BỘ NỘI VỤ

Tr êng §¹I HäC néi vô hµ néi

BÁO CÁO TỔNG HỢP

ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CẤP TRƢỜNG

TƢ TƢỞNG QUẢN LÝ CỦA KHỔNG TỬ

VÀ VIỆC VẬN DỤNG VÀO QUẢN TRỊ NHÂN LỰC

TRONG BỐI CẢNH VIỆT NAM

Mã số: ĐTCT.2017.81

Chủ nhiệm đề tài: ThS. Nguyễn Thị Bích Ngọc

Hà Nội, 2020

BỘ NỘI VỤ

Tr êng §¹I HäC néi vô hµ néi

BÁO CÁO TỔNG HỢP

ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CẤP TRƢỜNG

TƢ TƢỞNG QUẢN LÝ CỦA KHỔNG TỬ

VÀ VIỆC VẬN DỤNG VÀO QUẢN TRỊ NHÂN LỰC

TRONG BỐI CẢNH VIỆT NAM

Mã số: ĐTCT.2017.81

Chủ nhiệm đề tài : ThS. Nguyễn Thị Bích Ngọc

Thành viên tham gia : PGS.TS. Trần Đình Thảo

TS. Nguyễn Văn Tạo

ThS. Nguyễn Thị Thảo

ThS. Trần Tuấn Phong

Hà Nội, 2020

MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU .................................................................................................. 1 1. Lý do chọn đề tài ......................................................................................... 1 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu ................................................................. 2 3. Mục tiêu nghiên cứu ................................................................................... 6 4. Nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................................. 6 5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu .............................................................. 7 6. Giả thuyết nghiên cứu ................................................................................. 7 7. Phƣơng pháp nghiên cứu ............................................................................ 7 8. Đóng góp mới của đề tài ............................................................................. 8 9. Kết cấu của đề tài ........................................................................................ 9

CHƢƠNG 1. NỘI DUNG CƠ BẢN TƢ TƢỞNG QUẢN LÝ CỦA KHỔNG TỬ ....................................................................................................................... 10 1.1. Một số khái niệm ................................................................................... 10 1.1.1. Khái niệm tƣ tƣởng ............................................................................. 10 1.1.2. Khái niệm quản lý ............................................................................... 11 1.1.3 Vai trò của quản lý ............................................................................... 15 1.2. Hoàn cảnh ra đời tƣ tƣởng quản lý của Khổng Tử ................................ 16 1.2.1. Bối cảnh lịch sử Trung Quốc thời Khổng Tử ..................................... 16 1.2.2. Điều kiện kinh tế xã hội của Trung Quốc cổ đại ............................... 19 1.2.3. Vài nét về cuộc đời và sự nghiệp của Khổng Tử ............................... 22 1.3. Nội dung tƣ tƣởng quản lý của Khổng Tử ............................................. 28 1.3.1. Quan niệm về bản chất con ngƣời ...................................................... 28 1.3.2. Quan niệm về phân chia giai cấp trong xã hội .................................... 29 1.3.3. Quan niệm về phƣơng pháp quản lý ................................................... 30 1.4. Đánh giá tƣ tƣởng quản lý của Khổng Tử ............................................. 33 1.4.1. Ƣu điểm tƣ tƣởng quản lý của Khổng Tử ........................................... 33 1.4.2. Những hạn chế trong tƣ tƣởng quản lý của Khổng Tử ...................... 35 TIỂU KẾT CHƢƠNG 1 ............................................................................... 37

CHƢƠNG 2: VẬN DỤNG TƢ TƢỞNG QUẢN LÝ CỦA KHỔNG TỬ VÀO QUẢN TRỊ NHÂN LỰC TẠI VIỆT NAM HIỆN NAY ................................ 38 2.1. Đặc điểm và yêu cầu về nguốn nhân lực của Việt Nam trong bối cảnh hiện nay ......................................................................................................... 38 2.1.1. Bối cảnh Kinh tế - Văn hóa – Xã hội .................................................. 38

2.1.2. Đặc điểm về nguồn nhân lực của Việt Nam trong bối cảnh hiện nay .. 41 2.1.3. Yêu cầu nguồn nhân lực của Việt Nam trong bối cảnh hiện nay ....... 46 2.2. Nội dung cơ bản của Quản trị nhân lực ................................................. 49 2.2.1. Thu hút nguồn nhân lực ...................................................................... 50 2.2.2. Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực ................................................. 51 2.2.3. Duy trì nguồn nhân lực ....................................................................... 52 2.3. Vận dụng phƣơng pháp quản lý của Khổng Tử tại Việt Nam hiện nay 52 2.3.1. Vận dụng Đức trị của Khổng Tử tại Việt Nam................................... 52 2.3.2. Vận dụng phƣơng pháp nêu gƣơng của Khổng Tử tại Việt Nam ....... 56 2.4. Việc vận dụng tƣ tƣởng quản lý của Khổng Tử vào quản trị nhân lực ở Việt Nam hiện nay ........................................................................................ 58 2.4.1. Vận dụng vào trong thu hút nguồn nhân lực ...................................... 58 2.4.2. Vận dụng vào trong đào tạo và phát triển nguồn nhân lực ................. 62 2.4.3. Vận dụng vào trong duy trì nguồn nhân lực ....................................... 68 2.5. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả vận dụng tƣ tƣởng quản lý của Khổng Tử vào quản trị nhân lực tại Việt Nam ............................................. 73 2.5.1. Vận dụng Đức trị của Khổng Tử trong quản trị nguồn nhân lực tại Việt Nam ....................................................................................................... 74 2.5.2. Vận dụng phƣơng pháp nêu gƣơng của Khổng Tử trong quản trị nguồn nhân lực tại Việt Nam ................................................................................... 76 2.5.3. Vận dụng phƣơng pháp giáo hóa của Khổng Tử trong quản trị nguồn nhân lực tại Việt Nam ................................................................................... 80 2.5.4. Thực hiện bình đẳng giới, nâng cao vị trí quản lý của ngƣời phụ nữ trong quản trị nhân lực tại Việt Nam hiện nay. ............................................ 81 2.5.5. Một số giải pháp khác ......................................................................... 82 TIỂU KẾT CHƢƠNG 2 ............................................................................... 85

KẾT LUẬN ........................................................................................................ 86 TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................ 88

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Trong những thập kỷ đầu của thế kỷ 21, nƣớc ta bƣớc vào giai đoạn đổi

mới và hội nhập mạnh mẽ. Xu thế toàn cầu hóa với tính chất cạnh tranh ngày

càng khốc liệt, con ngƣời đang đƣợc coi là nguồn tài sản vô giá và là yếu tố cơ

bản nhất quyết định đến sự tồn tại và phát triển của mỗi tổ chức. Trong bối cảnh

đó quản trị nhân lực đƣợc coi là lĩnh vực đặc biệt quan trọng vì “mọi quản trị

suy cho cùng cũng là quản trị con ngƣời”. Thật vậy, quản trị nguồn nhân lực có

mặt trong bất kỳ một tổ chức hay một doanh nghiệp, các phòng ban, các đơn vị

nào. So với yếu tố khác của quá trình sản xuất thì quản trị nhân lực là vấn đề khó

khăn phức tạp hơn nhiều vì mỗi con ngƣời có năng lực, kỹ năng, động cơ làm

việc…khác nhau, đòi hòi quản trị con ngƣời phải có tính khoa học và nghệ

thuật. Để đứng vững trong môi trƣờng canh tranh gay gắt, đòi hỏi các tổ chức

phải xây dựng cho mình một đội ngũ cán bộ có chất lƣợng về năng lực, phẩm

chất, trình độ chuyên môn để đáp ứng với tình hình của tổ chức mình cũng nhƣ

theo kịp với tiến bộ và trình độ khoa học – kỹ thuật của thế giới. Việc quản lý tốt

hay không luôn là vấn đề có ảnh hƣởng đến sự tồn vong của một tổ chức. Nhƣng

để quản lý tốt cần những yếu tố nào; Yếu tố quản lý hiện đại hay truyền thống.

Quá trình phát triển các học thuyết quản lý trải qua hàng nghìn năm, những gì

tích lũy của quá khứ là của cải cho tƣơng lai.

Các học thuyết quản lý Trung Quốc cổ đại ra đời cách đây hàng nghìn năm,

mặc dù còn có nhiều hạn chế do lịch sử, do bản chất giai cấp nhƣng vẫn có

nhiều giá trị tƣ tƣởng quý báu, những giá trị tƣ tƣởng này đã đóng góp một vai

trò tích cực trong lịch sử Trung Quốc nói riêng và của các nƣớc Á Đông nói

chung, đặc biệt ở nƣớc ta, một đất nƣớc chịu ảnh hƣởng mạnh mẽ từ nền văn

hóa Trung Quốc trải qua hơn một nghìn năm Bắc thuộc. Trong số đó, không thể

không kể đến tƣ tƣởng quản lý của Khổng Tử. Xét về tổng thể, tƣ tƣởng này vừa

là tƣ tƣởng triết học, vừa là tƣ tƣởng chính trị - xã hội, nhƣng đồng thời cũng là

tƣ tƣởng về quản trị nhân lực trong đó đề cao quan niệm về chữ “Đức” và yếu tố

giáo dục trong việc quản lý. Theo dòng chảy tƣ duy chính trị va các ý nghĩa thời

1

đại, chúng ta dã vận dụng nhiều điểm tiến bộ trong tƣ tƣởng của Khổng Tử trong

công tác quản lý nói chung và quản trị nhân lực nói riêng.

Xác định đƣợc vai trò to lớn của việc quản trị nhân lực trong thời kỳ mới,

đồng thời cũng nhận thấy những giá trị lớn lao trong tƣ tƣởng quản lý của

Khổng Tử cả về mặt lịch sử, lý luận và thực tiễn. Nhóm tác giả quyết định chọn

đề tài “Tư tưởng quản lý của Khổng Tử và việc vận dụng vào việc quản trị nhân

lực trong bối cảnh Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu của mình nhằm mục đích

tìm ra và vận dụng những ƣu điểm trong tƣ tƣởng quản lý của Khổng Tử từ đó

vận dụng vào việc quản trị nhân lực ở Việt Nam hiện nay.

2. Tổng quan tình hình nghiên cứu

Xuất phát từ những ý nghĩa to lớn của tƣ tƣởng quản lý của Khổng Tử đến

thực tiễn hoạt động quản lý, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về tƣ tƣởng

của Khổng Tử và ảnh hƣởng của nó đến hoạt động quản lý trên nhiều mặt, nhiều

phƣơng diện. Cụ thể nhƣ sau:

Tình hình nghiên cứu trong nước:

Do ảnh hƣởng lớn từ nền văn hóa phong kiến phƣơng Đông, chính vì vậy

các tƣ tƣởng quản lý về Nho giáo nói chung và tƣ tƣởng quản lý của Khổng Tử

nói riêng đã đƣợc các học giả trong nƣớc nghiên cứu từ rất lâu. Có rất nhiều

những tác phẩm, công trình nghiên cứu về tƣ tƣởng quản lý của Khổng Tử trong

đó có thể kể đến:

Trong cuốn "Khổng Tử" của Lý Trƣởng Hải, Nhà xuất bản Văn học đã

phân tích về tƣ tƣởng triết học Khổng Tử, trong đó nổi lên vấn đề quan niệm về

điều nhân, lễ, nghĩa, trí, tín và đạo làm ngƣời quân tử.

Tác phẩm "Nho giáo" của Trần Trọng Kim cũng đã đề cập đến tƣ tƣởng

chính trị cơ bản của Khổng Tử về ngƣời quân tử, đạo vua tôi, phải thực hiện

chính danh định phận.

Tác phẩm "Khổng Tử" của Nguyễn Hiến Lê, Nhà xuất bản Văn hóa Thông

tin, Tứ thư bình giải của Lý Minh Tuấn, Nhà xuất bản Tôn giáo cũng làm nổi bật

đƣợc tƣ tƣởng chính trị của Khổng Tử trong số các tƣ tƣởng chính trị của Trung

Hoa cổ đại.

2

Việc nghiên cứu về nền triết học và tôn giáo Trung Hoa trong cuốn “Lịch

sử triết học Phương Đông" của Nguyễn Đăng Thực, Nhà xuất bản Thành phố

Hồ Chí Minh có đề cập đến địa vị Khổng Tử - nhà trí giả và nhà giáo dục văn

hóa lớn trong lịch sử Trung Hoa. Bên cạnh đó, Nguyễn Đăng Thục còn nghiên

cứu về triết học Khổng Tử xoay quanh vấn đề vũ trụ quan, thuyết chính danh,

đạo nhân, và đặc biệt là triết lý nhân sinh quan với đạo trung thứ và chữ nhân là

trung tâm của nó.

Trong tác phẩm “Khổng học đăng" Phan Bội Châu đã trình bày rõ một số

phạm trù, nguyên lý cơ bản của Nho giáo. Tác giả đặc biệt đề cao những giá trị

của Nho giáo và coi đạo đức Nho giáo có vai trò cực kỳ to lớn trong việc giáo

dục, hoàn thiện nhân cách con ngƣời.

Tác phẩm "Khổng giáo phê bình tiểu luận" của tác giả Đào Duy Anh lại

cho rằng, chúng ta phải có thái độ khách quan, toàn diện và khoa học khi nhận

xét vai trò của Nho giáo trong xã hội. Ông phê phán thái độ của một số tri thức ở

Trung Quốc và Việt Nam coi Nho giáo chỉ là vô dụng, không phù hợp với khoa

học. Đặc biệt ông đã nghiên cứu, phân tích tổng hợp những nội dung cơ bản của

Nho giáo để từ đó đi đến kết luận, Nho giáo “dẫu nó không thích hợp nữa ở đời

nay, mà công dụng nó, sự nghiệp nó, vẫn vẹn nguyên trong lịch sử, không ai có

thể chỗi cãi hay xóa bỏ đi được".

Tác phẩm “Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam" của Trần

Văn Giàu, từ chỗ chỉ ra những điểm khác nhau cơ bản giữa đạo đức Nho giáo và

đạo đức truyền thống Việt Nam, tác giải khái quát một số đặc điểm của nền đạo

đức truyền thống và nêu lên những tàn dƣ của đạo đức Nho giáo cần phải khắc

phục trong công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa ở nƣớc ta, đó là chủ nghĩa gia

đình, chủ nghĩa đồng tộc, phƣơng châm trị đạo “thân thân” gây trở ngại cho

thực hiện dân chủ, động viên, tài năng.

Những tác phẩm, cuốn sách trên mới chỉ dừng lại những nghiên cứu chung

về thế giới quan, tƣ tƣởng – chính trị xã hội của Khổng Tử nói riêng và đạo Nho

nói chung, còn phần nhân sinh quan mới chỉ dừng lại ở những nghiên cứu bƣớc

đầu. Để nghiên cứu sâu hơn ảnh hƣởng của tƣ tƣởng Khổng Tử đến các khía

3

cạnh của đời sống xã hội có thể kể đến một vài công trình sau:

Luận án Tiến sĩ Triết học của Nguyễn Thị Hồng Doan (2014) “Vấn đề kế

thừa, phát triển một số phạm trù cơ bản của đạo đức Nho giáo trong tư tưởng

đạo đức Hồ Chí Minh" đã chỉ ra những yếu tố ảnh hƣởng và nội dung chủ yếu

của việc kế thừa, phát triển một số phạm trù cơ bản của đạo đức Nho giáo trong

tƣ tƣởng đạo đức Hồ Chí Minh.

Luận án Tiến sĩ Triết học của Nguyễn Thị Loan (2013) “Quan niệm của

nho giáo sơ kỳ về xã hội lý tưởng và ý nghĩa hiện thời của nó" đã nghiên cứu

những mặt tích cực và hạn chế trong quan niệm của Nho giáo sơ kỳ về xã hội lý

tƣởng đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay. Đồng

thời đề xuất những giải pháp để kế thừa những mặt tích cực và khắc phục những

hạn chế đó.

Luận văn Thạc sĩ Triết học Đỗ Minh Cƣơng (2006) “Thuyết Đức trị của

Khổng Tử và ảnh hưởng của nó đến phương thức quản lý xã hội của Việt Nam

hiện nay" , luận văn đã góp phần hệ thống hóa những quan điểm của Khổng Tử

về quản lý xã hội, khai thác thuyết Đức trị theo một hƣớng tiếp cận mới: triết

học trong quản lý xã hội, đồng thời cũng làm rõ ảnh hƣởng của thuyết Đức trị

đến phƣơng thức quản lý xã hội ở nƣớc ta hiện nay.

Ngoài ra nghiên cứu tƣ tƣởng của Khổng Tử đối với các vấn đề phát triển

kinh tế và hiện đại hóa xã hội có các bài báo của tác giả Nguyễn Thanh Bình:

Nho giáo với vấn đề phát triển kinh tế và hoàn thiện con người (Tạp chí Giáo

dục lý luận, số 5 năm 2000); Khổng giáo với vấn đề hiện đại hóa xã hội của Lê

Thanh Sinh (Tạp chí Khoa học xã hội số 1, 2003...). Tuy nhiên, các công trình

trên đây mới chỉ nghiên cứu một cách khái lƣợc về ý nghĩa trong tƣ tƣởng của

Khổng Tử với sự phát triển của đất nƣớc nói chung, hay đi vào từng vấn đề

riêng biệt nhƣ triết học, đạo đức, văn hóa, giáo dục...mà chƣa đi sâu nghiên cứu

phân tích tƣ tƣởng của Khổng Tử về quản lý và giá trị của nó đối với hoạt động

quản trị nhân lực ở nƣớc ta hiện nay.

Tình hình nghiên cứu nước ngoài:

Nghiên cứu về tử tƣởng của Khổng Tử và ý nghĩa của nó đến hoạt động

4

của đời sống xã hội có những tác phẩm nƣớc ngoài nhƣ sau:

Cuốn Tứ thư thập chú của Chu Hy (do Nguyễn Đức Lân dịch và chú giải,

Nhà xuất bản Văn hóa, năm 1998) đã chú giải tƣ tƣởng chính trị của Khổng Tử,

làm nổi bật nhiều nội dung cơ bản về học thuyết Đức trị, mà trọng tâm là nhân,

lễ, nghĩ, chính danh.

Gia sƣ nổi danh thế giới William James Durant đã dành gần 40 năm để

soạn bộ Lịch sử văn minh thế giới. Do phạm vi đối tƣợng rộng lớn của bộ sách

mà phần Lịch sử văn minh Trung Quốc, William James Durant chỉ dành dung

lƣợng khiêm tốn về học thuyết chính trị - xã hội của các nhà nho sơ kỳ trong đó

có Khổng Tử. Song có thể nói đó là sự đánh giá khá sâu sắc về những nội dung

cơ bản của Nho giáo, bởi lẽ tác giả đã đề cập đến những vấn đề nhƣ đạo đức của

ngƣời cầm quyền, mẫu ngƣời lý tƣởng, trật tự xã hội, phƣơng thức xây dựng xã

hội lý tƣởng nhƣ dƣỡng dân, giáo dân, phân phối bình quân.

Trong cuốn Đại cương triết học Trung Quốc, nhà nghiên cứu Phùng Hữu

Lan (Trung Quốc) đã khái quát tiến trình lịch sử triết học Trung Quốc, trong hai

mƣơi tám chƣơng của cuốn sách này ông đã trình bày những nội dung cơ bản

của các trƣờng phái Triết học Trung Quốc, trong phần nói về các nhà Nho sơ kỳ

Khổng Tử, Mạnh Tử, Tuân Tử ông đề cập đến những nội dung căn bản nhƣ

Chính danh, Nhân nghĩa. Những vấn đề này đƣợc tác giả đề cập đến với tƣ cách

là những nội dung cơ bản trong tƣ tƣởng Khổng Tử nói nói chung mà chƣa phải

là quan niệm của Khổng Tử về quản lý con ngƣời.

Giáo sƣ Tào Thƣợng Bân, một học giả ngƣời Đài Loan, trong cuốn Tư

tưởng nhân bản của Nho học Tiên Tần đã bàn đến phạm trù Nhân, Lễ, Nghĩa,

Chính danh, Dân vị bang bản, Pháp Hậu vƣơng trong mối quan hệ với tƣ tƣởng

nhân bản. Theo ông đây là tƣ tƣởng tiêu biểu cho tinh thần nhân bản của Khổng

Tử, là nguồn gốc tƣ tƣởng của chủ nghĩa nhân sinh.

Học giả Vi Chính Thông (Trung Quốc) trong cuốn Nho gia với Trung Quốc

ngày nay đã thể hiện một cách nhìn phản biện đối với ảnh hƣởng của Nho giáo

đối với xã hội Trung Quốc trong truyền thống cũng nhƣ trong hiện tại. Tác giả

cuốn sách đã dành phần lớn dung lƣợng để chỉ ra những vấn đề mà ông cho là

5

khiếm khuyết căn bản của tƣ tƣởng đạo đức Nho giáo.

Trong hội thảo khoa học quốc tế do Viện Hán Nôm kết hợp với Đại học

Havard – Yenching (Mỹ) tổ chức năm 2006, các học giả đã thống nhất quan

điểm cho rằng, nhiều nguyên lý quan trọng của Khổng Tử về xã hội và con

ngƣời có sứ trƣờng tồn cả trong lịch sử và ngày nay. Chẳng hạn GS Đỗ Duy

Ninh (Đại học Havard – Yenching) đã khẳng định: "Tất cả năm giá trị cốt lõi

của Khổng giáo: Nhân, lễ, nghĩa, trí và tín giữ vai trò chủ đạo của đạo đức phổ

quát"

Nhƣ vậy tất cả các công trình nghiên cứu trong nƣớc và ngoài nƣớc đều chỉ

ra đƣợc nội dung cơ bản của tử tƣởng Khổng Tử, phân tích những ƣu điểm và

hạn chế của tƣ tƣởng đó. Đồng thời các tác phẩm, công trình nghiên cứu đều chỉ

ra đƣợc ý nghĩa, giá trị to lớn trong tƣ tƣởng của Khổng Tử đến các mặt của đời

sống xã hội cả trong quá khứ và hiện tại. Tuy nhiên, trong quá trình nghiên cứu và

tìm hiểu, tác giả nhận thấy đến thời điểm hiện nay ở trong nƣớc và trên thế giới chƣa

có công trình nào nghiên cứu về Tư tưởng quản lý của Khổng Tử và việc vận dụng

vào việc quản trị nhân lực trong bối cảnh Việt Nam. Vì thế, đây chính là vấn đề

mà chúng tôi sẽ tiếp tục đi sâu nghiên cứu, luận giải và làm rõ.

3. Mục tiêu nghiên cứu

Đề tài tìm hiểu những nội dung cơ bản của tƣ tƣởng quản lý của Khổng Tử,

chỉ ra đƣợc những điểm tích cực và hạn chế của tƣ tƣởng quản lý của Khổng Tử,

nghiên cứu và đề xuất giải pháp trong vận dụng tƣ tƣởng quản lý của Khổng Tử

vào quản trị nhân lực tại Việt Nam hiện nay.

4. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Làm rõ hoàn cảnh ra đời tƣ tƣởng quản lý của Khổng Tử.

- Làm rõ nội dung cơ bản tƣ tƣởng quản lý của Khổng Tử,

- Xem xét, đánh giá ảnh hƣởng tích cực và tiêu cực của tƣ tƣởng quản lý

của Khổng Tử đối với việc quản trị nhân lực ở Việt Nam trong trong giai đoạn

hiện nay.

- Đề xuất một số ý tƣởng nhằm vận dụng tƣ tƣởng quản lý của Khổng Tử

vào quản trị nhân lực của Việt Nam hiện nay.

6

5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

5.1. Đối tƣợng nghiên cứu

Đề tài tập trung nghiên cứu nội dung học thuyết quản lý của Khổng Tử,

trong đó đặc biệt quan tâm tới việc vận dụng các tƣ tƣởng quản lý của Khổng Tử

vào công tác quản trị nhân lực hiện nay.

5.2. Phạm vi nghiên cứu

- Về không gian: Vận dụng tƣ tƣởng quản lý của Khổng Tử vào công tác

quản trị nhân lực ở Việt Nam hiện nay

- Về thời gian: giai đoạn từ năm 2010 đến 2018

6. Giả thuyết nghiên cứu

Giả thuyết 1: Tƣ tƣởng quản lý của Khổng Tử còn nguyên giá trị đối với

công tác quản trị nhân lực ở Việt Nam hiện nay

Giả thuyết 2: Tƣ tƣởng quản lý của Khổng Tử không còn phù hợp với bối

cảnh Việt Nam hiện nay.

7. Phƣơng pháp nghiên cứu

Để có thể thực hiện đề tài này, nhóm tác giả dự kiến sử dụng các phƣơng

pháp nhƣ sau:

- Phƣơng pháp luận khoa học: Đề tài sử dụng phƣơng pháp luận của chủ

nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, ngoài ra còn sử dụng kết

hợp các phƣơng pháp logic, lịch sử, phân tích, tổng hợp, hệ thống cấu trúc,... bắt

đầu từ quan điểm tƣ tƣởng quản lý của Khổng Tử trong quá trình giải quyết các

vấn đề về quản trị nhân lực.

- Phƣơng pháp nghiên cứu tài liệu: Nhóm tác giả thu thập, tổng hợp, phân

tích, nghiên cứu đánh giá các tài liệu thứ cấp, thông tin từ các công trình nghiên

cứu khoa học trƣớc đây, kế thừa có tính chọn lọc, tƣ duy logic để rút ra các kết

luận cần thiết liên quan đến tƣ tƣởng quản lý của Khổng Tử trong hoạt động

quản trị nhân lực

- Phƣơng pháp quan sát: Nhóm tác giả quan sát việc ứng dụng tƣ tƣởng

quản lý của Khổng Tử vào công tác quản trị nhân lực ở một số đơn vị hành

chính, sự nghiệp ở nƣớc ta.

7

- Phƣơng pháp thảo luận nhóm: Căn cứ mục tiêu của vấn đề nghiên cứu,

chủ nhiệm đề tài tiến hành phân công nhiệm vụ, vấn đề nghiên cứu đối với các

thành viên. Các thành viên sau quá trình thu thập tƣ liệu, thông tin, nghiên cứu

vấn đề theo phân công sẽ tổ chức thảo luận nhóm. Trong quá trình thảo luận,

thành viên đƣợc phân công sẽ trình bày vấn đề nghiên cứu đƣợc phân công, các

thành viên còn lại sẽ tham gia phản biện, góp ý để cùng nhau hoàn thiện nội

dung của đề tài.

- Phƣơng pháp lấy ý kiến chuyên gia: Trong quá trình nghiên cứu đề tài

các thành viên sẽ độc lập nghiên cứu, trao đổi và thảo luận nhóm. Đối với những

vấn đề nhóm tác giả thấy chƣa thỏa đáng đã thống nhất liên hệ, xin ý kiến học

thuật của các chuyên gia thuộc các lĩnh vực Sử học, Triết học, Nhân sự…về vấn

đề nghiên cứu và ý kiến, kinh nghiệm áp dụng thực tiễn của các nhà quản lý tại

các tổ chức, doanh nghiệp đối với việc áp dụng tƣ tƣởng Khổng Tử vào hoạt

động quản lý nhân lực.

8. Đóng góp mới của đề tài

- Về mặt lý luận:

+ Đề tài nghiên cứu, tìm hiểu một cách có hệ thống tƣ tƣởng quản lý của

Khổng Tử;

+ Làm rõ thêm những vấn đề liên quan đến việc dùng ngƣời (quản trị nhân

lực) trong tƣ tƣởng quản lý của Khổng Tử;

+ Góp phần hệ thống hoá những quan điểm của Khổng Tử trong hoạt động

quản trị nhân lực.

- Về mặt thực tiễn:

+ Góp phần làm rõ ảnh hƣởng tƣ tƣởng quản lý của Khổng Tử, cả mặt

tích cực và tiêu cực, đối với công tác quản trị nhân lực trong bối cảnh Việt Nam

hiện nay.

+ Đề tài có thể sử dụng làm tài liệu trong nghiên cứu và giảng dạy các

chuyên đề, môn học có liên quan đến tƣ tƣởng của Khổng Tử. Những đề xuất, ý

tƣởng của đề tài là những kiến giải có cơ sở khoa học để vận dụng sáng tạo, linh

hoạt tƣ tƣởng này trong công tác quản trị nhân lực ở Việt Nam.

8

9. Kết cấu của đề tài

Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, phần nội dung của đề tài đƣợc chia

thành 2 chƣơng:

Chƣơng 1: Nội dung cơ bản tƣ tƣởng quản lý của Khổng Tử

Chƣởng 2: Vận dụng tƣ tƣởng quản lý của Khổng Tử vào quản trị nhân lực

trong bối cảnh Việt Nam hiện nay

9

CHƢƠNG 1

NỘI DUNG CƠ BẢN TƢ TƢỞNG QUẢN LÝ CỦA KHỔNG TỬ

1.1. Một số khái niệm

1.1.1. Khái niệm tư tưởng

Theo các tài liệu ghi nhận là sự phản ảnh hiện thực trong ý thức, là biểu

hiện các mối quan hệ giữa con ngƣời với những vấn đề thế giới xung quanh. Tƣ

tƣởng là ý thức của một cá nhân, một cộng đồng. Nó chứa một hệ thống những

quan điểm, quan niệm, luận điểm đƣợc xây dựng trên một nền tảng triết học.

Các khái niệm mang tính chất nhất quán, những quan điểm đại diện cho ý chí,

nguyện vọng của cá nhân, giai cấp, một dân tộc đƣợc hình thành trên cơ sở thực

tiễn nhất định và trở lại chỉ đạo hoạt động thực tiễn, cải tạo hiện thực.

Tƣ tƣởng là sự phản ánh hiện thực trong ý thức, là biểu hiện quan hệ của

con ngƣời với thế giới chung quanh. "Tư tưởng" ở đây không phải dùng với

nghĩa tinh thần - tƣ tƣởng, ý thức tƣ tƣởng của một cá nhân, một cộng đồng, mà

với nghĩa là một hệ thống những quan điểm, quan niệm, luận điểm đƣợc xây

dựng trên một nền tảng triết học (thế giới quan và phƣơng pháp luận) nhất quán,

đại biểu cho ý chí, nguyện vọng của một giai cấp, một dân tộc đƣợc hình thành

trên cơ sở thực tiễn nhất định và trở lại chỉ đạo hoạt động thực tiễn, cải tạo hiện

thực. Khái niệm "tư tưởng" liên quan trực tiếp đến khái niệm "nhà tư tưởng".

Một ngƣời xứng đáng là nhà tƣ tƣởng, theo V.I.Lênin khi ngƣời đó biết giải

quyết trƣớc ngƣời khác tất cả những vấn đề chính trị-sách lƣợc, các vấn đề về tổ

chức, về những yếu tố vật chất của phong trào không phải một cách tự phát.

Tƣ tƣởng triết học của Khổng Tử thể hiện tập trung ở ba nội dung chính:

Quan niệm về trời, quỷ thần, con ngƣời; học thuyết về luân lý đạo đức và tƣ

tƣởng về chính trị – xã hội. Quan niệm về trời, thiên mệnh, quỷ thần và con

ngƣời đƣợc coi là cơ sở cho những quan điểm khác trong hệ thống tƣ tƣởng của

Khổng Tử. Nó khá mâu thuẫn bởi tính hai mặt, và vì thế, ngƣời ta vẫn còn nhiều

ý kiến khác nhau về đặc điểm và khuynh hƣớng tƣ tƣởng của ông.

Tƣ tƣởng hay ý thức hệ là hệ thống các mục đích và quan niệm giúp điều

chỉnh mục tiêu, dự tính và hành động của con ngƣời. Một ý thức hệ có thể hiểu

10

nhƣ một tầm nhìn bao quát, nhƣ cách thức để xem xét sự vật, thƣờng gặp trong

một vài trƣờng phái triết học xã hội. Trong đề này này, nhóm tác giả sẽ sử dụng

khái niệm này để nghiên cứu.

1.1.2. Khái niệm quản lý

Tập quán sinh sống của con ngƣời là quần tụ, sinh sống cộng đồng. Để tồn

tại và phát triển, có nhiều việc mà một cá nhân không thể làm đƣợc hoặc làm

đƣợc nhƣng kém hiệu quả do đó cần sự liên kết để cùng thực hiện. Từ những

yêu cầu khách quan về sự liên kết hợp tác cộng đồng, các cá nhân dần tụ họp

liên kết với nhau thành những tổ chức.

Hợp tác và phân công lao động tiến dần từ thấp đến cao, từ chƣa hoàn thiện

đến hoàn thiện theo trình độ phát triển của lực lƣợng sản xuất. Mọi thành quả

của tổ chức dù ở bất kỳ trình độ phát triển nào cũng là sự kết hợp, hợp tác cộng

đồng của tất cả các thành viên. Vì thế cần đến yếu tố điều hành, phối hợp các bộ

phận, cá nhân trong tổ chức – yếu tố đó là quản lý.

Trong cộng đồng xã hội thị tộc, xã hội nguyên thủy đã hình thành các tổ

chức tự quản, đó là hội đồng thị tộc với ngƣời đứng đầu là tù trƣởng với vai trò

thực hiện chức năng quản lý thị tộc. Khi chế độ tƣ hữu ra đời, xuất hiện mâu

thuẫn và ra đời giai cấp, mâu thuẫn giai cấp. Để duy trì địa vị của giai cấp thống

trị và giải quyết các mâu thuẫn không thể điều hòa thì Nhà nƣớc xuất hiện để

thực hiện chức năng quản lý xã hội.

Cùng với sự phát triển của hợp tác, phân công lao động. Xã hội loài ngƣời

đã trải qua các cuộc cách mạng gắn liền với các hình thái kinh tế - chính trị - xã

hội. Trong mỗi tổ chức, quản lý đóng vai trò hết hợp sự nỗ lực chung của mỗi cá

nhân trong tổ chức và sử dụng các nguồn lực vật chất có đƣợc để đạt các mục

tiêu chung và mục tiêu riêng của từng thành viên tổ chức.

