởng và hành động, nói luôn đi đôi với làm và đạo đức, nhân cách
29
của Người đã quy tụ mọi lực lượng trong xã hội, trở thành động lực, sức
mạnh đoàn kết trong Đảng. Trước yêu cầu và nhiệm vụ trong giai đoạn cách
mạng mới, đòi hỏi “mỗi đảng viên và cán bộ phải thực sự thấm nhuần đạo
đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn
Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ
thật trung thành của nhân dân” [66, tr 498].
Cán bộ là cốt tủy của sự nghiệp cách mạng, nên đạo đức cách mạng là
yếu tố căn bản của người cán bộ. Có như vậy người cán bộ mới có đủ khả
năng để hoàn thành vẻ vang nhiệm vụ được cách mạng giao phó. Người cách
mạng giữ vững phẩm chất và đạo đức trong suy nghĩ và hành động để cho
mọi người noi theo. Người cán bộ có trung, có hiếu, có đức, có tài, như vậy
thì là người “ái quốc, ái dân”.
1.2.3. Những nguyên tắc cơ bản trong quan niệm của Hồ Chí Minh
về xây dựng đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên
Trong suốt quá trình giáo dục đạo đức cho đội ngũ cán bộ của Đảng ta,
Hồ Chí Minh không xác định các chuẩn mực đạo đức cơ bản, các yêu cầu đạo
đức trong các mối quan hệ xã hội, mà còn chỉ rõ nguyên tắc rèn luyện đạo
đức. Người đã nhất quán giáo dục cho đội ngũ cán bộ, đảng viên phải quán
triệt sâu sắc các nguyên tắc cơ bản về rèn luyện đạo đức đó là:
Một là, phải tu dưỡng đạo đức thường xuyên, bền bỉ, suốt đời.
Hồ Chí Minh luôn khẳng định rằng, để trở thành người cách mạng chân
chính và có đạo đức cách mạng, điều cơ bản và chủ yếu nhất là phụ thuộc vào
chính mình, vào chính sự tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng của mình
một cách thường xuyên, bền bỉ. Theo Hồ Chí Minh “người đảng viên, người
cán bộ tốt muốn trở nên người cách mạng chân chính không có gì là khó cả.
Điều đó hoàn toàn do lòng mình mà ra… Lòng mình chỉ biết vì Đảng, vì Tổ
quốc, vì đồng bào thì mình sẽ tiến đến chỗ chí công vô tư” [49, tr 251] và
“Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn
luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài
30
càng sáng, vàng càng luyện càng trong” [60, tr 293]. Người từng nói: “… gian
nan rèn luyện mới thành công”; “Hiền, dữ phải đâu là tính sẵn./ Phần nhiều do
giáo dục mà nên"; “ Kiên trì và nhẫn nại/… Không nao núng tinh thần”.
Theo Hồ Chí Minh đã là con người thì “Ai cũng có tính tốt và tính xấu”
[49, tr 254]. và “tính xấu của một người thường chỉ có hại cho người đó, còn
tính xấu của một Đảng viên, một cán bộ sẽ có hại đến đảng, có hại đến nhân
dân” [49, tr 254]. Cái tính xấu đó là sự suy thoái đạo đức cách mạng với tất cả
những biểu hiện của nó như lộng quyền, hách dịch, quan liêu, tham ô, xa hoa,
trụy lạc… và không có việc gì ác mà họ không làm. Vì vậy mà muốn diệt trừ
cái tính xấu đó, vun trồng và phát huy cái tính tốt, con người phải luôn tu
dưỡng, trau dồi đạo đức cách mạng một cách thường xuyên, bền bỉ, suốt đời.
Sự tu dưỡng đó còn thể hiện ở mọi mối quan hệ, mọi lúc, mọi hoàn cảnh, từ
chính mình đến gia đình và ngoài xã hội. Có như vậy, con người, mà trước hết
và chủ yếu là người cán bộ, đảng viên mới luôn có đạo đức cách mạng, mới
có thể xứng đáng là người đầy tớ trung thành của nhân dân.
Giáo dục đạo đức cách mạng luôn là một nội dung, yêu cầu thường
xuyên trong sự nghiệp giáo dục đạo đức cho cán bộ, đảng viên và nhân dân.
Người chỉ rõ: “Trong việc giáo dục và học tập, phải chú trọng đủ các mặt đạo
đức cách mạng, giác ngộ xã hội chủ nghĩa, văn hóa, kỹ thuật, lao động và sản
xuất” [63, tr 190]. Người luôn kiên trì sự nghiệp “trồng người, mà tước hết là
công tác đào tạo cán bộ có đầy đủ cả đức và tài, phẩm chất và năng lực để trở
về tổ chức quần chúng, đưa phong trào cách mạng vào đúng quỹ đạo vô sản,
đi tới thành công.
Hồ Chí Minh cho rằng giáo dục thế giới quan Mác - Lênin phải gắn với
giáo dục nhân sinh quan cộng sản chủ nghĩa. Bởi vì: “Có học tập lý luận Mác -
Lênin mới củng cố được đạo đức cách mạng, giữ vững lập trường, nâng cao sự
hiểu biết và trình độ chính trị, mới làm tốt công tác Đảng giao phó cho mình”
[60, tr 292]. Bác nhắc nhở mọi người trong rèn luyện đạo đức cách mạng cần
phải có tinh thần nỗ lực, cố gắng cao độ, bền bỉ và thận trọng. Vì việc trau dồi
những đức tính tốt đẹp là một công việc khó khăn. Người nói: “Học cái tốt thì
31
khó, ví như người ta leo núi; phải vất vả, khó nhọc mới lên đến đỉnh. Học cái
xấu thì dễ, như ở trên đỉnh núi trượt chân một cái là nhào xuống vực sâu” [55, tr
346]. Mỗi cán bộ, đảng viên phải thường xuyên ý thức được yêu cầu tu dưỡng
đạo đức cách mạng là công việc phải làm thường xuyên, bền bỉ, suốt đời, ở mọi
nơi, mọi hoàn cảnh và phải gắn với thực tiễn cách mạng.
Hai là, nói đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo đức.
Đây là nguyên tắc đầu tiên trong ba nguyên tắc đạo đức cách mạng, theo
quan niệm của Hồ Chí Minh nói thì phải làm, xây đi cùng với chống và tu
dưỡng đạo đức suốt đời.Trong bài giảng “Tư cách một người cách mệnh”. Bác
viết: “Tự mình phải: Cần kiệm. Hòa mà không tư. Cả quyết sửa lỗi mình. Cẩn
thận mà không nhút nhát. Hay hỏi. Nhẫn nại (chịu khó). Hay nghiên cứu, xem
xét. Vị công vong tư. Không hiếu danh, không kiêu ngạo. Nói thì phải làm”
[41, tr 280].
Nói thì phải làm là thể hiện sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, tư
tưởng và hành động, nhận thức và việc làm. Đối với mỗi người để thực hiện
được việc thống nhất giữa lời nói và việc làm, phải có nhận thức đúng và quyết
tâm vượt qua chính mình. Có nhận thức đúng nhưng không vượt qua được sự
cám dỗ của lợi ích cá nhân ích kỷ sẽ dẫn đến nói không đi đôi với làm. Để nói đi
đôi với làm, còn cần có sự cố gắng, bền bỉ và quyết tâm, bởi bất kỳ công việc
nào, nhiệm vụ gì, dù lớn hay nhỏ, khó hay dễ, đơn giản hay phức tạp, nhưng nếu
không ra sức phấn đấu thì cũng không thể thành công được. Nói đi đôi với làm
đối lập với nói mà không làm của những người hay hứa suông, hoặc “nói một
đằng làm một nẻo” của những kẻ cơ hội, không đáng tin cậy.
Cán bộ, đảng viên từ nhân dân mà ra, nhưng lại có trách nhiệm hướng
dẫn nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước. Muốn hướng dẫn nhân dân thì phải có tài, có ðức, ðýợc nhân dân tin
yêu, mến phục. Người đã dạy: “Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết
lên trán chữ “cộng sản” mà ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến
những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm
mực thước cho người ta bắt chước” [50, tr 552]. Người cán bộ, đảng viên chỉ
32
có nói được, làm được mới được nhân dân tin yêu và đi theo. Do đó, “nói đi
đôi với làm” không chỉ là một nội dung của đạo đức thông thường, mà đòi hỏi
mỗi cán bộ, đảng viên phải làm gương trong thực tiễn “nói đi đôi với làm” để
làm tròn trách nhiệm của mình.
Muốn nói đi đôi với làm và làm có hiệu quả thì cùng với tấm lòng trung
thực, cần phải kết hợp giữa chủ trương, biện pháp đúng đắn và đầy đủ với ý
chí phấn đấu, không chỉ đọng ở lời nói, chủ trương. Do đó, người dạy “Chủ
trương 1, biện pháp 10, quyết tâm 20”, nghĩa là chủ trương đúng là rất quan
trọng nhưng chưa đủ, phải có những biện pháp cụ thể và quyết tâm tổ chức
thực hiện để nói và làm có hiệu quả. Vì từ lời nói tới việc làm bao giờ cũng
phải trải qua những chặng đường gian nan, không có quyết tâm cao tổ chức
thực hiện thì không thể biến chủ trương đúng thành hiện thực. Ngoài ra, nói đi
đôi với làm đối với người cán bộ, đảng viên còn chủ yếu phải nêu gương đạo
đức của mình trong mọi mối quan hệ, trong mọi công việc, trước quần chúng
để quần chúng noi theo. Người cách mạng, có đạo đức cách mạng, theo Hồ
Chí Minh, phải là “kiểu mẫu”, là “mực thước” cho người khác, để giáo dục
người khác, để người khác theo mình.
Nêu gương đạo đức là một yêu cầu đối với cán bộ, đảng viên và những
người đứng đầu các cơ quan Đảng, Nhà nước, các tổ chức đoàn thể xã hội. Hồ
Chí Minh cho rằng, việc nêu gương đạo đức của cán bộ, đảng viên có tác
dụng giáo dục quần chúng rất cao. Người thường xuyên nhắc nhở và yêu cầu
mỗi cán bộ, đảng viên “Tự mình phải chính trước, mới giúp được người khác
chính. Mình không chính, mà muốn người khác chính là vô lý” [51, tr 645].
Ngược lại, sự thiếu rèn luyện, tu dưỡng, đặc biệt là sự thoái hóa, biến chất đạo
đức của một bộ phận cán bộ, đảng viên sẽ ảnh hưởng rất lớn đến hành vi đạo
đức, lối sống ý thức kỷ luật, pháp luật của quần chúng. Người chỉ rõ “Nói
chung thì các dân tộc Phương đông đều giàu tình cảm, và đối với họ một tấm
gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền” [40, tr
263]. Người luôn luôn yêu cầu cán bộ, đảng viên phải gương mẫu trong mọi
việc. Không có lĩnh vực nào mà tác dụng nêu gương lại quan trọng bằng lĩnh
33
vực đạo đức. Trong gia đình đó là tấm gương của cha mẹ đối với con cái, của
anh chị đối với các em; trong xóm làng, khu phố, đó là tấm gương của các bậc
cao niên, các cựu chiến binh, các thế hệ đi trước đối với thế hệ trẻ; trong cơ
quan Đảng và Nhà nước, đó là tấm gương của các đồng chí phụ trách, các
đồng chí lãnh đạo đối với nhân viên; trong đơn vị quân đội, đó là tấm gương
của các cấp chỉ huy, các chính ủy, chính trị viên đối với binh sĩ, của cấp trên
đối với cấp dưới; trong toàn xã hội, đó là tấm gương của những “người tốt
việc tốt”, đối với mọi đối tượng, mọi tầng lớp nhân dân.
Để có được những tấm gương sáng cho quần chúng học tập và noi
theo, Hồ Chí Minh luôn đặt ra những yêu cầu cao nhưng lại rất sát thực
đối với đội ngũ cán bộ, đảng viên đó là phải không ngừng rèn luyện, tu
dưỡng, tự mình gương mẫu “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”; có
như vậy mới tăng được sức thuyết phục trong tuyên truyền, giáo dục, vận
động quần chúng xây dựng đạo đức mới. Từ thực tiễn hoạt động cách
mạng vì nước, vì dân, Người là một tấm gương sáng ngời về đạo đức cách
mạng, điều nổi bật và dễ nhận thấy nhất là sự nhất quán giữa lời nói và
việc làm, giữa giáo dục đạo đức và thực hành đạo đức.
Để phát huy sự nêu gương trong giáo dục đạo đức cách mạng, Hồ Chí
Minh đã phát động và qua đó, tạo ra cả một phong trào thi đua sôi nổi, sâu
rộng trong quần chúng nhân dân - phong trào “Người tốt, việc tốt”. Phong
trào này đã có tác dụng rất lớn trong giáo dục đạo đức. Qua đó, mỗi người đều
tự nhận thấy mình có thể noi theo gương tốt và làm việc tốt để trở thành
người có ích cho xã hội. Ai cũng có thể nêu gương về đạo đức cho người khác
học tập. Và ai cũng cần học tập những gương “Người tốt, việc tốt”. Theo Hồ
Chí Minh phải lấy gương người tốt, việc tốt hằng ngày để giáo dục lẫn nhau.
Đây là một trong những cách tốt nhất để xây dựng Đảng, xây dựng các tổ
chức cách mạng, xây dựng con người mới, cuộc sống mới. Bác dạy cán bộ,
đảng viên “nói thì phải làm”. Người luôn chú ý rèn luyện bản thân từ việc lớn
đến việc nhỏ, chu toàn và tự nhiên, trở thành nhu cầu, thói quen hàng ngày,
34
tạo nên sự hòa quyện giữa tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
Ba là, xây dựng đạo đức mới phải đi đôi với việc đấu tranh chống
những hiện tượng phi đạo đức.
Theo Hồ Chí Minh, trong đời sống hàng ngày, những hiện tượng tốt -
xấu, đúng - sai, chính - tà, thiện - ác, cái đạo đức và cái vô đạo đức luôn
đan xen, đối chọi nhau, thức đẩy hoặc kìm hãm lẫn nhau. Nhưng bao giờ
Người cũng có niềm tin vững chắc vào cái tốt, cái thiện và luôn thấy đó là
cái phổ biến, cái tất yếu sẽ chiến thắng cái xấu, cái ác. Nhưng cái thiện, cái
tốt đẹp trong mỗi con người không hình thành một cách tự nhiên, mà nó
luôn là sản phẩm của xã hội, là kết quả của quá trình rèn luyện lâu dài, gian
khổ. Người nói: “Hiền dữ phải đâu là tính sẵn. Phần nhiều do giáo dục mà
nên” [43, tr 383]. Vì vậy, muốn xây dựng đạo đức mới, muốn bồi dưỡng
phẩm chất đạo đức cách mạng cho cán bộ và nhân dân, thì nhất định phải
chống lại những hiện tượng vô đạo đức, những tật xấu, thói hư, những tàn
dư của các kiểu đạo đức cũ.
Hồ Chí Minh đã chỉ rõ, "Xây" có nghĩa là, phải bồi dưỡng những phẩm
chất, những chuẩn mực đạo đức mới, nêu những tấm gương đạo đức trong
sáng trong cuộc sống và khơi dậy ý thức đạo đức lành mạnh để mọi người tự
giác về trách nhiệm đạo đức của mình. “Chống” là phải loại bỏ cái xấu, cái
sai, cái ác, cái tà, cái vô đạo đức. Điều quan trọng là, phải sớm phát hiện được
những biểu hiện của cái ác, cái xấu ấy, để hướng mọi người vào cuộc đấu
tranh cho sự lành mạnh, trong sạch về đạo đức. Người nói: “Chúng ta hoặc ít
hoặc nhiều đều mắc phải tư tưởng, tập quán, tác phong của xã hội cũ. Cho nên
thực hiện hai chữ chính tâm không phải dễ dàng. Phải kinh qua cuộc đấu
tranh giữa cái cũ và cái mới trong bản thân mình: một cuộc đấu tranh gay go,
gian khổ và liên tục. Nhưng ta kiên quyết thì cái mới nhất định thắng cái cũ
và chính tâm nhất định thành công” [58, tr 215 - 216].
Hơn nữa trong Đảng và mỗi con người, vì những lý do khác nhau,
không phải “người người đều tốt, việc việc đều hay. Vả lại, để tiến lên chủ
nghĩa xã hội, cuộc đấu tranh phải lâu dài và gian khổ. Cần có người cách
35
mạng là vì còn có kẻ địch chống phá cách mạng. Có nhiều kẻ địch, nhưng
Hồ Chí Minh nhấn mạnh ba loại: chủ nghĩa tư bản và bọn đế quốc là kẻ
địch rất nguy hiểm. Thói quen và truyền thống lạc hậu cũng như kẻ địch to,
nó ngấm ngầm ngăn trở cách mạng tiến bộ. Loại địch thứ ba là chủ nghĩa
cá nhân. Ba kẻ địch nêu trên liên quan chặt chẽ với nhau, muốn chiến thắng
chúng không chỉ biết dùng gươm, dùng súng, dũng cảm xông lên mà còn
phải biết cải tạo, bao gồm cải tạo bản thân. Hồ Chí Minh coi chủ nghĩa cá
nhân là “ giặc nội xâm”, một trong những nguy cơ đe dọa sự tồn vong của
Đảng. “Địch bên ngoài không đáng sợ. Địch bên trong đáng sợ hơn, vì nó
phá từ trong phá ra” [49, tr 238 - 239].
Chủ nghĩa cá nhân luôn biến hóa "muôn hình vạn trạng”, bởi thế có
nhiều người mơ hồ (hoặc cố ý mơ hồ) cho rằng đó là căn bệnh người khác
mắc phải, còn mình thì không. Tuy nhiên, dù biến tướng thế nào vẫn có thể
hiểu nguồn gốc, bản chất của căn bệnh này. Chủ nghĩa cá nhân là sản phẩm
của xã hội người bóc lột người, dựa trên chế độ tư hữu; là sự đối lập giữa lợi
ích cá nhân với lợi ích xã hội, đặt quyền lợi của cá nhân lên trên quyền lợi
của tập thể. Trong tác phẩm “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ
nghĩa cá nhân”, Hồ Chí Minh chỉ ra các loại bệnh nảy sinh từ chủ nghĩa cá
nhân là: bệnh quan liêu; bệnh tham lam; bệnh lười biếng; bệnh kiêu ngạo,
bệnh hiếu danh; bệnh “hữu danh vô thực”, bệnh cận thị; bệnh tị nạnh; bệnh
xu nịnh, a dua và bệnh kéo bè, kéo cánh.
Bệnh nể nang: Đồng chí mình mắc khuyết điểm, lẽ ra phải kỷ luật với
một hình thức tương xứng, nhưng v cảm t nh nên chỉ phê b nh qua loa cho xong chuyện. Thậm chí có nơi còn che đậy cho nhau, lừa dối cấp trên, giấu
giếm đoàn thể. “Vì họ hàng quen biết, bầu bạn, thân thích, anh em cho nên lúc
họ có sai lầm cũng cứ nể nang, không thiết thực phê bình, thiết thực sửa đổi,
sợ mất lòng” [49, tr 248].
Bệnh kéo bè kéo cánh: Hồ Chí Minh dùng từ “cánh hẩu” trong một bộ
phận cán bộ có chức, có quyền. Bè cánh được lôi kéo từ những người có họ
hàng, là bà con, cháu chắt, thân tín, thậm chí mở rộng ra là người cùng xóm,
36
cùng quê; rồi “chén chú chén anh”, tung hô nhau, ủng hộ nhau, dùng số đông ,
lợi dụng và bóp méo nguyên tắc tập trung dân chủ, dồn những người dù có
tốt, có tài nhưng không “hẩu” xuống để “tiêu diệt”, để cát cứ, thao túng; “Ai
hợp với mình thì dù người xấu cũng cho là tốt, việc dở cũng cho là hay, rồi
che đậy cho nhau, ủng hộ lẫn nhau. Ai không hợp với mình thì người tốt cũng
cho là xấu, việc hay cũng cho là dở, rồi tìm cách gièm pha, nói xấu, tìm cách
dìm người đó xuống” [49, tr 257].
Bệnh cá nhân: Đây là loại bệnh mà người mắc bệnh có khi được đánh
giá là có “đức”, “hiền lành”, luôn luôn biết “đoàn kết”… Những người này
thông thường trong cuộc họp, hội nghị, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai
không đấu tranh, được lòng hết cả mọi người. Nếu có nói thì “khiêm tốn” nói
bên ngoài, nói ở quán nước hoặc nơi nhậu nhẹt, chơi bời, thậm chí chờ bên
nào có xu hướng “thắng” thì giơ tay ủng hộ. Rồi luồn cúi, đi “cửa sau”, thưa
bẩm, vâng, dạ, xun xoe, nịnh bợ. Những người này khi đã đạt mục đích “leo
lên” rồi bắt đầu nịnh trên, nạt dưới, kéo bè, kéo cánh…
Bệnh hữu danh vô thực: “Làm việc không thiết thực, không tự chỗ gốc,
chỗ chính, không từ dưới làm nên. Làm cho có chuyện, làm lấy rồi. Làm được
ít suýt ra nhiều, để làm một bản báo cáo cho oai, nhưng xét kỹ lại thì rỗng
tuếch” [49, tr 256 - 257].
