ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN

___________________

Hoàng Thị Ái Xuân

THỬ NGHIỆM LÂM SÀNG NHÃN MỞ, ĐƠN NHÓM,

ĐÁNH GIÁ TÍNH AN TOÀN VÀ HIỆU QUẢ CỦA LIỆU PHÁP ỨNG DỤNG TẾ BÀO GỐC TRUNG MÔ TỰ THÂN TỪ TỦY XƯƠNG TRONG ĐIỀU TRỊ ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TÍP 2

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC

Hà Nội -2019

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN

____________________

Hoàng Thị Ái Xuân

THỬ NGHIỆM LÂM SÀNG NHÃN MỞ, ĐƠN NHÓM, ĐÁNH GIÁ TÍNH AN TOÀN VÀ HIỆU QUẢ CỦA LIỆU PHÁP ỨNG DỤNG TẾ BÀO GỐC TRUNG MÔ TỰ THÂN TỪ TỦY XƯƠNG TRONG ĐIỀU TRỊ ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TÍP 2

Chuyên ngành : Sinh học thực nghiệm

Mã số

: 8420101.14

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

GS.TS. NGUYỄN THANH LIÊM

PGS.TS. HOÀNG THỊ MỸ NHUNG

Hà Nội - 2019

LỜI CẢM ƠN

Lời đầu tiên, tôi xin bày tỏ sự biết ơn chân thành và sâu sắc tới GS.TS.BS.

Nguyễn Thanh Liêm - Viện trưởng Viện nghiên cứu Tế bào gốc và Công nghệ Gen

Vinmec - Bệnh viện Đa khoa quốc tế Vinmec là người đã định hướng tôi trong

nghiên cứu này. Thầy đã tận tình hướng dẫn, dạy bảo cho tôi những hiểu biết trong

lĩnh vực nghiên cứu chuyên sâu về thử nghiệm lâm sàng, ứng dụng tế bào gốc trong

trị liệu và tạo những điều kiện thuận lợi để tôi hoàn thành nghiên cứu một cách tốt

nhất.

Tôi xin chân thành cảm ơn tới PGS.TS. Hoàng Thị Mỹ Nhung – Trưởng Bộ

môn Sinh học tế bào, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Hà Nội

là giảng viên đồng hướng dẫn của tôi. Cô đã dạy dỗ, giúp đỡ, đưa ra những lời

khuyên và góp ý quan trọng cho tôi trong suốt quá trình học tập để tôi hoàn thành

luận văn này.

Tôi cũng xin chân thành cảm ơn đến TS. Hoàng Minh Đức, người đã hướng

dẫn tôi những ngày đầu tiên làm việc trên labo, dạy tôi những kiến thức cơ bản

về Tế bào học tại phòng thí nghiệm của Viện nghiên cứu Tế bào gốc và Công nghệ

Gen Vinmec, và đồng hành cùng tôi trong suốt quá trình thực hiện luận văn thạc

sỹ.

Để hoàn thành luận văn này, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới các anh

chị, bạn bè đồng nghiệp tại Viện nghiên cứu Tế bào gốc và Công nghệ Gen Vinmec

và Khoa Sinh, Đại học khoa học tự nhiên đã giúp đỡ, chỉ dẫn, khuyên bảo tôi

trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu để tôi có thể hoàn thành luận văn một

cách thuận lợi nhất.

Cuối cùng tôi muốn gửi lời biết ơn sâu sắc của mình tới gia đình, anh chị,

bạn bè đã luôn sát cánh bên tôi, động viên tôi, tiếp thêm cho tôi sức mạnh trong

những lúc tôi gặp khó khăn trong cuộc sống cũng như trong học tập để tôi luôn

vững vàng bước trên con đường mình đã chọn.

Hà Nội, ngày 06 tháng 11 năm 2019

Người viết lời cảm ơn

Hoàng Thị Ái Xuân

MỤC LỤC

ĐẶT VẤN ĐỀ........................................................................................................................................... 1 Chương 1:TỔNG QUAN...................................................................................................................... 3 1.1. BỆNH ĐÁI THÁO ĐƯỜNG..................................................................................................3 1.1.1. Định nghĩa đái tháo đường......................................................................................3 1.1.2. Phân loại đái tháo đường.........................................................................................3 1.1.3. Dịch tễ học đái tháo đường......................................................................................3 1.1.4. Cơ chế bệnh sinh của đái tháo đường típ 2.......................................................4 1.1.5. Biến chứng của đái tháo đường típ 2..................................................................8 1.1.6. Điều trị đái tháo đường típ 2...................................................................................8 1.2. TẾ BÀO GỐC........................................................................................................................... 11 1.2.1. Định nghĩa tế bào gốc..............................................................................................11 1.2.2. Tế bào gốc trung mô................................................................................................. 12 1.2.3. Tế bào gốc trung mô từ tủy xương....................................................................14 1.3. ỨNG DỤNG CỦA TẾ BÀO GỐC TRUNG MÔ TRONG ĐIỀU TRỊ BỆNH ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TÍP 2.......................................................................................................... 15 1.3.1. Cơ sở lý luận của phương pháp ghép tế bào gốc trên bệnh nhân đái tháo đường típ 2........................................................................................................ 15 1.3.2. Đặc điểm tế bào gốc trung mô trong bệnh lý đái tháo đường típ 2.....20 1.3.3. Ứng dụng của tế bào gốc trung mô trong điều trị đái tháo đường típ 221 1.3.4. Phản ứng phụ, tác dụng bất lợi của liệu pháp ghép tế bào gốc.............25 Chương 2: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.............................................27 2.1. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU..............................................................................................27 2.1.1. Cỡ mẫu............................................................................................................................ 27 2.1.2. Tiêu chuẩn lựa chọn bệnh nhân..........................................................................27 2.2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.......................................................................................28 2.2.1. Thiết kế nghiên cứu..................................................................................................28 2.2.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu......................................................................28

