BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH 

NNGGUUYYỄỄNN MMIINNHH TTÙÙNNGG ỨNG DỤNG MÔ HÌNH PPP TRONG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN CÁC BỆNH VIỆN CÔNG Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ TÀI CHÍNH – NGÂN HÀNG

MÃ SỐ: 60.31.12

NGƯỜI HƯỚNG DẪN: TS NGUYỄN THỊ LIÊN HOA

TP.HỒ CHÍ MINH – NĂM 2011

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1

Chương 1: TỔNG QUAN VỀ HỢP TÁC NHÀ NƯỚC – TƯ NHÂN ( PPP). ................. 4

1.1. Những khái niệm cơ bản .............................................................................................. 4

1.1.1. Khu vực nhà nước .................................................................................................... 4

1.1.2. Khu vực tư nhân ....................................................................................................... 5

1.2. Giới thiệu mô hình Hợp tác nhà nước và tư nhân ....................................................... 5

1.3. Đặc điểm của mô hình hợp tác nhà nước – tư nhân .................................................. 11

1.4. Kinh nghiệm thực hiện PPP tại một số quốc gia trên thế giới .................................. 13

1.5. Đặc điểm ngành y tế .................................................................................................. 16

1.6. Ứng dụng của mô hình hợp tác nhà nước – tư nhân trong đầu tư phát triển y tế ............................................................................................................................ 17

Chương II: THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ TRONG LĨNH VỰC Y TẾ TP.HCM ................. 20

2.1. Giới thiệu chung về ngành y tế Việt Nam ................................................................. 20

2.2. Thực trạng ngành y tế Thành phố Hồ Chí Minh ....................................................... 24

2.2.1. Giới thiệu ngành y tế Thành phố Hồ Chí Minh ...................................................... 24

2.2.2. Cơ sở vật chất ngành y tế Thành phố Hồ Chí Minh ............................................... 34

2.2.3. Chi ngân sách ngành y tế Thành phố Hồ Chí Minh ............................................... 36

2.3. Khảo sát sự đánh giá của bệnh nhân về các cơ sở y tế .............................................. 40

Kết luận chương 2 ............................................................................................................ 47

Chương III: XÂY DỰNG MÔ HÌNH HỢP TÁC NHÀ NƯỚC – TƯ NHÂN TRONG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN Y TẾ .......................................................................... 48

3.1. Nhu cầu đầu tư y tế .................................................................................................... 48

3.2. Sự cần thiết xây dựng mô hình hợp tác nhà nước – tư nhân ..................................... 50

3.3. Đề xuất một số mô hình hợp tác nhà nước – tư nhân trong đầu tư phát triển các bệnh viện ............................................................................................................ 53

3.3.1. Mô hình BTL (Build – Transfer – Lease = Xây dựng – Chuyển giao – Cho thuê) .......................................................................................................................... 53

3.3.1.1. Mô tả mô hình BTL ............................................................................................. 53

3.3.1.2. Xây dựng mới bệnh viện công lập theo mô hình BTL ........................................ 56

3.3.2. Mô hình BLT (Build – Lease – Transfer = Xây dựng – Cho thuê – Chuyển giao) ..................................................................................................................... 60

3.3.2.1. Mô tả mô hình BLT ............................................................................................. 60

3.3.2.2. Xây dựng hệ thống xử lý nước thải bệnh viện công theo mô hình BLT (Build – Lease – Transfer) ................................................................................................ 63

3.4. Các giải pháp thực hiện mô hình hợp tác nhà nước – tư nhân .................................. 66

3.4.1. Về phía tư nhân ....................................................................................................... 66

3.4.2. Về phía nhà nước .................................................................................................... 67

Kết luận chương 3 ............................................................................................................ 68

KẾT LUẬN ...................................................................................................................... 69

TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................................ 70

1

LỜI MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài:

Đầu tư cho y tế chăm sóc sức khỏe là đầu tư để tạo ra động lực mạnh cho

sự phát triển. Do đó đầu tư y tế luôn là mối quan tâm hàng đầu trong chiến lược

phát triển của mọi quốc gia nhằm đảm bảo tăng trưởng kinh tế và phát triển bền

vững, nhất là đối với các nước đang phát triển, khi mà nguồn vốn ngân sách còn

hạn hẹp nhưng phải tập trung cho nhiều mục tiêu đầu tư phát triển.

Thực tế nhiều năm qua ở các nước cho thấy, sự hạn chế về nguồn vốn đầu

tư và quản lý chưa hiệu quả của Nhà nước đã kìm hãm sự phát triển chất lượng

dịch vụ y tế. Do đó, cải cách phương pháp đầu tư và chất lượng dịch vụ y tế là

một yêu cầu tất yếu với quan điểm: Nhà nước vẫn giữ vai trò quan trọng nhất

trong đảm bảo cung cấp dịch vụ y tế nhưng không nhất thiết phải là người cung

cấp mà có thể chuyển giao cho khu vực tư nhân nhằm phát huy tối ưu tính tích

cực của cơ chế thị trường, đồng thời Nhà nước vẫn giữ vai trò điều tiết nhằm đảm

bảo sự công bằng xã hội và khắc phục những bất cập của thị trường.

Hợp tác Nhà nước và tư nhân (tiếng Anh là Public Private Partnership, gọi

tắt là PPP) là giải pháp hữu hiệu đáp ứng những mục tiêu nêu trên. PPP đang ngày

càng trở nên phổ biến với các hình thức được biết đến nhiều nhất như BOT, BTO,

BOO.

Ở Việt Nam, Chính phủ luôn chủ trương khuyến khích huy động mọi nguồn

lực xã hội tham gia cung cấp dịch vụ y tế, được biết đến với khái niệm “xã hội

hóa”. Những năm gần đây, thuật ngữ PPP bắt đầu được đề cập nhiều ở các Hội

thảo, Hội nghị chuyên đề bàn về các giải pháp tăng cường đầu tư phát triển và

nâng cao chất lượng dịch vụ y tế. Các nhà tài trợ cũng có những khuyến nghị về

việc Việt Nam cần thiết đẩy mạnh PPP như là một trong những giải pháp phù hợp

nhằm từng bước đáp ứng nhu cầu phát triển y tế của TP.HCM. Do đó, PPP là một

trong những hình thức đầu tư phù hợp với tình hình kinh tế của TP.HCM.

2

Qua tìm hiểu kinh nghiệm thực tế về việc thực hiện PPP ở các nước trên thế

giới và trong nước, để từ đó có cái nhìn toàn diện hơn về PPP, định hướng tiếp

cận, xúc tiến và phát triển các dự án PPP theo các mô hình phù hợp. Đó là lý do

em chọn nghiên cứu đề tài “Ứng dụng mô hình PPP trong đầu tư phát triển

các bệnh viện công ở TP.HCM”.

2. Các nội dung nghiên cứu chủ yếu của đề tài:

- Đề xuất một số mô hình hợp tác Nhà nước và tư nhân trong đầu tư phát

triển các bệnh viện công ở TP.HCM.

- Đưa ra một số giải pháp nhằm tăng cường thúc đẩy các dự án hợp tác Nhà

nước và tư nhân trong đầu tư phát triển các bệnh viện công ở TP.HCM.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài:

- Đối tượng nghiên cứu: các hình thức hợp tác Nhà nước – tư nhân.

- Phạm vi nghiên cứu: áp dụng cho các Bệnh viện công ở TP.HCM.

4. Các phương pháp nghiên cứu chủ yếu của đề tài:

Phương pháp nghiên cứu chủ yếu của luận văn là phương pháp nghiên cứu

tại bàn, phương pháp thống kê, sưu tầm các số liệu được phổ biến trên các phương

tiện thông tin đại chúng, đặc biệt là từ các bộ, ban, ngành. Công việc này được

tiến hành qua hai bước như sau:

- Thống kê các số liệu cần thiết cho nghiên cứu qua các năm từ năm 2000

đến năm 2010.

- Tùy vào mục đích nghiên cứu mà trích lọc số liệu theo từng giai đoạn khác

nhau.

Dựa trên số liệu thống kê có được, luận văn sử dụng các phương pháp phân

tích, tổng hợp, đồ thị có sự hỗ trợ của máy tính để xử lý và biểu diễn số liệu có

được theo các nội dung cần thiết.

3

Để có thể thấy được vấn đề nghiên cứu thay đổi như thế nào qua các năm,

luận văn sử dụng phương pháp so sánh – đối chiếu nhằm xem xét vấn đề trong

mối tương quan, so sánh đối chiếu giữa những thời kỳ khác nhau.

Do bản chất nghiên cứu khoa học bao giờ cũng có tính kế thừa, nên trong

luận văn có vận dụng kết quả nghiên cứu của một số chuyên gia về các vấn đề có

liên quan.

Cuối cùng, một phương pháp không kém phần quan trọng là phương pháp

chuyên gia: tìm hiểu vấn đề thông qua hình thức thu thập ý kiến của những người

có nhiều kinh nghiệm (đặc biệt là các Thầy, Cô, Giảng viên) am tường trên từng

lĩnh vực để từ đó rút ra những kết luận xác thực.

5. Kết cấu của luận văn:

Lời mở đầu.

Chương 1: Tổng quan về hợp tác nhà nước – tư nhân (PPP).

Chương 2: Thực trạng đầu tư y tế Thành phố Hồ Chí Minh.

Chương 3: Xây dựng mô hình hợp tác nhà nước – tư nhân trong đầu tư phát

triển y tế TP.HCM.

Kết luận.

4

Chương 1: TỔNG QUAN VỀ HỢP TÁC NHÀ NƯỚC – TƯ NHÂN ( PPP).

1.1. Những khái niệm cơ bản:

1.1.1. Khu vực nhà nước:

Theo Joseph Eugene Stiglitz [4], một cơ quan hay một đơn vị được xếp vào

khu vực nhà nước có các đặc điểm sau đây:

- Trong một chế độ dân chủ, những người chịu trách nhiệm lãnh đạo các cơ

quan công lập đều trực tiếp hay gián tiếp do công chúng bầu ra hoặc được chỉ

định.

- Các đơn vị trong khu vực công được giao một số quyền hạn nhất định có

tính chất bắt buộc, cưỡng chế mà khu vực tư nhân không có được (quyền buộc

nộp thuế, xét xử, tịch thu tài sản…).

Theo PGS.TS Sử Đình Thành [5], từ khi nhà nước ra đời, nền kinh tế - xã

hội được chia thành hai khu vực: khu vực công (public sector) và khu vực tư nhân

(private sector).

Trong nhiều tài liệu, thuật ngữ khu vực công được sử dụng tương đương

như là khu vực nhà nước (viết tắt là KVNN) hay khu vực của Chính phủ. Tất cả

các khái niệm này đều hàm ý khu vực nhà nước là khu vực phản ánh hoạt động

kinh tế, chính trị, xã hội do nhà nước quyết định. Ngược lại, khu vực tư nhân (viết

tắt là KVTN) là khu vực phản ánh các hoạt động do tư nhân quyết định.

Tiêu thức căn bản để phân biệt KVNN và KVTN là dựa vào tính chất sở

hữu và quyền lực chính trị.

Tổ chức của khu vực nhà nước gồm có:

- Hệ thống các cơ quan công quyền bao gồm: hệ thống các cơ quan quyền lực

của nhà nước (các cơ quan lập pháp, tư pháp, hành pháp), hệ thống quốc phòng và

các cơ quan an ninh, hệ thống các đơn vị cung cấp dịch vụ công, hệ thống cơ quan

cung cấp an sinh xã hội.

5

- Hệ thống các đơn vị kinh tế nhà nước như: ngân hàng trung ương, các định

chế tài chính trung gian, các doanh nghiệp nhà nước (viết tắt là DNNN), các đơn

vị được nhà nước cấp vốn hoạt động.

Phân bổ nguồn lực của khu vực nhà nước nhằm giải quyết các vấn đề cơ

bản của nền kinh tế dựa trên chính sách lựa chọn công, vai trò của Chính phủ và

cách thức của Chính phủ vào nền kinh tế nhằm điều chỉnh thất bại của thị trường

và tái phân phối thu nhập…

1.1.2. Khu vực tư nhân:

Với những khái niệm, đặc điểm và tổ chức của khu vực nhà nước như trên,

có thể thấy rằng khái niệm khu vực tư nhân là để phân biệt với khu vực nhà nước.

Ở khu vực tư nhân, mọi hoạt động đều do tư nhân quyết định.

Tuy nhiên, Nhà nước có ảnh hưởng đến quyết định của khu vực tư nhân

thông qua hệ thống văn bản pháp luật cũng như các quy tắc, quy chế điều tiết của

Nhà nước với các mức độ và cung cụ khác nhau trong từng thời kỳ.

Phân bổ nguồn lực của khu vực tư nhân hoàn toàn chịu chi phối bởi cơ chế

thị trường, yêu cầu phân bổ nguồn lực phải tối ưu, lấy lợi nhuận làm mục tiêu.

Trong phạm vi một quốc gia, khu vực tư nhân bao gồm tư nhân trong nước

và tư nhân nước ngoài thông qua hình thức đầu tư trực tiếp (FDI: Foreign Direct

Investment).

1.2. Giới thiệu mô hình Hợp tác nhà nước và tư nhân:

Có nhiều cách định nghĩa PPP:

- Darrin Grimsey và Mervin K. Lewis thì đưa ra định nghĩa là “một mối quan

hệ chia sẻ rủi ro dựa trên nguyện vọng của khu vực công với một hoặc nhiều đối

tác thuộc khu vực tư nhân hay thiện nguyện cùng chia sẻ việc cung ứng một đầu

ra và/hoặc dịch vụ công cộng được thỏa thuận công khai.”

6

- Từ điển Bách khoa mở Wikipedia lại mô tả đó là “một dịch vụ của chính

quyền hay thương vụ tư nhân được cấp vốn và vận hành thông qua quan hệ đối tác

giữa chính quyền với một hoặc nhiều công ty thuộc khu vực tư nhân, thể hiện

bằng một hợp đồng giữa hai bên, trong đó bên tư nhân cung ứng dịch vụ công/dự

án và đảm nhiệm rủi ro về tài chính, kỹ thuật và vận hành”.

- Ở nước ta, trong Quy chế thí điểm đầu tư theo hình thức hợp tác nhà nước –

tư nhân vừa được Thủ tướng Chính phủ ban hành theo quyết định 71/2010, PPP

được định nghĩa là “việc Nhà nước và Nhà đầu tư cùng phối hợp thực hiện Dự án

phát triển kết cấu hạ tầng, cung cấp dịch vụ công trên cơ sở Hợp đồng dự án”.

Quy chế nêu rõ “tổng hợp các hình thức tham gia của Nhà nước bao gồm:

Vốn Nhà nước, các ưu đãi đầu tư, các chính sách tài chính có liên quan, được tính

trong tổng vốn đầu tư của Dự án, nhằm tăng tính khả thi của Dự án. Căn cứ tính

chất của từng Dự án, phần tham gia của Nhà nước có thể gồm một hoặc nhiều

hình thức nêu trên. Phần tham gia của Nhà nước không phải là phần góp vốn chủ

sở hữu trong Doanh nghiệp dự án, không gắn với quyền được chia lợi nhuận từ

nguồn thu của Dự án”.

Hợp tác nhà nước - tư nhân, hay còn gọi là hợp tác công – tư (Public

Private Partnership, được viết tắt là PPP hoặc PPPs) là hệ thống khung pháp luật

và chính sách công nhằm đảm bảo quyền lợi, duy trì và khuyến khích khu vực tư

nhân vào góp vốn, đầu tư, vận hành cung cấp dịch vụ công.

Theo Ngân hàng Thế giới (World Bank, viết tắt là WB), thuật ngữ PPP

được sử dụng để nói đến những hình thức thỏa thuận hợp tác từ đơn giản đến

phức tạp giữa khu vực nhà nước và khu vực tư nhân trong việc cung cấp dịch vụ

công mà trước đây thường do KVNN cấp vốn và thực hiện, theo đó, KVTN chấp

nhận những rủi ro về hoạt động, kỹ thuật và tài chính, đổi lại KVTN được thu phí

từ người sử dụng hoặc nhận thanh toán từ KVNN [7].

7

Bảng 1.1: Dự án PPP nằm giữa dự án đầu tư công và đầu tư tư nhân:

Dự án công Dự án PPP Dự án tư nhân

- Quyết định đầu tư dựa - KVTN bỏ vốn đầu tư - Quyết định đầu tư dựa

trên phân tích chi phí – tài sản, thực hiện chức trên tỉ suất lợi nhuận kỳ

lợi ích với tỉ suất chiết năng của nhà nước để: vọng.

khấu xã hội nhằm vào - Cung cấp dịch vụ công - Cung cấp hàng hóa,

mục tiêu phúc lợi công trực tiếp đến người sử dịch vụ theo nhu cầu thị

cộng. dụng, thu phí hoàn vốn trường.

- Cung cấp hàng hóa, từ người sử dụng; hoặc - Bỏ vốn đầu tư, quản lý

dịch vụ trực tiếp cho cung cấp dịch vụ công và vận hành tài sản.

người dân. cho Nhà nước với vai trò - Là chủ sở hữu tài sản.

- Là chủ sở hữu tài sản. người mua, nhận thanh - Thu hồi vốn đầu tư và

- Chịu trách nhiệm cấp toán từ Nhà nước. lợi nhuận từ người mua.

vốn đầu tư, quản lý và - Có thể là chủ sở hữu tài

vận hành tài sản. sản hoặc không.

- Thu phí hoặc không thu

phí từ người sử dụng.

Mô hình hợp tác nhà nước và tư nhân (PPP) khá mới đối với Việt Nam,

nhưng đã được nhiều nước trên thế giới áp dụng từ hơn 50 năm nay và đã được

triển khai thành công tại nhiều nước trên thế giới, trong nhiều lĩnh vực khác nhau,

với các loại dự án điển hình là: nhượng quyền thu phí; thiết kế, xây dựng, cấp vốn

và vận hành; nhượng quyền kinh doanh và tư nhân hóa. Tại các nước công nghiệp

hóa, hình thức PPP đã cho phép chuyển giao các dịch vụ công cho khu vực tư

nhân với tư cách là một phần của chính sách của nhà nước. Mô hình này nhằm

tăng cường khả năng thu hút và khai thác hiệu quả nguồn lực trong xã hội cùng

với đầu tư của nhà nước để xây dựng, triển khai thực hiện các chương trình dự án

phục vụ cho việc phát triển kinh tế xã hội. Kinh nghiệm thế giới cho thấy, nhờ áp

dụng mô hình hợp tác nhà nước và tư nhân mà nhiều vấn đề bức xúc của nhiều đô

8

thị lớn đã được giải quyết như tình trạng ùn tắc giao thông, cung cấp nước, tạo

việc làm cho người lao động…

Mô hình hợp tác nhà nước và tư nhân kết hợp được nhiệm vụ của dịch vụ

công với hiệu quả của một hay nhiều doanh nghiệp tư nhân, cho phép chính quyền

địa phương nhanh chóng đạt được những tiêu chuẩn quốc tế tốt nhất trong các

dịch vụ công, tạo thuận lợi cho chuyển giao công nghệ tiên tiến, hiện đại.

Với mô hình này, Nhà nước sẽ thiết lập các tiêu chuẩn về cung cấp dịch vụ

và tư nhân được khuyến khích cung cấp bằng cơ chế thanh toán theo chất lượng

dịch vụ. Đây là hình thức hợp tác sẽ mang lại lợi ích cho cả nhà nước và người

dân vì tận dụng được nguồn lực tài chính và quản lý từ tư nhân trong khi vẫn đảm

bảo các lợi ích cho người dân.

Không giống như hình thức tư hữu hóa hay sang nhượng phổ biến ở các

nước châu Âu khác, mô hình hợp tác nhà nước và tư nhân giúp các cơ quan quản

lý nhà nước quản lý chặt chẽ chất lượng các dịch vụ do tư nhân cung cấp. Càng

không giống hình thức tư nhân hóa khi mô hình hợp tác nhà nước và tư nhân là

hình thức hợp tác có thời hạn thông thường là 25 năm và các cơ sở hạ tầng được

xây dựng hay vận hành bởi tư nhân sẽ được giao lại cho nhà nước khi chấm dứt

hợp đồng.

Theo mô hình Hợp tác nhà nước và tư nhân:

- Nhà nước căn cứ vào các quy hoạch, kế hoạch, chương trình đầu tư phát

triển kết cấu hạ tầng để lập danh mục dự án phát triển kết cấu hạ tầng cần đầu tư,

loại hình dịch vụ công cần cung cấp.

- Nhà nước xác định quy mô, công suất, địa điểm, diện tích xây dựng, các

hạng mục công trình, nhu cầu sử dụng đất.