Các Mác đã tổng hợp và đƣa ra quan điểm về quản lý:“Mọi người lao động

trực tiếp trong xã hội hoặc lao động chung thực hiện trên quy mô tương đối lớn, ở

mức độ nhiều hay ít đều cần đến quản lý". Tóm lại, nguồn gốc ra đời của quản lý là

sự cần thiết kết hợp, phối hợp hoạt động giữa các cá nhân trong xã hội, giữa con

ngƣời với tự nhiên để mang lại lợi ích mong muốn cho cá nhân và toàn xã hội.

11

Con ngƣời đã thực hiện hoạt động quản lý từ xa xƣa, nhƣng quản lý ra đời

với tƣ cách là một ngành khoa học thì còn rất mới mẻ. Quản lý là một khái niệm

rộng bao gồm nhiều hoạt động trên các lĩnh vực khác nhau, tuy vậy vẫn có

những nội dung chung nhất phản ánh bản chất của hoạt động này. Quản lý gồm

hai quá trình đan xen vào nhau một cách chặt chẽ là: “Duy trì” và “Phát triển”.

Nếu ta chỉ quan tâm duy trì sự tồn tại của tổ chức thì khi môi trƣờng thay đổi, tổ

chức sẽ bị lạc hậu, trì trệ, đổ vỡ. Nếu chỉ lo thúc đẩy tổ chức phát triển mà

không quan tâm duy trì, thì tổ chức dễ gặp phải rủi ro trên bƣớc đƣờng phát triển

hoặc không có đủ điều kiện phát triển. Nhìn nhận tổng quát giúp cho các nhà

quản lý hoạch định đƣợc những kế hoạch, tiến trình hợp lý giúp cho tổ chức tồn

tại để phát triển hoặc phát triển trên cơ sở tồn tại.

Quản lý gắn liền với kinh tế - xã hội, đặc thù của mỗi tổ chức nên trên thực

tế đã có nhiều quan điểm khác nhau về hoạt động này. Những quan điểm này có

lịch sử ra đời khác nhau và gắn với mỗi tổ chức trong từng lĩnh vực:

- Theo F.W. Taylor: "quản lý là biết chính xác điều bạn muốn người

khác làm và sau đó biết được rằng họ đã thành công việc đó một cách tốt

nhất và rẻ nhất"

- Henry Fayol định nghĩa: "quản lý là một tiến trình bao gồm các khâu lập

kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo và kiểm tra các nỗ lực của mỗi thành viên trong tổ

chức và sử dụng tất cả các nguồn lực khác nhau của tổ chức nhằm đạt mục tiêu

đã định trước"

- Mary Parker Follett cho rằng: "quản lý là nghệ thuật đạt mục tiêu thông

qua con người".

- Có ý kiến cho rằng quản lý là hoạt động phối hợp các hoạt động chung

của một đoàn thể hợp tác; hay quản lý là điều khiển con ngƣời và sự vật nhằm

đạt mục tiêu đã định trƣớc.

Từ những quan điểm trên có thể tiếp cận một khái niệm mang tính tổng hợp

về quản lý nhƣ sau: “Quản lý là sự tác động có tổ chức, có định hướng của chủ

thể lên các khách thể nhằm đạt được mục tiêu định trước” [27,tr14]

Quản lý đƣợc cấu thành bởi các yếu tố sau:

12

- Chủ thể quản lý: là yếu tố tạo ra tác động quản lý trong mọi quá trình hoạt

động. Chủ thể quản lý có thể là cá nhân hay tổ chức. Chủ thể quản lý tác động

lên đối tƣợng quản lý bằng các công cụ với những phƣơng pháp thích hợp theo

guyên tắc nhất định phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của tổ chức.

- Khách thể quản lý: là yếu tố tiếp nhận sự tác động của chủ thể quản lý.

Khách thể quản lý có thể là những hành vi thực thể (cá nhân, tổ chức, sự vật hay

môi trƣờng...), nhƣng cũng có thể là mối quan hệ giữa các thực thể trong quá

trình vận động, tồn tại.

- Mục tiêu: là căn cứ để chủ thể quản lý phát ra các tác động quản lý, cũng

nhƣ lựa chọn các phƣơng pháp quản lý thích hợp. Chủ thể, khách thể quản lý

đều hƣớng tới mục tiêu quản lý, đó là cái đích cần đạt tới tại một thời điểm trong

tƣơng lai với những yêu cầu, nội dung... do chủ thể và khách thể đã thống nhất,

xác định từ trƣớc.

- Môi trƣờng quản lý: bao gồm môi trƣờng tự nhiên, kinh tế, chính trị, xã

hội... có ảnh hƣởng, tác động đến hoạt động quản lý, mục tiêu quản lý. Trong

các môi trƣờng khác nhau, chủ thể quản lý phải tìm kiếm, sử dụng các công cụ

quản lý, phƣơng pháp quản lý phù hợp. Môi trƣờng vừa đặt ra mục tiêu, vừa là

địa bàn, động lực cho mỗi tổ chức hoạt động. Đây là một yếu tố có tác động

quan trọng trong quản lý.

- Phƣơng pháp quản lý: Phƣơng pháp quản lý là tổng thể những cách thức

tác động của chủ thể quản lý tới đối tuợng quản lý trên cơ sở lựa chọn những

công cụ và phƣơng tiện quản lý phù hợp nhằm mang lại hiệu quả quản lý cao nhất

trong điều kiện môi trƣờng nhất định. Từ định nghĩa này có thể thấy nội hàm của

phƣơng pháp quản lý gồm thứ nhất là lựa chọn công cụ và phƣơng tiện quản lý

phù hợp, thứ hai là lựa chọn cách thức tác động của chủ thể tới đối tƣợng quản lý.

Phƣơng pháp quản lý có 4 đặc trƣng cơ bản: tính linh hoạt và sáng tạo; tính đa

dạng, phong phú; quan hệ hữu cơ với các nguyên tắc quản lý; là cơ sở cho việc

hình thành phong cách và nghệ thuật quản lý.

- Công cụ quản lý bao gồm: công cụ có tính quyền lực, công cụ có tính vật

chất và công cụ có tính phi vật chất. Mỗi một công cụ sẽ có những phƣơng pháp

13

quản lý khác nhau đi kèm tƣơng ứng với nó. Mỗi một đối tƣợng quản lý khác

nhau thì phải có công cụ tƣơng thích và phải đƣợc liên tục cải tiến để phù hợp với

những thời điểm khác nhau. Thứ nhất, căn cứ vào việc sử dụng công cụ quyền

lực, có thể phân chia thành 03 phƣơng pháp quản lý: phƣơng pháp quản lý chuyên

quyền, phƣơng pháp quản lý dân chủ và phƣơng pháp quản lý “tự do”.Thứ hai,

căn cứ vào việc sử dụng công cụ có tính vật chất, phƣơng pháp quản lý đƣợc phân

chia thành: phƣơng pháp quản lý bằng kinh tế, phƣơng pháp tổ chức - hành chính.

Thứ ba, căn cứ vào việc sử dụng công cụ có tính phi vật chất, phƣơng pháp quản

lý bao gồm: phƣơng pháp chính trị - tƣ tƣởng (phƣơng pháp tuyên truyền giáo

dục), phƣơng pháp tâm lý - xã hội.

Quản lý có mặt trong tất cả các lĩnh vực hoạt động, đời sống kinh tế - xã

hội nên khách thể, đối tƣợng quản lý rất đa dạng, phong phú. Các đối tƣợng có

thể tồn tại độc lập hoặc kết thành thực thể gắn liền với quá trình tồn tại và vận

động của các thực thể khác nhau.

Quản lý là hoạt động khách quan nảy sinh khi cần có sự nỗ lực của tập thể

để thực hiện công việc cụ thể nhằm đạt đƣợc mục tiêu chung. Quản lý diễn ra

với các quy mô, cấp độ của tổ chức khác nhau, từ nhỏ đến lớn từ đơn giản đến

phức tạp, trên tất cả các lĩnh vực đời sống kinh tế - chính trị - xã hội... trong đó

quản lý kinh tế - xã hội là lĩnh vực phức tạp hơn cả. Vì hoạt động này diễn ra

thƣờng xuyên, phong phú đa dạng, liên quan đến mọi tầng lớp trong xã hội, đến

mỗi cá nhân con ngƣời và các giá trị vô hình nhƣ phong tục tập quán, truyền

thống văn hóa – lịch sử của mỗi quốc gia, dân tộc. Vì vậy, để đạt đƣợc các mục

tiêu dự kiến trong quản lý cần phải kết hợp hài hòa, linh hoạt gắn liền với các

đặc điểm của môi trƣờng quản lý, đối tƣợng quản lý. Các hoạt động quản lý về

cơ bản đều hƣớng tới các mục tiêu sau:

- Tổ chức, phối hợp, điều hành, hƣớng dẫn hoạt động của các cá nhân trong

tổ chức thống nhất hành động để đạt đƣợc những mục tiêu chung.

- Kết hợp hài hòa lợi ích của từng cá nhân với lợi ích tập thể, trên cơ sở

phát huy nỗ lực cá nhân, tạo môi trƣờng và mọi điều kiện cho sự phát triển của

mỗi cá nhân, tôn trọng mục tiêu cá nhân, gắn kết giữa mục tiêu cá nhân với mục

14

tiêu chung của tổ chức nhằm duy trì sự tồn tại bền vững, thúc đẩy sự phát triển

của tổ chức.

- Tạo nên sự ổn định và tính thích ứng cao của tổ chức cả về nội dung và

hình thức trong môi trƣờng luôn biến động, đáp ứng các yêu cầu của cá nhân, tổ

chức và tiến trình phát triển của thời đại.

Từ mục tiêu là duy trì sự tồn tại và phát triển của tổ chức nhằm bảo vệ, đáp

ứng các nhu cầu, lợi ích của tổ chức và từng thành viên.

1.1.3 Vai trò của quản lý

- Tạo nên sự thống nhất ý trí, hành động giữa các cá nhân, các bộ phận

trong tổ chức. Đây là điều kiện tiên quyết đối với mọi họat động quản lý. Tuy

nhiên, sự thống nhất phải phù hợp với quy luật khách quan, phù hợp với nguyện

vọng của đại đa số thành viên trong tổ chức.

- Thông qua thực tiễn công tác quản lý, chủ thể quản lý xây dựng định

hƣớng, kế hoạch, mục tiêu ngắn hạn, trung hạn, dài hạn đối với tổ chức. Từ đó

tập trung, huy động mọi nỗ lực của các thành viên trong tổ chức, thống nhất ý

chí – hành động của cả hệ thống nhằm đạt đƣợc các mục tiêu xác định ở từng

thời kỳ.

- Quản lý có vai trò to lớn trong phối hợp, điều hòa các hoạt động của mỗi

thành viên, của các bộ phận trong tổ chức để vừa phát huy đƣợc thế mạnh, vừa

ngăn ngừa kiểm soát, loại bỏ những mâu mất ổn định của tổ chức trong quá trình

triển khai các hoạt động để đạt các mục tiêu đề ra của tổ chức.

- Để tổ chức hòa nhập với môi trƣờng xã hội, quản lý đã vận dụng nguyên

tắc hoạt động của các quy luật tồn tại trong môi trƣờng vào điều kiện cụ thể của tổ

chức từ đó hình thành cơ chế quản lý điều hành, thể chế tổ chức, tạo môi trƣờng

cho sự phát triển của tổ cức và mỗi thành viên trong từng thời kỳ phát triển.

- Quản lý còn là căn cứ để xác định chức năng, nhiệm vụ cụ thể cho mỗi

bộ phận, thành viên của tổ chức. Là cơ sở để mỗi thành viên nhận thức đƣợc vai

trò, trách nhiệm của mình về số lƣợng, chất lƣợng công việc đƣợc phân công.

- Trên cơ sở nắm bắt thực trạng, bố trí nhân sự và công cụ lao động phù

hợp với trình độ chuyên môn và năng lực của mỗi thành viên, để họ phát huy

15

đƣợc tài năng trên cơ sở chuyên môn hóa nhằm hoàn thành công việc đƣợc giao

tốt nhất.

- Phối hợp, điều tiết nhịp nhàng các bộ phận trong tổ chức, để các bộ phận

ngoài việc hoàn thành các nhiệm vụ của mình vừa trợ giúp, phối hợp, thúc đẩy

các bộ phận khác cùng hoàn thành tốt các nhiệm vụ, mục tiêu chung của tổ chức.

- Hiệu quả của quản lý duy trì sự tồn tại của tổ chức, thông qua đó đóng

góp cho toàn xã hội. Đồng thời, củng cố địa vị của tổ chức dựa trên quy mô tổ

chức, chất lƣợng – số lƣợng các hoạt động của tổ chức trong cung cấp các dịch

vụ, sản phẩm đối với xã hội.

1.2. Hoàn cảnh ra đời tƣ tƣởng quản lý của Khổng Tử

1.2.1. Bối cảnh lịch sử Trung Quốc thời Khổng Tử

Miền Bắc Trung Quốc cổ đại có hai dòng sông nhỏ: sông Thù và sông Tứ

chảy qua khúc dụ. Đó là nơi chôn rau cắt rốn của Y Doãn; nơi có lăng của Thiếu

Hạo, có miếu của Chu Công; nơi Khổng Tử mở mắt chào đời, sinh sống thời thơ

ấu, giảng dạy lúc trƣởng thành cho đến lúc tuổi già, sức yếu, yên nghỉ khi đã lìa

đời. Bởi vậy nên nói đến dòng sông Thù, sông Tứ tức là ám chỉ Khổng học,

Khổng môn.

Nhìn bản đồ địa lý Trung Hoa, ta thấy có hai phần rõ rệt:

Một là phần cao nguyên rừng núi, nơi xƣng hùng, xƣng bá của các nƣớc

Tấn, Tần, Tề, Sở.

Hai là phần đồng bằng, chỉ có những nƣớc nhỏ: Vệ, Trần, Tống, Trịnh, Lỗ

- quê hƣơng của Khổng Tử…Nhƣng nơi đây lại quy tụ nền văn minh tinh thần

Trung Hoa.

Nhìn toàn bản đồ địa lý Trung Hoa cổ đại, ta thấy thực là “giang sơn riêng

chiếm một cảnh trời”. Phía Đông là biển cả. Phía Bắc là Hoàng Hà chín khúc

cuồn cuộn chảy, dãy Thái Hằng tuyết phủ mây che. Xa hơn là sa mạc Gobi với

cát phủ quanh năm. Phía Tây là Tần Lĩnh và Côn Lôn, hai dãy núi điệp trùng

hiểm trở. Phía Nam là dãy Hi - mã - lạp sơn hùng vĩ nhƣ bức trƣờng thành ngăn

cách Trung Hoa với các nƣớc miền Nam nhƣ Ấn Độ, Tây Tạng…Vì địa hình, vị

16

trí cách trở Trung Quốc cổ đại rất khó có thể liên lạc, giao lƣu với các nƣớc khác

trong và ngoài khu vực.

Với tính cách là một hình thái ý thức xã hội, sự phát sinh và phát triển của

tƣ tƣởng triết học Trung Quốc cổ đại gắn liền với hoàn cảnh đất nƣớc, gắn với

quá trình biến đổi của điều kiện kinh tế, xã hội cùng sự phát triển của khoa học

Trung Quốc đƣơng thời.

Về chính trị, cùng với Ấn Độ, Trung Quốc là trung tâm văn hóa và triết

học cổ xƣa, rực rỡ, phong phú nhất của nền văn minh phƣơng Đông - chiếc nôi

lớn của nền văn minh nhân loại. Với tính cách là một hình thái ý thức xã hội, sự

phát sinh và phát triển của tƣ tƣởng triết học Trung Quốc cổ đại gắn liền với quá

trình biến đổi của điều kiện kinh tế, xã hội cùng sự phát triển của khoa học

Trung Quốc đƣơng thời.

Nho giáo ra đời vào thời Xuân thu - Chiến quốc, là thời kỳ chính trị có

nhiều biến động. Suốt thời Xuân thu, mệnh lệnh của “thiên tử” nhà Chu không

còn đƣợc tuân thủ, trật tự lễ nghĩa, cƣơng thƣờng đảo lộn, đạo đức suy đồi. Nạn

chƣ hầu chiếm ngôi “thiên tử’’ đại phu lấn quyền chƣ hầu, tôi giết vua, cha giết

con, anh hại em, vợ hại chồng thƣờng xuyên xảy ra. Các nƣớc chƣ hầu đua nhau

động binh gây chiến tranh thôn tính lẫn nhau hết sức khốc liệt. Trong khoảng 295

năm thời Xuân thu thì đã xảy ra 483 cuộc chiến tranh. Những nƣớc chƣ hầu đang

dần lớn mạnh và tranh nhau làm bá thiên hạ. Trong số những nƣớc hùng mạnh

nhất thời bấy giờ chỉ có năm nƣớc gọi là cục diện “Ngũ bá”, gồm Tề, Tấn, Tần,

Sở, Tống. Cuối Xuân thu, có thêm Ngô và nƣớc Việt. Do chiến tranh xảy ra liên

miên, dân đã nghèo khổ lại càng thêm nghèo khổ, nhiều nơi “thây ngƣời chết đầy

đƣờng”.

Về kinh tế, trong thời kỳ Xuân thu, việc sử dụng công cụ sản xuất bằng sắt và

dùng bò kéo cày đã khá phổ biến, tạo điều kiện cho việc khai khẩn đất hoang, hoàn

thiện kỹ thuật canh tác ruộng đất và kỹ thuật “dẫn thủy nhập điền”, góp phần nâng

cao năng suất lao động trong nông nghiệp. Thủ công nghiệp đã có bƣớc phát triển

mới, đặc biệt ở sự phân công lao động và chuyên môn hóa sản xuất, tạo ra một loạt

ngành nghề mới bên cạnh ngành nghề cổ truyền, nhƣ nghề luyện kim, nghề đúc và

17

rèn sắt, nghề mộc, nghề xây, nghề thuộc da, nghề nhuộm, nghề làm đồ gốm. Cùng

với sự phát triển của nông nghiệp, thủ công nghiệp và thƣơng nghiệp cũng ngày

càng phát triển hơn.

Đến thời Chiến quốc kinh tế đã phá triển mạnh. Nghề luyện sắt hƣng

thịnh, đồ dùng bằng sắt phổ biến rộng rãi, đặc biệt là các công cụ nhƣ lƣỡi cày,

quốc, rìu, dao… Đô thành các nƣớc và một số thành ấp lập bên những đƣờng

giao thông trọng yếu trở thành những trấn đô lớn. Thủy lợi và kỹ thuật canh tác

trong nông nghiệp vì thế càng phát triển. Các công trình thủy lợi đƣợc xây dựng

khắp nơi từ lƣu vực Hoàng Hà đến Trƣờng Giang, từ bờ biển phía Đông đến

vùng Tứ Xuyên. Kéo theo đó là sự phát triển của các nghề thủ công nhƣ luyện

kim, đồ gốm, nghề chạm bạc, nghề dệt lụa. Tiền tệ bằng kim loại thịnh hành.

Về văn hóa, ngoài những thể chế, lễ nghi, tế tự, thời Chu đã cải chữ viết,

dùng thẻ tre tiện hơn mai rùa và xƣơng thú để nghi những điều muốn nhớ vừa dễ

khắc, vừa dễ sắp đặt (khoét lỗ trên thẻ, dùng dây da xỏ thành từng bó - từng

quyển); sau họ biết dùng cây nhọn nhúng vào sơn viết lên thẻ tre hoặc lụa, dễ và

mau hơn khắc nhiều. Nhờ vậy mà Nhà chu và chƣ hầu nào cũng có quan chép sử

của triều đình.

Về xã hội, ngay thời Xuân thu, trên cơ sở phát triển của sức sản xuất xã

hội, đất do nông dân vỡ hoang trở thành ruộng tƣ ngày càng tăng thêm. Bọn quý

tộc có quyền thế chiếm đoạt ruộng đất công ngày càng nhiều. Chế độ sở hữu tƣ

nhân về ruộng đất hình thành. Đến thời Chiến quốc, do chiến tranh giữa các

nƣớc liên tục xảy ra trên quy mô lớn đã làm cho đời sống nhân dân ngày càng

khổ hơn, trật tự xã hội đảo lộn, long dân ly tán. Mạnh tử đã viết: “Đánh nhau

tranh giành, thì giết ngƣời thây chết đầy thành; đánh nhau giành đất, thì giết

ngƣời thây chết đầy đồng”. (“Mạnh Tử”, Ly Lâu thƣợng, 14). Do có chế độ mua

bán ruộng đất tự do nên bọn quý tộc, thƣơng nhân giàu có đã chiếm đƣợc nhiều

ruộng đất của nông dân, trở thành những địa chủ lớn, chúng chuyển sang hình

thức thuê mƣớn công nhân và cho phát canh thu tô. Quan hệ sản xuất phong

kiến nông nô dần dần chiếm ƣu trong đời sống xã hội.

Chính trong thời đại lịch sử biến chuyển sôi động đó đặt ra một loạt những

18

vấn đề xã hội và triết học mới, buộc các nhà tƣ tƣởng phải quan tâm lý giải, làm

nảy sinh một loạt các trƣờng phái triết học đa dạng trong đó có Nho giáo.

1.2.2. Điều kiện kinh tế xã hội của Trung Quốc cổ đại

Trung Quốc cổ đại kéo dài từ thế kỷ XXI trƣớc công nguyên đến cuối thế

kỷ III trƣớc công nguyên, với sự kiện Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Quốc

lập ra nhà Tần – nhà nƣớc phong kiến trung ƣơng tập quyền, chấm dứt cảnh

phân tán, tranh giành giữa các nƣớc chƣ hầu.

Lịch sử Trung Quốc cổ đại đƣợc chia làm ba thời kỳ tƣơng xứng với ba

triều đại: Hạ, Thƣơng (Ân), Chu:

- Hạ: (Khoảng thế kỷ XXI đến thế kỷ XVI trƣớc công nguyên): Dù cho Vũ

(con vua Nghiêu, đƣợc vua Thuấn nhƣờng ngôi) chƣa xƣng vƣơng, nhƣng là

ngƣời đặt cơ sở cho nhà Hạ. Thời kỳ này, Trung Quốc chƣa có chữ viết, chỉ biết

đồng đỏ. Sau bốn thế kỷ tồn tại, đã diệt vong và không để lại nhiều chứng tích cụ

thể dƣới thời vua Kiệt – bạo chúa nổi tiếng đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc.

- Thƣơng (còn gọi là Ân, từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XII trƣớc công

nguyên): Thang là ngƣời tiêu diệt vua Kiệt lập ra nhà Thƣơng. Thời kỳ này

Trung Quốc đã biết sử dụng đồng thau, chữ viết ra đời, nông lịch ra đời, tính

đƣợc thủy triều... Nhà Thƣơng, giới quý tộc giữ vai trò thống trị và cho rằng đây

là trời định, nhà vua là thiên tử, quản lý quốc gia theo mệnh trời.

- Chu (thế kỷ XI đến thế kỷ III trƣớc công nguyên): Văn vƣơng đã tiêu

diệt vua Trụ - bạo chúa nhà Thƣơng lập lên nhà Chu. Trong hơn tám thế kỷ tồn

tại, nhà Chu đƣợc chia làm hai thời kỳ: Tây Chu và Đông Chu. Từ khi thành

lập đến năm 771 TCN nhà Chu đóng kinh đô ở Cảo Kinh, phía tây nên gọi là

Tây Chu. Ở thời kỳ này Trung Quốc tƣơng đối ổn định. Từ năm 771 TCN, nhà

Chu rời kinh đô về Lạc Ấp ở phía Đông nên gọi là Đông Chu. Thời kỳ Đông

Chu lạ chia làm hai giai đoạn: Xuân Thu (772 – 481 TCN) và Chiến Quốc

(403-221TCN).

Thời kỳ Đông Chu là giai đoạn chuyển biến từ chế độ chiếm hữu nô lệ

sang chế độ phong kiến. Đồ sắt ra đời và đƣợc sử dụng rộng rãi, tạo nên cuộc

cách mạng về công cụ sản xuất. Hệ thống thủy lợi đƣợc quan tâm, phát triển tạo

19

điều kiện cho nông dân trồng cấy hai vụ lúa. Nhà Chu khuyến khích khai hoang,

khẩn hóa, mở rộng đất canh tác, chế tác kim loại, khai khoáng, làm muối, làm

thủy tinh, các nghề thêu dệt thủ công, đan lát... xuất hiện các trung tâm mua bán,

đô thị, hệ thống giao thông đƣợc mở rộng. Thời kỳ ấy đòi hỏi phải xây dựng lại

cách thức tổ chức quản lý để ổn định trật tự xã hội, xây dựng xã hội thịnh

vƣợng, cứ vớt thiên hạ khỏi khổ đau.

Trong xã hội, bên cạnh giai cấp quý tộc, nông dân, thợ thủ công, nô lệ

xuất hiện thêm hai giai tầng mới là địa chủ và thƣơng nhân. Khi nhà Chu còn

thịnh vƣợng, thì đất đai thuộc sở hữu nhà vua. Vào thời kỳ Chiến Quốc , phần

lớn đất đai nằm trong tay tầng lớp địa chủ. Tài sản đã phân hóa xã hội thành hai

giai cấp sang hèn, đạo đức xã hội suy thoái, đảo lộn... Tình cảnh tôi giết vua, con

giết cha, vợ giết chồng... trở nên phổ biến, thời đại “lễ hư, nhạc hỏng”. Nhân

dân đói khổ vì chiến tranh, vì bị áp bức bóc lột nặng nề.

Trong xã hội xuất hiện tầng lớp trí thức mới, họ không trị nƣớc mà bàn

luận việc nƣớc, hình thành nhiều học thuyết, trƣờng phái tƣ tƣởng – triết học –

chính trị - xã hội khác nhau, hoạt động sôi nổi gọi là phong trào “bách gia chư

tử” (bách gia tranh minh, chƣ tử hƣng khởi). Các học thuyết, tƣ tƣởng, trƣờng

phái đều hƣớng vào việc giải quyết những vấn đề thực tiễn chính trị - đạo đức

của xã hội. Đây là nét đặc trƣng tiêu biểu cho các học thuyết chính trị xã hội

Trung Quốc cổ đại.

Sống trong một xã hội nông nghiệp, sản xuất kém phát triển vào cuối đời

Xuân Thu, đầy cảnh “đại loạn” và “vô đạo”, bản thân đã từng làm nhiều nghề

“bỉ lậu” rồi làm quan cai trị, Khổng Tử nhận thức đƣợc nhu cầu về hoà bình, ổn

định, trật tự và thịnh vƣợng của xã hội và mọi thành viên. Khổng Tử là một

ngƣời “nhập thể” và luôn trăn trở với chuyện quản lý của xã hội theo cách tốt

nhất. Song, ông không phải là một nhà cách mạng từ dƣới lên, ông chỉ muốn

thực hiện những cải cách xã hội từ trên xuống, bằng con đƣờng “Đức trị”.

Xã hội lý tƣởng mà Khổng Tử muốn xây dựng là một xã hội phong kiến

có tôn ti, trật tự. Từ Thiên Tử tới các chƣ hầu lớn nhỏ, từ quý tộc tới bình dân, ai

có phận nấy, đều có quyền lợi và nhiệm vụ sống hoà hảo với nhau, giúp đỡ

20

nhau, nhất là hạng vua chúa, họ phải có bổn phận dƣỡng dân- lo cho dân đủ ăn

đủ mặc, và bổn phận giáo dân bằng cách nêu gƣơng và dậy lễ, nhạc, văn, đức,

bất đắc dĩ mới dùng hình pháp. Xã hội đó lấy gia đình làm cơ sở và hình mẫu,

trọng hiếu đễ, yêu trẻ, kính giá. Mọi ngƣời đều trọng tình cảm và công bằng,

không có ngƣời quá nghèo hoặc quá giàu; ngƣời giàu thì khiêm tốn, giữ lễ,

ngƣời nghèo thì “lạc đạo”. Dù sao thì ý tƣởng trên cũng đƣợc cả hai giai cấp

bóc lột và bị bóc lột thời đó dễ chấp nhận hơn, dễ thực hiện hơn so với hình mẫu

xã hội vô chính phủ “ngu si hưởng thái bình” của Lão Tử và mẫu “quốc cường

quân tôn” bằng hình phạt hà khắc và lạm dụng bạo lực của phái pháp gia.

Cái “cốt” lý luận để xây dựng xã hội trên, cái giúp cho các nhà cai trì lập lại trật

tự từ xã hội vô đạo chính là đạo Nho – đạo Nhân của Khổng Tử. Cho nên, dù có

nói về chính trị, giáo dục hay đạo đức thì Khổng Tử đều xuất phát từ vấn đề

nhân sự và mục đích của ông chính là xây dựng một xã hội nhân bản.

Học thuyết của ông gần gũi với cuộc sống đời thƣờng, đi sâu vào phân

tích cách đối nhân xử thế và trách nhiệm của mỗi cá nhân đối với ngƣời xung

quanh. Học thuyết của ông có thể đƣợc minh họa qua những nguyên tắc sau:

Thứ nhất, học thuyết Khổng Tử đi vào việc nghiên cứu tính bền vững của

xã hội. Theo ông chỉ có thể duy trì tính bền vững này một khi giữa những cá

nhân có mối quan hệ theo đẳng cấp rõ ràng. Do vậy, những nhà quản lý cấp thấp

phải thể hiện sự tôn trọng và tuân phục với nhà quản lý cấp cao (quân xử thần

tử, thần bất tử bất trung).

Thứ hai, gia đình là nguyên mẫu của tất cả tổ chức trong xã hội. Do đó,

mỗi cá nhân phải tìm cách duy trì sự phát triển hài hòa của tổ chức bằng cách

cho phép những ngƣời khác bộc lộ bản chất của mình nhƣ phẩm chất, lòng tự

trọng và uy tín, đặc biệt trong công việc (tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ).

Thứ ba, mọi ngƣời phải đối xử với nhau nhƣ chính bản thân mình. Do

vậy, những nhà quản lý cấp cao phải khuyến khích các nhân viên cũng nhƣ các

nhà quản lý cấp trung gian nâng cao kiến thức và kỹ năng nhằm thúc đẩy sự tiến

bộ của toàn tổ chức.

Cuối cùng, mỗi cá nhân trong cuộc sống phải có trách nhiệm học tập mở

21

mang kiến thức, làm việc chăm chỉ, không hoang phí, rèn luyện đức kiên nhẫn

và giữ gìn những giá trị truyền thống của xã hội.

1.2.3. Vài nét về cuộc đời và sự nghiệp của Khổng Tử

- Về cuộc đời của Khổng Tử

Cuộc đời của Khổng Tử đƣợc chép một cách kỹ lƣỡng trong bộ Sử ký của

Tƣ Mã Thiên, từ đó giúp chúng ta có thể có một cái nhìn đầy đủ, chi tiết, rõ ràng

về nhà giáo dục lỗi lạc của nhân loại

Khổng Tử (551 - 479 TCN) họ Khổng, tên Khâu, tự Trọng Ni, sinh ngày 27

tháng 8 âm lịch năm Canh Tuất, đời vua Châu Linh Vƣơng năm thứ 21 nhà Chu,

tƣơng ứng với đời vua Lỗ Tƣơng Công năm thứ 22, tại làng Xƣơng Bình, huyện

Khúc Phụ, nƣớc Lỗ (nay là tỉnh Sơn Đông nƣớc Trung Quốc).

Theo truyền thuyết, thủy tổ của ông là Vi Tử thấy anh là vua Trụ tàn bạo,

hoang dâm nên can ngăn nhƣng không đƣợc, vì vậy ông đã bỏ nƣớc mà đi để

bảo tồn dòng họ, nên Võ Vƣơng sau khi diệt Trụ rồi phong Vi Tử làm Tống

Hầu. Không rõ tới đời thứ mấy (10 hay 12), họ Khổng phải trốn sang nƣớc Lỗ,

từ đó suy ra, Khổng Tử là đời thứ 15.

Cha Khổng Tử là Thúc Lƣơng Ngột làm một chức quan nhỏ ở nƣớc Lỗ,

ông có phẩm nhất của võ quan và là ngƣời dũng cảm. Tinh thần thƣợng võ và

chiến công của Lƣơng Thúc Ngột đã đƣợc ghi trong Tả truyện, Tuyên công năm

thứ 10 (563 TCN). Võ quan Thúc Lƣơng Ngột, có sách chép là ngƣời đƣợc

mang chức quan đại phu nhƣng có sách lại nghi ngờ.

Khúc Lƣơng Ngột giã từ binh khí khoảng tuổi 63. Cuộc sống gia đình

theo tiêu chuẩn bình giá lúc bấy giờ cần phải làm nhiều việc. Ông mơ ƣớc có

ngƣời kế thừa, tiếp tục giƣơng cao vinh quang của họ Khổng nhƣng bà vợ trƣớc

của ông sinh toàn con gái, tất cả là chín ngƣời. Vì vậy, ông phải đi lấy thiếp.

Ngƣời thiếp này sinh cho ông một ngƣời con trai tên là Mạnh Bì nhƣng lại bị tàn

tật. Cách đặt tên Mạnh (con đầu) nhƣ thế đã thể hiện đƣợc quyết tâm sinh con

nữa để nối dõi tông đƣờng. Ông mơ ƣớc có một ngƣời con trai nối dõi khỏe

mạnh. Tất nhiên với địa vị võ quan nhƣ ông, ông có thể lấy bất kì ai. Song ông

không vội. Ông để mắt vào một gia đình quyền quý họ Nhan có ba cô con gái

22

đến tuổi lấy chồng ở đất Khúc Phụ. Ngƣời ta đồn rằng hai cô đầu đã từ chối,

song hỏi đến cô thứ ba thì lập tức cô đồng ý ngay. Cuộc hôn nhân này đƣợc Sử

ký gọi là “dã hợp”, chữ này nên đƣợc hiểu là cuộc hôn nhân của một ngƣời quá

già với một ngƣời quá trẻ, không hợp với chuẩn mực thông thƣờng. Trên thực

tế, cuộc hôn nhân của Thúc Lƣơng Ngột và Nhan thị là cuộc hôn nhân chính

thức, có cƣới xin.

