“TUYÊN NGÔN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN” – MỘT VĂN KIỆN MANG

TÍNH CƯƠNG LĨNH, CÓ GIÁ TRỊ LỊCH SỬ VÀ SỨC SỐNG THỰC TIỄN

CỦA CHỦ NGHĨA MÁC

ĐẶNG HỮU TOÀN (*)

Trong suốt chiều dài lịch sử nhân loại 160 năm qua, kể từ lần xuất bản đầu

tiên đến nay, “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” đã được thừa nhận không chỉ

là tác phẩm lý luận bất hủ, một đỉnh cao trong sự nghiệp sáng tạo của C.Mác

và Ph.Ăngghen, nó còn là một văn kiện mang tính cương lĩnh, có giá trị lịch

sử và tràn đầy sức sống thực tiễn của chủ nghĩa Mác. Phân tích và luận giải

những tư tưởng cơ bản, những nguyên lý nền tảng mà C.Mác và Ph.Ăngghen

đã đưa ra, trong bài viết này, một lần nữa, tác giả khẳng định ý nghĩa đó của

“Tuyên ngôn”. Và, bằng những thực tiễn sinh động trong phong trào cách

mạng thế giới 160 năm qua, nhất là trong những thập niên gần đây, tác giả

đã khẳng định, ánh sáng và tinh thần của những tư tưởng cơ bản, những

nguyên lý nền tảng trong “Tuyên ngôn” vẫn sống mãi với thời gian.

Đúng vào ngày này, cách đây 160 năm, ngày 24 tháng 2 năm 1848, Tuyên

ngôn của Đảng Cộng sản – một văn kiện mang tính cương lĩnh, có giá trị lịch

sử và tràn đầy sức sống thực tiễn của chủ nghĩa Mác, một tác phẩm lý luận

bất hủ do C.Mác và Ph.Ăngghen soạn thảo theo sự ủy nhiệm của Liên đoàn

những người cộng sản – một tổ chức công nhân quốc tế - đã, lần đầu tiên,

được xuất bản tại Luân Đôn (thủ đô nước Anh).

Trong suốt chiều dài lịch sử hơn một thế kỷ rưỡi, Tuyên ngôn vẫn luôn tồn tại

với tư cách một tác phẩm lý luận đỉnh cao, có vị trí đặc biệt quan trọng, vị trí

mà không một tác phẩm nào, kể cả bộ Tư bản, có thể thay thế được, trong sự

nghiệp sáng tạo của C.Mác và Ph.Ăngghen, trong kho tàng lý luận của chủ

nghĩa Mác – Lênin. Không chỉ thế, trong suốt chiều dài lịch sử đó, Tuyên

ngôn vẫn luôn tồn tại không chỉ với tư cách “khúc ca tuyệt tác của chủ nghĩa

Mác”, mà còn với tư cách cương lĩnh “có đầy đủ chi tiết, vừa về mặt lý luận,

vừa về mặt thực tiễn”(1) của giai cấp vô sản, giai cấp công nhân toàn thế giới

và chính đảng cách mạng của nó. Bởi lẽ, sự ra đời của Tuyên ngôn không chỉ

“đánh dấu một bước tiến trong khoa học lịch sử” và mở ra một giai đoạn mới

về chất trong lịch sử hình thành và phát triển tri thức của nhân loại, mà còn

“giống như học thuyết của Đácuyn trong sinh vật học, nó đã tạo ra một bước

ngoặt trong tiến trình phát triển tư tưởng của nhân loại về sự cải biến xã hội

bằng cách mạng. Hơn nữa, Tuyên ngôn không chỉ là “tác phẩm phổ biến hơn

cả, có tính chất quốc tế hơn cả trong tất cả các văn phẩm xã hội chủ nghĩa”,

mà còn đã thực sự trở thành “cương lĩnh được thừa nhận bởi hàng triệu công

nhân từ Xibia đến Caliphoócnia”(2), thành cơ sở lý luận khoa học, ngọn cờ tư

tưởng, ngôi sao dẫn đường và kim chỉ nam cho hành động của phong trào

cộng sản và công nhân quốc tế. Trong suốt chiều dài hơn một thế kỷ rưỡi vừa

qua, lịch sử nhân loại đã diễn ra với biết bao biến đổi thăng trầm, song Tuyên

ngôn vẫn luôn tồn tại với tư cách văn kiện mang tính cương lĩnh, có giá trị

lịch sử và tràn đầy sức sống thực tiễn đó. Do vậy, chúng ta hoàn toàn có cơ sở

để tin tưởng chắc chắn rằng, Tuyên ngôn sẽ còn tồn tại mãi với thời gian trong

lịch sử phát triển tư tưởng nhân loại nói chung, trong lịch sử phát triển lý luận

Mác – Lênin nói riêng.