- Nhà nước phân tích, lựa chọn về công nghệ, kỹ thuật, các điều kiện cung

cấp vật tư thiết bị, nguyên liệu, năng lượng, dịch vụ, hạ tầng kỹ thuật, phương án

9

giải phóng mặt bằng, tái định cư, đánh giá ảnh hưởng của dự án đối với môi

trường sinh thái và môi trường xã hội.

- Nhà nước dự kiến tổng mức đầu tư dự án, tiến độ xây dựng công trình (khởi

công, hoàn thành, nghiệm thu và đưa công trình vào khai thác kinh doanh), thời

gian khai thác công trình, phương thức tổ chức quản lý và kinh doanh của nhà đầu

tư; dự kiến Phần tham gia của nhà nước trong dự án và đề xuất Cơ chế đặc thù của

dự án.

- Nhà nước xác định các điều kiện, phương thức chuyển giao và tiếp nhận

công trình; xác định mức phí người sử dụng đối với hàng hóa, dịch vụ công, và dự

kiến thu từ việc kinh doanh khai thác công trình.

- Nhà nước phân tích hiệu quả tổng thể của dự án bao gồm sự cần thiết của

dự án, những lợi thế và hiệu quả kinh tế, xã hội của việc thực hiện dự án đầu tư

theo hình thức đối tác công – tư so với hình thức đầu tư toàn phần bằng vốn nhà

nước.

- Bên tư nhân được khuyến khích đầu tư cung cấp dịch vụ công và được

thanh toán theo chất lượng dịch vụ.

- Bên tư nhân thiết kế, xây dựng, lắp đặt thiết bị, đảm nhiệm công tác quản

lý, vận hành, bảo dưỡng công trình trong suốt thời gian cho thuê, cung cấp dịch

vụ hình thành từ công trình và chịu trách nhiệm hoàn toàn về chất lượng

Các loại hợp đồng Hợp tác nhà nước và tư nhân:

- Hợp đồng Xây dựng - Kinh doanh - Chuyển giao (Build - Operate -

Transfer, gọi tắt là Hợp đồng BOT) là hợp đồng được ký giữa Cơ quan nhà nước

có thẩm quyền và Nhà đầu tư để xây dựng, kinh doanh công trình kết cấu hạ tầng

trong một thời hạn nhất định; hết thời hạn, Nhà đầu tư chuyển giao không bồi

hoàn công trình đó cho Nhà nước Việt Nam.

10

- Hợp đồng Xây dựng - Chuyển giao - Kinh doanh (Build - Transfer -

Operate, gọi tắt là Hợp đồng BTO) là hợp đồng được ký giữa Cơ quan nhà nước

có thẩm quyền và Nhà đầu tư để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng; sau khi xây

dựng xong, Nhà đầu tư chuyển giao công trình đó cho Nhà nước Việt Nam; Chính

phủ dành cho Nhà đầu tư quyền kinh doanh công trình đó trong một thời hạn nhất

định để thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận.

- Hợp đồng Xây dựng - Chuyển giao (Build - Transfer, gọi tắt là Hợp đồng

BT) là hợp đồng được ký giữa Cơ quan nhà nước có thẩm quyền và Nhà đầu tư để

xây dựng công trình kết cấu hạ tầng; sau khi xây dựng xong, Nhà đầu tư chuyển

giao công trình đó cho Nhà nước Việt Nam; Chính phủ tạo điều kiện cho Nhà đầu

tư thực hiện Dự án khác để thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận hoặc thanh toán cho

Nhà đầu tư theo thỏa thuận trong Hợp đồng BT.

Tóm lại, hợp đồng Hợp tác nhà nước và tư nhân có các đặc điểm sau:

- Bên tư nhân được giao để thực hiện một số chức năng của khu vực Nhà

nước và chính quyền địa phương. Tương ứng với các loại hợp đồng này, bên tư

nhân sẽ được Nhà nước, chính quyền địa phương thanh toán các khoản phí, hoặc

bên tư nhân được phép thu phí hoặc lệ phí sử dụng các loại hình dịch vụ đã cung

cấp theo hợp đồng công – tư.

- Bên tư nhân được giao để sử dụng tài sản của Nhà nước, chính quyền địa

phương để thực hiện các mục đích kinh doanh thương mại. Khi đó bên tư nhân sẽ

phải thực hiện một số nghĩa vụ tài chính theo hợp đồng công – tư.

11

Hình 1.1: Mô hình nghiên cứu của luận văn

Mô hình hợp tác nhà nước – tư nhân

trong đầu tư phát triển các bệnh viện

Cơ sở lý thuyết

Nghiên cứu các hình thức hợp tác nhà nước – tư nhân Thực trạng hợp tác nhà nước – tư nhân trên thế giới và ở Việt Nam

Phân tích thực trạng đầu tư bệnh viện dẫn đến xây dựng mô hình hợp tác nhà nước – tư nhân

Đề xuất hai hình thức hợp tác nhà nước – tư nhân cho đầu tư bệnh viện: BTL và BLT Một vài kiến nghị thúc đẩy hình thức hợp tác nhà nước – tư nhân

Căn cứ vào quy hoạch, kế hoạch, chương trình đầu tư phát triển các cơ sở y

tế của thành phố và thực trạng quá tải cộng với thời gian dài sử dụng cơ sở vật

chất tại các các cơ sở y tế đã xuống cấp trầm trọng không đáp ứng kịp với nhu cầu

khám chữa bệnh của người dân ngày càng cao, nhà đầu tư tư nhân đề xuất đầu tư

dự án với cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo hình thức hợp tác nhà nước – tư

nhân.

1.3. Đặc điểm của mô hình hợp tác nhà nước – tư nhân:

Nhu cầu vốn để xây dựng, triển khai thực hiện các chương trình dự án phục

vụ cho việc phát triển kinh tế xã hội ở các nước đang phát triển là rất lớn trong khi

nguồn vốn công không đủ đáp ứng. Mà để giải quyết nhu cầu vốn đầu tư bằng

12

cách tăng các khoản nợ công thì sẽ làm tăng gánh nặng cho Chính phủ. Do đó mô

hình hợp tác nhà nước – tư nhân có ý nghĩa vô cùng quan trọng để giải quyết nhu

cầu vốn đầu tư. Vì mô hình này có các đặc điểm sau đây:

- Mô hình hợp tác nhà nước – tư nhân là mô hình nhà nước và nhà đầu tư

cùng phối hợp để thực hiện Dự án phát triển kết cấu hạ tầng, cung cấp dịch vụ

công trên cơ sở Hợp đồng dự án.

- Cơ quan nhà nước có thẩm quyền là một bên tham gia Hợp đồng dự án và

thực hiện các quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm theo thỏa thuận với nhà đầu tư tại Hợp

đồng dự án.

- Dự án là dự án phát triển kết cấu hạ tầng, cung cấp dịch vụ công thực hiện

thí điểm đầu tư theo hình thức hợp tác nhà nước – tư nhân.

- Đề xuất dự án là đề nghị của Cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc nhà

đầu tư về một dự án thực hiện đầu tư theo hình thức hợp tác nhà nước – tư nhân.

- Mô hình hợp tác nhà nước – tư nhân là mô hình có các mối quan hệ tương

đối lâu dài giữa đối tác nhà nước và đối tác tư nhân.

- Cơ cấu nguồn vốn trong mô hình bao gồm cả vốn của khu vực nhà nước và

khu vực tư nhân.

- Trong mô hình hợp tác nhà nước – tư nhân có cơ quan vận hành đóng vai

trò quan trọng tại mỗi giai đoạn của dự án (thiết kế, thực hiện, hoàn thiện, cấp

vốn).

- Trong mô hình hợp tác nhà nước – tư nhân, đối tác nhà nước chú trọng vào

việc xác định các mục tiêu cần đạt được.

- Trong mô hình hợp tác nhà nước – tư nhân có sự phân chia rủi ro giữa đối

tác nhà nước và đối tác tư nhân.

- Mô hình PPP được áp dụng rất đa dạng ở nhiều lĩnh vực như: đường bộ,

cầu đường bộ, hầm đường bộ, bến phà đường bộ; đường sắt, cầu đường sắt, hầm

13

đường sắt; giao thông đô thị (đường xá, trạm xe buýt, nơi đỗ xe, phát triển khu

thương mại, tăng cường tài chính và công trái thị chính); cảng hàng không, cảng

biển, cảng sông; hệ thống cung cấp nước sạch; nhà máy điện; y tế (xây dựng mới

hoặc đầu tư nâng cấp bệnh viện); môi trường (nhà máy xử lý chất thải); các dự án

phát triển kết cấu hạ tầng, cung cấp dịch vụ công khác theo quyết định của Thủ

tướng Chính phủ.

Ưu điểm của mô hình hợp tác nhà nước – tư nhân:

Sử dụng được những kỹ năng, công nghệ hiện đại và tính hiệu quả của khu

vực tư nhân. Buộc khu vực công ngay từ đầu phải chú trọng đầu ra và lợi ích

(thay vì các yếu tố đầu vào). Đưa vốn tư nhân vào và giúp giảm nhẹ gánh nặng về

tài chính cho dự án. Rủi ro được chia sẻ giữa những đối tác khác nhau. Chắc chắn

về ngân sách. Những nhà cung cấp tư nhân có trách nhiệm hơn trong việc cung

cấp dịch vụ trong môi trường khuyến khích thích hợp. Trong mô hình sang kiến

tài chính tư nhân, khu vực công chỉ thanh toán khi dịch vụ đã được cung cấp.

Nhược điểm của mô hình hợp tác nhà nước – tư nhân:

Mô hình hợp tác nhà nước – tư nhân ngụ ý việc khu vực công mất quyền

kiểm soát quản lý và vì vậy khó có thể chấp nhận trên góc độ chính trị. Liệu khu

vực công có đủ năng lực và kỹ năng để áp dụng phương pháp PPP và thiết lập môi

trường pháp lý để khuyến khích thích đáng không? Liệu khu vực tư nhân có đủ

năng lực chuyên môn để đảm bảo thực hiện PPP không? Không thể chuyển giao

rủi ro tuyệt đối. Việc mua sắm có thể tốn nhiều thời gian và chi phí. Các cấu trúc

dài hạn tương đối không linh hoạt.

1.4. Kinh nghiệm thực hiện PPP tại một số quốc gia trên thế giới:

Mô hình hợp tác nhà nước và tư nhân bắt đầu ra đời từ nước Anh và nước

Anh đã áp dụng mô hình hợp tác nhà nước và tư nhân cách đây hơn 50 năm và đã

thu được thành công lớn. Theo đó, nhà nước cho phép tư nhân cùng tham gia đầu

14

tư vào các dịch vụ hoặc công trình công cộng của nhà nước và khoán gọn cho tư

nhân đầu tư toàn bộ cơ sở vật chất, sau đó nhà nước thuê lại công trình đó. Nhà

nước chỉ thuê sử dụng, còn quản lý cơ sở vật chất vẫn thuộc tư nhân.

Ví dụ như việc đầu tư xây dựng trường học và bệnh viện theo mô hình hợp

tác nhà nước và tư nhân, nhà nước sẽ ký hợp đồng để tư nhân cung cấp dịch vụ

bao gồm: việc xây dựng trường học và bệnh viện, bảo trì, vận hành trường học và

bệnh viện trong một thời gian thỏa thuận là 25 năm với các tiêu chuẩn của Nhà

nước đưa ra. Tư nhân thành lập công ty chuyên trách về: thiết kế xây dựng, vận

hành, bảo trì trường học và bệnh viện. Tư nhân sẽ được nhà nước thanh toán định

kỳ trong suốt thời gian hợp đồng. Nhà nước chỉ quản lý hiệu trưởng, đội ngũ giáo

viên, giám đốc và y – bác sĩ… còn lại những “phần cứng” (cơ sở vật chất) đều do

những nhà đầu tư tư nhân quản lý theo hợp đồng. Theo các chuyên gia của Anh về

mô hình hợp tác nhà nước và tư nhân, các rủi ro về đầu tư sẽ được chuyển giao từ

nhà nước sang tư nhân như rủi ro xây dựng trường lớp và bệnh viện, vận hành,

quản lý… Như thế sẽ tránh được rủi ro cho nhà nước khi trực tiếp đầu tư và việc

đầu tư này vẫn mang lại lợi ích cho người dân chính là cơ sở vật chất trường học

và bệnh viện. Cũng bằng hình thức hợp tác đầu tư này đã giúp cho nước Anh giải

quyết được nhiều vấn đề của xã hội nhờ sự tham gia của tư nhân trong các dự án

về giao thông vận tải cầu đường, quốc phòng, tư pháp…. Cụ thể, Nhà nước đã

nhận được chuyển giao khoảng 44 bệnh viện và 119 chương trình y tế, 250 trường

học, 4 hệ thống đường sắt nội hạt, các trạm cảnh sát và cứu hỏa, hệ thống chiếu

sáng đô thị…

Dự án cấp nước sạch ở Thành phố Thượng Hải (Trung Quốc) là một hình

mẫu mà Việt Nam có thể tham khảo. Năm 2002, chính quyền Thượng Hải đã ký

kết với Tập đoàn VE của Pháp hợp đồng quản lý dịch vụ cung cấp nước sạch

trong thời hạn 50 năm. Từ đó, hình thành một doanh nghiệp liên doanh Pháp –

Trung Quốc với tỷ lệ vốn góp 50/50. Theo đó, VE cung cấp toàn bộ dịch vụ sản

xuất, phân phối nước sạch, quản lý và chăm sóc khách hàng, thiết kế và đầu tư…

15

Dự án xây dựng Bệnh viện đa khoa ở Nam Phi: Sở Y tế và công ty tư nhân

ký hợp đồng xây dựng, cung cấp thiết bị y tế, đảm nhận các dịch vụ phục vụ công

việc khám chữa bệnh như bảo vệ, dinh dưỡng, vệ sinh, khử trùng bệnh viện… Các

dịch vụ chính về khám chữa bệnh vẫn do bệnh viện đảm nhận. Tiêu chí tài chính

đấu thầu là tổng mức thanh toán dịch vụ hàng năm của nhà nước cho công ty tư

nhân tùy theo mức độ sử dụng giường bệnh. Bệnh viện thu viện phí của bệnh

nhân theo chế độ quy định rồi nộp cho ngân sách nhà nước. Ngân sách nhà nước

thanh toán cho công ty nhận thầu tiền dịch vụ mà bệnh viện đã sử dụng. Sở Y tế

có trách nhiệm giám sát chất lượng dịch vụ nêu trong hợp đồng. Đây là dự án

được đánh giá là rất thành công: bệnh viện đã sử dụng các thiết bị tiên tiến (tuy

chưa phải là hiện đại nhất, kể cả trực thăng cấp cứu) trong việc quản lý điều hành

hoạt động khám chữa bệnh, trong khi đó người dân vẫn chi trả như tại các bệnh

viện công khác.

Cũng theo mô hình hợp tác nhà nước và tư nhân, thủ đô Seoul (Hàn Quốc)

đã xây dựng tuyến xe điện ngầm số 9. Hiện nay, mỗi ngày phục vụ khoảng

256.000 lượt khách, dự báo đến năm 2013 tuyến xe này sẽ thu hút 760.000 lượt

khách/ngày. Gần 1.000 người Hàn Quốc đã được đào tạo để vận hành, khai thác

và làm dịch vụ chăm sóc khách hàng.

Theo Bộ Y tế Canada, trong 5 năm qua, chỉ riêng 3 bang British Columbia,

Ontario và Quebec đã hoàn tất các dự án đầu tư PPP vào hạ tầng y tế có vốn 10 tỉ

đô la Canada. Mới nhất là dự án đầu tư PPP vào Khu liên hợp Dịch vụ Y tế

Niagara ở thành phố Toronto với số vốn hơn 750 triệu đô la Canada theo hình

thức thiết kế - xây dựng - vận hành - chuyển giao. Dự án này được tư vấn và thiết

kế kiến trúc bởi Công ty B+H, doanh nghiệp Canada có hơn 20 năm kinh nghiệm

về quy hoạch, thiết kế các dự án PPP. Công ty này đang mở rộng hoạt động tại

Châu Á, trong đó có Việt Nam.

Trong năm 2010, ADB và Chính phủ Ấn Độ đã hợp tác phát triển dự án

“Sáng kiến PPP” nhằm tập trung thu hút đầu tư PPP trong 2 lĩnh vực y tế và giáo

16

dục tại một số bang như Andhra Pradesh, Orissa, Rajasthan, Tamil Nadu và

Uttarakhand. Hiện Ấn Độ cần gia tăng ngân sách đầu tư vào cơ sở hạ tầng từ

4,7% lên mức 8% tổng sản phẩm nội địa (GDP), tương đương 500 tỷ USD. Tỷ lệ

nợ công của Ấn Độ đã ở mức 81,5% GDP (trong giai đoạn 2002 – 2008) nên việc

huy động từ tư nhân là tất yếu. Trên thực tế, các nhà đầu tư tư nhân đã đóng góp

khoảng 29% vốn cho các dự án hạ tầng tại Ấn Độ từ năm 2007 – 2010. Ngoài ra,

theo ADB, lĩnh vực y tế và giáo dục chiếm gần 9% GDP của Ấn Độ cũng đang

thu hút sự quan tâm của giới đầu tư tư nhân trong và ngoài nước.

Và gần đây thôi, ngày 29/9/2010 quốc đảo Singapore đã khởi công xây

dựng Trung tâm thể thao Singapore theo mô hình hợp tác nhà nước và tư nhân.

Công trình này sẽ hoàn thành vào năm 2014 với những trang thiết bị và tiện ích

vào loại hiện đại nhất thế giới và có tổng vốn đầu tư gần 1 tỷ USD. Nhà thầu

trúng thầu dự án này là Tập đoàn Singapore Sports Hub (SSHC), trong đó đứng

đầu là Công ty Draggeages Singapore. Đây được đánh giá là dự án PPP lớn nhất

thế giới.

Các chuyên gia của Anh cho rằng hình thức hợp tác nhà nước và tư nhân

tương tự như hình thức BOT (Build – Operate – Transfer = xây dựng - vận hành -

chuyển giao) nhưng tầm của BOT hẹp hơn hình thức hợp tác nhà nước và tư nhân.

BOT được áp dụng nhiều ở Việt Nam trong các công trình hạ tầng cơ sở như cầu,

đường, trạm điện…

1.5. Đặc điểm ngành y tế:

Ngành y tế là một ngành trong hệ thống kinh tế quốc dân và thuộc nhóm

ngành dịch vụ, phục vụ các nhu cầu y tế xã hội. Nói cách khác, ngành y tế có

đóng góp vào GDP của đất nước. Đầu tư cho ngành y tế không phải là tiêu chí mà

là đầu tư cơ bản, đầu tư cho phát triển. Ngành y tế là một ngành dịch vụ nhưng

khác với các ngành kinh doanh dịch vụ khác bởi hoạt động cung cấp dịch vụ của

17

ngành y tế không đặt mục tiêu lợi nhuận làm mục tiêu quan trọng nhất. Do đó

ngành y tế có các đặc điểm sau:

- Ngành y tế chủ yếu phục vụ an sinh xã hội: cung cấp dịch vụ chăm sóc sức

khỏe cho người lao động và các thành viên gia đình họ, nhằm bảo đảm cho họ tái

tạo được sức lao động, duy trì và phát triển nền sản xuất xã hội, đồng thời phát

triển mọi mặt cuộc sống của con người, kể cả phát triển bản thân con người.

- Chi phí đầu tư ngành y tế cao, trong khi mức thu bị hạn chế, ràng buộc bởi

các quy định của nhà nước (giá thu viện phí còn bất cập, chưa được sửa đổi phù

hợp, gây khó khăn trong việc thực hiện tự cân đối thu chi. Quy định sử dụng 35%

nguồn thu viện phí để tăng lương khiến các đơn vị y tế không còn kinh phí để hoạt

động), thu hồi vốn chậm.

- Ngành y tế là ngành kinh doanh dịch vụ có tính rủi ro thấp hơn rất nhiều so

với các ngành kinh doanh dịch vụ khác. Vì ngành y tế cung cấp dịch vụ thiết yếu

của cuộc sống.

- Đối tượng phục của ngành y tế vụ rất đa dạng: người lao động, các đối

tượng chính sách xã hội, người cao tuổi, người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số

và trẻ em dưới 6 tuổi…

- Nguồn lực đầu tư cho ngành y tế thì hạn chế: chủ yếu là do ngân sách nhà

nước đầu tư cho y tế, nguồn viện trợ quốc tế, viện phí, bảo hiểm y tế và một số

nguồn thu khác.