Thúc Lƣơng Ngột muốn con khỏe mạnh, hai ngƣời đã đi cầu tự ở núi Ni

Khâu. Gò cầu tự nằm ở phía đông nam, cách Khúc Phụ 30 km. Lòng thành của họ

đã cảm động trời đất. Ngày 27 tháng 8 năm Tƣơng Công thứ 22 (tức năm 551

TCN), Khổng Tử đã cất tiếng khóc chào đời.

Khổng Tử sinh trƣởng theo lẽ tự nhiên nhƣ mọi ngƣời, nhƣng vì Khổng

Tử là một bậc giáo tổ, hậu thế mới đặt ra những câu chuyện huyền bí nói rằng,

trƣớc khi sinh ra Khổng Tử, bà Nhan thị thấy con kỳ lân nhả tờ ngọc thƣ có chữ

đề rằng: “Thủy tinh chi tử, kế suy Chu vi tố vƣơng: con của thủy tinh, nối nhà

Chu đã suy mà làm vua không ngôi”. Bà Nhan thị thấy vậy, lấy dây lụa buộc

vào sừng con kỳ lân. Đƣợc mấy ngày thì con kỳ lân đi mất. Đến khi sinh Khổng

Tử có hai con rồng xuống quấn chung quanh nhà và có năm ông lão là năm vị

sao trên trời xuống đứng dƣới sân. Ở trong phòng bà Nhan thị nghe trên trời có

âm nhạc và có tiếng nói rằng: “Thiên cảm sinh thánh: Trời cảm lòng cầu nguyện

cho sinh ra con thánh”. Những chuyện ấy tuy là chuyện ngƣời đời sau bịa đặt ra,

nhƣng cũng là cái bằng chứng rõ là ngƣời đời ƣa sự quái lạ, nhất là những ngƣời

đã làm nên công nghiệp lớn, hoặc đã sáng lập ra tông giáo nào, đều có chuyện lạ

để làm cho cái phẩm giá khác ngƣời thƣờng. Tuy nhiên, khi Khổng Tử mới

đƣợc 2 năm 3 tháng thì cha đã qua đời.

Cha mất, bao nhiêu khó khăn dồn lên vai ngƣời mẹ trẻ. Bà quả phụ họ

Nhan thậm chí không đƣợc ôm vào quan tài của chồng và bà cho đến lúc chết

cũng không biết mộ chồng ở chỗ nào. Không khí gia đình không cho phép có

những điều kiện tối thiểu để chăm sóc đứa bé mới hơn hai năm tuổi. Trong hoàn

cảnh khó khăn nhƣ vậy, Nhan thị đã bồng bế con trở về Khúc Phụ. Nhờ vào sự

tần tảo, chăm làm, nhẫn lại của ngƣời mẹ mà hai mẹ con đã vƣợt qua những khó

23

khăn tƣởng chừng không vƣợt qua nổi. Chính trong cuộc sống khó khăn nhƣng

đầy tinh thần vƣơn lên ấy, Khổng Tử đã tiếp thu đƣợc lối giáo dục tiến bộ của mẹ

mình.

Những trò mà ngày nhỏ Khổng Tử hay chơi là “bày các khay để cúng và

chơi trò tế lễ” nhƣ Tƣ Mã Thiên đã ghi trong Sử ký. Những trò chơi này vừa

thích ứng với tính hiếu động của trẻ vừa có tác dụng giáo dục, hƣớng dẫn các

hành vi cho trẻ.

Năm 15 tuổi, Khổng Tử dốc chí vào học. Học để có kiến thức, có tƣ cách,

làm vốn liếng cho cuộc đời khát khao vi chính của mình. Năm 17 tuổi, mẹ

Khổng Tử qua đời (năm 30 tuổi). Khổng Tử cần mai tang mẹ bên cha. Nhƣng

nơi chôn cha ở đâu, thì không ai chỉ cho. Khổng Tử phải chôn tạm mẹ ở con

đƣờng Ngũ Phụ. Sau đó, mẹ của Vãn Phụ ngƣời đất Trâu nói cho Khổng Tử nơi

mộ cha, cho nên về sau Khổng Tử mới hợp táng cả cha mẹ ở núi Phòng Sơn

cách Khúc Phụ 9 km. Năm 19 tuổi, Khổng Tử thành gia lập thất, rồi ra nhận

chức Uỷ lại coi sự gạt thóc ở kho, sau lại làm Tƣ chức lại coi việc nuôi bò dê để

dùng về việc cúng tế. Tuy Khổng Tử còn trẻ tuổi, nhƣng đã nổi tiếng là ngƣời

giỏi, cho nên quan nƣớc Lỗ là Trọng Tôn Cồ cho hai con là Hà Kị và Nam Cung

Quát theo Khổng Tử học lễ. Năm sau vợ ông sinh con trai đặt tên là Lý, tự là Bá

Ngƣ. Sau này vợ ông còn sinh một ngƣời con gái nữa và gả cho Công Dã Tràng

là một môn sinh.

Khổng Tử là ngƣời học theo Nho thuật cho nên Khổng Tử rất chú ý về

mặt lễ nghi và những phép tắc của những đế vƣơng đời trƣớc. Năm 28, 29 tuổi

Khổng Tử đi học ở Lạc Ấp là chỗ kinh sƣ nhà Chu nhƣng vì đƣờng xa, tiền lộ

phí mất nhiều nên không đi đƣợc. Sau học trò Ngài là Nam Cung Quát đem việc

ấy bẩm với Lỗ hầu, là vua nƣớc Lỗ. Lỗ hầu cho một cỗ xe hai con ngựa và

những ngƣời hầu hạ đƣa ngƣời đi.

Ở Lạc Ấp có nhà Minh Đƣờng của Chu Công lập ra để chứa những luật lệ

và những bảo vật cùng các hình tƣợng của các thánh hiền đời trƣớc. Khổng Tử

đến đó khảo cứu mọi việc và đi xem những chế độ ở nơi miếu đƣờng cùng

những nơi tế Giao, tế Xã. Và ở đâu có việc gì quan hệ đến sự tế lễ là Ngài cũng

24

đi xem xét rất tƣờng tận. Khổng Tử đi hỏi lễ Lão Tử, hỏi nhạc Trành Hoằng.

Sách sử ký của Tƣ Mã Thiên chép rằng: “Khổng Tử đến hỏi Lão Tử về lễ, Lão

Tử đáp rằng: ngƣời quân tử gặp thời thì đi xe, không gặp thời thì đội nón lá mà

đi chân. Ta nghe: ngƣời buôn bán giỏi, khéo chứa của, coi nhƣ ngƣời không có

gì; ngƣời quân tử có đức tốt, coi diện mạo nhƣ sắc dục và dâm chí đi; những cái

ấy đều vô ích cho ông”. Khổng Tử về bảo các đệ tử rằng: “Chim thì ta biết nó

bay đƣợc, cá thì ta biết nó lội đƣợc, giống thú thì ta biết nó chạy đƣợc. Chạy,

bay, lội, ta có thể chăng lƣới mà bắt đƣợc, đến nhƣ con rồng hì ta không biết nó

cƣỡi gió, cƣỡi mây bay lên trời lúc nào. Hôm nay ta thấy Lão Tử nhƣ rồng vậy:

Ngô kim nhật kiến Lão Tử, kỳ do long tà.

Khổng Tử ở Lạc Ấp đƣợc ít lâu rồi trở về nƣớc Lỗ. Từ đó sự học của

Khổng Tử rộng hơn trƣớc và số lƣợng học trò theo học Khổng Tử ngày càng

nhiều. Nhƣng vua nƣớc Lỗ vẫn không dùng Khổng Tử. Đƣợc mấy năm trong

nƣớc có loạn, Khổng Tử bỏ sang nƣớc Tề. Vua nƣớc Tề là Tề hầu đón Khổng

Tử đến hỏi việc chính trị. Khổng Tử nói chuyện vừa ý Tề hầu. Tề hầu định lấy

đất Ni Khê mà phong cho Khổng Tử, nhƣng quan đại phu nƣớc Tề là Yến Anh

không thuận, can ngăn Tề hầu không cho. Khổng Tử thấy vậy lại bỏ nƣớc Tề trở

về nƣớc Lỗ. Lúc này Khổng Tử đã 35, 36 tuổi, Khổng Tử về nƣớc nhà dạy học

trò và suy xét cho tƣờng tận “chữ” của thánh hiền đời trƣớc.

- Về sự nghiệp của Khổng Tử

Theo sách Khuyết lý, Khổng Tử là ngƣời cao lớn, có tƣớng ngũ lộ là: mắt

lồi, lỗ mũi rộng, lộ hầu, tai bạt, hở răng. Mặt to và có những vạch nhƣ quả dƣa

chín. Bàn tay hổ, ngực rùa, râu rậm, mồm rộng, miệng nói tƣơi, đi nhanh.

Khổng Tử là ngƣời ôn hòa, nghiêm trang và kính cẩn. Sách Luận ngữ

chép rằng: “Tử ôn nhi lệ, uy nhi bất mãnh, cung nhi an: Phu tử hòa mà nghiêm,

uy mà không dữ, kính cẩn mà an vui tự nhiên” (Thuật nhi, VII). Khổng Tử là

ngƣời rất thông minh, luôn luôn ham học. Bất cứ việc gì, Ngài cũng để ý xem

xét rất kỹ lƣỡng để biết cho cùng tận mới thôi. Tính Khổng Tử ôn hòa, nghiêm

trang, khiêm tốn, làm việc gì cũng hết sức cẩn thận, đề cao lễ nhạc, luôn luôn tin

vào Thiên mệnh.

25

Năm 15 tuổi, Khổng Tử bắt đầu sự nghiệp học vấn của mình. Năm 20

tuổi, Khổng Tử làm chức quan lại cho nhà họ Quý, một quý tộc có quyền hành

nhất ở nƣớc Lỗ thời đó. Mới đầu ông coi việt gạt thóc, sau coi giữ cừu và giữ bò

để dùng trong những tang lễ, nổi tiếng là siêng năng, liêm khiết. Năm 30 tuổi tức

là năm 20 đời Lỗ Chiêu Công (522 TCN). Năm ấy, vua Cảnh Công nƣớc Tề

cùng tƣớng quốc Án Anh sang nƣớc Lỗ. Khổng Tử đã có cơ hội gặp vua Cảnh

Công nƣớc Tề để nói chuyện về chính sự. Qua cuộc nói chuyện này, Khổng Tử

có cơ hội thử nghiệm những điều mình đang nung nấu về con đƣờng trị nƣớc an

dân và khả năng hiện thực hóa nó. Những nung nấu đó thể đƣợc tin dùng, thực

hiện khi đƣợc một vị vua sáng chú ý tới. Tuy nhiên, vua Tề cũng không thu nhận

Khổng Tử vào bộ máy của ngƣời Tề. Năm 35 tuổi tức năm 25 đời vua Lỗ Chiêu

Công (517 TCN) thì trong nƣớc Lỗ có loạn lớn. Sự việc bắt đầu bằng việc Quý

Bình Tử vì việc chọi gà mà mắc lỗi với Lỗ Chiêu Công. Lỗ Chiêu Công đem

binh đánh Quý Bình Tử. Quý Bình Tử cùng họ Mạnh và Thúc Tôn hợp lực đánh

Lỗ Chiêu Công. Lỗ Chiêu Công thua chạy sang Tề. Vua Tề cho Lỗ Chiêu Công

ở ấp Can Hầu.

Sau khi sự kiện này xảy ra, Khổng Tử cũng sang Tề và làm gia hầu cho

quan đại phu nƣớc Tề là Cao Chiêu Tử. Ông hy vọng sẽ có cơ hội để yết kiến

vua Tề Cảnh Công và cuối cùng Khổng Tử đã gặp đƣợc vua Tề để nói chuyện

liên quan đến vấn đề Vi chính.

Khổng Tử sống hơn hai năm ở nƣớc Tề, từ mùa đông năm thứ 25 đến

mùa đông năm thứ 27 đời Lỗ Chiêu Công (517 đến 515 TCN), rồi lại trở về

nƣớc Lỗ.

Năm 37 tuổi, Khổng Tử trở về nƣớc Lỗ. Từ đây bắt đầu một giai đoạn

trong cuộc đời của Khổng Tử mà giai đoạn này đến tận năm 501 TCN, năm

Khổng Tử 51 tuổi vua nƣớc Lỗ cho ông làm quan Trung đô tể tức nhƣ quan kinh

thành phủ doãn ngày nay. Cách một năm thì cải chức làm quan Đại tƣ khấu, tự

hồ bây giờ là quan Hình bộ Thƣợng thƣ. Khổng Tử đặt ra luật lệ để cứu giúp kẻ

nghèo khổ, lập ra phép tắc, định rõ việc tống tang ngƣời chết. Lớn nhỏ phân biệt

trai gái, không lẫn lộn, ngƣời đi ngoài đƣờng thấy của rơi không nhặt, kẻ gian

26

phi không có, hình pháp đặt ra không hề dùng đến.

Khổng Tử làm Đại Tƣ Khấu đƣợc bốn năm thì vua nƣớc Lỗ cất nhắc lên

Nhiếp Tƣớng Sự, nghĩa là cho ông quyền nhiếp việc chính sự trong nƣớc.

Khổng Tử cầm quyền đƣợc bảy ngày thì tâu với vua Lỗ xin giết gian thần là

Thiếu Chính Mão để chỉnh đốn quốc sách.

Khổng Tử cùng các học trò đi qua các nƣớc: Vệ, Khuông, Trần, Tống,

Thái, Sở, để mong thuyết phục các vua chƣ Hầu chịu đem cái Đạo của Khổng

Tử ra ứng dụng để đem lại thái bình thịnh trị cho dân chúng. Nhƣng cái Đạo của

ông là Vƣơng Đạo nên đi ngƣợc ý đồ Bá Đạo của các vua chƣ Hầu và quyền lợi

của các quan Đại phu nên các vua chƣ Hầu đều không dám dùng ông.

Rốt cuộc, sau 14 năm đi chu du các nƣớc không thành công, Khổng Tử

phải trở về nƣớc Lỗ, có quan Đại Phu Quý Khang Tử sai Công Hoa ra đón

Khổng Tử. Phu nhân của Khổng Tử là bà Thƣợng Quan đã mất trƣớc đó một

năm, nhằm năm Lỗ Ai Công thứ 10.

Khi trở về nƣớc Lỗ, Khổng Tử đã 68 tuổi. Ông trở lại quê nhà để mở

mang việc dạy học và soạn sách.Tổng số môn đệ của Khổng Tử có lúc lên tới

3000 ngƣời (Tam thiên đồ đệ), trong đó có 72 ngƣời đƣợc liệt vào hạng tài giỏi,

nên gọi là Thất thập nhị Hiền. Khổng Tử san định lại các kinh sách của Thánh

Hiền đời trƣớc nhƣ: Kinh Thi, Kinh Thƣ, Kinh Lễ, Kinh Nhạc, Kinh Dịch.

Khổng Tử ghi chú các lời nói của Thánh Hiền đời trƣớc, xếp đặt lại cho

có thứ tự, chú thích những chỗ khó hiểu, nhất là với Kinh Dịch, ông chú giải rất

kỹ. Sau đó, Khổng Tử viết ra sách Xuân Thu, chép những việc của nƣớc Lỗ và

của nhà Chu liên hệ với các nƣớc chƣ Hầu từ đời Lỗ Ẩn Công nguyên niên (721

trƣớc Tây lịch) đến đời Lỗ Ai Công thứ 14 (481 trƣớc Tây lịch), tổng cộng là

242 năm. Khổng Tử là bậc Chí Nhân Chí Thánh, nhƣng ông vẫn khiêm tốn

không dám nhận mình là Thánh nhân. Đối với các môn đệ, Khổng Tử rất dễ dãi.

Hễ ai theo đúng lễ đến xin học thì ông không bao giờ từ chối. Khổng Tử thu

nhận học trò, không kể giàu nghèo, con quan hay con dân. Khổng Tử mở ra một

nền giáo dục bình dân đại chúng, đào tạo đƣợc một lớp ngƣời trí thức mới, tài

giỏi và có đức hạnh trong giới bình dân. Sự giáo hóa của Khổng Tử chủ yếu là

27

làm sao cho sáng tỏ cái đức sáng của ngƣời, chớ không gom vào trong sự truyền

thụ kiến thức. Đây là một phƣơng pháp giáo dục rất hay để khai mở cái Tâm của

con ngƣời vậy.

Đến ngày Kỷ Sửu, tức là ngày 18 tháng 2 năm Nhâm Tuất, Đức Khổng Tử

tạ thế, hƣởng thọ 73 tuổi. Mộ của ông ở bên bờ sông Tứ Thủy, phía Bắc thành

nƣớc Lỗ, nay gọi là Khổng Lâm, thuộc huyện Khúc Phụ, tỉnh Sơn Đông. Ba ngàn

đồ đệ của Khổng Tử đều thƣơng tiếc và than khóc, nguyện để tang Thầy 3 năm.

Có hơn 100 môn đệ làm nhà chung quanh phần mộ để lo phụng tự trong 3 năm,

riêng Tử Cống ở đó hết 6 năm mới thôi. Chu vi đất quanh mộ của Khổng Tử rộng

chừng 100 mẫu mà không hề có cây gai và cỏ may mọc. Học trò bảo nhau đi tìm

các thứ hoa thơm cỏ lạ ở các nơi đem về trồng khắp chung quanh.

1.3. Nội dung tƣ tƣởng quản lý của Khổng Tử

Tƣ tƣởng của Nho giáo khá đa dạng và phong phú bàn về nhiều vấn để về

thế giới, con ngƣời, về chính trị, xã hội, về luân lý, đạo đức…nhƣng có thể khái

quát trong tƣ tƣởng “tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ” của ngƣời quân tử.

Nho giáo đã vạch ra lộ trình mà mỗi ngƣời quân tử phải thực hiện từ bƣớc “tu

thân” – “tề gia” – “trị quốc” – sau đó mới có thể “bình thiên hạ”. Trong các

mối quan hệ quan trọng mà mỗi ngƣời quân tử phải thực hiện là “tề gia”. “Tề

gia” vừa là cái gốc vừa là trung tâm mà mỗi ngƣời quân tử phải làm. Để đạt

đƣợc mục đích bình thiên hạ rất cần biết cách tập hợp xung quan mình những

ngƣời hiền. Do đó, các tƣ tƣởng quản lý, trong đó tập trung chủ yếu vào bản chất

con ngƣời, cách dùng ngƣời, với các nội dung cụ thể nhƣ sau:

1.3.1. Quan niệm về bản chất con người

Khổng Tử cho rằng bản tính của con ngƣời là thiện, luôn sống gần nhau,

giúp đỡ lẫn nhau, hòa đồng, tƣơng tác học hỏi lẫn nhau trong cuộc sống. Con

ngƣời sinh ra có tính bẩm sinh giống nhau là tính thiện, càng lớn lên con ngƣời

càng bị tập nhiễm xã hội nên có ngƣời tốt, ngƣời xấu.

Tính thiện của con ngƣời đƣợc thể hiện tập trung ở chữ “nhân“ với nội

dung là lòng thƣơng yêu con ngƣời. Khổng Tử đã nói:“mình cũng như người,

cái gì mình muốn có thì người cũng muốn, cái gì mình không muốn thì người

28

cũng không muốn. Do đó, điều gì mà mình không muốn thì đừng áp đặt cho

người khác và mình muốn lập thân thì cũng phải giúp cho người khác lập thân,

mình muốn thành đạt thì cũng phải giúp người khác thành đạt”.

Lòng nhân, lòng thƣơng ngƣời theo Khổng Tử đƣợc đặc trƣng bởi lòng

thành kính. Ví nhƣ: “con cái phụng dưỡng cha mẹ chỉ cho cha mẹ ăn, ống mà

không thành kính thì chẳng khác nào như nuôi chó, ngựa trong nhà”. Có hai

cách để nhận biết đƣợc lòng nhân của con ngƣời:

- Một là: lòng nhân sẽ tỷ lệ nghịch với lời nói. Ngƣời càng nói nhiều, lời

nói càng trau chuốt, càng khéo léo thì chứng tỏ ngƣời đó không có lòng nhân.

Mà đây là: xảo ngôn, lệnh sắc, tiển hĩ nhân.

- Hai là: lòng nhân tỷ lệ thuận với sự chất phác, thật thà. Ngƣời càng chất

phác, thật thà bao nhiêu thì càng có lòng nhân bấy nhiêu (mộc nột cận nhân)

Khổng Tử trƣớc tiên chú trọng vào sự tu dƣỡng đạo đức cá nhân, sau đó

nuôi dƣỡng gia đình, rồi mới đến cai trị thiên hạ bằng lòng nhân từ: "Tu thân, Tề

gia, Trị quốc, Bình Thiên hạ". Ông đề ra và nhấn mạnh vào những yêu cầu cần

có đối với một con ngƣời là Ngũ thƣờng: "Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín". Nhân là

lòng từ thiện, Nghĩa là làm tròn bổn phận, Lễ là sự tôn ti trật tự hay quy tắc

trong việc đối nhân xử thế với ngƣời trên kẻ dƣới, Trí là trí tuệ minh mẫn làm

việc gì cũng phải suy nghĩ, Tín là lòng thành thực hiện điều đã nói. Đây đƣợc

coi là những chuẩn mực, tiêu chuẩn đánh giá con ngƣời trong xã hội Trung

Quốc cổ đại. Nếu ai cũng giữ năm đạo đó thì xã hội sẽ bình yên.

1.3.2. Quan niệm về phân chia giai cấp trong xã hội

Khổng Tử đã chia con ngƣời trong xã hội thành ba hạng sau:

- Hạng thứ nhất: Thánh Nhân. Là những ngƣời không cần phải học hành,

rèn luyện gì. Sinh ra đã biết tất cả, là hạng ngƣời đại diện cho sự hoàn mỹ, cao

quý nhất trong thiên hạ, mọi ngƣời đều tôn vinh, ngƣỡng mộ nhƣ những vị

thánh.

- Hạng thứ hai: Quân tử (kẻ sĩ). Là những ngƣời có học hành, rèn luyện

mới biết, mới trƣởng thành ngƣời có ích, có địa vị trong xã hội. Những ngƣời

này tạo thành nhóm chủ thể quản lý trong xã hội. Ông cũng đƣa ra các yêu cầu

29

cần có đối với các chủ thể quản lý: Nhân (lòng thƣơng yêu con ngƣời, thái độ,

cách ứng xử trong giao tiếp – thực hiện chức nghiệp giữa chủ thể quản lý và đối

tƣợng quản lý); Trí (trình độ, năng lực, hiểu biết... của các chủ thể quản lý);

Dũng (lòng can đảm, dũng cảm, ý trí không sợ những sức ép, quyết tâm bảo vệ

cái đúng – lẽ phải - sự công bằng... của các chủ thể quản lý). Theo ông, chỉ

những ngƣời có đầy đủ ba đức tính cơ bản trên mới xứng đáng là “phụ mẫu của

dân”, xứng đáng với sứ mệnh “trị quốc, bình thiên hạ” của kẻ sĩ.

- Hạng thứ ba: Tiểu nhân (nông dân). Là những ngƣời ít học hoặc không

đƣợc học hành. Họ chủ yếu là lao động chân tay trong các ngành nghề nông

nghiệp. Đây là lực lƣợng ngƣời chiếm đại đa số trong xã hội Trung Quốc cổ

đại, là khách thể/ đối tƣợng quản lý trong hoạt động quản lý xã hội của giai cấp

cầm quyền.

Khổng Tử đề cao mối quan hệ giữa chủ thể quản lý và đối tƣợng quản lý.

Mối quan hệ này đƣợc gắn kết, ràng buộc với nhau, tác động qua lại với nhau

bởi lễ và nghĩa theo tƣ duy, chuẩn mực đƣơng thời.

1.3.3. Quan niệm về phương pháp quản lý

a. Phương pháp nêu gương: đây là phƣơng pháp quản lý cơ bản và quan

trọng. Để áp dụng đƣợc phƣơng pháp này, bản thân ngƣời quân tử - chủ thể

quản lý không những không đƣợc cầu danh, cầu lợi cho riêng mình mà phải luôn

luôn xem xét lại chính mình ở chín khía cạnh khác nhau: “1/ Khi nhìn phải nhìn

cho rõ; 2/ Khi nghe phải nghe cho rõ; 3/ Sắc mặt phải ôn hòa; 4/ Tướng mạo

phải nghiêm cung; 5/ Lời nói phải trung thực; 6/ Khi làm việc phải nghiêm

trang; 7/ Điều gì còn nghi hoặc phải hỏi cho rõ; 8/ Khi nóng giận phải nghĩ tới

hậu quả của nó; 9/khi làm việc lợi phải nghĩ đến việc nghĩa”.

Đức là công cụ quản lý trong tƣ tƣởng Khổng Tử. Để sử dụng đƣợc, sử

dụng tốt công cụ này đòi hỏi chủ thể quản lý phải tu thân để trở thành tấm

gƣơng sang cho mọi ngƣời noi theo. Khổng Tử đã nói: “như ai thi hành việc

chính trị, cầm quyền cai trị đất nước mà biết đem hết cái đức của mình bổ hóa

ra thì mọi người đều phục tùng theo. Tỷ như sao Bắc đẩu ở một chỗ mà mọi vì

sao chầu theo”.

30

Để chủ thể quản lý, ngƣời quân tử có định hƣớng trong tu thân, rèn luyện

mình trở thành tấm gƣơng sáng trong quản lý, Khổng Tử đã viết ra “cửu kinh”

với các nội dung cơ bản sau: “1/ Tu thân; 2/ Yêu thương họ hàng; 3/ Kính đại

thần; 4/ Kính người hiền tài; 5/Thương yêu công bộc; 6/Thương dân như con;

7/Khuyến khích nhân tài, mở mang bách nghệ, thi đua khen thưởng; 8/ Đón tiếp

viễn sứ; 9/ Che chở các nước chư hầu”. Theo ông, đây là con đƣờng để các chủ

thể quản lý rèn luyện bản thân, giữ chính đạo trong quản lý. “Nếu nhà cầm

quyền tự mình giữ theo chính đạo thì chẳng đợi ra lệnh dân cũng ăn ở đúng

phép. Còn như tự mình chẳng giữ theo chính đạo, dẫu mình có ra lệnh bộc dân

theo, họ cũng chẳng theo” .

b. Phương pháp giáo hóa: Khổng Tử đề cao phƣơng pháp giáo hóa, phản

đối phƣơng pháp dùng mệnh lệnh trong quản lý. Ông đã nói:”nếu nhà cầm

quyền chuyên dùng pháp chế, cấm lệnh mà dẫn dắt dân chúng thì dân sợ mà

chẳng đã phạm pháp đó thôi… Vậy, muốn dẫn dắt dân chúng, nhà cầm quyền

phải biết dùng lễ tiết, đức hạn mà giáo hóa thì họ sẽ tự hổ thẹn mà cảm hóa để

trở lên tốt lành”. Ông cũng khuyến khích nhà cầm quyền “nên cử, dùng những

người tốt lành, tài cán. Còn những kẻ yếu sức nên giáo hóa họ. Như vậy, dân

khuyên nhau làm điều lành, vui với điều lành”.

Ngoài nêu ra hai phƣơng pháp quản lý trên, Khổng Tử còn đƣa ra các yêu

cầu của mục tiêu và bàn về nghệ thuật trong quản lý:

Mục tiêu của quản lý, cai trị đất nƣớc đƣợc Khổng Tử nêu khá rõ trong

“Bát chánh đạo” gồm: 1/ Lương thực đủ ăn; 2/ Cuộc sống sung túc; 3/Giữ gìn

lễ nghĩa phong tục; 4/ Dân phải có ruộng đất, nhà cửa; 5/ Coi trọng giáo dục;

6/ Pháp luật nghiêm; 7/ Tiếp đón khách nồng hậu; 8/ Quân sự mạnh.

Để đạt đƣợc các mục tiêu trong quản lý, theo Khổng Tử ngƣời cai trị phải

thực hiện đƣợc những điều căn bản, tiền đề bắt buộc: lƣơng thực dồi dào, quân

sự mạnh và lòng tin của nhân dân (thực túc, binh cường, dân tín).

Quan hệ trong cai trị, Khổng Tử đề cao dùng “lễ - nghĩa” coi đây là chuẩn

mực ứng xử, những quy định bắt buộc trong xã hội. Khi thực hiện các quan hệ

trong xã hội mọi ngƣời đều phải tuân theo “lễ” tƣơng ứng với vị trí, vai trò,

31

trách nhiệm của mình (chính danh) thì xã hội mới trật tự, thực hiện đƣợc cai trị

vƣơng đạo. Theo ông “lễ” có vai trò quan trọng trong việc cai trị vì những lý do

sau: 1/ “Lễ” quy định danh phận, thứ bậc ngƣời trong xã hội; 2/ “Lễ” có tác

dụng điều chỉnh hành vi của con ngƣời trong quan hệ ứng xử, “không học lễ,

không có gì làm chỗ dựa” (Quý thị - Luận ngữ); 3/ “Lễ“ có tác dụng hình thành

thói quen đạo đức, dần hình thành thói quen trong ứng xử của mỗi ngƣời.

Khổng Tử nêu gƣơng trong giữ nghiêm “lễ”: sau khi can gián không thành, ông

đã bỏ vua Lỗ Định Công mà đi mặc dù ông đang giữ chức Đại Tƣ Khấu.

Theo ông, muốn cai trị trƣớc hết phải “chính danh” – phải hợp với tự

nhiên, “mệnh trời” vì “vạn vật đều có chỗ xác định của nó” (vật các đắc kỳ sở).

Tƣơng ứng với địa vị cai trị phải có các phẩm chất tƣơng ứng nhƣ: nhân, nghĩa,

liêm, chính...; đồng thời phải sử dụng “lễ“ tƣơng ứng với địa vị đang đƣợc đảm

nhận – thừa nhận. Với trọng trách của ngƣời có vị trí cai trị xã hội “làm vua

phải cư xử cho ra vua, tôi cho ra tôi, cha cho ra cha, con cho ra con” (Nhan

uyên – Luận ngữ) . Ông khẳng định: “nếu danh không chính tất loạn, nếu danh

chính thì không cần ép buộc dân cũng theo và tất yếu sẽ cai trị xã hội ổn định”

(danh chính ngôn thuận, ngôn thuận nghiệp thành. Danh bất chính ngôn bất

thuận, ngôn bất thuận nghiệp bất thành). Về chính trị xã hội, một xã hội không

loạn lạc cũng là xã hội có trật tự, không lộn xộn. chính vì thế nên ông tổ Nho

giáo đã mong ƣớc lập một tổ chức xã hội mà ở đó có trên có dƣới phân minh

phổ biến thì đó là trật tự danh vị của thuyết chính danh. chính danh là danh và

thực phải phù hợp với nhau. Danh và phận của mỗi ngƣời, trƣớc hết do các mối

quan hệ quy định. Theo ông mỗi cái danh đều bao hàm một số trách nhiệm và

bổn phận mà mỗi cá nhân mang cái danh đó phải có trách nhiệm và bổn phận

phù hợp với cái danh đó. Ngoài ra Khổng Tử còn chủ trƣơng dùng thuyết lễ trị

để đƣa ra cách trị nƣớc an dân.

Nội dung cơ bản của đạo đức cua nho giáo chính là luân thƣờng. Có năm

luân cơ bản là:cha -con, vua-tôi, anh-em, vợ- chồng, bè- bạn. Trong đó ba điều

chính là vua tôi, cha con, vợ chồng gọi là tam cƣơng. Đặc biệt quan trọng là

quan hệ vua tôi biểu hiện bằng chữ trung, quan hệ cha con đƣợc biểu hiện bằng

32

chữ hiếu. Thƣờng có năm điều chính gọi là ngũ thƣờng đều là những đức tính

trời phú cho con ngƣời: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Đứng đầu ngũ thƣờng là nhân

nghĩa. Đạo của Khổng Tử trƣớc hết là đạo nhân nghĩa thì nhân là chủ đạo.

1.4. Đánh giá tƣ tƣởng quản lý của Khổng Tử

1.4.1. Ưu điểm tư tưởng quản lý của Khổng Tử

Tƣ tƣởng của Khổng Tử đã đƣa ra đƣợc các phƣơng pháp rất cơ bản để

giáo dục uốn nắn, điều chỉnh hành vi con ngƣời. Hai phƣơng pháp giáo hóa và

nêu gƣơng luôn có ý nghĩa và giá trị, nhất là trong bối cảnh Đảng đang đẩy

mạnh công cuộc phòng chống tham nhũng. Mỗi cán bộ, đảng viên hiện nay đƣợc

yêu cầu phải làm tấm gƣơng sáng cho cấp dƣới và nhân dân noi theo trên tất cả

các phƣơng diện từ lối sống đến phong cách làm việc. Nặng đức, nhẹ hình,

khuyến khích ngƣời đời tu thân rèn đức theo mẫu ngƣời quân tử.