Bệnh tham lam: Hồ Chí Minh cho rằng “Những người mắc phải bệnh
này thì đặt lợi ích của mình lên trên lợi ích của Đảng, của dân tộc, do đó
chỉ “tự tư tự lợi”. Dùng của công làm việc tư. Dựa vào thế lực của Đảng để
theo đuổi mục đích riêng của mình. Sinh hoạt xa hoa tiêu xài bừa bãi. Tiền
bạc đó ở đâu ra? Không xoay của Đảng thì xoay của đồng bào. Thậm chí
làm chợ đen buôn lậu. Không sợ mất thanh danh của Đảng, không sợ mất
danh giá của mình”[49, tr 255].
Bệnh lười biếng: Thực chất của bệnh lười biếng là đối lập với đức
“cần”. Lười biếng biểu hiện ở sự thỏa mãn với sự học, kiến thức vốn có của
mình, “Làm biếng học hỏi, làm biếng suy nghĩ. Việc dễ thì tranh lấy cho
mình. Việc khó thì đùn cho người khác. Gặp việc nguy hiểm thì tìm cách để
37
trốn tránh” [49, tr 255].
Bệnh tham ô: “Đứng về phía cán bộ mà nói, tham ô là: Ăn cắp của công
là của tư. Đục khoét của nhân dân. Ăn bớt của bộ đội. Tiêu ít mà khai nhiều, lợi
dụng của chung của Chính phủ để làm của riêng cho địa phương mình, đơn vị
mình, cũng là tham ô… Đứng về phía nhân dân mà nói, tham ô là: Ăn cắp của
công, khai gian, lậu thuế” [53, tr 488]. Nó có hại đến công việc cải thiện đời
sống nhân dân, có hại đến đạo đức cách mạng. Hồ Chí Minh cho rằng, chủ
nghĩa cá nhân có tác hại rất lớn, bởi chừng nào còn chủ nghĩa cá nhân nó sẽ
“ngăn trở” người cán bộ, đảng viên phấn đấu vì mục tiêu, lý tưởng của Đảng,
của dân tộc, làm mất lòng tin cậy của dân đối với Đảng. Người nói: “Do cá
nhân chủ nghĩa mà ngại gian khổ, khó khăn, sa vào tham ô, hủ hóa, lãng phí, xa
hoa. Họ tham danh trục lợi, thích địa vị quyền hành. Họ tự cao tự đại, coi
thường tập thể, xem khinh quần chúng, độc đoán, chuyên quyền. Họ xa rời
quần chúng, xa rời thực tế, mắc bệnh quan liêu mệnh lệnh. Họ không có tinh
thần cố gắng vươn lên, không chịu học tập để tiến bộ” [65, tr 438 - 439] vì
thiếu đạo đức cách mạng, vì cá nhân chủ nghĩa mà sinh tham ô; “Chủ nghĩa cá
nhân đẻ ra trăm thứ bệnh nguy hiểm: quan liêu, mệnh lệnh, bè phái, chủ quan,
tham ô, lãng phí… Nó trói buộc, nó bịt mắt những nạn nhân của nó, những
người này bất kỳ việc gì cũng xuất phát từ lòng tham muốn danh lợi, địa vị cho
cá nhân mình, chứ không nghĩ đến lợi ích của giai cấp, của nhân dân” [60, tr
292]. Do chủ nghĩa cá nhân mà phạm phải nhiều sai lầm, làm mất nhân cách
con người, uy tín của cán bộ, đảng viên; chủ nghĩa cá nhân là một trong ba
nguy cơ đối với Đảng cầm quyền. Vì vậy, Hồ Chí Minh coi việc chống chủ
nghĩa cá nhân là việc làm cần thiết, thường xuyên của những người cộng sản
chân chính, không sa vào chủ nghĩa cá nhân, góp phần làm cho Đảng ta thật sự
“là đạo đức, là văn minh”.
Theo Hồ Chí Minh, cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân là cuộc
đấu tranh gay go, quyết liệt, lâu dài và gian khổ. Cuộc đấu tranh đó quyết liệt
không khác gì cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm, bởi lẽ chủ nghĩa cá nhân
là kẻ thù không lộ nguyên hình, nó ẩn nấp trong tư tưởng, suy nghĩ của mỗi cá
38
nhân và hành vi của mỗi cá nhân đó. Người đã ví nó rất hình ảnh: “Tư tưởng
cộng sản với tư tưởng cá nhân ví như lúa với cỏ dại. Lúa phải chăm bón rất
khó nhọc thì mới tốt được. Còn cỏ dại không cần chăm sóc cũng mọc lu bù.
Tư tưởng cộng sản phải rèn luyện gian khổ mới có được. Còn tư tưởng cá
nhân thì cũng như cỏ dại, sinh sôi, nảy nở rất dễ” [61, tr 448].
Chủ nghĩa cá nhân là một thứ rất gian xảo, xảo quyệt, khéo dỗ dành
người ta đi xuống dốc, vì thế càng nguy hiểm. Chủ nghĩa cá nhân trái
ngược với đạo đức cách mạng, nó chờ dịp để phát triển, che lấp đạo đức
cách mạng, để ngăn trở ta một lòng một dạ đấu tranh cho sự nghiệp cách
mạng. “Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại,
có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi
người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào
chủ nghĩa cá nhân” [67, tr 557 - 558]. Vì vậy mỗi cán bộ, đảng viên phải
lấy đạo đức cách mạng làm nền tảng, hết sức phục vụ giai cấp công nhân
và nhân dân lao động. Để có được đạo đức cao đẹp đó, đảng viên phải
thường xuyên học tập và rèn luyện hằng ngày, kiên quyết tự đấu tranh
chống tư lợi, quan liêu cho “ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện
càng trong”. Được như thế, mỗi cán bộ, đảng viên sẽ giữ vững được phẩm
chất, khí tiết của người cán bộ cách mạng chân chính.
Những nguyên tắc rèn luyện đạo đức theo tư tưởng Hồ Chí Minh
nêu trên là một hệ thống đồng bộ, toàn diện, nên trong quá trình thực hiện
đội ngũ cán bộ không được coi nhẹ nguyên tắc nào. Có thể nói, nội dung
các nguyên tắc rất dễ nhớ, dễ thuộc, nhưng trong quá trình thực hiện lại
rất dễ bị vi phạm. Do vậy mà mỗi cán bộ, đảng viên cần nêu cao tinh thần
tự giác, tự giáo dục, tự rèn luyện, bền bỉ thực hiện ở mọi lúc, mọi nơi,
nghiêm túc thực hiện suốt đời.
TIỂU KẾT CHƢƠNG 1
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng hình thành trên cơ sở
những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam, trên cơ sở tiếp thu
những giá trị đạo đức phương Đông đặc biệt là Nho giáo và những giá trị đạo
39
đức phương Tây. Tư tưởng đạo đức cách mạng của Hồ Chí Minh là sự kế
thừa trực tiếp những quan điểm đạo đức của Mác, Ăngghen và Lênin. Đó là
đạo đức nhằm giải phóng giai cấp, giải phóng nhân loại khỏi ách áp bức bóc
lột nhằm xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn, công bằng hơn, văn minh hơn. Với
tư duy độc lập và sáng tạo, Hồ Chí Minh đã xuất phát từ thực tiễn Việt Nam,
thực hiện một công việc kế thừa có chọn lọc, thâu tóm những giá trị đạo đức
của quá khứ, đề xuất những tư tưởng đạo đức mới, phù hợp với yêu cầu của
cách mạng Việt Nam trong thời đại mới.
Hồ Chí Minh quan niệm đạo đức là nền tảng và sức mạnh của người
cách mạng, coi đó là gốc của cây, ngọn nguồn của sông suối. Người cách
mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng thì mới hoàn thành được
nhiệm vụ cách mạng vẻ vang của dân tộc. Người quan niệm đạo đức tạo ra
sức mạnh, nhân tố quyết định sự thắng lợi của mọi công việc. Quan niệm lấy
đức làm gốc của Hồ Chí Minh không có nghĩa là tuyệt đối hóa mặt đức, coi
nhẹ mặt tài. Đức là gốc nhưng đức và tài phải kết hợp với nhau để hoàn
thành nhiệm vụ cách mạng.Và hơn ai hết, Hồ Chí Minh lại là người thực
hiện trước tiên những điều mình đã nói, đã viết. Bác vừa là nhà đạo đức học
lớn, vừa là tấm gương đạo đức trong sáng, tiêu biểu nhất. Ở Bác, một đặc
trưng nổi bật, một nét rất riêng là luôn có sự thống nhất giữa tư tưởng và
hành vi, động cơ và hiệu quả, giữa lý luận và thực tiễn. Đối với Người, rèn
luyện người cán bộ, đảng viên có đủ đức và đủ tài, vừa hồng và vừa chuyên.
Thời chiến cũng như thời bình, nơi chiến trường hay tại hậu phương, trong
học tập, lao động, sản xuất hay khi chiến đấu, Người luôn quan tâm, động
viên và dìu dắt đội ngũ cán bộ, đảng viên để họ thấm nhuần đạo đức cách
mạng, thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư. Chừng nào chủ nghĩa
cá nhân với những căn bệnh thường mắc như cậy quyền và cậy thế, kiêu
ngạo và xa hoa, quan liêu và coi thường quần chúng, tự kiêu và không muốn
học tập, không thực hiện tốt phê bình và tự phê bình, thì chừng đó cán bộ,
đảng viên sẽ không thể hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân, hoàn thành
những trọng trách mà Ðảng và nhân dân giao phó. Như vậy, những nội dung
đạo đức cách mạng mà Hồ Chí Minh nêu ra, cùng với những nguyên tắc rèn
luyện đạo đức cách mạng của Hồ Chí Minh là phương châm để rèn luyện
40
phẩm chất đạo đức cho mỗi con người chúng ta.
Chƣơng 2
MỘT SỐ NỘI DUNG GIÁO DỤC VÀ RÈN LUYỆN ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG
CHO CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY DƯỚI ÁNH
SÁNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
2.1. Thực trạng đạo đức của cán bộ, đảng viên ở Việt Nam hiện nay
2.1.1. Những kết quả đạt được trong giáo dục rèn luyện đạo đức của
cán bộ, đảng viên ở Việt Nam hiện nay
Hiện nay chúng ta đang đứng trước bối cảnh kinh tế thế giới đang lâm
vào khủng hoảng trầm trọng. “Trước những khó khăn,thử thách lớn ở trong
nước, những biến động bất lợi ở trong phong trào cộng sản và công nhân quốc
tế, trước sự chống phá của các thế lực thù địch, Đảng ta đã giữ vững bản chất
cách mạng của giai cấp công nhân, kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng;
kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên trì đường lối đổi
mới; tiếp tục nâng cao năng lực và sức chiến đấu của Đảng” [15, tr 260]. Đặc
biệt Đảng luôn quan tâm đến công tác giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ,
đảng viên và đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng.
Từ ngày thành lập đến nay, trong suốt 85 năm lãnh đạo cách mạng,
Đảng luôn chăm lo xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư
tưởng và tổ chức, trong đó không ngừng giáo dục, rèn luyện, phát huy vai trò
tiên phong gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên và coi đó là nhiệm vụ
trọng tâm của công tác xây dựng Đảng. Hệ thống các trường Đảng, hệ thống tổ
chức đảng các cấp đều có chương trình giáo dục rèn luyện cho cán bộ, đảng
viên. Đảng ta cũng đã có nhiều Nghị quyết về xây dựng Đảng, trong đó có xây
dựng đạo đức. Có thể thấy rằng, công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho cán
bộ, đảng viên hiện nay được thể hiện:
Về nội dung, chương trình: Các cấp học, bậc học từ phổ thông đến đại
học, sau đại học đã có những bài giảng về giáo dục công dân, đạo đức với
những nội dung như về luân lý, gương người tốt, việc tốt; những điều nên và
41
không nên làm… tùy theo cấp học, bậc học; kết hợp với giáo dục truyền thống,
giáo dục trong gia đình và ngoài xã hội góp phần hình thành nên những phẩm
chất tốt đẹp của mỗi người. Tuy nhiên nội dung, chương trình giảng dạy cho
các đối tượng này vẫn còn chung chung, ít tính thực tiễn; nội dung chương
trình và phương pháp truyền đạt, chưa hấp dẫn, chưa thu hút được sự chú ý của
người học, thậm chí bị coi nhẹ. Từ đó dẫn đến hiệu quả không cao, tính thuyết
phục bị hạn chế. Đối với cán bộ, đảng viên nói chung, việc giáo dục đạo đức,
lối sống cho đối tượng này đến nay chưa có một nội dung, chương trình thống
nhất theo đối tượng, được nghiên cứu, soạn thảo có cơ sở khoa học, đảm bảo
tính thực tiễn cao. Hiện nay việc giáo dục đạo đức cho cán bộ, đảng viên được
thể hiện qua Hiến pháp, pháp luật, Điều lệ Đảng, Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội, giáo dục cán bộ, đảng
viên, Pháp lệnh cán bộ, công chức, các quy định, quy chế làm việc, các bài
giảng về đạo đức trong hệ thống các trường Đảng, đoàn thể, các Trung tâm bồi
dưỡng chính trị quận, huyện, thị xã…; các chương trình của Ban tư tưởng- Văn
hóa Trung ương, các đoàn thể, các hội quần chúng… Các chương trình này,
bên cạnh việc cung cấp cho người học các nghiệp vụ gắn với yêu cầu của công
tác tư tưởng- văn hóa cho cán bộ, đảng viên và nhân dân nói chung, qua đó góp
phần giáo dục tư tưởng, đạo đức, lối sống cho họ. Ngoài ra, trong hệ thống
trường Đảng còn có bộ môn về đạo đức học dành cho cán bộ, đảng viên thuộc
diện quy hoạch, cán bộ nguồn… người học được nghiên cứu một cách hệ thống
hơn về đối tượng, nội dung, các quan điểm của chủ nghĩa Mác - lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng về đạo đức, lối sống.
Trong các chương trình giáo dục lý luận chính trị nói chung và giáo dục
đạo đức nói riêng, có thể nói tính thực tiễn, ứng dụng còn yếu. Chương trình, nội
dung giảng dạy còn xa cuộc sống, chưa sát thực tiễn. Chưa có các chương trình
cụ thể cho các đối tượng là cán bộ, đảng viên trong các cơ quan Đảng, Nhà nước
ở Trung ương và địa phương… Một số tài liệu hiện có nội dung quá cũ, thiếu cơ
sở khoa học, nội dung mang tính lý luận chung chung, ít tính thực tiễn… Do đó
người học thường không hào hứng, thậm chí chiếu lệ, dẫn tới hiệu quả không
42
cao.. Mặt khác, chúng ta chưa có một chương trình thống nhất về môn học đạo
đức cho cán bộ, đảng viên; đồng thời lại có tình trạng trùng lắp và có phần “giáo
điều” ở chương trình và các bài giảng. Vì vậy, mặc dù sự suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống đã được cảnh báo, nhưng việc hạn chế nó chưa đạt
kết quả cao.
Trong những năm qua, Đảng đã có nhiều nghị quyết, triển khai nhiều
hình thức, biện pháp để giáo dục, nâng cao trình độ lý luận, nhận thức chính trị
và bồi dưỡng tinh thần cách mạng, ý chí phấn đấu cho cán bộ, đảng viên. Nhờ
đó, phần lớn đảng viên đã nêu cao tinh thần tiên phong, gương mẫu thực hiện
và động viên quần chúng vươn lên thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị
do Đảng đề ra. Qua đó khẳng định rằng, những thành tựu của công cuộc đổi
mới có phần đóng góp quan trọng của công tác tuyên truyền, giáo dục và sự
cống hiến của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Tuy nhiên, hiệu quả của công tác
tuyên truyền, giáo dục còn thấp, chưa đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới
đất nước.
Công tác tuyên truyền, giáo dục trên các phương tiện thông tin đại
chúng, các đợt kỷ niệm gắn với các ngày lễ, sinh hoạt chính trị cũng được mở
rộng, các cấp cũng đã tích cực tổ chức các hoạt động truyền thông, giáo dục
những phẩm chất đạo đức truyền thống tốt đẹp thông qua các hoạt động hướng
về cội nguồn, tuyên truyền gương người tốt, việc tốt trên các kênh thông tin;
công tác tuyên truyền giáo dục được triển khai cụ thể ở các cấp cơ sở, đặc biệt
là vào các dịp kỷ niệm lớn của đất nước. Các cơ quan chức năng còn tổ chức
nhiều hoạt động học tập triển khai nghị quyết, chỉ thị của Đảng và Nhà nước để
cán bộ, đảng viên nắm vững nội dung và nghiêm chỉnh chấp hành. Tuy nhiên
vẫn còn nhiều hạn chế về nội dung, hình thức triển khai còn khô khan, chưa đa
dạng, ít được quan tâm do đó chưa tạo nên sự thu hút đối với cán bộ, đảng viên.
Hiện nay nước ta đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước. Điều đó đòi hỏi cán bộ, đảng viên phải là người có lòng
yêu nước, có sức khỏe, năng động sáng tạo, có lối sống văn hóa, có năng lực
chuyên môn tốt, đủ khả năng hoàn thành các công việc được giao, quan tâm
43
đến lợi ích xã hội và cộng đồng. Chuẩn mực này là rất cần thiết, được đông đảo
cán bộ, đảng viên thực hiện nhằm chấn chỉnh lại những lệch lạc trong phong
cách và lối sống tốt đẹp đã phần nào bị mai một trong sự phát triển không
ngừng của xã hội. Tuy nhiên cần phải thừa nhận rằng, sự vươn lên, lấy các
chuẩn mực làm mục tiêu phấn đấu để tự nâng cao tri thức, sức khỏe, nâng cao
tính năng động, sáng tạo, khắc phục sự suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo
đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên; lựa chọn các hành vi thể
hiện sự trung thực với chính mình và cộng đồng, thương yêu mọi người, tránh
hành động ích kỷ, cá nhân, cơ hội là nhân tố quan trọng. Nếu bản thân người
cán bộ, đảng viên không tu dưỡng, tự vươn lên thì mọi sự tác động đều kém
hiệu quả. Đó là kinh nghiệm rút ra từ công tác tuyên truyền, giáo dục phẩm
chất, đạo đức, lối sống cho cán bộ đảng viên những năm vừa qua. Công tác
tuyên truyền gương người tốt, việc tốt còn hạn chế. Việc phát hiện những điển
hình tiên tiến, nhất là trong đội ngũ cán bộ, đảng viên chưa được quan tâm,
công tác tuyên truyền chưa mạnh, chưa thật chủ động, chưa động viên được
đông đảo quần chúng nhân dân tham gia.
Phương châm giáo dục đạo đức là “giáo dục cái mà đất nước cần chứ
không phải giáo dục cái mà ta có”. Đồng thời phải phát triển các giá trị đạo
đức xã hội. Sự chuyển đổi giá trị đạo đức phải xử lý để chủ thể giá trị phát
huy được tính tích cực cao nhất trong công tác, vừa góp phần vào quá trình
xây dựng tổ chức, phát triển xã hội, vừa phải nâng cao trình độ nhận thức, ý
thức tự giác, lập trường tư tưởng, đạo đức, văn hóa cho cán bộ, đảng viên và
nhân dân. Phải hướng dẫn các quan niệm về giá trị đạo đức, phải định vị cho
được thước đo giá trị đạo đức cơ bản.
Để hệ thống những chuẩn mực đạo đức mới trở thành ý thức, chính kiến,
thành tình cảm, tập tục, thói quen của mỗi thành viên xã hội, phải thông qua
hoạt động giáo dục đạo đức. Chỉ có thông qua hoạt động giáo dục mới mới có
thể xác lập được quan điểm nhận thức đạo đức, hình thành năng lực ứng xử đạo
đức và tính cách đạo đức mới. Chỉ có thông qua hoạt động giáo dục đạo đức
thường xuyên mới có thể xác lập được văn hóa đạo đức xã hội chủ nghĩa cho
44
mỗi cán bộ, đảng viên, cũng như cho toàn xã hội.
Nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức, cần nắm vững và sử dụng
đồng thời hai con đường trực tiếp và con đường gián tiếp. Con đường trực tiếp
là chủ thể giáo dục trực tiếp truyền đạt tri thức đạo đức cho đối tượng. Để nâng
cao hiệu quả giáo dục trực tiếp, đòi hỏi chủ thể giáo dục phải có tri thức, kinh
nghiệm đạo đức cũng như khoa học và nghệ thuật truyền đạt. Con đường giáo
dục đạo đức gián tiếp là thông qua hoạt động thực tiễn, thong qua việc đưa đối
tượng giáo dục rèn luyện trong thực tế cuộc sống, công tác, nhất là thông qua
các phong trào hành động cách mạng để từng cá nhân rút ra những kết luận về
quan điểm, nhận thức, kinh nghiệm và kỹ năng ứng xử đạo đức.