1.6. Ứng dụng của mô hình hợp tác nhà nước – tư nhân trong đầu tư phát

triển y tế:

Ứng dụng mô hình hợp tác công – tư có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với

các nước đang phát triển. Do nhu cầu vốn trong phát triển y tế để theo kịp tốc độ

phát triển kinh tế cao và bền vững trong giai đoạn này là rất lớn, trong khi ngân

sách nhà nước mức tăng có giới hạn và không đủ để đáp ứng. Mặt khác, ngân sách

nhà nước đồng thời phải tập trung cho nhiều mục tiêu đầu tư phát triển, trong đó

18

quan trọng nhất là mục tiêu giảm nghèo. Khi thực hiện mô hình này, với cùng một

lượng vốn đầu tư của nhà nước, nếu trước kia chỉ tập trung xây dựng được một

công trình thì nay có thể phát triển hai đến ba công trình tương tự nhờ có phần

vốn tham gia của khu vực tư nhân. Xét theo tổng thể, cùng một lượng vốn đầu tư

có thể huy động được từ nguồn vốn nhà nước trong 10 năm tới, chúng ta có thể

tạo lập được 3 lần số lượng công trình, do khai thác được nguồn vốn từ khu vực tư

nhân.

Sự tham gia của khu vực tư nhân trong đầu tư phát triển y tế có khả năng

mang lại hiệu quả thực hiện tốt hơn, tầm bao phủ rộng hơn nhờ vào hiệu quả đạt

được với năng lực quản lý, sự sáng tạo và khả năng định hướng theo yêu cầu của

khách hàng, khả năng thu hồi vốn đầu tư cao hơn và việc sử dụng khoa học kỹ

thuật công nghệ tiên tiến, tiết kiệm chi phí trong xây dựng, bảo dưỡng và vận

hành của khu vực tư nhân. Trong một môi trường được khuyến khích thỏa đáng,

các nhà cung cấp dịch vụ tư nhân làm tốt hơn các cung cấp dịch vụ thuộc khu vực

nhà nước do có những phản ứng nhanh nhạy hơn so với nhu cầu và sự cạnh tranh

trên thị trường.

Mô hình hợp tác nhà nước – tư nhân đem lại khả năng tăng cường tính

minh bạch, thúc đẩy cạnh tranh và phòng ngừa tham nhũng (thông qua đấu thầu

chọn chủ đầu tư, xây dựng, nhà cung cấp…).

Mô hình hợp tác nhà nước – tư nhân cải thiện hình thức mua sắm công,

thông qua việc buộc nhà đầu tư tư nhân chia sẻ với Chính phủ các rủi ro trong

hoạt động dài hạn của các tài sản và có thể giúp đảm bảo chất lượng dịch vụ tốt.

Kết luận chương 1

Trong toàn bộ chương 1 trên đây, tác giả đã trình bày một cách tổng quát về

mô hình hợp tác nhà nước – tư nhân. Có thể kết luận rằng mô hình hợp tác nhà

nước – tư nhân là một giải pháp tích cực để đầu tư và phát triển các bệnh viện

19

công ở TP.HCM. Tuy nhiên, nếu mô hình hợp tác nhà nước – tư nhân không được

áp dụng một cách phù hợp thì sẽ trở thành gánh nặng cho ngân sách.

Ở Việt Nam, mô hình hợp tác nhà nước – tư nhân chỉ mới đang ở giai đoạn

khởi đầu. Do đó cần thiết phải có những bước tìm kiếm, thử nghiệm các mô hình

phù hợp thông qua kinh nghiệm thực tiễn trong nước và thế giới.

20

Chương II: THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ TRONG LĨNH VỰC Y TẾ TP.HCM

2.1. Giới thiệu chung về ngành y tế Việt Nam:

Ngay từ buổi sơ khai, để tồn tại con người đã phải tạo cho mình một nơi trú

ẩn tránh những tác hại do thiên nhiên gây ra, ngăn ngừa thú dữ. Đầu tiên là những

hang động, đến những lều lán, những ngôi nhà và đến những lâu đài nguy nga

lộng lẫy, với hệ thống hạ tầng kỹ thuật ngày càng được nâng cao, giảm thiểu tác

hại do thiên nhiên gây ra. Cở sở hạ tầng của bệnh viện trước hết cũng là một công

trình kiến trúc có những đặc thù để khám chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe cộng

đồng. Xã hội càng phát triển, yêu cầu đối với “ngôi nhà bệnh viện”, nhà thương

càng cao. Mặt bằng, không gian kiến trúc, kỹ thuật hạ tầng trang thiết bị y tế phải

phù hợp với yêu cầu của việc lắp đặt và sử dụng trang thiết bị của bệnh viện.

Cơ sở hạ tầng là tài sản cố định có vốn đầu tư lớn. Hàng năm, kinh phí của

Nhà nước đầu tư hàng trăm tỷ đồng để xây dựng cải tạo mở rộng cơ sở hạ tầng

các cơ sở y tế. Tuy nhiên do cơ sở vật chất của nhiều bệnh viện thành phố hiện

nay đang trong tình trạng quá cũ kỹ, hư hỏng trầm trọng, cộng với việc sử dụng

hàng ngày của cán bộ y tế và bệnh nhân, cho nên đòi hỏi việc duy tu, bảo trì, tôn

tạo cần phải được thường xuyên. Vì vậy nhà nước cũng không đủ vốn để thực

hiện việc duy tu, bảo trì hết tất cả các cơ sở hạ tầng của các cơ sở y tế. Mà cơ sở

hạ tầng càng rộng lớn, càng nhiều thì đòi hỏi chi phí thường xuyên cũng càng

nhiều hơn.

Nếu cơ sở hạ tầng không có thì không thể gọi là có bệnh viện được, cơ sở

hạ tầng đã hư hỏng hoàn toàn cũng có nghĩa là bệnh viện không còn có tác dụng

với con người nữa chưa nói đến là nơi khám chữa bệnh, có những yêu cầu lớn hơn

những ngôi nhà thông dụng khác.

Cơ sở hạ tầng của bệnh viện là nơi thực thi nhiệm vụ khám chữa bệnh với

hệ thống trang thiết bị y tế, lực lượng khám chữa bệnh mới ngày càng hiện đại, nó

còn tạo ra môi trường chăm sóc sức khỏe cả về vật chất lẫn tinh thần (tâm lý) giúp

21

đắc lực cho công tác chuyên môn để người bệnh chóng khỏi trở về với gia đình và

cộng đồng.

Trong những năm qua, công tác Bảo vệ, chăm sóc và nghiên cứu sức khỏe

nhân dân tại Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng nhờ một hệ thống

y tế công lập được xây dựng rộng khắp từ Trung ương tới tỉnh, huyện, xã/phường

và thôn, bản, ấp. Hệ thống y tế công lập hiện giữ vai trò chủ đạo trong công tác

chăm sóc, bảo vệ sức khỏe và được chia làm 3 tuyến: tuyến Trung ương, tuyến

tỉnh và tuyến y tế cơ sở (bao gồm huyện, xã và y tế thôn bản). Bên cạnh hệ thống

y tế công, tại Việt Nam đã hình thành mạng lưới y tế tư nhân. Hiện nay có trên

30.000 phòng khám chữa bệnh tư nhân, 84 bệnh viện tư với trên 5.000 giường

bệnh (tương đương 2% giường bệnh của cả nước), trong đó có 4 bệnh viện có vốn

đầu tư của nước ngoài.

Hệ thống y tế của Việt Nam hiện nay bao gồm khoảng 13.438 cơ sở y tế,

trong đó có 1.063 bệnh viện công với 200.000 giường bệnh. Bình quân có 1.664

giường bệnh quốc lập/10.000 dân, 1 bác sĩ phục vụ 1.700 dân. Mạng lưới y tế, đặc

biệt là y tế cơ sở được củng cố và phát triển; hầu hết các xã, phường trong cả nước

đều có trạm y tế, khoảng 65% trạm có bác sĩ. Nhờ vậy, nhiều thành tựu y tế quan

trọng đã đạt được: thanh toán được bệnh bại liệt, loại trừ uốn ván sơ sinh vào năm

2000 và bệnh phong vào năm 2005; hạn chế được tốc độ gia tăng của HIV/AIDS;

giảm tỷ lệ chết của trẻ em dưới 5 tuổi từ 55%O năm 1995 xuống còn 32,8%O năm

2003; giảm tỷ lệ chết của trẻ em dưới 1 tuổi từ 42%O xuống 18%O; năm 2003, Việt

Nam đã khống chế thành công dịch bệnh SARS; tuổi thọ trung bình của người

Việt Nam từ 67,8 tuổi đã nâng lên 71,5 tuổi vào năm 2005. Tỷ lệ chi thường

xuyên cho y tế 4,5% ngân sách; tỷ lệ hộ nghèo được cấp thẻ bảo hiểm y tế miễn

phí là 29,28% và hộ nghèo được miễn giảm viện phí là 57,88%. Nhiều cơ sở y tế

trong đó có cả hệ dự phòng và khám chữa bệnh được đầu tư, nâng cấp, một số cơ

sở khám chữa bệnh đã ứng dụng công nghệ kỹ thuật cao, tiên tiến như ghép gan,

thận, tủy, thụ tinh trong ống nghiệm, phẫu thuật tim mạch, sọ não, tiêu hóa…Chế

22

độ khám chữa bệnh cho người nghèo, khám chữa bệnh miễn phí cho trẻ em dưới 6

tuổi đang được triển khai thực hiện.

Đối với ngành dược và hệ thống y dược cổ truyền, Nhà nước Việt Nam đã

có nhiều cố gắng trong việc cung ứng đầy đủ các loại thuốc có chất lượng cho

người dân. Hiện nay Việt Nam có 18 doanh nghiệp dược Trung ương, 132 doanh

nghiệp dược địa phương, 22 dự án liên doanh sản xuất thuốc. Các cơ sở cung ứng

thuốc thiết yếu đã có mặt tại các xã, phường, kể cả vùng sâu, vùng xa, với khoảng

10.317 quầy đại lý thuốc và 9.087 tủ thuốc của trạm y tế.

Công tác nghiên cứu kế thừa và phát huy các bài thuốc, phương pháp chữa

bệnh bằng y học cổ truyền tiếp tục được đẩy mạnh. Các nguồn dược liệu địa

phương được sử dụng rộng rãi để chữa trị một số bệnh thông thường và bệnh mãn

tính. Hiện nay có 450 cơ sở sản xuất thuốc y học cổ truyền với 2.000 chế phẩm

đông nam dược. Hàng năm có khoảng 30% bệnh nhân được khám và điều trị bằng

y học cổ truyền.

Theo đánh giá chung của Tổ chức Y tế thế giới về thành tựu y tế của Việt

Nam, khả năng đáp ứng của hệ thống y tế Việt Nam xếp thứ 51/191 nước trên thế

giới; được đánh giá cao hơn so với nhiều nước có cùng mức thu nhập bình quân

đầu người. Phần lớn các chỉ tiêu tổng quát về sức khỏe của Việt Nam tốt hơn so

với các nước có cùng mức thu nhập. Một số chỉ số cơ bản của Việt Nam tương

đương mức của các nước có thu nhập cao gấp 10 lần. Tuổi thọ trung bình của

người Việt Nam là 72, cao hơn 10 tuổi so với các nước có thu nhập bình quân

tương đương.

Tuy nhiên, bên cạnh các kết quả đạt được trên đây, công tác y tế vẫn còn

một số tồn tại sau:

- Tình hình bệnh tật ở nước ta được phân loại theo 3 nhóm (nhiễm trùng,

không nhiễm trùng và tai nạn, thương tích). Nhóm bệnh không nhiễm trùng chiếm

tỷ trọng mắc bệnh cao nhất là 60,61%, nhóm bệnh nhiễm trùng vẫn còn phổ biến

23

và chiếm tỷ trọng mắc bệnh trên 27,0%, nhóm bệnh do tai nạn thương tích chiếm

tỷ trọng mắc bệnh là 11,95%. Tình trạng ngộ độc thực phẩm còn cao, hàng năm

có từ 1,3 – 1,5 triệu người ngộ độc; tình trạng ô nhiễm môi trường ngày càng trầm

trọng, đặc biệt là ô nhiễm do sử dụng hóa chất; tình hình sức khỏe công nhân và

bệnh nghề nghiệp, tai nạn lao động vẫn còn cao nên đòi hỏi việc cung cấp các

dịch vụ y tế cả dự phòng và điều trị phải thuận lợi, đa dạng và hiệu quả đồng thời

phải hết sức kịp thời.

- Hiện nay, trong khu vực Nhà nước, các cơ sở y tế tuy có được đầu tư song

so với nhu cầu cung cấp dịch vụ y tế thì hầu hết cơ sở vật chất, nhà cửa, điện

nước, thiết bị thông dụng của các bệnh viện vẫn chưa đạt tiêu chuẩn tối thiểu. Đối

với các cơ sở khám chữa bệnh công do chưa có quy định điều kiện cụ thể để cấp

giấy phép hoạt động nên nhiều cơ sở khám chữa bệnh đã không đạt điều kiện, đặc

biệt là cơ sở vật chất, xử lý chất thải y tế. Trong khi đó, các cơ sở khám chữa bệnh

tư nhân muốn hoạt động được phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện mới được cấp

phép. Do đó, cần thiết phải có cơ chế pháp lý về điều kiện cụ thể và cấp giấy phép

hoạt động cho tất cả các cơ sở trên để bảo đảm cung cấp dịch vụ khám chữa bệnh

cho người bệnh một cách hiệu quả, đồng đều.

- Theo số liệu thống kê của Bộ Y tế, ở nước ta đến nay có 189.150 người

đang hành nghề khám bệnh, chữa bệnh trong khu vực nhà nước (trong đó: 52.413

bác sĩ, 48.519 y sĩ, 961 điều dưỡng viên đại học, 45.143 điều dưỡng viên trung

học, 10.899 điều dưỡng viên sơ học, 17.109 nữ hộ sinh đại học và trung học,

2.133 nữ hộ sinh sơ học, 10.519 kỹ thuật viên y tế, 798 xét nghiệm viên và 656

lương y). chưa kể người đang hành nghề trong khu vực tư nhân. Việc cấp chứng

chỉ hành nghề được thực hiện từ năm 1995 đối với người đứng đầu các cơ sở hành

nghề y tư nhân (việc cấp này thông qua việc xét hồ sơ thuần túy của đối tượng

hành nghề). Đối với những người trực tiếp hành nghề khám chữa bệnh thuộc khu

vực Nhà nước và khu vực tư nhân đều chưa thực hiện nên chất lượng của đội ngũ

24

này cũng chưa đồng đều do Việt Nam chưa có hệ thống đăng ký, kiểm tra, cấp

chứng chỉ hành nghề và giám sát hoạt động cho người hành nghề.

Sau hơn 20 năm đổi mới, hệ thống y tế ở Việt Nam đã nhanh chóng phát

triển, phục vụ tốt hơn nhu cầu chăm sóc sức khỏe của nhân dân. Tuy các cơ sở y

tế, đặc biệt là các bệnh viện tuyến tỉnh và tuyến trung ương đã được đầu tư nâng

cấp về trang thiết bị, trình độ chuyên môn và tay nghề của cán bộ y tế được tiếp

tục nâng cao, hệ thống cung ứng dịch vụ khám chữa bệnh vẫn chưa đáp ứng được

nhu cầu ngày càng cao của người dân. Từ một hệ thống hoàn toàn thuộc sở hữu

Nhà nước, hệ thống cung ứng dịch vụ khám chữa bệnh hiện nay đã trở thành một

hệ thống cung ứng dịch vụ công tư hỗn hợp.

2.2. Thực trạng ngành y tế Thành phố Hồ Chí Minh:

2.2.1. Giới thiệu ngành y tế Thành phố Hồ Chí Minh:

Hiện nay nhu cầu khám chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe, sử dụng các dịch vụ

y tế của người dân thành phố ngày càng tăng. Trong khi đó hệ thống bệnh viện, cơ

sở khám chữa bệnh hầu như không phát triển đã tạo ra một sức ép lớn đối với

ngành y tế. Hệ thống y tế tại Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay luôn trong tình

trạng quá tải không đáp ứng đủ nhu cầu chăm sóc sức khỏe của người dân, mặc dù

các cơ sở y tế đã được tổ chức rất thành công việc đa dạng hóa các loại hình xã

hội hóa như: mô hình khám chữa bệnh ngoài giờ hành chính, mô hình giường dịch

vụ, mô hình sinh và phẫu thuật theo yêu cầu, huy động vốn cán bộ công chức

trong đơn vị để đầu tư trang thiết bị hoặc liên doanh liên kết đặt máy, đầu tư thêm

các phương tiện, xây dựng cơ sở vật chất phục vụ công tác khám chữa bệnh; cơ sở

hạ tầng nhiều bệnh viện bị xuống cấp trầm trọng và không gian môi trường xanh

ngày càng bị thu hẹp do nhiều bệnh viện phải cơi nới.

Cơ sở vật chất của nhiều bệnh viện ở TP.HCM hiện nay trong tình trạng

quá cũ kỹ, rách nát bởi không được tu sửa, bảo dưỡng kịp thời. Trong khi đó, nhu

cầu khám chữa bệnh của người dân không ngừng tăng cao. Từng giờ từng phút,

25

hàng nghìn lượt bệnh nhân chen chúc nhau đứng, ngồi chờ đợi khám hoặc nằm

ngoài hành lang để được chữa bệnh.

Tại các bệnh viện lớn như bệnh viện Chợ Rẫy, bệnh viện Ung Bướu rất

đông người chen chúc nhau chờ đến lượt khám bệnh. Không đủ ghế ngồi, nhiều

bệnh nhân phải dạt ra bên ngoài lối đi của bệnh viện. Được vào điều trị nội trú,

bệnh nhân tiếp tục rơi vào cảnh một giường nhưng đến 2-3 bệnh nhân nằm. Bệnh

nhân khỏe phải xuống đất hoặc ra ngoài hành lang trải chiếu nằm, nhường giường

cho người bệnh nặng hơn nằm.

Tại bệnh viện Chấn thương chỉnh hình, toàn bộ cơ sở vật chất của bệnh

viện đã xuống cấp trầm trọng, kể cả khu nhà hành chính và khu điều trị mới xây

dựng từ năm 1994. Việc nước từ dưới nền tràn lên và nước từ trên trần chảy

xuống thì thường xuyên xảy ra. Các máy móc thiết bị đắt tiền thì phải dùng bao

ny lông trùm máy để chống ướt, dùng thau hứng nước chảy từ trên trần là chuyện

thường ngày.

Mặc dù các bệnh viện tuyến quận, huyện đã góp phần không nhỏ trong việc

giảm tải bệnh nhân nhưng cơ sở vật chất tại các bệnh viện tuyến quận, huyện vẫn

còn nhiều bất cập và hạn chế trong điều trị, khám chữa bệnh.

Chỉ cần sau một cơn mưa vừa, những con đường nội bộ của bệnh viện Bình

Chánh đã ngập chìm trong nước, đến tận ngày hôm sau, nước mới rút xuống bớt,

những bước chân qua lại khiến cho nền gạch nhớp nháp, lối đi dẫn vào khu khám

tập trung rải đầy sỏi vẫn còn ướt, khuôn viên bệnh viện khá rộng, nhiều cây xanh

nhưng bệnh viện đã xuống cấp, dù mỗi ngày số lượng bệnh nhân ngày càng tăng

thêm. Có những lúc triều cường và mưa lớn thì các bác sĩ vừa tát nước vừa điều

trị cho bệnh nhân. Còn các bệnh viện quận khác trong nội thành thì phần lớn các

khoa phòng đều quá nhỏ, không đủ chỗ cho bệnh nhân ngồi chờ khám mà bệnh

viện cũng chẳng có cách nào để mà cơi nới cho rộng thêm.

26

Thủ tướng chính phủ đã phê duyệt đề án đầu tư xây dựng, cải tạo và nâng

cấp bệnh viện tuyến huyện và bệnh viện đa khoa khu vực liên huyện sử dụng vốn

trái phiếu của Chính phủ và các nguồn vốn khác, tổng đầu tư là 17 ngàn tỷ đồng.

Kế hoạch đã có, do kinh phí xây dựng lớn, thành phố phải sử dụng vốn từ nhà

nước và huy động thêm từ nhiều nguồn khác. Quá trình này cần thời gian bởi thủ

tục xây dựng rườm rà rắc rối, cơ chế hợp tác hóa còn nhiều rào cản, việc chậm

xây dựng bệnh viện sẽ còn ảnh hưởng nhiều đến chất lượng điều trị.