Khổng Tử chủ trƣơng thành lập các trƣờng học hƣớng mọi ngƣời tới con

đƣờng học hành để mở mang dân trí, rèn luyện đạo đức con ngƣời, cải tạo nhân

tính. Tƣ tƣởng về giáo dục về thái độ và phƣơng pháp học tập của Khổng Tử

chính là bộ phận giàu sức sống nhất trong tƣ tƣởng nho giáo. theo Khổng Tử

giáo dục là cải tạo nhân tính. Muốn dẫn nhân loại trở về tính gần nhau, tức là

chỗ “thiện bản nhiên” thì phải để công vào giáo dục vì giáo dục có thể hoá ác

thành thiện. “Tu sửa đạo làm người” và “ làm sáng tỏ đức sáng” là mục đích

tối cao của giáo dục trong việc cải tạo nhân tính. Ông coi giáo dục không chỉ mở

mang nhân tính, tri thức, giải thích vũ trụ mà ông chú trọng tới việc hình thành

nhân cách con ngƣời, lấy giáo dục để mở mang cả trí, nhân , dũng, cốt dạy con

ngƣời ta hoàn thành con ngƣời đạo lí. Theo Khổng Tử, giáo dục có ba mục đích

chính. Trƣớc hết, học để ứng dụng cho có ích với đời, với xã hội, chứ không

phải để làm quan sang, bổng hậu. Thứ hai, học để có nhân cách, học là phải để

cho mình chứ không phải để khoa trƣơng. Thứ ba, học là nhằm tìm tòi đạo lý.

Khổng Tử đã định nghĩa “giáo dục là tu sửa cái đạo làm người”. Ông đã diễn tả

lòng mình về đạo lý là “sớm nghe đạo lý, tối chết cũng được”. Phƣơng pháp

giáo dục: học một cách đúng lịch trình đúng với điều kiện tâm sinh lí,coi trọng

mối quan hệ giữa các khâu của giáo dục: trong việc học, cần tuân thủ học gắn

33

liền với tƣ, với tập, với hành. Khổng Tử coi giáo dục cho dân đạo lí làm ngƣời,

tƣ tƣởng “trăm năm trồng người” của Khổng Tử nhằm đào tạo lớp ngƣời lấy

đức trị là chính. Trong việc dạy học trò, Khổng Tử có trả lời sâu hay nông, cao

hay thấp tuỳ theo khả năng của ngƣời hỏi. Khổng Tử nói: “tiên học lễ, hậu học

văn” vì học phải đi đôi với hành. Trong giáo dục Khổng Tử coi trọng sự nêu

gƣơng của các tầng lớp vua quan và mở trƣờng học cho dân “hữu giáo vô đạo”

dạy cho mọi ngƣời không phân biệt đẳng cấp là tƣ tƣởng tiến bộ của Khổng Tử.

Điều đáng chú ý trong đạo đức của Khổng Tử là những quan điểm về giáo,

sự giáo hóa, cách lập giáo của Khổng Tử là “hiếu-đễ, lễ nhạc”. Tuy nhiên, nội

dung của giáo dục không đi vào lao động sản xuất, đấu tranh mà chuyên dạy

cách làm ngƣời, dạy đạo lý … dùng đạo đức để ổn định trật tự xã hội. Bên cạnh

đó, với quan điểm “nặng đức, nhẹ hình” nên chú trọng đến đạo đức “đức trị”,

xem nhẹ luật pháp. Quan điểm Đức trị bắt đầu từ Khổng Tử và đƣợc quán triệt

trong lịch sử nhiều nƣớc phƣơng Đông hàng nghìn năm nay tại Trung Quốc,

Việt Nam, Nhật bản, Triền Tiên…

Khổng Tử đƣa ra đƣợc một số kỹ thuật, phƣơng pháp để nhận diện ngƣời

quân tử, kỷ tiểu nhân, ngƣời tốt, ngƣời xấu...thông qua các tiêu chí của ngƣời

quân tử: đối với nam giới phải tam cƣơng, ngũ thƣờng; đối với nữ giới phải tam

tòng tứ đức. Các tiêu chí đó nhƣ là điều kiện để uốn nắn các hành vi của con

ngƣời, hƣớng con ngƣời đến những chuẩn mực của xã hội. Đó chính là tƣ tƣởng

nhân sinh. Khổng Tử vốn quy giá trị nhân sinh thành giá trị xã hội, cho rằng con

ngƣời phải có trách nhiệm nhất định đối với gia đình, xã hội, đất nƣớc và cả thế

giới; đó là lí tƣởng cuộc đời và lẽ sống của mỗi ngƣời. Mặt khác, Khổng Tử

cũng đồng thời quy giá trị nhân sinh vào giá trị đạo đức, mà giá trị đạo đức của

Khổng Tử là lấy hiếu thân (hiếu với cha mẹ) làm nền tảng - trung với nƣớc cũng

suy từ hiếu với cha mẹ mà ra. Đối với con ngƣời đạo là con đƣờng đúng đắn

phải noi theo để xây dựng quan hệ lành mạnh, tốt đẹp. Đạo của ngƣời theo quan

điểm của Khổng Tử là phải phù hợp với tình ngƣời do con ngƣời lập nên. Trong

kinh dịch, sau hai câu “lập đạo của trời , nói âm và dương”,“ lập đạo của đất,

nói nhu và cương” là câu “lập đạo của người nói nhân và nghĩa”. Khổng Tử

34

chủ trƣơng cải tạo xã hội bằng đạo đức. Những tƣ tƣởng của Khổng Tử có tác

dụng rất tích cực đến công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

Một số tƣ tƣởng của Khổng Tử vẫn còn nguyên giá trị cho đến ngày nay.

Tƣ tƣởng Khổng Tử có giá trị nhân đạo, nhân văn, đề cao giá trị mỗi cá nhân

con ngƣời với đƣờng lối đức trị lấy nhân nghĩa làm gốc, coi trọng vai trò của

con ngƣời.

Khổng Tử nhấn mạnh giá trị đạo đức, đó là sự tu dƣỡng đạo đức cá nhân

biểu hiện qua “Tam cương” (quân – thần; phụ - tử; phu – phụ) và “Ngũ

thường” (Nhân; Nghĩa; Lễ; Trí; Tín). Đó là những chuẩn mực đạo đức nhằm

định hƣớng và hoàn thiện nhân cách con ngƣời. Mẫu ngƣời lý tƣởng của Khổng

Tử là ngƣời quân tử - giữ đạo trung dung cũng là thực hiện chính danh, rèn

luyện đạt đạo trung dung cũng là rèn luyện để đạt nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Cái

học hoàn toàn của Khổng giáo nói rút lại là “Chí ư đạo, cứ ư đức, y ư nhân, du

ư nghệ” còn cách thao thủ của ngƣới quân tử là tu thân, xử kỷ tiếp vật “dĩ trực

báo oán, dĩ đức báo đức”, quan nhân, bằng hữu, bác ái. Tuy nhiên, ngƣời quân

tử của Khổng giáo đã tách khỏi cuộc sống đời thƣờng, hết sức coi thƣờng những

nhu cầu rất bản năng nhƣng rất chính đáng của con ngƣời.

Phải nói rằng triết học của Khổng Tử đã trở thành học thuyết lớn của triết

học phƣơng Đông cổ đại. Đạo đức học của Khổng Tử đã cho con ngƣời thấy ý

nghĩa và giá trị đời sống thực, thấy trách nhiệm của mình trƣớc cộng đồng và

hƣớng con ngƣời tìm thấy sức mạnh đạo đức ngay ở bản thân mình.

Một trong những tƣ tƣởng tiến bộ của Khổng Tử trong quản lý là nhà quản

lý đƣợc lựa chọn, đề bạt, bổ nhiệm dựa trên năng lực và phẩm chất đạo đức cá

nhân, không hoàn toàn phụ thuộc vào huyết thống và giai cấp.

Đức trị tích cực tiêu diệt tận gốc cái ác, thực hiện chặt đứt gốc rễ, giải

quyết vấn đề từ căn bản. Quản lý mang tính chiến thuật, có hiệu quả trong thời

gian dài.

1.4.2. Những hạn chế trong tư tưởng quản lý của Khổng Tử

Tƣ tƣởng quản lý của Khổng tử còn tồn tại một số tƣ tƣởng nghiêm khắc,

bảo thủ khi đặt nặng con ngƣời trong các mối quan hệ “tam cương, ngũ

35

thường”. Các mối quan hệ này phản ánh tính chất hai mặt của một vấn đề, bên

cạnh việc các gia đình đƣợc củng cố mối quan hệ, trật tự xã hội đƣợc duy trì - ổn

định thì nó còn cho thấy sự cứng nhắc, khô khan, mâu thuẫn, bất bình đẳng đối

với ngƣời phụ nữ, với những ngƣời kẻ dƣới. Dựa vào tƣ tƣởng của Khổng Tử

chế độ phong kiến duy trì và củng cố quyền lực để cai trị xã hội ổn định. Trải

qua hàng nghìn năm, xã hội phong kiến tồn tại đƣợc là do lấy tƣ tƣởng của

Khổng Tử làm cơ sở lý luận.

Thiếu tính răn đe trong quản lý. Nội dung thuyết Đức trị có hạn chế là vị thế

và vai trò của pháp chế và lợi ích kinh tế đối với xã hội không đƣợc coi trọng.

Trƣờng phái tƣ tƣởng quản lý của Khổng Tử chỉ đề ra nguyên lý, không cụ

thể hóa thành thao tác và quy trình. Một số phƣơng pháp ảo tƣởng, không thực

tế và có phần duy tâm.

Đức trị dựa vào giáo hóa, dựa vào tƣ tƣởng để giải quyết vấn đề. Nhƣ vậy hiệu

quả sẽ nhìn thấy chậm. Nhất là hình thành đạo đức nếp sống lý tƣởng, xây dựng

quan niệm giá trị chung thì mất thời gian, quyết không thể một sớm, một chiều.

Có sự phân biệt đối xử giữa nam và nữ trong cuộc sống cũng nhƣ trong

công việc. Chính tƣ tƣởng của Nho giáo đã tạo ra sự phân biệt và hình thành tƣ

tƣởng “trọng nam kinh nữ” một cách khắc nghiệt. Trong cuốn “Luận ngữ” chỉ

có một lần duy nhất Khổng Tử nhắc đến ngƣời phụ nữ. Ông nói: “Duy ngữ tử dữ

tiểu nhân vi nán dƣỡng dã, cận chi tắc bất tốn, viễn chi tắc oán” (tạm dịch: “Duy

chỉ có phụ nữ và tiểu nhân là khóa giáo dƣỡng. Gần thì họ khinh nhờn, vô lễ, xã

thì họ oán hận”). Theo quạn điểm đó Khổng Tử xếp phụ nữ cùng một hangj với

bọn tiểu nhân, khó có thể nuôi dƣỡng hay dậy dỗ đƣợc. Chính vì vậy, Khổng Tử

đã khuyên học trò: “Nhữ vi quân tử nho, vô vi tiểu nhân nho” (tạm dịch:”Ngƣơi

làm nho Quân tử, đừng làm nho tiểu nhân”), nhiều ngƣời sau này cho rằng

Khổng Tử có ý kỳ thị, thành kiến với phụ nữ. Tuy nhiên, vấn đề này cũng có lý

do riêng do lịch sử thời thế sinh thời, hoàn cảnh nhân.

Tƣ tƣởng về lễ trong quan niệm của đạo Nho là sợi dây ràng buộc con

ngƣời làm cho suy nghĩ và hành động của con ngƣời trở nên cứng nhắc theo một

khuôn phép cũ; lễ đã kìm hãm sự phát triển của xã hội, làm cho xã hội trì trệ.

36

Điều này nói lên rằng, tƣ tƣởng Nho giáo mang tính bảo thủ, tiêu cực, phản lịch

sử. Khổng Tử đã từng nói: “ Ta theo lễ của nhà Chu vì lễ đó rực rỡ lắm thay”

và ông luôn mong xã hội lúc đó quay về thời đại Nghiêu, Thuấn. Khách quan

mà đánh giá, thì hạn chế trên của Nho giáo có nguyên nhân từ thực tế lịch sử.

Bởi vì, Khổng Tử sống trong thời đại xã hội loạn lạc, ngƣời ta tranh giành nhau,

chém giết nhau không từ một thủ đoạn tàn ác nào để tranh bá, tranh vƣơng, để

có bổng lộc chức tƣớc. Ông hoài cổ, muốn quay ngƣợc bánh xe lịch sử cũng là

điều dễ hiểu. Tuy nhiên, chính mặt hạn chế này của Nho giáo đã để lại tàn dƣ

cho đến tận ngày nay, nó trở thành phong tục, lối sống, nó thấm sâu vào suy

nghĩ và hành động của không ít ngƣời ở các nƣớc phƣơng Đông, nơi tiếp nhận

và chịu ảnh hƣởng của Nho giáo.

TIỂU KẾT CHƢƠNG 1

Khổng Tử chủ trƣơng trị ngƣời bằng đức là chính, nghĩa là để thu phục và

dẫn dắt ngƣời khác, nhà quản lý phải tự mình học tập và tu dƣỡng để có đƣợc

những đức tính cần thiết, chẳng hạn nhƣ: nhân, nghĩa, trí, tín, dũng, liêm…

Trong đó, đức nhân đƣợc đặt lên hàng đầu và là trung tâm: vì con ngƣời và từ

con ngƣời. Khổng Tử coi nhân là gốc, lễ là ngọn, nhân là mục tiêu, còn lễ là

chính sách. Để thực thi đƣợc đạo lý và mục tiêu, Khổng Tử chủ trƣơng sử dụng

phƣơng thức chính danh . Khổng Tử cho rằng chỉ có một số ít ngƣời có năng lực

đặc biệt và có nhân cách đặc biệt mới có thể hiểu và thực hành đƣợc công việc

quản trị vì vậy, học thuyết của ông đề xƣớng thƣờng tồn tại dƣới dạng các

nguyên lý, nguyên tắc. Ông chủ trƣơng: “đã chỉ cho một góc rồi mà không suy

ra ba góc còn lại thì không dạy nữa”, hoặc là “ôn cũ, biết mới”…

Trong chƣơng này tác giả đã đã đi sâu nghiên cứu, làm rõ về tƣ tƣởng quản

lý của Khổng Tử bao gồm: thứ nhất, làm rõ một số khái niệm liên quan đến đề

tài; thứ hai làm rõ hoàn cảnh ra đời, cuộc sống, sự nghiệp của Khổng Tử; thứ ba,

làm rõ về bội dung tƣ tƣởng quản lý của Khổng Tử về bản chất con ngƣời, về

phân chia giai cấp, về phƣơng pháp quản lý. Từ đó đƣa ra đƣợc những ƣu điểm,

hạn chế trong tƣ tƣởng quản lý của Khổng Tử. Đây sẽ là cơ sở lý luận vững chắc

để tác giả tiếp tục thực hiện đƣợc chƣơng 2 của đề tài này.

37

CHƢƠNG 2: VẬN DỤNG TƢ TƢỞNG QUẢN LÝ CỦA KHỔNG TỬ

VÀO QUẢN TRỊ NHÂN LỰC TẠI VIỆT NAM HIỆN NAY

2.1. Đặc điểm và yêu cầu về nguốn nhân lực của Việt Nam trong bối

cảnh hiện nay

2.1.1. Bối cảnh Kinh tế - Văn hóa – Xã hội

Thế kỷ 21 đƣợc đặc trƣng bởi cuộc cách mạng thông tin với bộ vi xử lý, từ

cuộc cách mạng này có cuộc cách mạng khác trong sinh học, vật liệu, năng

lƣợng, công nghệ nano phân tử…Khoa học đã thật sự là lực lƣợng sản xuất,

đúng nhƣ C.Mác đã dự báo, hơn thế nữa nó còn là yếu tố quyết định trong lực

lực sản xuất. Thời đại cách mạng thông tin hết sức coi trọng tâm lý học, xã hội

học, các khoa học nghiên cứu con ngƣời… nhấn mạnh vai trò của con ngƣời nói

chung, của ý thức, hoạt động và hành vi ngày càng tăng trong kỷ nguyên mới

này. Điều đó đòi hỏi yêu cầu về phát triển nguồn nhân lực đó là cần có một cƣợc

cách mạng về giáo dục, quan niệm mới về cuộc sống, về các giá trị của xã họi,

về phát triển toàn diện con ngƣời.

Cuộc cách mạng thông tin, cách mạng công nghiệp 4.0

Sau ba cuộc Cách mạng công nghiệp lớn trong lịch sử, cuộc cách mạng

công nghiệp lần thứ 4 (Cách mạng công nghiệp 4.0) giúp cho máy tính, phần

cứng, phần mềm cũng nhƣ mạng toàn cầu phát triển mạnh mẽ, tạo tiền đề cho sự

ra đời một cuộc cách mạng công nghiệp toàn diện và làm biến đổi mọi mặt đời

sống kinh tế – xã hội toàn cầu.

Đặc biệt, nền công nghiệp 4.0 sẽ tạo ra những thay đổi lớn về cung - cầu

lao động trên thế giới. Tại Diễn đàn Kinh tế Thế giới diễn ra vào năm 2016 tại

Thụy Sĩ, các nhà kinh tế và khoa học đã cảnh báo, trong cuộc Cách mạng công

nghiệp 4.0, thị trƣờng lao động sẽ bị thách thức nghiêm trọng giữa cung và cầu

lao động cũng nhƣ cơ cấu lao động. Nền kinh tế với trình độ tự động hóa cao và

có tính sáng tạo, đòi hỏi ngƣời lao động phải thích ứng nhanh với sự thay đổi

của sản xuất nếu không sẽ bị dƣ thừa, bị thất nghiệp.

Xu hướng toàn cầu hóa

Trong toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, tinh thần dân tộc sẽ cố kết cả cộng

38

đồng thành một khối thống nhất để hợp tác và cạnh tranh. Không tạo đƣợc khối

thống nhất đó để mỗi ngƣời đứng riêng lẻ, tách biệt, rời rạc thì sẽ không có sức

mạnh, không đủ khả năng hợp tác và cạnh tranh, càng không có khả năng đƣa cả

dân tộc vƣợt qua khó khăn, thử thách trong toàn cầu hóa. Do vậy, để nhìn nhận,

đánh giá một con ngƣời trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập khu vực và quốc

tế, yêu cầu tinh thần dân tộc càng phải đƣợc chú trọng nhằm một mặt, phải khơi

dậy, bồi dƣỡng, cổ vũ, khuyến khích tinh thần dân tộc; mặt khác, để sử dụng nó

nhƣ một động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xã hội và hội nhập. Khơi dậy

tinh thần dân tộc cũng là khơi dậy tự hào dân tộc, phát huy tất cả những gì tốt

đẹp, thích hợp cho công cuộc đổi mới, hội nhập và gạt bỏ, sửa đổi tất cả những

gì không còn phù hợp, cản trở sự phát triển. Tinh thần dân tộc trong điều kiện

phát triển hòa bình của đất nƣớc là một đảm bảo cho sự đoàn kết dân tộc, cho ý

chí phấn đấu để dân tộc ta có thể “sánh vai cùng các cường quốc năm châu”.

Xu hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa diễn ra mạnh mẽ

Trong quá trình phát triển vào thế kỷ 21, Việt Nam đang dần đi vào giai

đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đại hội VIII của Đảng chủ trƣơng đẩy

mạnh CNH, HĐH ra sức phấn đấu đƣa nƣớc ta đến năm 2020 cơ bản trở thành

một nƣớc công nghiệp.

=> Việc nghiên cứu phát triển con ngƣời trong quá trình công nghiệp hóa,

hiện đại hóa đang đặt ra những yêu cầu đối với phát triển con ngƣời của nƣớc ta

nhƣ sau:

+ Cần đề cao quan điểm lấy con ngƣời làm trọng tâm trong sự phát triển

kinh tế - xã hội, phải coi chính sách giáo dục là quốc sách hàng đầu

+ Không thể coi nhẹ văn hóa truyền thống trong sự phát triển con ngƣời. Bởi

lẽ áp lực công nghiệp hóa có thể tạo ra một xã hội tràn ngập công nghiệp hóa, làm

mất đi bản sắc dân tộc, dẫn đến những khủng hoảng và xung đột ghê gớm.

+ Sự phát triển con ngƣời phải đƣợc xem xét trên bình diện các nhân và

cộng đồng xã hội. Do sự phát triển của cá nhân này không hoàn toàn giống với

sự phát triển của cá nhân khác nên sự lựa chọn mô hình con ngƣời trở thành

một vấn đề quan trọng, có tác dụng định hƣớng cho sự phát triển, hoàn thiện

39

nhân cách mỗi các nhân và mọi ngƣời.

+ Quá trình xã hội hóa, cá thể hóa, tiếp biến văn hóa đều giữ một vai trò

thiết yếu trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong thời đại cách mạng khoa học và công

nghệ đòi hỏi khá cao về phẩm chất trí tuệ ở ngƣời lao động - một phẩm chất

đƣợc coi là quan trọng nhất hiện nay. Đó là ngƣời lao động phải có năng lực

sáng tạo, năng lực hoạt động thực tiễn tốt; có khả năng áp dụng những thành tựu

của khoa học để sáng chế ra những kỹ thuật, công nghệ tiên tiến; có năng lực thu

thập và xử lý thông tin trong điều kiện bùng nổ thông tin; có sự nhạy bén, thích

nghi nhanh và thực sự làm chủ khoa học, kỹ thuật, công nghệ hiện đại. Đồng

thời, ngƣời lao động phải có khả năng biến tri thức thành kỹ năng lao động nghề

nghiệp, nghĩa là phải có kỹ năng lao động giỏi thể hiện qua trình độ tay nghề,

mức độ thành thạo chuyên môn nghề nghiệp.

Kinh tế tri thức

Kinh tế tri thức đƣợc xây dựng trên cơ sở sản xuất, phân phối, sử dụng tri

thức và thông tin. Tóm lại đó là nền kinh tế dựa vào tri thức, nền kinh tế này dựa

trên 4 trụ cột: công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới

và công nghệ năng lƣợng

+ Phải nâng cao vị trí của giáo dục, giáo dục quyết định sức mạnh, sự thịnh

vƣợng và tƣơng lai tƣơi sáng của đất nƣớc.

+ Cần tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, toàn diện giáo dục và đào tạo, phục vụ

đắc lực công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa, dần dần tiếp cận với nền kinh

tế tri thức. Phải kiên trì đấu tranh khắc phục tâm lý nặng nề của giáo dục khoa

cử, phổ biến rộng rãi đến từng ngƣời dân đến các thầy cô giáo, đến các em học

sinh thái độ, động cơ đúng đắn, thấm nhuần mục tiêu giáo dục nhằm xây dựng

nhân cách, trên cơ sở đó nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dƣỡng nhân tài,

trong đó nhân cách là cơ sở, nhân lực là mục tiêu, nhân tài là đầu tầu của nhân

lực, chiến thắng nghèo nàn, lạc hậu, tiến lên giàu có, văn minh.

+ Phải quán triệt quan điểm học suốt đời nhằm hoàn thiện nhân cách, phổ

cập nghề nghiệp, tăng cƣờng nhân văn.

40

Hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng

Hiện nay nƣớc ta đang bƣớc vào giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế sâu

rộng. Đó là quá trình gắn kết nền kinh tế và thị trƣờng của một quốc gia với nền

kinh tế thị trƣờng thế giới và khu vực thông qua biện pháp tự do hóa, mở cửa thị

trƣờng trên các cấp độ đơn phƣơng, song phƣơng và đa phƣơng. Các đặc trƣng

của hội nhập kinh tế quốc tế nhƣ sau:

Thứ nhất, hội nhập kinh tế quốc tế là sự phát triển cao của phân công lao

động quốc tế;

Thứ hai, hội nhập kinh tế quốc tế là sự phối hợp mang tính chất liên quốc

gia giữa hai hay nhiều nƣớc độc lập, có chủ quyền trong một hay nhiều hiệp

định kinh tế - thƣơng mại. Bởi vậy, nó thƣờng chịu sự tác động và điều tiết bởi

các chính sách của các chính phủ thành viên;

Thứ ba, hội nhập kinh tế khu vực và song phƣơng đƣợc xem nhƣ một giải

pháp trung hòa giữa hai xu hƣớng đối lập nhau trên thị trƣờng thế giới. Xu

hƣớng tự do hóa mậu dịch và bảo hộ mậu dịch của hai trƣờng phái kinh tế đối

lập nhau

Trong bối cảnh hội nhập quốc tế lối sống thực dụng, trọng đồng tiền, xa

hoa, lãng phí đã và đang ít nhiều ảnh hƣởng đến một bộ phận dân cƣ. Do đó,

việc phát huy các chuẩn mực lối sống tiết kiệm, giản dị, chân thành, chất phác

và khiêm tốn nhƣ một yêu cầu đối với con ngƣời Việt Nam hiện đại lại càng

cần thiết. Điều đó, sẽ giúp cho việc xây dựng con ngƣời Việt Nam trong giai

đoạn hiện nay có định hƣớng đúng, ngăn ngừa và ngăn chặn tác hại của lối

sống trái ngƣợc với thuần phong mĩ tục, xa lạ với bản chất nhân nghĩa của

ngƣời Việt Nam.

2.1.2. Đặc điểm về nguồn nhân lực của Việt Nam trong bối cảnh hiện nay

Theo Tổng cục Thống kê, dân số nƣớc ta năm 2010 khoảng 88,47 triệu

ngƣời, đến năm 2018 khoảng 95,5 triệu ngƣời. Trong Cộng đồng kinh tế

ASEAN (AEC), dân số Việt Nam đứng thứ 3 (sau Indonesia, Philippines) và

đứng thứ 15 trên toàn thế giới. Với dân số trẻ, tăng nhanh lực lƣợng lao động từ

15 tuổi trở lên của cả nƣớc là 72,5 triệu ngƣời, chiếm khoảng 76% trong tổng

41

dân số với tốc độ tăng bình quân hàng năm là 1,57%. Đây chính là nguồn nhân

lực quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển kinh

tế - xã hội nƣớc ta hiện nay.

Đặc điểm nổi bật của lực lƣợng lao động Việt Nam hiện nay đa số là lao

động trẻ. Lao động trẻ sẽ có sức bật nhanh, thuận lợi cho việc đào tạo phát triển,

nâng cao trình độ, tiếp thu nhanh các tiến bộ khoa học kỹ thuật tiên tiến của thế

giới. Lợi thế nổi bật của nguồn nhân lực xã hội Việt Nam hiện nay là đã bƣớc

vào thời kỳ đỉnh cao về số lƣợng dân số, thời kỳ “cơ cấu dân số vàng”. Đây là

“cơ hội vàng” cho Việt Nam phát triển, tận dụng nguồn nhân lực vô cùng quý

giá để phát triển kinh tế, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại

hóa đất nƣớc, theo kịp với các nƣớc trong khu vực và trên thế giới. Tuy nhiên,

để cạnh tranh trên thị trƣờng lao động thì không chỉ có yếu tố số lƣợng đông, giá

lao động rẻ mà yếu tố vô cùng quan trọng là chất lƣợng nguồn nhân lực. Khi

đánh giá về chất lƣợng nguồn nhân lực của một quốc gia phải đƣợc nhìn nhận ở

nhiều khía cạnh khác nhau nhƣ thể lực, trí lực, tâm lực của lực lƣợng lao động.

Về thể lực: Yếu tố quan trọng nhất của thể lực là sức khỏe, một ngƣời có

thể lực nghĩa là có sức khỏe tốt. Song sức khỏe không chỉ đơn thuần là chuyện

có bệnh hay không có bệnh mà bao gồm cả yếu tố tinh thần và xã hội. Theo tổ

chức Y tế thế giới (WHO) thì “sức khỏe là một trạng thái hoàn toàn thoải mái

về thể chất, tâm thần và xã hội, chứ không chỉ là không có bệnh hay thương tật”.

Nhƣ vậy sức khỏe là sự phát triển hài hòa cả về thể chất, tinh thần và xã hội của

con ngƣời. Về thể chất đó là sự cƣờng tráng cơ bắp và khả năng vận động chân

tay; về tinh thần đó là sự dẻo dai của hoạt động thần kinh, khả năng vận động

của trí tuệ, khả năng tƣ duy; về xã hội đó là sự thỏa mái, vui vẻ, giao tiếp thân

thiện, không có những áp lực từ môi trƣờng.

Khi có sức khỏe tốt năng suất lao động sẽ cao hơn nhờ sự bền bỉ dẻo dai

và khả năng tập trung trong công việc. Do đó, việc nâng cao sức khỏe cho toàn

đân nói chung, lực lƣợng lao động nói riêng luôn đƣợc Đảng quan tâm và đƣợc

xác định là mục đích và là điều kiện cho sự phát triển.

Để đánh giá thể lực của mỗi quốc gia có nhiều tiêu chí khác nhau nhƣng

42

có hai tiêu chí cơ bản là:

Chiều cao trung bình của thanh niên từ 18 đến 35 tuổi (đơn vị cm)

Cân nặng trung bình của thanh niên từ 18 đến 35 tuổi (đơn vị kg)

Trong những năm qua nhất là từ khi thực hiện công cuộc đổi mới đến nay,

thể lực của nguồn nhân lực Việt Nam đƣợc cải thiện đáng kể. Sau hơn 30 năm

đổi mới chiều cao trung bình của thanh niên 18-19 tuổi tăng: nam tăng khoảng 4

- 5 cm và nữ tăng 4 cm. Chiều cao của ngƣời Việt Nam sẽ tiếp tục đƣợc cải thiện

trong thể kỷ 21 nhờ việc tăng cƣờng chế độ dinh dƣỡng và cải thiện mức sống.

Cùng với các biện pháp để phát triển thể chất, chúng ta cũng quan tâm đến việc

phát triển và làm phong phú thêm đời sống tinh thân cho ngƣời lao động nhƣ

xây dựng các khu vơi chơi giải trí, đẩy mạnh phong trào toàn dân thể dục thể

thao, hƣớng đến một lối sống lành mạnh, trong sáng, cải thiện một bƣớc đáng kể

đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.

Mặc dù có nhiều chuyển biến tích cực, nhƣng đối chiếu với tiêu chuẩn

quốc tế thì thể lực của nguồn nhân lực Việt Nam còn có rất nhiều hạn chế. Nếu

xem xét hai yếu tố này thì nguồn nhân lực Việt Nam thuộc hạng “thấp bé, nhẹ

cân”, sức bền bỉ thấp. So sánh chiều cao và cân nặng thì thanh niên Việt Nam

thấp nhất và nhẹ nhất so với các nƣớc trong khu vực, còn so với tiêu chuẩn quốc

tế về chiều cao (nam 176,8 cm, nữ 163,7 cm) thì nam thanh niên 18 tuổi của

Việt Nam còn thấp hơn rất nhiều (nam giới Việt Nam chỉ đạt 164,2 cm thấp hơn

12,6 cm, nữ giời Việt Nam đạt 153,4 cm thấp hơn 10,3 cm).

Do thể lực kém đã làm ảnh hƣởng rất lớn đến năng suất, hiệu quả làm

việc, ngƣời lao động không có sự bền bỉ và không có khả năng tập trung cao độ

trong khoảng thời gian dài. Việc không có thể lực tốt cũng gây ra rất nhiều bất

lợi trong việc cạnh tranh về nguồn nhân lực với các nƣớc trong khu vực và trên

thế giới.

Để cải thiện chiều cao, cân nặng, sức bền của nguồn nhân lực là một thách

thức lớn hiện nay, bởi muốn làm đƣợc điều đó phải thực hiện đồng bộ nhiều

biện pháp nhƣ cải thiện giống nòi, nâng cao chất lƣợng cuộc sống, cải thiện môi

trƣờng…

43

Về trí lực: Yếu tố trí lực đƣợc đánh giá thông qua trình độ văn hóa, trình

độ chuyên môn kỹ thuật, kỹ năng lao động và khả năng vận dụng tri thức vào

các công việc, tình huống cụ thể. Trong điều kiện nền sản xuất thủ công thì yếu

tố thể lực đƣợc đề cao, nhƣng trong điều kiện khoa học kỹ thuật phát triển nhƣ

vũ bão hiện nay thì yếu tố trí lực đƣợc đặt lên hàng đầu.

Để đánh giá chất lƣợng nguồn nhân lực của mỗi quốc gia thông thƣờng

dựa vào các yếu tố cơ bản nhƣ trình độ văn hóa, trình độ chuyên môn kỹ thuật.

Trình độ văn hóa là khả năng về tri thức và kỹ năng có thể tiếp nhận

những kiến thức cơ bản, thực hiện đƣợc những công việc đơn giản. Trình độ văn

hóa đƣợc trang bị thông qua hệ thống giáo dục quốc dân với các hình thức giáo

dục chính quy, không chính quy, phi chính thức. Để xem xét trình độ văn hóa

của một quốc gia thƣờng đƣợc xem xét qua hệ thống các chỉ tiêu nhƣ tỷ lệ dân

số biết chữ, số năm đi học trung bình của dân số tính từ 25 tuổi trở lên. Với các

chỉ tiêu này Việt Nam đạt đƣợc rất nhiều thành tựu nổi bật. Theo kết quả cuộc

Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009 thì tỷ lệ biết chữ của dân số từ 15 tuổi

trở lên đã tăng từ 90,3% của năm 1999 lên 94,0% năm 2009. Trong số 19,2 triệu

ngƣời đang đi học có 87,6% đang theo học các bậc học phổ thông, 2,7% đang

theo học nghề, 3,2% đang theo học cao đẳng và 6,6% đang theo học đại học trở

lên. Theo kết quả báo cáo của Bộ Giáo dục và Đào tạo tại hội nghị sơ kết 3 năm

(2013-2015) thực hiện Đề án xây dựng xã hội học tập giai đoạn 2012-2020,

chúng ta đạt đƣợc những kết quả cao trong công tác xóa mù chữ và phổ cập giáo

dục: tỷ lệ biết chữ trong độ tuổi 15-50 toàn quốc là 97,3%, trong độ tuổi 15-35 là

98,5%; số ngƣời mới biết chữ tiếp tục học và không mù chữ trở lại là 83,9%.