Khi thông qua hai phương pháp để giáo dục đạo đức, phải thực hiện
thật tốt các phương thức cơ bản của giáo dục, đó là giáo dục đạo đức từ
trong gia đình đến cơ quan, đoàn thể, xã hội. Phải kết hợp chặt chẽ giữa chủ
thể giáo dục với sự tự giáo dục của đối tượng giáo dục, trong đó chủ thể giáo
dục là điều kiện, là tiền đề cho tự giáo dục. Chỉ có thông qua việc đối tượng
giáo dục tự tu dưỡng, rèn luyện, họ mới tiếp nhận được sự giáo dục và mới
hình thành các hành vi đạo đức trên cơ sở tự nguyện và kết quả này mới
mang tính bền vững cao. Trong giáo dục phải kết hợp chặt chẽ giữa xây và
chống , trong đó xây là chính.
Để đổi mới, thực sự nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục đạo đức
cho cán bộ, đảng viên, đặc biệt là những cán bộ chuyên trách về công tác tư
tưởng của Đảng vừa phải tự rèn luyện, phấn đấu bản thân, vừa phải tập trung
nghiên cứu, nâng cao nhận thức sâu sắc về đạo đức, vai trò của đạo đức, nội
dung giáo dục đạo đức trong tình hình mới, con đường và những phương
thức cơ bản để giáo dục đạo đức. Nâng cao sự thống nhất về nhận thức tư
tưởng, chính trị, về ý chí và hành động trong toàn Đảng, kiên định lập
trường cách mạng và những quan điểm cơ bản có tính nguyên tắc, củng cố
và tăng cường sức mạnh của Đảng về mọi mặt làm cho Đảng thực sự “là đạo
đức, là văn minh”. Bồi dưỡng tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh trong toàn
Đảng, toàn quân và toàn dân; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về đạo đức, lối
45
sống, làm cho Đảng gắn bó máu thịt với nhân dân. Chúng ta cần nhận thức
sâu sắc và đưa nội dung giáo dục đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên
thông qua thực tiễn đời sống xã hội và các lĩnh vực hoạt động tư tưởng - văn
hóa, sinh hoạt xây dựng Đảng như:
Giáo dục đạo đức, lối sống thông qua đề cao và tích cực tuyên truyền
gương người tốt, việc tốt; tuyên truyền phát huy truyền thống tốt đẹp của dân
tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Ngoài ra cần phải thông qua quan
điểm lãnh đạo, chỉ đạo và thực tiễn cuộc đấu tranh chống tham nhũng và các
tệ nạn xã hội khác. Đồng thời giáo dục đạo đức, lối sống cần thông qua quan
điểm chỉ đạo và thực tiễn đổi mới công tác tổ chức cán bộ, củng cố tổ chức,
tăng cường sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở Đảng; thông
qua quan điểm lãnh đạo và thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội theo định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Trên thực tế, đa số đảng viên của Đảng đã tỏ rõ tính tiên phong gương
mẫu. Những tấm gương kiên trung của các thế hệ đảng viên đã xây dựng, lưu
giữ trong nhân dân hình ảnh tốt đẹp về Đảng cộng sản, một đảng “ tận tâm, tận
lực phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân”. Đảng sống trong lòng dân tộc vì đội
ngũ đảng viên của Đảng luôn luôn phát huy vai trò tiên phong gương mẫu
trong mọi điều kiện hoàn cảnh, luôn luôn đặt lợi ích của Đảng, của Tổ quốc,
của nhân dân lên trên hết. Trong hòa bình xây dựng đất nước, đội ngũ đảng
viên của Đảng đã phát huy vai trò tiên phong gương mẫu trên mọi lĩnh vực,
tiên phong về chính trị tư tưởng, gương mẫu trong đạo đức lối sống, có trách
nhiệm cao trong thực hiện nhiệm vụ chức trách được giao.
Số đông cán bộ, đảng viên vẫn giữ được đạo đức, lối sống trong sạch,
lành mạnh, gắn bó với nhân dân. Nhiều cán bộ, đảng viên đã vượt lên những
cám dỗ và lợi ích cá nhân, phát huy tính tích cực của bản thân, vươn lên để
tiếp thu tri thức mới, nâng cao trình độ, lao động sáng tạo, làm giàu chính
đáng; động viên nhân dân làm giàu, tham gia vào quá trình xóa đói giảm
nghèo. Những cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp từ trung ương đến cơ sở,
đặc biệt là cấp chiến lược có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định mục
46
tiêu, con đường mà Đảng, Bác Hồ đã lựa chọn; năng động, sáng tạo, hăng
hái thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách đổi mới của Đảng và nhà
nước. Đa số cán bộ, đảng viên được nâng cao về trình độ, kiến thức và năng
lực quản lý kinh tế, quản lý xã hội. Tính năng động và tính tích cực công dân
được phát huy, sở trường và năng lực chuyên môn được khuyến khích,
không khí dân chủ trong xã hội tăng lên. Đạo lý của dân tộc sống có tình, có
nghĩa “ bầu ơi thương lấy bí cùng”, “ lá lành đùm lá rách”… tiếp tục được
nhân rộng. Những việc làm thiết thực hướng về cội nguồn, về cách mạng và
kháng chiến tưởng nhớ các anh hùng dân tộc, quý trọng danh nhân văn hóa,
đền ơn đáp nghĩa những người có công giúp đỡ đồng bào hoạn nạn… trở
thành phong trào quần chúng rộng rãi. Ngoài những điểm chung nói trên,
mỗi loại cán bộ còn có những ưu điểm cụ thể.
Cán bộ lãnh đạo Đảng, Nhà nước và các đoàn thể: có bản lĩnh và kinh
nghiệm lãnh đạo chính trị, vận động nhân dân, tích cực tiến hành công cuộc đổi
mới, phát triển đất nước. Cán bộ lãnh đạo lực lượng vũ trang có lập trường
chính trị kiên định, có ý thức cảnh giác cao, chịu đựng gian khổ, vượt qua khó
khăn, bảo vệ vùng biển, vùng trời của Tổ quốc, giữ vững an ninh chính trị và
trật tự an toàn xã hội. Cán bộ khoa học: Có tâm huyết, say mê nghiên cứu khoa
học, có năng lực sáng tạo, tiếp thu nhanh khoa học công nghệ mới. Có nhiều
công trình nghiên cứu khoa học đã được ứng dụng trong thực tế.
Cán bộ quản lý kinh doanh: năng động, thích ứng nhanh với cơ chế thị
trường, làm ra nhiều sản phẩm có ích phục vụ nhân dân. Nhiều sản phẩm đã
được giải vàng về chất lượng. Số đông cán bộ, đảng viên vẫn giữ được phẩm
chất đạo đức, tư cách người cán bộ cách mạng, thực hiện lời dạy của Bác Hồ
“cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”, đấu tranh chống quan liêu, tiêu cực,
tham nhũng và các tệ nạn xã hội khác; đấu tranh với lối sống thực dụng, cách
sống trái với đạo đức truyền thống của dân tộc, giữ gìn đoàn kết trong Đảng
gắn bó với nhân dân, lời nói đi đôi với việc làm. Nhiều cán bộ, đảng viên phát
huy được tính gương mẫu, có tinh thần trách nhiệm cao trong công việc được
giao, tích cực rèn luyện học tập nâng cao trình độ năng lực, nêu cao ý thức kỷ
47
luật, tự giác thực hiện những quy định của Đảng, pháp luật. Mặt khác, phần
đông cán bộ, đảng viên có tinh thần đấu tranh, tự phê bình và phê bình nghiêm
túc, có ý thức trách nhiệm và tinh thần xây dựng tổ chức cao, trung thực, có lối
sống lành mạnh và ý thức chấp hành nghiêm túc pháp luật.
Thực tế đã chứng minh rằng, hàng vạn cán bộ đã không ngừng được
học tập trong trường lớp, trong sách vở, học hỏi bạn bè, đồng nghiệp và
không ngừng vươn lên hoàn thành tốt các công việc được giao. Họ luôn
trung thực, thẳng thắn trong công tác cũng như trong sinh hoạt, tự giác rèn
luyện đạo đức, lối sống lành mạnh, gắn bó với nhân dân và được nhân dân
tín nhiệm tin yêu. Mặc dù sống và hoạt động trong môi trường kinh tế thị
trường, hội nhập với thế giới nhưng nhiều cán bộ, đảng viên vẫn nêu cao
tinh thần vì nước vì dân. Kiên quyết đấu tranh chống tiêu cực, tham nhũng,
đặc quyền, đặc lợi và với những hiện tượng gian dối, thiếu trung thực, lối
sống không lành mạnh, chạy theo nhu cầu vật chất, tham vọng tầm thường,
bất chấp những quy định của pháp luật. Chính sự tiên phong gương mẫu
cùng với năng lực của họ đã giữ vai trò quan trọng quyết định trực tiếp công
cuộc đổi mới; đã tổ chức, động viên được nhân dân phấn đấu vượt qua bao
thử thách để đạt được những thành tích to lớn có ý nghĩa chiến lược bước
vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Đặc biệt cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh đã được đa số cán bộ, đảng viên và nhân dân đồng tình hưởng ứng. Qua
9 năm triển khai cuộc vận động đã tạo được những chuyển biến rõ nét về nhận
thức trong cán bộ, đảng viên và nhân dân, tuyệt đại bộ phận cán bộ, đảng viên,
nhân dân coi việc phát động cuộc vận động là đúng đắn, là sự lựa chọn “đúng”
và “ trúng” nhằm xây dựng Đảng, đội ngũ cán bộ, và nền tảng đạo đức trong
Đảng, trong xã hội. Nhiều cán bộ, đảng viên, trong đó có nhiều cán bộ lão
thành cách mạng, hưu trí cựu chiến binh… rất quan tâm, kỳ vọng vào việc thực
hiện Cuộc vận động; đã nhiệt tình tham gia trong triển khai Cuộc vận động ở
cơ sở. Các chủ đề học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh đã có
tác động tích cực đến tư tưởng của cán bộ, đảng viên, đáp ứng dược nhu cầu
48
của tình hình và nguyện vọng của nhân dân.
Thông qua cuộc vận động, ý thức tự giác rèn luyện về đạo đức, lối
sống của đa số cán bộ, đảng viên được nâng lên được biểu hiện qua các hành
động tự giác hằng ngày trong các mối quan hệ với gia đình và xã hội. Việc
tự giác làm theo tấm gương đạo đức của Bác trong những công việc hằng
ngày của mỗi người đã diễn ra trên phạm vi rộng với cấp độ khác nhau. Ở tất
cả các ngành, địa phương, lĩnh vực công tác đã xuất hiện ngày càng nhiều
tập thể, cá nhân, những tấm gương điển hình tiên tiến gương mẫu học tập và
làm theo lời Bác.
Sự chuyển biến tích cực từ nhận thức đến hành động đã góp phần khắc
phục một bước tình trạng suy thoái về chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ,
đảng viên. Kết quả thống kê cho thấy, các vụ việc vi phạm pháp luật, kỷ luật Đảng
của cán bộ, đảng viên xảy ra trong năm gần đây giảm đi so với trước. Tinh thần tự
giác, tự phê bình, nhận khuyết điểm, khắc phục những yếu kém của cán bộ, đảng
viên có tiến bộ. Cải cách hành chính, sửa đổi lối làm việc được nhiều cơ quan
quan tâm và có chuyển biến nhất định. Tinh thần, thái độ phục vụ nhân dân, ý
thức trách nhiệm trong công tác của cán bộ, công chức ở một số cơ quan, đơn vị
được nâng lên. Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị- xã hội quan tâm sâu
sắc đến Cuộc vận động, tổ chức nhiều hoạt động để triển khai Cuộc vận động có
hiệu quả thiết thực.
Điều đó khẳng định rằng, việc lãnh đạo, chỉ đạo công tác giáo dục đạo
đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên cho đến nay được hình thành và thực hiện từ
trên xuống dưới, nòng cốt là các tổ chức Đảng, các cơ quan quản lý nhà nước,
các tổ chức xã hội và gia đình. Tuy nhiên đến nay, chúng ta vẫn chưa có cơ quan
chuyên trách, theo dõi, đánh giá và tham mưu kịp thời cho Đảng, Nhà nước về
lĩnh vực này, bởi vậy bên cạnh thành tựu đã đạt được thì vẫn còn bộc lộ không ít
những thiếu sót, hạn chế. Do không có bộ phận chuyên trách nên việc lãnh đạo,
chỉ đạo còn chưa thường xuyên, nặng tính phong trào; nội dung giáo dục không
bám sát với đặc điểm và yêu cầu nhiệm vụ của từng giai đoạn, không bám sát
49
đối tượng.
Về đội ngũ làm công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng
viên, đó là các đồng chí lãnh đạo chủ chốt ở các cơ quan Đảng, Nhà nước từ
Trung ương đến địa phương, các cấp ủy và chính quyền các cấp trong quản lý,
giáo dục đối tượng thuộc diện mình quản lý; các giáo viên, các cán bộ chuyên
môn trong lĩnh vực này. Đặc điểm quan trọng của người làm công tác giáo dục
đạo đức, lối sống cho người khác trước hết phải là tấm gương sáng cho người
học noi theo, phải thuyết phục người học từ chính bản thân mình, giữa nói và
làm, giữa công và tư, giữa đạo đức cách mạng với các yêu cầu cụ thể với cuộc
sống đời thường, gia đình, vợ con và bản thân mình.
Từ thực trạng trên, Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ tư, khóa XI
đánh giá: “Đa số cán bộ, đảng viên có ý thức rèn luyện, nâng cao phẩm chất chính
trị, đạo đức, lối sống, có ý thức phục vụ nhân dân, được nhân dân tin tưởng” [17,
tr 21]. Qua đánh giá trên, có thể thấy rằng đa số cán bộ, đảng viên đã giữ vững và
thường xuyên rèn luyện phẩm chất, đạo đức cách mạng, có bản lĩnh chính trị, kiên
định mục tiêu, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, năng động, sáng tạo, hăng hái,
đã đáp ứng nhiệm vụ của sự nghiệp đổi mới. Đó là một trong những nguồn gốc
làm nên những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của công cuộc đổi mới.
2.1.2. Những hạn chế về đạo đức của cán bộ, đảng viên ở Việt
Nam hiện nay
Nhìn vào thực trạng đạo đức của cán bộ, đảng viên hiện nay cho thấy,
bên cạnh những giá trị đạo đức đã và vẫn được thừa nhận, những nhân tố
mới đã nảy mầm và phát triển để theo kịp và hòa nhập với thời đại. Đó là
tinh thần năng động, ham học hỏi, tiếp thu cái mới; ý chí vươn lên làm giàu
chính đáng; tinh thần uống nước nhớ nguồn, đền ơn đáp nghĩa; ý thức yêu
quý và bảo vệ môi trường… Chưa thể khẳng định một nền đạo đức trong
giai đoạn mới đã hình thành, nhưng những yếu tố mới sẽ xây dựng nên nó đã
manh nha, phát triển trên nền vững chắc của truyền thống, rất cần được
Đảng ta phát hiện kịp thời, bồi đắp thường xuyên.
Tuy nhiên cũng phải thẳng thắn nhìn nhận một cách nghiêm túc rằng,
50
thực trạng suy thoái đạo đức trong cán bộ, đảng viên đã gây ra nhiều bất
bình trong nhân dân. Những vụ tiêu cực đã được phát hiện làm chúng ta mất
đi nhiều cán bộ, đảng viên, mất đi nhiều tổ chức đảng vì đã bị tham nhũng
và lộng quyền làm tha hóa. Tổn thất về người cũng đã lan đến những cán bộ
cấp cao, làm suy giảm lòng tin của quần chúng vào sự gương mẫu của đảng
viên và vai trò lãnh đạo của tổ chức đảng. Nhiều vụ việc có quy mô nhỏ
nhưng hậu quả mà nó gây ra lại rất lớn, vẫn lan tới ngõ ngách của đời sống
xã hội. Không ít những sai phạm “lặt vặt”, chưa đến mức xử lý bằng pháp
luật, nhưng những sai phạm “lặt vặt” đó cũng không kém phần nguy hiểm,
mà điều nguy hiểm nhất của nó là đã tạo ra một lớp người thực dụng, thu
vén cá nhân, thờ ơ với lợi ích của người khác.
Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ,
đảng viên những năm gần đây diễn biến phức tạp, ở nhiều lĩnh vực, với nhiều mức
độ và hình thức biểu hiện. Đó là sự phai nhạt mục tiêu, lý tưởng của Đảng, của
cách mạng; nhận thức, quan niệm không đầy đủ, đúng đắn, thậm chí sai trái về
những vấn đề cơ bản, liên quan trực tiếp đến đường lối, chủ trương của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước…Về đạo đức lối sống, đó là chủ nghĩa cá
nhân, thực dụng, vụ lợi, vị kỷ trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên.
Nạn tham nhũng, hối lộ, bòn rút, lãng phí của công; lối sống cơ hội, buông thả;
thái độ thiếu trách nhiệm với công việc được giao; nói không đi đôi với làm; nói
nhiều, làm ít… khá phổ biến. Đó còn là tệ quan liêu, xa dân, thích nghe thành tích,
ngại nghe và nói sự thật… tồn tại ở không ít cơ quan, ban ngành, địa phương
Có thể thấy rằng, thực trạng về đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng
viên hiện nay đã được các Đại hội Đảng và Hội nghị Trung ương nhìn nhận
một cách thẳng thắn, nghiêm túc. Bên cạnh số đông cán bộ, đảng viên vẫn giữ
được phẩm chất, đạo đức, lối sống thì vẫn còn “một bộ phận không nhỏ cán bộ,
đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một
số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những
biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ,
cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham
51
nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc” [17, tr 22].
Biểu hiện tập trung nhất của suy thoái về tư tưởng chính trị là dao động về
lý tưởng, mục tiêu và con đường phát triển của dân tộc. Còn sự suy thoái về ðạo
ðức, lối sống biểu hiện tập trung ở chủ nghĩa cá nhân, lối sống thực dụng, vụ lợi,
vị kỷ, tệ tham nhũng, hối lộ, bòn rút, lãng phí của công, lối sống cơ hội, buông
thả; tình trạng lời nói không đi đôi với việc làm; tệ quan liêu, xa dân, thích nghe
thành tích, ngại nghe và nói sự thật… Đạo đức nghề nghiệp xuống cấp, lối sống
thực dụng, toan tính, vụ lợi, ích kỷ phát triển tác động trực tiếp đến quan hệ gia
đình, nền nếp, gia phong truyền thống. Suy thoái về tư tưởng, chính trị và suy
thoái về đạo đức, lối sống gắn kết, tác động qua lại nhau, vì thế có thể xác định
suy thoái tư tưởng, chính trị qua đạo đức, lối sống của mỗi người và ngược lại.
Suy thoái là sự yếu kém, hư hỏng, làm mất dần đi cái tốt, cái tiến bộ, làm
tăng dần cái xấu, cái lạc hậu, làm chậm lại quá trình phát triển dẫn đến sự thoái
hóa và biến chất của sự vật, hiện tượng, quá trình hay chính bản thân con người
và tổ chức xã hội của con người. Hồ Chí Minh đã chỉ ra: “Trong thế giới, cái gì
cũng biến hóa. Tư tưởng của người cũng biến hóa” [49, tr 277]. Có cái thì biến
hóa tiến bộ lên, tức là phát triển, có cái thì biến hóa lạc hậu đi, tức là suy thoái.
Suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống là sự giảm sút ý chí chiến đấu,
phai nhạt lý tưởng, dao động về chính trị, sa sút phẩm chất đạo đức, xuống cấp
về lối sống.
Suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống là ba căn bệnh nằm
trong một cá thể người “bị bệnh nặng”. Ba căn bệnh ấy có cùng nguồn gốc sinh
thành là “bệnh lý” hay sự “ nhiễu loạn của hệ thần kinh trung ương” mà chủ
yếu là sự “thoái hóa, biến chất”, mất nhân cách, mất “tính người” ở một số “cán
bộ” mang danh hiệu đảng viên. Ai đó nếu đã bị lâm vào căn bệnh suy thoái về
tư tưởng chính trị, thì lập tức, căn bệnh này sẽ “lây nhiễm”, biến người đó đồng
thời tha hóa, biến chất về đạo đức, lối sống và ngược lại.