Thêm vào đó, việc xử lý nước thải, xử lý rác y tế tại các bệnh viện cũng gặp

khó khăn do thiếu vốn và thiếu mô hình quản lý hiệu quả. Từ năm 2008, Sở Y tế

TP.Hồ Chí Minh đã trình các dự án kêu gọi đầu tư vào y tế song chưa nhận được

sự quan tâm từ nhà đầu tư. Cụ thể, thành phố đang kêu gọi xã hội hóa các dự án y

tế như: xây dựng Viện trường y tế Củ Chi tại khu vực Trảng Dài, xã Phước Hiệp,

huyện Củ Chi với diện tích gần 100 ha nhằm mục tiêu xây dựng một mô hình mới

của ngành y tế TP.HCM, trên cơ sở gắn kết giữa đào tạo với khám chữa bệnh đạt

tiêu chuẩn quốc tế; dự án xây dựng khu nghỉ dưỡng Cần Giờ; trung tâm xét

nghiệm y khoa TP.Hồ Chí Minh tại khu đô thị Nam Sài Gòn, quận 7 và xây dựng

5 bệnh viện lớn ở các cửa ngõ thành phố: Bệnh viện đa khoa khu vực Củ Chi (cửa

ngõ phía Bắc) với quy mô 1.000 giường được xây dựng trên diện tích 6,3 ha tại ấp

Bàu Tre, Tân An Hội, Củ Chi; Bệnh viện đa khoa khu vực Hóc Môn (cửa ngõ

phía Bắc) với quy mô 1.000 giường được xây dựng trên diện tích khoảng 4,5 ha

tọa lạc tại thị trấn Hóc Môn; Bệnh viện đa khoa khu vực Bình Chánh (cửa ngõ

phía Tây) với quy mô 1.000 giường được xây dựng trên diện tích 10 ha tại xã Tân

Kiên và Tân Nhựt, huyện Bình Chánh; Bệnh viện đa khoa khu vực Thủ Đức (cửa

ngõ phía Đông) với quy mô 1.000 giường được xây dựng trên khu vực bệnh viện

cũ với diện tích 5,8 ha và Bệnh viện Quận 7 (cửa ngõ phía Đông) với quy mô 500

giường được xây dựng trên diện tích khoảng 5 ha tại ấp Gò Dầu, phường Tân Phú,

quận 9.

27

Hình thức kêu gọi đầu tư bao gồm liên doanh, hợp đồng hợp tác kinh

doanh, đầu tư 100% vốn nước ngoài…

Tuy nhiên, trong hai năm qua, hầu như ít nhà đầu tư quan tâm đến các dự

án y tế dù thành phố đã có nhiều chính sách ưu đãi đầu tư như: thứ nhất là ưu tiên

bố trí đất xây dựng, giao đất sạch hoặc hỗ trợ kinh phí giải phóng mặt bằng, giảm

hoặc miễn tiền sử dụng đất, miễn lệ phí trước bạ khi đăng ký quyền sử dụng đất

và các tài sản trên đất; thứ hai là ưu đãi về thuế giá trị gia tăng, thuế xuất khẩu,

nhập khẩu; thứ ba là các bệnh viện mới thành lập được miễn thuế thu nhập doanh

nghiệp trong một số năm nhất định, ít nhất là bốn năm và giảm 50% trong năm

năm tiếp theo. Đặc biệt là được áp dụng mức thuế thu nhập doanh nghiệp 10%

trong suốt thời gian hoạt động. Cuối cùng là được hưởng các chính sách ưu đãi về

tín dụng và tín dụng phát triển, được vay vốn dưới dạng cổ phần, huy động vốn từ

người lao động, được liên kết với các tổ chức, cá nhân và được hưởng hỗ trợ sau

đầu tư.

Với nhiều chính sách ưu đãi như vậy, nhưng tính đến thời điểm hiện nay,

chỉ có một dự án là Viện trường y tế Củ Chi đã có 3 nhà đầu tư xin tham gia đầu

tư gồm: Công ty TNHH Thịnh Phúc, Trung Thủy và Ngọc Tâm. Sở Y tế đang

xem xét để tổ chức đấu thầu chọn nhà đầu tư. Nhưng cho đến nay vẫn chưa có

thông tin chính thức công bố số phận của dự án này sẽ đi về đâu. Đây là dự án

được Thành phố cho chủ trương từ những năm 2001 – 2002 và phê duyệt từ cuối

năm 2007. Theo dự án, trong giai đoạn 1 đến năm 2010, sẽ xây dựng một bệnh

viện đa khoa 1.000 giường và trung tâm đào tạo phẫu thuật nội soi; giai đoạn 2

(2010 – 2015), xây dựng thêm các bệnh viện chuyên khoa với 2.000 giường bệnh.

Tuy nhiên, đến nay khu quy hoạch dự án nói trên vẫn cỏ mọc um tùm dù Sở Y tế

TP.Hồ Chí Minh đã kiến nghị lên Ủy Ban Nhân Dân TP.HCM xem đây như dự án

trọng điểm của ngành y tế. Cũng được nhắc đến nhiều trong 3 năm qua là dự án

xây dựng 5 bệnh viện lớn ở các cửa ngõ thành phố với mục tiêu tăng thêm 4.500

giường bệnh có chất lượng kỹ thuật cao. Cách đây 2 năm, Sở Y tế TP.Hồ Chí

28

Minh cho rằng sẽ hoàn thành giai đoạn 1 của dự án này vào năm 2010. Thế

nhưng, năm 2010 đã hết mà dự án vẫn đang trên đà… khởi động.

Được biết, tổng kinh phí đầu tư dự kiến cho 5 bệnh viện được đưa ra vào

năm 2008 là khoảng 2.000 – 3.000 tỷ đồng nhưng chắc rằng với sự chậm chạp

như hiện nay, sự trượt giá sẽ còn tăng thêm nhiều… Cùng với đó là hàng loạt dự

án khác như Bệnh viện Nhi đồng Thành phố (cửa ngõ phía Tây) được xây dựng

trên diện tích 10 ha tại xã Tân Kiên và Tân Nhựt, huyện Bình Chánh; dự án Bệnh

viện Ung Bướu cơ sở 2 (cửa ngõ phía Đông) với diện tích khoảng 5 ha tại ấp Gò

Dầu, phường Tân Phú, quận 9; dự án Bệnh viện Tâm Thần thành phố, dự án di

dời Bệnh viện đa khoa Sài Gòn, dự án Viện trường của Đại học Y Dược (100 ha)

tại Khu đô thị Tây Bắc… vẫn chưa có lối ra khả quan.

Từ năm 2008, Bộ Y tế và lãnh đạo Ủy Ban Nhân Dân TP.HCM đã có buổi

làm việc và Chủ tịch Ủy Ban Nhân Dân TP.HCM đã thống nhất giao Sở Y tế

TP.HCM phối hợp cùng các đơn vị liên quan để xây dựng và hoàn chỉnh Quy

hoạch phát triển và Quy hoạch mạng lưới y tế của thành phố. Trong đó, tập trung

xây mới, di dời bệnh viện về các vùng ngoại thành, cửa ngõ nhằm giảm tải cho

mật độ giao thông của trung tâm thành phố cũng như giảm tải cho các bệnh viện

hiện nay đang trong tình trạng quá tải trầm trọng. Tuy nhiên, vấn đề mấu chốt là

kiếm đâu ra đất “sạch” và câu hỏi năng lực tài chính cũng đang khiến các nhà đầu

tư đau đầu. Hiện ngoài một phần tiền ngân sách, các bệnh viện công muốn nâng

cấp, cải tạo, xây mới, mua sắm thiết bị đều phải vay vốn kích cầu ưu đãi. Tuy

rằng, vốn vay không phải trả lãi nhưng nhiều bệnh viện công hiện vẫn rất dè

chừng vì để đáp ứng yêu cầu đầu tư y tế kỹ thuật cao đòi hỏi chi phí lớn, khả năng

thu hồi vốn lại rất chậm, trong khi các cơ chế về thu viện phí, thu phí khám chữa

bệnh vẫn bị khống chế.

Mặc dù các chính sách hiện hành thể hiện sự quan tâm, khuyến khích của

Đảng và Nhà nước đối với sự phát triển của y tế trong giai đoạn hiện nay, nhưng

câu hỏi vốn đầu tư y tế khi nguồn lực từ ngân sách chưa đủ đáp ứng thì việc thúc

29

đẩy hợp tác Nhà nước và tư nhân là hết sức cần thiết và cấp bách. Tuy nhiên việc

hợp tác Nhà nước và tư nhân nên phát triển tới mức nào, chiếm tỷ trọng bao nhiêu

trong hệ thống cung ứng dịch vụ khám chữa bệnh chung thì vẫn chưa có lời giải

đáp.

Để trả lời được câu hỏi trên, cần xem xét khả năng thực tế và vai trò của y

tế tư nhân đối với mục tiêu công bằng, hiệu quả và phát triển của hệ thống y tế.

Như vậy, vấn đề đặt ra là làm thế nào để dùng công cụ quản lý nhà nước bằng

pháp luật để nâng cao chất lượng chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân, cũng

như đưa hệ thống tư nhân tham gia cùng hệ thống Nhà nước trong cả phòng và

điều trị bệnh tật. Nhu cầu với việc hợp tác công – tư (PPP) hiện nay đang được

nhiều quốc gia quan tâm và khuyến khích (do hệ thống công không thể cung cấp

toàn bộ các dịch vụ công cộng vì hạn chế nguồn lực). Trong lĩnh vực sức khỏe,

hợp tác công – tư được tranh luận từ lâu và đã có nhiều mô hình, nhiều cách làm

để bổ trợ lẫn nhau giữa hai hệ thống. Hiện nay, nhiều tổ chức quốc tế lớn như

Ngân hàng thế giới, một số tổ chức của Liên hiệp quốc, nhiều Chính phủ đều

khuyến khích các quốc gia ủng hộ các mức độ và hình thức khác nhau của Hợp

tác công – tư.

Bảng 2.1: Tổng số lần khám từ năm 2000 – 2010

2000

2001

2002

2003

2004

2005

2006

2007

2008

2009

2010

Năm

Tổng số 18,721,762 19,045,724 20,412,451 21,905,908 24,000,773 24,774,877 27,962,479 25,080,834 27,281,093 30,128,978 28,633,178

5,564,711 4,652,352

BVĐK 2,120,538 2,215,439 2,157,723 2,662,705 2,922,768 2,966,853 3,309,435 3,981,568 4,197,903

8,899,732 8,528,371

BVCK 4,167,361 4,406,265 4,982,585 5,005,878 5,774,453 6,217,148 7,817,600 7,343,000 8,208,163

BVQH+TT 12,433,863 12,424,020 13,272,143 14,237,325 15,303,552 15,590,876 16,835,444 13,756,266 14,875,027 15,664,535 15,452,455

YTDP QH

( Nguồn: Sở Y tế TP.HCM )

30

Hình 2.1: Tổng số lần khám từ năm 2000 – 2010

35,000,000

30,000,000

25,000,000

m á h K n ầ L

20,000,000

15,000,000

10,000,000

5,000,000

0

2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010

Năm

Tổng số

BVĐK

BVCK

BVQH+TT YTDP QH

( Nguồn: Sở Y tế TP.HCM )

Số lần khám ở các bệnh viện quận/huyện và trung tâm y tế dự phòng

quận/huyện biến động lên xuống khác nhau theo từng năm. Theo số liệu thống kê

của Sở Y tế TP.HCM từ năm 2000 đến năm 2006 thì số lần khám bệnh luôn tăng.

Số lần khám bệnh năm 2000 là 12.433.863 lượt khám thì sang đến năm 2006 đã

tăng lên 16.835.444 lượt khám. Nhưng sang năm 2007, số lần khám bệnh đã giảm

xuống còn 13.756.266 lượt khám. Tuy nhiên, năm 2008 lại tăng lên 14.875.027

lượt khám, năm 2009 tăng lên 15.664.535 lượt khám và năm 2010 lại giảm xuống

15.452.455 lượt khám. Nếu như bình thường số lượt khám bệnh của người dân

giảm xuống thường xuyên qua các năm thì sẽ rất tốt. Điều này chứng tỏ rằng chất

lượng của dịch vụ chăm sóc sức khỏe người dân đã được nâng cao. Tuy nhiên, số

lượt khám bệnh của người dân chỉ giảm ở các bệnh viện quận/huyện và trung tâm

y tế dự phòng quận/huyện nhưng lại tăng ở các bệnh viện chuyên khoa và đa

khoa. Điều này cho thấy, người dân chỉ mong muốn được khám ở các bệnh viện

chuyên khoa và đa khoa lớn có cơ sở vật chất khang trang, máy móc thiết bị hiện

đại.

31

Bảng 2.2: Tổng số lượt bệnh nhân điều trị nội trú từ năm 2000 - 2010

2002

2008

2000

2001

2003

2004

2005

2006

2007

2009

2010

Năm

Khối BV TP 549,612 572,833576,470 594,680 651,958 677,312750,197808,926 877,825 983,536 971,200

Khối BV QH 95,372 105,921120,291 149,234 144,831 155,658163,874143,911 189,237 161,055 191,504

644,984 678,754696,761 743,914 796,789 832,970914,071952,837 1,067,0621,144,591 1,162,704

Tổng số

Hình 2.2: Số lượt bệnh nhân điều trị nội trú từ năm 2000 – 2010

1,400,000

1,200,000

1,000,000

n â h n h n ệ b t

ợ ư

800,000

l

ố S

600,000

400,000

200,000

0

Năm

2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010

Khối BV TP

Khối BV QH

Tổng số

( Nguồn: Sở Y tế TP.HCM )

Cũng theo số liệu thống kê của Sở Y tế TP.HCM từ năm 2000 đến năm

2010 thì số lượt bệnh nhân điều trị nội trú luôn tăng dần qua các năm. Năm 2000

chỉ có 644.984 lượt bệnh nhân điều trị nội trú nhưng sang đến năm 2010 đã tăng

lên 1.162.704 lượt. Điều này sẽ làm cho số giường nội trú ở các cơ sở y tế cũng

tăng theo.

32

2000 2001 2002

2003

2004

2005

2006

2007 2008 2009 2010

Bảng 2.3: Tổng số giường nội trú từ năm 2000 - 2010

Năm

Khối TP 11,931 11,685 11,845 12,155 12,686 12,995 13,855 14,855 18,60919,275 19,425

2496 2,696 2,741 3,161 3,138 3,295 3,372

Khối QH 1,341 1,554 1,974 2,104

Tổng số 13,272 13,239 13,819 14,259 15,182 15,691 16,596 18,016 21,74722,570 22,797

( Nguồn: Sở Y tế TP.HCM )

Hình 2.3: Tổng số giường nội trú từ năm 2000 - 2010

25,000

20,000

i

15,000

g n ờ ư G

10,000

5,000

0

2000

2001

2002

2003

2004

2005

2006

2007

2008

2009

2010

Năm

Khối TP

Khối QH

Tổng số

( Nguồn: Sở Y tế TP.HCM )

Với số lượt bệnh nhân điều trị nội trú luôn tăng dần qua các năm như trên

thì tổng số giường bệnh nội trú cũng phải đòi hỏi tăng theo tương ứng. Trong tình

hình kinh tế Việt Nam còn khó khăn, ngân sách nhà nước chi cho y tế cũng có

hạn. Do đó để số giường bệnh nội trú tăng thì đó cũng là nổ lực rất lớn của các cơ

sở y tế. Một trong những cách để số giường bệnh nội trú tăng lên trong khi điều

kiện cơ sở vật chất của các cơ sở y tế gần như không thay đổi đó là buộc lòng các

cơ sở y tế phải thu hẹp diện tích các phòng hành chánh của cán bộ y tế để dành

diện tích cơi nới thêm phòng cho các giường bệnh nội trú và kê thêm giường bệnh

nội trú ở các phòng bệnh hiện tại. Cá biệt có những cơ sở y tế buộc lòng phải kê

thêm giường bệnh nội trú ở cả hành lang, lối đi của cơ sở y tế nhằm cố gắng đáp

33

ứng nhu cầu giường bệnh ngày càng tăng cao. Tuy nhiên, vẫn còn tình trạng 2-3

bệnh nhân nằm chung một giường bệnh thường xuyên diễn ra ở các bệnh viện lớn

ở thành phố.

2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010

Bảng 2.4: Tỷ lệ tử vong từ năm 2000 - 2010

Năm

0,74 0,65 0,63 0,63 0,62 0,58 0,52 0,49 0,41 0,37 0,3

Tỷ lệ tử vong (%)

( Nguồn: Sở Y tế TP.HCM )

Đồ thị 2.1: Tỷ lệ tử vong từ năm 2000 - 2010

Tỷ lệ

0.8

0.7

0.6

0.5

0.4

0.3

0.2

0.1

0

Năm

2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010

Với tình hình bệnh nhân luôn trong tình trạng quá tải mà tỷ lệ tử vong của

( Nguồn: Sở Y tế TP.HCM )

bệnh nhân từ năm 2000 đến năm 2010 theo thống kê của Sở Y tế TP.HCM đã

giảm từ 0,74% năm 2000 xuống còn 0,3% năm 2010, thì đây là tín hiệu tốt cho

ngành y tế thành phố. Tuy nhiên, thành phố Hồ Chí Minh với dân số đông, mật độ

cao trong nội thành, cộng thêm một lượng lớn dân vãng lai từ các tỉnh lân cận

chuyển về, đã phát sinh nhu cầu ngày càng lớn về y tế và chăm sóc sức khỏe. Các

tệ nạn xã hội như mại dâm, ma túy, tình trạng ô nhiễm môi trường… gây ảnh

34

hưởng lớn tới sức khỏe dân cư thành phố. Những bệnh truyền nhiễm phổ biến ở

các nước đang phát triển như sốt rét, sốt xuất huyết, tả, thương hàn… hay các

bệnh của những quốc gia công nghiệp phát triển như tim mạch, tăng huyết áp, ung

thư, tâm thần, bệnh nghề nghiệp… đều xuất hiện ở thành phố Hồ Chí Minh.

2.2.2. Cơ sở vật chất ngành y tế Thành phố Hồ Chí Minh:

Cơ sở vật chất của ngành y tế Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay luôn trong

tình trạng quá tải. Trong khi dân số thành phố không ngừng tăng nhanh dẫn đến

nhu cầu khám chữa bệnh của người dân cũng tăng theo. Vậy mà số lượng cơ sở

vật chất của ngành y tế Thành phố Hồ Chí Minh lại tăng rất ít.

Bảng 2.5: Tổng quát cơ sở y tế TP.HCM

2005 2006 2007 2008 2009 2010

- Viện nghiên cứu y học 1 1 1 1 1 1

- Bệnh viện: 70 74 91 92 93 93

+ Bệnh viện nhà nước: 49 50 62 62 62 62

* Trung ương 6 6 6 6 6 6

* Địa phương 43 44 56 56 56 56

+ Bệnh viện ngoài nhà nước 21 24 29 30 31 31

- Phòng khám khu vực 29 29 29 24 24 24

- Nhà hộ sinh 5 5 5 3 3 3

- Trạm y tế 317 317 322 322 322 322

+ Phường 259 259 264 264 264 264

+ Xã 58 58 58 58 58 58

- Trung tâm chuyên khoa 7 7 7 9 9 9

- Trại phong 1 1 1 1 1 1

( Nguồn: Sở Y tế TP.HCM )

35

Trong những năm qua, công tác Bảo vệ, chăm sóc và nghiên cứu sức khỏe

nhân dân tại Thành phố Hồ Chí Minh đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng nhờ

một hệ thống y tế công lập được xây dựng rộng khắp từ Thành phố tới các quận,

huyện, và các phường, xã. Hệ thống y tế công lập hiện giữ vai trò chủ đạo trong

công tác chăm sóc, bảo vệ sức khỏe và được chia làm 3 tuyến: tuyến Trung ương,

tuyến tỉnh và tuyến y tế cơ sở (bao gồm quận, huyện, và phường, xã).

Hệ thống y tế của Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay bao gồm 1 viện nghiên

cứu y học, 93 bệnh viện trong đó có 62 bệnh viện nhà nước và 31 bệnh viện ngoài

nhà nước, 24 phòng khám khu vực, 3 nhà hộ sinh, 322 trạm y tế phường/xã, 9

trung tâm chuyên khoa, và 1 trại phong. Mạng lưới y tế, đặc biệt là y tế cơ sở

được củng cố và phát triển; hầu hết các xã, phường trong thành phố đều có trạm y

tế. Nhờ vậy, nhiều thành tựu y tế quan trọng đã đạt được: thanh toán được bệnh

bại liệt, loại trừ uốn ván sơ sinh và bệnh phong; hạn chế được tốc độ gia tăng của

HIV/AIDS; giảm tỷ lệ tử vong từ 0,74% năm 2000 xuống còn 0,3% năm 2010;

Thành phố Hồ Chí Minh là một trong những địa phương đã đi đầu trong việc

khống chế thành công dịch bệnh SARS; tuổi thọ trung bình của người Việt Nam

từ 67,8 tuổi đã nâng lên 72 tuổi vào năm 2010.