Đây là một điều kiện quan trọng để nâng cao chất lƣợng nguồn nhân lực. Tuy

nhiên, để đánh giá chất lƣợng nguồn nhân lực của một quốc gia còn cần phải

xem xét đến trình độ chuyên môn kỹ thuật.

Trình độ chuyên môn kỹ thuật của nguồn nhân lực là những kiến thức kỹ

năng cần thiết để để đảm đƣơng các chức vụ trong quản lý kinh doanh và các

hoạt động nghề nghiệp. Trình độ chuyên môn đƣợc xác định từ công nhân kỹ

thuật bậc 3 trở lên cho đến trình độ sau đại học. Trong những năm qua nhờ sự

44

quan tâm của Đảng và Nhà nƣớc mà chất lƣợng đội ngũ nhân lực không ngừng

tăng, điều đó đƣợc thể hiện thông qua số ngƣời qua đào tạo về chuyên môn kỹ

thuật không ngừng tăng: Tỉ lệ lao động đã qua đào tạ có bằng cấp/chứng chỉ là

21,85%. Tính theo các cấp trình độ, tỉ lệ lao động có trình độ đại học trở lên

trong tổng LLLĐ là 9,58%, cao đẳng là 3,49%; trung cấp là 5,29 % và sơ cấp

nghề là 3,49%. (Số liệu thống kê của Tổng cục Thống kê, điều tra lao động, việc

làm hàng năm).

Sự phát triển mạnh mẽ của hệ thống các cơ sở giáo dục đào tạo vẫn chƣa

đáp ứng đƣợc nhu cầu của nguồn nhân lực, bởi hiện nay số ngƣời trong độ tuổi

lao động qua đào tạo còn thấp, bên cạnh đó là chất lƣợng đào tạo chƣa cao,

nhiều cơ sở đào tạo đƣợc mở ra nhƣng chƣa kiểm soát đƣợc chất lƣợng, từ đó

dẫn đến hệ quả là đào tạo không đạt chuẩn, không theo nhu cầu của xã hội. Một

tỷ lệ rất lớn khoảng 60% sinh viên ra trƣờng không thể thực hiên ngay công việc

mà doanh nghiệp phải tiến hành đào tạo bổ sung, đào tạo lại. Bên cạnh việc chất

lƣợng đào tạo thấp thì việc mất cân đối giữa các cấp bậc đào tạo (sơ cấp 1/ trung

cấp 1,8/ cao đẳng, đại học 2,3) đang diễn ra ở nhiều ngành nhiều lĩnh vực, từ đó

dẫn đến tình trạng “thừa thầy thiếu thợ”.

Một nghịch lý đang diễn ra hiện nay là mặc dù chúng ta có số lƣợng

ngƣời trong độ tuổi lớn, tỷ lệ thất nghiệp cao, nhƣng trong một số ngành lại

đang thiếu trầm trọng đội ngũ nhân lực chất lƣợng cao. Điều này đòi hỏi phải

nâng cao chất lƣợng nguồn nhân lực mà biện pháp quan trọng là nâng cao chất

lƣợng đào tạo. Quy mô đào tạo chúng ta đã phát triển rất nhanh nhƣng chất

lƣợng đào tạo còn rất nhiều hạn chế. Đo đó đã ảnh hƣởng nghiêm trọng đến

thƣơng hiệu và uy tín của nguồn nhân lực nƣớc ta.

Về phẩm chất tâm lý – xã hội của nguồn nhân lực (tâm lực). Quá trình thực

hiện công việc không chỉ cần sức khỏe, trí tuệ, sự khéo léo mà còn cần tính kỷ

luật, sự tự giác, tinh thần hợp tác, tác phong chuyên nghiệp…Nguồn nhân lực

Việt Nam đƣợc thừa hƣởng từ cha ông tinh thần làm việc hăng say, sự chịu

thƣơng chịu khó, cần cù chăm chỉ, yêu lao động, mềm dẻo, linh hoạt trong ứng

xử…Tuy nhiên, có những đặc điểm tâm lý nếu ở điều kiện hoàn cảnh này thì phù

45

hợp những điều kiện khác thì không phù hợp. Nguồn nhân lực Việt Nam hiện nay

mang nhiều đặc điểm đó. Có những tính cách, hành vi phù hợp và đƣợc chấp

nhận trong xã hội nông nghiệp nhƣng khi chuyển sang xã hội công nghiệp, xã hội

đô thị thì nó trở lên không phù hợp nữa. Do ảnh hƣởng của tâm lý tiểu nông của

một xã hội nông nghiệp cộng với hoàn cảnh lịch sử trong một giai đoạn dài của

chế độ tập trung bao cấp đã tạo cho lực lƣợng lao động Việt Nam hiện nay những

phẩm chất tâm lý – xã hội với nhiều hạn chế nhƣ sự tùy tiện, tâm lý ỷ lại, không

hợp tác nhau trong công việc, đồng nhất công việc và tình cảm…Nhiều thị trƣờng

lao động vừa mới mở cửa đón nhận lực lƣợng lao động Việt Nam, nhƣng chỉ một

thời gian ngắn sau đó đã đóng cửa mà nguyên nhân chính là do sự tùy tiện, thiếu ý

thức kỷ luật của ngƣời lao động. Những hạn chế đó đã gây ra rất nhiều trở ngại

trong quá trình hội nhập của nguồn nhân lực Việt Nam.

2.1.3. Yêu cầu nguồn nhân lực của Việt Nam trong bối cảnh hiện nay

Thứ nhất, con người Việt Nam phải có tinh thần yêu nước, tự cường dân

tộc, phấn đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có ý chí vươn lên đưa đất

nước thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, đoàn kết với nhân dân thế giới trong sự

nghiệp đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội

Trong giai đoạn hiện nay và cả trong vài thập kỉ tới, xu thế toàn cầu hóa tiếp

tục phát triển mạnh mẽ, quá trình hội nhập ngày càng sâu rộng, sự hợp tác và cạnh

tranh giữa các quốc gia dân tộc ngày càng mãnh liệt, thì ý thức dân tộc hay tinh

thần dân tộc càng trở thành một động lực mạnh mẽ cho sự phát triển đất nƣớc.

Trong toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, tinh thần dân tộc sẽ cố kết cả cộng

đồng thành một khối thống nhất để hợp tác và cạnh tranh. Không tạo đƣợc khối

thống nhất đó để mỗi ngƣời đứng riêng lẻ, tách biệt, rời rạc thì sẽ không có sức

mạnh, không đủ khả năng hợp tác và cạnh tranh, càng không có khả năng đƣa cả

dân tộc vƣợt qua khó khăn, thử thách trong toàn cầu hóa. Do vậy, để nhìn nhận,

đánh giá một con ngƣời trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập khu vực và quốc

tế, yêu cầu tinh thần dân tộc càng phải đƣợc chú trọng nhằm một mặt, phải khơi

dậy, bồi dƣỡng, cổ vũ, khuyến khích tinh thần dân tộc; mặt khác, để sử dụng nó

nhƣ một động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xã hội và hội nhập. Khơi dậy

46

tinh thần dân tộc cũng là khơi dậy tự hào dân tộc, phát huy tất cả những gì tốt

đẹp, thích hợp cho công cuộc đổi mới, hội nhập và gạt bỏ, sửa đổi tất cả những

gì không còn phù hợp, cản trở sự phát triển. Tinh thần dân tộc trong điều kiện

phát triển hòa bình của đất nƣớc là một đảm bảo cho sự đoàn kết dân tộc, cho ý

chí phấn đấu để dân tộc ta có thể “sánh vai cùng các cƣờng quốc năm châu”.

Thứ hai, con người Việt Nam phải có trình độ chuyên môn cao, khả năng

thích nghi nhanh và kỹ năng lao động giỏi.

Thực tế ở nƣớc ta nhiều năm qua kể từ khi mở cửa, hội nhập khu vực và

quốc tế, tình trạng yếu kém về chuyên môn và thiếu tính chuyên nghiệp trong

lao động bộc lộ một cách rõ rệt. Mặt khác, quá trình hội nhập trong điều kiện

Việt Nam có trình độ công nghệ và kinh tế chậm phát triển; năng lực cạnh tranh

của các sản phẩm của Việt Nam yếu hơn so với các nƣớc khác. Do vậy, để hội

nhập quốc tế một cách vững chắc, đòi hỏi Việt Nam buộc phải nâng cao chất

lƣợng nguồn nhân lực, đào tạo nguồn nhân lực theo hƣớng tạo dựng nguồn nhân

lực có trình độ chuyên môn cao, có tính chuyên nghiệp trong lao động và thích

ứng nhanh với tiến bộ của nền khoa học - công nghệ nhân loại, nhất là cuộc cách

mạng khoa học - công nghệ 4.0 hiện nay.

Hiện nay, đầu tƣ nƣớc ngoài đang vào Việt Nam với tốc độ và quy mô

ngày càng lớn, trong khi chúng ta có đội ngũ lao động trẻ dồi dào nhƣng lại

thiếu trình độ chuyên môn, vì vậy việc tận dụng có hiệu quả các nguồn đầu tƣ

nƣớc ngoài có nhiều hạn chế. Mặt khác, do không có trình độ chuyên môn và

tính chuyên nghiệp nên lao động ngƣời Việt Nam ít đƣợc vào làm việc trong các

lĩnh vực quan trọng, hoặc trong các cơ sở sản xuất có trình độ khoa học công

nghệ cao, mà phần lớn chỉ đƣợc lao động trong các cơ sở sản xuất có hàm lƣợng

kỹ thuật và công nghệ thấp hoặc trung bình, vì vậy việc xuất khẩu lao động của

Việt Nam còn hạn chế.

Nhƣ vậy, trình độ chuyên môn cao và tính chuyên nghiệp là một trong

những yếu tố cấu thành và quyết định chất lƣợng nguồn nhân lực hiện đại. Thiếu

nó, con ngƣời chỉ có sức lao động mà không có khả năng lao động trong nền sản

xuất hiện đại.

47

Thứ ba, con người Việt Nam phải có phẩm chất đạo đức mới.

Nói đến phẩm chất đạo đức mới là nói đến hệ thống các quy tắc, chuẩn

mực quan hệ đạo đức, tƣơng ứng với thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện

đại hóa, xây dựng kinh tế thị trƣờng, hội nhập quốc tế để phân biệt với hệ thống

các quy tắc, chuẩn mực đạo đức đã từng tồn tại trong các thời kỳ trƣớc đây.

Phẩm chất đạo đức mới của con ngƣời Việt Nam hiện nay không thoát ly,

tách biệt với những nội dung đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc mà nó là

sự tiếp thu, kế thừa những nội dung tốt đẹp của truyền thống dân tộc, đồng thời,

cải biến một số nội dung cũ cho phù hợp với xã hội hiện đại, gạt bỏ những nội

dung lỗi thời không còn thích hợp với bối cảnh xã hội hiện nay. Phẩm chất đạo

đức mới bao hàm trong nó những nội dung rộng lớn từ lý tƣởng phấn đấu cho

độc lập dân tộc, đất nƣớc phồn vinh, dân giàu, nƣớc mạnh, xã hội dân chủ,công

bằng, văn minh đến hành vi tiết kiệm, nếp sống văn minh, lòng trung thực, nhân

nghĩa, lối sống lành mạnh…

Thứ tư, con người Việt Nam phải có thể lực tốt.

Thể lực, sức khỏe tốt có ý nghĩa quan trọng, quyết định năng lực hoạt động

của con ngƣời. Phải có thể lực, con ngƣời mới có thể phát triển trí tuệ và quan

hệ của mình trong xã hội. Đây là yêu cầu đầu tiên đối với ngƣời lao động ở mọi

thời đại lịch sử, mọi quốc gia, dân tộc khác nhau, song ở từng thời đại, mỗi quốc

gia, dân tộc khác nhau có những yêu cầu với mức độ, nội dung khác nhau. Thể

lực tốt đƣợc hiểu không phải chỉ là tình trạng không có bệnh tật, mà còn là sự

thoải mái, hoàn thiện về thể chất, về trí lực và về xã hội. Song, trƣớc hết con

ngƣời phải có sức khỏe cơ thể với tƣ cách là điều kiện tiên quyết để duy trì và

phát triển trí tuệ, là phƣơng tiện thiết yếu để chuyển tải trí thức vào hoạt động

thực tiễn, để biến tri thức thành sức mạnh vật chất. Đồng thời, phải có trí lực -

đó là sự dẻo dai của hoạt động thần kinh, là sức mạnh của niềm tin và ý chí, là

sức sáng tạo và khả năng vận động của trí lực. Nhƣ Chủ tịch Hồ Chí Minh đã

khẳng định: “Mỗi một người dân yếu ớt, tức là cả nước yếu ớt, mỗi một người

dân khỏe mạnh tức là cả nước mạnh khỏe… dân cường thì quốc thịnh” .

Thể lực của con ngƣời đƣợc xác định bởi kết cấu cơ thể sinh học của con

48

ngƣời (chiều cao, cân nặng, sự cân đối của cơ thể, sự nhạy cảm và sức chịu

đựng…) hoạt động theo những chức năng tự nhiên do cơ thể sinh học điều tiết

và điều khiển. Với sự phát triển của nền kinh tế, nền văn minh xã hội, cơ thể con

ngƣời cũng ngày càng phát triển và hoàn thiện theo quy luật tiến hóa.

Với thực tiễn nƣớc ta hiện nay và bối cảnh quốc tế hiện thời, để phát triển

con ngƣời Việt Nam, để bồi dƣỡng và phát huy nhân tố con ngƣời”, “phát huy

nguồn lực con ngƣời với tƣ cách là yếu tố cơ bản cho sự phát triển xã hội, tăng

trƣởng kinh tế nhanh và bền vững, để có thể “cần và có thể rút ngắn thời gian,

vừa có những bƣớc tuần tự, vừa có bƣớc nhảy vọt” trong quá trình đẩy mạnh

công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc và đời sống xã hội. Chúng ta cần quan

tâm hơn nữa đến phát triển con ngƣời, thực hiện đồng bộ các cơ chế, chính sách,

giải pháp phát triển nguồn lực con ngƣời, nhất là nguồn nhân lực chất lƣợng cao

đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Đổi mới căn bản và toàn diện giáo

dục, đào tạo theo hƣớng mở, hội nhập, xây dựng xã hội học tập, phát triển toàn

diện năng lực, thể chất, nhân cách, đạo đức, lối sống, ý thức tôn trọng pháp luật

và trách nhiệm công dân.

2.2. Nội dung cơ bản của Quản trị nhân lực

Trong nền kinh tế không ngừng phát triển, nguồn nhân lực chính là tài sản

vô giá tạo ra những sản phẩm mang lại giá trị cho doanh nghiệp, quyết định sự

thành công và phát triển của doanh nghiệp. Chính vì vậy, công tác quản trị nhân

lực luôn đƣợc đầu tƣ khéo léo, xứng tầm và mang tính chiến lƣợc cao.

Theo TS. Lê Thanh Hà “Quản trị nhân lực là việc thiết kế, xây dựng hệ

thống các triết lý, chính sách và thực hiện các hoạt động chức năng về thu hút,

đào tạo – phát triển và duy trì nguồn lực con người trong một tổ chức nhằm đạt

được kết quả tối ưu cho cả tổ chức và người lao động” [23,tr10]. Nhƣ vậy, để

đảm bảo khai thác tối đa nguồn lực con ngƣời cho hoạt động của tổ chức, doanh

nghiệp trong mọi thời kỳ, quản trị nhân lực cần thực hiện ba chức năng cơ bản

bao gồm: Thu hút nhân lực; đào tạo – phát triển nhân lực và duy trì nhân lực.

Hiện nay, có rất nhiều cách tiếp cận khác nhau về nội dung của quản trị

nhân lực. Có thể tiếp cận theo các hoạt động của công tác quản trị nhân lực nhƣ:

49

Lập kế hoạch nhân lực, phân tích công việc, tuyển dụng nhân lực, bố trí sắp xếp

nhân lực, đào tạo và phát triển nhân lực; đánh giá thực hiện công việc; thù lao

lao động. Cũng có thế tiếp cận theo các chức năng cơ bản của công tác quản trị

nhân lực. Theo nhóm tác giả, để thuận lợi cho việc nghiên cứu chúng tôi sẽ tiếp

cận theo ba nhóm chức năng của công tác quản trị nhân lực bao gồm: Thu hút

nhân lực; đào tạo – phát triển nhân lực và duy trì nhân lực.

2.2.1. Thu hút nguồn nhân lực

Bất cứ loại hình tổ chức nào, muốn đạt đƣợc thành công trong hoạt động

của mình đều phải chú trọng đến vai trò quan trọng của yếu tố con ngƣời. Trƣớc

hết, tổ chức đó cần phải có sự lãnh đạo sáng suốt, không chỉ ở dừng lại ở cấp

lãnh đạo và các nhà quản lý cấp cao của tổ chức, và để tổ chức hoạt động hiệu

quả nhất, phải đảm bảo sự lãnh đạo xuyên suốt trong tổ chức. Thứ hai, tổ chức

đó cần phải đƣợc quản lý hiệu quả. Thứ ba, tổ chức đó phải có một đội ngũ nhân

viên với đầy đủ kiến thức, kĩ năng, năng khiếu, và thái độ làm việc ở mức độ cao

phù hợp để thực hiện sứ mệnh của tổ chức. Tổ chức là do con ngƣời quản lý và

gây dựng lên. Không có con ngƣời, tổ chức không tồn tại. ( Lunn, Terry. 1992.

The Talent Factor: Key Strategies for Recruiting, Rewarding and Retaining Top

Performers. (Yếu tố tài năng: Các chiến lược tuyển dụng, khen thưởng và giữ

chân những người làm việc tốt nhất). London: Kogan Page Limited.156)

Thu hút nguồn nhân lực là quá trình tìm kiếm và thu hút những ngƣời đƣợc

coi là có đủ năng lực để đăng ký dự tuyển vào làm việc, nhằm có một lực lƣợng

nhân lực tiềm năng, phù hợp với nhu cầu tuyển dụng của tổ chức.

Thu hút nguồn nhân lực nhằm đảm bảo có đủ số lƣợng nhân sự, cán bộ,

nhân viên với chuyên môn, trình độ và phẩm chất phù hợp cho yêu cầu công

việc của tổ chức nhƣ kế hoạch hóa nhân lực, phân tích công việc, tuyển dụng.

Việc đảm bảo chất lƣợng lao động cho yêu cầu hoạt động sản xuất kinh doanh

này của tổ chức thƣờng phải căn cứ trên các yếu tố về kế hoạch sản xuất, kinh

doanh của tổ chức, thực trạng sử dụng nhân sự của tổ chức trong hiện tại và các

yêu cầu công việc cần tuyển thêm ngƣời. Chức năng này trong quá trình hoạt

động thƣờng áp dụng các kỹ năng tuyển dụng nhƣ trắc nghiệm, phỏng vấn vì

50

đây là một phƣơng pháp tuyển dụng có tác dụng tích cực, giúp chọn đƣợc những

ứng viên tốt, phù hợp nhất cho yêu cầu công việc của tổ chức.

Thu hút nhân lực giúp nâng cao năng lực cạnh tranh cốt lõi và bền vững

của tổ chức thông qua yếu tố của con ngƣời, giúp tổ chức tiết kiệm đƣợc chi phí

và sử dụng hiệu quả các nguồn lực khác của tổ chức, đồng thời tạo điều kiện để

nâng cao hiệu quả công việc, chất lƣợng sản phẩm dịch vụ của tổ chức.

2.2.2. Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực

Đào tạo đƣợc hiểu là hoạt động học tập nhằm giúp cho ngƣời lao động có

thể thực hiện có hiệu quả hơn các chức năng, nhiệm vụ của mình. Nói một cách

cụ thể đào tạo liên quan đến việc tiếp thu các kiến thức, kỹ năng đặc biệt, nhằm

thực hiện những công việc cụ thể một cách hoàn hảo hơn.

Phát triển là hoạt động học tập vƣợt ra khỏi phạm vi công việc trƣớc mắt,

liên quan tới việc nâng cao khả năng trí tuệ và cảm xúc cần thiết để thực hiện

các công việc tốt hơn hoặc mở ra cho họ những công việc mới dựa trên cơ sở

những định hƣớng tƣơng lai của tổ chức.

Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực chú trọng đến việc nâng cao năng lực

của nhân viên, đảm bảo cho nhân viên trong doanh nghiệp có các kỹ năng, trình

độ lành nghề cần thiết để hoàn thành các công việc đƣợc giao và tạo điều kiện

cho nhân viên đƣợc phát triển tối đa các năng lực cá nhân. Nhóm chức năng này

tập trung vào các hoạt động hƣớng nghiệp, huấn luyện, đào tạo các kỹ năng thực

hành cho công nhân; bồi dƣỡng nâng cao trình độ, cập nhật kiến thức quản lý và

nhân viên chuyên môn nghiệp vụ.

Đào tạo và Phát triển cung cấp cho doanh nghiệp nguồn vốn nhân sự chất

lƣợng cao góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh. Đào tạo đƣợc coi là một vũ

khí chiến lƣợc của tổ chức nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh trƣớc các đối

thủ. Góp phần thực hiện tốt chiến lƣợc chung về nhân sự của một tổ chức và cao

hơn là chiến lƣợc chung về nhân sự của quốc gia.

Ngày nay đào tạo đƣợc coi nhƣ một khoản đầu tƣ vào nguồn vốn nhân lực

của tổ chức. Các nghiên cứu cho thấy hiệu quả của những nhân viên mới đƣợc

đào tạo ngang bằng với những nhân viên có kinh nghiệm. Đồng thời Đào tạo tạo

51

ra một nguồn năng lực hiện tại và tƣơng lai cho tổ chức. Ngày càng có nhiều

bằng chứng kinh tế chứng tỏ rằng việc đầu tƣ cho Đào tạo gắn liền với khả năng

sinh lợi lâu dài và bền vững cho tổ chức.

2.2.3. Duy trì nguồn nhân lực

Duy trì nguồn nhân lực nói chung là tìm mọi cách để giữ chân nhân viên

và lôi kéo nhân viên ở lại làm việc cho tổ chức nhằm đáp ứng nhu cầu trƣớc

mắt và mục tiêu phát triển lâu dài của tổ chức, là điều kiện quyết định các tổ

chức có thể đứng vững và thắng lợi trong môi trƣờng cạnh tranh.

Duy trì nguồn nhân lực nhằm duy trì và sử dụng có hiệu quả nhất nguồn

nhân lực hiện có tại tổ chức; kích thích hoặc động viên, phát triển các mối quan

hệ lao động gắn bó, đoàn kết tốt trong mỗi doanh nghiệp. Các biện pháp nhƣ:

mạnh dạn giao cho nhân viên dƣới quyền các công việc có tính thử thách để

luyện bản lĩnh và năng lực; đánh giá đúng năng lực cán bộ, nhân viên; trả lƣơng

phù hợp (nếu đƣợc thì trả lƣơng cao để động viên nhiệt tình công tác) và công

bằng; kịp thời khen thƣởng các cá nhân cần cù trong công việc, có sáng kiến

mới, cải tiến kỹ thuật, có nhiều đóng góp làm tăng hiệu quả hoạt động sản xuất

kinh doanh hoặc tăng uy tín cho doanh nghiệp v.v… Các công việc cụ thể, các

chính sách và biện pháp nhƣ xây dựng, quản lý hệ thống thang bậc lƣơng, thực

hiện chính sách lƣơng bổng, thăng tiến, kỷ luật, tiền thƣởng, phúc lợi, phụ cấp

v.v… đều có tác dụng tích cực trong công việc duy trì và phát triển hiệu quả

nguồn nhân lực cho yêu cầu tồn tại và phát triển tổ chức.

2.3. Vận dụng phƣơng pháp quản lý của Khổng Tử tại Việt Nam hiện

nay

2.3.1. Vận dụng Đức trị của Khổng Tử tại Việt Nam

Công tác quản lý nói chung ở Việt Nam trong thời gian qua đã đạt đƣợc

những thành tựu ban đầu. Thành quả trên đạt đƣợc do đã vận dụng kết hợp sáng

tạo giữa thành tựu của khoa học công nghệ đƣơng đại, kết hợp với những học

thuyết tƣ tƣởng quản lý kinh điển của nhân loại nhƣ Đức trị, Pháp trị, Quản lý

hành chính… và bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam. Đi sâu vào nghiên cứu trong

lĩnh vực quản lý nhân sự, chúng ta thấy rằng các nhà quản lý đã học hỏi, áp

52

dụng một cách linh hoạt, sáng tạo, có chọn lọc đậm nét tƣ tƣởng Đức trị trong

quản lý:

- Việt Nam là một quốc gia chịu ảnh hƣởng mạnh mẽ tƣ tƣởng của “Đức

trị”. Từ thời nhà Lý đã xây dựng Quốc Tử Giám để giảng dạy Tứ Thƣ, Ngũ

Kinh… các triều đại phong kiến sau vẫn tiếp tục truyền thống đó đến đầu thế kỷ

XX. Tuy nhiên, tƣ tƣởng quản trị nhân lực nói chung, lựa chọn – đào tạo nhân

tài của cha ông ta mang bản sắc riêng, không sao chép máy móc. Mà kết hợp

giữa tƣ tƣởng Đức trị với bản sắc văn hoá Việt Nam và nhu cầu tự bảo vệ trƣớc

sự xâm lăng ngoại bang.

Hệ thống tƣ tƣởng của ông cha ta đƣợc đúc kết dƣới dạng: hịch, cáo, văn,

thơ, tục ngữ ca dao.. và quan trọng nhất là qua cuộc đời của các anh hùng dân

tộc, các danh nhân văn hoá (Lý Thƣờng Kiệt, Trần Hƣng Đạo, Nguyễn Trãi,

Nguyễn Huệ, Nguyễn Du,…). Tƣ tƣởng quản trị nhân lực Việt Nam mang tính

đại nhân, đại nghĩa, “khoan sức dân để làm kế sâu bền gốc”, “tƣớng sỹ một lòng

phụ tử, hoà nƣớc sông chén rƣợu ngọt ngào”, “lấy đại nghĩa để thắng hung tàn,

đem chí nhân mà thay cƣờng bạo”, “việc nhân nghĩa cốt ở yên dân”…

Nét độc đáo, sáng tạo của tƣ tƣởng quản trị nhân lực Việt Nam ở chỗ đã kết

hợp hài hòa giữa tƣ tƣởng Đức trị với bản sắc văn hoá Việt Nam,đảm bảo tính

bền vững và tính hiện thực trong giải quyết vấn đề. Văn hoá đƣợc sử dụng nhƣ

một yếu tố chủ chốt để tác động đến hành vi của con ngƣời. Với phƣơng châm

“Dĩ bất biến, ứng vạn biến” xuyên suốt trong hành động đối nhân xử thế của các

nhà quản lý nhân lực Việt Nam là một mệnh đề thể hiện tƣ tƣởng biện chứng

phƣơng Đông . Nguyên tắc này đóng vai trò chủ đạo đối với hành động của các

nhà quản lý nhân lực Việt Nam trong mọi thời đại, là công thức vừa đem lại thành

công cho giai đoạn trƣớc lại có thể trở thành tiền đề của giai đoạn sau trong thời

kỳ hội nhập kinh tế quốc tế, cùng nhau xây dựng một thế giới phẳng, không biên

giới.

Tƣ tƣởng Đức trị là phƣơng châm, phong cách, hành động của các nhà

quản lý, nói đi đôi với làm, là tấm gƣơng về cần kiệm liêm chính, chí công vô

tƣ. Các quốc gia, dân tộc Phƣơng Đông đều giàu tình cảm, với họ: một tấm

53

gƣơng sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền. Chính vì vậy,

nhà quản lý muốn thành công, trƣớc hết phải tự rèn mình làm gƣơng cho mọi

ngƣời. Trong công việc, cuộc sống phải lấy nhân văn làm nguyên tắc “dụng

nhân nhƣ dụng mộc”, luôn khoan dung vì ngƣời đời ai cũng có chỗ hay chỗ dở.

Phải dùng chỗ hay của ngƣời và giúp ngƣời chữa chỗ dở. Ngƣời thợ khéo thì gỗ

to…

- Trong thời đại hội nhập sâu rộng, toàn diện nhƣ hiện nay. Tƣ tƣởng,

phong cách quản trị nhân lực đƣợc thể hiện nhiều, rõ nhất cùng với sự phát triển

của hệ thống các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần. Ở Việt Nam hiện nay, Tổ

chức tƣ vấn giáo dục Việt Nam (Eduviet Corporation) đã khảo sát thực tế, kết

quả thu đƣợc là: “khoảng 25,4% doanh nghiệp đƣợc khảo sát đã bắt đầu áp dụng

tƣ tƣởng quản trị nhân lực mang bản sắc Việt Nam, trong đó có nhiều doanh

nghiệp khá nổi tiếng: Bitis, Vitek, Trung Nguyên, FPT, HPT, Công ty Nông sản

thực phẩm xuất khẩu TP.HCM, Công ty PACE… Nhiều giám đốc doanh nghiệp

thành đạt cũng cho rằng trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế

lại càng cần phải áp dụng tƣ tƣởng quản trị mang bản sắc của dân tộc bởi nó tạo

nên sự gắn kết sức mạnh trên tinh thần nhân nghĩa. Nó góp phần duy trì đội ngũ

nhân sự và khơi dậy tinh thần tự cƣờng dân tộc, từ đó phát huy tính sáng tạo, ý

chí cạnh tranh trên thƣơng trƣờng nhằm chiến thắng các doanh nghiệp đối thủ

đến từ các quốc gia khác nhau trên thế giới.”

- Trên phƣơng diện vĩ mô cấp quốc gia, tƣ tƣởng Đức trị đã kết hợp với

điều kiện văn hóa, kinh tế Việt Nam hình thành hệ thống tƣ tƣởng về phân chia

lợi ích, quyền lợi trong hoạt động quản trị nhân lực, quan hệ lao động chi phối tất

cả các tổ chức, cá nhân trở thành một tƣ tƣởng dân tộc: “dĩ công vi thƣợng”, tránh

những xung đột lợi ích giữa cá nhân, tập thể, và xã hội. Các nhà quản lý nhận

thức đầy đủ tầm quan trọng của mối quan hệ chặt chẽ giữa lợi ích kinh tế và hành

vi từ đó giải quyết hài hoà lợi ích trong quá trình vận dụng tƣ tƣởng quản trị nhân

lực Việt Nam hiện đại. Bên cạnh đó, từng cá nhân phải hiểu rõ sự tác động, tƣơng

quan lợi ích giữa bản thân, tập thể và toàn xã hội, từ đó xác định động cơ hành

54

động bản thân một cách phù hợp theo điều kiện cụ thể để tránh xung đột về lợi

ích.

Tóm lại, với bề dày lịch sử và truyền thống văn hoá lâu đời của dân tộc,

tƣ tƣởng quản lý nói chung và quản trị nhân lực đã tiếp thu có chọn lọc, sáng tạo

học thuyết Đức trị, thích ứng cao với điều kiện kinh tế xã hội Việt Nam. Từ đó,

vận dụng một cách linmh hoạt vào thực tiễn hoạt động quản lý, kinh doanh để

phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế – xã hội của đất nƣớc, hƣớng tới thực

hiện mục tiêu: “Dân giàu, nƣớc mạnh, xã hội dân chủ, công bằng văn minh”.

Những điểm lợi và hại của “Đức trị”

Đƣờng lối đức trị trong quản lý, chủ yếu là dựa vào xây dựng quan niệm

giá trị chung của mọi ngƣời, dựa vào quyền lực phi chính thức của bản thân

ngƣời lãnh đạo nhƣ phẩm chất đạo đức, tài năng, tình cảm..., dẫn dắt mọi ngƣời

hoàn thiện cuộc sống tinh thần và tu dƣỡng đạo đức, trên cơ sở đó, thực hiện

khống chế bên trong của hành vi, khiến cho hành vi của mọi ngƣời tự giác đảm

bảo nhất trí với mục tiêu tổ chức. Cái lợi và cái hại của quản lý đức trị, hầu nhƣ

ngƣợc lại với quản lý pháp trị, ƣu điểm, khuyết điểm trái ngƣợc nhau. Pháp trị

dựa vào sức răn đe, luôn luôn có hiệu quả ngay. Đức trị dựa vào giáo hoá, dựa

vào tƣ tƣởng để giải quyết vấn đề. Nhƣ vậy, hiệu quả sẽ nhìn thấy chậm. Nhất là

hình thành đạo đức nếp sống lí tƣởng, xây dựng quan niệm giá trị chung thì mất

thời gian, quyết không thể một sớm một chiều. Do vậy, dùng nó để ngăn cấm ác,

giảm lan truyền thì tỏ ra lực bất tòng tâm. Nhất là trong khi quản lý xuất hiện

hỗn loạn, đòi hỏi dẹp loạn để xây dựng lại trật tự, làm cho quản lý nhanh chóng

từ không nền nếp chuyển biến thành có nền nếp thì đức trị tỏ ra mềm yếu đuối

sức. Nhƣng sau khi một loại tƣ tƣởng, một loại quan niệm giá trị đƣợc mọi

ngƣời tiếp nhận, thì thời gian phát huy tác dụng của nó tƣơng đối dài, thậm chí

là rất sâu xa. Điểm này quản lý pháp trị không sao bì kịp. Do vậy, có thể nói

pháp trị theo đổi là hiệu quả thời gian ngắn, đức trị theo đổi là hiệu quả thời gian

dài. Pháp trị là quản lý tính chiến thuật, đức trị là quản lý tính chiến lƣợc. Còn

chức năng đức trị ở chỗ “khuyên thiện”. Nó không phải là giảm lƣu truyền, ngăn

55

chặn “ác” một cách tiêu cực mà là tích cực tiêu diệt tận gốc cái “ác”, thực hiện

“chặt đứt gốc rễ”, giải quyết vấn đề từ căn bản.