Cái làm nên ý nghĩa, giá trị và sức sống đó của Tuyên ngôn, trước hết là ở bản

chất cách mạng và nội dung khoa học sâu sắc của nó. Trong Tuyên ngôn,

những “luận điểm chủ yếu”, “tư tưởng cơ bản và chủ đạo”, nền tảng vững

chắc của chủ nghĩa Mác là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật

lịch sử – quan niệm duy vật về lịch sử, lần đầu tiên đã được C.Mác và

Ph.Ăngghen trình bày dưới dạng hoàn chỉnh, cô đọng, súc tích và có hệ

thống. Đúng như Ph.Ăngghen đã chỉ rõ trong Lời tựa viết cho bản tiếng Đức

xuất bản năm 1883 tác phẩm bất hủ này: “Tư tưởng cơ bản và chủ đạo của

“Tuyên ngôn” là: trong mọi thời đại lịch sử, sản xuất kinh tế và cơ cấu xã hội

– cơ cấu này tất yếu phải do sản xuất kinh tế mà ra, - cả hai cái đó cấu thành

cơ sở của lịch sử chính trị và lịch sử tư tưởng của thời đại ấy; do đó (từ khi

chế độ công hữu ruộng đất nguyên thủy tan rã), toàn bộ lịch sử là lịch sử của

cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh giữa những giai cấp bị bóc lột và những

giai cấp đi bóc lột, giữa những giai cấp bị trị và những giai cấp thống trị, qua

các giai đoạn của sự phát triển xã hội của họ; nhưng cuộc đấu tranh ấy hiện

nay đã đến một giai đoạn mà giai cấp bị bóc lột và bị áp bức (tức là giai cấp

vô sản) không còn có thể tự giải phóng khỏi tay giai cấp bóc lột và áp bức

mình (tức là giai cấp tư sản) được nữa, nếu không đồng thời và vĩnh viễn giải

phóng toàn thể xã hội khỏi ách bóc lột, ách áp bức và khỏi cuộc đấu tranh giai

cấp”(3).

Với “tư tưởng cơ bản và chủ đạo” này – quan niệm duy vật về lịch sử, trong

Tuyên ngôn, C.Mác và Ph.Ăngghen đã luận giải một cách khoa học về quy

luật phát triển khách quan của lịch sử nhân loại, lịch sử xã hội loài người; về

vị trí hàng đầu, ý nghĩa có tầm quan trọng bậc nhất và vai trò quyết định của

sản xuất vật chất đối với sự phát triển của xã hội nói chung, đối với sự thay

đổi của kiến trúc thượng tầng nói riêng; về quá trình phát sinh, phát triển và

sự tất yếu diệt vong của chủ nghĩa tư bản cũng như sự ra đời và phát triển như

một tất yếu khách quan của chủ nghĩa xã hội; về vị trí, vai trò, sứ mệnh lịch

sử và phương pháp đấu tranh của giai cấp vô sản trong công cuộc xây dựng

chế độ xã hội mới; v.v.. Nói cách khác, trong Tuyên ngôn, với phương pháp

duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, C.Mác và Ph.Ăngghen đã vạch ra và

luận chứng một cách có cơ sở lý luận, có luận cứ khoa học sâu sắc về những

nguyên lý nền tảng của chủ nghĩa cộng sản khoa học. Không chỉ thế, với

phương pháp khoa học này, trong Tuyên ngôn, các ông còn đề xuất hàng loạt

luận điểm mang tính chất xuất phát điểm cho học thuyết kinh tế của mình.

Khi khẳng định toàn bộ nội dung của Tuyên ngôn đã nói lên mối liên hệ

khăng khít, sự thống nhất hữu cơ giữa ba bộ phận cấu thành của chủ nghĩa

Mác - triết học, kinh tế chính trị học và chủ nghĩa xã hội khoa học, V.I.Lênin

đã đặc biệt nhấn mạnh rằng, Tuyên ngôn là tác phẩm mà ở đó, C.Mác và

Ph.Ăngghen đã “trình bày một cách hết sức sáng sủa và rõ ràng thế giới quan

mới, chủ nghĩa duy vật triệt để - chủ nghĩa duy vật này bao quát cả lĩnh vực

sinh hoạt xã hội, - phép biện chứng với tư cách là học thuyết toàn diện nhất

và sâu sắc nhất về sự phát triển, lý luận đấu tranh giai cấp và vai trò cách

mạng – trong lịch sử toàn thế giới – của giai cấp vô sản, tức là giai cấp sáng

tạo ra một xã hội mới, xã hội cộng sản”(4).

Thật vậy, trong phần mở đầu, khi nói về bối cảnh ra đời của văn kiện lịch sử

này, C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ rõ nỗi sợ hãi và sự căm thù của các thế lực

trong thế giới tư bản chủ nghĩa đối với phong trào cộng sản đang hình thành

và ngày một phát triển sâu rộng. Các ông đã khẳng định rằng, sự xuất hiện và

ngày càng phát triển của chủ nghĩa cộng sản mà khi đó, “tất cả các thế lực ở

châu Âu thừa nhận là một thế lực”, “một bóng ma đang ám ảnh châu Âu”, đã

khiến cho chúng phải “liên hợp lại thành một liên minh thần thánh để trừ

khử”. Chính vì vậy, “hiện nay, - các ông nhấn mạnh, - đã đến lúc những

người cộng sản phải công khai trình bày trước toàn thế giới những quan điểm,

mục đích, ý đồ của mình; và phải có một Tuyên ngôn của đảng của mình để

đập lại câu chuyện hoang đường về bóng ma cộng sản”(5).