Bảng 2.6: Số liệu nhân lực y tế TP.HCM 2000 – 2010

NỘI DUNG 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010

TỔNG SỐ CB Y TẾ 18,323 18,547 18,796 20,129 19,826 21,780 25,732 27,570 29,668 36,969 38,684

3,690 3,843 3,983 5,213 4,301 4,194 4,371 4,776 5,597 7,655 9,038

Số Bác sĩ

35.47 35.09 34.49 35.31

32.4

35

40

42

43.5

51.9 52.00

CB/10.000 dân

7.14 7.27

7.31

9.14

7.55

6.72

6.8

8.1

8.2

9.0

10.00

BS/10.000dân

513

455

385

481

223

336

231

266

212

261

Số Dược sĩ đại học 628

4,884 4,264 5,060 5,271 5,294 4,823 5,762 6,610 6,884 6,917 9,316

Số Y tá

1,293 1,219 1,362 1,445 1,459 1,545 1,578 1,712 1,807 1,800 2,625

Số Nữ hộ sinh

( Nguồn: Sở Y tế TP.HCM )

36

Với mạng lưới cơ sở y tế như trên, đòi hỏi số lượng cán bộ y tế cũng phải

gia tăng để đáp ứng kịp thời nhu cầu khám chữa bệnh của người dân ngày càng

tăng. Theo số liệu thống kê của Sở Y tế TP.HCM, ở thành phố hiện tại có 38.684

cán bộ y tế (trong đó có 9.038 bác sĩ, 261 dược sĩ đại học, 9.316 y tá và 2.625 nữ

hộ sinh), chưa kể số người đang làm việc ở các cơ sở y tế tư nhân. Số lượng cán

bộ y tế tăng gần gấp đôi so với số lượng cán bộ y tế năm 2005 là 21.780 cán bộ

(trong đó có 4.194 bác sĩ, 223 dược sĩ đại học, 4.823 y tá và 1.545 nữ hộ sinh).

Điều này cho thấy số lượng cán bộ y tế tăng nhiều như vậy thì chất lượng khám

Hiện tại, thành phố đã có thuận lợi lớn là có số cán bộ y tế rất nhiều so với

chữa bệnh cho người dân sẽ được nâng cao.

các tỉnh, thành khác trong cả nước. Số cán bộ y tế tăng đều theo mỗi năm, từ

18.323 người năm 2000 lên đến 38.684 người năm 2010, trong đó có 9.038 bác sĩ.

Tỷ lệ bác sĩ trên 10.000 dân tăng từ 7,14 bác sĩ năm 2000 lên 10,00 bác sĩ trên

10.000 dân năm 2010. Mặt khác, tổng số lần bệnh nhân khám tại các cơ sở y tế từ

18.721.762 lượt năm 2000 tăng lên 28.633.178 lượt năm 2010 và tổng số lượt

bệnh nhân điều trị nội trú từ 644.984 lượt năm 2000 tăng lên 1.162.704 lượt năm

2010. Với tổng số lần bệnh nhân khám và tổng số lượt bệnh nhân điều trị nội trú

từ năm 2000 đến năm 2010 như trên trong khi số lượng cơ sở y tế tăng không

đáng kể thì dẫn đến tình trạng quá tải ở các cơ sở khám chữa bệnh xảy ra thường

xuyên, rất căng thẳng và có chiều hướng diễn biến xấu hơn, ảnh hưởng đến chất

lượng công tác khám chữa bệnh. Cho nên về lâu dài, đòi hỏi thành phố phải đầu

tư nhiều hơn cho các cơ sở y tế, giúp các cơ sở y tế có kinh phí để cơi nới, mở

rộng, nâng cấp cơ sở vật chất, mua sắm máy móc thiết bị hiện đại để giải quyết

tình trạng quá tải ở các cơ sở y tế.

2.2.3. Chi ngân sách ngành y tế Thành phố Hồ Chí Minh:

Trong thời gian qua, tuy tình hình kinh tế khó khăn nhưng nhà nước vẫn

luôn coi trọng công tác chăm sóc sức khỏe của người dân. Điều này được thể hiện

qua bảng số liệu sau:

37

Bảng 2.7: Tình hình chi ngân sách ngành Y tế từ năm 2000 – 2010

Năm Tổng số chi (đơn vị: nghìn đồng)

2000 668,105,239

2001 969,913,533

2002 1,101,894,798

2003 1,349,773,816

2004 1,648,208,837

2005 2,130,308,090

2006 2,629,112,134

2007 3,430,434,907

2008 4,164,351,007

2009 5,284,664,360

2010 6,372,880,963

Đồ thị 2.2: Tình hình chi ngân sách từ năm 2000 – 2010

Nghìn đồng

7,000,000,000

6,000,000,000

5,000,000,000

4,000,000,000

3,000,000,000

2,000,000,000

1,000,000,000

0

Năm

2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010

( Nguồn: Sở Y tế TP.HCM )

38

Tình hình chi ngân sách của thành phố cho ngành y tế mỗi năm ngày càng

tăng, từ 668.105.239 nghìn đồng năm 2000 tăng lên 6.372.880.963 nghìn đồng

năm 2010. Nhiều cơ sở y tế trong đó có cả hệ dự phòng và khám chữa bệnh được

đầu tư, nâng cấp, một số cơ sở khám chữa bệnh đã ứng dụng công nghệ kỹ thuật

cao, tiên tiến như ghép gan, thận, tủy, thụ tinh trong ống nghiệm, phẫu thuật tim

mạch, sọ não, tiêu hóa…Chế độ khám chữa bệnh cho người nghèo, khám chữa

bệnh miễn phí cho trẻ em dưới 6 tuổi đang được triển khai thực hiện.

Hiện nay chi tiêu của Nhà nước cho y tế chỉ chiếm 6,1% tổng chi tiêu của

Nhà nước. Tỷ lệ này là thấp nhất so với các nước láng giềng như Campuchia

(16%), Lào (khoảng 7%), Malaysia (6,5%), Trung Quốc (10%) và Nhật (16,4%).

Đầu tư của Nhà nước cho y tế còn quá khiêm tốn. Thật vậy, trong tổng chi tiêu

cho y tế của cả nước, Nhà nước chỉ đóng góp khoảng 28%, phần còn lại (72%) là

từ dân hay tư nhân.

So với nhu cầu cung cấp dịch vụ y tế, cơ sở vật chất ở các đơn vị y tế nhà

nước hiện nay vẫn chưa đạt tiêu chuẩn, thậm chí kém xa so với một số nước trong

khu vực. Ước tính mỗi năm, số bệnh nhân Việt Nam ra nước ngoài chữa bệnh

khoảng 30.000 người với chi phí trên 1 tỷ USD và ngày càng có xu hướng tăng

lên.

Hiện nay, các bệnh viện công muốn nâng cấp, cải tạo, xây mới cơ sở vật

chất và mua sắm máy móc thiết bị hiện đại đều phải vay vốn kích cầu ưu đãi. Vốn

vay không phải trả lãi và một phần vốn sẽ do ngân sách cấp nhà nước cấp. Với

phương thức này đã góp phần cải thiện cơ sở vật chất và mua sắm máy móc thiết

bị hiện đại ở một số bệnh viện công:

Tháng 2/2004, công trình xây dựng mới Bệnh viện Hùng Vương giai đoạn

1 đã khánh thành và đưa vào hoạt động phục vụ bệnh nhân tại số 128, đường

Hồng Bàng, phường 12, quận 5, TP.HCM.

39

Bệnh viện có qui mô một trệt bốn lầu với tổng diện tích sàn sử dụng 20.000m2 và kinh phí xây dựng gần 83 tỉ đồng. Bệnh viện có sức chứa 610 giường

với 28 khoa phòng nội trú và 250 giường ngoại trú. Ngoài ra bệnh viện cũng đã

đầu tư thêm 10 tỉ đồng để trang bị mới các trang thiết bị phục vụ bệnh nhân.

Tháng 5/2006, Bệnh viện Bình Dân TP.HCM đã đưa vào hoạt động khu

điều trị kỹ thuật cao với tổng vốn đầu tư gần 85 tỉ đồng. Diện tích đất xây dựng 7.529m2, Tổng diện tích sàn xây dựng: 19.375m2 gồm một tầng hầm và bảy tầng

lầu.

Khu điều trị kỹ thuật cao với 100 giường gồm 40 giường thuộc khoa ngoại

tổng quát và 60 giường thuộc khoa ngoại tiết niệu, có chức năng áp dụng các kỹ

thuật cao trong khám và điều trị các bệnh ngoại khoa về: bụng, ngực, mạch máu,

tiết niệu, nam khoa… bằng các phương pháp tiên tiến và phương tiện hiện đại,

phục vụ điều trị bệnh nhân trong nước và người nước ngoài.

Dự án đầu tư xây dựng Khu khám – chữa bệnh, cấp cứu, cận lâm sàng và

điều trị ban ngày của Bệnh viện Nhân dân 115:

Chủ đầu tư: Bệnh viện Nhân dân 115

Dự án có quy mô 250 giường nội trú.

Diện tích đất xây dựng: 3.739m2.

Tổng diện tích sàn xây dựng: 17.032m2 (1 trệt + 4 tầng).

Tổng mức đầu tư ban đầu 44 tỷ đồng, trong đó: vay toàn bộ tại Quỹ đầu tư

tài chính Thành phố Hồ Chí Minh (đồng tài trợ với Ngân hàng Ngoại Thương

Việt Nam chi nhánh TP.HCM và Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam chi

nhánh TP.HCM). Thời gian vay 9 năm 6 tháng. Toàn bộ lãi vay do Ngân sách

Thành phố TP.HCM cấp bù.

Dự án được duyệt lần đầu tháng 9/2000 nhưng đến tháng 12/2004 mới khởi

công do thiết kế dự toán phải điều chỉnh nhiều lần, đấu thầu lại…

40

Tổng mức đầu tư tăng dần lên thành 81,005 tỷ đồng, tăng 184% so với ban

đầu, trong đó vốn vay Quỹ đầu tư tài chính Thành phố Hồ Chí Minh 51,104 tỷ

đồng, còn lại là ngân sách thành phố cấp nhằm đảm bảo thời gian trả nợ không

quá 10 năm theo điều kiện của các ngân hàng đồng tài trợ.

Thời gian thi công theo hợp đồng là gần 14 tháng. Trên thực tế phải đến

quý 1/2008 công trình mới chính thức hoàn thành đưa vào sử dụng, kéo dài hơn

36 tháng so với hợp đồng thi công ban đầu do thay đổi thiết kế trong thời gian thi

công, các gói thầu mua sắm thiết bị thang máy, máy lạnh, thiết bị y tế bằng vốn

ngân sách thành phố không đi cùng tiến độ.

Những thiệt hại về việc công trình bị kéo dài:

- Phát sinh tăng vốn đầu tư.

- Ngân sách thành phố phải cấp thêm vốn đầu tư và lãi vay.

- Lợi ích của người bệnh về việc hưởng thụ tiện nghi tốt nhất.

- Chậm đưa công trình vào sử dụng làm tăng áp lực trả nợ vay trong thời gian

vay vốn còn lại.

2.3. Khảo sát sự đánh giá của bệnh nhân về các cơ sở y tế:

Sự hài lòng của người bệnh là tài sản của bệnh viện. Nghiên cứu trong lĩnh

vực khách hàng đã chỉ ra rằng: nếu một doanh nghiệp gia tăng được 5% sự hài

lòng của khách hàng thì lợi nhuận sẽ tăng lên 25%; một khách hàng không hài

lòng sẽ kể lại cho 9 người khác và nếu hài lòng họ sẽ kể lại cho 5 người về những

trải nghiệm của họ. Do vậy, khi một doanh nghiệp không làm hài lòng khách hàng

thì không những doanh nghiệp đánh mất khách hàng đó mà còn làm mất đi rất

nhiều khách hàng tiềm năng.

Y tế là một trong những lĩnh vực dịch vụ vì vậy chỉ số hài lòng của người

bệnh là tiêu chí dùng để đo lường sự đáp ứng của các cơ sở y tế đối với những

mong đợi của người bệnh đối với các dịch vụ y tế.

41

Để phục vụ cho luận văn, tác giả đã thực hiện khảo sát sự hài lòng của nhân

viên y tế và người dân về chất lượng dịch vụ y tế tại các cơ sở y tế nhà nước.

Khảo sát chọn mẫu được thực hiện ở các cơ sở y tế nhà nước ở cả 3 tuyến:

tuyến Trung ương, tuyến tỉnh và tuyến y tế cơ sở (bao gồm quận, huyện, và

phường, xã) của thành phố.

Đối tượng khảo sát là nhân viên y tế, người dân (bao gồm người bệnh và

người nhà bệnh nhân).

Khảo sát thu thập số liệu được thực hiện bằng phương pháp phỏng vấn trực

tiếp.

Khảo sát được thực hiện bằng phương pháp điều tra chọn mẫu. Mẫu khảo

sát là mẫu được chọn ngẫu nhiên đại diện cho toàn thành phố.

Qua cuộc khảo sát của tác giả tại các cơ sở y tế tại thành phố, tác giả đã thu

được các nhận xét sau:

42

Bảng 2.8: Kết quả nhân viên y tế nhận xét về chất lượng dịch vụ y tế.

TỐT BÌNH THƯỜNG CHƯA TỐT TIÊU CHÍ

1 Cơ sở vật chất 92 6 2

2 Kỹ thuật công nghệ 91 8 1

3 Đầu tư máy móc thiết bị 86 9 5

4 Mức lương 85 14 1

5 Thời gian hoàn thành công việc 89 8 3

6 Chất lượng công việc 99 1 0

7 Bố trí hệ thống, quy trình làm việc 92 6 2

8 Chi phí khám bệnh 40 23 37

9 Môi trường làm việc 87 11 2

10 Đầu tư nâng cao trình độ nhân viên 64 32 4

Đồ thị 2.3: Nhân viên y tế nhận xét về chất lượng dịch vụ y tế

t é x

n ậ h n

i

ờ ư g n ố S

100 90 80 70 60 50 40 30 20 10 0

1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

Tiêu chí

TỐT

BÌNH THƯỜNG

CHƯA TỐT

43

Qua khảo sát sự hài lòng của nhân viên y tế về chất lượng dịch vụ y tế tại

các cơ sở y tế nhà nước. Tác giả thấy kết quả của cuộc sát sự hài lòng của nhân

viên y tế về chất lượng dịch vụ y tế tại các cơ sở y tế nhà nước phần lớn đều được

trả lời là khá tốt (trên 80%). Tuy nhiên, liệu kết quả này có khách quan hay không

khi mà: hầu hết các cơ sở y tế nhà nước đều quá tải, tạo áp lực về tâm lý hoặc quá

mệt nhọc nên một số nhân viên y tế không còn giữ được thái độ bình tĩnh, điềm

đạm; trong khi khám bệnh, còn có một vài bác sĩ chỉ hỏi bệnh nhân một cách qua

quýt rồi kết luận bệnh nên dẫn tới tình trạng người bệnh cầm đơn thuốc về mà cứ

thấp thỏm, lo lắng không biết bác sĩ cho thuốc có đúng bệnh hay không; tình trạng

nhân viên y tế thường xuyên thay đổi đơn vị công tác.

Bảng 2.9: Kết quả người dân nhận xét tốt về chất lượng dịch vụ y tế.

TỐT BÌNH THƯỜNG CHƯA TỐT TIÊU CHÍ

1 Thời gian chờ khám 22 31 47

2 Thái độ phục vụ của nhân viên y tế 60 35 5

3 Thủ tục giấy tờ khám chữa bệnh 85 3 12

4 Cảm nhận được chẩn đoán đúng bệnh 86 10 4

5 Chất lượng phòng, giường bệnh 71 9 20

6 Chi phí khám chữa bệnh 70 21 9

7 Máy móc thiết bị y tế 79 15 6

8 Cơ sở vật chất 69 22 9

9 Kỹ thuật công nghệ 78 15 7

10 Trình độ bác sĩ 83 15 2

44

90

80

Đồ thị 2.4: Người dân nhận xét về chất lượng dịch vụ y tế.

t é x

70

n ậ h n

i

60

50

ờ ư g n ố S

40

30

20

10

0

1

2

3

4

5

6

7

8

9

10 Tiêu chí

TỐT

BÌNH THƯỜNG CHƯA TỐT

Qua khảo sát sự hài lòng của người dân về chất lượng dịch vụ y tế tại các cơ

sở y tế nhà nước. Tác giả thấy:

- Thời gian chờ khám chữa bệnh của người dân trên 60 phút còn cao (47%):

cho thấy sự quá tải của các cơ sở y tế trong việc khám chữa bệnh, đặc biệt sự quá

tải tập trung vào nhóm khám bảo hiểm y tế. Vấn đề đặt ra là cần tăng cường thêm

phòng khám, tăng cường thêm nhân viên y tế cho khám bảo hiểm y tế và ngành y

tế cần tập trung nâng cao năng lực khám chữa bệnh cho đội ngũ y bác sĩ.

- Thái độ phục vụ của nhân viên y tế: được đánh giá tốt (60%). Nếu thái độ

phục vụ của nhân viên y tế đầy thiện cảm, luôn quan tâm chăm sóc đến người

bệnh và trở thành niềm tin của người bệnh thì sẽ làm cho người bệnh yên tâm điều

trị. Tuy nhiên vẫn còn 5% được đánh giá là chưa tốt. Cần chấn chỉnh thái độ phục

vụ, y đức nhân viên y tế. Vì nếu thái độ phục vụ của nhân viên y tế không làm hài

lòng khách hàng thì không những bệnh viện đánh mất khách hàng đó mà còn làm

mất đi rất nhiều khách hàng tiềm năng.

45

- Thủ tục giấy tờ khám chữa bệnh: nhìn chung hầu hết những người được hỏi

đều cho rằng yêu cầu thủ tục đơn giản, nhanh chóng (85%). Tuy nhiên cũng còn

12% ý kiến cho rằng thủ tục giấy tờ khám chữa bệnh phức tạp, rắc rối. Đặc biệt là

các bệnh nhân đăng ký khám chữa bệnh bảo hiểm y tế.

- Cảm nhận được chẩn đoán đúng bệnh, cho đúng thuốc chữa trị là khá cao

(86%). Đây là một trong những tiêu chuẩn quan trọng nhất làm hài lòng người

bệnh là tiêu chuẩn dùng để đo lường sự đáp ứng của các cơ sở y tế đối với những

mong đợi của người bệnh đối với các dịch vụ y tế.

- Chất lượng phòng, giường bệnh: nhìn chung là các bệnh viện lớn có nguồn

thu dồi dào thì được đầu tư thỏa đáng, đáp ứng được nhu cầu và chi phí chi trả của

bệnh nhân. Tuy nhiên, hầu hết các bệnh viện quận, huyện và nhất là trạm y tế

phường, xã thì vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu của bệnh nhân. Do đó đòi hỏi cải

thiện chất lượng phòng, giường bệnh.

- Chi phí khám chữa bệnh: tương đối phù hợp với phần lớn người lao động

(70%).

- Máy móc thiết bị y tế: phần lớn là đã cũ, cần thay thế và nâng cấp (21%).

Do đó cần đầu tư máy móc trang thiết bị y tế hiện đại chuyên ngành.

- Sự xuống cấp, lạc hậu của cơ sở hạ tầng, khiến nó không còn phù hợp với

yêu cầu nhiệm vụ khám chữa bệnh với trang thiết bị hiện đại.

- Cơ sở hạ tầng không còn phù hợp với quy mô giường bệnh trong giai đoạn

hiện tại. Khi mà lượng bệnh nhân mỗi ngày tăng cao, trong khi cơ sở vật chất vẫn

không thay đổi mấy. Không theo kịp với sự gia tăng của bệnh nhân.

- Cơ sở hạ tầng xảy ra sự cố do chất lượng xây dựng kém hoặc công trình đã

hết thời gian sử dụng. Do phần lớn các bệnh viện quận, huyện có nguồn thu thấp

nên không đủ trang trải cho hoạt động duy tu, bảo dưỡng, nâng cấp cơ sở hạ tầng.

46

- Hệ thống kỹ thuật hạ tầng của bệnh viện như điện, cấp – thoát nước, hệ

thống thông tin liên lạc, đường nội bộ, sân vườn, cây xanh cũng ở trong tình trạng

chung của ngành đầu tư xây dựng trong nước, chưa được đầu tư đúng mức. Nhất

là hệ thống xử lý chất thải hầu như chưa có hoặc chưa đảm bảo kỹ thuật. Thậm

chí có bệnh viện chuyên khoa của thành phố luôn bị tình trạng ngập nước mỗi khi

có mưa.

- Kỹ thuật công nghệ: được đánh giá tương đối tốt (78%), tuy nhiên vẫn còn

một số nơi lạc hậu do không có vốn đầu tư (7%).