2.3.2. Vận dụng phương pháp nêu gương của Khổng Tử tại Việt Nam

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, nêu gƣơng luôn là một

phƣơng thức lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong cuộc đấu tranh

giành độc lập dân tộc, dù phải chịu tra tấn, tù đày, án chém, bom đạn, đói khát...

đảng viên của Đảng là những tấm gƣơng hy sinh tất cả, vì thắng lợi của cách

mạng. Trong hòa bình xây dựng đất nƣớc, nhiều đảng viên của Đảng cũng phải

lao tâm khổ trí, chịu nhiều thiệt thòi, quyết tìm tòi con đƣờng đổi mới; gắn vận

mệnh đổi mới với vận mệnh đất nƣớc, gia đình, bản thân; sƣớng khổ, vui buồn

cùng những thăng trầm của đất nƣớc, của sự nghiệp đổi mới.

Cƣơng lĩnh Xây dựng đất nƣớc trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội

(bổ sung, phát triển năm 2011) nhấn mạnh: Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng

cầm quyền, lãnh đạo Nhà nƣớc và xã hội. Đảng lãnh đạo bằng cƣơng lĩnh, chiến

lƣợc, các định hƣớng về chính sách và chủ trƣơng lớn; bằng công tác tuyên

truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm tra, giám sát và bằng hành động

gƣơng mẫu của đảng viên.

Ngày 07-6-2012, Ban Bí thƣ Trung ƣơng Đảng ban hành Quy định số

101-QÐ/TW về trách nhiệm nêu gƣơng của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ

lãnh đạo chủ chốt các cấp. Trong đó, quy định rõ bảy nội dung nêu gƣơng: 1-Về

tƣ tƣởng chính trị; 2- Về đạo đức, lối sống, tác phong; 3- Về tự phê bình, phê

bình; 4- Về quan hệ với nhân dân; 5- Về trách nhiệm trong công tác; 6- Về ý

thức tổ chức kỷ luật; 7- Về đoàn kết nội bộ. Tiếp theo Quy định số 101-QÐ/TW,

Bộ Chính trị ban hành Quy định số 55-QĐ/TW, ngày 19-12-2016, về một số

việc cần làm ngay để tăng cƣờng vai trò nêu gƣơng của cán bộ, đảng viên. Quy

định số 08-QĐ/TW, ngày 25-10-2018(2) của Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng

khóa XII, quy định trách nhiệm nêu gƣơng của cán bộ, đảng viên trƣớc hết là Ủy

viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thƣ, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ƣơng, yêu

cầu cán bộ, đảng viên, trƣớc hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thƣ,

Ủy viên Ban Chấp hành Trung ƣơng phải “gƣơng mẫu thực hiện Quy định số

56

101-QĐ/TW, ngày 7-6-2012, của Ban Bí thƣ về trách nhiệm nêu gƣơng của cán

bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, chủ chốt các cấp”.

Trong Quy định số 08-QĐ/TW, không quy định theo từng lĩnh vực,

nhƣng quy định thành các điều, nêu rõ: Để thực hiện trách nhiệm nêu gƣơng,

cán bộ, đảng viên, trƣớc hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thƣ, Ủy

viên Ban Chấp hành Trung ƣơng phải nghiêm chỉnh chấp hành Cƣơng lĩnh,

Điều lệ, nghị quyết, chỉ thị, quy định, quy chế của Đảng, chính sách, pháp luật

của Nhà nƣớc; phải đi đầu thực hiện trách nhiệm nêu gƣơng, phải nghiêm khắc

với bản thân và kiên quyết chống các hiện tƣợng tiêu cực, nhƣ chủ nghĩa cá

nhân, nói không đi đôi với làm, quan liêu, tham nhũng, lãng phí, cửa quyền, lạm

quyền, trục lợi...

Thực hiện chủ trƣơng, quy định về trách nhiệm nêu gƣơng của cán bộ,

đảng viên, trong những năm qua, công tác quản lý, xây dựng đất nƣớc, Việt

Nam đã đạt đƣợc nhiều kết quả tích cực.

Đánh giá về kết quả đã đạt đƣợc, phát biểu tại Hội nghị Trung ƣơng 8

khóa XII, Tổng Bí thƣ Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Nhờ có những chủ

trƣơng, quy định đúng đắn và kịp thời đó, ý thức trách nhiệm nêu gƣơng của cán

bộ, đảng viên đã từng bƣớc đƣợc nâng lên, tạo sự chuyển biến tích cực về tƣ

tƣởng chính trị, đạo đức, lối sống, tác phong làm việc; ý thức tổ chức kỷ luật và

đoàn kết nội bộ. Việc thực hiện các chủ trƣơng, quy định của Đảng đã góp phần

tăng cƣờng kỷ luật, kỷ cƣơng của Đảng; nâng cao năng lực lãnh đạo và sức

chiến đấu của tổ chức đảng, đảng viên; góp phần ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái,

tham nhũng, tiêu cực, củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân vào

sự lãnh đạo của Đảng”.

Tuy nhiên, Tổng Bí thƣ cũng thẳng thắn cho rằng, kết quả thu đƣợc còn

hạn chế, chƣa đạt mục tiêu, yêu cầu đề ra. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức

quán triệt, triển khai thực hiện vẫn còn bất cập, hiệu quả chƣa cao, chƣa tạo

đƣợc sức lan toả lớn. “Nhiều cán bộ, đảng viên, trong đó có cán bộ lãnh đạo chủ

chốt các cấp chƣa xác định rõ trách nhiệm và chƣa thật sự gƣơng mẫu trong rèn

luyện, giữ gìn phẩm chất, đạo đức, lối sống, tác phong với những biểu hiện nhƣ

57

nói không đi đôi với làm, nói nhiều làm ít, có cán bộ còn trục lợi, tham nhũng,

lãng phí, tiêu cực; đặc biệt có cán bộ lãnh đạo cấp cao, cả đƣơng chức và nghỉ

hƣu, đã vi phạm nghiêm trọng kỷ luật của Đảng, pháp luật của Nhà nƣớc, gây dƣ

luận xấu trong cán bộ, đảng viên và nhân dân”, Tổng Bí thƣ nhấn mạnh.

Chính vì vậy, để phát huy vai trò nêu gƣơng, đòi hỏi mỗi tổ chức, mỗi cá

nhân cần tự giác, trung thực, tự phê bình thật khách quan. Tập trung kiểm điểm

về chức trách nhiệm đƣợc giao; về phẩm chất cá nhân của mình trên tất cả các

mặt từ nhận thức, tƣ tƣởng chính trị, đạo đức, lối sống, ý thức tổ chức kỷ luật,

đến quan hệ với quần chúng... Thấy rõ ƣu điểm để phát huy, nhận ra khuyết

điểm để sửa chữa; đồng thời, coi trọng sự giáo dục, sự giúp đỡ chân thành của

đồng chí, đồng nghiệp, học tập lẫn nhau, không đƣợc có tƣ tƣởng dễ dãi, bao

che, hoặc tranh công, đổ tội, không hứa “suông”. Nhƣ thế mới thật sự là nêu

gƣơng, là ngƣời gƣơng mẫu. Bác Hồ và nhiều chiến sĩ cộng sản tiền bối đã nêu

tấm gƣơng sáng tuyệt vời về đạo đức cách mạng, suốt đời tận tụy, hy sinh vì sự

nghiệp cách mạng, vì nƣớc vì dân.

Do đó, trong tình hình hiện nay, chúng ta cần phải đề cao vai trò của nêu

gƣơng đối với đội ngũ quản lý, cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ cao cấp, ngƣời

đứng đầu, coi đây là một phƣơng thức lãnh đạo văn minh nhất.

2.4. Việc vận dụng tƣ tƣởng quản lý của Khổng Tử vào quản trị nhân

lực ở Việt Nam hiện nay

2.4.1. Vận dụng vào trong thu hút nguồn nhân lực

Coi trọng ngƣời tài, ngƣời có năng lực thực sự. Trong các yếu tố của con

ngƣời luôn phải coi trọng yếu tố đạo đức. Đạo đức đƣợc coi là gốc của con ngƣời.

Trong triết học Khổng Tử có ý nghĩa sâu rộng, bao hàm nhiều mặt trong

đời sống đạo đức con ngƣời, có lúc trừu tƣợng, có lúc cụ thể, tuỳ theo trình độ,

hoàn cảnh của mỗi ngƣời mà đƣợc diễn đạt, giảng giải khác nhau. Bàn về bản

chất con ngƣời, Khổng Tử đã cho rằng, bản tính của con ngƣời là thiện và nó

gần giống nhau ở tất cả mọi ngƣời. Ông nói: "Tính tương cận giã; tập tương

viễn giã". Nghĩa là, con ngƣời khi mới sinh ra đều có cái tính trời phú cho là gần

giống nhau, nhƣng do quá trình tiếp xúc, học hành mà làm cho họ có sự khác

58

nhau, có kẻ trí, ngƣời ngu; phẩm chất của con ngƣời là chất phác, chân thực và

đó là điều kiện thuận lợi để trau dồi đức nhân và tất cả các đức khác cũng từ đức

nhân mà ra. Bản tính của con ngƣời là thiện nhƣng vì con ngƣời quen thói đời,

mê vật dục nên mới thấy điều nhân xa mình. Khổng Tử nói: “Thấy người thiện

(nên cố gắng bắt chước) như sợ rằng chẳng theo kịp, thấy người bất thiện (nên

tránh xa) như mó phải nước sôi”. Theo lời Khổng Tử, “thiện” và cả “ác” đƣợc

hiểu là những đức, phẩm chất hoặc tính cách của con ngƣời, vì chúng ở ngay

trong những con ngƣời cụ thể, những ngƣời đƣợc coi là “ngƣời thiện” hoặc

“người bất thiện”. Ở ngƣời thiện, thì thiện là những gì tốt đẹp, có ích, thậm chí

còn là cái tốt đẹp lớn, khiến ngƣời ta “theo chẳng kịp”, còn ở ngƣời bất thiện,

thì bất thiện là cái ác, cái xấu, thậm chí là gây nguy hiểm, mà gặp nó giống nhƣ

“mó phải nước sôi”. Tuy nhiên, thiện không hoàn toàn chỉ có nghĩa là cái thuộc

về con ngƣời, ở trong con ngƣời. Ngay đối với “ngƣời thiện” cũng thế, cụ thể là

khi anh ta hƣớng theo, làm theo những chuẩn mực tốt đẹp ở bên ngoài mình. Nói

với Phàn Trì về việc tu dƣỡng đức tính, tu sửa lỗi lầm, Khổng Tử cho rằng:

“Phải gắng làm điều thiện mới mong được điều thiện”. Vì vậy, khi con ngƣời

đã có nhân thì phải luôn giữ lấy điều nhân, đừng bao giờ xa rời nó, dù chỉ trong

một khoảnh khắc thời gian.

Theo Khổng Tử, bản chất con ngƣời là do thiên mệnh chi phối, đức nhân là

giá trị cao nhất của con ngƣời. Khổng Tử luôn khát khao đƣa xã hội trở lại thời

kỳ thanh bình, thịnh trị của thời Nghiêu, Thuấn (truyền thuyết của ngƣời Trung

hoa). Vì thế, có thể nói các chuẩn mực đạo đức là vấn đề lớn nhất trong học

thuyết của ông. Trong học thuyết của Khổng Tử, ông lấy đạo Nhân làm gốc bởi

Nhân tức là đạo làm ngƣời, chỉ có thực hiện đạo Nhân mới có thể khắc phục

đƣợc thực trạng: bề tôi giết vua, con giết cha, em giết anh, bạn bè lấn át nhau

đang diễn ra nhƣ cơm bữa trong xã hội. Theo đạo đức của Khổng Tử thì cái đạo

làm ngƣời có “tam cƣơng”, phản ánh ba mối quan hệ rƣờng cột và phổ biến

trong xã hội. Đó là: Vua - tôi, cha - con, chồng - vợ. Sau này, các học trò của

Khổng Tử đã đi từ “tam cương” đến “ngũ luân”, thêm hai mối quan hệ xã hội

cơ bản nữa là anh - em và bè bạn. Việc giải quyết các mối quan hệ bên trong tổ

59

chức theo các chuẩn mực nhất định đáng để chúng ta xem xét và kế thừa có

chọn lọc những hạt nhân hợp lý của nó.

Ngƣời cán bộ phải lấy đạo đức làm gốc. Khổng Tử yêu cầu đạo đức là gốc

của ngƣời quân tử. Quân tử phải có đủ nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Có nhƣ thế mới

cảm hóa đƣợc dân chúng, dẫn dắt đƣợc họ theo mình. Những yêu cầu đó của

Khổng Tử cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị, dù thời thế đã thay đổi nhiều.

Nhƣ vậy, có thể nói, trong quan niệm của Khổng Tử, "Nhân" không chỉ là

"yêu người", "thương người", mà còn là đức hoàn thiện của con ngƣời, và do

vậy, "nhân chính" là đạo làm ngƣời - sống với mình vả sống với ngƣời, đức

nhân là cái bền vững nhƣ núi sông. Với ông, nếu thịnh đức của trời - đất là sinh

thành, bắt nguồn từ đạo trung hoà, trung dung thì cái gốc của đạo lý con ngƣời

là "trung thứ" và đạo đức, luân lý con ngƣời là "Nhân", ngƣời có đạo nhân là

bậc quân tử, nƣớc có đạo nhân thì bền vững nhƣ núi sông .

- Tinh thần của Chính phủ hiện nay là chọn ngƣời “tài” chứ không chọn

“người nhà” đã thể hiện tinh thần của Nho giáo trong công tác tuyển dụng nhân

lực về tuyển ngƣời. Việc Thủ tƣớng Nguyễn Xuân Phúc yêu cầu “tìm người tài

chứ không tìm người nhà” ngay lập tức đã nhận đƣợc sự ủng hộ rất mạnh mẽ

của ngƣời dân, bởi đây cũng là vấn đề rất đƣợc dƣ luận quan tâm. Thông điệp

này đƣợc Thủ tƣớng nhiều lần nhắc lại tại các sự kiện khác nhau. Sở dĩ Thủ

tƣớng nhấn mạnh yêu cầu này là bởi tầm quan trọng đặc biệt của công tác cán

bộ. “Công tác cán bộ rất quan trọng, con người là quyết định”, ông nói với các

thành viên Chính phủ. Ngay trong các cuộc tiếp xúc cử tri của lãnh đạo Đảng,

Nhà nƣớc, công tác cán bộ luôn luôn đƣợc nhắc đến. Điều ngƣời tài cần nhất là

sự đánh giá và sử dụng con ngƣời trên nguyên tắc công bằng, tuyệt đối không

phân biệt đối xử, tuyệt đối không có đặc quyền đặc lợi. Ngƣời dân tin tƣởng, kỳ

vọng quyết tâm và cam kết từ những ngƣời lãnh đạo cao nhất sẽ giúp ngày càng

có thêm nhiều hiền tài ra sức cống hiến vì sự nghiệp chung của đất nƣớc. Tinh

thần của Đảng và Nhà nƣớc khiến nhiều ngƣời nhớ tới quan điểm của Khổng

Tử, theo Khổng Tử “tài đức” là yếu tố đứng đầu. Có thể thấy Dù thời gian trôi

qua bao nhiêu năm, thế giới có biến chuyển thế nào, thì những giá trị tinh túy

60

nhất của Khổng Tử vẫn luôn tồn tại theo năm tháng.

Hiện nay Đảng và Nhà nƣớc đã ban hành nhiều chủ trƣơng, chính sách để

thu hút nhân tài phục vụ công cuộc xây dựng CNXH ở nƣớc ta hiện nay.

Nghị định số: 140/2017/NĐ-CP ngày 05 tháng 12 năm 2017 của Chính phủ

ban hành Nghị định về chính sách thu hút, tạo nguồn cán bộ từ sinh viên tốt

nghiệp xuất sắc, cán bộ khoa học trẻ. Nghị định này quy định về chính sách thu

hút, tạo nguồn cán bộ từ sinh viên tốt nghiệp xuất sắc, cán bộ khoa học trẻ làm

việc tại các cơ quan của Đảng, Nhà nƣớc, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức

chính trị - xã hội từ trung ƣơng đến cấp huyện; các đơn vị sự nghiệp công lập

của Đảng, Nhà nƣớc và lực lƣợng vũ trang

Quyết định số 12/2018/QĐ-TTg ngày 06 tháng 03 năm 2018 của Thủ

tƣớng Chính phủ ban hành Quyết định về tiêu chí lựa chọn, công nhận ngƣời có

uy tín và chính sách đối với ngƣời có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số.

Quyết định này quy định về tiêu chí lựa chọn, công nhận ngƣời có uy tín và

chính sách đối với ngƣời có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số trên phạm vi

cả nƣớc.

Nghị định số 87/2014/NĐ-CP ngày 22 tháng 09 năm 2014 của Chính phủ

ban hành Nghị định quy định về thu hút cá nhân hoạt động khoa học và công

nghệ là ngƣời Việt Nam ở nƣớc ngoài và chuyên gia nƣớc ngoài tham gia hoạt

động khoa học và công nghệ tại Việt Nam. Nghị định này quy định chính sách

thu hút, thẩm quyền quyết định và quy trình chấp thuận việc sử dụng cá nhân

hoạt động khoa học và công nghệ là ngƣời Việt Nam ở nƣớc ngoài và chuyên

gia nƣớc ngoài tham gia hoạt động khoa học và công nghệ tại Việt Nam; trách

nhiệm thực hiện của các cơ quan, tổ chức và cá nhân liên quan.

Nghị định 116/2010/NĐ-CP ngày 24 tháng 12 năm 2010 của Chính phủ

về chính sách đối với cán bộ, công chức, viên chức và ngƣời hƣởng lƣơng trong

lực lƣợng vũ trang công tác có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn. Nghị

định này quy định về phụ cấp thu hút, phụ cấp công tác lâu năm, một số trợ cấp

và thanh toán tiền tàu xe đối với cán bộ, công chức, viên chức và ngƣời hƣởng

lƣơng trong lực lƣợng vũ trang (quân đội nhân dân và công an nhân dân) công

61

tác ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn.

Quyết định số 170/QĐ-TTg ngày 26 tháng 01 năm 2011 của Thủ tƣớng

chính phủ về việc phê duyệt dự án thí điểm tuyển chọn 600 tri thức trẻ ƣu tú, có

trình độ đại học tăng cƣờng về làm Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã thuộc 62

huyện nghèo. Đội ngũ cán bộ chủ chốt ở các xã thuộc huyện nghèo còn nhiều

hạn chế về trình độ chuyên môn, cũng nhƣ năng lực tổ chức thực hiện các nhiệm

vụ phát triển kinh tế - xã hội của địa phƣơng nên việc tổ chức triển khai, thực

hiện Chƣơng trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với các huyện

nghèo theo Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP ngày 27 tháng 12 năm 2008 của

Chính phủ gặp nhiều khó khăn, lúng túng và bất cập. Vì vậy, việc tuyển chọn

những trí thức trẻ ƣu tú có phẩm chất đạo đức tốt, có trình độ đại học để đào tạo,

bồi dƣỡng sau đó bố trí về làm Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã nhằm tăng

cƣờng cán bộ giúp cấp ủy, chính quyền xã thuộc các huyện nghèo lãnh đạo, chỉ

đạo phát triển kinh tế - xã hội, giúp nông dân phát triển sản xuất, nâng cao đời

sống vật chất, tinh thần; đồng thời thông qua các hoạt động thực tiễn ở cơ sở tạo

môi trƣờng rèn luyện thanh niên, tạo nguồn cán bộ bổ sung vào các chức danh

lãnh đạo, quản lý trong các cơ quan của Đảng và Nhà nƣớc. Do vậy, việc xây

dựng và tổ chức thực hiện Dự án thí điểm tuyển chọn 600 trí thức trẻ ƣu tú, có

trình độ đại học tăng cƣờng về làm Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã thuộc 62

huyện nghèo là cần thiết.

Có thể thấy các chính sách của Đảng và Nhà nƣớc đã thể hiện quan điểm

trọng dụng ngƣời tài, ngƣời có năng lực, đặc biệt là đội ngũ tri thức trẻ. Việc

nghiên cứu vận dụng đúng đắn phù hợp các tƣ tƣởng quản lý của Khổng Tử vào

trong công tác thu hút, trọng dụng ngƣời tài là rất cần thiết trong bối cảnh đất

nƣớc đang đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc hiện nay.

2.4.2. Vận dụng vào trong đào tạo và phát triển nguồn nhân lực

Trong mọi hoạt động của xã hội, đặc biệt là hoạt động sản xuất kinh tế

không thể thiếu vắng bàn tay khối óc của con ngƣời. Nói nhân tố con ngƣời là

nói đến những phẩm chất, thuộc tính, tri thức, kinh nghiệm, năng lực, thói

quen… của con ngƣời đƣợc biểu hiện trong các dạng thức hoạt động khác nhau,

62

qua đó ảnh hƣởng đến quá trình phát triển của tổ chức. Yêu thƣơng con ngƣời,

con ngƣời là trung tâm của tổ chức. Phát triển con ngƣời toàn diện - đó cũng

chính là động lực, là mục tiêu mà mỗi tổ chức đang từng bƣớc tiến hành. Bởi lẽ,

ngƣời lao động ngày càng đóng vai trò quan trọng trong mọi lĩnh vực đời sống

xã hội và trong sự phát triển nền kinh tế theo cơ chế thị trƣờng, có sự quản lý

của Nhà nƣớc, theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa, thì chất lƣợng của ngƣời lao

động là nhân tố quyết định.

Phát triển con ngƣời đƣợc xem là thƣớc đo sự phát triển của mỗi quốc gia.

Do đó, đào tạo và phát triển chất lƣợng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực

chất lƣợng cao là một đột phá chiến lƣợc; là yếu tố quyết định đẩy mạnh phát

triển ứng dụng khoa học, công nghệ, cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình

tăng trƣởng và là lợi thế cạnh tranh quan trọng nhất, bảo đảm cho sự phát triển

nhanh, hiệu quả và bền vững.

Đào tạo giúp con ngƣời nhận thức đúng đắn cái đúng cái sai. Triết học của

Khổng Tử nhấn mạnh trên sự tu dƣỡng đức hạnh cá nhân và đề cao các đức tính

“Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín”.

Phƣơng pháp trí dục: Theo Khổng Tử ngƣời học đạo thƣờng ngày phải

luyện tập cho nhuần nhuyễn, tinh thông. Học là quá trình không ngừng ôn luyện,

tự giác lĩnh hội, củng cố và nâng cao nhận thức của mình, đồng thời phải độc lập

suy nghĩ để phát hiện ra điều mới mẻ. Học là giai đoạn đầu tiên để nhận thức sự

vật, tiếp đó phải củng cố điều đã học để phát hiện ra những tri thức mới đem áp

dụng vào cuộc sống. Khổng Tử cho rằng học là do mình và cầu ở mình chứ

không phải là do ngƣời và cầu ở ngƣời. Ngƣời học đạo phải có niềm vui nội tại,

học phải hăng say đến mức trở thành niềm vui. Theo ông, ngƣời đi học phải có

chí, lập chí phải kiên định, khó không sợ, lâu không nản. Vì vậy, ngƣời học

muốn thành công phải có ý chí, quyết tâm, kiên trì, nhẫn nại. Nhƣ ông nói:

“(Việc học) ví như đắp gò, chưa thành vì thiếu một sọt đất, mà ngừng lại, là tại

mình ngưng lại thôi. Cũng như san bằng mặt đất, tuy mới đổ xuống một sọt, đã

thấy có tiến bộ, mình tiếp tục đi tới” (Thí nhƣ vi sơn, vị thành nhất quỹ, chỉ, ngô

chỉ dã. Thí nhƣ bình địa tuy phúc nhất quỹ, tiến, ngô vãng dã).

63

Phƣơng pháp đức dục: Với phƣơng châm coi đạo đức là gốc, tài năng là

ngọn (đức giả bản dã, tài giả mạt dã). Nho giáo đặc biệt đề cao phƣơng pháp tu

dƣỡng đạo đức, lấy mẫu hình ngƣời quân tử làm chuẩn. Theo Khổng Tử:

“Người quân tử không tự trọng thì chẳng uy nghiêm, việc học ắt không kiên cố.

Hãy giữ lòng trung tín làm chủ yếu. Không kết bạn với những người chẳng như

mình. Có lỗi chớ ngại sửa đổi” (Quân tử bất trọng tắc bất uy, học tắc bất cổ.

Chủ trung tín. Vô hữu bất nhƣ kỷ giả. Quá, tắc vật đạn. Đối với bản thân, theo

Khổng Tử, tự tu dƣỡng đòi hỏi mỗi ngƣời phải tự tu dƣỡng đòi hỏi mỗi ngƣời

phải tự luôn luôn xem xét mình, có nhƣ vậy việc tu dƣỡng mới có hiệu quả. Nhƣ

Khổng Tử nói: “Ước thúc bản thân mà còn mắc lỗi là điều hiếm có” (Quá nhi

bất cải, thị vị quá dã). Luôn giữ mình, tự răn mình đừng làm trái bổn phận thì ít

lỗi lầm. Và: “Có lỗi mà không sửa mới thật là lỗi” (Quá nhi bất cải, thị vị quá

dã). Có lỗi mà biết sửa đổi thì không còn là lỗi nữa. Chính sự việc không sửa đổi

đó là lỗi lầm vậy. Ngƣời học phải biết quan sát ngƣời để xét mình, chú trọng học

gƣơng tốt của ngƣời xƣa để rút ra bài học cho bản thân mình. Nhƣ Khổng Tử

nói: “Thấy người hiền phải nghĩ cách làm sao cho bằng người ta. Thấy người

không hiền, hãy xem xét lại bản thân (xem mình có những thiếu sót như những

người kia không?” (Kiến hiền, tƣ tề yên. Kiến bất hiền nhƣ nội tự tỉnh dã).

Ngƣời hiếu học, ham hiểu biết, có tinh thần cầu thị thì đi đâu cũng tìm thấy thầy

giáo. Đó là ngƣời luôn biết tìm ƣu điểm của ngƣời khác để học tập, đồng thời

cũng biết nhìn ra những khuyết điểm của họ để tự sửa chữa bản thân. Thậm chí

không ngại học hỏi từ những ngƣời có địa vị hoặc học vấn thấp hơn mình (Bất sỉ

hạ vấn).

Đào tạo giúp nâng cao chất lƣợng nguồn nhân lực. Trƣớc sau Khổng Tử đã

dạy đến hơn ba ngàn học trò. Những kẻ sĩ khác thấy vậy cũng noi theo, mở rất

nhiều lớp tƣ thục, số ngƣời theo học càng ngày càng đông, đó là cái mốc trong

lịch sử, cũng là một bƣớc tiến vô cùng quan trọng của nền văn hóa Trung Hoa.

Việt Nam học theo điều này…đề cao nền giáo dục…

Trong cuốn Luận Ngữ, Khổng Tử tự coi mình là một "người truyền đạt lại

cái đã có mà không phát minh ra thứ gì khác". Ông rất nhấn mạnh trên tầm quan

64

trọng của sự học, và chƣơng mở đầu Luận Ngữ cũng đề cập tới việc học. Vì thế,

ông đƣợc ngƣời Trung Quốc coi là vị Đại Sƣ. Thay vì tìm cách xây dựng một lý

thuyết mang tính hệ thống về cuộc sống và xã hội, ông muốn các môn đồ của

mình phải suy nghĩ sâu sắc cho chính mình và lặng lẽ nghiên cứu thế giới bên

ngoài, chủ yếu thông qua các cuốn kinh cũ và qua các sự kiện quá khứ có liên

quanh (nhƣ các cuốn Biên niên sử) hay những tình cảm của nhân dân trong quá

khứ (nhƣ Kinh Thi).

Những bài giảng của Khổng Tử sau này đƣợc các môn đồ của ông biến

thành một bộ văn bản tỉ mỉ về những quy định và cách thức thực hiện nghi lễ.

Nhiều thế kỷ sau khi ông đã qua đời, cả Mạnh Tử và Tuân Tử đều viết những

cuốn sách quan trọng, và lúc ấy, một triết lí đã đƣợc tạo dựng đầy đủ, gọi là

Khổng giáo. Sau hơn một ngàn năm, học giả Chu Hi đã diễn giải ý tƣởng Khổng

giáo theo một cách hoàn toàn mới, đƣợc gọi là Tân Khổng giáo, để phân biệt với

những ý tƣởng trong cuốn Luận Ngữ. Tân Khổng giáo có ảnh hƣởng rộng ở

Trung Quốc và Việt Nam cho tới thế kỷ 19.

Để tổ chức xã hội có hiệu quả, điều quan trọng nhất là phải đào tạo cho

đƣợc ngƣời cai trị kiểu mẫu - ngƣời lý tƣởng này gọi là quân tử (quân = kẻ làm

vua, quân tử = chỉ tầng lớp trên trong xã hội, phân biệt với "tiểu nhân", những

ngƣời thấp kém về điạ vị xã hội; sau "quân tử" còn chỉ cả phẩm chất đạo đức:

những ngƣời cao thƣợng, phẩm chất tốt đẹp, phân biệt với "tiểu nhân" là những

ngƣời thiếu đạo đức hoặc đạo đức chƣa hoàn thiện. Điều này có thể đƣợc lí giải

bởi đối tƣợng mà Nho giáo hƣớng đến trƣớc tiên là những ngƣời cầm quyền).

Để trở thành ngƣời quân tử, con ngƣời ta trƣớc hết phải "tự đào tạo", phải "tu

thân". Sau khi tu thân xong, ngƣời quân tử phải có bổn phận phải "hành đạo"

(Đạo không đơn giản chỉ là đạo lí. Nho gia hình dung cả vũ trụ đƣợc cấu thành

từ các nhân tố đạo đức, và Đạo ở đây bao chứa cả nguyên lí vận hành chung của

vũ trụ, vấn đề là nguyên lí đó là những nguyên lí đạo đức do Nho gia đề xƣớng

(hoặc nhƣ họ tự nhận là phát hiện ra) và cần phải tuân theo. Trời giáng mệnh

làm vua cho kẻ nào có Đạo, tức là nắm đƣợc đạo trời, biết sợ mệnh trời. Đạo vận

hành trong vũ trụ khi giáng vào con ngƣời sẽ đƣợc gọi là Mệnh). Cần phải hiểu

65

cơ sơ triết lí của Nho giáo mới nắm đƣợc logic phát triển và tồn tại của nó.

Tƣ tƣởng coi trọng giáo dục đào tạo của ông đến nay vẫn còn có giá trị rất

lớn. Tƣ tƣởng đó đã đƣợc Đảng ta tiếp thu, kế thừa, phát triển, vận dụng để xây

dựng đất nƣớc. Từ trƣớc đến nay, Đảng ta luôn coi nguồn nhân lực là nguồn vốn

quý giá của dân tộc, là động lực trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng chỉ rõ: “xây

dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực cho đất nước, cho từng ngành, từng

lĩnh vực, với những giải pháp đồng bộ, trong đó tập trung cho giải pháp đào tạo,

đào tạo lại nguồn nhân lực trong nhà trường cũng như trong quá trình sản xuất –

kinh doanh, chú trọng nâng cao tính chuyên nghiệp và kỹ năng thực hành”.

Từ chỗ đánh giá cao vai trò của nguồn nhân lực, Đảng rất coi trọng việc

xây dựng đội ngũ nhân lực vững mạnh, không ngừng tăng về số lƣợng, mạnh về

chất lƣợng, đáp ứng đƣợc những yêu cầu mới của sự nghiệp xây dựng đất nƣớc

vì mục tiêu “dân giàu, nƣớc mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Đề

làm tốt việc này, Đảng và Nhà nƣớc ta cần phải có những chủ trƣơng, chính sách

và biện pháp đổi mới đối với giáo dục đào tạo và chính sách sử dụng nguồn

nhân lực một cách có hiệu quả để khai thác những tiềm năng trí tuệ của họ,

hƣớng họ vào việc phục vụ cho mục tiêu làm cho đất nƣớc cƣờng thịnh.

Xuất phát từ quan điểm coi con ngƣời là vốn quý nhất, là nhân tố phát triển

kinh tế – xã hội, quyết định sự thành bại của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã

hội, trong chiến lƣợc phát triển kinh tế xã hội, Đảng ta đặt con ngƣời ở vị trí

trung tâm. Chăm lo cho hạnh phúc của con ngƣời là mục tiêu phấn đấu cao nhất

của chế độ ta. Vì vậy, mọi chủ trƣơng, chính sách của Đảng và Nhà nƣớc ta phải

quán triệt việc chăm sóc, bồi dƣỡng và phát huy nhân tố con ngƣời, phải đào tạo

đƣợc những con ngƣời phát triển cao về trí tuệ, cƣờng tráng về thể chất, phong

phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức, là động lực của sự nghiệp xây dựng xã

hội mới. Để đào tạo đƣợc những con ngƣời có những phẩm chất đó, nhiệm vụ

của giáo dục và đào tạo là rất nặng nề và vẻ vang. Đảng và Nhà nƣớc ta coi giáo

dục đào tạo là quốc sách hàng đầu. Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VIII khẳng

định: “Cùng với khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng

66

đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”. Đồng thời,

Đảng ta còn nhấn mạnh: “giáo dục và đào tạo là chìa khóa để mở cửa tiến vào

tương lai” với mục tiêu nâng cao mặt bằng dân trí, đào tào bồi dƣỡng và nâng

cao chất lƣợng nguồn nhân lực, phát triển, bồi dƣỡng và trọng dụng nhân tài.

