
TẠP CHÍ Y häc viÖt nam tẬP 478 - th¸ng 5 - sè 2 - 2019
59
Việc lạm dụng corticoid trong điều trị bệnh
gút hiện nay ở Việt Nam cũng góp phần dẫn đến
suy giảm chất lượng cuộc sống của người bệnh.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, 29/52 bệnh
nhân gút có dùng corticoid trong quá trình điều
trị bệnh. Corticoid là một thuốc có tác dụng
chống viêm mạnh, tuy nhiên sử dụng thuốc kéo
dài sẽ làm tăng nguy cơ bị hội chứng rối loạn
chuyển hóa, tăng huyết áp, béo phì, đái tháo
đường, các bệnh lý tim mạch, nhiễm trùng cơ
hội và loãng xương ở những bệnh nhân gút.
Trong nghiên cứu của Scire và đồng nghiệp cho
thấy, có sự liên quan giữa tình trạng dùng
corticoid và sức khỏe tinh thần của người bệnh
khi đánh giá theo bộ câu hỏi SF-36 [4]. Việc sử
dụng corticoid cũng làm tăng nguy cơ bị các rối
loạn tâm thần liên quan đến stress, đặc biệt là
tình trạng trầm cảm do đó gây ảnh hưởng nhiều
đến chất lượng cuộc sống của người bệnh. Trong
nghiên cứu, chỉ có hai bệnh nhân dùng thuốc hạ
acid uric máu (chiếm tỷ lệ 3,9%). Không sử dụng
các thuốc hạ acid uric máu sẽ dẫn đến các cơn
gút cấp tính tái phát và tiến triển trở thành gút
mạn tính. Nhiều nghiên cứu cho thấy, số cơn gút
cấp tính tái phát trong một năm và các tổn
thương do gút mạn tính như sỏi thận, viêm thận
kẽ, biến dạng khớp, viêm khớp mạn tính, hạt
tophi ảnh hưởng rất nhiều đến chất lượng cuộc
sống của người bệnh. Chi phí điều trị cao, đặc
biệt là các thuốc hạ acid uric máu nhóm
febuxostat cũng gây ảnh hưởng đến sức khỏe
tinh thần của người bệnh. Các rối loạn về tâm
thần có liên quan chặt chẽ với sự tàn phế và
chất lượng cuộc sống thấp ở những bệnh nhân
có bệnh mạn tính. Tình trạng lo lắng, trầm cảm
ở các bệnh nhân gút cũng góp phần dẫn đến sự
giảm sút khả năng lao động và tàn phế, đặc biệt
ở những bệnh nhân có bệnh gút mạn tính, thời
gian mắc bệnh kéo dài và biến dạng khớp nhiều.
Một phác đồ điều trị bệnh gút tích cực, toàn diện
kết hợp với quan tâm đến sức khỏe tinh thần
của người bệnh sẽ góp phần hạn chế tối đa sự
tàn phế và nâng cao chất lượng cuộc sống cho
người bệnh.
V. KẾT LUẬN
- Tất cả các bệnh nhân gút đều bị giảm chất
lượng cuộc sống khi đánh giá theo bộ câu hỏi EQ-
5D. Tất cả các khía cạnh của cuộc sống đều bị ảnh
hưởng bởi bệnh gút, trong đó, những khía cạnh bị
ảnh hưởng nhiều nhất gồm khả năng vận động và
thực hiện các hoạt động thường ngày.
- Tình trạng lo lắng- căng thẳng cũng gặp ở trên
85% các bệnh nhân tham gia nghiên cứu, trong đó
có nhiều bệnh nhân lo lắng ở mức độ nặng.
- 92,3% các bệnh nhân gút có bệnh lý kèm
theo, trong đó hay gặp nhất là rối loạn lipid máu,
suy thận và tăng huyết áp.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hirsch JD, Terkeltaub R (2010), "Gout disease-
specific quality of life and the association with gout
characteristics", Patient Related Outcome Meas;
2010:1-8.
2. Prior JA, Mallen CD, Chandratre P (2016),
"Gout characteristics associate with depression, but
not anxiety, in primary care:baseline finding from a
prospective cohort study", Joint Bone Spine;
83(5):553-558.
3. Roddy E, Choi HK (2014), "Epidemiology of
gout", Rheum Dis Clin N Am; 40(2):155-175.
4. Scire CA, Manara M (2013), "Gout impacts on function
and health-related quality of life beyond associated risk
factors and medical conditions: results from the KING
observation study of the Italian Society for
Rheumatology", Arthritis research and therapy;15(5).
MÔ TẢ THỰC TRẠNG TƯ VẤN DINH DƯỠNG CỦA BỆNH NHÂN
SUY THẬN MẠN TÍNH CÓ LỌC MÁU CHU KỲ TẠI
KHOA THẬN LỌC MÁU BỆNH VIỆN BÃI CHÁY NĂM 2017
Trần Thị Thanh Mai1, Nguyễn Thị Kim Nhung2
Vũ Thị Minh Phưng1, Nguyễn Thị Khánh1, Trần Thị Hồng Hạnh1
TÓM TẮT16
1Đại học Điều dưỡng Nam Định
2Bệnh viện Bãi Cháy Quảng Ninh
Chịu trách nhiệm chính: Trần Thị Thanh Mai
Email:
greengage86@gmail.com
Ngày nhận bài: 22.3.2019
Ngày phản biện khoa học: 29.4.2019
Ngày duyệt bài: 6.5.2019
Mục tiêu nghiên cứu: Mô tả thực trạng tư vấn
dinh dưỡng của bệnh nhân STMT – LMCK tại khoa
thận lọc máu Bệnh viện Bãi Cháy. Đối tượng và
phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt
ngang được thực hiện trên 80 bệnh nhân bị suy thận
mạn tính – lọc máu chu kỳ tại khoa Thận lọc máu tại
bệnh viện Bãi Cháy. Kết quả và kết luận: Tỷ lệ
bệnh nhân STMT-LMCK khi nhập viện được tư vấn chế
độ dinh dưỡng chiếm 90% trong đó có 97% cho rằng
vai trò của ăn uống là rất quan trọng và nguồn thông
tin từ bác sĩ điều trị chiếm 57%. Thực hiện đúng chế