Trong bối cảnh đó, để giúp cho giai cấp vô sản toàn thế giới và các chính

đảng của nó nhận thức rõ vị trí, vai trò, sứ mệnh lịch sử và mục đích cao cả

của mình trong cuộc đấu tranh nhằm lật đổ giai cấp tư sản và chủ nghĩa tư

bản, đồng thời thiết lập địa vị thống trị của mình và xây dựng thành công chủ

nghĩa xã hội, C.Mác và Ph.Ăngghen đã phác họa nên một bức tranh sinh động

về quá trình hình thành và phát triển của chủ nghĩa tư bản, bóc trần những

mâu thuẫn nội tại, vốn có của nó, chỉ rõ mức độ đối kháng giai cấp ngày càng

sâu sắc giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản. Cho đến nay, dẫu lịch sử nhân

loại đã trải qua cả một quãng thời gian dài đến 160 năm với biết bao sự thay

đổi thăng trầm và dẫu hiện thời, “chủ nghĩa tư bản hiện đại đang nắm ưu thế

về vốn, khoa học và công nghệ, thị trường”, song những mâu thuẫn vốn có ấy

của nó, như C.Mác và Ph.Ăngghen đã vạch rõ trong Tuyên ngôn, không

những không mất đi mà thậm chí, “vẫn tồn tại và phát triển, có mặt sâu sắc

hơn” đến mức độ “không thể khắc phục nổi”, “đặc biệt là mâu thuẫn giữa tính

chất xã hội hóa ngày càng cao của lực lượng sản xuất với chế độ chiếm hữu

tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất”(6).

Không chỉ vạch rõ những mâu thuẫn nội tại, vốn có của chủ nghĩa tư bản, với

cái nhìn khách quan và tầm hiểu biết sâu sắc, trong Tuyên ngôn, C.Mác và

Ph.Ăngghen còn thẳng thắn thừa nhận rằng, sự ra đời của chủ nghĩa tư bản và

việc giai cấp tư sản thiết lập được địa vị thống trị của mình đã dẫn đến một sự

phát triển chung chưa từng thấy của các lực lượng sản xuất, một sự tiến bộ về

kinh tế, phát triển về khoa học, kỹ thuật và văn hóa. Các ông khẳng định:

“Giai cấp tư sản đã đóng một vai trò hết sức cách mạng trong lịch sử”; ở bất

cứ nơi nào mà giai cấp tư sản thiết lập được quyền thống trị chính trị của

mình, thì nó đều “đạp đổ những quan hệ phong kiến, gia trưởng và điền

viên”, làm tiêu tan “tất cả những quan hệ xã hội cứng đờ và hoen rỉ, với cả

tràng những quan niệm và tư tưởng vốn được tôn sùng từ nghìn xưa đi kèm

những quan hệ ấy”. Nó “làm cho sản xuất và tiêu dùng của tất cả các nước

mang tính chất thế giới”, những thành quả hoạt động tinh thần của một dân

tộc thì “trở thành tài sản chung của tất cả các dân tộc” và “lôi cuốn đến cả

những dân tộc dã man nhất vào trào lưu văn minh”. Rằng, giai cấp tư sản,

trong quá trình thống trị giai cấp chưa đầy một thế kỷ, “đã tạo ra những lực

lượng sản xuất nhiều hơn và đồ sộ hơn lực lượng sản xuất của tất cả các thế

hệ trước kia gộp lại”(7).

Đánh giá cao những thành tựu và cống hiến ấy của chủ nghĩa tư bản và giai

cấp tư sản, song với cái nhìn biện chứng khách quan và tầm nhận thức sâu sắc

về tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại, trong Tuyên ngôn, C.Mác và

Ph.Ăngghen cũng đã khẳng định rằng, giờ đây, giống như những gì đã xảy ra

với các phương thức sản xuất trước kia, quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa đã

không còn phù hợp với lực lượng sản xuất hùng mạnh do nó tạo ra nữa, nó

bắt đầu kìm hãm sự phát triển hơn nữa của lực lượng sản xuất này. Rằng, “xã

hội tư sản hiện đại, với những quan hệ sản xuất và trao đổi tư sản của nó, với

những quan hệ sở hữu tư sản, đã tạo ra những tư liệu sản xuất và trao đổi hết

sức mạnh mẽ như thế, thì giờ đây, giống như một tay phù thủy không còn đủ

sức trị những âm binh mà y đã triệu lên”(8). Và, giai cấp tư sản, từ một giai

cấp tiến bộ, cách mạng khi còn đang đấu tranh chống lại chế độ phong kiến,

đã trở thành một giai cấp phản động, một trở ngại trên con đường tiến bộ xã

hội, trở thành lực cản cản trở tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại.

Với những khẳng định đó, trong một văn kiện mang tính cương lĩnh, C.Mác

và Ph.Ăngghen đã cho thấy, việc thủ tiêu chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ

nghĩa và cùng với nó là xóa bỏ toàn bộ chế độ tư bản chủ nghĩa đã được

chuẩn bị một cách khách quan bởi sự tác động của chính ngay các quy luật

của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Trong quan niệm của các ông, mặc dù giai

cấp tư sản đã mang lại tính chất xã hội cho sản xuất và tạo ra một loại hình

phân công lao động xã hội mới, một mối quan hệ chặt chẽ giữa các lĩnh vực

sản xuất khác nhau, song với việc thiết lập chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ

nghĩa về tư liệu sản xuất và sự chiếm hữu tư nhân đối với sản phẩm lao động

được làm ra, giai cấp tư sản đã tạo ra mâu thuẫn không thể điều hòa được

giữa chế độ sở hữu đó với tính chất xã hội hóa của sản xuất. Do vậy, “những

lực lượng sản xuất mà xã hội sẵn có, không thúc dẩy quan hệ sở hữu tư sản

phát triển nữa; trái lại, chúng đã trở thành quá mạnh đối với quan hệ sở hữu

ấy, cái quan hệ sở hữu lúc đó đang cản trở sự phát triển của chúng; và mỗi khi

những lực lượng sản xuất xã hội khắc phục được sự cản trở ấy thì chúng lại

xô toàn thể xã hội tư sản vào tình trạng rối loạn và đe dọa sự sống còn của sở

hữu tư sản. Những quan hệ tư sản đã trở thành quá hẹp, không đủ để chứa

đựng những của cải đã được tạo ra trong lòng nó nữa… Những vũ khí mà giai

cấp tư sản đã dùng để đánh đổ chế độ phong kiến thì ngày nay quay lại đập

vào chính ngay giai cấp tư sản”(9). Việc thủ tiêu chế độ sở hữu tư nhân tư bản

chủ nghĩa về tư liệu sản xuất đã trở thành một tất yếu khách quan dưới sự tác

dộng của các quy luật của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, nên theo các ông,

