Tượng gỗ Đồng Minh

Trong mỹ thuật truyền thống, cùng với những phường thợ, những nghệ

nhân còn lưu tên tuổi, biết bao nghệ nhân tài giỏi khuyết danh đã tạc

nên bộ tượng La Hán chùa Tây Phương, tượng Quan Âm nghìn mắt

nghìn tay chùa Bút Tháp. Nổi danh xứ Đông là các phường thợ làm

tượng gỗ sơn Hà Cầu, Bảo Động, Mai Yên nay thuộc xã Đồng Minh,

huyện Vĩnh Bảo của Hải Phòng, đã có ngót trăm năm cha truyền con

nối. Bao phủ quanh nghề tạc tượng gỗ Đồng Minh là những truyền

thuyết, những giai thoại về những người thợ dân gian tài hoa yêu nghề

say đắm, tiêu biểu là hai dòng họ Tô và họ Hoàng.

Tượng cổ tại Đồng Minh

Người Bảo Hà xã Đồng Minh còn kể về cụ tổ nghề tạc tượng của họ là

cụ Nguyễn Công Huệ sinh vào khoảng TK 15, bắt đầu của triều đại nhà

Lê. Cụ lang thang đi kiếm sống bốn phương mong học lấy một hai

nghề độ thân. Cụ đã mang về quê hương nghề tạc tượng, nghề ngải cứu

và dệt vải. Trên bốn trăm pho tượng của Đồng Minh còn lại hiện giờ,

tượng cụ tổ Nguyễn Công Huệ vẫn được các phường thợ suy tôn.

Tượng cụ ngồi thoải mái, chân đi đất, một chân co lên, một bên áo tụt

xuống quá vai, áo phanh hở toàn bộ ngực và bụng, nét mặt đạo mạo,

phơ phất ba chòm râu, một tay đặt lên đùi, một tay vòng qua đầu gối.

Tượng sơn phủ hoàn kim, tỷ lệ người cân xứng, nếp vải quần áo được

khắc tả mềm mại, theo kiểu ước lệ của kinh nghiệm dân gian để diễn

đạt phần mặt và thân thể khá chuẩn xác, mang rõ nét sự quan sát nghiên

cứu từ thực tế. Đây là một trong những pho tượng đẹp nhất của Đồng

Minh.

Truyền thuyết về cụ tổ Tô Phú Vượng, người đứng đầu dòng thợ họ Tô,

vốn là bố vợ cụ Hoàng Đình Ức, người đứng đầu dòng thợ họ Hoàng.

Tài nghệ của hai cha con được loan truyền đến tận Thăng Long. Vua

Lê Cảnh Hưng (TK 18) cho sứ giả mời hai người lên kinh đô để chạm

khắc ngai vàng. Khi ngai vàng được làm xong, cụ Tô Phú Vượng vốn

tính phóng khoáng chẳng kiêng nể phép tắc triều đình, cụ trèo lên ngai

ngồi thử tác phẩm của mình. Hành động đó có kẻ mách đến tai vua.

Vua Lê Cảnh Hưng truyền cho băt hai cha con cụ Tô Phú Vượng hạ

ngục.

Ở trong ngục thất, thời gian đằng đẵng. Buồn bực, nhân tìm thấy hạt

thóc còn sót ở chiếc chổi lúa, người nghệ nhân tài hoa đó bèn dùng

móng tay khắc hạt gạo thành con voi có đủ vòi và đuôi. Việc ấy cũng

lại đến tai vua. Cảm phục tài năng kỳ diệu của nghệ nhân, vua Lê Cảnh

Hưng hạ lệnh thả hai cha con ra. Cụ Tô là người can tội phạm thượng

lại được phong Kỳ tài hầu, nhưng không được hưởng lộc.

Thời gian sau, cụ Hoàng Đình Ức muốn tỏ lòng biết ơn nhà vua, đã

dùng trí nhớ tạc lại nét mặt của vua Lê Cảnh Hưng tạo thành nét mặt

tượng Ngọc Hoàng đặt tại chùa làng Đông Cao (nay thuộc Ninh Giang,

Hải Dương). Chân dung ấy giống đến nỗi nhà vua cảm phục sắc phong

cho cụ Hoàng Đình Ức chức cục phó cục tạc tượng của triều đình. Tờ

sắc phong ngày nay con cháu cụ còn lưu giữ được. Riêng kinh nghiệm

tạc tượng về tỷ lệ được đúc kết gói gọn trên một thanh tre gọi là

"Thước tầm".

Với quan niệm chạm khắc nhân vật giống thực, tượng "Quan văn" mặt

điềm đạm hơi ngửng lên, chòm râu buông rủ, miệng như muốn nói một

điều gì. Cặp mắt nhỏ của người nhiều cơ mưu, khăn áo sinh động với

những nếp vải được thâm diễn đã được quan sát ký từ thực tế. Tượng

Phật Bà cũng một xu hướng ấy, nét mặt Phật Bà khác với các tượng

xưa ở ta cũng như ở nhiều nước phương Đông theo một công thức về

mắt, môi, cổ, tai... Tượng Phật Bà của nghệ nhân Đồng Minh nét mặt

giống như một sư bà trong cuộc đời thực, phúc hậu và thanh khiết rất

dân gian Việt Nam.

Xu hướng thứ hai trong các phường tạc tượng ở Đồng Minh là cách

nhìn nhân vật khi tạo hình, tạo ấn tượng, ước lệ tự do, hồn nhiên, giống

như quan niệm của các nghệ nhân đã chạm khắc đình làng ở các thế kỷ

16,17,18: mộc mạc, chất chứa nhiều cảm xúc chân thực. Các tượng tạc

nô bộc ở Đồng Minh khỏe mạnh, hóm hỉnh, tươi vui đang quỳ dâng

rượu, bụng phưỡn ra, chiếc khố hờ hững làm người nô bộc như cố khép

đùi lại cho kín, vì vậy mông cong lên, miệng thì cười tủm tỉm, đầy vẻ

trào lộng, khác hẳn so với những tượng thờ ở chốn tôn nghiêm. Cách

nhìn này gần gũi với các con rối nước cũng của Đồng Minh với những

khối mảng dứt khoát, mạnh bạo.

Số lượng tượng phong phú của Đồng Minh còn lại ở nhiều giai đoạn đã

chứng tỏ người nghệ sĩ dân dan đã quan sát nghiên cứu từ những mẫu

thực của cộc đời, có cá tính và đặc điểm tâm lý, với những biểu hiện

hồn nhiên, chân thực như tâm tư tình cảm tự nhiên, bộc trực của người

lao động. Truyền thống tay nghề điêu luyện ấy góp mặt cùng với những

tác phẩm điêu khắc vô giá đóng góp vô cùng to lớn vào kho tàng mỹ

thuật Việt Nam.