- Trình độ bác sĩ: nói chung là tốt (83%), nhưng do sự hạn chế của cơ sở vật

chất, máy móc thiết bị y tế đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng khám

chữa bệnh của bác sĩ.

Sự hài lòng của người bệnh là tài sản vô hình của bệnh viện, sự hài lòng

của người bệnh tỷ lệ thuận với sự phát triển và tăng trưởng của bệnh viện. Khi

bệnh viện không làm hài lòng của người bệnh thì bệnh viện sẽ bị nghèo dần vì

mất người bệnh tiềm năng, uy tín bệnh viện sẽ bị suy giảm và khiếu kiện bệnh

viện sẽ gia tăng. Do đó bệnh viện cần đánh giá đo lường sự hài lòng của người

bệnh thường xuyên, giống như kiểm kê tài sản hữu hình của bệnh viện để có cơ sở

vững chắc cho việc cải tiến chất lượng theo nguyên tắc lấy người bệnh làm trung

tâm.

Với những khó khăn trong việc giải quyết tình trạng quá tải hệ thống y tế,

nâng cao chất lượng khám chữa bệnh cho người dân thành phố chưa được giải

quyết. Mặc dù thành phố đã đầu tư cho y tế năm sau nhiều hơn năm trước để đầu

tư trang thiết bị y tế kỹ thuật hiện đại, nâng cấp các bệnh viện tuyến trung ương,

tuyến quận huyện trên địa bàn thành phố. Song tình trạng quá tải của hệ thống y tế

thành phố vẫn không giảm do số bệnh nhân từ các tỉnh, thành phố trong khu vực

đổ về ngày càng lớn do đó đòi hỏi đầu tư cho y tế thành phố ngày càng cao hơn.

47

Kết luận chương 2:

Trong toàn bộ chương 2, tác giả đã giới thiệu chung về ngành y tế Việt

Nam và thực trạng y tế của thành phố Hồ Chí Minh. Từ đó ta biết được tình trạng

cơ sở vật chất của các cơ sở y tế, thực trạng quá tải của các cơ sở y tế và chất

lượng của dịch vụ y tế trong việc khám chữa bệnh, chăm sóc nhân dân.

Đồng thời tác giả cũng thấy được các cơ sở y tế đang rất cần được đầu tư để

cơi nới, mở rộng và xây mới cơ sở vật chất, mua sắm máy móc thiết bị hiện đại

cho các cơ sở y tế để phục vụ tốt nhu cầu khám chữa bệnh, chăm sóc nhân dân.

Ngân sách nhà nước mỗi năm đều có sự đầu tư cho ngành y tế, song so với

nhu cầu cung cấp dịch vụ y tế của người dân thì vẫn chưa đáp ứng đủ. Do đó việc

thúc đẩy hợp tác Nhà nước và tư nhân là hết sức cần thiết và cấp bách.

Phần tiếp theo sau đây, tác giả sẽ trình bày một số mô hình hợp tác nhà

nước – tư nhân có thể vận dụng trong việc đầu tư phát triển các cơ sở y tế thành

phố.

48

Chương III: XÂY DỰNG MÔ HÌNH HỢP TÁC NHÀ NƯỚC – TƯ NHÂN

TRONG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN Y TẾ:

3.1. Nhu cầu đầu tư y tế:

Y tế vốn được coi là ngành có tính chất sự nghiệp công, nhà nước bao cấp

là chủ yếu. Về chi y tế bình quân đầu người tại Việt Nam có xu hướng tăng qua

các năm, tính theo giá hiện hành qua các năm 1998, 2000, 2005 và 2008 là 17

USD, 21,38 USD và 66 USD. Tỷ lệ tổng chi y tế và GDP có tăng song ở mức

thấp, đạt khoảng 5 – 6%.

Về các ưu tiên đầu tư phát triển hệ thống y tế Nhà nước giai đoạn 2010 –

2012 là:

- Tiếp tục ưu tiên các nguồn vốn để đầu tư, nâng cấp các trạm y tế xã, đặc

biệt là các xã chưa có trạm y tế hoặc có nhưng là nhà tạm, các xã mới chia tách;

phấn đấu hết năm 2009, đạt 100% số xã có trạm y tế và trên 70% số xã đạt chuẩn

quốc gia về y tế xã.

- Triển khai thực hiện tốt, có hiệu quả việc đầu tư, nâng cấp các bệnh viện

huyện, bệnh viện đa khoa khu vực liên huyện từ nguồn trái phiếu Chính phủ và

các nguồn vốn hợp pháp khác của địa phương theo Quyết định số 47/2008/QĐ-

TTg ngày 02/4/2008 của Thủ tướng Chính phủ.

- Tập trung các nguồn vốn để đầu tư xây dựng, nâng cấp cơ sở hạ tầng, trang

thiết bị cho các bệnh viện đa khoa tỉnh, ưu tiên các bệnh viện đa khoa tỉnh miền

núi, khó khăn, bệnh viện làm nhiệm vụ vùng như: Sơn La, Thái Nguyên, Hải

Phòng, Nam Định, Nghệ An, Bình Định, Khánh Hòa, Đắc Lắc, Kiên Giang, Tiền

Giang ; các bệnh viện lao, tâm thần, ung bướu, nhi; tiếp tục đầu tư cho các trung

tâm y tế chuyên sâu tại Hà Nội, TP.Hồ Chí Minh, Huế và Đà Nẵng theo quy

hoạch phát triển ngành đến năm 2010 và tầm nhìn 2010 đã được Thủ tướng Chính

phủ phê duyệt.

49

- Bước đầu triển khai xây dựng các trung tâm xét nghiệm, phòng thí nghiệm,

trung tâm kiểm tra chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm đủ năng lực và điều kiện

hoạt động theo Quyết định số 154/2006/QĐ-TTg ngày 30/6/2006 của Thủ tướng

Chính phủ phê duyệt đề án “Quản lý nhà nước về dược phẩm, an toàn vệ sinh

thực phẩm, mỹ phẩm giai đoạn 2006 -2015”.

- Tăng cường đầu tư, nâng cấp, củng cố hoàn thiện hệ thống y tế dự phòng

tuyến tỉnh, các trung tâm y tế dự phòng huyện thành lập theo Thông tư liên tịch số

02/2008/TTLT-BYT-BNV ngày 25/4/2008 của liên tịch Bộ Y tế - Bộ Nội vụ.

Nhu cầu đầu tư trong lĩnh vực bệnh viện hiện nay chưa có con số ước đoán

chính xác. Tuy vậy, qua con số của Đề án 930/QĐ-TTg tính toán cho 225 bệnh

viện tuyến tỉnh (gồm 81 bệnh viện đa khoa tỉnh, thành phố và trung ương, bệnh

viện tâm thần, lao, ung bướu, chuyên khoa nhi) thì nhu cầu đầu tư ước chừng trên

45.000 tỷ đồng (tương đương 2,2 tỷ đô la Mỹ), trong đó chưa tính các bệnh viện

chuyên khoa khác như Tai Mũi Họng, Mắt, Răng Hàm Mặt. Còn để phát triển y tế

chuyên sâu cần khoảng 10.000 tỷ đồng; nâng cấp các bệnh viện chuyên khoa

tuyến tỉnh khoảng 100.000 tỷ đồng; phát triển đội ngũ thầy thuốc cần từ 5.000 –

10.000 tỷ đồng…Đó chỉ là những con số mới tính toán sơ bộ chứ chưa bao gồm

một số mảng như y tế dự phòng, vệ sinh an toàn thực phẩm…Hiện nay số giường

bệnh viện của Việt Nam trên 10.000 dân là 19, trong khi đó các nước phát triển

như Nhật Bản con số này là 141; cơ cấu giường bệnh tư nhân cần tăng lên theo

chính sách chung với mục tiêu đến năm 2010, số giường bệnh/vạn dân (không

tính giường trạm y tế xã) đạt 20,5 giường (có 2 giường của bệnh viện tư nhân) và

đến năm 2020 là 25 giường (có 5 giường của bệnh viện tư nhân) – theo quy hoạch

tổng thể phát triển ngành y tế phê duyệt tại QĐ 153/QĐ-TTg. Đảng và Nhà nước

đã quan tâm đầu tư nguồn lực cho ngành y tế, tăng cường xây dựng cơ sở vật chất.

Vốn đầu tư phát triển được Chính phủ cân đối hằng năm cho toàn ngành y tế chỉ

chiếm khoảng 5 – 6% GDP. Con số này không thể đủ cho việc nâng cao chất

lượng khám, chữa bệnh và xây dựng, nâng cấp cơ sở vật chất. Do đó, những năm

50

gần đây, Chính phủ giao ngành y tế đầu tư cơ sở vật chất bằng trái phiếu Chính

phủ cho y tế từ tuyến cơ sở đến trung ương nhằm đáp ứng nhu cầu khám, chữa

bệnh cho nhân dân.

Đối với đầu tư tư nhân, thời gian vừa qua lĩnh vực bệnh viện đã có đầu tư

tư nhân với 93 bệnh viện tư, tập trung nhiều nhất ở thành phố Hồ Chí Minh (31

bệnh viện), Hà Nội (12 bệnh viện). Quy mô các bệnh viện tư hiện đa phần còn

khiêm tốn.

Tại thành phố Hồ Chí Minh, Sở Y tế TP.HCM thông qua công tác quản lý

nhà nước về y tế, sẽ tạo điều kiện để các khu vực y tế công, tư hợp tác phòng

chống lao có hiệu quả. Thời gian tới sẽ quyết tâm giảm 50% tỉ lệ người mắc và

chết do lao. Việt Nam là 1 trong 7 quốc gia có người nhiễm lao cao nhất thế giới.

Bệnh lao hiện đang là gánh nặng của ngành y tế và xã hội. TP.HCM hàng năm có

khoảng 15.000 người nhiễm lao cá thể và khoảng 7.000 bệnh nhân mắc bệnh phổi

có nguồn lây vi trùng lao. Tình hình nhiễm lao tính đến thời điểm hiện nay, tuy có

dấu hiệu giảm, nhưng tốc độ giảm rất chậm. Mặt khác, nhân lực là trong công tác

phòng chống lao còn thiếu, bộ máy hoạt động còn nhiều bất cập và nhận thức của

bệnh nhân lao còn hạn chế nên kết quả của công tác phòng chống chưa đạt như

mong muốn.

3.2. Sự cần thiết xây dựng mô hình hợp tác nhà nước – tư nhân:

Hệ thống y tế Việt Nam là hệ thống cung ứng dịch vụ công tư hỗn hợp,

trong đó y tế công chiếm vai trò chủ đạo. Tuy nhiên, trong nhiều năm gần đây khi

nền kinh tế và đời sống phát triển nhanh, nhu cầu về chăm sóc sức khỏe của người

dân ngày càng cao thì hệ thống y tế lại không thể bảo đảm được nhu cầu này.

Ngân sách nhà nước mỗi năm đều có sự đầu tư cho ngành y tế, song so với

nhu cầu cung cấp dịch vụ y tế thì hầu hết các cơ sở vật chất đã cũ không đáp ứng

được yêu cầu của người dân và cũng thấp hơn so với các nước trong khu vực. Nhà

nước không thể cung cấp toàn bộ các dịch vụ công do hạn chế về nguồn lực và

51

ngành y tế cần phải huy động mọi nguồn vốn đầu tư để nâng cao chất lượng phục

vụ.

Nhu cầu đầu tư trong ngành y tế hiện nay là rất lớn và không thể mãi trông

chờ vào nguồn ngân sách nhà nước. Vì vậy, việc hợp tác công tư và kêu gọi

nguồn vốn tư nhân cho lĩnh vực y tế đang trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết.

Trong khi nhà nước chưa bảo đảm được nguồn vốn cho y tế phát triển thì

nhà nước nên tính đến việc áp dụng mô hình hợp tác nhà nước – tư nhân để có thể

huy động được nhiều nguồn lực kinh tế khác nhau.

Việc nghiên cứu và xây dựng thí điểm đầu tư theo hình thức hợp tác nhà

nước – tư nhân là yêu cầu cấp thiết, khách quan, xét theo những yêu cầu thực tiễn

cụ thể sau đây: để thực hiện thành công mục tiêu đề ra theo các kế hoạch và chiến

lược phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2020, duy trì tốc độ phát triển kinh tế cao

và bền vững trong giai đoạn này, nước ta cần huy động một lượng vốn đầu tư

khoảng 150 – 160 tỷ USD để tạo bước đột phá trong phát triển kết cấu hạ tầng

kinh tế và đầu tư phát triển y tế. Theo tính toán, các nguồn vốn đầu tư nhà nước

truyền thống từ trước đến nay chỉ có thể đáp ứng khoảng 50% nhu cầu trên do bị

hạn chế bởi các yếu tố như: ngân sách nhà nước mức tăng có giới hạn; ODA ưu

đãi sẽ giảm dần vì nước ta đã bước sang ngưỡng quốc gia có thu nhập trung bình

của thế giới; và đặc biệt tổng nợ công của Chính phủ (như ODA, trái phiếu Chính

phủ và các khoản vay khác có bảo lãnh của Chính phủ) bị hạn chế ở mức không

quá 50% tổng sản phẩm quốc dân (GDP) – là hạn mức an toàn. Bộ Y Tế chủ

trương ngoài các nguồn vốn hiện có thì sẽ thu hút vốn khác từ khu vực tư nhân,

các tổ chức tài chính trong và ngoài nước. Như vậy, nhu cầu đầu tư cho phát triển

dịch vụ y tế nhằm chăm sóc tốt sức khỏe của người dân ngày càng lớn, trong khi

khả năng nguồn lực tài chính của nhà nước không thể đáp ứng được thì việc

khuyến khích đầu tư theo hình thức hợp tác nhà nước – tư nhân là mô hình hợp

tác tối ưu hóa hiệu quả đầu tư và cung cấp dịch vụ y tế chất lượng cao.

52

Bằng chứng từ nghiên cứu của WB, ADB thực hiện cho thấy rằng trong

một môi trường được khuyến khích thỏa đáng (có cơ chế pháp luật tốt, các chính

sách ưu đãi phù hợp), các nhà cung cấp dịch vụ tư nhân làm tốt hơn các nhà cung

cấp dịch vụ thuộc khu vực nhà nước và theo kinh nghiệm thực tiễn cho thấy có ít

nhất hai lĩnh vực mà mô hình hợp tác nhà nước – tư nhân có thể phát huy hiệu

quả, đó là các dự án không thể hoặc khó áp dụng phương pháp cổ phần hóa và các

dự án mà nhà nước không thể tham gia trực tiếp. Cụ thể như các dự án về đường

cao tốc, giao thông đô thị, dịch vụ cảng và các dịch vụ công cộng… Hiệu quả mà

mô hình hợp tác nhà nước – tư nhân đem lại là:

- Thứ nhất: giảm chi phí, giảm rủi ro và tạo ra được một môi trường cạnh

tranh cao. Điều này không phải do bản chất sở hữu tư nhân, mà do những nhà

cung cấp thuộc khu vực tư nhân nhanh nhạy hơn với sự cạnh tranh và các hình

thức khuyến khích. Hơn nữa, nguồn tài chính bổ sung cho các dự án đầu tư lĩnh

vực y tế từ các nguồn vốn tư nhân có thể giúp làm giảm nhu cầu về vốn của các

dự án trọng điểm khác của chính phủ.

- Thứ hai: khu vực tư nhân giúp tiếp cận được với nguồn tài chính, công nghệ

tiên tiến, quản lý hiệu quả, hoàn thành công trình đúng thời hạn và khai thác công

trình có hiệu quả nhất.

- Thứ ba: các nhà đầu tư tư nhân sẽ góp phần dịch chuyển gánh nặng thanh

toán từ người chịu thuế sang người tiêu dùng bởi vì mục đích của họ là doanh thu

và bù đắp chi phí.

- Thứ tư: việc tư nhân tham gia đầu tư vào lĩnh vực y tế cũng sẽ góp phần

vào việc chống tham nhũng lãng phí, bởi nguồn vốn của tư nhân luôn được quản

lý chặt chẽ nhằm mang lại hiệu quả cao nhất.

53

3.3. Đề xuất một số mô hình hợp tác nhà nước – tư nhân trong đầu tư phát

triển các bệnh viện:

3.3.1. Mô hình BTL (Build – Transfer – Lease = Xây dựng – Chuyển giao –

Cho thuê):

3.3.1.1. Mô tả mô hình BTL:

Theo mô hình BTL, nhà đầu tư tư nhân và khu vực nhà nước ký kết hợp

đồng BTL với nội dung sau: nhà đầu tư bỏ vốn xây dựng công trình, sau đó

chuyển giao công trình hoàn thành cho khu vực nhà nước, thu tiền hoàn vốn đầu

tư và tạo lợi nhuận từ tiền cho thuê tài sản được thanh toán bởi khu vực nhà nước

theo định kỳ trong một thời gian nhất định.

Một số nguyên tắc chung:

- Hình thức BTL được áp dụng trong các loại hình dự án xây dựng trụ sở của

khu vực nhà nước hoặc các công trình công cộng.

- Đối tác nhà nước vẫn đảm nhiệm công tác quản lý, vận hành công trình hạ

tầng theo nhiệm vụ chuyên môn, cung cấp các dịch vụ cốt lõi.

- Đối tác tư nhân (nhà đầu tư) chịu trách nhiệm bảo trì công trình hạ tầng

trong suốt thời gian cho thuê, được quyền cung cấp dịch vụ không cốt lõi như bãi

đậu xe, căn tin, siêu thị mini…

- Nguồn thanh toán tiền thuê tài sản do đối tác nhà nước thu từ người sử dụng

hoặc từ ngân sách nhà nước hoặc cả hai.

- Vốn đầu tư có thể hoàn toàn của đối tác tư nhân hoặc một phần của đối tác

nhà nước nhằm làm giảm chi phí thuê và thời gian thuê tài sản.

54

Hình 3.1: Mô hình BTL

Cổ đông

Cổ đông Khu vực tư nhân ( Nhà đầu tư ) Khu vực nhà nước ( Cơ sở y tế công ) chuyển giao cho thuê thanh toán tiền thuê

cung cấp dịch vụ thanh toán phí cung cấp dịch không cốt lõi hoặc miễn phí vụ cốt lõi

Cổ đông Người sử dụng cuối cùng

Bảng 3.1: Tóm tắt một số nội dung chủ yếu của hình thức BTL

Quyền và nghĩa vụ của các bên

Bên thuê tài sản (Đối tác nhà nước) Bên cho thuê tài sản (Đối tác tư nhân)

- Thông qua thiết kế kỹ thuật công - Thực hiện vai trò chủ đầu tư: phê

trình của đối tác tư nhân. duyệt dự án, thiết kế kỹ thuật thi công

- Nghiệm thu, nhận bàn giao công (sau khi thông qua đối tác nhà nước.

trình hoàn thành để quản lý, vận - Xây dựng và bàn giao công trình đúng

tiến độ và thiết kế được duyệt. Chịu hành.

- Thanh toán tiền thuê theo định kỳ. trách nhiệm về chất lượng công trình,

bảo dưỡng, sửa chữa trong suốt thời

gian cho thuê.

Ưu điểm

55

Ưu điểm

Bên thuê tài sản (Đối tác nhà nước) Bên cho thuê tài sản (Đối tác tư nhân)

- Được tự quyết định việc lựa chọn nhà - Có được cơ sở vật chất theo đúng

thầu tư vấn, mua sắm hàng hóa, xây lắp yêu cầu và đúng tiến độ.

để thực hiện công trình. - Chất lượng công trình được đảm bảo

- Nhận được khoản thu (tiền cho thuê) trong suốt thời gian thuê.

ổn định trong suốt thời gian cho thuê, - Công trình hạ tầng thuộc sở hữu nhà

nước sau khi hết hạn hợp đồng thuê. đảm bảo hoàn vốn và tạo lợi nhuận.

- Chủ động được dự toán chi phí phải - Có thể thế chấp quyền cho thuê tài sản

trả bên cho thuê hàng năm. để vay vốn đầu tư công trình (là hợp

- Không phải thực hiện vai trò chủ đồng cho thuê tài sản).

đầu tư với các công việc vốn rất phức

tạp (như đấu thầu, thanh toán, quyết

toán…), do đó có thể chuyên tâm vào

công tác chuyên môn, cung cấp dịch

vụ cốt lõi.

- Không chịu các rủi ro làm phát sinh

tăng chi phí trong quá trình đầu tư và

khai thác công trình.

- Không phải chịu áp lực về nợ tín

dụng.