“đặc trưng của chủ nghĩa cộng sản không phải là xóa bỏ chế độ sở hữu nói

chung, mà là xóa bỏ chế độ sở hữu tư sản” – “biểu hiện cuối cùng và đầy đủ

nhất của phương thức sản xuất và chiếm hữu sản phẩm dựa trên những đối

kháng giai cấp, trên cơ sở những người này bóc lột những người kia”, và theo

nghĩa đó, “những người cộng sản có thể tóm tắt lý luận của mình thành một

luận điểm duy nhất này là: xóa bỏ chế độ tư hữu”(10).

Trong Tuyên ngôn, khi chứng minh sự tất yếu phải diệt vong của chủ nghĩa tư

bản và khẳng định “sự sụp đổ của giai cấp tư sản và thắng lợi của giai cấp vô

sản đều là tất yếu như nhau”, C.Mác và Ph.Ăngghen đã nhấn mạnh rằng, điều

đó sẽ không tự động diễn ra. Vai trò kẻ đào huyệt chôn chế độ tư bản đã trở

nên lỗi thời đó sẽ phải do một giai cấp nhất định thực hiện - giai cấp vô sản,

giai cấp do chính xã hội tư bản sản sinh ra: “Giai cấp tư sản không những đã

rèn những vũ khí sẽ giết mình; nó còn tạo ra những người sử dụng vũ khí ấy

chống lại nó, đó là những công nhân hiện đại, những người vô sản”(11). Theo

các ông, không một giai cấp thống trị đã lỗi thời nào lại tự nguyện rút lui khỏi

vũ đài lịch sử và do vậy, việc lật đổ giai cấp tư sản với tư cách một giai cấp

thống trị đã hết vai trò lịch sử chỉ có thể thành công bởi một cuộc đấu tranh

giai cấp quyết liệt – cuộc cách mạng vô sản do chính giai cấp vô sản cách

mạng và chính đảng của nó thực hiện.

Nhấn mạnh vấn đề đấu tranh giai cấp, coi đấu tranh giai cấp là “động lực trực

tiếp của lịch sử” trong xã hội có giai cấp đối kháng và khẳng định cuộc đấu

tranh giai cấp giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản là “đòn bẩy vĩ đại của

cuộc cách mạng xã hội hiện đại”, trong Tuyên ngôn, C.Mác và Ph.Ăngghen

đã tiến hành luận chứng cho sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp vô sản.

Theo các ông, trong thời đại ngày nay, với tư cách “sản phẩm của bản thân

nền đại công nghiệp”, giai cấp vô sản không chỉ trở thành “giai cấp đang nắm

tương lai trong tay”, mà còn là “giai cấp thực sự cách mạng” nhất và chính

nền sản xuất tư bản chủ nghĩa đã đưa họ lên địa vị đó, lên vũ đài lịch sử với

tư cách lực lượng cách mạng hùng hậu và không điều hòa với toàn bộ chế độ

lao động làm thuê. Rằng, chính địa vị của người lao động làm thuê, của giai

cấp bị áp bức, bóc lột nặng nề nhất trong xã hội tư bản khi đó đã biến giai cấp

vô sản thành nhân tố cách mạng, thành lực lượng triệt để chống lại chủ nghĩa

tư bản. Sự nghiệp giải phóng giai cấp vô sản phải do chính giai cấp vô sản

thực hiện. Song, giai cấp vô sản tiến hành cách mạng nhằm lật đổ giai cấp tư

sản và chủ nghĩa tư bản không chỉ vì sự nghiệp giải phóng mình, mà còn thực

hiện một sứ mệnh cao cả nữa, mang đậm tính nhân văn cộng sản chủ nghĩa là

giải phóng toàn thể nhân loại cần lao vĩnh viễn thoát khỏi mọi ách áp bức,

bóc lột. Với tư tưởng này, C.Mác và Ph.Ăngghen khẳng định: “Phong trào vô

sản là phong trào độc lập của khối đại đa số. Giai cấp vô sản, tầng lớp ở bên

dưới nhất của xã hội hiện tại, không thể vùng dậy, vươn mình lên nếu không

làm nổ tung toàn bộ cái thượng tầng kiến trúc bao gồm những tầng lớp cấu

thành xã hội quan phương”(12).

Để giành thắng lợi trong cuộc đấu tranh cách mạng nhằm lật đổ giai cấp tư

sản và chủ nghĩa tư bản, giai cấp vô sản cần phải có phương pháp cách mạng

đúng đắn và thực thi những giải pháp tình thế một cách hợp lý, đúng đắn.