Biểu hiện rõ nét nhất và tập trung nhất của suy thoái đó là dao động về
lý tưởng, mục tiêu và con đường phát triển của dân tộc. Họ cho rằng con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng ta đã lựa chọn là không đúng và
52
không thể trở thành hiện thực. Đặc biệt là họ không tin vào chủ nghĩa Mác -
Lênin, vào lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học, vì cho rằng chủ nghĩa Mác -
Lênin chỉ có giá trị chỉ đạo, dẫn đường trong giai đoạn cách mạng giải
phóng dân tộc ở Việt Nam vào đầu thế kỷ XX. Ngày nay nó đã trở nên lỗi
thời, không còn đủ sức chỉ dẫn trong giai đoạn cách mạng mới. Họ ca ngợi
chủ nghĩa tư bản và cho rằng chỉ có chủ nghĩa tư bản mới mang lại cuộc
sống dân giàu, nước mạnh. Sự dao động về nền tảng tư tưởng, mục tiêu, con
đường phát triển cũng làm nảy sinh chủ nghĩa giáo điều, chủ nghĩa thực
dụng mới, coi cái gì liên quan đến chủ nghĩa tư bản cũng đều là tốt, cái gì
liên quan đến chủ nghĩa xã hội cũng đều là xấu.
Hai là, không tích cực học tập, nghiên cứu lý luận chính trị, bằng lòng
với những nhận thức giản đơn, chung chung, mơ hồ về chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và chủ trương đường lối của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước. Không tích cực nghiên cứu, học tập lý luận chính
trị hoặc có thái độ học tập không đúng có thể dẫn đến chủ nghĩa cơ hội, giáo
điều. Họ che đậy sự thiếu hiểu biết của mình bằng các hoạt động chạy chọt,
tìm ô dù che chắn, nâng đỡ… Việc không nghiêm túc trong học tập, nghiên
cứu lý luận của cán bộ, đảng viên đã làm giảm sức chiến đấu, uy tín của
Đảng trước quần chúng.
Ba là, phủ nhận các thành quả cách mạng và giá trị truyền thống của
dân tộc. Đối với những cán bộ, đảng viên trẻ do không phải sống trong hoàn
cảnh có chiến tranh nên họ chưa hiểu hết giá trị của thành quả cách mạng và
lịch sử dân tộc.. Nhưng cũng có một số cán bộ, đảng viên đã từng tham gia
kháng chiến, có những đóng góp nhất định vào sự nghiệp cách mạng, nay
quay lưng lại với quá khứ hào hùng đó, cho rằng những chịu đựng hy sinh
đó là vô nghĩa. Phủ nhận lịch sử thường đi đến mất niềm tin vào tương lai.
Phủ nhận thành quả của cách mạng dẫn tới sự phân hóa, làm “ đứt đoạn”
quan hệ giữa các thế hệ cách mạng, tạo mâu thuẫn giữa thế hệ già và thế hệ
trẻ, hạ thấp uy tín và công lao cống hiến của những người đã tham gia các
cuộc kháng chiến, coi thường vai trò của giai cấp công nhân, nông dân, đề
53
cao quá mức vai trò của trí thức, doanh nhân…
Bốn là, Thiếu thống nhất với các quan điểm, đường lối, chủ trương của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, từ đó nói và làm không theo đúng
quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách hiện hành… Điều này dẫn đến
tình trạng nói một đằng, làm một nẻo, nói là nhất trí nhưng không làm hoặc làm
khác đi, thực chất là sự giả dối.
Năm là, không chấp hành nghiêm các nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt
đảng, trước hết là nguyên tắc tập trung dân chủ. Một số cán bộ, đảng viên lơi
lỏng, không chấp hành nghiêm các nguyên tắc tổ chức và kỷ luật đảng. Tình
trạng phai nhạt lý tưởng của đảng, không coi trọng sinh hoạt đảng đang diễn
ra khá phổ biến, không tự giác và nghiêm khắc phê bình các thiếu sót, khuyết
điểm của bản thân, thậm chí còn tập hợp bè cánh, thâu tóm quyền lực, gây
mất đoàn kết trong nội bộ tổ chức đảng.
Sáu là, lơ là, mất cảnh giác trước âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa
bình” của các thế lực thù địch, đồng thời chưa kiên quyết phê phán, đấu tranh
với những quan điểm sai trái. Trước âm mưu “diễn biến hòa bình”, phá hoại
của các thế lực thù địch đối với Việt Nam, không ít cán bộ, đảng viên không
thấy hết âm mưu, thủ đoạn thâm độc, xảo quyệt của chúng; lơ là, mất cảnh
giác, coi như không có vấn đề gì nghiêm trọng. Một số cán bộ, đảng viên
nhận được các tài liệu đang lưu truyền trái phép đã không báo cáo và nộp lại
ngay cho cấp ủy đảng hoặc cơ quan chức năng, cố tình giữ lại, thậm chí còn
sao chụp, chuyển cho người khác. Có người còn tin vào những lập luận ngụy
biện trong các tài liệu xuyên tạc đó , dẫn tới hoài nghi về nền tảng tư tưởng,
quan điểm, đường lối của Đảng. Trên đây là những nội dung và hình thức
biểu hiện tương đối rõ nét của suy thoái tư tưởng chính trị trong một số tổ
chức đảng và một bộ phận cán bộ, đảng viên.
Hiện nay, tình trạng suy thoái về đạo đức, lối sống trong một bộ phận
cán bộ, đảng viên đã và đang diễn ra với mức độ nghiêm trọng. Tệ quan liêu,
xa dân, thờ ơ, lãnh đạm trước những khó khăn, bức xúc và yêu cầu, đòi hỏi
chính đáng của dân đang là vấn đề rất đáng lo ngại. Tệ tham nhũng, lãng phí
54
chẳng những chưa bị đẩy lùi, mà còn tiếp tục diễn ra với mức độ và tính
chất nghiêm trọng gây nên sự bất bình trong Đảng và toàn xã hội. Chủ nghĩa
cá nhân với các biểu hiện vị kỷ, vụ lợi, vun vén cho bản thân và gia đình, vô
trách nhiệm trong công việc có chiều hướng gia tăng. Tình trạng mất đoàn
kết, vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, trù dập cán bộ và quần chúng
dám thẳng thắn phê bình cũng đang diễn ra. Lối sống hưởng thụ, đua đòi,
lãng phí đang có chiều hướng gia tăng. Tính chất nghiêm trọng của sự suy
thoái về đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, kể
cả cán bộ lãnh đạo chủ chốt ở các cấp, các ngành từ trên xuống dưới được
thể hiện ở một số nội dung sau:
Một là, chủ nghĩa cá nhân, lối sống thực dụng, vụ lợi, vị kỷ trong cán bộ,
đảng viên chưa được ngăn chặn và đẩy lùi. Không ít cán bộ, đảng viên không chỉ
suy giảm mà đã đánh mất lý tưởng cách mạng cao đẹp là phục vụ Tổ quốc, phục
vụ nhân dân, lợi dụng chức vụ, quyền hạn để mưu lợi cá nhân, thậm chí sẵn sàng
bán rẻ lợi ích dân tộc khi có cơ hội. Biểu hiện cụ thể là thái độ vô trách nhiệm
với dân, xa dân. Họ chỉ lo vun vén quyền lợi cho cá nhân, gia đình, dòng họ mà
quên đi lợi ích của tập thể; chỉ quan tâm đến lợi ích vật chất, coi nhẹ lợi ích tinh
thần; chỉ lo kiếm lợi trước mắt, không quan tâm đến những vấn đề cơ bản, lâu
dài; không giữ gìn tư cách đảng viên, chạy theo lối sống thực dụng, vụ lợi, vị kỷ,
trái với những chuẩn mực đạo đức chung của xã hội và đạo đức cách mạng. Điều
nguy hại là lối sống này đang lây lan không chỉ ở số đảng viên trẻ, ít được rèn
luyện, thử thách, mà còn trong một bộ phận cán bộ, đảng viên đã qua thử thách
trong chiến đấu và sản xuất, nay có chức, có quyền đang nắm các vị trí lãnh
đạo trong các cơ quan công quyền, các tổ chức kinh tế nhà nước.
Hai là, tệ tham nhũng, hối lộ bòn rút, lãng phí của công trong cán bộ,
đảng viên không giảm. Tham nhũng ở nước ta được ví như “giặc nội xâm”. Nó
đã gây hậu quả nặng nề trên nhiều mặt, làm thất thoát tài sản, tiền vốn của Nhà
nýớc, của nhân dân. Nổi lên là các hiện tượng thông đồng giữa khu vực công
và khu vực tư, giữa “bên A” và “bên B” để bòn rút tài sản của Nhà nước, của
nhân dân trong đầu tư xây dựng cơ bản, giải tỏa mặt bằng, mua sắm vật tư,
55
thiết bị, hàng hóa, đấu thầu, phân phối ngân sách, dự án, cấp phát vốn…. Việc
thông đồng, mua bán hóa đơn giữa cán bộ thuế với doanh nghiệp, nhận tiền để
đưa tin trong các nhà báo, nhận hối lộ để điều tra, xét xử trong các cơ quan tư
pháp, hợp thức hóa các hành vi buôn lậu trong các cơ quan hải quan… đã được
phát hiện và xử lý không chỉ một lần. Tình trạng nhũng nhiễu, vòi vĩnh ở nhiều
cán bộ, đảng viên, công chức khi thực thi công vụ diễn ra ngày càng nghiêm trọng
trong nhiều ngành, nhiều cấp, lĩnh vực, gây bức xúc trong xã hội...
Ba là, cùng với sự suy thoái về đạo đức lối sống là bệnh cơ hội “ gió
chiều nào che chiều ấy", chủ nghĩa cá nhân có chiều hướng gia tăng và không
chỉ có ở đảng viên trẻ mà còn thể hiện ở trong một bộ phận cán bộ, đảng viên
nói chung, nhất là những cán bộ nắm quyền, nắm tiền và tài sản công, nắm cán
bộ, nắm thông tin. Lối sống này trái với những chuẩn mực đạo đức của người
cộng sản “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư” như Hồ Chí Minh đã dạy.
Hiện nay, ở nơi này nơi khác vẫn còn tình trạng chạy chức, chạy quyền, chạy
tội, chạy bằng cấp. Trong xã hội còn có dư luận “chạy tuổi” để được đề bạt,
được vào cấp ủy, kéo dài thời gian công tác để được “bổng lộc”. Tại Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ X, Đảng ta nhận định: “Bệnh cơ hội, chủ nghĩa cá
nhân trong một bộ phận cán bộ, đảng viên có chiều hướng gia tăng; vẫn còn
tình trạng “chạy chức”, “chạy quyền”, “chạy tội”, “chạy bằng cấp” [15, tr 263].
Một bộ phận sống buông thả, sử dụng tiền của công quỹ để ăn chơi lãng phí, xa xỉ.
Bốn là, tình trạng nói không đi đôi với làm còn phổ biến. Vẫn còn tình
trạng nói nhiều làm ít, nói nhưng không làm còn xảy ra ở không ít cán bộ,
đảng viên, trái với lời dạy của Bác Hồ là “nói phải đi đôi với làm”; “dù khó
khăn mấy cũng kiên quyết làm đúng chính sách và nghị quyết của
Đảng.Trong Đảng ta hiện nay không ít cấp ủy, người lãnh đạo còn xa dân,
không sát cơ sở, không hiểu được thực tiễn, ít lắng nghe ý kiến cấp dưới,
không nắm được hoạt động, lối sống của cán bộ dưới quyền, nên có trường
hợp đề ra chủ trương, chính sách không phù hợp với thực tế, người dân
không đồng tình. Một số cán bộ, đảng viên nói nhiều, làm ít, nói mà không
làm, “nói một đằng, làm một nẻo”, nói và làm sai nghị quyết, thậm chí phát
56
ngôn tùy tiện, vô nguyên tắc. Nguy hại hơn, một số cán bộ, đảng viên còn
dung túng, a dua, kích động nhân dân biểu tình, gây rối, phát tán tài liệu xấu,
gieo rắc nghi ngờ, bất mãn trong nội bộ tổ chức đảng và nhân dân.
Năm là, tệ quan liêu, xa dân, thích nghe thành tích, ngại nghe và nói sự thật.
Bệnh hình thức không những tiêu tốn không ít tiền của Nhà nước và công sức của
nhân dân vào những hoạt động không hiệu quả, mà còn giảm lòng tin của quần
chúng vào sự lãnh đạo của Đảng.
Sáu là, đạo đức nghề nghiệp trong cán bộ, đảng viên không được đề cao và
gương mẫu thực hiện, kể cả trong những lĩnh vực nhạy cảm như giáo dục, y tế,
cứu trợ xã hội…Sự suy thoái đạo đức xã hội đã xâm nhập sâu vào nhà trường,
bệnh viện, vào quan hệ thầy - trò, thầy thuốc - bệnh nhân. Không ít trường hợp vì
tiền, vì danh lợi, địa vị bản thân mà chà đạp lên tình thầy trò, đồng chí, đồng
nghiệp, lên danh hiệu “ lương y như từ mẫu”…
Bảy là, lối sống thực dụng, sự toan tính vụ lợi, ích kỷ của một số cán bộ,
đảng viên có chức, có quyền trong quan hệ đạo đức gia đình. Lối sống thực dụng,
vụ lợi thể hiện ngay cả ở sự toan tính trong hôn nhân, quan hệ gia đình, trong tổ
chức các đám cưới, đám giỗ, tân gia… nhằm mục tiêu vụ lợi. Đồng tiền chi phối
trong mọi mối quan hệ. Thậm chí có kẻ vì tiền mà sẵn sàng lừa gạt, đối xử tàn
nhẫn với cha mẹ, vợ ( chồng), con cái và người thân trong gia đình. Trong số đó
có cả cán bộ, đảng viên có chức, có quyền ở tất cả các cấp.
Hiện nay, sự suy thoái về đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên có xu
hướng gia tăng cả về số lượng và phạm vi. Từ chỗ chỉ có một bộ phận, thì nay đã
diễn ra ở một bộ phận không nhỏ, trong đó có cả cán bộ, đảng viên có chức có
quyền. Sự suy thoái về đạo đức, lối sống làm nảy sinh lãng phí, nhũng nhiễu dân
trước kia chỉ diễn ra ở cán bộ đảng viên hoạt động trong lĩnh vực kinh tế thì nay
xảy ra trong tất cả các ngành, các lĩnh vực: y tế, giáo dục, văn hóa, thực hiện các
chính sách xã hội, tổ chức cán bộ, công tác tham mưu hoạch định, chính sách cụ
thể…Những hiện tượng này nếu không được ngăn chặn, đẩy lùi sẽ có tác hại rất
nghiêm trọng đến công tác xây dựng Đảng và do đó , quyết định đến sự tồn vong
57
của Đảng và chế độ.
Mức độ này tăng lên nếu trước kia chỉ là “ăn cắp vặt”, “bớt xén” mang
tính chất đơn lẻ thì nay diễn ra với nhiều thủ đoạn, có tính tổ chức chặt chẽ,
móc nối chằng chịt trên dưới, trong ngoài để trục lợi như: thông đồng, chia
chác giữa các bên trong đầu tư xây dựng cơ bản, giải phóng mặt bằng, mua sắm
vật tư, thiết bị, hàng hóa., đấu thầu và chỉ định thầu, phân phối dự án, hoàn thuế
giá trị gia tăng, trong cấp phát vốn, nhận hối lộ trong điều tra, truy tố, xét xử;
“ra giá” trong việc cung cấp thông tin bí mật và trong bổ nhiệm, đề bạt cán bộ.
Theo tài liệu của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, chỉ tính riêng 9 vụ án
điểm mà Trung ương chỉ đạo xử lý với 196 bị can đã khởi tố thì có tới 176 bị
can ( chiếm 89,79% / tổng số bị can) nguyên là cán bộ, công chức nhà nước; 65
/ 196 bị can (chiếm 33,16% ) nguyên là đảng viên. Còn theo tài liệu của cơ
quan Thanh tra Nhà nước, trong số các vụ khiếu nại, tố cáo được xử lý, phần
lớn nội dung liên quan đến việc quản lý và sử dụng đất đai (57%); 1/3 khiếu
nại, tố cáo ở lĩnh vực thi hành án dân sự ( từ 75% đến 80% nội dung khiếu nại,
tố cáo của công dân đúng hoặc có một phần đúng). Theo kết quả điều tra xã hội
học, mức độ nghiêm trọng của suy thoái đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng
viên giảm dần theo cấp công tác: 34,1% cán bộ cấp trung ương, 31,6% cán bộ
cấp tỉnh, 18,5% cán bộ cấp huyện, 26% cán bộ cấp xã, phường
(Nguồn: PGS, TS. Vũ Văn Phúc, PGS, TS. Ngô Văn Thạo ( Đồng chủ
biên): Những giải pháp và điều kiện thực hiện phòng, chống suy thoái tư
tưởng, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên, Sđd, tr. 119
STT Các biểu hiện Giảm đi Khó trả lời
Tăng lên Nhƣ cũ
thực dụng, 42% 38% 26% 25% 29% 31% 3% 6%
1 Tham nhũng, lãng phí sống 2 Lối hưởng thụ, sa đọa 3 Cơ hội, chụp giật 4 A dua, xu nịnh 5 Dĩ hòa, vi quý trong đấu 36% 30% 28% 34% 43% 45% 23% 20% 20% 7% 7% 7%
tranh, phê bình
6 Bè phái, cục bộ, địa 26% 39% 28% 7%
phương
58
7 Nói nhiều, làm ít 26% 40% 26% 8%
8 Thiếu công khai, minh 22% 38% 32% 7%
bạch
9 Đố kỵ với người có tài 10 Quan liêu, xa rời nhân dân 11 Gian lận, dối trá, đạo đức 21% 21% 19% 41% 33% 40% 30% 38% 31% 8% 8% 9%
giả
12 Giàu thì ghen, hèn thì chê 13 Sống thiếu lý tưởng, hoài 16% 16% 40% 35% 33% 38% 11% 11%
bão
( Nguồn: PGS, TS. Vũ Văn Phúc, PGS, TS. Ngô Văn Thạo ( Đồng chủ
biên): Những giải pháp và điều kiện thực hiện phòng, chống suy thoái tư
tưởng, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên, Sđd, tr. 120
Tóm lại, thực trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống
dẫn đến tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, sách nhiễu của một bộ phận
không nhỏ cán bộ, đảng viên diễn ra nghiêm trọng làm cho nhân dân bất bình,
lo lắng và giảm lòng tin đối với Đảng, Nhà nước là nguy cơ, hiểm họa lớn đe
dọa sự tồn vong của Đảng, của chế độ ta.
2.1.3. Nguyên nhân
Thấm nhuần tư tưởng về đạo đức cán bộ của Hồ Chí Minh, những năm
vừa qua, nhiều tổ chức Đảng đã thường xuyên tiến hành giáo dục đạo đức, lối
sống cho cán bộ, đảng viên bằng những hình thức, biện pháp khác nhau và đã
thu được những kết quả nhất định. Đa số cán bộ, đảng viên có phẩm chất đạo
đức tốt, sống trong sạch, lành mạnh, làm việc tận tụy với tinh thần trách nhiệm
và ý thức tổ chức kỷ luật cao, nỗ lực rèn luyện phấn đấu để tự hoàn thiện mình.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến kết quả của công tác giáo dục đạo đức, lối sống,
song chủ yếu do các nguyên nhân cơ bản sau.
Trước hết, nguyên nhân của những thành tựu trong công tác giáo
dục đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên có thể xét từ hai phía khách
quan và chủ quan.
Về phía khách quan, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn coi
59
giáo dục đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên là nhiệm vụ trọng tâm, là
cái gốc, cái cơ bản để bảo đảm cho Đảng ta thật sự trong sạch, vững mạnh.
Người cán bộ, đảng viên phải không ngừng phấn đấu, rèn luyện theo tiêu chí
của Đảng mà Bác Hồ đã dạy là cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Trong
cuộc sống sinh hoạt cũng như công tác, ở đâu, người cán bộ, đảng viên cũng
phải gương mẫu, tận tụy với công việc, say mê, nhiệt tình, sáng tạo, tiết
kiệm, không xa hoa, lãng phí. Đảng giáo dục đảng viên phải là người chân
chính, là chỗ dựa, là niềm tin của nhân dân.
Đảng đã dùng nhiều hình thức, biện pháp để giáo dục cán bộ, đảng viên
như tuyên truyền, cổ vũ và được quy chế hóa thành những điều lệ, quy định
những điều đảng viên không được làm mang tính pháp lệnh chặt chẽ. Điều đó có
tác dụng rất cụ thể răn đe, nhắc nhở, tạo khung pháp lý giới hạn để điều chỉnh
nhận thức và hành vi của cán bộ, đảng viên. Do vậy việc học tập điều lệ Đảng,
học tập các chỉ thị, nghị quyết của Đảng với cán bộ, đảng viên là rất cần thiết.