2.2.3. Quy trình nghiên cứu................................................................................................ 28 2.2.4. Chỉ số nghiên cứu....................................................................................................... 32 2.2.5. Thiết bị, hóa chất, vật tư tiêu hao.......................................................................34 2.2.6. Đạo đức trong nghiên cứu.....................................................................................36 2.2.7. Phân tích dữ liệu........................................................................................................ 36 Chương 3: KẾT QUẢ - BÀN LUẬN...............................................................................................37

3.1. ĐẶC ĐIỂM CHUNG CỦA BÊNH NHÂN THAM GIA NGHIÊN CỨU...............................37

3.2. ĐẶC ĐIỂM TẾ BÀO GỐC TRUNG MÔ TỪ TỦY XƯƠNG CỦA BỆNH

NHÂN ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TÍP 2..............................................................................40

3.2.1. Kết quả phân lập và nuôi cấy tăng sinh tế bào gốc trung mô từ tủy

xương của bệnh nhân đái tháo đường típ 2...................................................40

3.2.2. Đánh giá chất lượng tế bào gốc trung mô từ tủy xương của bệnh

nhân đái tháo đường típ 2.....................................................................................41

3.3. KẾT QUẢ GHÉP TẾ BÀO GỐC..........................................................................................50

3.3.1. Đánh giá tính an toàn của việc áp dụng các quy trình ghép tế bào gốc

tủy xương tự thân điều trị đái tháo đường típ 2.........................................50

3.3.2. Đánh giá hiệu quả sau ghép tế bào gốc............................................................52

KẾT LUẬN............................................................................................................................................. 65

KHUYẾN NGHỊ.................................................................................................................................... 66

TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHỤ LỤC

VIẾT TẮT

Tiếng Việt

Từ viết tắt 18F-FDG AD-MSC Tiếng Anh Fluorine 18-Fluorodeoxyglucose Adipose-Derived Mesenchymal Tế bào gốc trung mô từ mô mỡ

Stem Cells Body Mass Index Bone marrow –Derived Chỉ số khối cơ thể Tế bào gốc trung mô từ tủy BMI BM-MSC

Mesenchymal Stem Cells Diabetic Ketoacidosis

xương Hôn mê nhiễm toan ceton Bệnh Đái tháo đường Bệnh Đái tháo đường tuýp 1 Bệnh Đái tháo đường tuýp 2 Tế bào tiền thân nội mô Đường huyết tĩnh mạch lúc đói

Endothelial Progenitor Cell Fasting Plasma Glucose Hemoglobin A1C Hyperbaric Oxygen Hyperosmolar Hyperglycemic Hôn mê tăng áp lực thẩm thấu DKA ĐTĐ ĐTĐ T1 ĐTĐ T2 EPC FPG HbA1C HBO HHS

HIV/AIDS Syndrome Human immunodeficiency virus Virut gây suy giảm miễn dịch ở

infection / acquired người/ Hội chứng suy giảm

immunodeficiency syndrome Hyperbaric Oxygen therapy International Diabetes miễn dịch mắc phải ở người Liệu pháp oxy liều cao Liên đoàn đái tháo đường thế giới HOT IDF

Federation (Insulin-like Growth Factor -1), Yếu tố tăng trưởng giống IGF-1

IPTR International Pancreas insulin Cơ quan đăng ký cấy ghép tụy

Transplant Registry (IPTR) International System for Human quốc tế Hệ thống di truyền tế bào học ISCN

Cytogenetic Nomenclature International Society for Cellular người Hiệp hội quốc tế về liệu pháp tế ISCT

bào

Therapy Micro RNA Messenger RNA Mesenchymal stem cells Passage Positron Emission Tomography Mitotic phase ARN thông tin Tế bào gốc trung mô Lần cấy chuyển Ghi hình cắt lớp Positron Pha phân chia miRNA, mRNA MSC P PET Pha M

STEPwise Điều tra quốc gia yếu tố nguy cơ

VEGF vascular endothelial growth bệnh không lây nhiễm Yếu tố tăng trưởng nội mạc

β-FGF factor β-Fibroblast Growth Factor mạch máu Yếu tố tăng trưởng nguyên bào sợi

DANH MỤC BẢNG

Bảng 1.1. Cơ chế phân tử của kháng insulin.........................................................................5

Bảng 1.2. Một số các thử nghiệm lâm sàng ứng dụng tế bào gốc trung mô trong

điều trị đái tháo đường típ 2................................................................................23

Bảng 2.1. Hóa chất sử dụng trong nghiên cứu..................................................................34

Bảng 2.2. Thiết bị sử dụng trong nghiên cứu.....................................................................35

Bảng 2.3. Vật tư tiêu hao sử dụng trong nghiên cứu.....................................................35

Bảng 3.1. Đặc điểm chung của bệnh nhân tham gia nghiên cứu..............................37

Bảng 3.2. Kết quả tế bào thu được của quá trình thu thập, phân lập và nuôi cấy

tăng sinh tế bào gốc trung mô từ tủy xương của bệnh nhân đái tháo

đường típ 2................................................................................................................... 40

Bảng 3.3. Kết quả theo dõi bệnh nhân 72 giờ sau ghép trên hai nhóm bệnh nhân

truyền động mạch và tĩnh mạch.........................................................................50

Bảng 3.4. Đánh giá các chỉ số cận lâm sàng cơ bản sau 6 tháng..............................51

Bảng 3.5. Đánh giá số lượng bệnh nhân có đáp ứng điều trị theo mức giảm

HbA1C theo hai đường truyền tĩnh mạch và động mạch sau 6 tháng57

Bảng 3.6. Các chỉ số theo dõi sau ghép của bệnh nhân nam, 33 tuổi sau 6 tháng

ghép tế bào gốc trung mô tự thân từ tủy xương.........................................58

Bảng 3.7. Các chỉ số theo dõi sau ghép của bệnh nhân nam, 67 tuổi. sau 6 tháng

ghép tế bào gốc trung mô tự thân từ tủy xương.........................................60