Nhận thức rõ vấn đề này, trong Tuyên ngôn, khi phân tích tiến trình phát triển

hiện thực của cuộc đấu trang giai cấp giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản

khi đó và chỉ ra những quy luật chủ yếu của cách mạng vô sản, C.Mác và

Ph.Ăngghen đã khẳng định rằng, “bước thứ nhất trong cuộc cách mạng công

nhân là giai cấp vô sản biến thành giai cấp thống trị, là giành lấy dân

chủ”(13). Với quyền thống trị chính trị của mình, giai cấp vô sản, theo các

ông, cần phải từng bước giành lấy toàn bộ tư bản trong tay giai cấp tư sản, tập

trung tất cả các công cụ sản xuất chủ yếu vào tay nhà nước vô sản để nhanh

chóng phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng một chế độ xã hội mới tốt

đẹp. Không chỉ thế, các ông còn cho rằng, thông qua con đường đấu tranh

cách mạng, việc giai cấp vô sản “tự tổ chức thành giai cấp”, “trở thành giai

cấp thống trị” và thiết lập chính quyền vô sản – một chính quyền dân chủ do

chính ngay bản chất của nó, thể hiện lợi ích của tuyệt đại đa số nhân dân và dựa

vào sự ủng hộ của nhân dân – phải được coi là vấn đề đầu tiên, then chốt và

mang ý nghĩa quyết định trong cuộc đấu tranh nhằm lật đổ giai cấp tư sản và

chủ nghĩa tư bản, xây dựng thành công chế độ xã hội mới.

Để giúp cho giai cấp vô sản toàn thế giới có được sự định hướng đúng đắn

trong công cuộc xây dựng chế độ xã hội mới, với tầm nhận thức lý luận và sự

am hiểu thực tiễn của mình khi đó, trong văn kiện mang tính cương lĩnh này -

Tuyên ngôn, C.Mác và Ph.Ăngghen đã đưa ra một phác thảo về xã hội mới đó

trên những nét chủ yếu và đồng thời chỉ rõ, xã hội mới này không phải đã

được xác lập ngay lập tức, mà sẽ chỉ được xác lập trong tiến trình cải tạo dần

dần xã hội cũ. Không chỉ thế, khi vạch ra những biện pháp mà nhà nước vô

sản cần phải thực hiện để chuẩn bị cơ sở cho công cuộc cải tạo cách mạng đó,

các ông đã không coi những biện pháp ấy là tuyệt đối, đầy đủ, không thể thay

thế, mà cho rằng, bản thân thực tiễn xây dựng xã hội mới và những điều kiện

lịch sử – cụ thể của thực tiễn ấy sẽ mang lại những sửa đổi tương ứng, thích

hợp cho những biện pháp ấy và “trong những nước khác nhau, những biện

pháp ấy dĩ nhiên sẽ khác nhau rất nhiều”(14). Với quan điểm lịch sử – cụ thể

này, với thái độ khoa học nghiêm túc, sau 25 năm xuất bản văn kiện lịch sử

này, trong Lời tựa viết cho bản tiếng Đức xuất bản năm 1872, chính

Ph.Ăngghen đã khẳng định: “Mặc dầu hoàn cảnh đã thay đổi nhiều trong hai

mươi lăm năm qua, nhưng cho đến nay, xét về đại thể, những nguyên lý tổng

quát trình bày trong “Tuyên ngôn” này vẫn còn hoàn toàn đúng. Ở đôi chỗ, có

một vài chi tiết cần phải xem lại. Chính ngay “Tuyên ngôn” cũng đã giải

thích rõ rằng bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào, việc áp dụng những nguyên lý đó

cũng phải tùy theo hoàn cảnh lịch sử đương thời, và do đấy, không nên quá

câu nệ vào những biện pháp cách mạng nêu ra ở cuối chương II. Đoạn này,

ngày nay mà viết lại thì về nhiều mặt, cũng phải viết khác đi. Vì đại công

nghiệp đã có những bước tiến hết sức lớn trong hai mươi lăm năm qua và giai

cấp công nhân cũng đạt được những tiến bộ song song trong việc tự tổ chức

thành chính đảng, do có những kinh nghiệm thực tiễn… Tuy nhiên, “Tuyên

ngôn” là một tài liệu lịch sử mà chúng tôi không có quyền sửa lại. Có lẽ là

trong một lần xuất bản, sẽ có một lời tựa để bổ sung vào khoảng trống từ năm

1847 đến nay”(15). Không chỉ một lần đòi hỏi những người cộng sản khi vận

dụng những nguyên lý, những biện pháp cách mạng mà Tuyên ngôn đã đưa

ra, cần phải tính đến những điều kiện lịch sử – cụ thể, phải bổ sung và phát

triển sáng tạo, trong Sự phát triển của chủ nghĩa xã hội từ không tưởng đến

khoa học (1880), cũng chính Ph.Ăngghen đã một lần nữa khẳng định: “Muốn

làm cho chủ nghĩa xã hội thành một khoa học thì trước hết phải đặt chủ nghĩa

xã hội trên một cơ sở hiện thực” và “ngày nay, vấn đề trước hết là phải

nghiên cứu thêm, trong mọi chi tiết và mọi mối liên hệ của nó”(16).