Phải nhận thức nhƣ thế bởi lẽ tăng trƣởng kinh tế phụ thuộc vào trình độ phát

triển của con ngƣời đƣợc giáo dục và đào tạo. Phải đào tạo những con ngƣời có

trình độ khoa học công nghệ cao, có năng lực trí tuệ mới đẩy nhanh sự tăng

trƣởng kinh tế. Điều đó đã đƣợc chứng minh bằng thực tiễn sinh động ở nhiều

nƣớc trên thế giới. Những thành công của các nƣớc công nghiệp mới đã khẳng

định chân lý của thời đại là: Không phải giáo dục và đào tạo đi sau sự phát triển

kinh tế mà ngƣợc lại, nó phải đi trƣớc một bƣớc, tạo cơ sở cho sự phát triển kinh

tế. Hội nghị lần thứ 2 ban chấp hành Trung ƣơng Đảng khóa VIII đã chú trọng

bàn về công tác giáo dục, đào tạo, phát triển khoa học công nghệ. Hội nghị đã

chỉ ra những hạn chế, đồng thời vạch ra những biện pháp để phát triển giáo dục

đào tạo. Nhiệm vụ của giáo dục đào tạo nƣớc ta không chỉ “đào tạo, bồi dưỡng

cán bộ công chức, trước hết là cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý” mà còn phải

đào tạo, xây dựng con ngƣời mới trong giai đoạn cách mạng hiện nay. Trong

những tiêu chuẩn con ngƣời mới mà Hội nghị lần thứ 5 (khóa VIII) đề ra có mục

tiêu là “thường xuyên học tập, nâng cao hiểu biết, trình độ chuyên môn, trình

độ thẩm mỹ và thể lực”. Tiếp tục tƣ tƣởng của đại hội VIII, đại hội Đảng toàn

quốc lần thứ XI đã đƣa ra chủ trƣơng: “Phát triển giáo dục đào tạo là một trong

những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa,

là điều kiện để phát huy nguồn lực con người, yếu tố cơ bản để phát triển xã hội,

tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững”. Nghị quyết Đại hội X tiếp tục khẳng

định: Giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là nền

tảng và động lực thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nghị quyết Đại hội XI

vẫn kế thừa quan điểm đó: Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu.

Đội ngũ nguồn nhân lực có trình độ cao trong xã hội với nguồn đào tạo chủ

yếu là từ các trƣờng đại học. Bởi vậy, để đào tạo đƣợc nguồn nhân lực có chất

lƣợng thì cần thiết phải đổi mới cách thức đào tạo ở bậc đại học đi liền với việc

67

ngƣời học phải đổi mới cả phƣơng pháp học tập. Sinh viên đại học – nguồn nhân

lực trong tƣơng lai – phải nhận thức đƣợc rằng việc học tập là nhằm nâng cao

kiến thức cho bản thân. Do vậy, sinh viên phải có tinh thần tự giác học tập,

nghiên cứu khoa học, tự hoàn thiện tri thức để đáp ứng đòi hỏi của xã hội trong

thời đại bùng nổ thông tin nhƣ hiện nay. Quan điểm “học để làm người quân

tử” của Khổng Tử có ý nghĩa hết sức lớn lao trong điều kiện hiện nay ở nƣớc ta.

Nó khơi gợi tinh thần hiếu học, ham hiểu biết rtong mỗi con ngƣời chúng ta.

Đồng thời, nó giúp mọi ngƣời có dịp nhìn lại việc học của bản thân mình để có

sự điều chỉnh thích hợp, học không phải là để có bằng cấp, học không phải để

mƣu cầu danh lợi, chức tƣớc mà học là để làm việc, làm ngƣời đúng nghĩa.

Về phía Đảng và Nhà nƣớc, cần phải huy động mọi nguồn lực của xã hội

vào sự nghiệp giáo dục và đào tạo. Tăng cƣờng đào tạo sau đại học để nâng câo

trình độ nguồn nhân lực. Đặc biệt, trong thời đại bùng nổ thông tin nhƣ hiện

nay, để đảm bảo duy trì khả năng làm việc, ngƣời trí thức phải đƣợc bồi dƣỡng

kiến thức thƣờng xuyên. Đồng thời, Đảng và Nhà nƣớc nên có hƣớng đào tạo ở

các nƣớc tiên tiến đối với đội ngũ chuyên gia thuộc các ngành khoa học và công

nghệ mũi nhọn mà chúng ta đang có có nhu cầu cấp bách nhƣng chƣa có khả

năng đào tạo. Song song đó, cần gắn công tác đào tạo, nghiên cứu khoa học với

các hoạt động sản xuất để nâng cao hiệu quả công tác nghiên cứu và chất lƣợng

giáo dục. Các trƣờng đại học phải vừa là cơ sở đào tạo, vừa là cơ sở nghiên cứu

và ứng dụng khoa học - công nghệ. Trong công tác đào tạo đội ngũ trí thức,

Đảng và Nhà nƣớc ta cũng phải quan tâm hơn đến việc giáo dục tƣ tƣởng chính

trị để giúp trí thức nâng cao ý thức, trách nhiệm trong công tác, ủng hộ đƣờng

lối phát triển đất nƣớc của Đảng và Nhà nƣớc và vƣơn lên trở thành những

ngƣời đi đầu trong việc thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công

bằng, dân chủ, văn minh”.

2.4.3. Vận dụng vào trong duy trì nguồn nhân lực

Học thuyết quản lý của Khổng Tử đòi hỏi mọi ngƣời, trƣớc hết là các chủ

thể cầm quyền - quản lý tổ chức phải tuân theo nguyên tắc chính danh - làm

đúng danh phận của mình trong tổ chức đó, không “việt vị”, thái quá, cũng

68

không đƣợc bất cập với công việc. Loại bỏ yếu tố siêu hình, dập khuôn trong

thuyết “Chính danh” của Khổng Tử, có thể khai thác yếu tố tích cực của nó

trong việc vận dụng vào xác định chức năng, nhiệm vụ và mối quan hệ giữa các

bộ phận cấu thành của hệ thống trong các tổ chức ở Việt Nam hiện nay. Tất

nhiên “Chính danh” ở đây mang ý nghĩa tổ chức nào có chức năng, nhiệm vụ,

tổ chức chặt chẽ, rõ ràng của tổ chức đó, không “lấn sân”, bao biện, làm thay,

buông lỏng quản lý... Từ ý nghĩa chính trị sâu sắc của thuyết “Chính danh”, có

thể khai thác và vận dụng nó vào việc xác định chức năng, quyền hạn của các tổ

chức trong hệ thống chính trị ở nƣớc ta hiện nay, làm cho các tổ chức đó tránh

đƣợc tình trạng chồng chéo chức năng làm việc trùng lặp hoặc bao biện cho

nhau, hoạt động thiếu hiệu quả.

Nhân trị. Nhân là tình ngƣời, nhân trị là cai trị bằng tình ngƣời, là yêu

ngƣời và coi ngƣời nhƣ bản thân mình. Lấy Nhân trị thay cho Kĩ trị. Hiện nay,

việc dùng triết lý Kĩ trị trở nên phổ biến nhƣng thực tế đã chứng minh, những tổ

chức áp dụng nhân trị đang phát triển rất tốt . Ví dụ nhƣ Công ty Cổ phần Đầu tƣ

Thế Giới Di Động:

Thế nhưng sau 10 năm, chính sách kiểm soát chặt chẽ và phạt nhân viên

cũng bắt đầu thể hiện góc độ tiêu cực. "Sau đó chúng tôi mới nhận ra hình như

mình ảo tưởng... Làm sao có chuyện nhân viên đi làm trong tâm trạng lo lắng,

không vui vẻ, lại có thể đem lại sự vui vẻ cho người khác? Bạn không thể nào

đưa cho người khác cái mà bản thân bạn không có.", vị chủ tịch Thế giới di

động thừa nhận…

Quan điểm quản trị của Vingroup và Thế giới di động tại thời điểm hiện

tại qua lời chia sẻ của những nhà sáng lập cũng như thực tế vận hành có sự

khác biệt rõ rệt, thậm chí đối nghịch. Trong khi Vingroup vẫn trung thành với

nguyên tắc cứng rắn, quản lý chặt chẽ thì Thế giới di động đã từ bỏ để theo

nguyên lý yêu thương, nhẹ nhàng. Quan điểm quản trị của Vingroup và Thế giới

di động tại thời điểm hiện tại qua lời chia sẻ của những nhà sáng lập cũng như

thực tế vận hành có sự khác biệt rõ rệt, thậm chí đối nghịch. Trong khi Vingroup

vẫn trung thành với nguyên tắc cứng rắn, quản lý chặt chẽ thì Thế giới di động

69

đã từ bỏ để theo nguyên lý yêu thương, nhẹ nhàng…

Tất nhiên không có câu trả lời đúng và sai trong đường lối quản trị.

Trong cuốn sách Một đời quản trị, giáo sư Phan Văn Trường từng nhấn mạnh:

"Văn hóa nào cũng tốt, với điều kiện nó làm cho nhân viên thoải mái, làm việc

hiệu quả; vai trò của lãnh đạo được hiểu rõ một cách nhất quán; và những quy

luật sống chung, công khai có, ngầm hiểu có, đều giúp doanh nghiệp phát triển

và giữ chỗ đứng cùng như hình ảnh tốt ngoài xã hội"…

Nhưng để trở thành professional, sẽ có lúc tập thể sẽ phải đương đầu với

những khó khăn. Đúng lúc đó công ty hay cá nhân sẽ là người phi thường nếu

giữ được bình tĩnh, ôn tồn làm việc, không lớn tiếng, có lời nhẹ nhàng và ngọt

ngào để khuyết khích (thay vì hiềm khích) lẫn nhau. Với tinh thần làm việc như

thế nhân viên, tập thể sẽ còn tìm được sự thích thú làm việc với nhau…

Theo giáo sư Trường, tóm lại thái độ "nice" (ôn hòa, dễ thương) sẽ đền

bù cho sự khô khan và mạnh bạo của nhu cầu "professional" (chuyên nghiệp).

"Professional mà không nice thì đáng ghét và phá sự đoàn kết. Nice mà không

professional thì sẽ biến chúng ta thành đống thịt nhẽo ủy mị. Nhất thiết là phải

cả 2 cùng đi đôi. Nice AND professional", ông cho biết. [39]

Việc vận dụng Nhân trị vào thực tế đã khẳng định: Ngày nay sự thống

nhất của máy móc, công nghệ nhƣng không thể thay thế con ngƣời. Có nghề mất

đi nhƣng vai trò của quản trị nhân lực và triết lý “Nhân trị” vẫn tồn tại và tạo ra

hệ sáng tạo, có trình độ, chuyên nghiệp, đáp ứng đƣợc nhu cầu ngày càng cao

của xã hội.

Công cụ tạo động lực cho ngƣời lao động chính là đạo đức của nhà quản

lý. Nhà quản lý xây dựng niềm tin, phải làm cho nhân viên nể phục thì họ mới đi

theo và gắn bó với tổ chức. Vì vậy vận dụng thuyết Đức Trị của Khổng Tử vào

việc thu phục ngƣời khác bằng cái Đức của Nhà quản lý hoàn toàn có giá trị.

Đƣờng lối quản lý của Khổng Tử trong quản lý, chủ yếu là dựa vào xây

dựng quan niệm giá trị chung của mọi ngƣời, dựa vào quyền lực phi chính thức

của bản thân ngƣời lãnh đạo nhƣ phẩm chất đạo đức, tài năng, tình cảm..., dẫn

70

dắt mọi ngƣời hoàn thiện cuộc sống tinh thần và tu dƣỡng đạo đức, trên cơ sở

đó, thực hiện khống chế bên trong của hành vi, khiến cho hành vi của mọi ngƣời

tự giác đảm bảo nhất trí với mục tiêu tổ chức.

Trong học thuyết Đức Trị, Khổng Tử chủ trƣơng “sử dân dĩ thời” có

nghĩa là sử dụng ngƣời đúng lúc, biết đánh giá bản chất con ngƣời, đề bạt ngƣời

chính trực lên trên ngƣời cong queo; khách quan, không thành kiến, sử dụng tùy

theo tài năng, đạo đức của từng ngƣời. Vì vậy để thu phục ngƣời khác các tổ

chức phải xác định yếu tố “con người là cốt lõi của sự phát triển, là nguyên khí

của tổ chức”.

Vì vậy nhà quản lý phải có con mắt tinh tƣờng, khi đã chọn đƣợc ngƣời

phải biết dùng ngƣời, tức là phải “chính danh” để giữ ngƣời.

Trong mấy năm qua các tổ chức ở Việt Nam phải đối mặt với tình trạng

chảy máu chất xám rất lớn.

Rất nhiều ngƣời giỏi đã rời bỏ để làm việc cho các tổ chức nƣớc ngoài.

Điều đó không thể trách những ngƣời đó đƣợc bởi, đến với các tổ chức nƣớc

ngoài họ đƣợc trọng dụng, đƣợc đền đáp xứng đáng với năng lực thực sự của họ

Nếu có trách chỉ có thể trách các nhà quản lý của tổ chức đã để ngƣời

tài ra đi. Họ đã không có cách để giữ nhân tài, họ thiếu nghệ thuật quản trị nhân

lực. Ngƣời tài ra đi không chỉ vì tiền lƣơng đƣợc trả cao hơn mà cũng vì ở đó họ

đƣợc làm những công việc thực sự cần đến năng lực của họ, họ đƣợc coi trọng.

Phân định ngƣời tốt ngƣời xấu, quân tử, tiểu nhân để sử dụng, đánh giá trả

công phù hợp

Quân tử ban đầu có nghĩa là ngƣời cai trị, ngƣời có đạo đức và biết thi,

thƣ, lễ, nhạc. Tuy nhiên, sau này từ đó còn có thể chỉ những ngƣời có đạo đức

mà không cần phải có quyền. Ngƣợc lại, những ngƣời có quyền mà không có

đạo đức thì đƣợc gọi là tiểu nhân (nhƣ dân thƣờng).

Các tƣ tƣởng phân định ngƣời tốt, ngƣời xấu, ngƣời quân tử, kẻ tiểu nhân đã

và đang đƣợc Đảng ta vận dụng vào việc đánh giá để loại bỏ những ngƣời không

làm đƣợc việc ra khỏi bộ máy nhà nƣớc. Bên cạnh đó, việc phân định sự đóng góp

của mỗi cá nhân đƣợc lấy làm cơ sở cho việc trả công. Điều này đƣợc thể hiện rất

71

rõ trong đề án “xác định vị trí việc làm” mà Chính phủ đang triển khai.

Cùng với những quan điểm và chính sách đổi mới trong công tác đào tạo

và phát triển để có một nguồn nhân lực đông đảo về số lƣợng, đồng bộ về trình

độ chuyên môn, cân đối về cơ cấu, có bản lĩnh chính trị vững vàng, Đảng và

Nhà nƣớc ta cần tạo điều kiện và môi trƣờng thuận lợi để duy trì và phát huy cao

nhất năng lực của nguồn nhân lực hiện có.

Việc sử dụng và duy trì nguồn nhân lực nhƣ thế nào để đạt hiệu quả cao

nhất còn đòi hỏi những ngƣời quản lý phải hiểu rõ đặc điểm của nguồn nhân lực.

Đối với ngƣời lao động, điều quan trọng nhất là đảm bảo quyền tự do sáng tạo.

Suy nghĩ độc lập, tƣ duy sáng tạo là đặc điểm và bản chất nghề nghiệp của các

nhà khoa học, các cán bộ nghiên cứu, các văn nghệ sĩ. Nhà khoa học, nhất là

những nhà khoa học lớn đều là những ngƣời sáng tạo chân chính, say mê tìm tòi

cái mới trên cơ sở kế thừa có phê phán cái cũ, họ chỉ tồn tại khi sáng tạo ra cái

mới bằng năng lực chuyên môn. Ngƣời chân chính mong muốn có một thời gian

tự do để sáng tạo và vận dụng vào thực tiễn những kết quả sáng tạo của mình.

Đảng và Nhà nƣớc cần nhận thức đƣợc đặc điểm này để xây dựng các quy chế

dân chủ trong sinh hoạt khoa học nhằm đảm bảo quyền tự do sáng tạo cho mỗi

nhà khoa học.

Muốn khơi dậy tiềm năng sáng tạo của con ngƣời còn phải tìm ra động

lực của họ để có chính sách sử dụng họ tốt hơn. Đảng ta đã nhận định động lực

đó “nằm ở lợi ích của những ngƣời nghiên cứu, phát minh và ứng dụng có hiệu

quả khoa học và công nghệ, bao gồm lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần, lợi ích

kinh tế và lợi ích chính trị - xã hội. Để bảo đảm lợi ích của ngƣời trí thức trƣớc

hết phải bố trí cho họ có việc làm đầy đủ và họ phải làm việc theo đúng chuyên

môn của mình. Có nhƣ vậy mới tạo điều kiện cho sự sáng tạo của họ. Sản phẩm

trí tuệ phải là sở hữu của ngƣời trực tiếp sáng tạo ra chúng và phải đƣợc trả công

tƣơng xứng với hiệu quả kinh tế mà chúng mang lại. Điều đó sẽ động viên các

nhà khoa học miệt mài sáng tạo, sáng chế, phát minh, bởi vì họ nhìn thấy những

lợi ích vật chất và tinh thần trong công việc của mình. Cuộc sống của họ đƣợc

đảm bảo và ngày càng đầy đủ hơn bằng chính trí tuệ của họ.

72

Trong khi sử dụng và duy trì nguồn nhân lực, Đảng và Nhà nƣớc ta cũng

cần phải chú trọng đến việc sử dụng và đãi ngộ theo đúng tài – đức, theo kết quả

cống hiến thực tế của nhân lực để thể hiện sự coi trọng và đánh giá đúng công

lao của từng ngƣời để kịp thời động viên họ, làm cho họ phấn khởi đem hết tài

năng ra phụng sự Tổ quốc.

Để tạo điều kiện cho nguồn nhân lực có thể giao lƣu hợp tác quốc tế nhằm

nâng cao trình độ, phát triển tài năng, Đảng và Nhà nƣớc cần có nhiều chính

sách khuyến khích việc hợp tác khoa học trên nhiều lĩnh vực với các nƣớc trong

khu vực và trên thế giới và phải dành ngân sách thỏa đáng cho hoạt động này.

Bên cạnh đó, cần có chính sách thu hút nhân tài là đội ngũ trí thức ngƣời Việt

Nam ở nƣớc ngoài – vốn rất đông đảo và có tiềm năng trí tuệ và kinh nghiệm hết

sức quý giá - tham gia xây dựng đất nƣớc. Thế mạnh của đội ngũ trí thức ở nƣớc

ngoài là đƣợc tiếp cận với những thành tựu mới nhất của khoa học và công nghệ

ở các nƣớc tƣ bản phát triển với trình độ cao. Phần đông họ đều có tinh thần dân

tộc, gắn bó với gia đình, quê hƣơng, có nguyện vọng cống hiến cho quê hƣơng

đất nƣớc.

Có thể khẳng định rằng, việc xây dựng và thực hiện các chính sách đối

với duy trì nguồn nhân lực có liên quan mật thiết đến chiến lƣợc phát triển kinh

tế - xã hội, đến sự phồn vinh của đất nƣớc. Đặc biệt là khi bƣớc thời kỳ bùng nổ

công nghệ 4.0, khoa học – công nghệ sẽ có bƣớc tiến nhảy vọt, nguồn nhân lực

có vai trò ngày càng nổi bật trong quá trình phát triển lực lƣợng sản xuất và trở

nên rất quan trọng. Chúng ta tin tƣởng rằng, nếu có chính sách sử dụng hợp lý,

nguồn nhân lực nƣớc ta với tiềm năng và truyền thống vốn có, với sức mạnh của

khối đại đoàn kết dân tộc, cùng với toàn Đảng, toàn quân và toàn dân “nắm bắt

cơ hội, vƣợt qua thách thức, phấn đấu thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp

hóa, hiện đại hóa đất nƣớc, vì dân giàu, nƣớc mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,

văn minh, vững bƣớc đi tới tƣơng lai.

2.5. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả vận dụng tƣ tƣởng quản lý của

Khổng Tử vào quản trị nhân lực tại Việt Nam

Về sử dụng nhân lực, Khổng Tử chủ trƣơng “sử dân dĩ thời” (sử dụng

73

ngƣời đúng lúc); biết đánh giá bản chất của ngƣời; “đề bạt người chính trực

(ngay thẳng) lên trên người cong queo”; khách quan, không thành kiến, sử dụng

tuỳ theo tài năng, đạo đức của từng ngƣời; Trong đãi ngộ nhân sự, nguyên tắc

phân phối quân bình, không nên quá chênh lệch trong phân phối: “không sợ

thiếu, chỉ sợ không đều” đã đƣợc đề cao; Về đào tạo nhân sự, nhà quản lý phải

chịu khó dạy dỗ, thiếu cái gì dạy cái ấy, nhà quản lý phải là tấm gƣơng để ngƣời

dƣới học tập: “học không biết chán, dạy không biết mỏi”.

2.5.1. Vận dụng Đức trị của Khổng Tử trong quản trị nguồn nhân lực

tại Việt Nam

Thứ nhất, người quản lý trước hết phải là người có lòng Nhân

Biết yêu thƣơng con ngƣời. Hành xử hợp lẽ theo những chuẩn mực đạo đức

xã hội ngầm định thừa nhận. Ngƣời có lòng Nhân thì phải biết hết lòng vì ngƣời

khác, ứng xử theo phƣơng châm: Điều gì mình không muốn thì đừng làm cho

ngƣời khác (kỷ sở bất dục, vật thì ư nhân). Nhà quản lý phải biết tự nghiêm khắc

với bản thân và rộng lƣợng với nhân viên, lo trƣớc nỗi lo của tập thể và vui sau

cái vui của tập thể: vì lợi ích chung lâu dài. Theo tƣ duy “không tư lợi” của ông

thì nhà quản lý hãy cứ chuyên tâm làm việc tốt thì “bổng lộc tự khắc đến”.

Ngƣời quản lý theo phƣơng châm Đức trị sẽ đƣợc mọi ngƣời tin yêu, mến

phục và phục tùng. Vì tâm lý chung của con ngƣời là thƣờng tin vào những điều

tốt đẹp. Bao dung thì đƣợc lòng ngƣời, rộng lƣợng thì đƣợc ngƣời theo: Nếu một

ngƣời quản lý có lòng bao dung và rộng lƣợng thì rất đƣợc lòng nhân viên, đặc

biệt là những nhân viên có thể là do không may phạm phải sai sót trong công

việc, nhƣng không bị rầy la, trách mắng; bên cạnh đó lại còn đƣợc nhà quản lý

chỉ cho thấy khuyết điểm của mình. Nhà quản lý theo phƣơng châm Đức trị có

thể cho phép nhân viên phạm sai lầm trong phạm vi có thể cho phép, vì không

thể thiết lập sự hoàn hảo ngay đƣợc. Tuy nhiên, khi nhân viên phạm sai lầm, nhà

quản lý cần nhắc nhở riêng với nhân viên phạm lỗi. Tuyệt đối không phê bình

sai sót đó trƣớc mặt những ngƣời khác, giúp nhân viên giữ đƣợc thể diện và sự

tự tin, bên cạnh đó nhà quản lý cần yêu cầu nhân viên đƣa ra giải pháp khắc

phục và góp ý cho họ bằng sự chân tình. Khi nhân viên có thành tích tốt, nhà

74

quản lý cần phải khen ngợi kịp thời và thƣởng xứng đáng cho nhân viên đó

trƣớc mặt tất cả mọi ngƣời. Điều này sẽ kích thích lòng tự tôn của nhân viên, họ

sẽ tự hào, biết ơn và tôn trọng nhà quản lý vì nỗ lực của họ đƣợc ghi nhận và

đánh giá cao. Đơn giản thôi, vì ngƣời lao động thƣờng quan niệm: “ba đồng tiền

công không bằng một đồng tiền thưởng”. Để đáp lại, họ sẽ làm việc hết lòng.

Thứ hai, Đức trị cần phải có giới hạn

Đức trị nếu không có giới hạn sẽ bị nhờn. Tƣ tƣởng Đức trị trong quản lý

đƣợc xây dụng theo quan niệm tôn trọng giá trị đạo đức nền tảng chung của mọi

ngƣời dựa trên phẩm chất đạo đức, tình cảm, năng lực của nhà quản lý, những

cái mà khoa học quản lý hiện đại ngày nay gọi là quyền lực mềm. Theo đó, nhà

quản lý sẽ hƣớng dẫn nhân viên làm việc và tu dƣỡng đạo đức với tinh thần tự

giác. Nhƣng khi xuất hiện sự hỗn loạn trong môi trƣờng quản lý, thì tƣ tƣởng

Đức trị gặp nhiều khó khăn trong việc lập lại trật tự hoặc loại trừ các cái xấu, có

thể mất nhiều thời gian và thậm chí bất lực.

Vì có thể nhiều nhà quản lý chƣa thấu hiểu bản chất của Đức trị chƣa nên

tạo lập đƣợc ranh giới giữa lòng Nhân trong đức trị và sự dễ dãi thái quá, dẫn

đến tình trạng dễ bị nhân viên lợi dụng, thậm chí khinh nhờn. Có nhà quản lý

còn nhầm lẫn giữa Đức trị với sự cƣng chiều và thiên vị quá đáng, điều này dẫn

đến tình trạng mâu thuẫn giữa các nhóm nhân viên và hậu quả là chất lƣợng

chung công việc không ổn. Nhóm đƣợc cƣng chiều thƣờng là có năng lực

chuyên môn không cao nhƣng lại xuất sắc trong việc làm vui lòng nhà quản lý.

Nhóm không đƣợc cƣng chiều lại có đặc điểm ngƣợc lại, do đó mặc dù họ đƣợc

giao nhiều việc hơn và khó hơn nhƣng nhà quản lý khó lòng buộc họ toàn tâm

toàn ý làm việc, vì họ không tâm phục khẩu phục. Nhà quản lý không nhận biết

đƣợc điều này, dù họ luôn nghĩ rằng mình thuộc phái Đức trị.

Ngoài ra, nhà quản lý theo phƣơng châm Đức trị là ngƣời ngoài việc thiết

lập các khuôn khổ quản lý theo quy định của doanh nghiệp còn biết vận dụng

những khuôn khổ đó một cách linh hoạt, tùy biến và không cứng nhắc. Đó là

nghệ thuật. Đức trị trong quản lý, suy cho cùng là bài học về nghệ thuật đối nhân

xử thế mà thôi. Nhà quản lý cần làm sao cho nhân viên cảm thấy luôn tự tin, say

75

mê với công việc, đƣợc ghi nhận và đƣợc đối xử công bằng. Sau cùng là nhà

quản lý cần tạo đƣợc sự gần gũi, thân thiện và phải tự mình xóa đi cái ranh giới

giữa mình với nhân viên. Đó cũng là nghệ thuật. Dùng nghệ thuật đòi hỏi phải

có tố chất là yêu cầu bắt buộc. Tuy nhiên nghệ thuật trong quản lý lại là điều có

thể học đƣợc, dù không thể học hết tất cả, nếu nhà quản lý có lòng Nhân với tinh

thần cầu thị có cái Tâm trong sáng. Các quan niệm và giá trị của tƣ tƣởng Đức

trị khi đƣợc mọi ngƣời tiếp nhận, thấm nhuần trong tƣ duy và hành động thì nó

sẽ có tác dụng lâu dài, điều này đặc biệt có giá trị đối với việc phát triển bền

vững của doanh nghiệp. Do vậy, Đức trị là tƣ duy quản lý có tính chiến lƣợc.

Từ đó chúng ta có thể thấy Đức trị phù hợp trị an lâu dài của tổ chức, có lợi

cho tổ chức phát triển ổn định, bền vững. Biến mục tiêu, tôn chỉ, quan niệm giá

trị của tổ chức thành mục tiêu, tôn chỉ quan niệm giá trị của bản thân toàn thể

thành viên.

2.5.2. Vận dụng phương pháp nêu gương của Khổng Tử trong quản trị

nguồn nhân lực tại Việt Nam

Một trong những biện pháp để các nhà quản lý, đội ngũ lãnh đạo, đội ngũ

cán bộ, đảng viên thực hiện chức trách, nhiệm vụ của mình chính là làm gƣơng,

nêu gƣơng trong mọi lúc, mọi nơi cho cấp dƣới và cho quần chúng nhân dân. Có

thể khẳng định, thực hiện tốt biện pháp này sẽ góp phần nâng cao năng lực lãnh

đạo của các nhà quản lý, đồng thời thực hiện có hiệu quả việc xây dựng, đào tạo,

phát triển nguồn nhân lực tại Việt Nam ở giai đoạn hiện nay.

Làm ngƣời lãnh đạo phải có nhiều phẩm chất, nhƣng một trong những

phẩm chất quan trọng nhất là đi tiên phong, phải làm gƣơng cho ngƣời theo sau.

Nêu gƣơng là một công cụ và thuộc tính của lãnh đạo. Ngƣời lãnh đạo là ngƣời

dẫn đƣờng, truyền cảm hứng, động viên, tổ chức quần chúng nhằm đạt đến mục

tiêu, tầm nhìn nhất định. Mục tiêu, tầm nhìn của ngƣời lãnh đạo thông thƣờng

phải xa hơn quần chúng. Ngƣời lãnh đạo là đi tiên phong thực hiện tầm nhìn ấy,

phải chấp nhận tất cả những khó khăn, thách thức, thậm chí rủi ro, hy sinh trên

con đƣờng mới. Muốn thu hút, lôi kéo, động viên đƣợc quần chúng theo mình,

ngƣời lãnh đạo không chỉ đi tiên phong, mà còn là ngƣời nêu gƣơng cho những

76

ngƣời đi theo. Do vậy, nêu gƣơng là công cụ, là thuộc tính của ngƣời lãnh đạo.

Ai muốn trở thành ngƣời lãnh đạo, ngƣời đó phải là một tấm gƣơng và phải biết

nêu gƣơng.

Nêu gƣơng là một phƣơng pháp giáo dục đạo đức hiệu quả. Giáo dục đạo

đức là giáo dục con ngƣời tiếp nhận và thực hành theo những chuẩn mực đƣợc xã

hội thừa nhận. Tuy nhiên, trong đời sống xã hội, nhất là trong những giai đoạn có

những biến đổi mạnh mẽ về kinh tế, xã hội, khi đó lối sống, các chuẩn mực đạo

đức vốn đã trừu tƣợng, không chỉ cũng biến đổi theo mà nhiều lúc còn trở nên lẫn

lộn, rối rắm, phức tạp. Trong bối cảnh đó, chỉ ra đƣợc một tấm gƣơng sẽ có tác

dụng rất lớn trong sinh hoạt tƣ tƣởng và định hƣớng tâm trạng xã hội. Ví dụ, một

tấm gƣơng vƣợt khó làm giàu chính đáng hiện nay, có thể cắt nghĩa đƣợc rất

nhiều khái niệm từ “bóc lột”, “yêu nƣớc” đến các khái niệm nhƣ “cá nhân”, “tập

thể” và “đóng góp cho xã hội”... Trong bối cảnh mà “một bộ phận không nhỏ cán

bộ, đảng viên suy thoái về tƣ tƣởng chính trị, đạo đức lối sống”... thì việc chỉ ra

một tấm gƣơng tốt dễ hiểu hơn, cụ thể hơn nhiều, nhất là đối với đa số quần

chúng nhân dân, những ngƣời ít có điều kiện để nghiên cứu và hiểu rõ các khái

niệm, thuật ngữ khoa học. Khi đã hiểu rõ đƣợc thế nào là tốt - xấu, thiện - ác,

thông qua tấm gƣơng, con ngƣời sẽ hành động theo tấm gƣơng đó.

Để nâng cao chất lƣợng, hiệu quả “làm theo” phƣơng pháp nêu gƣơng, giáo

hóa về đạo đức, phong cách của Khổng Tử các nhà quản lý cần:

Thứ nhất, trong nêu gương nhà quản lý phải được thể hiện trên cả ba

mối quan hệ: Đối với mình, đối với người và đối với việc:

Đối với mình, không đƣợc tự cao tự đại, tự mãn, mà phải cần, kiệm, liêm,

chính; phải là “Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín”.; bản thân phải luôn làm gƣơng trong

công việc từ nhỏ đến lớn, thƣờng xuyên học tập, rèn luyện, tự phê bình, khắc

phục những hạn chế, khuyết điểm của bản thân về mọi mặt để tiến bộ.

Ðối với ngƣời, phải chân thành, khiêm tốn, thật thà, đoàn kết, và có tình

thƣơng yêu, bao dung, độ lƣợng. Đối với ngƣời, trƣớc hết và quan trọng nhất là

đối với đồng chí, đồng sự, nhất là đối với cấp dƣới và sau đó là đối với quần

chúng nhân dân. Đối với cấp dƣới, “Thƣơng yêu là giúp họ học tập thêm, tiến bộ

77

thêm. Là giúp họ giải quyết những vấn đề khó khăn sinh hoạt, ngày thƣờng thì

điều kiện dễ chịu, khi đau ốm đƣợc chăm nom, gia đình họ khỏi khốn quẫn,

v.v.”[27,322].

Đối với việc, phải tận tâm, tận lực, có trách nhiệm, gƣơng mẫu phấn đấu

hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ đƣợc giao; phải luôn giữ vững nguyên tắc “Dĩ

công vi thượng”, phải “chí công vô tư”, phải biết hy sinh lợi ích cá nhân cho lợi

ích của tập thể, đối với cán bộ đảng viên phải biết hy sinh cho lợi ích của Tổ

quốc, nhân dân và của Đảng.