Bảng 3.8. Các chỉ số theo dõi sau ghép của bệnh nhân nam, 37 tuổi sau 6 tháng

ghép tế bào gốc trung mô tự thân từ tủy xương.........................................61

Bảng 3.9. Các chỉ số theo dõi sau ghép của bệnh nhân nam, 33 tuổi sau 6 tháng

ghép tế bào gốc trung mô tự thân từ tủy xương.........................................62

DANH MỤC HÌNH

Hình 1.1. Mô hình tiếp nhân tín hiệu insulin trong giảm nồng độ glucose máu.....5

Hình 1.2. Hoạt động của các tế bào tại đảo tụy trong duy trì nồng độ glucose huyết....7

Hình 1.3. Sơ đồ lựa chọn thuốc và phương pháp điều trị đái tháo đường típ 2.. 10

Hình 1.4. Nguồn tế bào gốc trung mô trưởng thành và các loại tế bào mà chúng

có thể biệt hóa .............................................................................................................. 12

Hình 1.5. Tiềm năng biệt hóa của tế bào gốc trung mô..................................................13

Hình 1.6. Cơ sở lý luận của phương pháp ghép tế bào gốc trên bệnh nhân đái

tháo đường típ ............................................................................................................. 16

Hình 2.1. Sơ đồ nghiên cứu......................................................................................................... 28

Hình 3.1. Đặc điểm hình thái học của tế bào gốc trung mô từ tủy xương của bệnh

nhân đái tháo đường típ 2 khi nuôi cấy trong môi trường không chứa

huyết thanh (Serum-free) và không chứa các chất từ động vật (xeno-free)

............................................................................................................................................. 42

Hình 3.2. Thời gian nhân đôi của tế bào gốc trung mô từ tủy xương ở bệnh nhân

đái tháo đường típ 2..................................................................................................43

Hình 3.3. Đánh giá biểu hiện dấu ấn bề mặt tế bào gốc trung mô từ tủy xương

của bệnh nhân mắc đái tháo đường típ 2 tại thời điểm cấy chuyển số 3

và số 7 bằng phương pháp đếm tế bào theo dòng chảy.............................46

Hình 3.4. Khả năng biệt hóa đa dòng của tế bào gốc trung mô từ tủy xương của

bệnh nhân đái tháo đường típ 2 - nam, 37 tuổi tại giai đoạn cấy

chuyển số 3 thành tế bào mỡ, xương và sụn....................................................48

Hình 3.5. Hình ảnh bộ nhiễm sắc thể người 46, XY tại giai đoạn cấy chuyển số 3

trên tế bào gốc trung mô từ tủy xương của bệnh nhân đái tháo đường

típ 2 - nam, 33 tuổi bằng phương pháp nhuộm D-Band nhiễm sắc thể.

............................................................................................................................................. 48

Hình 3.6. Kết quả theo dõi nồng độ FPG của bệnh nhân sau 6 tháng.......................53

Hình 3.7. Độ giảm FPG tại các thời điểm theo dõi sau ghép tế bào gốc ở hai

nhóm tĩnh mạch và động mạch sau ghép 6 tháng........................................53

Hình 3.8. Kết quả theo dõi nồng độ HbA1C của bệnh nhân sau ghép 6 tháng......55

Hình 3.9. Độ giảm HbA1C tại các thời điểm theo dõi sau ghép tế bào gốc theo hai

đường truyền tĩnh mạch và động mạch............................................................56

ĐẶT VẤN ĐỀ

Bệnh đái tháo đường (ĐTĐ) là bệnh rối loạn chuyển hóa không đồng nhất,

có đặc điểm tăng glucose huyết do khiếm khuyết về insulin, về tác động của

insulin, hoặc cả hai. Tăng gluocose mạn tính trong thời gian dài gây nên những

rối loạn chuyển hóa đường, protit, lipit, gây tổn thương ở nhiều cơ quan khác

nhau, đặc biệt ở tim, mạch máu, thận, mắt, và thần kinh [3]. Trong khi ĐTĐ típ 1

(ĐTĐ T1) có nguyên nhân xuất phát từ sự phá hủy tế bào beta tụy do miễn dịch tự

miễn ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình sản xuất insulin thì ĐTĐ típ 2 (ĐTĐ T2) lại

do sự giảm chức năng của tế bào beta tụy tiến triển trên nền tảng kháng insulin

(Insulin Resistance) mà có thể do rất nhiều nguyên nhân khác nhau [1]. Thực

trạng cho thấy trên thế giới tỷ lệ ĐTĐ T2 đang tăng nhanh ở hầu hết các nước, dự

kiến đến năm 2040 trên thế giới số người mắc ĐTĐ sẽ tăng từ 415 (2015) lên đến

642 triệu người [56]. Tại Việt Nam, theo kết quả điều tra STEPwise về các yếu tố

nguy cơ của bệnh không lây nhiễm do Bộ Y tế thực hiện năm 2015, ở nhóm tuổi từ

18 – 69, cho thấy tỷ lệ ĐTĐ toàn quốc là 4,1%, tiền ĐTĐ là 3,6% [112]. Các phương

pháp kết hợp thuốc và lối sống lành mạnh đã cho thấy những hiệu quả trong việc

kiểm soát đường huyết tĩnh mạch cho các bệnh nhân mắc ĐTĐ T2, tuy nhiên một

thực tế là các bệnh nhân đều phải điều trị kéo dài và đối mặt với các nguy cơ về

biến chứng mạch máu và thần kinh [18], [21], [35]. Chính vì vậy, việc ứng dụng y

học tái tạo với mục đích phục hồi và kích thích khả năng tái tạo khối tế bào tụy là

một hướng điều trị mới hứa hẹn sẽ mang lại hiệu quả duy trì đường huyết ổn định

cho các bệnh nhân mắc ĐTĐ T2 [89]. Trong khi việc ghép tụy còn nhiều hạn chế

với nguồn tụy khan hiếm và những đòi hỏi về mặt kĩ thuật cao thì một số nghiên

cứu thử nghiệm lâm sàng trên thế giới trong việc ứng dụng liệu pháp tế bào gốc để