Tiếp theo>>>

“TUYÊN NGÔN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN” – MỘT VĂN KIỆN MANG

TÍNH CƯƠNG LĨNH, CÓ GIÁ TRỊ LỊCH SỬ VÀ SỨC SỐNG THỰC

TIỄN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC (Tiếp theo)

ĐẶNG HỮU TOÀN (*)

Trong Tuyên ngôn, C.Mác và Ph.Ăngghen đã khẳng định, cuộc cách mạng

xã hội do giai cấp vô sản và chính đảng cách mạng của nó thực hiện, khi đã

giành được thắng lợi hoàn toàn, sẽ vĩnh viễn chấm dứt tình trạng người bóc

lột người, chấm dứt mọi hình thức nô dịch xã hội và tình trạng “những

người lao động thì không được hưởng, mà những kẻ được hưởng lại không

lao động”. Nó cũng sẽ thủ tiêu hoàn toàn ách áp bức dân tộc, nô dịch thuộc

địa và những cuộc chiến tranh đẫm máu. Do vậy, xã hội mới do giai cấp vô

sản xây dựng sẽ tạo ra sự phồn vinh thực sự của nền sản xuất vật chất, sự

phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất, có khả năng đáp ứng đầy

đủ và toàn diện những nhu cầu vật chất và tinh thần cho mọi thành viên

trong xã hội. Xã hội mới đó làm cho lao động tích lũy chỉ còn là “một

phương tiện để mở rộng, làm phong phú và làm giảm nhẹ cho quá trình

sống của những người lao động”, thủ tiêu sự đối lập giữa lao động trí óc và

lao động chân tay bằng cách “kết hợp giáo dục với sản xuất vật chất”; làm

mất dần sự khác biệt giữa thành thị và nông thôn. Xã hội mới đó còn thiết

lập quyền bình đẳng và sự tự do thực sự của cá nhân, sự hài hòa giữa lợi

ích cá nhân và lợi ích xã hội, v.v.. Chính vì vậy mà, xã hội mới đó sẽ trở

thành một hiệp hội anh em của những người lao động bình đẳng, trong đó

“sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của

tất cả mọi người”(17) và tạo ra “bước nhảy” cho con người “từ vương quốc

của tất yếu sang vương quốc của tự do”(18), như sau này, Ph.Ăngghen bổ

sung thêm.

Trong văn kiện mang tính cương lĩnh cho giai cấp vô sản toàn thế giới

không chỉ về phương diện lý luận, mà còn về cả phương diện thực tiễn này,

C.Mác và Ph.Ăngghen còn xác định rõ cơ sở khoa học cho học thuyết về

chính đảng vô sản – đội tiền phong của giai cấp vô sản, người tổ chức và

lãnh đạo giai cấp vô sản. Các ông cho rằng, việc thành lập một chính đảng

cách mạng với tư cách này là điều kiện tiên quyết để giai cấp vô sản giành

lấy chính quyền và xây dựng chế độ xã hội mới. Chính đảng của giai cấp

vô sản này “tuyệt nhiên không có một lợi ích nào tách khỏi lợi ích của toàn

thể giai cấp vô sản”, nó “đặt lên hàng đầu và bảo vệ những lợi ích không

phụ thuộc vào dân tộc và chung cho toàn thể giai cấp vô sản” và trong các

giai đoạn khác nhau của cuộc đấu tranh giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư

sản, nó “luôn luôn đại biểu cho lợi ích của toàn bộ phong trào”. Nó cũng

“không đặt ra những nguyên tắc riêng biệt nhằm khuôn phong trào vô sản

theo những nguyên tắc ấy”. Nó “không phải là một đảng riêng biệt, đối lập

với các đảng công nhân khác”, mà là “bộ phận kiên quyết nhất trong các

đảng công nhân ở tất cả các nước”, “luôn luôn thúc đẩy phong trào tiến

lên” và về mặt lý luận, luôn “hiểu rõ những điều kiện, tiến trình và kết quả

chung của phong trào vô sản”(19).

Trong Tuyên ngôn, khi khẳng định vai trò tiên phong của chính đảng vô

sản, C.Mác và Ph.Ăngghen cũng đồng thời chỉ rõ đường lối chiến lược,

sách lược của nó và nhấn mạnh rằng, chính đảng vô sản này cần phải và

luôn luôn phải hành động tùy theo những điều kiện lịch sử – cụ thể, chứ

không phải theo một khuôn mẫu cứng nhắc nào đó. Còn khi đề xuất một

đường lối cụ thể nào đó thì bất cứ chính đảng vô sản nước nào cũng đều

cũng phải tính đến cả những nguyên lý, nguyên tắc chiến lược, sách lược

chung, nhất loạt có tính chất phổ biến, bất kể những đặc điểm nước mình là

như thế nào, nghĩa là phải biết làm cho những mục tiêu trước mắt của giai

cấp vô sản nước mình phục tùng những mục đích cuối cùng của giai cấp vô

sản toàn thế giới, tuân thủ sự nhất trí giữa những nhiệm vụ quốc tế và

nhiệm vụ dân tộc, ủng hộ mọi phong trào cách mạng chống lại trật tự xã

hội và chính trị đã trở nên lỗi thời và phải tỏ rõ thái độ phê phán đối với

những ảo tưởng, sai lầm trong đường lối cách mạng của những đồng minh

của mình. Khẳng định tính chất toàn thế giới của cuộc cách mạng vô sản do

giai cấp vô sản thực hiện và những nguyên tắc của chủ nghĩa quốc tế vô

sản mà mọi chính đảng vô sản đều phải tuân thủ. C.Mác và Ph.Ăngghen đã

nhấn mạnh tầm quan trọng và ý nghĩa lớn lao của việc xác lập sự nhất trí,

sự thống nhất trong quan điểm và hành động của giai cấp vô sản các nước,

của tình hữu nghị và đoàn kết quốc tế: “Hành động chung của giai cấp vô

sản, ít ra là ở những nước văn minh, là một trong những điều kiện đầu tiên

cho sự giải phóng họ”(20). Và, với lời kêu gọi vẫn còn sống mãi với thời

gian – “Vô sản tất cả các nước, đoàn kết lại”, - các ông đã khẳng định tính

chất cộng đồng của những lợi ích giai cấp và mục đích cao cả của giai cấp

vô sản toàn thế giới.