Ba mối quan hệ ấy chứa đựng nhiều nội dung cụ thể rất phong phú và

chúng cũng biến đổi theo từng thời kỳ phát triển của cách mạng. Ngày nay,

trong bối cảnh xây dựng nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa, xây

dựng Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân

dân; toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế... đứng trƣớc nhiều cơ hội và thách thức

của các yếu tố thời đại, ba mối quan hệ đó chứa đựng nhiều nội dung về kinh tế,

chính trị, văn hóa - xã hội và phải đƣợc cụ thể hóa, thậm chí thể chế hóa trong

nêu gƣơng và noi gƣơng.

Thứ hai, thực hiện tốt “nói đi đôi với làm”.

“Nói đi đôi với làm” là một phƣơng châm, nguyên tắc chỉ đạo hoạt động,

đƣợc Chủ tịch Hồ Chí Minh coi là một trong những tiêu chí quan trọng khi thực

hành phƣơng pháp “nêu gƣơng” của Khổng Tử.

Hiện nay, trƣớc những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới, nhất là

trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trƣờng ở nƣớc ta, các dạng biểu hiện

của chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa cải lƣơng về chính trị, kinh tế không thể không

ảnh hƣởng trực tiếp và gián tiếp tới tƣ tƣởng và đạo đức, lối sống của một bộ

phận trong xã hội. Bởi vậy, thực hiện tốt việc “nói đi đôi với làm” theo đúng

đƣờng lối, chính sách của Đảng và Nhà nƣớc, theo đúng tiêu chí, chuẩn mực đạo

đức cách mạng càng trở nên cần thiết đối với việc giáo dục, rèn luyện đạo đức

của con ngƣời trong xã hội Việt Nam.

Trong hoạt động thực tiễn, các nhà quản lý cần có phong cách làm việc thận

trọng, tỉ mỉ, giờ nào việc ấy, tinh thần trách nhiệm cao, thói quen đi sâu đi sát cơ

78

sở, lắng nghe tâm tƣ, nguyện vọng của nhân viên. Khi đã đề ra chủ trƣơng, biện

pháp thì phải nêu cao đoàn kết, phát huy trí tuệ tập thể, quyết tâm lãnh đạo thực

hiện cho bằng đƣợc. Đồng thời, phải kiên quyết khắc phục mọi biểu hiện quan

liêu, mệnh lệnh, xa rời thực tế, xa rời nhân viên; kiên quyết phê phán những

thành phần không dám nói, không dám hành động, hoặc “nói nhiều làm ít”, “nói

mà không làm”, “nói một đƣờng làm một nẻo”, thậm chí chỉ thụ động, ngồi chờ,

ỷ lại, sợ trách nhiệm. Những biểu hiện đó làm cho phƣơng pháp “nêu gƣơng,

giáo hóa” mất ý nghĩa, mất tác dụng trong giáo dục đạo đức, lối sống ngay trong

tập thể và trong xã hội.

Thứ ba, đẩy mạnh thực hiện tự phê bình và phê bình.

Tự phê bình và phê bình là vũ khí sắc bén, là động lực bên trong giúp cho

mỗi cá nhân phát huy ƣu điểm, khắc phục khuyết điểm, không ngừng vƣơn lên

hoàn thiện về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống. Đây cũng là một biện pháp

hữu hiệu của phƣơng pháp “nêu gƣơng” đƣợc Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn vận

dụng trong cuộc đời hoạt động cách mạng của mình.

Trong tình hình mới, khi lợi ích cá nhân ngày càng đƣợc tôn trọng và bảo

đảm, quyền lợi vật chất luôn gắn liền với trách nhiệm, nghĩa vụ của mỗi cá

nhân, thì công tác tự phê bình và phê bình càng phải đƣợc quán triệt và thực

hiện nghiêm túc. Bởi vì, do lợi ích và uy tín cá nhân mà không ít ngƣời giấu

giếm khuyết điểm của mình. Đồng thời, khi phê bình, góp ý về những khuyết

điểm của đồng nghiệp thì lại có thể xuê xoa, “hòa cả làng”, vì sợ họ cũng sẽ

động chạm đến lợi ích và uy tín chính trị của mình. Điều đó rất có nguy cơ dẫn

đến chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa “bè phái” trong các tập thể làm ảnh hƣởng tới

cả tổ chức.

Việc áp dụng phƣơng pháp nêu gƣơng của Khổng Tử đòi hỏi mỗi cá nhân

dù ở bất kỳ vị trí công tác nào cũng phải nêu cao tính chiến đấu tự phê bình và phê

bình. Trong sinh hoạt tự phê bình và phê bình, mỗi thành viên của tổ chức cần phải

giữ đúng thái độ trung thực, mực thƣớc, luôn đặt lợi ích của tập thể lên trên lợi ích

cá nhân. Phải hết sức tránh những biểu hiện dễ mắc phải trong sinh hoạt là, khi

tiến hành tự phê bình và phê bình thì “không nói trƣớc mặt”, nhanh chóng “nhất trí

79

theo chủ tọa”, nhƣng lại luôn “hục hặc sau lƣng”, dẫn đến nội bộ xảy ra tình trạng

“bằng mặt không bằng lòng”, hiềm khích, nghi kỵ nhau, ngày càng trở nên mất

đoàn kết. Tự phê bình và phê bình phải từ trên xuống; các cấp ủy, cấp lãnh đạo,

quản lý phải thƣờng xuyên nêu gƣơng tự phê bình và phê bình cho cấp dƣới noi

theo; phải trân trọng lắng nghe và tiếp thu những ý kiến đóng góp của cấp dƣới, kể

cả những ý kiến trái ngƣợc nhau, để luôn hoàn thiện bản thân.

Nhƣ vậy, nêu gƣơng là trách nhiệm, nhiệm vụ của ngƣời lãnh đạo, quản lý.

2.5.3. Vận dụng phương pháp giáo hóa của Khổng Tử trong quản trị

nguồn nhân lực tại Việt Nam

Để nâng cao hiệu quả của phƣơng pháp giáo hóa trong tình hình giai đoạn

hiện nay của Việt Nam, các nhà quản lý cần làm tốt các công việc sau:

Thứ nhất, “Lòng nhân” là cơ sở để xây dựng, xác lập các quan hệ quản

lý. Tuy nhiên, đáp ứng yêu cầu nhân lực cho tổ chức là nhiệm vụ của quản trị

nhân lực, mỗi vị trí công việc có những yêu cầu cụ thể. Do vậy, trong công tác

quản trị nhân lực các nhà quản lý phải thực hiện song song hai nhiệm vụ: đƣa ra

những tiêu chuẩn đáp ứng yêu cầu công việc theo hƣớng mở để thu hút mọi cá

nhân tham gia ứng tuyển, tăng khả năng lựa chọn cho công tác tuyển dụng. Luôn

giữ một thái độ tôn trọng, khéo léo đối với tất cả các cá nhân ứng tuyển để lƣu

giữ, tạo ấn tƣợng tốt đối với tất cả các nguồn lao động xã hội, gây dựng - duy trì

một văn hóa doanh nghiệp, sử dụng dƣ luận xã hội là một yếu tố tác động tích

cực đối với mọi hoạt động của tổ chức.

Thứ hai, nhà quản trị các cấp trong tổ chức dựa theo phân công nhiệm vụ,

chức năng của mình không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn, tích cực tham

gia vào các hoạt động đoàn thể, dành thời gian tìm hiểu đặc điểm tình hình,

phong tục tập quán… của các cá nhân, địa phƣơng nơi mình quản lý để đƣa ra

các phƣơng pháp tác động, quản lý phù hợp, hòa bình và hiệu quả vừa đảm bảo

mục tiêu, hoạt động của tổ chức, vừa đáp ứng đƣợc yêu cầu, nhu cầu, hoàn cảnh

của mọi cá nhân trong tổ chức.

Thứ ba, chủ động phối kết hợp giữa: cá nhân – tổ chức – gia đình – xã hội

trong việc giúp đỡ, động viên các cá nhân của tổ chức trong cuộc sống, công

80

việc. Đảm bảo hài hòa lợi ích của tất cả các bên trên tinh thần tự nguyện, hợp tác

và cùng có lợi.

Thứ tư, luôn tôn trọng, coi các chủ thể trong quản lý là đối tác tin cậy, tôn

trọng ý kiến hoàn cảnh cá nhân, chấp hành quy định pháp luật và tạo mọi điều

kiện để các cá nhân trong tổ chức có cơ hội hoàn thiện cá nhân, phát triển song

hành cùng tổ chức. Chỉ áp dụng các hình thức kỷ luật khi các hình khức khác

không có tác dụng hoặc trong trƣờng hợp cấp bách theo quy định của pháp luật.

2.5.4. Thực hiện bình đẳng giới, nâng cao vị trí quản lý của người phụ

nữ trong quản trị nhân lực tại Việt Nam hiện nay.

Đẩy mạnh công tác giáo dục và nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò,

chuẩn mực đạo đức của ngƣời phụ nữ nhằm phát huy ảnh hƣởng tích cực, hạn

chế những ảnh hƣởng tiêu cực của tƣ tƣởng Khổng Tử đối với ngƣời phụ nữ

Việt Nam hiện nay là điều hết sức cần thiết. Xây dựng đội ngũ cán bộ khoa học

nữ có trình độ cao, cán bộ lãnh đạo, quản lý nữ đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh sự

nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Cụ thể hóa những quan điểm trên thì

những việc làm của xã hội để nâng cao vị trí của ngƣời phụ nữ là:

Thứ nhất, cải cách thể chế để thiết lập quyền bình đẳng giới. Cải cách

pháp lý sẽ tăng cƣờng bình đẳng giới rõ nét thông qua Luật hôn nhân gia đình,

Luật chống bạo hành, bạo lực, quyền về đất đai, luật lao động, luật bình đẳng

giới. Mặc dù Đảng và Nhà nƣớc đã có chủ trƣơng cụ thể, chính sách rõ ràng tuy

nhiên nữ cán bộ công chức là lãnh đạo trong các cấp uỷ đảng, chính quyền, các

ngành và các cơ quan nghiên cứu khoa học lại càng thấp. Hơn nữa, nữ lãnh đạo

thƣờng chỉ liên quan các lĩnh vực xã hội. Ít cán bộ công chức nữ làm lãnh đạo

trong lĩnh vực quản lý kinh tế, kế hoạch, nghiên cứu khoa học. Tỷ lệ cán bộ nữ

trong các cấp uỷ đảng từ Trung ƣơng đến cơ sở chỉ chiếm khoảng 10-11%.

Trong các cấp uỷ đảng, số nữ cán bộ công chức giữ vị trí trọng trách rất ít... Vì

vậy, cần phải phát huy, nỗ lực tăng tỉ lệ nữ ở Hội đồng nhân dân 3 cấp và các cơ

quan quản lý nhà nƣớc. Bên cạnh đó, nhà nƣớc phải tạo điều kiện cung cấp các

dịch vụ thuận lợi dành cho phụ nữ nhƣ kinh tế, y tế, giáo dục, văn hóa, cho vay

vốn... Có nhƣ vậy, mới nâng dần nhận thức, khẳng định và nâng cao vai trò của

81

ngƣời phụ nữ hiện nay.

Thứ hai, đẩy nhanh phát triển kinh tế nhằm khuyến khích phụ nữ tham gia

và phân bố nguồn lực công bằng hơn. Phát triển kinh tế có xu hƣớng nhằm tăng

năng suất lao động và tạo dựng nhiều cơ hội việc làm cho phụ nữ có thu nhập

cao hơn, mức sống tốt hơn. Ngoài ra phải đầu tƣ có trọng điểm vào cơ sở hạ

tầng và giảm bớt chi phí cá nhân cho phụ nữ khi thực hiện vai trò của họ trong

gia đình và có thể giúp họ có thêm thời gian để tham gia vào các hoạt động

ngoài xã hội.

Thứ ba, thực hiện những biện pháp thiết thực nhằm khắc phục sự phân

biệt giới trong việc làm chủ các nguồn lực và tiếng nói chính trị. Nhà nƣớc nên

thiết lập một môi trƣờng để đảm bảo khả năng tiếp cận công bằng đến các nguồn

lực và dịch vụ công cộng cho cả nam và nữ. Tăng cƣờng tiếng nói của phụ nữ

(sử dụng sáng kiến, ý tƣởng, sáng chế) trong quá trình hoạch định chính sách.

Thứ tƣ, mở rộng quan hệ hợp tác giao lƣu quốc tế. Điều này phù hợp với

xu hƣớng quốc tế, hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay. Lợi ích của việc làm này là

chúng ta có thể trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm quốc tế trong việc giải quyết các

vấn đề về giới, đồng thời lại mở ra nhiều cơ hội học

2.5.5. Một số giải pháp khác

Một là, đổi mới nhận thức và tư duy trong đội ngũ các nhà quản lý.

Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, vẫn có nhiều nhà quản lý

nƣớc ta cho rằng khoa học quản trị nhân lực là phải học hỏi từ các quốc gia

phƣơng Tây. Thậm chí, có ngƣời còn cho rằng, phƣơng Đông (trong đó có Việt

Nam) không có khoa học quản trị nhân lực mà chủ yếu là hành xử theo kinh

nghiệm, từ đó đúc kết thành các “thuật” dụng nhân. Chính tƣ duy và nhận thức

chƣa toàn diện nhƣ vậy đã dẫn đến tình trạng sao chép máy móc, bắt chƣớc các

tƣ tƣởng quản trị nhân lực từ bên ngoài hoặc không chịu phát huy bản sắc văn

hoá dân tộc trong quản trị nhân lực. Hậu quả là chƣa phát huy đƣợc sức mạnh và

trí tuệ riêng có của ngƣời Việt Nam, và do vậy, chƣa tạo ra đƣợc năng lực cạnh

tranh bền vững cho các doanh nghiệp. Từ tình hình thực tế đó, để có thể vận

dụng tƣ tƣởng quản lý của Khổng Tử vào các tổ chức thì trƣớc hết cần đổi mới

82

tƣ duy của các nhà quản lý – những ngƣời có vai trò đầu tàu trong mọi hoạt

động của tổ chức.

Các nhà quản lý trong tổ chức cần phải ý thức đƣợc rằng, đội ngũ nhân

lực Việt Nam chỉ có thể phát huy đƣợc sức mạnh khi nó đƣợc quản trị theo khoa

học nhƣng phải theo cung cách Việt Nam, phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý,

văn hoá của họ. Chẳng hạn, các nhân viên bao giờ cũng căn cứ vào hành động

thực tế và tấm gƣơng cá nhân của nhà quản lý để suy nghĩ và hành động. Cốt lõi

của tƣ tƣởng quản lý của Khổng Tử chính là ở điểm này. Nếu bản thân các nhà

quản lý không chứng minh bằng “tấm gƣơng sống” thì mọi sự “diễn thuyết khoa

học” là không có ý nghĩa.

Hai là, xây dựng hệ thống các chuẩn mực và giá trị của tư tưởng quản

lý của Khổng Tử và tổ chức đào tạo bồi dưỡng cho các tổ chức.

Nhƣ trên đã đề cập, các giá trị và chuẩn mực của tƣ tƣởng quản lý của

Khổng Tử đã đƣợc hình thành qua quá trình thực tiễn lâu dài. Tuy nhiên để các

doanh nghiệp có thể vận dụng và hiểu rõ bản chất của tƣ tƣởng này thì cần phải

hệ thống hoá các chuẩn mực đó theo các khía cạnh của công tác quản trị nhân

lực trong tổ chức. Giải pháp này góp phần đại chúng hoá nhanh chóng công tác

quản trị nhân lực, bởi chỉ có thông qua con đƣờng đại chúng hoá thì tƣ tƣởng

mới tạo ra sức mạnh của cả tập thể, từ đó cuốn hút các tổ chức khác cùng hành

động theo. Con đƣờng đại chúng hoá nhanh chóng chính là tổ chức các lớp bồi

dƣỡng cán bộ quản lý theo các dự án khác nhau. Về giải pháp đào tạo bồi dƣỡng

chúng ta có thể tham khảo một số kinh nghiệm thành công trong thời gian qua ở

các dự án “bồi dƣỡng về kiến thức hội nhập kinh tế quốc tế”, dự án “đào tạo

1.000 giám đốc doanh nghiệp”…

Ba là, phát huy vai trò của các tổ chức chính trị, xã hội, nghề nghiệp.

Theo khảo sát thực tiễn, một trong những cản trở cho việc vận dụng tƣ

tƣởng quản lý của Khổng Tử ở các doanh nghiệp ở nƣớc ta chính là những thói

quen không phù hợp trong tƣ duy và hành động của đội ngũ nhân lực xuất phát

từ văn hoá tiểu nông. Việc phá bỏ những thói quen đó để mở đƣờng cho việc

tiếp thu những nếp tƣ duy và hành động mới phù hợp với văn hoá công nghiệp,

83

hậu công nghiệp là quá trình khó khăn phức tạp đòi hỏi sự kiên trì và lâu dài. Do

vậy, bên cạnh sự nỗ lực của các nhà quản lý cũng rất cần sự hậu thuẫn của các tổ

chức chính trị, xã hội, nghề nghiệp…

Thông qua các hoạt động đoàn thể cụ thể, thiết thực để tạo lập môi trƣờng

văn hoá nhằm biến đổi hành vi và thói quen không còn phù hợp sẽ đem lại cho

các nhà quản lý những điều kiện thuận lợi trong quá trình thực thi các nội dung

cốt lõi của tƣ tƣởng quản lý của Khổng Tử, giúp họ có đƣợc những thành công

ban đầu để tự tin hơn và vận dụng lý luận vào thực tiễn một cách bền vững hơn.

Bốn là, chú ý yếu tố lợi ích trong quá trình vận dụng tư tưởng quản lý

của Khổng Tử vào quản trị nhân lực.

Trong môi trƣờng hiện nay, một trong các yếu tố chi phối hành động của

các chủ thể một cách mạnh mẽ nhất chính là lợi ích kinh tế. Không phải ngẫu

nhiên mà Hàn Phi Tử đã chứng minh về sự chi phối của lợi ích kinh tế đến hành

vi của con ngƣời ngay từ cách đây khoảng 2.300 năm, nhƣng sở dĩ nó không

thuyết phục đƣợc vì lúc đó xã hội Trung Quốc còn là xã hội nông nghiệp, các lợi

ích kinh tế còn nhỏ, chƣa thể hiện rõ ràng. Trong khi đó, vào đầu thế kỷ XX,

Taylor F. và những ngƣời theo học thuyết X lại thành công khi nhấn mạnh yếu

tố lợi ích kinh tế trong vai trò kích thích hành vi của ngƣời lao động, vì xã hội

phƣơng Tây lúc đó đã chuyển sang xã hội công nghiệp và trong bối cảnh đó, lợi

ích kinh tế có vai trò rất lớn và rất rõ.

Với điều kiện của nền kinh tế nƣớc ta, trong đó lợi ích kinh tế là tác nhân

chủ yếu chi phối các chủ thể (tập thể và cá nhân) thì các nhà quản lý cấp cao của

các doanh nghiệp cần nhận thức đầy đủ tầm quan trọng của mối quan hệ chặt

chẽ giữa lợi ích kinh tế và hành vi để từ đó giải quyết hài hoà lợi ích trong quá

trình vận dụng tƣ tƣởng quản lý của Khổng Tử vào quản trị nhân lực tại Việt

Nam, nhất là thời kỳ ban đầu. Bên cạnh đó, cần phải thấy rõ một triết lý chủ đạo

của tƣ tƣởng quản trị nhân lực Việt Nam hiện đại chính là “dĩ công vi thượng”,

trong khi đó thông thƣờng các cá nhân luôn lấy lợi ích của bản thân làm động cơ

hành động. Do đó, các biện pháp cần phải thực thi một cách phù hợp theo điều

kiện cụ thể để tránh xung đột về lợi ích.

84

Tóm lại, với bề dày lịch sử và truyền thống văn hoá lâu đời của dân tộc

Việt Nam, các nhà quản lý nƣớc ta có thể vận dụng một cách sáng tạo, linh hoạt

tƣ tƣởng quản lý của Khổng Tử vào thực tiễn hoạt động quản trị nhân lực để

phục vụ cho sự nghiệp phát triển nguồn nhân lực, phát triển kinh tế – xã hội của

đất nƣớc, hƣớng tới thực hiện mục tiêu: “Dân giàu, nƣớc mạnh, xã hội dân chủ,

công bằng văn minh”.

TIỂU KẾT CHƢƠNG 2

Tóm lại, trải theo chiều dài lịch sử, tƣ tƣởng quản lý của Khổng Tử đã có

những ảnh hƣởng sâu sắc đến kinh tế chính trị xã hội nói chung, đến quản trị

nhân lực Việt Nam nói riêng. Suốt các triều đại phong kiến Việt Nam dù có lúc

trọng Phật, có khi trọng Nho, song tựu trung lại các học thuyết của Khổng Tử

vẫn là một công cụ phƣơng tiện thống trị hữu hiệu của giai cấp phong kiến Việt

Nam, là phƣơng thức quản lý hiệu quả. Đối với các tổ chức tại Việt Nam, các

học thuyết của Khổng Tử cũng đã in đậm dấu ấn của mình từ trong cơ cấu tổ

chức bộ máy quản lý làng xã cho đến sinh hoạt, nếp sống, thói quen, cách cảm,

cách nghĩ của các cƣ dân cộng đồng làng xã. Cho đến ngày nay, Đức trị Nho

giáo vẫn có ảnh hƣởng nhất định đến nền kinh tế xã hội Việt Nam nói chung,

đến quản trị nhân lực nói riêng. Tuy nhiên, từ góc độ khoa học, cần thiết nhìn

nhận đúng vị trí, vai trò, những ảnh hƣởng tƣ tƣởng quản lý của Khổng Tử đến

chức năng quản trị nhân lực và vận dụng nó vào trong thực tiễn. Từ đó đƣa ra

một số phƣơng pháp vận dụng tƣ tƣởng quản lý của Khổng Tử về thu hút nguồn

nhân lực; đào tạo và phát triển nguồn nhân lực; duy trì nguồn nhân lực trong bối

cảnh Việt Nam hiện nay và đề xuất một số giải pháp vè tƣ tƣởng quản lý của

Khổng Tử vào quản trị nhân lực ở Việt Nam hiện nay.

85

KẾT LUẬN

Chúng ta đang sống ở thời đại khoa học tiến bộ, không thể trở lại theo lối

sinh hoạt thời cổ đƣợc. Song tƣ tƣởng của Khổng Tử vốn có phần rất mỹ mãn,

có rễ ăn sâu vào tủy não của ngƣời mình. Nếu ta không hiểu tƣ tƣởng ấy đến nơi

đến chốn, chƣa gì vội đem cắt bỏ đi, thì vị thất đã lợi cho tƣơng lai của xã hội

mình. Vậy nên cần phải giữ cái nền đạo đức cũ mà tham chƣớc với sinh hoạt

đƣơng thời, để cho tâm với trí cùng tiến hóa, cùng điều hòa với nhau.

Tƣ tƣởng quản lý của Khống Tử khi sử dụng phƣơng pháp tiếp cận của

khoa học quản trị nhân lực thì có thể tìm thấy trong học thuyết của Ông những

nguyên tắc, chuẩn mực và phƣơng pháp luận về quản trị nhân lực mà những

điều tốt đẹp trong học thuyết này vẫn có giá trị cho đến ngày nay và đã trở thành

nguyên tắc quản trị nhân lực góp phần đem lại thành công cho các doanh nghiệp

ở một số quốc gia phƣơng Đông nhƣ Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore,… Nó đề

cao, coi trọng mặt đạo đức của con ngƣời, tƣ tƣởng quản lý của con ngƣời, điều

chỉnh các quan hệ xã hội dựa vào các chuân mực đạo đức, lấy tu thân, tề gia, sự

nêu gƣơng, giáo hoá làm cơ sở nền tảng để vận dụng vào quản trị nhân lực.

Dùng chính danh định phận, phẩm chất trên dƣới rõ ràng; dùng lễ nhạc để điều

chỉnh - ổn định trật tự xã hội... Tất cả những biểu hiện cụ thể ấy đƣợc thâu tóm

lại, khái quát nên một học thuyết “Đức trị” hay “Nhân trị”, “Văn trị” nổi tiếng

trong lịch sử xã hội Trung hoa cổ đại. Trong tƣ tƣởng của Khổng Tử, vấn đề tu

thân đƣợc đặt lên hàng đầu: “Từ thiên tử ở địa vị cao nhất cho đến người dân

bình thường đều phải lấy việc tu thân làm gốc”. Khổng Tử chủ trƣơng trị ngƣời

bằng đức là chính, nghĩa là để thu phục và dẫn dắt ngƣời khác, nhà quản lý phải

tự mình học tập và tu dƣỡng để có đƣợc những đức tính cần thiết, chẳng hạn

nhƣ: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín,… Trong đó, đức nhân đƣợc đặt lên hàng đầu và là

trung tâm: vì con ngƣời và từ con ngƣời. Khổng Tử coi nhân là gốc, lễ là ngọn,

nhân là mục tiêu, còn lễ là chính sách. Để thực thi đƣợc đạo lý và mục tiêu,

Khổng Tử chủ trƣơng sử dụng phƣơng thức chính danh. Khổng Tử cho rằng chỉ

có một số ít ngƣời có năng lực đặc biệt và có nhân cách đặc biệt mới có thể hiểu

86

và thực hành đƣợc công việc quản trị vì vậy, học thuyết của ông đề xƣớng

thƣờng tồn tại dƣới dạng các nguyên lý, nguyên tắc. Ông chủ trƣơng: “đã chỉ

cho một góc rồi mà không suy ra ba góc còn lại thì không dạy nữa”, hoặc là “ôn

cũ, biết mới”…

Khổng Tử cũng chỉ rõ các nguyên tắc liên quan đến các nội dung và các

công việc cụ thể của công tác quản trị nhân lực nhƣ: sử dụng, thu hút, đào tạo và

phát triển, duy trì, nguồn nhân lực…Chẳng hạn, về sử dụng nhân lực, Khổng Tử

chủ trƣơng “sử dân dĩ thời’ (sử dụng ngƣời đúng lúc); biết đánh giá bản chất của

ngƣời; “đề bạt người chính trực (ngay thẳng) lên trên người cong queo”; khách

quan, không thành kiến, sử dụng tuỳ theo tài năng, đạo đức của từng ngƣời;

Trong đãi ngộ nhân sự, nguyên tắc phân phối quân bình, không nên quá chênh

lệch trong phân phối: “không sợ thiếu, chỉ sợ không đều” đã đƣợc đề cao; Về

đào tạo nhân sự, nhà quản lý phải chịu khó dạy dỗ, thiếu cái gì dạy cái ấy, nhà

quản lý phải là tấm gƣơng để ngƣời dƣới học tập: “học không biết chán, dạy

không biết mỏi”.

Tuy từ trƣớc đến nay, các công trình nghiên cứu chủ yếu phân tích học

thuyết của Khổng Tử nhƣ là tƣ tƣởng triết học, nhƣng khi sử dụng phƣơng pháp

tiếp cận của khoa học quản trị nhân lực thì có thể tìm thấy trong học thuyết của

Ông những nguyên tắc, chuẩn mực và phƣơng pháp luận về quản trị nhân lực

mà những điều tốt đẹp trong học thuyết này vẫn có giá trị cho đến ngày nay. Đề

tài đã tiếp cận theo cách cố gắng phân tích tìm ra những giá trị trong tƣ tƣởng

quản lý của Khổng Tử, với tinh thần gạn đục, khơi trong đê có thể vận dụng vào

ngành quản trị nhân lực ở nƣớc ta hiện nay.

87

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đào Duy Anh (1938), Khổng giáo phê bình tiểu luận, Nhà xuất bản Quan

hải Tùng thƣ, Huế.

2. Minh Anh (2001), Chúng ta kế thừa tư tưởng gì ở Nho giáo, Tạp chí Triết

học, số 8, tr 34-37.

3. Minh Anh (2003), Tư tưởng lễ và chính danh của Nho giáo, Tạp chí Triết

học, số 5, tr 42-46.

4. Lê Ngọc Anh (1999), Về ảnh hưởng của Nho giáo ở Việt Nam, Tạp chí

Triết học, số 3, tr 19-21.

5. Nguyễn Ngọc Ánh (2009), Khổng tử và Hồ Chí Minh: Những tương

đồng và khác biệt trong tư tưởng đạo đức, Tạp chí Triết học, số 4.

6. Trần Quang Ánh (1996), Quan niệm về dân và tư tưởng thân dân trong

“Luận ngữ”, “Mạnh tử”, luận văn thạc sĩ Triết học.

7. Nguyễn Thanh Bình (2000), Nho giáo với vấn đề phát triển kinh tế và

hoàn thiện con người, Tạp chí Giáo dục Lý luận, số 5, tr 35-38.

8. Hoàng Thị Bình (2001), Nhân, nhân nghĩa, nhân chính trong “Luận

ngữ” và “Mạnh tử”, Tạp chí Triết học, số 11.

9. Trần Văn Bính (chủ biên) (2000), Vai trò của văn hóa trong hoạt động

chính trị của Đảng ta hiện nay, Nhà xuất bản Lao động, Hà Nội.

10. Bộ Giáo dục và Đào tạo (1999), Triết học (Tập 1, 2 và 3), NXB

Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

11. Phan Văn Các (dịch chú) (2002), Luận ngữ, Nhà xuất bản Khoa học

xã hội.

12. Phan Bội Châu (1998), Khổng học đăng, Nhà xuất bản Văn hóa thông

tin, Hà Nội.

13. Giản Chi – Nguyễn Hiến Lê (2004), Đại cương triết học Trung

Quốc, tập 1, Nhà xuất bản Thanh niên, Hà Nội.

14. Doãn Chính (chủ biên) (2004), Đại cương lịch sử triết học Trung

Quốc, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.

15. Trịnh Doãn Chính (2005), Triết lý phương Đông giá trị và bài học

88

lịch sử, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.

16. Đỗ Minh Cƣơng (2006) Thuyết Đức trị của Khổng Tử và ảnh hưởng của

nó đến phương thức quản lý xã hội của Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ.

17. Nguyễn Thị Hồng Doan (2014) Vấn đề kế thừa, phát triển một số phạm trù

cơ bản của đạo đức Nho giáo trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, Luận án Tiến sĩ

Triết học.

18. Phan Đại Doãn (1998), Một số vấn đề về Nho giáo Việt Nam, Nhà

xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội.

19. Dƣơng Ngọc Dũng, Lê Anh Minh (2003), Triết giáo phương Đông,

Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.

20. Đảng Cộng sản Việt Nam (2012), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn

quốc lần thứ XI, Nhà xuất bản chính trị Quốc gia-Sự thật, Hà Nội.

21. Trần Văn Giàu (1985), Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc

Việt Nam, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh.

22. Lê Thanh Hà (2011), Giáo trình quản trị nhân lực (tập 1, 2). Nhà

xuất bản Lao động – Xã hội, Hà Nội.

23. Phạm Minh Hạc, (1996), Vấn đề con ngườn trong công nghiệp hóa,

hiện đại hóa, Nhà xuất bản chính trị Quốc gia, Hà Nội.

24. Lý Tƣởng Hải (2005), Khổng Tử, Nhà xuất bản Văn hóa, Thông tin.

25. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2001), Lịch sử tư tưởng chính

trị, Nhà xuất bản chính trị Quốc gia, Hà Nội.

26. Học viện Hành chính (2009), Giáo trình quản lý học đại cương, Nhà xuất

bản Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.

27. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 322

28. Cao Xuân Huy (1995), Tư tưởng phương Đông – gợi những điểm nhìn

tham chiếu, Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội.

29. Vũ Khiêu – Thành Duy (2000), Đạo đức và pháp luật trong triết lý

phát triển ở Việt Nam, Nhà Xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội.

30. Vũ Khiêu (chủ biên) (1993), Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh: Truyền

thống dân tộc và nhân loại, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội.

89

31. Trần Trọng Kim (2001), Đại cương Triết học Trung Quốc, Nhà xuất

bản Văn hóa thông tin, Hà Nội.

32. Nguyễn Văn Tạo (2011), Thời cơ và thách thức trước yêu cầu phát

triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay, Tạp

chí cộng sản, số 238.

33. Nguyễn Văn Tạo (2012), Đưa tri thức trẻ về nông thôn – một hướng

đi góp phần xóa đói giảm nghèo bền vững, Tạp chí cộng sản.

34. Nguyễn Thị Thoa (2002), Đạo đức gia đình trong nền kinh tế thị trường,

Tạp chí Triết học, số 4.

35. Nguyễn Hiến Lê (2006), Khổng Tử, Nhà xuất bản Văn hóa thông tin, Hà

Nội.

36. Nguyễn Thị Loan (2013) Quan niệm của nho giáo sơ kỳ về xã hội lý

tưởng và ý nghĩa hiện thời của nó, Luận án tiến sĩ Triết học.

37. Nguyễn Thị Tuyết Mai (2009), Quan niệm nho giáo về con người, về giáo

dục đào tạo con người, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.

38. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, 6, 9 Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, 1995,

Hà Nội.

39. Lê Thanh Sinh (2003), Khổng giáo với vấn đề hiện đại hóa xã hội, Tạp

chí Khoa học xã hội, số 1, Thành phố Hồ Chí Minh, tr 41-46.

40. http://cafebiz.vn/phat-hay-khong-phat-nhan-vien-hai-truong-phai-

quan-tri-doi-nghich-giua-ong-pham-nhat-vuong-va-ong-nguyen-duc-tai-cung-

loi-giai-cua-giao-su-phan-van-truong-20190220102948895.chn

41. https://downloadsach.com/triet-hoc/trung-dung-bo-tu-thu.html

42. http://philosophy.vass.gov.vn/nghien-cuu-theo-chuyen-de/Phuong-

Dong/Ve-phuong-phap-quan-ly-xa-hoi-cua-Nho-giao-202.html

43. https://tinhhoa.net/loi-khuyen-cua-khong-tu-ve-cach-quan-tri.html

90