điều trị cho các bệnh nhân ĐTĐ T2 đã mang lại những hiệu quả ban đầu, đặc biệt

trong việc kiểm soát đường huyết tĩnh mạch lúc đói (Fasting Plasma Glucose -

FPG), giảm nồng độ HbA1C (Hemoglobin A1C) và giảm đáng kể lượng thuốc phải

sử dụng cho bệnh nhân [10], [89], [100], [118]. Với những tiềm năng mà liệu pháp

1

tế bào này mang lại, chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu đề tài: “Ứng dụng tế bào

gốc trung mô tự thân từ tủy xương trong điều trị bệnh đái tháo đường típ

2” với các mục tiêu sau:

1. Đánh giá một số đặc điểm tế bào gốc trung mô tự thân từ tủy xương tự

thân của các bệnh nhân mắc đái tháo đường típ 2.

2. Đánh giá tính an toàn của liệu pháp ghép tế bào gốc trung mô tự thân

trong điều trị bệnh đái tháo đường típ 2 và sự thay đổi một số chỉ sổ cận

lâm sàng bao gồm: nồng độ đường huyết lúc đói (FPG) và HbA1C.

2

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN

1.1. BỆNH ĐÁI THÁO ĐƯỜNG

1.1.1. Định nghĩa đái tháo đường

ĐTĐ là bệnh rối loạn chuyển hóa không đồng nhất, có đặc điểm tăng glucose

huyết do khiếm khuyết về tiết insulin của tế bào bêta tụy, về tác động của insulin tại

các mô cơ quan, hoặc cả hai. Tăng glucose mạn tính trong thời gian dài gây nên

những rối loạn chuyển hóa đường, protit, lipit, gây tổn thương ở nhiều cơ quan

khác nhau, đặc biệt ở tim ,mạch máu, thận, mắt và thần kinh [3].

1.1.2. Phân loại đái tháo đường

Phân loại bệnh ĐTĐ bao gồm: ĐTĐ T1, ĐTĐ T2, ĐTĐ thai kì và một số típ khác.

Trong đó ĐTĐ T2 thường được gọi là ĐTĐ không phụ thuộc insulin, chiếm trên 90%

tổng số bệnh nhân ĐTĐ, đặc điểm chính là kháng insulin dẫn đến thiếu hụt insulin

tương đối và giảm sản xuất insulin [1].

1.1.3. Dịch tễ học đái tháo đường

Theo Liên đoàn Đái tháo đường Thế giới (International Diabetes Federation

IDF), năm 2015 toàn thế giới có 415 triệu người trong độ tuổi 20-79 bị bệnh (ĐTĐ),

ước tính đến năm 2040 con số này sẽ là 642 triệu. Bên cạnh đó, do chế độ dinh

dưỡng, lối sống không hợp lý nên bệnh ĐTĐ T2 đang có xu hướng tăng và trở thành

vấn đề sức khỏe cộng đồng nghiêm trọng [56].

Tại Việt Nam, năm 1990, tỷ lệ ĐTĐ ở Hà Nội là 1,1%, thành phố Hồ Chí Minh là

2,25%, Huế là 0,96%. Năm 2003, trên toàn quốc, tỷ lệ rối loạn dung nạp glucose là

7,3%, rối loạn đường huyết lúc đói là 1,9%. Nghiên cứu năm 2012 của Bệnh viện

Nội tiết Trung Ương cho thấy tỷ lệ hiện mắc ĐTĐ ở người trưởng thành là 5,42%,

chưa được chẩn đoán trong cộng đồng là 63,6% [63]. Theo kết quả điều tra

STEPwise về các yếu tố nguy cơ của bệnh không lây nhiễm do Bộ Y tế thực hiện năm

2015, ở nhóm tuổi từ 18-69, cho thấy tỷ lệ ĐTĐ toàn quốc là 4,1%, tiền ĐTĐ là 3,6 %

[112].

1.1.4. Cơ chế bệnh sinh của đái tháo đường típ 2

Kháng insulin (Insulin resistance)

Như đã trình bày ở phần 1.1.2, đặc điểm chính của ĐTĐ T2 là sự kháng

insulin dẫn đến thiếu hụt insulin tương đối và giảm sản xuất insulin. Insulin là một

hormone được tiết ra bởi các tế bào bêta của tuyến tụy giúp duy trì sự cân bằng

hàm lượng glucose trong máu. Thuật ngữ “kháng insulin” đề cập đến việc giảm

phản ứng trao đổi chất đáp ứng với insulin của tế bào đích, hoặc ở cấp độ toàn bộ

cơ thể, làm sự giảm tác dụng hạ đường huyết của insulin lưu thông hay được tiêm

vào. Sự truyền tín hiệu insulin rất phức tạp, liên quan đến nhiều enzyme và protein

điều hòa khác nhau, bất kỳ khiếm khuyết nào trong biểu hiện chức năng của các tác

nhân này có thể làm giảm tín hiệu insulin bình thường dẫn đến IR trong các mô

ngoại biên. Czech MP (2017) đã đề xuất một ô hình nghiên cứu về việc tiếp nhận các

tín hiệu insulin thông qua thụ thể insulin trên bề mặt tế bào cho phép dẫn đến hàng

loạt các tín hiệu nội bào nhằm kích hoạt sử dụng kênh GLUT 4 tại cơ xương và mô

mỡ đồng thời ức chế quá trình tạo mới glucoso (gluconeogenesis) tại gan giúp làm

giảm glucose huyết (Hình 1.1). Các yếu tố liên quan hoạt hóa (mũi tên màu đen)

hay ức chế (đường gạch đỏ) cho phép duy trì được khả năng điều hòa các tín hiệu

insulin [26].