Giờ đây, trong bối cảnh thế giới đương đại, khi toàn cầu hóa đã trở thành

một xu thế khách quan, khi cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân

chủ, dân sinh, vì tiến bộ và công bằng xã hội đang có những bước tiến

mạnh mẽ, trở thành một phong trào rộng khắp trên quy mô toàn cầu, khẳng

định đó, lời kêu gọi đó mà C.Mác và Ph.Ăngghen đã đưa ra Tuyên ngôn

càng mang ý nghĩa thời đại và có giá trị định hướng cho hoạt động của các

Đảng Cộng sản và Công nhân trên phạm vi toàn thế giới, cho những hoạt

động quốc tế của các lực lượng yêu chuộng hòa bình trên hành tinh này.

Dưới ánh sáng và tinh thần của những nguyên lý nền tảng trong Tuyên

ngôn, trong những năm gần đây, dẫu chế độ xã hội chủ nghĩa không còn

tồn tại với tư cách một hệ thống thế giới sau sự sụp đổ của Liên Xô và các

nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu, song không phải vì thế mà phong trào đấu

tranh vì chủ nghĩa xã hội, vì lý tưởng cộng sản đã bị chặn lại. Trên phạm vi

toàn thế giới vẫn có nhiều quốc gia, dân tộc phát triển theo định hướng xã

hội chủ nghĩa, theo tinh thần của những nguyên lý nền tảng trong Tuyên

ngôn. Bằng chứng chứng minh cho điều này là sự kiện ngày càng có nhiều

quốc gia độc lập tăng cường đấu tranh để tự lựa chọn và quyết định con

đường phát triển của mình, là sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của trào lưu

cánh tả quốc tế, đặc biệt là ở khu vực Mỹ Latinh. Nhiều nước ở khu vực

này, chủ nghĩa xã hội, lý tưởng cộng sản đã trở thành niềm tin công khai

của đông đảo quần chúng nhân dân lao động đang cống hiến sức lực và trí

tuệ cho công cuộc xây dựng chế độ xã hội mới dưới sự lãnh đạo của các

đảng công nhân, cánh tả, cách mạng. Lý tưởng cộng sản và tinh thần xã hội

chủ nghĩa vẫn không ngừng bừng sáng trong không khí cách mạng ở nhiều

nước thuộc khu vực Tây bán cầu này. Một bằng chứng nữa là, từ năm 1998

đến nay, tại Aten (thủ đo Hy Lạp), “Cuộc gặp các Đảng Cộng sản, Công

nhân quốc tế” do Đảng Cộng sản Hy Lạp đứng ra đăng cai tổ chức vẫn diễn

ra thường niên và thu hút ngày càng đông các Đảng Cộng sản và Công

nhân ở nhiều nước tham gia, trong đó có Đảng Cộng sản Việt Nam chúng

ta. Diễn đàn này, trên thực tế, không chỉ đã trở thành một hình thức phối

hợp hoạt động, tập hợp lực lượng của phong trào xã hội chủ nghĩa thế giới

sau chiến tranh lạnh, mà còn là nơi diễn ra những hội thảo quốc tế về lý

tưởng cộng sản, về chủ nghĩa xã hội. Ngay lần đầu tiên (1998), tại Diễn

đàn này, một Hội thảo khoa học quốc tế về Tuyên ngôn và Lễ kỷ niệm 150

năm Ngày Tuyên ngôn ra đời đã được tổ chức long trọng. Thêm một bằng

chứng nữa, từ những năm đầu thập niên 90 của thế kỷ XX đến nay, 140

Đảng Cộng sản, Công nhân và cánh tả từ 46 nước thuộc Mỹ Latinh, Bắc

Mỹ, châu Âu, châu Á, châu Phi, châu Đại Dương, Trung Đông đã tổ chức

Diễn đàn Sao Paolô (Braxin) với mục đích đánh giá sự vận động và phát

triển của phong trào cánh tả quốc tế nói chung, ở các nước khu vực nói

riêng và qua đó, tìm biện pháp phối hợp hoạt động giữa các lực lượng cộng

sản và cánh tả mà nòng cốt là giai cấp công nhân cách mạng với các lực

lượng thuộc các tầng lớp, giai cấp theo đường lối cách tả.

Kỷ niệm 160 năm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản – một tác phẩm bất hủ,

một văn kiện có giá trị lịch sử, mang ý nghĩa thời đại và được thừa nhận là

cương lĩnh lý luận và thực tiễn, cương lĩnh hành động của giai cấp vô sản,

giai cấp công nhân toàn thế giới, chúng tôi xin được nhắc lại lời kết thúc

tác phẩm đã được C.Mác và Ph.Ăngghen viết với một khí thế cách mạng

sục sôi, một niềm tin vững chắc và hàm chứa sự thúc giục những người

cộng sản toàn thế giới hành động: “Mặc cho các giai cấp thống trị run sợ

trước một cuộc Cách mạng cộng sản chủ nghĩa! Trong cuộc cách mạng ấy,

những người vô sản chẳng mất gì hết, ngoài những xiềng xích trói buộc họ.

Họ sẽ giành được cả thế giới.

VÔ SẢN TẤT CẢ CÁC NƯỚC, ĐOÀN KẾT LẠI!”(21).

