Vọng cổ

Vọng cổ, hay vọng cổ Bạc Liêu, là một điệu nhạc rất thịnh

hành ở các tỉnh miền Tây Nam Bộ, Việt Nam. Nó được bắt nguồn từ

bài "Dạ Cổ Hoài Lang" (nghe tiếng trống đêm, nhớ chồng) của nghệ

sĩ Cao Văn Lầu (tức Sáu Lầu). Bản vọng cổ là một trong những điệu

nhạc căn bản của sân khấu cải lương.

Sơ lược nguồn gốc và nhạc pháp

Bài "Dạ cổ hoài lang" có 20 câu, hai nhóm đầu mỗi nhóm 6 câu,

hai nhóm sau mỗi nhóm 4 câu. Mỗi câu trong bài có 2 nhịp, gọi là

nhịp đôi.

Ngay từ thời chỉ mới có nhịp đôi, bản "Dạ cổ hoài lang" đã

được đặt lời khác. Việc đặt (ngôn ngữ nhạc Việt gọi là "soạn") lời ở

các bản cổ nhạc không giống như đặt lời tân nhạc. Một bài tân nhạc

khi đặt lời thì theo sát câu nhạc của lời trước, tức là theo đúng hay

rất sát nốt nhạc trong mỗi stanza. Đặt lời một bản cổ nhạc giống như

làm bài thơ họa: Theo đúng nốt nhạc (ngôn ngữ nhạc Việt gọi

là chữ nhạc) ở cuối câu (chỗ dứt nhạc) và theo giọng bình - trắc ở

những chữ đó.

Câu 2 nhịp, tuy nhiên, không thỏa mãn được nhu cầu của các

nhà soạn nhạc. Bản nhạc (bản vọng cổ luôn gọi là "bản", không gọi là

"bài") được tăng lên 4 nhịp, tức nhịp tư, trong khoảng thời gian 1927-

1935. Sau đó tăng lên nhịp tám năm 1936-1945, và cũng khoảng thời

gian này được mang tên bản "Vọng cổ". Từ nhịp tám lên nhịp 16, 32,

64, 128, ... Bản thông dụng nhất hiện nay là bản nhịp 32.

Bản vọng cổ nhịp đôi, nhịp tư chỉ theo sát chữ nhạc ở chỗ dứt

câu. Nhưng khi bản nhạc có nhiều nhịp, phải theo đúng chữ nhạc ở

một số nhịp nhất định.

Thí dụ, câu 1 của bản nhịp đôi chỉ cần dứt ở chữ cống, theo

chuẩn của bản Dạ cổ hoài lang.

Nhưng câu 1 của bản nhịp 32 phải có chữ hò ở nhịp 16, hò ở

20, xê ở 24, xang ở 28, cống ở 32. Ở bản 32 nhịp, tất cả các câu đều

có xề (gọi là "xuống" xề) ở nhịp 4. (Trên thực tế, bản 32 nhịp thường

câu 1 và 4 ngắn, chỉ có 16 nhịp sau, còn 16 nhịp đầu nói thơ hoặc nói

lối hoặc xen tân nhạc.

Khi câu nhạc còn ngắn, bản nhạc chỉ gieo vần ở cuối câu. Lên

tới nhịp 32, 64, các soạn giả bắt đầu gieo vần liên kết bên trong mỗi

câu.

Các bản vọng cổ nhịp 2, 4 …

Cùng với việc tăng số nhịp trong mỗi câu, bản vọng cổ ngày

càng đa dạng thêm nhờ sự sáng tạo của các soạn giả, các nghệ sĩ

làm bản vọng cổ ngày nay rất phong phú.

Vọng cổ nhịp đôi

Bản Vọng cổ nhịp đôi tức là bản Dạ cổ hoài lang nguyên thủy.