Kháng insulin trong tế bào gan làm tăng mức glucose trong huyết tương do

giảm tổng hợp glycogen. Hiệu ứng này được kết hợp bởi sự giảm hấp thụ glucose của

cơ xương và tế bào mỡ. Mặc dù sinh lý bệnh chính xác của IR không rõ ràng, các

khiếm khuyết trong việc truyền tín hiệu insulin đóng vai trò nổi bật (Bảng 1.1) bao

gồm: (1) việc điều chỉnh Protein‐Tyrosine Phosphatase 1B (PTP1B), (2) các phản ứng

viêm và adipokine, (3) sự quá tải gốc tự do,( 4) các khiếm khuyết trong phosphoryl

hóa serine của IRS-1, (5) rối loạn chức năng ty thể, (6) giảm hoạt động của thụ thể

để liên kết với insulin, (7) đột biến của GLUT 4, (8) căng thẳng trong mạng lưới nội

chất (Endoplasmic Reticulum Stress) [117].

Hình 1.1. Mô hình tiếp nhân tín hiệu insulin trong giảm nồng độ glucose máu.

Sự liên kết của insulin với thụ thể của nó sẽ hoạt hóa phần nội bào có hoạt tính

enzyme tyrosine kinaza của thụ thể. Đây là vùng có chức năng photphoryl hóa các axit

amin tyrosine của protein IRS (protein cơ chất của thụ thể insulin – Insuline Receptor

Substrate Protein). Sau khi được photphoryl hóa, các tyrosin của IRS sẽ hoạt động như

các vị trí neo giữ các tiểu đơn vị điều hòa p85 của enzyme kinaza p85/p110 PI-3 tại

màng tế bào. Điều này dẫn đến sự hình thành phức hệ PtdIns3,4,5P3 (phospholipid

phosphatidyl 3,4,5 phosphate ) từ PtdIns 4,5 P2 trên màng tế bào, tạo điều kiện cho sự

gia nhập và tương tác giữa protein kinaza PDK1 và Akt, dẫn đến sự photphory hóa (và

hoạt hóa) tại vị trí threonine 308 trên phân tử Akt. Sự hoạt hóa hoàn toàn Akt còn phụ

thuộc vào sự photphoryl hóa tiếp theo bởi enzyme kinaza thứ hai là mTORC2. Sau khi

Akt được hoạt hóa hoàn toàn sẽ tham gia vào sự điều hóa cân bằng nội môi glucose

thông quan sự vận chuyển glucose đến tế bào mỡ và cơ xương, sự ức chế tái tạo mới

glucose tại gan, cũng như quá trình hoạt hóa sự sinh tổng hợp lipit tại gan [26]

Bảng 1.1. Cơ chế phân tử của kháng insulin [117]

Vai trò trong kháng insulin Đảo ngược quá trình phosphoryl hóa axit amin tyrosin trên

Cơ chế phân tử Tăng cường hoạt tính của enzyme PTP1B

(Protein‐Tyrosine Phosphatase 1B)

phân tử của IRS ‐ 1 (Insulin Receptor Subsrate-1) cảm ứng bởi sự liên kết với insulin và do đó làm suy yếu sự truyền tín hiệu insulin. Kích hoạt các con đường IKKβ / NF B và JNK, photphoryl

hóa IRS ‐ 1 tại vị trí serin 307, giảm biểu hiện GLUT ‐ 4,

Phản ứng viêm và adipokine

giảm biểu hiện IRS ‐ 1 qua ERK1 / 2, gây phân hủy IRS thông qua cơ chế phụ thuộc SOCS1 và SOCS3 Kích hoạt một số con đường thuộc nhóm kinaza serine threonine, ví dụ như IKKβ / NF B và JNK phân hủy IRS, ức chế biểu hiện và định vị trên màng tế bào của GLUT 4, làm Quá tải gốc tự do giảm sự dịch chuyển vị trí của IRS ‐ 1 và kinaza PIP ‐ kinase,

Khiếm khuyết trong photphoryl hóa serine

của IRS ‐ 1

Béo phì phosphoryl hóa serine tại vị trí serine 307 của IRS ‐ 1, kích hoạt các phản ứng viêm. Giảm photphoryl hóa thụ thể insulin, phosphoryl hóa serine tại vị trí 307, ngăn chặn tín hiệu insulin dẫn đến ngăn chặn tín hiệu insulin. Hoạt hóa các kinaza serine threonine,gây viêm và làm suy yếu tín hiệu insulin.

Giảm số lượng thụ thể insulin, giảm thụ thể chức năng do đột biến, tự miễn kháng thể chống thụ thể insulin. Rối loạn chức năng ty thể Thúc đẩy căng thẳng oxy hóa, làm suy yếu tín hiệu insulin. Giảm hoạt động khả năng liên kết của thụ thể với insulin

Đột biến của GLUT 4

Căng thẳng ER Đột biến điểm làm thay đổi sự biến đổi bình thường của GLUT 4, ức chế glucose đi vào các tế bào phụ thuộc và làm suy yếu các đường dẫn tín hiệu tiếp theo. Phá vỡ sự cuộn gấp thích hợp dẫn đến sự tích tụ của protein bị sai lệch.

Suy giảm chức năng tế bào beta của tụy

Hai dòng tế bào chính duy trì chức năng chính cho tuyến tụy là dòng tế bào

alpha và bêta. Các tác dụng đối kháng bởi insulin được tiết ra từ tế bào bêta và

glucagon được tiết ra từ tế bào alpha giúp duy trì lượng đường huyết ổn định trong

máu bằng việc kích hoạt các quá trình khác nhau của việc hấp thu glucose và phân

hủy glycogen (Hình 1.2) [99].

Hình 1.2. Hoạt động của các tế bào tại đảo tụy trong duy trì nồng độ glucose huyết.