Kỷ niệm 160 năm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, đó cũng là 160 năm

những nguyên lý nền tảng của tác phẩm bất hủ này được thực tiễn phong

trào cách mạng thế giới kiểm nghiệm, chúng ta hoàn toàn có luận cứ khoa

học và thực tiễn để khẳng định rằng, với tác phẩm này, C.Mác và

Ph.Ăngghen đã đem đến cho cả nhân loại một cống hiến vĩ đại là biến chủ

nghĩa xã hội từ không tưởng trở thành khoa học và biến học thuyết khoa

học đó thành thực tiễn đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản, giai cấp

công nhân toàn thế giới.

160 năm qua, thế giới đã diễn ra biết bao biến cố lịch sử và lịch sử nhân

loại cũng đã chứng kiến nhiều biến đổi thăng trầm, có cả những sự đổi thay

đến không ngờ, không thể tưởng tượng nổi. Song, cho đến nay, về đại thể,

những nguyên lý nền tảng, những tư tưởng cơ bản và chủ đạo của Tuyên

ngôn “vẫn còn hoàn toàn đúng” và tinh thần của nó “vẫn cổ vũ và thúc đẩy

toàn thể giai cấp vô sản có tổ chức và đang chiến đấu của thế giới văn

minh”. Tuyên ngôn vẫn giữ nguyên giá trị lịch sử và ý nghĩa thời đại vốn

có của nó, vẫn xứng đáng được thừa nhận là cương lĩnh lý luận giàu sức

sống thực tiễn, cương lĩnh thúc đẩy hành động của giai cấp vô sản, giai cấp

công nhân toàn thế giới, và như V.I.Lênin khẳng định, vẫn là tuyên ngôn

của “chủ nghĩa xã hội thế giới”. 160 năm qua, Tuyên ngôn vẫn thực sự là

“cuốn sách gối đầu giường cho tất cả những người công nhân giác ngộ” và

những người mácxít chân chính vẫn đi theo ánh sáng và tinh thần của nó,

vẫn lấy những tư tưởng cơ bản, chủ đạo, những nguyên lý nền tảng của nó

làm cơ sở lý luận, khoa học cho việc xây dựng đường lối chiến lược và

sách lược cách mạng, cho sự nghiệp xây dựng chế độ xã hội mới - xã hội

xã hội chủ nghĩa. Chúng ta có thể coi là một minh chứng hùng hồn cho

nhận định này - đó là sự kiện giành thắng lợi của công cuộc đổi mới theo

định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Trung Quốc và một số nước

khác từ những thập niên cuối của thế kỷ XX đến nay, mà một trong những

cái làm nên thắng lợi ấy là ánh sáng và tinh thần của Tuyên ngôn.

Dưới ánh sáng và tinh thần của Tuyên ngôn 160 năm qua, giờ đây, chúng ta

đã có được cả cơ sở lý luận lẫn thực tiễn để khẳng định rằng, lịch sử nhân

loại, phong trào cách mạng thế giới đang phải trải qua những bước quanh

co, song cuối cùng, nhân loại nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội, vì đó là

quy luật tiến hóa của lịch sử. Chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới,

từ những bài học thành công và thất bại trong các chặng đường lịch sử tồn

tại và phát triển của nó, cũng như từ khát vọng và sự thức tỉnh của nhân

dân các dân tộc yêu chuộng hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ

xã hội, tất có điều kiện và khả năng tạo ra bước phát triển mới.

Thực hiện Chỉ thị số 16/CT – TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng

sản Việt Nam, Kỷ niệm 160 năm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, việc

chúng ta cùng nhau nhắc lại giá trị lịch sử, ý nghĩa thời đại và tính cương

lĩnh của tác phẩm lý luận giàu sức sống thực tiễn này, thiết nghĩ, là việc

làm thiết thực và bổ ích.r

(*) Phó giáo sư, tiến sĩ, Phó tổng biên tập Tạp chí Triết học, Viện Triết học,

Viện Khoa học xã hội Việt Nam.

(1) C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, t.18. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,

1995, tr.127.

(2) C.Mác và PhĂngghen. Sđd., t.21, tr.522.

(3) C.Mác và PhĂngghen. Sđd., t.21, tr.11-12.

(4) V.I.Lênin. Toàn tập, t.26. Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1981, tr.57.

(5) C.Mác và PhĂngghen. Toàn tập, t.4. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,

1995, tr.595.

(6) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

IX. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.65.

(7) C.Mác và PhĂngghen. Toàn tập, t.4, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,

1995, tr.599, 601, 603.

(8) C.Mác và PhĂngghen. Sđd., t.4, tr.604.

(9) C.Mác và PhĂngghen, Sđd., t.4, tr.604-605.

(10) C.Mác và PhĂngghen, Sđd., t.4, tr.615, 616.

(11) C.Mác và PhĂngghen, Sđd., t.4, tr.605.

(12) C.Mác và PhĂngghen, Sđd., t.4, tr.611.

(13) C.Mác và PhĂngghen, Sđd., t.4, tr.626.

(14) C.Mác và PhĂngghen, Sđd., t.4, tr.627.

(15) C.Mác và PhĂngghen, Sđd., t.18, tr.128.

(16) C.Mác và PhĂngghen, Sđd., t.19, tr.293, 305.

(17) C.Mác và PhĂngghen, Sđd., t.4, tr.628.

(18) C.Mác và PhĂngghen, Sđd., t.19, tr.331.

(19) C.Mác và PhĂngghen, Sđd., t.4, tr.614, 615.

(20) C.Mác và PhĂngghen, Sđd., t.4, tr.624.

(21) C.Mác và PhĂngghen, Sđd., t.4, tr.646.