Hạn chế

Bên thuê tài sản (Đối tác nhà nước) Bên cho thuê tài sản (Đối tác tư nhân)

- Chịu mọi rủi ro trong quá trình đầu tư - Công việc bàn giao mặt bằng để thi

(chậm nhận mặt bằng, rủi ro thi công, công có thể bị chậm trễ, kéo dài (vì lý

biến động giá vật tư, tỷ giá, lãi suất…). do đền bù giải phóng mặt bằng) dẫn

- Bên thuê chậm thanh toán tiền thuê. đến thiệt hại cho cả hai bên.

56

3.3.1.2. Xây dựng mới bệnh viện công lập theo mô hình BTL:

Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất và cải thiện chất lượng dịch vụ của các

bệnh viện công hiện là vấn đề cấp thiết ở TP.HCM.

Viện Nghiên cứu phát triển và Cục thống kê TP.HCM đã tiến hành 2 cuộc

khảo sát về chỉ số hài lòng của người dân về dịch vụ công [6] vào năm 2006

(1.118 hộ dân) và năm 2008 (1.194 hộ dân). Kết quả cho thấy, mức độ hài lòng

của người dân giảm đi trong lĩnh vực y tế, chủ yếu là ở khu vực y tế công lập (chỉ

số hài lòng từ 72,2% vào năm 2006 xuống còn 53,9% vào năm 2008). Các đề xuất

của người dân tập trung vào các vấn đề của khu vực y tế công lập là: mở thêm cơ

sở khám chữa bệnh công lập (46,9% ý kiến), đầu tư trang thiết bị y tế hiện đại

chuyên ngành (45,9% ý kiến).

Theo Quy hoạch phát triển mạng lưới khám, chữa bệnh đến năm 2010 và

tầm nhìn đến năm 2020 của Chính phủ [2] và kế hoạch đầu tư phát triển ngành y

tế của TP.HCM đến năm 2020:

- Phát triển TP.HCM thành trung tâm nghiên cứu, đào tạo và điều trị chuyên

sâu, cung cấp chất lượng dịch vụ y tế ngang tầm các nước tiên tiến trong khu vực,

đáp ứng nhu cầu khám, chữa bệnh của nhân dân hướng tới mục tiêu công bằng,

hiệu quả và phát triển.

- Thu hút mọi nguồn vốn xã hội để đầu tư phát triển ngành y tế, phấn đấu đạt

32.000 giường nội trú (so với hiện nay là 22.797 giường).

Để đạt mục tiêu nêu trên, cần phải: xây dựng mới, cải tạo nâng cấp các

bệnh viện tại các cửa ngõ thành phố (cơ sở 2 của các bệnh viện nội thành) nhằm

thu hút bệnh nhân từ nội thành và các tỉnh lân cận, giảm quá tải cho các bệnh viện

nội thành (gồm: quận 7, Thủ Đức, Bình Chánh, Củ Chi, Hóc Môn), mỗi bệnh viện

có quy mô từ 500 – 1.000 giường; nâng cấp, xây mới các bệnh viện quận, huyện

nhằm giảm tải cho tuyến trên; di dời các Bệnh viện Tâm thần và Bệnh viện Nhiệt

57

đới thuộc quy hoạch dự án xa lộ Đông – Tây; di dời các bệnh viện bệnh truyền

nhiễm ra khỏi trung tâm thành phố.

Bên cạnh đó, để tăng cường đầu tư cơ sở vật chất và cải thiện chất lượng

dịch vụ của các bệnh viện công hiện nay, theo dự án của Sở Y tế TP.HCM, thành

phố sẽ xây dựng khu y tế kỹ thuật cao theo mô hình viện - trường, vừa chữa bệnh,

vừa nghiên cứu và có chức năng đào tạo. Khu y tế kỹ thuật cao bao gồm 7 bệnh

viện (Trung tâm chẩn đoán y khoa MEDIC, Bệnh viện Nhân dân 115, Bệnh viện

Chấn thương chỉnh hình, Bệnh viện Truyền máu Huyết học, Bệnh viện Mắt, Bệnh

viện Tai Mũi Họng, Bệnh viện Bỏng) với quy mô 1.600 giường bệnh và 1 trường

đại học chuyên ngành (Trường Đại học Triều An) sẽ được xây dựng tại huyện

Bình Chánh, TP.HCM; được trang bị thiết bị kỹ thuật hiện đại, có chuyên gia tay

nghề cao. Khi khu y tế kỹ thuật cao đi vào hoạt động, sẽ giúp giảm tình trạng quá

tải ở các bệnh viện trong thành phố. Dự án đã được Ủy Ban Nhân Dân TP.HCM

chấp thuận với tổng vốn đầu tư xây dựng các bệnh viện và trường đại học trong

khu y tế kỹ thuật cao được dự tính khoảng 1.304 tỷ đồng. Riêng Bệnh viện Bỏng

sẽ được đầu tư bằng 100% vốn ngân sách, số còn lại sẽ huy động xã hội hóa,

trong đó vốn vay kích cầu 350 tỷ đồng.

Với hình thức BTL, các bệnh viện công sẽ:

- Chuyển giao chức năng chủ đầu tư cho khu vực tư nhân: đây vốn là những

công việc mất nhiều thời gian và cần đến kỹ năng quản trị dự án. Thực tế cho thấy

các bệnh viện công rất thiếu kinh nghiệm và lúng túng trong các công việc này.

- Có được công trình trong thời hạn và dự toán cho phép.

- Không phải giải quyết các vấn đề về nguồn vốn tín dụng, với các điều kiện

sau:

+ Thời gian vay vốn: thường không quá 10 năm (theo thông lệ), do các ngân

hàng thương mại bị hạn chế về nguồn vốn dài hạn (cũng như tỷ lệ sử dụng vốn

ngắn hạn để cho vay dài hạn).

58

+ Vốn đối ứng: tối thiểu 30% vốn đầu tư (theo thông lệ). Điều này khó khả thi

đối với bệnh viện công do Quỹ phát triển sự nghiệp khó đảm bảo được, thường

phải do ngân sách thành phố cấp. Tùy điều kiện cụ thể về khả năng nguồn thu và

thời gian hoàn vốn của dự án mà yêu cầu về vốn đối ứng sẽ tăng lên.

+ Tài sản đảm bảo nợ vay: phải có tính thanh khoản.

+ Khả năng trả nợ đầy đủ và đúng hạn là những yêu cầu vô cùng quan trọng

do yêu cầu về chất lượng tín dụng ngày càng đòi hỏi khắt khe hơn, nhất là đối với

những dự án hoàn toàn mới (yêu cầu về phân loại nợ và trích lập dự phòng).

+ Lãi suất: thả nổi theo lãi suất huy động đầu vào của ngân hàng, điều chỉnh 3

– 6 tháng/lần.

Mặt khác, khả năng tìm kiếm nguồn tín dụng lãi suất thấp ngày càng ít đi

do yêu cầu của việc từng bước giảm dần ưu đãi, tiến tới cạnh trang công bằng

trong lộ trình thực hiện các cam kết gia nhập WTO. Ngay cả nguồn vay từ Ngân

hàng phát triển Việt Nam cũng đang giảm dần tính ưu đãi (theo Nghị định

106/2008 ngày 19/9/2008, lãi suất tín dụng đầu tư được tính bằng lãi suất trái

phiếu Chính phủ kỳ hạn 5 năm + 1%/năm).

Đối với các dự án xây dựng bằng vốn ngân sách hoặc một phần ngân sách

(là các dự án không có nguồn thu hoàn vốn hoặc nguồn thu thấp) thì vấn đề về

nguồn vốn ngân sách vì hiện nay và dự kiến trong các năm sắp tới của TP.HCM

đang đứng trước rất nhiều khó khăn. Cụ thể, trong tháng 8/2009, nhằm huy động

kịp thời nguồn vốn cho các dự án trọng điểm, cấp bách của thành phố, UBND

TP.HCM đã có chủ trương (theo công văn số 4282/UBND-THKH ngày

22/8/2009) về thực hiện phương thức thi công ứng vốn trong năm 2009 và quý

1/2010 (ngân sách thành phố trả lãi vay).

Một số đặc thù của hợp đồng BTL xây dựng bệnh viện công:

Đối với các dự án mà tài sản đưa vào khai thác không có khả năng hoàn

vốn đầu tư hoặc nguồn thu rất thấp (các bệnh viện quy mô nhỏ, nguồn thu chủ yếu

59

từ bảo hiểm y tế hoặc các bệnh viện do ngân sách đảm bảo toàn bộ hoạt động

thường xuyên): bên thuê tài sản là UBND TP.HCM (hoặc UBND cấp quận,

huyện), hoặc Sở Y tế (theo ủy quyền) để đảm bảo nguồn thanh toán từ ngân sách

nhà nước.

Đối với các dự án mà tài sản đưa vào khai thác có khả năng hoàn vốn đầu

tư (thu từ bệnh nhân hoặc bảo hiểm y tế): bên thuê tài sản trực tiếp ký hợp đồng

BTL là các bệnh viện công lập (theo ủy quyền của UBND TP.HCM hoặc của Sở

Y tế TP.HCM theo phân cấp). Trường hợp này, nhà đầu tư cần phải thẩm định

nguồn thu của bên thuê để xác định thời gian và mức giá cho thuê phù hợp.

Hợp đồng BTL chi về cho thuê hạ tầng bệnh viện, bao gồm công trình xây

dựng và thiết bị kỹ thuật (thang máy, máy phát điện, điều hòa nhiệt độ…), còn

thiết bị y tế do bệnh viện tự trang bị. Điều này là do đặc thù kỹ thuật cao và vận

hành phức tạp của thiết bị chuyên ngành. Trong trường hợp bệnh viện có nhu cầu

đầu tư mua sắm thiết bị, nhà đầu tư có thể tham gia hợp tác đầu tư với bệnh viện.

Điều này sẽ góp phần làm tăng thêm tính khả thi về khả năng thanh toán của bên

thuê tài sản.

Hiện nay, ở TP.Hồ Chí Minh, xây dựng bệnh viện công theo mô hình BTL

còn mới mẻ. Ví dụ: Bệnh viện Hùng Vương TP.HCM hiện nay đang có kế hoạch cải tạo, xây dựng một phần bệnh viện với diện tích đất xây dựng 4.400m2, tổng diện tích sàn xây dựng 47.200m2 (gồm 15 tầng), tổng vốn đầu tư khoảng 570 tỷ

đồng, vốn đối ứng tối thiểu là 171 tỷ đồng. Nếu bệnh viện áp dụng xây dựng theo

mô hình BTL thì bệnh viện sẽ có được các thuận lợi sau:

- Có được cơ sở vật chất theo đúng yêu cầu và đúng tiến độ.

- Chất lượng công trình được đảm bảo trong suốt thời gian thuê.

- Công trình hạ tầng thuộc sở hữu nhà nước sau khi hết hạn hợp đồng thuê.

- Chủ động được dự toán chi phí phải trả bên cho thuê hàng năm.

60

- Không phải thực hiện vai trò chủ đầu tư với các công việc vốn rất phức tạp

(như đấu thầu, thanh toán, quyết toán…), do đó có thể chuyên tâm vào công tác

chuyên môn, cung cấp dịch vụ cốt lõi.

- Không chịu các rủi ro làm phát sinh tăng chi phí trong quá trình đầu tư và

khai thác công trình.

- Không phải chịu áp lực về nợ tín dụng (bệnh viện đề xuất với Ủy Ban Nhân

Dân TP.HCM hỗ trợ kinh phí hoạt động để bệnh viện chi trả cho nhà đầu tư).

Ghi chú: trong trường hợp di dời trụ sở mới, các đơn vị có thể có nguồn

vốn đầu tư là tiền thu được từ chuyển nhượng tài sản là mặt bằng hiện hữu. Tuy

nhiên, tiến độ chuyển nhượng có nhiều khả năng chậm so với tiến độ đầu tư ở địa

điểm mới (do phải qua các thủ tục trình duyệt giá đấu giá mặt bằng hoặc giá mua

chỉ định).

3.3.2. Mô hình BLT (Build – Lease – Transfer = Xây dựng – Cho thuê –

Chuyển giao):

3.3.2.1. Mô tả mô hình BLT:

Theo mô hình BLT, nhà đầu tư tư nhân và khu vực nhà nước ký kết hợp

đồng BLT với nội dung sau: nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư xây dựng công trình, sau đó

cho khu vực nhà nước thuê công trình cùng với dịch vụ hình thành từ công trình

trong một thời gian nhất định để thu hồi vốn và tạo lợi nhuận, sau đó chuyển giao

công trình cho khu vực nhà nước sau khi hết thời hạn hợp đồng cho thuê.

Nguyên tắc chung như sau:

- Hình thức này áp dụng trong các loại hình xây dựng công trình hạ tầng kỹ

thuật không phục vụ trực tiếp cho người thụ hưởng cuối cùng.

- Đối tác tư nhân đảm nhiệm công tác quản lý, vận hành, bảo dưỡng công

trình hạ tầng trong suốt thời gian cho thuê và cung cấp dịch vụ hình thành từ công

trình. Ví dụ: xử lý và chôn lấp rác, xử lý rác, nước thải, xử lý nước rỉ rác…

61

- Đối tác tư nhân nhận tiền thuê tài sản từ đối tác nhà nước, căn cứ đơn giá

dịch vụ, khối lượng và chất lượng dịch vụ cốt lõi thỏa thuận trong hợp đồng.

- Vốn đầu tư có thể hoàn toàn của đối tác tư nhân hoặc một phần của đối tác

nhà nước nhằm làm giảm giá dịch vụ.

- Đối tác nhà nước thanh toán tiền thuê tài sản căn cứ khối lượng và chất

lượng dịch vụ.

Hình 3.2: Mô hình BLT

Cổ đông

vận hành, cung cấp dịch vụ

Cổ đông Khu vực tư nhân ( Nhà đầu tư ) Khu vực nhà nước ( Cơ sở y tế công ) chuyển giao công trình thanh toán phí cung

cấp dịch vụ

Cổ đông Tổ chức giám định, kiểm tra chất lượng dịch vụ

62

Bảng 3.2: Tóm tắt một số nội dung chủ yếu của hình thức BLT

Quyền và nghĩa vụ của các bên

Bên thuê tài sản (Đối tác nhà nước) Bên cho thuê tài sản (Đối tác tư nhân)

- Thanh toán tiền thuê tài sản căn cứ - Là chủ đầu tư công trình.

khối lượng và chất lượng dịch vụ. - Chuyển giao công trình sau khi hết hạn

hợp đồng.

Ưu điểm

Bên thuê tài sản (Đối tác nhà nước) Bên cho thuê tài sản (Đối tác tư nhân)

- Được cung ứng dịch vụ hạ tầng đạt - Được tự quyết định việc lựa chọn nhà

chất lượng và đúng tiến độ. thầu tư vấn, mua sắm hàng hóa, xây lắp

- Công trình hạ tầng thuộc sở hữu nhà để thực hiện công trình.

nước sau khi hết hạn hợp đồng thuê. - Nhận được khoản thu (tiền cho thuê) ổn

- Chủ động được dự toán chi phí phải trả định trong suốt thời gian cho thuê, đảm

bên cho thuê hàng năm. bảo hoàn vốn và tạo lợi nhuận.

- Không chịu các rủi ro làm phát sinh - Có thể thế chấp quyền cho thuê tài sản

tăng chi phí trong quá trình đầu tư và để vay vốn đầu tư công trình (là hợp

khai thác công trình. đồng cho thuê tài sản).

- Không phải chịu áp lực về nợ tín dụng.

Hạn chế

Bên thuê tài sản (Đối tác nhà nước) Bên cho thuê tài sản (Đối tác tư nhân)

- Chịu mọi rủi ro trong quá trình đầu tư - Công việc bàn giao mặt bằng để thi

(chậm nhận mặt bằng, rủi ro thi công, công có thể bị chậm trễ, kéo dài (vì lý

công nghệ, biến động giá vật tư, tỷ giá, do đền bù giải phóng mặt bằng) dẫn đến

lãi suất…). thiệt hại cho cả hai bên.

- Bên thuê chậm thanh toán tiền thuê.

63

3.3.2.2. Xây dựng hệ thống xử lý nước thải bệnh viện công theo mô hình BLT

(Build – Lease – Transfer):

Hệ thống xử lý nước thải của các bệnh viện công ở TP.HCM cũng đang là

một vấn đề quan trọng. Hiện nay hệ thống xử lý nước thải của rất nhiều bệnh viện

tại TP.HCM đã xuống cấp, lạc hậu và không đồng bộ. Thậm chí có nhiều bệnh

viện, trung tâm y tế còn chưa hề có hệ thống xử lý nước thải.

Theo Sở Y tế TP.HCM, hiện trên địa bàn thành phố có hơn 7.200 cơ sở y

tế, phòng khám, 322 trạm y tế phường, xã và 4 bệnh viện trực thuộc Trung ương

chưa có hệ thống xử lý nước thải; chỉ có 10 bệnh viện trên tổng số 93 bệnh viện

được đánh giá có hệ thống xử lý nước thải hoàn chỉnh; 40 bệnh viện có hệ thống

xử lý nước thải nhưng chất lượng nước thải sau xử lý chưa đạt quy chuẩn cho

phép. Đáng lo ngại nhất là những bệnh viện có nước thải gây ô nhiễm môi trường

lại tập trung vào những bệnh viện có quy mô rất lớn như bệnh viện Chợ Rẫy, bệnh

viện Điều dưỡng và Phục hồi chức năng Bưu Điện II, bệnh viện Thống Nhất,

Viện Pasteur TP.HCM…các bệnh viện này liên tục tăng số lượng người bệnh, kéo

theo lượng nước thải và chất thải rắn phát sinh tăng theo trong khi hệ thống xử lý

nước thải vẫn như cũ. Do đó, nước thải ô nhiễm chưa được xử lý triệt để, xả trực

tiếp ra môi trường ngày càng nhiều. Điển hình là bệnh viện Chợ Rẫy, hệ thống xử

lý nước thải được xây dựng từ những năm 1960, có công suất chỉ đáp ứng khoảng

500 giường bệnh. Đến nay, số lượng bệnh nhân đã tăng khoảng hơn 30.000

người/ngày nhưng hệ thống xử lý nước thải vẫn chỉ là xử lý vi sinh và công suất

thiết kế chỉ dành cho 500 giường bệnh/ngày. Do đó, khó tránh khỏi việc chất

lượng nước thải ô nhiễm của bệnh viện đang từng ngày đầu độc môi trường sống

của người dân. Đây không chỉ là nguyên nhân gây bệnh, gây mùi hôi thối nồng

nặc, làm ô nhiễm không khí trong các khu dân cư mà còn là mối đe dọa đến sức

khỏe cộng đồng. Đó là chưa kể hơn 7.000 phòng khám đa khoa, cơ sở y tế nhỏ

trên địa bàn thành phố gần như chưa được đầu tư hệ thống xử lý nước thải. Thậm

64

chí, chất thải rắn cũng không được các đơn vị chuyển giao mà đổ thẳng vào rác

sinh hoạt.

Thống kê của Sở Tài nguyên và Môi trường TP.HCM cho biết, hiện mỗi ngày các bệnh viện thải trực tiếp khoảng 20.000m3 nước thải chưa qua xử lý ra hệ

thống nước công cộng của thành phố, gây ô nhiễm nguồn nước các kênh rạch,

sông ngòi. Hơn nữa, những bệnh viện này lại nằm ở khu vực đông dân cư, gây

ảnh hưởng không nhỏ đến sức khỏe cộng đồng.

Theo quy định đến năm 2020, tất cả các bệnh viện trên cả nước phải có hệ

thống xử lý chất thải đúng tiêu chuẩn [2]. Tuy nhiên, nguồn vốn đầu tư đang là

thách thức lớn. Đây là một khoảng chi lớn đối với ngân sách thành phố, trong khi

nền kinh tế đang gặp khó khăn như hiện nay. Kể từ năm 2009, mỗi năm thành phố

đã trích ngân sách khoảng 60 tỷ đồng hỗ trợ cho các bệnh viện cải tạo, xây mới hệ

thống xử lý nước thải. Tuy nhiên, số tiền này không thấm vào đâu so với nhu cầu

thực tế của thành phố. Không có kinh phí hoặc có nhưng chưa đủ, đó là cách lý

giải phổ biến hiện nay của nhiều bệnh viện, cơ sở y tế trước thực trạng này. Theo

các đơn vị này, chi phí đầu tư xây dựng hệ thống xử lý nước thải của một bệnh

viện lên tới hàng chục tỷ đồng, thậm chí hàng trăm tỷ đồng, đó là chưa kể chi phí

duy tu, vận hành hệ thống xử lý nước thải này khoảng hàng trăm triệu đồng mỗi

năm. Đây là một khoảng chi lớn vượt khả năng của các đơn vị. Bên cạnh đó, về

phía bệnh viện cũng chưa có đội ngũ phụ trách lĩnh vực này, chủ yếu là cán bộ

kiêm nhiệm nên hiệu quả đầu tư chưa cao. Chỉ với việc lập đề án thiết kế xây

dựng trình Sở Tài nguyên và Môi trường thẩm định, phê duyệt, các đơn vị loay

hoay cả năm mà vẫn chưa xong. Nhiều bệnh viện đã đề nghị Sở Y tế có chính

sách hỗ trợ nhưng chưa được trả lời. Do đó, xây dựng hệ thống xử lý nước thải

bệnh viện công theo mô hình BLT là rất cần thiết trong thời điểm hiện tại.