Các đảo nhỏ tụy có chứa các tế bào alpha và tế bào bêta, tiết ra glucagon và

insulin tương ứng. Insulin và glucagon tác dụng đối kháng lên các cơ quan ngoại vi

để kiểm soát lượng đường trong máu. Insulin phát huy tác dụng hạ glucose của nó

bằng cách kích thích sự hấp thu glucose ở cơ xương, thông qua việc ức chế sản xuất

glucose ở gan và bằng cách làm tan mỡ. Ngược lại, glucagon làm tăng nồng độ

glucose tuần hoàn bằng cách tăng gluconeogenesis và lipolysis [99].

Cả hai loại ĐTĐ T1 và ĐTĐ T2 đều có đặc điểm bởi sự sụt giảm khối tế bào

bêta giữ chức năng sản xuất insulin để duy trì đường huyết. Các dấu hiệu chính của

ĐTĐ T1 và ĐTĐ T2 chỉ trở nên rõ rệt khi số tế bào bêta trong tụy bị thiếu hụt. Ở

bệnh nhân ĐTĐ T1 dấu hiệu khởi phát của bệnh xảy ra khi khối tế bào beta giảm

đến dưới mức 20%. ĐTĐ T1 lâm sàng (nghĩa là có triệu chứng) không xuất hiện cho

đến khi 80% - 90% đã bị phá hủy và có một khoảng cách rõ rệt giữa khởi phát tự

miễn dịch và khởi phát bệnh tiểu đường, các tế bào bị tiêu diệt bởi chính hệ miễn

dịch của bệnh nhân, trong khi ở bệnh nhân ĐTĐ T2, IR dẫn tới glucose trong máu

tăng cao, điều này thúc đẩy nhu cầu tổng hợp insulin của tụy tăng lên nhiều lần,

khối tế bào beta không đáp ứng đủ nhu cầu insulin tăng cao của cơ thể, cuối cùng

theo thời gian, khối tế bào bị tổn thương và chết theo lập trình – apotosis dẫn tới

sụt giảm 40-60% khối bêta [7]. Các biện pháp khắc phục khả năng kháng insulin

cũng như. Do vậy, những bệnh nhân này cần bù thêm insulin bằng đường uống

hoặc tiêm, tuy vậy cũng không thể thay thế chức năng bình thường của tế bào bêta,

hậu quả là bệnh tiến triển nặng hơn và dẫn tới những biến chứng mạn tính và tàn

tật.

1.1.5. Biến chứng của đái tháo đường típ 2

ĐTĐ là một bệnh tiến triển, nếu bệnh nhân không kiểm soát tốt lượng đường

huyết trong máu cũng như duy trì chế độ ăn và luyện tập thì sẽ mắc phải các biến

chứng không mong muốn do ĐTĐ gây ra. Các biến chứng cấp tính có thể ảnh hưởng

đến tính mạng của bệnh nhân bao gồm: Hôn mê nhiễm toan ceton (Diabetic

Ketoacidosis – DKA) và hôn mê tăng áp lực thẩm thấu (Hyperosmolar

hyperglycemic syndrome – HHS) [41] [58] [11] [86]. Các biến chứng mạn tính liên

quan đến bệnh lý về mạch máu nhỏ như biến chứng về bệnh lý võng mạc và đục

thủy tinh thể, microalbumin niệu; ĐTĐ làm tăng nguy cơ các bệnh về mạch vành,

động mạch ngoại biên [113].

Việc để lại các biến chứng trên sẽ ảnh hưởng đến chất lượng sống của bệnh

nhân, vì vậy với mỗi bệnh nhân mắc ĐTĐ T2 cần có những chiến lược điều trị phù

hợp là điều vô cùng quan trọng nhằm kiểm soát được nồng độ đường huyết trong

máu.

1.1.6. Điều trị đái tháo đường típ 2

1.1.6.1.Điều trị bằng thuốc

ĐTĐ T2 được đặc trưng bởi kháng Insulin giai đoạn đầu và khiếm khiết

Insulin giai đoạn sau. Cùng với đó sự tiến triển tự nhiên của ĐTĐ T2 dẫn đến sự phụ

thuộc Insulin

Các hướng tiếp cận điều trị ĐTĐ T2 được đưa ra đều dựa trên cơ chế bệnh sinh. Các

dòng thuốc khác nhau được xây dựng theo tiêu chuẩn của hiệp hội Đái tháo đường

Hoa Kỳ bao gồm:

- Nhóm 1: Nhóm thuốc cải thiện sự đề kháng insulin bao gồm Metformin và TZD

(Thiazoliglitazone) bao gồm: Pioglitazone và Rosiglitazone hiện nay đang được

khuyến cáo sử dụng.

- Nhóm 2: Nhóm thuốc làm tăng khả năng tiết insulin bào gồm nhóm SU

(Sulfunylurase) với các thuốc đang lưu hành: Gliburide, Glipizde, Gliclazide,

Glibenclamide). Tùy thuộc vào thời thời điểm bệnh của bệnh nhân mà có những

phối hợp thuốc hợp lý do các nhóm thuốc kích thích tăng tiết insulin ở tụy có thể

tăng hiệu quả kiểm soát đường huyết tuy nhiên lại làm quá trình tổn thương tủy

ngày càng tiến triển.

- Nhóm 3: Một số dòng thuốc khác cũng đòng vài trò quan trọng trọng việc kiểm

soát tăng tiết insulin và giảm tiết glucagon ở tụy dựa trên sự điều hòa của

incretin – một hocmon được tiết ra sau ăn ở ống tiêu hóa. Hai dòng thuốc chính

này là GLP-1 receptor agonist (thuốc đồng vận thụ thể GLP-1 – Glucagon like

peptide1) và DPP-4 inhibitor ( thuốc tức chế DPP-4 – Dipeptidyl – peptidase - 4).