Có tuyên truyền giáo dục, có điều lệ, quy định của các chỉ thị, nghị quyết,
đồng thời cũng rất cần sự chăm lo giám sát của tổ chức đảng, chính quyền, đoàn
thể với cán bộ, đảng viên. Việc giữ vững nền nếp sinh hoạt đảng, chính quyền,
đoàn thể để thực sự là nơi kiểm tra, giám sát, bồi dưỡng hình thành các phẩm
chất đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên là vô cùng cần thiết. Tổ chức đảng,
chính quyền, đoàn thể là nơi kiểm tra, giám sát cán bộ, đảng viên; giữ nghiêm kỷ
luật, kỷ cương là điều kiện quan trọng giáo dục đạo đức, lối sống cho cán bộ,
đảng viên. Cùng với đó thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở cũng là điều hết sức
bổ ích với giáo dục đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên.
Ngoài những nguyên nhân trên, việc đưa cán bộ, đảng viên vào hoạt động
trong thực tiễn cuộc sống, cọ sát với thực tế cuộc sống cũng trực tiếp giáo dục
đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên. Qua thực tiễn, người cán bộ, đảng viên
bộc lộ rõ nhất bản chất đạo đức, lối sống của mình. Trên cơ sở đó có thể khái
quát môi trường khách quan là điều kiện quan trọng, là nguyên nhân vừa trực
tiếp vừa gián tiếp để giáo dục đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên. Môi
trường đó là tổ chức đảng, là sinh hoạt đảng, là sự lãnh đạo của Đảng, là các tổ
60
chức chính quyền, đoàn thể, gia đình và xã hội.
Về phía chủ quan, sự tự tu dưỡng rèn luyện của bản thân mỗi cán bộ, đảng
viên là nguyên nhân quyết định bảo đảm thành công quá trình giáo dục đạo đức,
lối sống cho cán bộ, đảng viên. Mỗi cán bộ, đảng viên có mỗi hoàn cảnh, điều
kiện sống khác nhau. Họ đều có chung những tiêu chí về đạo đức, lối sống. Song
các tiêu chí ấy lại thể hiện bằng phong cách, sự uyển chuyển của từng người.
Nhân tố chủ quan thể hiện ở tính tổ chức kỷ luật, là sự tự ý thức về quy
luật vận động phát triển của xã hội mà con người phải không ngừng vận động
tuân thủ. Đó là ý chí vươn lên, biết gắn lợi ích của cá nhân với lợi ích của tập
thể; là sự khiêm tốn học hỏi mọi người, không tự cao tự đại; là sự tôn trọng tập
thể, tôn trọng tổ chức, biết khép mình vào kỷ luật, biết đấu tranh với những hiện
tượng phi đạo đức để vươn lên hoàn thiện mình.
Hai là, những nguyên nhân yếu kém của công tác giáo dục đạo đức, lối
sống cho cán bộ, đảng viên hiện nay.
Về phía khách quan: Một là, xu hướng toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ tạo
thời cơ và cả thách thức, nhất là sự cạnh tranh quyết liệt nhưng lợi thế so sánh
không thuộc về chúng ta. Toàn cầu hóa cũng là cơ hội thuận lợi để các thế lực
thù địch du nhập và áp đặt tất cả những gì có thể làm phân rã mục tiêu độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội từ sức mạnh kinh tế thông qua đầu tư, tự do chính
trị, phản văn hóa thông qua công nghệ thông tin, học sinh du học, thăm quan,
du lịch… Vì thế nhiều người có tâm lý sùng bái tư bản.Thực tế đó đã làm cho
nhiều người hoang mang, dao động, mất phương hướng, khủng hoảng niềm tin
về tương lai và những giá trị của chủ nghĩa xã hội, thậm chí có người còn quay
lại công kích, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, chủ nghĩa xã hội. Đó là tiền đề
trước hết dẫn tới suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ
phận cán bộ, đảng viên trong cuộc đấu tranh quyết liệt "ai" thắng "ai" giữa chủ
nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội hiện nay.
Hai là, do sự tác động mặt trái của cơ chế thị trường. Nền kinh tế thị
trường bên cạnh mặt tích cực thúc đẩy sản xuất phát triển, đem lại những thay
đổi to lớn trong mọi mặt của nền kinh tế xã hội, đồng thời cũng phát sinh nhiều
61
mặt tiêu cực, tác động xấu đến đạo đức, lối sống của người cán bộ, đảng viên.
Kinh tế thị trường lấy lợi nhuận tối đa làm mục tiêu cho nên lẽ tự nhiên các
quan hệ trong xã hội đều dựa vào nó mà vận động, xoay chuyển. Chính cái
vòng xoáy đó đã làm cho một bộ phận cán bộ, đảng viên tự đánh mất mình - tự
tha hóa bằng sự ma giáo ngọt ngào của ma lực đồng tiền và của lợi nhuận.
Sự suy đồi về đạo đức, lối sống được thể hiện ở nhiều lĩnh vực. Vụ Dương
Chí Dũng hay Nguyễn Đức Kiên đã làm tha hóa một số cán bộ, đảng viên có
chức, có quyền trong Đảng, bộ máy Nhà nước. Sự suy thoái đạo đức không chỉ
trong lĩnh vực kinh tế mà còn lan sang cả các lĩnh vực khác như: y tế qua những
vụ xét nghiệm giả nhân bản kết quả xét nghiệm tại bệnh viện Đa khoa Hoài Đức
(Hà Nội), hay mua bán bằng cấp trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo. Ngay cả việc
quảng cáo trên một số phương tiện thông tin đại chúng cũng bị đồng tiền chi phối
nhiều khi “quá đà” không còn giữ được sự nghiêm túc, định hướng giá trị xã hội
nữa.Trong khi đó, chủ nghĩa thực dụng có cơ hội phát triển từ mặt trái của cơ chế
thị trường, lấy đồng tiền chi phối các quan hệ xã hội đang làm thay đổi thước đo,
chuẩn mực đạo đức nhưng chúng ta chưa kịp thời dự báo tình hình, thiếu những
biện pháp phù hợp, đồng bộ, có hiệu quả trong việc giáo dục, rèn luyện, kiểm tra,
giám sát cán bộ, đảng viên. Đó là mảnh đất màu mỡ để cho chủ nghĩa cá nhân,
thực dụng phát triển. Chính chủ nghĩa cá nhân, thực dụng, vị kỷ đã tạo nên những
thói hư tật xấu, sự suy thoái đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên.
Cơ chế thị trường tạo ra sự cạnh tranh quyết liệt, đòi hỏi làm ăn phải
hiệu quả, một mặt khiến con người trở nên năng động, sáng tạo nhưng cũng
mưu mô, tính toán hơn, đồng thời nảy sinh nhiều nhu cầu ham muốn khiến con
người dễ sa ngã. Cơ chế thị trường mở ra nhiều cơ hội làm kinh tế cho mọi
người, nâng cao mức sống cho mọi người, nhưng mặt trái của nó khiến không
ít cán bộ có biểu hiện lối sống thực dụng, thiếu trung thực, lối sống “ mạnh ai
nấy lo”, làm cho xã hội thêm phức tạp ảnh hưởng đến nhân cách, lối sống của
cả thế hệ trẻ, thanh, thiếu niên. Chính những tác nhân trên đã làm cho một số
cán bộ, đảng viên có được cuộc sống giàu sang, nhanh chóng thoát ly lối sống
bình thường của số đông trong xã hội. Điều này dẫn họ đến chỗ xa rời đạo đức
62
cách mạng, thu vén, nặng chủ nghĩa cá nhân.
Sự phân hóa về mức sống dẫn đến sự phân hóa về tư tưởng đạo
đức, lối sống. Người có cuộc sống đầy đủ về vật chất sẽ có tư tưởng
khác so với những người lao động bình thường. Điều đó dễ dẫn đến họ
coi thường người khác, lên mặt quan cách mạng, không có sự rung cảm
trước những khó khăn, nghèo túng của những người xung quanh. Mặc dù
những hiện tượng trên đây không phải là số đông cán bộ, đảng viên,
nhưng là hiện tượng có thật, đang diễn ra. Tình trạng đó là sự báo động
nghiêm trọng về sự sa sút, thoái hóa về đạo đức, lối sống của cán bộ,
đảng viên. Nếu không được ngăn chặn kịp thời sẽ trở thành một nguy cơ
đối với Đảng, chế độ.
Trong khi đó âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch
đã lợi dụng những khó khăn, yếu kém, sự tha hóa của một số cán bộ ta
trong cơ chế mới để tìm mọi cách khoét sâu thêm mâu thuẫn làm suy yếu
Đảng. Kẻ thù đã dùng mọi thủ đoạn, hình thức mua chuộc, dụ dỗ, lôi kéo
thông qua các hoạt động kinh tế - xã hội, văn hóa, nghệ thuật, khoa học,
giáo dục,… Nó diễn ra âm thầm, lặng lẽ nhưng vô cùng quyết liệt, tác động
vào đời sống tinh thần, vật chất của đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là ở
cấp cao. Những thủ đoạn nham hiểm của kẻ địch đang hằng ngày hằng giờ
tác động, tấn công vào cán bộ, đảng viên, kích thích lòng ham muốn tiền
tài, địa vị, muốn có cuộc sống xa hoa, hưởng lạc, sa vào vũng bùn chủ
nghĩa cá nhân. Ở một số cán bộ, đảng viên, nhất là những người nắm các
quyền lực, chức vụ quan trọng trong bộ máy công quyền… cũng là một
trong những nguyên nhân làm tha hóa một bộ phận cán bộ, đảng viên thiếu
tu dưỡng, rèn luyện bản thân, lại không chịu sự quản lý của tổ chức, sự
giám sát của nhân dân. Sự “lạc hậu tương đối” của ý thức xã hội so với tồn
tại xã hội, những tàn dư của đạo đức phong kiến, thực dân trong xã hội ta
hiện nay cũng có những tác động đáng kể đến tư tưởng đạo đức của cán bộ,
đảng viên.Tuy nhiên, những nguyên nhân khách quan trên cũng chỉ đúng
một phần. Vì vậy nguyên nhân của tình trạng trên phải tìm ở phía chủ quan
63
là chính.
Về chủ quan, là những nguyên nhân căn bản dẫn tới tình trạng suy thoái
về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên
hiện nay. Chủ quan, bao gồm cả tổ chức đảng và cá nhân cán bộ, đảng viên:
Một là, sự buông lỏng quản lý và thiếu đồng bộ về luật pháp, cơ chế,
chính sách của Đảng và Nhà nước. Mặc dù tồn tại xã hội đã thay đổi nhưng ý
thức xã hội vẫn còn lạc hậu, chưa thay đổi kịp với tồn tại xã hội. Đất nước ta đã
chuyển sang nền kinh tế thị trường nhưng trong thực tế còn nhiều chủ trương,
chính sách pháp luật của Nhà nước chưa chuyển kịp. Điều này đã làm nảy sinh
các hiện tượng tiêu cực, trong đó có vấn đề đạo đức, lối sống của bộ phận cán
bộ, đảng viên. Chính sách luật pháp của Nhà nước ta còn nhiều vấn đề chưa
phản ánh đúng hiện thực mới, chưa đầy đủ, chưa chuẩn xác, cụ thể và rất nhiều
điều còn chưa đồng bộ, do vậy không có một hành lang pháp lý buộc mọi
người phải tuân theo. Nó còn do bản thân những cán bộ, đảng viên với cương
vị lãnh đạo, quản lý của mình đã lợi dụng kẽ hở của chính sách, pháp luật để
mưu cầu lợi ích cá nhân, làm giàu bất chính một cách “hợp pháp”.Thêm vào đó
là sự buông lỏng quản lý của Nhà nước và sự thiếu đồng bộ về pháp luật, cơ chế
chính sách, tạo ra những kẽ hở cho cán bộ, đảng viên thoái hóa, biến chất lợi
dụng. Ngoài ra còn do sự thiếu rèn luyện tự giác của một bộ phận cán bộ, đảng
viên, sự quan tâm giúp đỡ và sự quản lý không chặt chẽ của tổ chức đảng, sự tác
động của môi trường xã hội, tiêu cực xã hội đối với cán bộ, đảng viên.
Hai là, các hình thức; phương pháp giáo dục chưa phù hợp, hiệu quả
công tác giáo dục đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên chưa cao. Thực
trạng của những khuyết điểm về phẩm chất đạo đức của cán bộ, đảng viên
trên đây có phần do nguyên nhân khách quan song chủ yếu là do nguyên
nhân chủ quan. Nhận thức của cán bộ, công chức còn xem thường những
chuẩn mực đạo đức, nhân cách nên thiếu nghiêm khắc với bản thân, không
thường xuyên rèn luyện, tu dưỡng bản thân. Công tác giáo dục đạo đức
chậm được đổi mới. Trước hết, về hệ thống nhà trường đào tạo lý luận mở
rộng ngày một nhiều; chương trình cũ, nhiều nội dung trùng lặp, chồng chéo,
64
xa thực tế; đội ngũ giáo viên chưa kịp chuyển đổi để thống nhất, nên kiến
thức cũ, phương pháp lạc hậu; việc thi cử dễ dãi, quản lý văn bằng lỏng lẻo,
cộng với yêu cầu thái quá về bằng cấp đối với các loại cán bộ, dẫn tới tình
trạng “ chạy bằng”. Vì thế, nhiều người có thái độ sai lệch trong học lý luận
chính trị. Kết quả là ai cũng có “bằng” nhưng cái cần đạt được trong nhận
thức lý luận chính trị để đáp ứng yêu cầu của đổi mới lại rất thấp.
Nội dung giáo dục chưa cụ thể, sát hợp với từng đối tượng, còn giáo
điều, chủ quan, phiến diện, duy ý chí, phi thực tế, thiếu cơ sở khoa học, hình
thức giáo dục đơn điệu, qua loa, đại khái nhàm chán cho nên hiệu quả giáo dục
đạo đức chưa cao.Việc tổ chức học tập, nghiên cứu chỉ thị, nghị quyết của
Đảng chưa thật nghiêm túc, chưa truyền đạt được tính khoa học, tính cách
mạng sáng tạo, thiết thực tới cán bộ, đảng viên để tạo sự chuyển biến tích cực,
niềm tin trong nhận thức làm cơ sở cho hành động đúng và thống nhất của họ.
Trong khi những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới, trong nước đang tác
động mạnh tới tư tưởng, tình cảm đạo đức cán bộ, đảng viên nhưng chưa được
theo dõi chặt chẽ, dự báo đầy đủ và kịp thời đưa ra những giải pháp đấu tranh
mạnh, xử lý đúng.
Chúng ta chưa thường xuyên làm tốt công tác giáo dục chính trị, tư tưởng,
chưa phê phán và đấu tranh kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng cơ hội,
lối sống thực dụng. Sự lơ là giáo dục, buông lỏng kiểm tra, giám sát, quản lý của
các cấp, các ngành, của nhân dân đối với đội ngũ cán bộ, đảng viên là một nguyên
nhân quan trọng dẫn tới sự suy thoái về đạo đức ở một bộ phận cán bộ, đảng viên.
Trong sinh hoạt đảng chưa có những định hướng rõ ràng, chưa có những
nội dung thỏa đáng, sâu sắc, chưa thực hiện thường xuyên công tác phê và tự
phê, chưa có chương trình giáo dục đạo đức dành riêng cho cán bộ, đảng
viên.Về lãnh đạo, chỉ đạo, phối hợp của các cơ quan chức năng trong công tác
tuyên truyền giáo dục đạo đức, lối sống còn nhiều bất cập. Công tác tổ chức
cán bộ còn nhiều yếu kém. Việc tuyển chọn, đào tạo, bổ nhiệm cán bộ chưa
nghiêm, không coi trọng việc phát hiện, tôn vinh người có đức, có tài. Nhiều
khi những người có đức có tài lại bị ghen ghét, đố kị, bị dìm xuống. Công tác
65
kiểm tra, giám sát, thi hành xử lý kỷ luật, thưởng phạt chưa nghiêm. Trình độ
cán bộ kiểm tra của đảng cũng như cán bộ thanh tra các cấp nhiều người chưa
được đào tạo, bồi dưỡng về đường lối, quan điểm, chuyên môn, nghiệp vụ. Do
đó công tác kiểm tra những hành vi vi phạm đạo đức, vi phạm pháp luật của
các cán bộ, đảng viên không được ngăn chặn, phát hiện kịp thời. Hơn nữa nếu
có phát hiện thì lại nể nang cho qua. Chính điều này đã tiếp tay cho sự xuống
cấp về đạo đức của cán bộ, đảng viên trong các cơ quan Đảng.
Có thể khẳng định, việc xử lý cán bộ vi phạm đạo đức cách mạng,
thoái hóa biến chất chưa kịp thời và không nghiêm minh là một trong những
nguyên nhân khiến sự xuống cấp về đạo đức ở đội ngũ cán bộ, đảng viên
nước ta ngày càng trầm trọng hơn. Từ đó chức năng ngăn chặn, răn đe cũng
như giáo dục của công tác kỷ luật cán bộ bị hạn chế, thậm chí kém tác dụng.
Điều này làm giảm niềm tin của quần chúng đối với cán bộ, đảng viên. Một
bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên do “thiếu tu dưỡng bản thân” dẫn đến
sa đọa về đạo đức, lối sống, thoái hóa về chính trị, tư tưởng. Tuy số cán bộ,
đảng viên này không nhiều, nhưng hoạt động của họ gây hậu quả hết sức
nghiêm trọng; cán bộ cấp càng cao tác động ảnh hưởng càng lớn. Nhiều cán
bộ quản lý do thiếu tu dưỡng, rèn luyện về đạo đức đã để cho những cám dỗ
vật chất tầm thường làm tha hóa.
Ba là, sự yếu kém và khuyết điểm của công tác tổ chức cán bộ. Công tác
tổ chức cán bộ trong những năm qua còn nhiều thiếu sót, hạn chế như thiếu chủ
động, thiếu kiên quyết, không kịp thời và vẫn còn sự tùy tiện, không nghiêm
túc trong việc bố trí, sử dụng và đánh giá cán bộ, trong xử lý công việc đã tác
động tiêu cực đến đạo đức, lối sống của người cán bộ, đảng viên.
Hiện nay, những vấn đề có liên quan đến công tác tổ chức cán bộ như:
tuyển chọn, tiêu chuẩn, đánh giá, đề bạt, đào tạo, bồi dưỡng, kiểm tra… chỉ
còn là hình thức. Bởi lẽ sự thăng quan, tiến chức bây giờ không phụ thuộc
vào năng lực thực sự của họ mà phụ thuộc vào tài “mưu mẹo” trong quan hệ
với cán bộ lãnh đạo tổ chức cấp trên với ngang cấp. Nếu “ô dù” càng nhiều,
càng to thì sự thăng tiến của họ càng chắc chắn và nhanh chóng. Vì thế
66
những cán bộ, đảng viên này thường không lấy việc hoàn thành có chất
lượng và hiệu quả công việc là mục tiêu phấn đấu mà lấy việc xử lý quan hệ
cá nhân khôn khéo làm mục tiêu tồn tại và hưởng thụ. Hiện tượng đó thường
dẫn đến sự chia rẽ, mất đoàn kết dẫn đến sự phân tán nội bộ. Người cán bộ
lãnh đạo ít tự phê bình và không muốn người khác phê bình mình. Tình
trạng nể nang, né tránh, không dám nói thẳng, nói thật. Điều này dẫn đến
những người vi phạm càng dấn sâu thêm vào tội lỗi. Một số tổ chức Đảng
trong những năm vừa qua chưa chú ý đến việc giáo dục phẩm chất chính trị,
đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên trước những biến đổi về kinh tế - xã
hội. Công tác kiểm tra, giám sát cán bộ, đảng viên còn lỏng lẻo, việc xử lý
cán bộ sai phạm chưa kịp thời, thiếu nghiêm minh. Vì vậy những hiện tượng
suy thoái về đạo đức, lối sống của một số cán bộ, đảng viên chưa được ngăn
chặn kịp thời.
Công tác cán bộ của các cấp ủy Đảng còn nhiều thiếu sót, khuyết
điểm, việc quy hoạch cán bộ có nơi còn làm một cách hình thức; nhận xét,
đánh giá, sắp xếp cán bộ có khi còn thiếu căn cứ, mang tính chủ quan. Cơ
quan làm công tác cán bộ còn nhiều bất cập đã phần nào ảnh hưởng đến chất
lượng cán bộ hiện nay. Có thể nói, nguyên nhân dẫn tới sự thoái hóa, biến
chất về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống của cán bộ, đảng viên chủ yếu là
do chúng ta quá xem nhẹ mặt đạo đức và vai trò của nó; pháp luật thì không
được thực thi một cách nghiêm minh và kịp thời. Trong khi đó một số cán
bộ, đảng viên không chịu tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, nói không đi đôi với
làm, làm sai quy định, trái với lương tâm.