Sáu câu đầu trong bản này như sau, vần gieo mỗi câu một lần

(trong đó có câu vần lưng tức yên vận):

1. Từ là từ phu tướng,

2. Bảo kiếm sắc phán (phong) lên đàng.(phán : sai

bảo; không phải là phong)

3. Vào ra luống trông tin chàng.

4. Năm canh mơ màng.

5. Em luống trông tin chàng,

6. Ôi gan vàng thêm (quặn) đau.(thêm :đã đau nhiều

rồi; quặn : đau lần đầu. Có lẽ "thêm" phù hợp hơn)

Sáu câu này có sáu chữ dứt câu như sau:

1. .......... cống

2. .......... xang

3. .......... hò

4. .......... hò

5. .......... xề

6. .......... liu

Những chữ nhạc này được dùng trong tuồng "Tham phú phụ

bần" như sau:

1. (Đào:) Vì đâu nên xui khiến (cống)

2. Cha nỡ rẽ thúy chia uyên (xang)

3. Làm cho đôi ta đeo phiền (hò)

4. Mang nặng lời nguyền (hò)

5. (Kép:) Đành cam đứt câu nghĩa tình (xề)

6. Trên Thiên Hoàng xin chứg minh (liu)

...

Tới hết 20 câu thì hết bản.

Vọng cổ nhịp tư

Nhịp tư bắt đầu có từ năm 1927. Từ bản này, vọng cổ bước

một bước thay đổi quan trọng: Chữ nhạc trong bài không theo hơi

Bắc (tức Bắc chánh) nữa mà đổi sang hơi Bắc Oán. Dưới đây là sáu

câu đầu bản "Khúc oan vô lượng" của soạn giả Huỳnh Thủ Trung tức

Tư Chơi.

1. Đêm nào ngọn đèn khuya, mẹ đây chong trắng đĩa

2. Chàng ôi, nếu có gặp nhau họa chỉ trong giấc mộng

huỳnh lương

3. Trời đất ôi! Vợ chồng tôi đang vui câu đầm ấm nơi

cảnh gia đường

4. Vì ai gieo oan mà để cho thiếp phải cam dồn dập

nơi khốn cảnh đoạn trường

5. Hơn bốn năm trường tựa nơi canh cửa thiếp trông

chờ

6. Đã biết rằng tuyệt vô hy vọng mà lòng mong thiếp

những hoài mong

...

Vọng cổ nhịp tám

Bản nhịp tám, từ năm 1936, bắt đầu ngân nga hơn bản nhịp tư.

Người góp công làm bản nhịp tám được công chúng ưa chuộng phải

kể đến nghệ sĩ Lưu Hoài Nghĩa tức Năm Nghĩa. Nhiều bản tuồng

nhịp tám tới nay vẫn còn nổi tiếng, như bản "Tô Ánh Nguyệt" của

soạn giả Trần Hữu Trang:

1. Sau khi tôi có chết đi rồi, xin Cậu chứng kiến cho

tấc lòng tôi mà tỏ hết khúc nói cho ai kia được rõ nỗi khổ tâm

của tôi trước giờ tôi nhắm mắt

2. Dưới nấm mộ xanh, thân người mạng bạc, ngàn

muôn năm linh hồn tôi họa chăng được tiêu tan khối hận chốn

tuyền đài

3. Mười tám năm dư lắm lúc tôi muốn vạch mặt phơi

gan mà than thở với đất trời

4. Nhưng mà mối hận tình nó nấu nung trong tim phổi,

nghĩ bao nhiêu tội lỗi, gặp mặt ai tôi nói chẳng nên lời

5. Ngày hôm nay, tôi sắp lìa xa bao nhiêu kẻ thân yêu

quý mến mà từ giã cõi đời

6. Cậu ôi, tôi nhờ cậu nói lại với má thằng Tâm rằng

tôi mong giũ sạch nợ trần ai đặng thoát ra khỏi vòng tình thiên

hận hải, vậy tôi xin có một đôi lời nhắn nhủ cùng với ai.

...

Vọng cổ nhịp mười sáu

Tới bản mười sáu, từ năm 1946, mỗi câu bắt đầu dài, như sáu

câu sau đây trong "Tôn Tẫn giả điên", nổi tiếng với giọng ca Út Trà

Ôn:

1. Úy trời đất ôi! Nỗi đoạn trường, cũng vì tôi đây quá

tin thằng Bàn Quyên là bạn thiết cho nên ngày hôm nay thân

của tôi phải ra nông nỗi

2. Còn như công cuộc ngày hôm nay đây, bởi tôi

không cẩn thận cho nên bạn tôi nó mới đành nhẫn tâm chặt lấy

một bàn chơn tôi

3. Khi tôi còn ở trên non thì tôi quyết ẩn thân tu tâm

dưỡng tánh, luyện thuốc trường sanh mong thành chánh quả

đặng có tọa hưởng Bồ Đoàn

4. Nào hay đâu thằng Bàn Quyên nó lên năn nỉ ỷ ôi,

lời ngon tiếng ngọt, nó nói rằng chúa của nó là một đấng minh

quân chơn mạng. Bởi vậy cho nên nó bảo tôi một một, hai hai

cũng phải xuống mà đầu hàng.