Incretin đóng vai trò kiểm soát đên 70% lượng insulin tiết ra sau ăn, loại incretin

quan trọng nhất của ruột là GLP-1, chúng sẽ được thoái biến thành dạng bất

hoạt thông qua enzyme DPP-4. Vì vậy việc đồng vận GLP-1, hay bất hoạt DPP-4 sẽ

có tác dụng làm tăng khả năng hoạt động của GLP-1 đồng thời làm tăng tiết

insulin ở tụy.

- Nhóm 4: Việc giảm hấp thu Glucose tại thận cũng làm giảm nồng độ Glucoso

máu và việc ức chế kênh đồng vận chuyện Sodium-Glucose cotranspoter cho phép

làm giảm sự hấp thu Glucose này. Nhóm thuốc dựa trên cơ chế này là Sodium-

Glucose cotransporter 2 insulin (SGCT2 inhibitor) bao gồm: Canagliflozin,

Dapagliflozin, Empagliflozin [3].

Việc sử dụng thuốc và duy trì chế độ luyện tập, dinh dưỡng theo khuyến cáo đã

được ban hành trong các văn bản hướng dẫn và điều trị ĐTĐ T2 [1]. Chỉ số HbA1C

được khuyến cáo sử dụng để đánh giá các hiệu quả can thiệp điều trị ở các bệnh

nhân ĐTĐ T2. HbA1c là một loại hemoglobin đặc biệt kết hợp giữa hemoglobin và

đường glucose, nó đại diện cho tình trạng gắn kết của đường trên Hb hồng cầu. Sự

hình thành HbA1c xảy ra chậm 0.05% trong ngày và tồn tại suốt trong đời sống của

hồng cầu 120 ngày. Bình thường HbA1c chiếm 4-6% trong toàn bộ hemoglobin. Chỉ

số HbA1c cao khi tăng trên bình thường 1% tương ứng với giá trị đường huyết

tăng lên 30mg/dl hay 1.7mmol/l. Khi HbA1c > 6.5% chứng tỏ việc kiểm soát đường

huyết kém. Khi HbA1c < 6.5% cho thấy kiểm soát đường huyết tốt [1]. Hình 1.3 cho

thấy được sự phối hợp thuốc trong điều trị cũng như đánh giá dựa trên nồng độ

HbA1C.

Hình 1.3. Sơ đồ lựa chọn thuốc và phương pháp điều trị đái tháo đường típ 2 [1].

ĐTĐ T2 là một bệnh tiến triển, theo thời gian, chức năng tụy tiếp tục suy giảm,

càng làm cho việc kiểm soát đường huyết bằng các loại thuốc uống gặp nhiều khó

khăn. Sau một thời gian điều trị, nhiều bệnh nhân ĐTĐ T2 cần phải tiêm insulin để

cân bằng được đường huyết. Việc kiểm soát đường huyết bằng thuốc chỉ duy trì một

thời gian nhất định và không làm thay đổi IR cũng như giảm sự tổn thương tế bào

beta tụy. Chính vì vậy, việc thay thế hoặc bù lại khối tế bào tụy cũng như ức chế sự

tổn thương và chết tế bào tụy là một hướng điều trị mới hứa hẹn mang lại hiệu quả

duy trì đường huyết cho bệnh nhân ĐTĐ T2.

1.1.6.2.Ghép tụy và tiểu đảo tụy

Năm 1966, trường hợp ghép tụy đầu tiên được thực hiện tại Đại học

Minnesota, từ đó đến nay trải qua gần 50 năm, đã có hơn 50000 bệnh nhân ĐTĐ

được ghép tụy tại hơn 200 cơ sở trên toàn thế giới [20]. Thống kê tại Mỹ, hơn 95%

bệnh nhân được ghép tụy sống sót sau năm đầu tiên sau ghép và 88% sống sót sau

năm thứ 5. Năm đầu tiên sau ghép, 84% tụy được ghép tồn tại và 60% tụy được

ghép tồn tại sau 5 năm [81].

Mặc dù chẩn đoán ĐTĐ T2 từng được coi là chống chỉ định ghép thận – tụy

[111]. Tuy nhiên, nhiều bằng chứng ngày càng cho thấy rằng có thể đạt được sự

ghép tương tự và sự sống sót của bệnh nhân khi so sánh với người nhận ĐTĐ T1.

Khi đánh giá trên 35000 ca ghép tụy được báo cáo cho Cơ quan đăng ký cấy ghép

tụy quốc tế (International Pancreas Transplant Registry - IPTR), Gruessner và cộng

sự đã tiết lộ một xu hướng tăng trong tỷ lệ ghép tụy được thực hiện trên các bệnh

nhân mắc ĐTĐ T2. Số đăng ký với tỷ lệ người nhận ĐTĐ T2 chung tăng từ 2 % năm

1995 lên 7 % năm 2010 ( p <0,0001) [15]. Mặc dù xu hướng tăng này, trên thực tế,

tỷ lệ ĐTĐ T2 có thể thấp hơn (hoặc cao hơn) do không có tiêu chí thống nhất và

được xác định theo đó các trung tâm cấy ghép để lựa chọn các bệnh nhân ĐTĐ T2.

Hiệu quả ghép tụy mang lại đã được chứng minh với khả năng tiết insulin tăng và

tác dụng phụ thấp [94]. Tuy nhiên, nguồn tụy hiếm là một vấn đề khó khăn, việc sử

dụng nguồn tụy này trong ĐTĐ T2 làm hạn chế số lượng người được ghép trong

nhóm ĐTĐ T1. Trong khi đó các cơ sở ghép tụy khá phức tạp cần các chuyên gia có

kinh nghiệm để đảm bảo được sự sống tối ưu cho bệnh nhân. Thời gian sau khi ghép

không sử dụng kháng sinh ở bệnh nhân ĐTĐ phụ thuộc rất nhiều vào phương pháp

ghép. Đồng thời bệnh nhân cần phải sử dụng các thuốc ức chế miễn dịch trong thời

gian dài [45].