2.2. Một số vấn đề đặt ra trong việc giáo dục, rèn luyện đạo đức cách
mạng của cán bộ, đảng viên ở Việt Nam hiện nay
2.2.1. Nền kinh tế thị trường phát triển đã ảnh hưởng tiêu cực đến đạo
đức cách mạng của cán bộ, đảng viên
Sự hội nhập kinh tế thế giới và hình thành, phát triển một nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, có tác động hai mặt tới
đạo đức của cán bộ, đảng viên. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
67
nghĩa ở Việt Nam được xây dựng trong điều kiện vô cùng khó khăn, phức tạp.
Cụ thể, nó được xây dựng từ nền kinh tế thấp kém, sản xuất nông nghiệp lạc
hậu; chịu ảnh hưởng nặng nề của chiến tranh, của thời kỳ kinh tế tập trung
quan liêu bao cấp; định hướng đi lên chủ nghĩa xã hội cho nền kinh tế chưa có
tiền lệ, đang trong tình trạng vừa xây dựng vừa tổng kết rút kinh nghiệm; và
chịu tác động mạnh mẽ của các nền kinh tế thị trường phát triển trên thế giới
trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Như chúng ta đều biết hành vi con người tuân theo hệ thống quy tắc
của xã hội, do xã hội đặt ra. Có người tuân thủ nó do nhập tâm, do ý thức
được các giá trị đạo đức, các chuẩn mực xã hội. Có người tuân thủ vì xung
quanh họ có những cơ chế "kiểm soát xã hội" mạnh mẽ như gia đình, họ hàng,
làng xóm, pháp luật. Thế nhưng khi xã hội chuyển biến dồn dập, quá trình
công nghiệp hóa - hiện đại hóa, đô thị hóa nhanh chóng và hội nhập quốc tế
làm cho hệ thống quy tắc dễ bị phá vỡ. Trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, một loạt giá trị và những phẩm chất mới dược hình
thành. Đó là sự kết hợp những giá trị truyền thống với giá trị của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và tinh hoa của nhân loại. Kinh tế thị
trường không những không giải quyết được một cách thỏa đáng các vấn đề xã
hội, mà đồng thời còn làm nảy sinh những nan giải xã hội, ảnh hưởng tiêu cực
đến lĩnh vực đạo đức, làm suy suy thoái đạo đức xã hội và đạo đức cá nhân.
Sự tác động tiêu cực của kinh tế thị trường đến đạo đức của cán bộ, đảng viên
được thể hiện:
Một là, nền kinh tế thị trường lấy lợi ích làm động lực của sự phát
triển, chính điều này đã làm khá nhiều cán bộ, đảng viên bất chấp pháp
luật, lương tâm, đạo lý để làm giàu bất chính. Cuộc đấu tranh giữa hai lối
sống: lối sống có lý tưởng, lành mạnh, trung thực, sống bằng lao động của
chính mình, có ý thức tôn trọng và bảo vệ của công, chăm lo lợi ích của tập
thể và của đất nước, với lối sống thực dụng, dối trá, ích kỷ, ăn bám, cơ hội,
chạy theo đồng tiền trong đời sống xã hội đang diễn biến phức tạp. Có thấy
68
cái tất yếu đó, chúng ta mới có cách xem xét và phương hướng, biện pháp
giải quyết đúng đắn, khắc phục những hiện tượng tiêu cực về đạo đức của
cán bộ, đảng viên.
Hai là, kinh tế thị trường là môi trường thuận lợi để nảy sinh và phát
triển chủ nghĩa cá nhân. Bởi vì , kinh tế thị trường kích thích hoạt động tích
cực của cá nhân bằng việc thúc đẩy tới lợi ích riêng của mình. Nhưng nếu
không chú ý, nó sẽ đề cao quá mức tự do cá nhân, do đó rất dễ nảy sinh chủ
nghĩa cá nhân. Thực tiễn chứng minh rằng, không ít cán bộ, đảng viên đã bị
chủ nghĩa cá nhân đẩy vào tình trạng tha hóa bản chất: lợi dụng chức quyền
mưu lợi ích riêng; dùng quyền lực mưu tư lợi. Có thể nói, chưa bao giờ chủ
nghĩa cá nhân phát triển cao độ như trong kinh tế thị trường. Vì vậy, việc
ngăn chặn, xóa bỏ chủ nghĩa cá nhân trong nền kinh tế thị trường là yêu càu
cấp bách hiện nay.
Ba là, cùng với sự tăng lên của sản xuất hàng hóa , khối lượng tiền và
uy lực của đồng tiền cũng tăng lên gấp bội. Và khi sức mạnh của đồng tiền
càng lớn thì khả năng phá hoại những mối quan hệ tinh thần đạo đức giũa
người và người càng mạnh. Đã có không ít cán bộ, đảng viên bị tha hóa, làm
nô lệ cho đồng tiền, đặt đồng tiền lên trên hết, đạo đức sa sút.
Bốn là, nền kinh tế thị trường mở cửa đã làm cho kinh tế phát triển
năng động, tiếp cận được với khoa học và công nghệ của nhiều nước trên thế
giới. Tuy nhiên sự ảnh hưởng tiêu cực của văn hóa phương Tây, của lối sống
thực dụng đã “gặm nhấm, ăn mòn”, những giá trị đạo đức truyền thống của
dân tộc. Đây là một thách thức lớn, gây tác động xấu đến đạo đức lối sống của
cán bộ, đảng viên.
Trong nền kinh tế thị trường, có nhiều nguyên nhân phức tạp và đan
xen nhau tác động đến tình trạng đạo đức của cán bộ, đảng viên ở nước ta
hiện nay. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà chúng ta
đang xây dựng, tự trong bản thân nó đã chứa đựng sự ràng buộc luân lý đạo
đức trong quan hệ giữa người với người. Do đó cùng với việc chủ động, tự
69
giác từng bước xây dựng và hoàn thiện kinh tế thị trường, phát triển theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, phải tăng cường công tác giáo dục đạo đức cách
mạng cho cán bộ, đảng viên. Có như vậy, chúng ta mới phát huy được những
tác động tích cực và ngăn ngừa, hạn chế tối đa được những ảnh hưởng tiêu
cực của kinh tế thị trường.
2.2.2. Kiên quyết xử lý nghiêm minh những cán bộ, đảng viên suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống
Cán bộ, đảng viên là nhân tố hàng đầu có ý nghĩa quyết định đến chất
lượng, hiệu quả hoạt động của bộ máy Đảng, nhà nước và toàn bộ hệ thống
chính trị. Phẩm chất chính trị tư tưởng, đạo đức, lối sống là nhân tố có ý nghĩa
nền tảng, căn bản, quyết định đến chất lượng, hiệu quả công tác của cán bộ,
đảng viên và hiệu quả tổ chức, hoạt động của bộ máy Đảng, nhà nước, hệ
thống chính trị. Bởi vậy cần phải kiên quyết xử lý nghiêm minh những cán
bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống.
Trải qua đấu tranh cách mạng, được Đảng giáo dục và rèn luyện, số
đông cán bộ, đảng viên mà nòng cốt là cán bộ chủ chốt từ trung ương đến cơ
sở đã thể hiện phẩm chất chính trị vững vàng trước những biến động lớn của
tình hình thế giới và trong nước. Tuy nhiên do tác động tiêu cực từ mặt trái
của cơ chế kinh tế thị trường, những tác động xấu của tình hình quốc tế và sự
phá hoại của các thế lực thù địch về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, trên
thực tế một bộ phận cán bộ, đảng viên đã tha hóa, tham nhũng, xa rời quần
chúng nhân dân, làm giảm sút nghiêm trọng uy tín, thanh danh của Đảng.
Trước tình hình đó, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí
thư các nhiệm kỳ đại hội tiếp sau đã ban hành nhiều chủ trương, nghị quyết về
xây dựng chỉnh đốn Đảng. Nhờ đó, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã đạt
được nhiều kết quả tích cực; năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng
không ngừng được nâng cao; phương thức lãnh đạo của Đảng từng bước được
đổi mới; vai trò lãnh đạo của Đảng được giữ vững; niềm tin của nhân dân đối
với Đảng được củng cố. Đa số cán bộ, đảng viên có ý thức rèn luyện, nâng
70
cao phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, có ý thức phục vụ nhân dân, được
nhân dân tin tưởng. Tuy nhiên, hiện nay công tác xây dựng Đảng vẫn còn
không ít những hạn chế, yếu kém, thậm chí có những yếu kém, khuyết điểm
kéo dài. Đáng lo ngại nhất là một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Trước tình trạng đó, Đảng đã
cảnh báo nếu không được sửa chữa sẽ là một thách thức lớn đối với vai trò
lãnh đạo của Đảng và sự tồn vong của chế độ.
Bởi vậy, để kiên quyết xử lý nghiêm minh những cán bộ, đảng viên suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, cần giải quyết tốt những vấn đề
cơ bản sau đây.
Một là, nhận thức đúng mục đích xử lý nghiêm minh những cán bộ,
đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống là để tăng cường
cho kỷ luật Đảng, bảo đảm cho Cương lĩnh, Điều lệ Đảng, đường lối, chính
sách của Đảng, Pháp luật của Nhà nước được triệt để chấp hành.
Hai là, quán triệt và thực hiện tốt phương châm công minh, chính xác,
kịp thời trong thi hành kỷ luật các cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống.
Ba là, không để các thế lực thù địch, những phần tử cơ hội lợi dụng
việc xử lý những cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức,
lối sống để kích động, xuyên tạc, gây rối nội bộ Đảng, gây mất ổn định chính
trị - xã hội.
2.3. Những giải pháp chủ yếu nhằm kế thừa và phát huy đạo đức
cách mạng của Hồ Chí Minh trong việc giáo dục, rèn luyện đạo đức cách
mạng của cán bộ, đảng viên ở Việt Nam hiện nay
2.3.1. Đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức cho cán
bộ, đảng viên về tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
Cuộc đời Hồ Chí Minh đã trở thành tấm gương đạo đức rất mẫu mực,
trong sáng. Tư tưởng và tấm gương đạo đức của Người đã trở thành định
hướng phát triển các giá trị, chuẩn mực đạo đức trong xã hội nói chung và cho
quá trình giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên ở nước
71
ta hiện nay nói riêng. Để nâng cao hiệu quả, chất lượng giáo dục rèn luyện đạo
đức cách mạng của cán bộ, đảng viên theo tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh, Đảng ta cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục về tư tưởng
và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh mà trọng tâm là "Tiếp tục thực hiện tốt
việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”.
Giáo dục đạo đức là một bộ phận quan trọng của giáo dục, là yêu cầu
khách quan nhằm nâng cao vai trò của đạo đức đối với sự hình thành và phát
triển nhân cách người cán bộ, đảng viên. Hồ Chí Minh rất quan tâm tới việc
giáo dục, rèn luyện, nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên. Theo tư tưởng Hồ
Chí Minh, người cán bộ, đảng viên phải có đạo đức; vì nếu không có đạo đức
thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân. Bởi vậy việc tăng
cường giáo dục, bồi dưỡng để nâng cao nhận thức chính trị, thấm nhuần tư
tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là điều kiện thuận lợi để nâng cao
đạo đức cách mạng của người cán bộ, đảng viên. Để nâng cao chất lượng giáo
dục, rèn luyện đạo đức cách mạng theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh cho cán
bộ, đảng viên cần quán triệt sâu sắc các vấn đề mục đích, nội dung, phương
châm, phương pháp và tổ chức lực lượng.
Về mục đích, giáo dục, rèn luyện đảng viên nhằm nâng cao giác ngộ
cách mạng, nhận thức sâu sắc lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. “Vì có nắm vững đường lối cách
mạng mới thấy rõ phương hướng tiến lên của cách mạng, mới hiểu rõ mình
phải làm gì và đi theo phương hướng nào để thực hiện mục đích của Đảng
trong giai đoạn cách mạng hiện nay” [64, tr 94]. Tính nhất quán trong mục
đích giáo dục, rèn luyện đảng viên thể hiện ở chỗ: vừa xây dựng ý chí quyết
tâm cho đảng viên, vừa giúp đảng viên biến quyết tâm thành hành động trên
thực tế, nói đi đôi với làm, lý luận gắn với thực tiễn. Kết quả hoàn thành nhiệm
vụ của mỗi cán bộ, đảng viên là thước đo trình độ giác ngộ cách mạng, phẩm
chất chính trị và năng lực công tác của họ, đồng thời đó cũng là tiêu chí để
đánh giá kết quả giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên.
Nội dung giáo dục, rèn luyện đảng viên đó là giáo dục chủ nghĩa Mác -
72
Lênin, quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước
nhằm nâng cao bản lĩnh chính trị của người đảng viên cộng sản. Hồ Chí Minh
nhấn mạnh, để làm tròn sứ mệnh của mình, mỗi đảng viên phải ra sức học tập
chủ nghĩa Mác - Lênin, củng cố lập trường giai cấp vô sản, cố gắng nắm vững
những quy luật của cách mạng Việt Nam, phải luôn luôn nâng cao đạo đức
cách mạng, kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân; bồi dưỡng chủ
nghĩa tập thể của giai cấp vô sản, cần kiệm để xây dựng nước nhà; một lòng,
một dạ phấn đấu vì lợi ích tối cao của cách mạng và Tổ quốc.
Về phương châm giáo dục và rèn luyện đảng viên cần tuân theo các
vấn đề có tính nguyên tắc như: lý luận gắn với thực tiễn, học đi đôi với
hành; nâng cao kiến thức gắn liền với củng cố, phát triển bản lĩnh, quyết
tâm. Đồng thời, cần quán triệt sâu sắc phương châm kết hợp giữa xây và
chống trong giáo dục, rèn luyện đảng viên. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho
rằng, trong mỗi con người hay một tập thể đều có hai mặt tốt và xấu. Vì
vậy, phải dựa chắc vào những mặt tốt, những nhân tố tích cực để từng bước
đấu tranh, khắc phục những mặt chưa tốt trong mỗi con người đó. Giáo
dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên phải đi đôi với
kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân, bởi chủ nghĩa cá nhân là kẻ thù của
chủ nghĩa xã hội, là nguồn gốc, nguyên nhân sinh ra quan liêu, cửa quyền,
tham ô, lãng phí và những tội xấu xa khác.
Về phương pháp, cần phải sử dụng linh hoạt nhiều nội dung, hình thức
giáo dục đa dạng, phong phú trong giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên. Hồ
Chí Minh rất chú trọng đến phương pháp nêu gương điển hình tiên tiến, bởi
“một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”
[40, tr 263].
Người luôn yêu cầu các cơ quan, đoàn thể phải làm tốt công tác tuyên
truyền gương người tốt việc tốt. Cho nên người cán bộ, đảng viên phải luôn là
một tấm gương sáng, luôn đặt lợi ích của Đảng, của nhân dân lên trên lợi ích
riêng của cá nhân mình. Đồng thời cũng phải thường xuyên tiến hành cuộc vận
động xây dựng, chỉnh đốn Đảng cần phải gắn chặt việc quán triệt Nghị quyết
73
Trung ương 4 khóa XI với việc tiếp tục học tập Cương lĩnh, Điều lệ Đảng và
pháp luật của Nhà nước.Thực hiện có hiệu quả đợt sinh hoạt tự phê bình và phê
bình trong toàn Đảng, nhất là trong các cấp ủy đảng, các cán bộ chủ chốt cấp
Trung ương và tỉnh, thành.
Giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên về đạo đức, lối sống phải gắn
chặt với công tác quản lý cán bộ, đảng viên ở nơi làm việc cũng như tại nơi
cư trú. Thực hiện nghiêm công tác kiểm tra, giám sát cán bộ, đảng viên
thông qua tổ chức đảng, các cơ quan bảo vệ pháp luật, hệ thống cơ quan dân
cử, nhân dân và các phương tiện thông tin đại chúng. Về lực lượng giáo dục,
rèn luyện cán bộ, đảng viên theo tư tưởng Hồ Chí Minh, phải phát huy tốt
vai trò hệ thống tổ chức, đề cao trách nhiệm các cấp ủy, chi bộ. Người nhắc
nhở: “Các cấp ủy phải quan tâm hơn nữa đến việc giáo dục đảng viên. Từ
nay trở đi công tác giáo dục đảng viên phải là một điều quan trọng trong
chương trình công tác của cấp ủy” [64, tr, tr 95].
Mỗi đảng viên dù ở bất cứ cương vị nào đều nằm trong một tổ chức nhất
định, đều phải chịu sự quản lý, giáo dục của cấp ủy, chi bộ nơi đảng viên đó
sinh hoạt. Với tư cách là chủ thể, các cấp ủy, chi bộ phải chủ động trong việc
đề ra kế hoạch, nội dung, chương trình giáo dục, rèn luyện đảng viên; có các
hình thức, biện pháp giáo dục, quản lý chặt chẽ, toàn diện đội ngũ đảng viên,
chú trọng các mối quan hệ xã hội và điều kiện thực tế nơi đảng viên công tác,
chiến đấu, lao động và học tập. Mặt khác, đảng viên đồng thời là chủ thể tham
gia xây dựng củng cố tổ chức đảng, cho nên phải phát huy tính tích cực, chủ
động, sáng tạo của mỗi đảng viên trong rèn luyện, phấn đấu. Cuộc đấu tranh
khắc phục những mặt xấu, phát huy những mặt tốt của mỗi cán bộ, đảng viên
không tách rời sự giáo dục của đảng, của tổ chức, của đoàn thể, nhưng trực tiếp
quyết định vẫn là nhân tố chủ quan của mỗi cán bộ, đảng viên.
Để công tác tuyên truyền, giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên theo
tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh đạt hiệu quả thì các cấp ủy,
chi bộ phải nhận thức đúng đắn vị trí, vai trò, tầm quan trọng của công tác
giáo dục, rèn luyện đảng viên, trên cơ sở đó tăng cường sự lãnh đạo, chỉ
74
đạo, thường xuyên, chú trọng đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp
giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên. Đồng thời kết hợp chặt chẽ giữa giáo
dục, rèn luyện đảng viên với quản lý, bồi dưỡng cán bộ, đảng viên. Ngoài
ra cần phải phát huy tính tích cực chủ động của đội ngũ đảng viên trong tự
học, tự rèn luyện. Các cấp ủy, chi bộ phải thường xuyên quán triệt, bồi
dưỡng nâng cao nhận thức, giúp đỡ đảng viên phấn đấu vươn lên hoàn
thành tốt nhiệm vụ được giao. Thực hiện đúng quan điểm của Đảng: “Việc
học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là nhiệm vụ quan
trọng thường xuyên, lâu dài của cán bộ, đảng viên, của các chi bộ, tổ chức
đảng và các tầng lớp nhân dân. Mỗi cán bộ, đảng viên không ngừng tu
dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng, thực sự là tấm gương về phẩm chất
đạo đức, lối sống. Cán bộ cấp trên phải gương mẫu trước cán bộ cấp dưới,
đảng viên và nhân dân” [16, tr 257 - 258]. Đạo đức cách mạng thể hiện
trong thực tiễn của mỗi cán bộ, đảng viên với chất lượng và hiệu quả công
việc, với con người và với chính bản thân mình.
2.3.2. Thực hiện tốt việc "Tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh” góp phần nâng cao chất lượng giáo dục, rèn
luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên trong giai đoạn hiện nay
Để kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng
viên, ngăn chặn tình trạng cán bộ, đảng viên thiếu tu dưỡng, rèn luyện, giảm
sút ý chí chiến đấu, quên đi trách nhiệm, bổn phận trước Đảng, trước nhân dân,
bên cạnh công tác tuyên truyền, giáo dục; cần tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh một cách thiết thực, hiệu quả, nêu cao
tinh thần tự tu dưỡng, rèn luyện của bản thân mỗi cán bộ, đảng viên.
Việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là nhu cầu
cấp thiết của toàn Đảng và của mỗi cán bộ, đảng viên; là cơ sở để xây dựng
Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, nhu cầu đó phải thực sự trở
thành nội lực của mỗi tổ chức và cá nhân không chỉ trên bình diện lý luận mà
trong hoạt động thực tiễn phải thực sự là những hành động tự giác của mỗi tổ
75
chức và cá nhân. Việc đẩy mạnh học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh có ý nghĩa hết sức quan trọng. Đó là cơ sở để cho bản thân mỗi cán
bộ, đảng viên có được nhận thức đúng đắn về yêu cầu phải giữ gìn, không
ngừng tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng, đề cao tinh thần đoàn kết,
tương thân, tương ái, tính kỷ luật, dân chủ trong tập thể, tinh thần đó phải luôn
thể hiện đối với cấp dưới, với quần chúng nhân dân; luôn có ý thức trau dồi
phẩm chất chính trị, tư tưởng, phải thật sự là công bộc của dân, có quan hệ mật
thiết với quần chúng nhân dân. Trong công việc, người cán bộ, đảng viên phải
là tấm gương dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm trước tập thể và cấp
dưới, biết tự chỉ trích để tiến bộ.
Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chi minh là cơ sở để cán
bộ, đảng viên nâng cao nhận thức và tu dưỡng, rèn luyện hoàn thiện nhân
cách của người cán bộ cách mạng, thực sự xứng đáng với vai trò vừa là
người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân, hoàn
thành tốt nhiệm vụ được Đảng và nhân dân giao cho. Việc học tập để nâng
cao nhận thức cho đảng viên phải được tiến hành thường xuyên, là trách
nhiệm của mọi tổ chức đảng và đưa vào nội dung sinh hoạt thường kỳ của
mỗi tổ chức đảng, đoàn thể, cơ quan, đơn vị.
Từ năm 2007 đến nay, Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh” đã từng bước đi vào chiều sâu. Đó là một quá trình diễn ra
đồng thời cả học tập và làm theo tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
Cuộc vận động đã trở thành đợt sinh hoạt tư tưởng- chính trị sâu rộng trong toàn
Đảng và trong các tầng lớp nhân dân, có tác dụng to lớn đối với việc giáo dục đạo
đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân. Đặc biệt
là góp phần quan trọng vào củng cố xây dựng và chỉnh đốn Đảng trong bối cảnh,
tình hình và điều kiện mới của đất nước và công tác xây dựng Đảng hiện nay.
Để tiếp tục việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
ngày càng đi vào thực chất hơn, tác động ảnh hưởng và có sự chuyển biến cụ
thể hơn trong nhận thức và hoạt động công tác của mọi tổ chức và trong mỗi
việc làm của mỗi người, trước hết là các tổ chức Đảng và đội ngũ cán bộ, đảng
76
viên trong giai đoạn hiện nay, cần phải tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ từ
hình thức, nội dung, biện pháp đến công tác kiểm tra, giám sát, công tác thi
đua, khen thưởng và kỷ luật. Đồng thời gắn chặt với công tác xây dựng, chỉnh
đốn Đảng theo tinh thần của Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI.
Trước hết, tiếp tục tăng cường cho công tác tuyên truyền, giáo dục bằng
nhiều hình thức, nhằm tác động thường xuyên, liên tục vào nhận thức đối với đội
ngũ cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân. Ở mỗi cấp, mỗi ngành, lĩnh vực,
cơ quan, đơn vị, địa phương… lựa chọn những cán bộ chủ chốt, đăng ký cam
kết, công khai những việc làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trước tập
thể và trước nhân dân, để cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân xem xét,
kiểm tra, giám sát, thẩm định. Về hình thức tổ chức, cần gắn các nội dung học
tập vào các kỳ sinh hoạt Đảng hàng tháng theo chủ đề các năm. Coi đó là nội
dung bắt buộc để các tổ chức Đảng thực hiện nghiêm túc. Nội dung do chi bộ
lựa chọn phù hợp với tính chất, đặc điểm lĩnh vực hoạt động, đồng thời phải
kiểm điểm việc chấp hành và thực hiện các nội dung cam kết. Yêu cầu các tổ
chức Đảng, cơ quan, đơn vị, địa phương phải xây dựng, cụ thể hóa các chuẩn
mực đạo đức Hồ Chí Minh, gắn với chức năng, nhiệm vụ, lĩnh vực, chuyên môn
công tác để giáo dục rèn luyện và nghiêm túc thực hiện.
Hai là, các cấp ủy, chính quyền, đoàn thể cần phải xây dựng chương
trình, kế hoạch thực hiện nội dung các cam kết đã đăng ký. Hàng tháng tại
các kỳ sinh hoạt Chi bộ, chính quyền, đoàn thể phải có nội dung đánh giá
mức độ thực hiện các cam kết của tập thể và cá nhân tổ chức mình. Kết quả
việc thực hiện nội dung cam kết gắn với đánh giá xếp loại tổ chức đảng và
cán bộ, đảng viên hàng năm.
Ba là, cấp ủy phải thường xuyên, định kỳ tổ chức các đợt kiểm tra, giám
sát việc thực hiện các cam kết nội dung học tập và làm theo. Đặc biệt là kiểm
tra, giám sát từ việc dự các buổi sinh hoạt chi bộ định kỳ, hướng dẫn, uốn nắn,
kịp thời bổ sung các nội dung sinh hoạt gắn với nội dung học tập.
Bốn là, tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo kiểm tra, giám sát các đợt và nội
dung sinh hoạt chuyên đề, gắn với việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức
77
Hồ Chí Minh đối với mỗi cán bộ, đảng viên.
Năm là, đẩy mạnh công tác thi đua, khen thưởng. Thông qua việc tổ
chức tổng kết đánh giá, xếp loại, khen thưởng cán bộ, đảng viên cuối năm, gắn
với biểu dương, khen thưởng những tập thể và cá nhân có thành tích xuất sắc,
thực sự tiêu biểu, điển hình trong việc học tập và làm theo Bác. Học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, mỗi cán bộ, đảng viên phải đặt mình
trong tổ chức, trong tập thể, phải tôn trọng nguyên tắc, pháp luật, kỷ cương.
Mọi biểu hiện dân chủ hình thức như lợi dụng dân chủ để trục lợi cá nhân đều
cần phải lên án và loại bỏ. Học tập đạo đức Hồ Chí Minh tất cả vì nhân dân,
mỗi cán bộ, đảng viên dù ở bất cứ cương vị nào phải gần dân, học dân, có trách
nhiệm với dân. Phải trăn trở và thấy trách nhiệm của mình khi dân còn nghèo
đói. Không chỉ sẻ chia và đồng cam cộng khổ với nhân dân mà còn phải biết
tập hợp, phát huy sức mạnh của nhân dân, tổ chức, động viên, lãnh đạo nhân
dân thoát khỏi đói nghèo, lạc hậu, xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh.
Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, phải rất coi trọng
tự phê bình và phê bình. Người dạy cán bộ, đảng viên và mọi người chúng ta:
không sợ khuyết điểm, không sợ phê bình, mà chỉ sợ không nhận ra khuyết
điểm, sai lầm và không có quyết tâm sửa chữa khuyết điểm, sẽ dẫn đến khuyết
điểm ngày càng to và hư hỏng. Tự phê bình phải được coi trọng, được đặt lên
hàng đầu, theo tư tưởng Hồ Chí Minh “phải nghiêm khắc với chính mình”. Phê
bình phải có mục đích là xây dựng tổ chức, xây dựng con người, xây dựng đời
sống tình cảm và quan hệ xã hội lành mạnh, trong sáng. Phải khắc phục bệnh
chuộng hình thức, thích nghe lời khen, thích tâng bốc nhau, không dám nói
thẳng, nói thật để giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.
Để nâng cao hiệu quả cao học tập phải coi đây là công việc thường
xuyên của cán bộ, đảng viên, của mọi tổ chức Đảng; phải khơi dậy tinh thần tự
giác, tự nguyện “học tập” và “làm theo” tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
trong toàn Đảng bộ và trong toàn xã hội; gắn cuộc vận động với phong trào thi
đua thực hiện nhiệm vụ chính trị và công tác chuyên môn của cơ quan, đơn vị;
xây dựng các quy định về tiêu chuẩn đạo đức của cán bộ, đảng viên ở từng vị
78
trí công tác và kịp thời biểu dương, nhân rộng các điển hình tiên tiến “làm
theo” tấm gương đạo đức của Bác. Những yếu tố trên nhằm nâng cao hơn nữa
ý thức tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên và quần
chúng nhân dân. Tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng là một trong những
nhiệm vụ thường xuyên của mỗi cán bộ, đảng viên. Cán bộ, đảng viên càng giữ
các trọng trách lớn càng phải chú tâm rèn luyện và làm theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh để mọi người học theo.Thông qua việc quán triệt, học tập các
chuyên đề về tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh và các hoạt động
tuyên truyền về cuộc vận động đã góp phần nâng cao nhận thức của cán bộ,
đảng viên về tầm quan trọng, ý nghĩa của việc thực hiện cuộc vận động và duy
trì thành nền nếp, nếp sống sinh hoạt lành mạnh hàng ngày của đời sống xã hội.
2.3.3. Tăng cường công tác tổ chức, cán bộ và sinh hoạt Đảng
Nếu nói xây dựng Đảng là “then chốt” thì công tác tổ chức cán bộ là “then
chốt” của “then chốt”. Xây dựng Đảng là xây dựng về tổ chức và xây dựng về con
người. Nói đến tổ chức là nói đến nguyên tắc tổ chức, hệ thống tổ chức, cơ cấu tổ
chức, biên chế, cơ chế vận hành, lề lối làm việc; sự phân công và phối hợp trong
mỗi tổ chức cũng như giữa các tổ chức trong một hệ thống. Đào tạo, bồi dưỡng,
đánh giá, lựa chọn, bố trí, sắp xếp cán bộ, chế độ, chính sách đối với cán bộ... là
công tác rất hệ trọng và nhạy cảm đối với con người. “Cán bộ nào thì phong trào
ấy”, bởi vì sau khi có đường lối đúng thì cán bộ đóng vai trò quyết định việc tổ chức
thực hiện đường lối, biến đường lối thành hiện thực cuộc sống sinh động.
Trong hoạt động cách mạng, cán bộ chính là người lãnh đạo, dẫn dắt quần
chúng, tổ chức điều hành công việc, là hạt nhân của một tổ chức, là nòng cốt của
một phong trào và trong bất kỳ thời kỳ nào, ở bất cứ lĩnh vực, địa phương nào, cán
bộ cũng đóng vai trò quyết định đối với việc thành bại của sự nghiệp cách mạng.
Tại Hội nghị lần thứ tư, Ban chấp hành Trung ương khóa XI, Tổng Bí thư Nguyễn
Phú Trọng cũng khẳng định công tác cán bộ luôn luôn là khâu then chốt trong
công tác xây dựng Đảng, là mặt trọng yếu trong toàn bộ hoạt động của Đảng cộng
sản Việt Nam. Công tác cán bộ là công tác lớn của Đảng, bao gồm nhiều công
việc và triển khai một cách đồng bộ các khâu: đánh giá cán bộ, quy hoạch, đào
79
tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bố trí, sử dụng cán bộ... Có những khâu theo trình tự,
nhưng cũng có những khâu tiến hành song trùng, đan xen nhau,... Mục tiêu cuối
cùng của Đảng là: “Xây dựng đội ngũ cán bộ có bản lĩnh vững vàng, có đạo đức,
lối sống lành mạnh, không quan liêu, tham nhũng, lãng phí; có tư duy đổi mới,
sáng tạo, có kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; có tinh thần đoàn kết, hợp tác, ý thức tổ chức
kỷ luật cao và phong cách làm việc khoa học, tôn trọng tập thể, gắn bó với nhân
dân, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm. Đội ngũ cán bộ phải đồng bộ, có
tính kế thừa và phát triển, có số lượng và cơ cấu hợp lý” [15, tr 292 - 293]. Cần
thực hiện tốt một số giải pháp mà Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4, khóa XI
“Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”.
Một là, mỗi cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý cần
phải kiểm điểm, liên hệ theo chức trách và nhiệm vụ được giao, thường xuyên
tự phê bình và phê bình một cách thẳng thắn, trung thực, dân chủ, nghiêm túc,
không bao che khuyết điểm của nhau, đồng thời gắn với việc thực hiện những
Quy định về những điều đảng viên không được làm, theo cương vị công tác.
Làm tốt việc kiểm điểm để có căn cứ xem xét, sàng lọc đội ngũ cán bộ có đủ
phẩm chất, trình độ, năng lực, chuyên môn.
Hai là, phát huy dân chủ thực sự trong Đảng, thực hiện nghiêm túc Quy
chế chất vấn trong Đảng, nhất là chất vấn tại các kỳ họp Ban Chấp hành Trung
ương và cấp ủy các cấp. Đổi mới cách lấy phiếu tín nhiệm để đánh giá, nhận
xét cán bộ theo hướng mở rộng đối tượng tham gia. Những người không đủ
năng lực, không hoàn thành nhiệm vụ, có tín nhiệm thấp cần được sắp xếp phù
hợp, có cơ chế để kịp thời thay thế không chờ hết nhiệm kỳ, hết tuổi công tác.
Đạo đức của cán bộ, đảng viên không chỉ phụ thuộc vào phẩm chất và năng lực
tự giải quyết công việc của họ mà còn phụ thuộc vào quyền làm chủ của nhân
dân. Quy chế dân chủ ở cơ sở đã góp phần quan trọng vào sự đổi mới phương
thức lãnh đạo của cấp ủy, sự điều hành của chính quyền. Qua đó, cán bộ, đảng
viên đã khắc phục dần lối làm việc tùy tiện, cảm tính; gần gũi, sâu sát với nhân
dân hơn, lắng nghe ý kiến đúng đắn của nhân dân, tiếp thu nguyện vọng chính
80
đáng của nhân dân trong việc xây dựng các chương trình, mục tiêu, kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta; tệ quan liêu, độc đoán, cửa quyền giảm
dần, niềm tin của nhân dân đối với cán bộ, đảng viên ngày càng được củng cố.
Điều đó góp phần làm ổn định trật tự ở địa phương, tăng cường niềm tin của
nhân dân đối với các cấp ủy và các cơ quan lãnh đạo.
Ba là, tiếp tục thực hiện chủ trương bố trí một số chức danh cán bộ chủ
chốt ở cấp tỉnh, cấp huyện không phải là người địa phương. Thực hiện nghiêm
việc kê khai tài sản theo quy định của Đảng và Nhà nước. Kê khai tài sản phải
trung thực và được công khai ở nơi công tác và nơi cư trú. Thực hiện tốt công
tác kiểm tra, giám sát nhằm ngăn chặn sự lạm quyền, độc đoán; tích cực tạo
nguồn, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ tham mưu, chuyên gia
cấp chiến lược. Thực hiện bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ trì cấp trên
nói chung phải qua chức vụ lãnh đạo, quản lý chủ trì ở cấp dưới. Quy định việc
thực hiện lấy phiếu tín nhiệm hằng năm đối với các chức danh lãnh đạo trong
cơ quan Đảng, Nhà nước, đoàn thể xã hội.
Bốn là, thí điểm giao quyền cho bí thư cấp ủy lựa chọn, giới thiệu để bầu
cử ủy viên thường vụ cấp ủy; cấp trưởng có trách nhiệm lựa chọn, giới thiệu để
bầu cử, bổ nhiệm cấp phó; thí điểm chế độ tiến cử, chế độ tập sự lãnh đạo quản
lý; thực hiện quy trình giới thiệu nhân sự theo hướng những người được dự
kiến đề bạt, bổ nhiệm phải trình bày đề án hoặc chương trình hành động trước
khi cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định.
Năm là, chấn chỉnh, tổ chức, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của tổ chức cơ sở đảng, nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ, đảng bộ,
thực hiện nghiêm nguyên tắc tự phê bình và phê bình.
Sáu là, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm toán, điều
tra, truy tố, xét xử để nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống tham nhũng,
lãng phí. Sớm tổng kết toàn diện công tác đấu tranh phòng chống tham nhũng,
lãng phí, thực hành tiết kiệm; bổ sung, sửa đổi Luật phòng, chống tham nhũng.
Kiện toàn và tăng cường trách nhiệm, hiệu quả hoạt động của cơ quan phòng,
chống tham nhũng. Xét xử nghiêm những vụ án tham nhũng, trước hết là
81
những vụ nghiêm trọng, phức tạp, được nhân dân quan tâm.
Bảy là, định kỳ tổ chức để nhân dân góp ý kiến xây dựng Đảng thông
qua Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội.
2.3.4. Mỗi cán bộ, đảng viên luôn tích cực tự giáo dục, tự rèn luyện
đạo đức cách mạng theo tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh để
thực sự là công bộc của dân
Hồ Chí Minh là người luôn coi trọng và đề cao việc giáo dục, bồi
dưỡng và rèn luyện đạo đức cách mạng và bản thân Người là tấm gương đạo
đức sáng ngời để cho cán bộ, đảng viên và quần chúng noi gương, học tập và
làm theo. Chính vì thế, chú trọng tự giáo dục, tự rèn luyện đạo đức cách
mạng của mỗi cán bộ, đảng viên là biện pháp có ý nghĩa quyết định, ảnh
hưởng trực tiếp trong việc hình thành và phát triển, hoàn thiện nhân cách,
nâng cao uy tín của người cán bộ, đảng viên. Đó chính là phát huy nội lực.
Để tu dưỡng, rèn luyện đạt kết quả, đòi hỏi trước hết mỗi cán bộ, đảng viên
phải nêu cao tinh thần đấu tranh phê bình và tự phê bình. Người dạy: “Chỉ
có không ngừng đấu tranh, phê bình và tự phê bình, nhận rõ đúng sai, phát
huy cái đúng, khắc phục cái sai mới có thể làm cho mình, cho Đảng, cho
cách mạng tiến bộ mãi” [59, tr 352].
Mỗi cán bộ, đảng viên phải thường xuyên trau dồi phẩm chất cách
mạng, tự vươn lên hoàn thiện mình, phải học tập, rèn luyện bền bỉ suốt đời.
Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng đạo đức cách mạng không phải từ trên trời sa
xuống mà nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà có. Vì vậy, cùng
với sự quản lý, giáo dục thường xuyên của tổ chức, mỗi cán bộ, đảng viên
phải luôn tự mình trau dồi, rèn luyện tu dưỡng các phẩm chất đạo đức cách
mạng, chống chủ nghĩa cá nhân. Thực tế cho thấy, đã có không ít cán bộ,
đảng viên từng quên mình, anh hùng trong kháng chiến vì độc lập tự do của
Tổ quốc và có những người từng giữ chức vụ cao trong bộ máy Đảng, Nhà
nước nhưng khi trở về cuộc sống đời thường do không thường xuyên tu
dưỡng đạo đức nên có biểu hiện công thần, tự cao tự đại, gây mất đoàn kết
nội bộ hoặc bị sa ngã trước những cám dỗ vật chất tầm thường, thậm chí trở
82
thành kẻ có tội với đất nước và nhân dân. Hồ Chí Minh đã từng cảnh báo:
“Một dân tộc, một đảng và mỗi người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp
dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu
mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá
nhân” [67, tr 557 - 558].
Tự giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên cần phải gắn liền
với việc học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh, nâng cao trình độ văn hóa, chuyên môn, nghiệp vụ, năng lực, tư duy
lý luận, năng lực tổ chức, quản lý của cán bộ, đảng viên. Mặt khác phải gắn
liền giáo dục đạo đức với giáo dục chính trị, tư tưởng và giáo dục ý thức pháp
luật. Qua những lời dạy của Người, trong bối cảnh hiện nay, công tác giáo dục
chính trị, tư tưởng của cấp ủy các cấp cần phải được đẩy mạnh nhằm tạo sự
chuyển biến tích cực trong nhận thức và hành động trong mỗi cán bộ, đảng
viên. Công tác giáo dục nhận thức phải lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động, để mỗi cán bộ,
đảng viên nhận thức rõ rằng: tận trung với nước, tận hiếu với dân, hết lòng hết
sức phục vụ nhân dân, quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng.
Bằng hành động cụ thể, mỗi đảng viên của Đảng phải gương mẫu trong lối
sống, thực sự “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”, phải nhận thức được
những ưu điểm và khuyết điểm của mình để tự giác, xây dựng kế hoạch, đề ra
mục tiêu, thời gian sửa chữa, học tập, rèn luyện, tu dưỡng để hoàn thiện nhân
cách; ra sức phục vụ lợi ích chung của giai cấp, của nhân dân, luôn đặt lợi ích
của Đảng, của nhân dân lên trên lợi ích cá nhân; không ngừng rèn luyện ý thức
tổ chức kỷ luật, thực hiện nghiêm túc Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, học
tập, làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh sát hợp với chức trách, nhiệm
vụ của mình. Không chỉ đi đầu trong cuộc đấu tranh chống quan liêu, tham
nhũng, lãng phí và những biểu hiện tiêu cực khác, mỗi cán bộ, đảng viên phải
không ngừng đề cao cảnh giác, kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu
và hoạt động chống phá của các thế lực thù địch trên mặt trận chính trị tư
tưởng; chủ động đấu tranh ngăn ngừa, phê phán những biểu hiện “tự diễn
83
biến”, “tự chuyển hóa” trong Đảng, ổn định xã hội.
Chất lượng, hiệu quả của giáo dục và tự giáo dục đạo đức phụ thuộc
vào nhiều nhân tố. Vì vậy phải đa dạng hóa và kết hợp nhiều hình thức,
phương thức tác động đến sự hình thành những phẩm chất đạo đức của cán
bộ, đảng viên, tránh khuôn sáo, máy móc. Chú trọng kết hợp giữa nâng cao
nhận thức về đạo đức học Mác - Lênin qua nhiều kênh như trong sinh hoạt
của tổ chức, qua các đợt tìm hiểu, qua các phương tiện thông tin đại chúng…
với rèn luyện đạo đức qua hoạt động thực tiễn. Để khắc phục sự suy thoái về
đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên ở nước ta
hiện nay cần phải thực hiện đồng bộ các giải pháp đã được đề cập.