5. Cho nên khi ấy tôi mới hạ san, thì thầy của tôi có

cho tôi một bức cẩm nang lại dặn tôi rằng: Hễ khi nào lâm nạn

thì dở ra xem rồi liêu> chước biến quyền

6. Vậy thì tôi đây vọng nguyện với Tôn sư, khai thơ

cứu mạng. Ủa sao tôi chẳng thấy điều chi lạ, chỉ thấy trong thơ

có một chữ "Cuồng". Ờ, ờ, phải rồi, đây thầy tôi bảo tôi giả điên

đặng có thoát thân.

Thời kỳ vọng cổ nhịp mười sáu cũng là lúc câu vọng cổ có trộn

vô những câu nói thơ (tức ngâm thơ, theo điệu Tao Đàn hoặc Vân

Tiên) và những câu hò. Đây là sáng kiến của nghệ sĩ Út Trà Ôn ảnh

hưởng cho tới nay. Trong bản "Tôn Tẫn giả điên", Út Trà Ôn nói thơ

trong câu 11-12 và hò trong câu 13 như sau:

11. Bây giờ buồn quá, để nói thơ cho bà con cô bác nghe

chơi: Buồn cười vua Trụ đa đoan, mê nàng Đắc Kỷ rồi giết oan

hết cả trào. Nói qua tới lớp vua U mà yêu ấp ả má đào

12. Ẵm ôm nàng Bao Tỉ giặc vào cũng không hay. Còn

vua Kiết có tánh rồi hay say, nghe lời của Muội Hỷ mà lại giết

ngay tôi Long Phùng.

13. Hò hơ... chết tôi, tôi chịu xin đừng bận bịu bớ điệu

chung tình. Hò hơ... con nhạn bay cao rồi khó bắn, hò hơ... con

cá ở ao quỳnh cũng khó câu...

Từ khi có bản vọng cổ mười sáu nhịp, câu nhạc đã

bắt đầu đa dạng phong phú.

Vọng cổ 32 nhịp

Bản vọng cổ 32 nhịp, từ năm 1955, là bản vọng cổ

được coi là tiêu chuẩn hiện nay, mặc dù cũng đã xuất

hiện bản 64 nhịp và 128 nhịp.

Từ bản 32 nhịp, mỗi câu bắt đầu có vần gieo ngay

trong câu, vì 32 nhịp là một quãng quá xa để chỉ có một

vần. Câu dưới đây trong bản "Nắng chiều quê ngoại" của

soạn giả Viễn Châu là một thí dụ:

1. Mấy nếp nhà tranh ẩn mình sau hàng tre rủ bóng đang vươn lên ngọn khói lam chiều. Cảnh hoàng hôn sao nhuộm vẻ tiêu điều. Khóm lau

thưa xào xạc trên lối đường mòn vẳng lặng cô liêu;

nhà Ngoại tôi khuất sau mấy lũy dừa xanh soi bóng dịu hiền, bên cạnh mái đình làng đìu hiu cỏ phủ.

Bản vọng cổ 32 nhịp đầy đủ có 6 câu. Tức là ngắn

hơn các bản nhịp tám thường có 20 câu. Tuy nhiên, ngay

cả 6 câu cũng có khi không sử dụng hết. Bản vọng cổ khi

ghi ra giấy, do đó, thường có đánh số câu để người nghệ

sĩ biết bản nhạc sử dụng câu nào. Hai câu 1 và 4 thường

chỉ có 16 nhịp cuối câu.

Khi bản vọng cổ đã tới 32 nhịp, nhiều soạn giả

chêm vô những câu nói giặm. Để nghệ sĩ vô ca vọng cổ

cho êm, soạn giả cũng thường gối đầu bằng một khúc nói

lối văn xuôi, những câu nói lối văn vần (lục bát, song thất

lục bát, tứ tuyệt, hoặc cả thơ mới), hoặc một bản ngắn cổ

điển như Lưu thủy, Hành vân, Sương chiều, hoặc tiêu

biểu là Lý con sáo.