Ngày 28/4/2011, Bệnh viện Nhi Đồng 1 TP.HCM đã khánh thành công

trình xử lý nước thải y tế theo mô hình BLT. Theo đó, công ty TNHH Môi trường

Việt – Nhật đầu tư trọn gói hệ thống xử lý nước thải bệnh viện trên 9,5 tỷ đồng, từ

65

khâu thiết kế, xây dựng, lắp đặt thiết bị, đảm nhiệm công tác quản lý, vận hành,

bảo dưỡng công trình trong suốt thời gian cho thuê, cung cấp dịch vụ hình thành

từ công trình và chịu trách nhiệm hoàn toàn về chất lượng nước thải theo quy

chuẩn quốc gia về nước thải y tế của Bộ Tài Nguyên – Môi Trường. Công trình sử

dụng công nghệ xử lý nước thải mới của Nhật Bản là công nghệ phân tử, sử dụng

tia hồng ngoại có bước song dài để phá hủy các chất ô nhiễm thay vì sử dụng hóa

chất nhằm xử lý triệt để BOD, SS, Nitơ … Hệ thống xử lý nước thải này có công suất 1.000m3/ngày đêm, mỗi tháng Bệnh viện Nhi Đồng 1 TP.HCM sẽ trả cho công ty TNHH Môi trường Việt – Nhật khoảng 5.500 đồng/m3 nước thải. Sau 10

năm, hệ thống xử lý nước thải sẽ được công ty TNHH Môi trường Việt – Nhật

chuyển giao miễn phí cho Bệnh viện Nhi Đồng 1 TP.HCM.

Hiện tại, Bệnh viện Hùng Vương TP. Hồ Chí Minh đang áp dụng mô hình

BLT để xây dựng hệ thống xử lý nước thải. Theo mô hình BLT, nhà đầu tư tư

nhân và bệnh viện ký kết hợp đồng BLT với nội dung sau: nhà đầu tư bỏ vốn đầu

tư xây dựng công trình, sau đó cho bệnh viện thuê công trình cùng với dịch vụ

hình thành từ công trình trong thời gian 10 năm, sau đó nhà đầu tư sẽ chuyển giao

công trình cho bệnh viện sau khi hết thời hạn hợp đồng cho thuê. Nếu bệnh viện

áp dụng xây dựng hệ thống xử lý nước thải bệnh viện công theo mô hình BLT thì

bệnh viện sẽ có được các thuận lợi sau:

- Có được hệ thống xử lý nước thải bệnh viện công nghệ mới theo đúng yêu

cầu và đúng tiến độ.

- Chất lượng công trình được đảm bảo trong suốt thời gian thuê. Tất cả chi

phí nguồn nhân lực vận hành, chi phí bảo trì duy tu, xử lý bùn, chi phí điện… đều

do công ty đầu tư chi trả.

- Công trình hạ tầng thuộc sở hữu nhà nước sau khi hết hạn hợp đồng thuê.

- Chủ động được dự toán chi phí phải trả bên cho thuê hàng năm.

66

- Không phải thực hiện vai trò chủ đầu tư với các công việc vốn rất phức tạp

(như đấu thầu, thanh toán, quyết toán…), do đó có thể chuyên tâm vào công tác

chuyên môn, cung cấp dịch vụ cốt lõi.

- Không chịu các rủi ro làm phát sinh tăng chi phí trong quá trình đầu tư và

khai thác công trình.

- Không phải chịu áp lực về nợ tín dụng (bệnh viện đề xuất với Ủy Ban Nhân

Dân TP.HCM hỗ trợ kinh phí hoạt động để bệnh viện chi trả cho nhà đầu tư).

- Bệnh viện áp dụng xây dựng hệ thống xử lý nước thải theo mô hình BLT

thì hoàn toàn hiệu quả và nhanh chóng. Bệnh viện không phải lo nhân công vận

hành (bốn nhân công), trong khi nhân viên kỹ thuật của bệnh viện không đủ trình

độ, kiến thức về công nghệ xử lý nước thải hiện đại này. Do đó, trong quá trình

vận hành dễ dẫn đến sai sót, khi máy móc gặp sự cố, nhân viên không can thiệp

kịp thời sẽ dễ dàng để nước thải vượt tiêu chuẩn thoát ra môi trường xung quanh.

3.4. Các giải pháp thực hiện mô hình hợp tác nhà nước – tư nhân:

3.4.1. Về phía tư nhân:

Đối tác tư nhân sẽ tiến hành nghiên cứu tiền khả thi một dự án nào đó trong

lĩnh vực đầu tư y tế với quy mô trung bình (tổng vốn đầu tư khoảng dưới 500 tỷ

đồng). Sau đó đối tác tư nhân sẽ đề xuất dự án với Ủy Ban Nhân Dân TP.HCM

(với vai trò là cơ quan chủ quản) xem xét và chấp thuận về mặt chủ trương cho

phép đối tác tư nhân nghiên cứu và đứng ra tổ chức thành lập công ty cổ phần có

ngành nghề, chức năng hoạt động kinh doanh phù hợp với lĩnh vực đầu tư theo

các hình thức BTL (Build – Transfer – Lease = Xây dựng – Chuyển giao – Cho

thuê) và hình thức BLT (Build – Lease – Transfer = Xây dựng – Cho thuê –

Chuyển giao). Sau đó công ty cổ phần này sẽ lập đề xuất tự nguyện gửi Ủy Ban

Nhân Dân TP.HCM (với vai trò là chính quyền địa phương) để chính thức xem

xét, chấp thuận hình thức đầu tư và tiến hành đàm phán, ký kết hợp đồng dự án.

67

Trong hoàn cảnh nhà nước đang thiếu hụt nguồn vốn đầu tư phát triển các

cơ sở y tế công như hiện nay, nhà đầu tư tư nhân nên tập trung góp vốn, đầu tư

nhiều hơn vào các dự án theo mô hình hợp tác nhà nước – tư nhân.

Các nhà đầu tư nước ngoài với tiềm lực mạnh về nguồn vốn có thể làm một

mình hay kết hợp hai, ba nhà đầu tư tư nhân tham gia hợp tác nhà nước – tư nhân.

Riêng đối với nhà đầu tư tư nhân trong nước nên kết hợp nhiều công ty theo hình

thức cổ phần nhằm khắc phục các hạn chế về quy mô, năng lực tài chính và giảm

thiểu rủi ro đầu tư.

3.4.2. Về phía nhà nước:

Nghiên cứu thành lập cơ quan tham mưu về xúc tiến các dự án hợp tác nhà

nước – tư nhân trực thuộc Sở Kế hoạch và Đầu tư.

Nghiên cứu thành lập các cơ quan quản lý dự án hợp tác nhà nước – tư

nhân.

Các cơ quan này sẽ có các chức năng sau:

- Đóng vai trò đầu mối tiếp cận nhà đầu tư ngay từ bước ban đầu để hỗ trợ

nhà đầu tư phát triển dự án (từ danh mục dự án kêu gọi đầu tư hoặc đề xuất tự

nguyện, kể cả chỉ mới là ý tưởng dự án).

- Nghiên cứu, xây dựng các dự án tiền khả thi có thể áp dụng mô hình hợp

tác nhà nước – tư nhân mang lại lợi ích cho cả nhà nước và đối tác tư nhân.

- Giúp việc thẩm tra dự án, hợp đồng dự án, quản lý giám sát dự án.

- Giúp việc rà soát và công bố danh mục dự án kêu gọi đầu tư.

Chấp thuận cho đối tác tư nhân tiến hành nghiên cứu, thực hiện dự án theo

mô hình BTL hoặc mô hình BLT, chỉ đạo các Sở ngành có liên quan phối hợp hỗ

trợ (Sở Tài chính, Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở Y tế…).

Sớm ban hành quy hoạch tổng thể và quy hoạch chi tiết mạng lưới cơ sở y

tế trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.

68

Nhà nước tạo lập khuôn khổ pháp lý và chính sách thực thi hợp đồng và

giải quyết tranh chấp, luật PPP, khung quy định về các khu vực rõ ràng. Để đảm

bảo sự thành công cho mô hình PPP nói chung và mô hình PPP trong đầu tư phát

triển các bệnh viện công nói riêng, cần hội đủ hai yếu tố cơ bản sau: “hợp đồng

hiệu quả” để tăng giá trị vốn đầu tư và “môi trường thuận lợi” để quản lý PPP,

trong đó một trong những nội dung cơ bản nhất của nhân tố môi trường chính là

khung thể chế, pháp lý đầy đủ và ổn định. Điều này sẽ góp phần giảm chi phí giao

dịch, tăng tính minh bạch cho các mô hình PPP và khuyến khích các nhà đầu tư tư

nhân tham gia tích cực hơn.

Trên cơ sở tiếp thu thông lệ quốc tế, đáp ứng các tiêu chí về hiệu quả kinh

tế, minh bạch, phân chia trách nhiệm, quản lý rủi ro hợp lý, đảm bảo lợi ích hài

hòa giữa nhà nước và tư nhân để từ đó nhà nước sẽ xây dựng khung chính sách

PPP hợp lý đối với các dự án nhằm khuyến khích mô hình PPP ngày càng được áp

dụng nhiều hơn.

Nhà nước hỗ trợ tư nhân về mặt chính trị từ tầm cao và quản trị tốt, đảm

bảo rằng chính phủ sẽ thực hiện các cam kết của mình dưới hình thức PPP. Hợp

đồng ký kết giữa chính quyền và nhà đầu tư cần rõ ràng, minh bạch là điều kiện

tiên quyết để chính quyền đảm bảo quyền lợi của nhà đầu tư và là cơ sở cho chính

quyền tận dụng hiệu quả nhất tính năng động và cạnh tranh của khu vực tư nhân,

góp phần tiết kiệm chi phí.

Kết luận chương 3:

Trên đây, tác giả đã trình bày một số mô hình hợp tác nhà nước – tư nhân

phù hợp với việc đầu tư phát triển các cơ sở y tế thành phố. Tuy nhiên, để có thể

đưa những mô hình trên vào thực tiễn thì cần phải tiếp tục thực hiện một loạt các

nghiên cứu khác (đặt trong một dự án cụ thể) về thẩm định dự án, phân tích chi

tiết về lợi ích – chi phí, các vấn đề pháp lý có liên quan, từ đó so sánh và lựa chọn

phương án tối ưu.

69

KẾT LUẬN

Mô hình hợp tác nhà nước – tư nhân không những giúp cho nhà nước đỡ

phải chi những chi phí đầu tư, sửa chữa, bảo quản cho các cơ sở y tế nhà nước mà

mô hình này còn giúp cho người dân được hưởng chất lượng dịch vụ y tế tốt hơn.

Điều này cũng đồng thời giúp cho nhà nước giải quyết nhu cầu vốn đầu tư cho các

cơ sở y tế nhà nước mà không phải làm tăng các khoản nợ công, không phải làm

tăng gánh nặng cho Chính phủ.

Các hình thức PPP còn khá mới đối với Việt Nam. Trong bối cảnh nước ta

đang còn phải tiếp tục đối diện với rất nhiều khó khăn, thách thức về tăng trưởng

kinh tế và xóa đói giảm nghèo, PPP là một trong những giải pháp phù hợp cho bài

toán về nhu cầu vốn đầu tư phát triển y tế Việt Nam nói chung và đặc biệt là đầu

tư cho ngành y tế TP.HCM. Do đó, chúng ta phải khẳng định rằng mô hình hợp

tác nhà nước – tư nhân là xu thế tất yếu mà chúng ta phải thực hiện trong giai

đoạn hiện nay.

Thực tế cho thấy, các nước đi trước dù là nước phát triển cũng không tránh

khỏi thất bại trong giai đoạn đầu thực hiện PPP. Tuy nhiên, sự quyết tâm thực

hiện PPP cộng với tinh thần thẳng thắn nhìn vào thất bại để rút kinh nghiệm, từng

bước điều chỉnh, hoàn thiện khung pháp lý thì nhất định Việt Nam sẽ đạt được

thành công. Và khi đó PPP sẽ là một trong các giải pháp quan trọng nhất để huy

động các nguồn lực xã hội cho đầu tư phát triển y tế thành phố Hồ Chí Minh.

70

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng Việt

1. ADB (2006), Tài liệu Hội thảo về PPP tại Việt Nam, tháng 10/2006.

2. Chính phủ, Quyết định số 30/2008/QĐ-TTg ngày 22/02/2008 của Chính

phủ về Quy hoạch mạng lưới khám, chữa bệnh đến năm 2010 và tầm nhìn

đến năm 2020.

3. Quyết định số 71/2010/QĐ-TTg ngày 09/11/2010 về việc ban hành quy chế

thí điểm đầu tư theo hình thức đối tác công – tư.

4. Joseph Eugene Stiglitz (1995), Kinh tế học công cộng, NXB. Khoa học Kỹ

thuật.

5. Sử Đình Thành, Bùi Thị Mai Hoài (2009), Lý thuyết Tài Chính Công,

NXB.Đại học Quốc gia TP.HCM, trang 1-3.

6. Viện Nghiên cứu phát triển, Cục thống kê TP.Hồ Chí Minh (2008), Báo cáo

kết quả khảo sát về chỉ số hài lòng của người dân về dịch vụ công.

7. World Bank (2008), Báo cáo Phát triển Việt Nam 2009, Huy động và sử

dụng vốn.

Tiếng Anh

8. Canada (1999), Public Private Partnership A Guide for Local Government.

9. ADB (2006), The Indian Experience with PPPs Government Initiatives.

10. ADB (2008), Knowledge Sharing on Infrastructure PPPs in Asia.

11. WB (2007), PPP Units – Lessons for their Design and Use in Infrastructure.

12. WB (2008), Public Private Partnership in Infrastructure Days 2008, USA.

71

Các website

13. www.chinhphu.vn (của Chính phủ nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt

Nam).

14. www.gso.gov.vn (của Tổng cục Thống kê Việt Nam).

15. www.hochiminhcity.gov.vn (của Thành phố Hồ Chí Minh).

16. www.medinet.hochiminhcity.gov.vn (của Sở Y tế TP. Hồ Chí Minh).

17. www.moh.gov.vn (của Bộ Y Tế Việt Nam).

18. www.mpi.gov.vn (của Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam).

19. www.partnershipsuk.org.uk (của Cơ quan hợp tác Anh Quốc).

20. www.ppp.gov.za (của Bộ Tài chính Nam Phi).

21. www.pso.hochiminhcity.gov.vn (của Cục Thống kê TP. Hồ Chí Minh).

72

PHỤ LỤC

BẢNG KHẢO SÁT

Mục đích nghiên cứu: Thu thập chỉ số hài lòng của nhân viên y tế về chất

lượng dịch vụ y tế tại các cơ sở khám chữa bệnh TP.HCM.

Cách trả lời: quý vị vui lòng đánh dấu x vào các câu trả lời đã liệt kê mà

quý vị cho là hợp lý nhất. Đối với câu hỏi mở, quý vị vui lòng điền ý kiến vào chỗ

trống.

Xin trân thành cảm ơn sự tham gia và đóng góp ý kiến quý báu của quý vị.

PHẦN 1: THÔNG TIN CHUNG

1. Quý vị đã làm việc trong ngành y:

( ) dưới 5 năm ( ) từ 5 – 10 năm ( ) trên 10 năm

2. Chức danh:

( ) Bác sĩ ( ) Điều dưỡng ( ) Nhân viên khác

3. Trình độ nghiệp vụ:

( ) Trên đại học ( ) Đại học ( ) khác

PHẦN 2: CÁC CÂU HỎI

1. Cơ sở vật chất:

( ) Tốt ( ) Trung bình ( ) Chưa tốt

2. Kỹ thuật công nghệ:

( ) Tốt ( ) Trung bình ( ) Chưa tốt

3. Đầu tư máy móc thiết bị:

( ) Tốt ( ) Trung bình ( ) Chưa tốt

73

4. Mức lương:

( ) Phù hợp ( ) Trung bình ( ) Chưa phù hợp

5. Thời gian hoàn thành công việc:

( ) Phù hợp ( ) Trung bình ( ) Chưa phù hợp

6. Chất lượng công việc:

( ) Tốt ( ) Trung bình ( ) Chưa tốt

7. Bố trí hệ thống, quy trình làm việc:

( ) Tốt ( ) Trung bình ( ) Chưa tốt

8. Chi phí khám bệnh:

( ) Phù hợp ( ) Trung bình ( ) Chưa phù hợp

9. Môi trường làm việc:

( ) Tốt ( ) Trung bình ( ) Chưa tốt

10. Đầu tư nâng cao trình độ nhân viên:

( ) Tốt ( ) Trung bình ( ) Chưa tốt

74

BẢNG KẾT QUẢ KHẢO SÁT

STT CÁC CHỈ SỐ TỐT BÌNH THƯỜNG CHƯA TỐT TỔNG CỘNG

1 Cơ sở vật chất 92 6 2 100

2 Kỹ thuật công nghệ 91 8 1 100

3 Đầu tư máy móc thiết bị 86 9 5 100

4 Mức lương 85 14 1 100

5 Thời gian hoàn thành công việc 89 8 3 100

6 Chất lượng công việc 99 1 0 100

7 Bố trí hệ thống, quy trình làm việc 92 6 2 100

8 Chi phí khám bệnh 40 23 37 100

9 Môi trường làm việc 87 11 2 100

10 Đầu tư nâng cao trình độ nhân viên 64 32 4 100

BẢNG KHẢO SÁT

Mục đích nghiên cứu: Thu thập chỉ số hài lòng của người dân về chất

lượng dịch vụ y tế tại các cơ sở khám chữa bệnh TP.HCM.

Cách trả lời: quý vị vui lòng đánh dấu x vào các câu trả lời đã liệt kê mà

quý vị cho là hợp lý nhất. Đối với câu hỏi mở, quý vị vui lòng điền ý kiến vào chỗ

trống.

Xin trân thành cảm ơn sự tham gia và đóng góp ý kiến quý báu của quý vị.

PHẦN 1: THÔNG TIN CHUNG

1. Số lần đi khám:

( ) lần đầu ( ) từ 2 – 5 lần ( ) trên 5 lần

75

2. Nghề nghiệp:

( ) buôn bán ( ) công nhân viên ( ) khác

PHẦN 2: CÁC CÂU HỎI

1. Thời gian chờ khám:

( ) dưới 30 phút ( ) từ 30 – 60 phút ( ) trên 60 phút

2. Thái độ phục vụ của nhân viên y tế:

( ) tốt ( ) bình thường ( ) chưa tốt

3. Thủ tục giấy tờ khám chữa bệnh:

( ) tốt ( ) bình thường ( ) chưa tốt

4. Cảm nhận được chẩn đoán đúng bệnh:

( ) tốt ( ) bình thường ( ) chưa tốt

5. Chất lượng phòng, giường bệnh:

( ) tốt ( ) bình thường ( ) chưa tốt

6. Chi phí khám chữa bệnh:

( ) cao ( ) bình thường ( ) thấp

7. Máy móc thiết bị y tế:

( ) tốt ( ) bình thường ( ) chưa tốt

8. Cơ sở vật chất:

( ) tốt ( ) bình thường ( ) chưa tốt

9. Kỹ thuật công nghệ:

( ) tốt ( ) bình thường ( ) chưa tốt

10. Trình độ bác sĩ:

( ) tốt ( ) bình thường ( ) chưa tốt

76

BẢNG KẾT QUẢ KHẢO SÁT

STT CÁC CHỈ SỐ TỐT BÌNH THƯỜNG CHƯA TỐT TỔNG CỘNG

1 Thời gian chờ khám 22 31 47 100

2 Thái độ phục vụ của nhân viên y tế 60 35 5 100

3 Thủ tục giấy tờ khám chữa bệnh 85 3 12 100

4 Cảm nhận được chẩn đoán đúng bệnh 86 10 4 100

5 Chất lượng phòng, giường bệnh 71 9 20 100

6 Chi phí khám chữa bệnh 70 21 9 100

7 Máy móc thiết bị y tế 79 15 6 100

8 Cơ sở vật chất 69 22 9 100

9 Kỹ thuật công nghệ 78 15 7 100

10 Trình độ bác sĩ 83 15 2 100