TIỂU KẾT CHƢƠNG 2
Trong suốt quá trình lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành độc lập dân tộc,
xây dựng đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc
xã hội chủ nghĩa, Đảng đã rèn luyện và đào tạo, bồi dưỡng được những lớp
cán bộ, đảng viên trung kiên, có đủ đức, đủ tài đảm đương những nhiệm vụ
khó khăn, gian khổ mà cách mạng giao phó nhằm đem lại độc lập, tự do, ấm
no, hạnh phúc cho nhân dân. Thắng lợi của sự nghiệp đổi mới trong những
năm qua gắn liền với sự trưởng thành của đội ngũ cán bộ, đảng viên về nhiều
mặt. Đa số cán bộ lãnh đạo, quản lý luôn trau dồi và giữ được phẩm chất đạo
đức cách mạng, yêu nước, thương dân, chí công, vô tư, gương mẫu, có lối
sống trong sạch, lành mạnh… Tuy nhiên như trong điều kiện Đảng cầm
quyền, hơn nữa dưới tác động mặt trái của cơ chế thị trường đã làm cho một
bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, có một số cán bộ cao cấp, suy thoái về
tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau. Sự thoái
hóa về đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên là do chịu tác
động của cả nguyên nhân chủ quan và khách quan song chủ yếu là do yếu tố
chủ quan gây nên. Điều này đã ảnh hưởng đến uy tín của Đảng, làm giảm sút
lòng tin của nhân dân đối với Đảng.
Sự nghiệp đổi mới đất nước đã và đang đặt ra những yêu cầu ngày
84
càng cao đối với sự hình thành và phát triển những phẩm chất đạo đức tốt
đẹp của con người Việt Nam, đồng thời tạo ra những thuận lợi và những
thử thách mới đối với mỗi chúng ta trong lĩnh vực đạo đức. Kế thừa truyền
thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc, học tập và làm theo tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh là một cách thiết thực, hiệu quả. Việc giáo dục đạo đức cách
mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên phải được thực hiện theo nhiều kênh,
nhiều biện pháp, nhiều hình thức. Chúng ta nên quán triệt sâu sắc rằng,
giáo dục đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên là nhiệm vụ hết
sức nặng nề, khó khăn, nó vừa cấp bách, vùa lâu dài. Để có được đạo đức
cách mạng, mỗi cán bộ, đảng viên phải luôn luôn tự mình trau dồi, rèn
luyện, tu dưỡng đạo đức cách mạng, để xứng đáng là người lãnh đạo, người
85
đầy tớ thật trung thành của nhân dân.
KẾT LUẬN
Hồ Chí Minh là một người tiêu biểu nhất về đạo đức cách mạng. Người
đã để lại cho dân tộc ta một di sản vô giá, đó là tư tưởng của Người, trong đó
có tư tưởng về đạo đức. Bản thân Chủ tịch Hồ Chí Minh là một tấm gương
sáng ngời về đạo đức.Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh bắt nguồn từ truyền
thống đạo đức của dân tộc Việt Nam đã được hình thành, phát triển trong
suốt quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước; là sự vận dụng và phát triển
sáng tạo tư tưởng đạo đức cách mạng của chủ nghĩa Mác- Lênin. Đó là sự
tiếp thu có chọn lọc và phát triển những tinh hoa văn hóa, đạo đức của nhân
loại, cả phương Đông và phương Tây, mà Người đã tiếp thu được trong quá
trình hoạt động cách mạng đầy gian lao, thử thách và vô cùng phong phú vì
mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.
Hồ Chí Minh quan niệm đạo đức là nền tảng và sức mạnh của người
cách mạng, coi đó là gốc của cây, ngọn nguồn của sông suối. Người cách
mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng thì mới hoàn thành được
nhiệm vụ cách mạng vẻ vang của dân tộc. Người quan niệm đạo đức tạo ra
sức mạnh, nhân tố quyết định sự thắng lợi của mọi công việc: “Công việc
thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”. Quan niệm lấy đức làm
gốc của Hồ Chí Minh không có nghĩa là tuyệt đối hóa mặt đức, coi nhẹ mặt
tài. Người cho rằng có tài mà không có đức là người vô dụng nhưng có đức
mà không có tài thì làm việc gì cũng khó. Cho nên đức là gốc nhưng đức và
tài phải kết hợp với nhau để hoàn thành nhiệm vụ cách mạng.
Hồ Chí Minh là người thực hiện trước tiên những điều mình đã nói, đã
viết về đạo đức. Người vừa là nhà đạo đức học lớn, vừa là tấm gương đạo
đức trong sáng, tiêu biểu nhất. Ở Hồ Chí Minh, một đặc trưng nổi bật, một
nét rất riêng là luôn có sự thống nhất giữa tư tưởng và hành vi, động cơ và
hiệu quả, giữa lý luận và thực tiễn. Đối với Người, rèn luyện người cán bộ,
đảng viên có đủ đức và đủ tài, vừa hồng vừa chuyên. Thời chiến cũng như
thời bình, nơi chiến trường hay tại hậu phương, trong học tập, lao động, sản
86
xuất hay khi chiến đấu, Người luôn quan tâm, động viên và dìu dắt đội ngũ
cán bộ, đảng viên để họ thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm,
liêm, chính, chí công, vô tư. Theo Hồ Chí Minh, chừng nào chủ nghĩa cá
nhân với những căn bệnh thường mắc như cậy quyền và cậy thế, kiêu ngạo
và xa hoa, quan liêu và coi thường quần chúng, tự kiêu và không muốn học
tập, không thực hiện tốt phê bình và tự phê bình vẫn còn hiện hữu, thì chừng
đó cán bộ, đảng viên sẽ không thể hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân, hoàn
thành những trọng trách mà Đảng và nhân dân giao phó.
Hiện nay, sự nghiệp đổi mới đất nước đang đứng trước những thời cơ,
vận hội mới, đồng thời phải đối mặt với không ít khó khăn, nguy cơ, thách
thức. Sự suy thoái về đạo đức, lối sống của bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng
viên trong Đảng, bộ máy nhà nước đã làm sâu sắc hơn những tiêu cực của xã
hội đang là nguy cơ đe dọa thắng lợi của sự nghiệp đổi mới. Do vậy, việc
tăng cường giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng đang trở thành việc làm
thường xuyên đối với quần chúng nhân dân, nhất là đối với mỗi cán bộ, đảng
viên. Để làm được điều đó thì chúng ta cần phải đẩy mạnh hơn nữa cuộc vận
động, học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, tạo thành một
phong trào chính trị rộng lớn; nói phải đi đôi với làm; phải nêu gương về
đạo đức gắn với nghiêm chỉnh chấp hành luật pháp.
Đất nước luôn đổi thay nhưng tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn còn sống
mãi. Tư tưởng đạo đức và lối sống của Người mãi là kim chỉ nam cho việc
tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của chúng ta trước mọi diễn biến của cuộc
sống. Vì vậy mỗi cán bộ, đảng viên cần phải ý thức rèn luyện đạo đức cách
mạng theo tư tưởng Hồ Chí Minh để trở thành những con người đủ đức, đủ
tài, vừa “hồng”, vừa “chuyên” mới có thể góp sức vào công cuộc xây dựng,
87
phát triển đất nước./.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Trọng Ân ( 2005), Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức, Tạp chí Triết
học, Số 1.
2. Lê Hữu Cát, Mạc Văn Nam ( 2004), Giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên theo di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Tạp chí Triết học, Số 9. 3. Vũ Trọng Dung - Chủ biên (2005), Giáo trình đạo đức học Mác - Lênin, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
4. Thành Duy - Chủ biên (1996), Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức, Nxb Chính
trị Quốc gia, Hà Nội.
5. Thành Duy (1997), Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng với việc xây
dựng đạo đức đội ngũ cán bộ ngày nay, Tạp chí Quốc phòng toàn dân, Số 8.
6. Thành Duy (1997), Tư tưởng Hồ Chí Minh về vị trí cán bộ và công tác cán bộ,
Tạp chí Thông tin lý luận, Số 5.
7. PGS, TS. Thành Duy và TS Lê Quý Đức (2007), “Học tập Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh - xây dựng nền văn hóa đạo đức ở nước ta hiện nay”, Nxb Lí luận Chính trị, Hà Nội.
8. Trần Văn Giàu (1978), Đạo đức Nho giáo và đạo đức truyền thống Việt Nam,
Tạp chí Triết học, Số 1.
9. Trần Văn Giàu (1996), Sự phát triển của tư tưởng ở Việt Nam từ thế kỷ XIX đến Cách mạng Tháng Tám, Gồm 2 tập, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 10. Dẫn theo Hồ Chí Minh Truyện, bản dịch trung văn của Trương Niệm Thức, Bát Nguyệt xuất bản xã, Thượng Hải, tháng 6 -1949 trong: Đại tướng Võ Nguyên Giáp (chủ biên), Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội 2000, Tr.51.
11. Đảng Cộng sản Việt Nam: Các Nghị quyết của Trung ương Đảng 1996 - 1999,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000.
12. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
13. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội
14. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Hội nghị Trung ương lần thứ 9.
Khóa IX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
15. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
88
X, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
16. Đảng Cộng sản Việt Nam(2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
17. Đảng Cộng sản Việt Nam(2012), Văn kiện Hội nghị lần thứ tư, Ban chấp hành
Trung ương khóa XI, Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội. 18. Giáo trình đạo đức học (2000), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 19. Hoàng Ngọc Hoa (1999), Thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh về thực hành tiết
kiệm, chống lãng phí, Tạp chí Thông tin lý luận, Số 5.
20. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Phân viện Hà Nội (1995), Tư
tưởng Hồ Chí Minh ( Tập bài giảng), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
21. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Phân viện Thành phố Hồ Chí Minh (1997), Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề cán bộ và công tác cán bộ trong sự nghiệp đổi mới hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
22. Phạm Văn Khánh (2007), Thấm nhuần tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
23. Vũ Khiêu - Chủ biên (1993), Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh - truyền thống
dân tộc và nhân loại, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
24. Trần Hậu Kiêm - Chủ biên (1996), Giáo trình đạo đức học, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
25. Đặng Xuân Kỳ (1994), Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, Tạp chí Cộng
sản, Số 5.
26. Vũ Kỳ (1993), Bác Hồ căn dặn cán bộ, đảng viên phải thật sự thấm nhuần và
thực hành đạo đức cách mạng, Tạp chí Tư tưởng văn hóa, Số 5.
27. Đỗ Huy (1992), Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh trong hệ chuẩn mực của thời
đại mang tên Người, Tạp chí Triết học, Số 2.
28. Vũ Thị Hồng Lê (2007), Tư tưởng Hồ Chí Minh về nâng cao đạo đức cách mạng và đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, Luận văn Thạc sĩ Triết học, Hà Nội.
29. V.I.Lênin Toàn tập (1961), Nxb Sự Thật, M. t.31. 30. V.I.Lênin Toàn tập (1977), Nxb Tiến Bộ, M. t.39. 31. Nguyễn Bá Linh (1995), Tư tưởng Hồ Chí Minh - một số nội dung cơ bản.
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
32. Nguyễn Văn Lý (2004), Vấn đề nâng cao đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán
89
bộ, đảng viên ở nước ta hiện nay, Tạp chí Triết học, Số 6.
33. Cao Văn Lượng (1999), Hồ Chí Minh với vấn đề nâng cao đạo đức cách
mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân, ngăn chặn sự thoái hóa, biến chất của một
bộ phận cán bộ, đảng viên, Tạp chí nghiên cứu lịch sử, Số 5.
34. Nguyễn Ngọc Long chủ biên (2006), Giáo trình Đạo đức học, NXB
Chính trị quốc gia.
35. C.Mác & Ph.Ăngghen Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 1995. 36. C.Mác & Ph.Ăngghen Toàn tập, tập 20, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 1994. 37. C.Mác & Ph.Ăngghen Toàn tập, tập 20, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 1995 38. C.Mác & Ph.Ăngghen Toàn tập, tập 21, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 1995. 39. C.Mác & Ph.Ăngghen Toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 1993. 40. Hồ Chí Minh(2009), Thư gửi đồng chí Pê Tơ Rốp, tổng thư ký ban phương đông,Toàn tập,Tập 1, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, Tr263. 41. Hồ Chí Minh(2009), Đường cách mệnh, Toàn tập, Tập 2, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, Tr 280.
42. Hồ Chí Minh(2009), Nghe tiếng giã gạo, Toàn tập, Tập 3, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, Tr 350.
43. Hồ Chí Minh(2009), Dạ bán, Toàn tập, Tập 3, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội, Tr 383.
44. Hồ Chí Minh(2009), Những nhiệm vụ cấp bách của nhà nước Việt Nam
dân chủ cộng hòa, Toàn tập,Tập 4, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, Tr 9.
45. Hồ Chí Minh(2009), Thư gửi Ủy ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện, làng,
Toàn tập, Tập 4, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, Tr 56 - 57.
46. Hồ Chí Minh(2009), Bài nói tại trường cán bộ tự vệ Hồ Chí Minh,Toàn
tập,Tập 4, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, Tr 149.
47. Hồ Chí Minh(2009), Bài nói chuyện với cán bộ tỉnh Thanh Hóa, Toàn tập,
Tập 5, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, Tr 54.
48. Hồ Chí Minh(2009), Đời sống mới, Toàn tập, Tập 5, Nxb Chính trị Quốc
gia, Hà Nội, Tr 104 - 105.
49. Hồ Chí Minh(2009), Sửa đổi lối làm việc, Toàn tập, Tập 5, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, Tr 251 - 277
90
50. Hồ Chí Minh(2009), Bài nói chuyện trong buổi bế mạc Hội nghị cán bộ của Đảng lần thứ sáu, Toàn tập, Tập 5, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, Tr 552.
51. Hồ Chí Minh(2009), Cần, Kiệm, Liêm, Chính, Toàn tập, Tập 5, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, Tr 631 - 645.
52. Hồ Chí Minh(2009), Bài nói chuyện tại trường Chính trị trung cấp quân
đội, Toàn tập,Tập 6, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, Tr 321.
53. Hồ Chí Minh(2009), Thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí, chống bệnh quan liêu, Toàn tập, Tập 6, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, Tr 488 - 495.
54. Hồ Chí Minh(2009), Bài nói tại lớp chính Đảng Trung ương khóa 2, Toàn
tập,Tập 7, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, Tr 60.
55. Hồ Chí Minh(2009), Bài nói chuyện với bộ đội, công an và cán bộ trước khi vào tiếp quản thủ đô, Toàn tập, Tập 7, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, Tr 346.
56. Hồ Chí Minh(2009), Bài nói chuyện tại Hội nghị sản xuất cứu đói, Toàn
tập Tập 7, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, Tr 572.
57. Hồ Chí Minh(2009), Bài nói chuyện tại lớp đào tạo hướng dẫn viên các trại hè cấp1, Toàn tập, Tập 8, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, Tr 184. 58. Hồ Chí Minh(2009), Bài nói chuyện tại lớp nghiên cứu chính trị khóa I, trường đại học nhân dân Việt Nam, Toàn tập, Tập 8, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, Tr 215 - 216.
59. Hồ Chí Minh(2009), Nói chuyện tại Hội nghị chỉnh huấn cán bộ trung, cao cấp trong quân đội, Toàn tập,Tập 8, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, Tr 352. 60. Hồ Chí Minh(2009), Đạo đức cách mạng , Toàn tập, Tập 9, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, Tr 284 - 293.
61. Hồ Chí Minh(2009), Nói chuyện tại lớp chỉnh huấn khóa II của Bộ công
an, Toàn tập, Tập 9, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, Tr 448.
62. Hồ Chí Minh(2009), Bài nói tại lớp học chính trị của giáo viên, Toàn tập,
Tập 9, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, Tr 492.
63. Hồ Chí Minh(2009), Thư gửi các cán bộ giáo dục, học sinh, sinh viên các trường và các lớp bổ túc văn hóa, Toàn tập, Tập 10, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, Tr 190.
64. Hồ Chí Minh(2009), Bài nói ở lớp huấn luyện đảng viên mới , Toàn
tập,Tập 12, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, Tr 94 - 95.
91
65. Hồ Chí Minh(2009), Nâng cao đạo đức cách mạng quét sạch chủ nghĩa cá nhân, Toàn tập, Tập 12, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, Tr 438 - 439.
66. Hồ Chí Minh(2009), Di chúc, Toàn tập,Tập 12, Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội, Tr 497 - 499.
67. Hồ Chí Minh(2009), Ý kiến về việc làm và xuất bản loại sách “người tốt việc tốt”, Toàn tập, Tập 12, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, Tr 557 - 558
68. Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng (1976), Nxb Sự thật, Hà Nội. 69. Hồ Chí Minh về đạo đức (Trích), Nxb Chính trị quốc gia, 1993. 70. Tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh (2009), Nxb Chính trị - hành
chính, Hà Nội.
71. Nguyễn Chí Mỳ - Chủ biên (1999), Sự biến đổi của thang giá trị đạo đức trong nền kinh tế thị trường với việc xây dựng đạo đức mới cho cán bộ quản lý ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
72. Ngô Kim Ngân (1999), Về nâng cao chất lượng đảng viên trong sự nghiệp đổi
mới, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
73. Lê Hữu Nghĩa (2006), Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh với việc nâng cao đạo
đức cán bộ, đảng viên hiện nay, Tạp chí Cộng sản, Số 2 - 3.
74. Trần Quang Nhiếp (2006), Để khắc phục tình trạng suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ đảng viên hiện nay, Tạp chí Cộng sản, Số1. 75. Phạm Văn Nhuận - Chủ biên (2008), Giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng theo tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trong quân đội hiện nay, Nxb Quân đội nhân dân.
76. Nhận diện và đấu tranh chống suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên hiện nay ( Nhiều tác giả), (2013), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
77. Lê Khả Phiêu (1999), Học tập, rèn luyện tư tưởng và đạo đức cách mạng, thực hiện thắng lợi cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, Tạp chí Khoa học xã hội, Số 40.
78. Nguyễn Văn Phúc (1997), Đạo đức học Mác - Lênin (Bài giảng dành cho
nghiên cứu sinh và cao học ngành Triết học), Viện Triết học, Hà Nội.
79. Thang Văn Phúc ( 2003), Nâng cao chất lượng công tác giáo dục đạo đức công chức trong điều kiện cải cách nền hành chính nhà nước, Tạp chí cộng sản, Số 32.
80. Đào Duy Quát (2004), Về giáo dục đạo đức cách mạng trong cán bộ, đảng
92
viên hiện nay- thực trạng và giải pháp,Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
81. Nguyễn Duy Quý và Hoàng Chí Bảo - Chủ biên (2006), Đạo đức xã hội ở nước ta hiện nay - Vấn đề và giải pháp, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 82. Trần Xuân Sầm (1999), Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về thương yêu và phê bình cán bộ trong cuộc vận động xây dựng chỉnh đốn Đảng hiện nay, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 8.
83. Trần Trọng Tân (1999), Về đạo đức và sự tu dưỡng của đảng viên chúng ta,
Tạp chí Khoa học xã hội, Số 40.
84. Lê Sỹ Thắng (1997), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, T.2, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 85. Song Thành (2005), Nói đi đôi với làm phải nêu gương về đạo đức - một nguyên tắc cơ bản của đạo đức Hồ Chí Minh, Tạp chí Cộng sản, Số 11. 86. Hoàng Trung (1998), Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh và vấn đề giáo dục, rèn
luyện đạo đức trong nền kinh tế thị trường, Tạp chí Triết học, Số 5.
87. Nguyễn Tài Thư - Chủ biên (1993), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, T.1, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
88. Nguyễn Khánh Toàn (1985), Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một
việc rất quan trọng và cần thiết, Tạp chí Triết học, Số 2.
89. Nguyễn Văn Truy “ Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức”, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 1996
90. Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh (1993), Nxb Khoa học xã hội. 91. Hoàng Trung (1996), Phạm trù “Đạo đức cách mạng” trong tư tưởng Hồ Chí
Minh, Tạp chí Triết học, Số 5.
92. Viện Triết học (1972), Mác - Ăngghen - Lênin bàn về đạo đức, Nhà máy in
Thống Nhất, Hà Nội.
93. Ban Tuyên giáo Trung ương (2012), Tài liệu Hỏi - Đáp Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XI, Nxb Chính trị quốc gia, Sự Thật.
94. Đức Vượng (1995), Hồ Chí Minh với vấn đề đào tạo cán bộ, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
95. http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/xay-dung-dang/2012/16121/Tim-
hieu-nguyen-nhan-tinh-trang-suy-thoai-tu-tuong-chinh-tri.aspx
96. http://www.moj.gov.vn/ct/tintuc/Pages/hoat-dong-cua-Bo-Tu-
Phap.aspx?ItemID=6609
97. http://vietbao.vn/vi/Xahoi/5-suy-thoai-ve-dao-duc-loi-song-cua-Dang-
93
vien/10954262/157/