Khắc phục các nhược điểm của các phương pháp điều trị ĐTĐ T2 trước đó cho

phép

1.2. TẾ BÀO GỐC

1.2.1. Định nghĩa tế bào gốc

Thuật ngữ “stem cell” (tế bào gốc) xuất hiện trên các tài liệu khoa học vào

khoảng năm 1868 trong các công trình nghiên cứu của nhà sinh vật học nổi tiếng

người Đức Ernst Haecker [95]. Tế bào gốc được định nghĩa là những tế bào chưa

chuyên hóa chức năng, có khả năng phân chia chủ động (Self-newal) và khả năng

biệt hóa (Differentiation) thành các tế bào chuyên hóa với các chức phận sinh lý cụ

thể [2]. Khi tế bào gốc phân chia, mỗi tế bào mới có khả năng duy trì tính gốc hoặc

trở thành một tế bào khác với chức năng chuyên biệt hơn. Ví dụ, các tế bào gốc tạo

máu trong tủy xương có thể biệt hóa thành các dòng tế bào máu như hồng cầu,

bạch cầu, tiểu cầu và một số dòng tế bào khác. Trong nhiều mô, tế bào gốc đóng vai

trò như hệ thống sửa chữa nội mô. Quá trình duy trì cân bằng nội mô của da là một

ví dụ điển hình của vai trò tế bào gốc. Phần mất đi thường xuyên của các tế bào

sừng ở lớp trên của biểu bì được thay thế từ sự tăng sinh của lớp đáy để duy trì

nguyên vẹn chức năng của hàng rào da được tạo ra từ biểu bì [68]. Một số dòng tế

bào được biết đến nhiều hơn cả các ứng dụng thực tế từ chúng, dòng tế bào được

biết đến nhiều nhất đó là dòng tế bào gốc trung mô.

1.2.2. Tế bào gốc trung mô

Tế bào gốc trung mô (Mesenchymal Stem Cell – MSC) thuộc nhóm tế bào gốc đa

năng (multipotent), có mặt hầu hết trong các mô như tủy xương, mô mỡ, dây

rốn, tủy răng sữa. [93]. Tương tự các kiểu tế bào gốc khác, MSC có khả năng tự

làm mới cao trong khi vẫn giữ được tính đa tiềm năng. Do đó, MSC đang được

ứng dụng ngày càng nhiều trong liệu pháp tế bào.

Hình 1.4. Nguồn tế bào gốc trung mô trưởng thành và các loại tế bào mà chúng có thể biệt

hóa [78].

Các mũi tên phía trên giới thiệu về nguồn gốc của các tế bào gốc trung mô bao gồm:

buồng trứng, nhau thai, màng ối, dây rốn, tủy xương, tủy răng sữa, hạ bì, sữa. Các mũi

tên phía dưới mô tả về khả năng biệt hóa đa dòng thành các dòng tế bào khác nhau của

MSC bao gồm: xương, mỡ, tế bào máu, nội mô, sụn, ống thận, tế bào thần kinh.

Kể từ khi được phát hiện bởi Friedenstein vào năm 1976 tế bào gốc trung mô

từ tủy xương (Bone marrow- Mesenchymal Stem Cell – BM-MSC), số lượng các

nghiên cứu liên quan đến MSC tăng lên rất nhanh nhờ những đặc tính ưu việt

của nó: khả năng tăng sinh mạnh, điều hòa miễn dịch, biệt hóa và chuyển biệt

hóa [16], [40], [79], [91]. MSC có thể biệt hóa in vitro hay in vivo thành nhiều

kiểu tế bào khác nhau bao gồm xương, sụn, cơ, chất nền tủy xương, gân, mỡ và

nhiều mô liên kết khác (Hình 1.5). Do đó, MSC là một mô hình hấp dẫn trong

biệt hóa tế bào gốc, mang lại nhiều đặc điểm phù hợp cho liệu pháp tế bào và

liệu pháp gen. Thậm chí các tế bào trung mô của nhiều mô có tính mềm dẻo

cao và có thể biệt hóa thành các tế bào của các dòng khác không thuộc trung

mô.

Hình 1.5. Tiềm năng biệt hóa của tế bào gốc trung mô (TRENDS in Molecular Medicine, 2001)

1.2.3. Tế bào gốc trung mô từ tủy xương

Từ những năm 1950, tủy xương trong y văn được miêu tả như một nguồn dồi

dào tế bào gốc tạo máu và hỗn hợp các tế bào hỗ trợ cho quá trình sản sinh các

thành phần tạo máu. Đến những thập niên 1960, hai nhà khoa học nổi tiếng là

Ernest A. McCulloch và James E. Till thực hiện thí nghiệm nuôi cấy dung dịch tủy

xương với kết quả cho thấy khả năng tạo cụm của các tế bào có trong tủy xương

[36]. Thí nghiệm này là nền tảng cho thí nghiệm kế tiếp thực hiện bởi Friedenstein

vào những năm đầu thập niên 70 chứng minh khả năng tăng sinh từ những cụm

sau khi nuôi cấy tế bào tủy xương bên ngoài cơ thể (ex vivo). Hàng loạt những thí

nghiệm được thực hiện và cho thấy khả năng tăng sinh của các tế bào tủy xương và

khả năng biệt hóa thành một số tế bào đặc hữu như tế bào xương, sụn, mỡ. Từ đó,

khái niệm tế bào gốc trung mô ra đời với tên gọi khoa học là Mesenchymal stem

cells (MSCs) [101].

Trong tủy xương, quần thể tế bào gốc trung mô rất nhỏ với tỉ trọng chiếm từ

0.001 đến 0.01% số lượng tế bào đơn nhân [84]. Mặc dù số lượng tế bào gốc trung

mô rất nhỏ, nhưng dưới điều kiện nuôi cấy thích hợp, dòng tế bào này vẫn có khả

năng tăng sinh vượt trội và khả năng biệt hóa tốt. Tế bào gốc trung mô từ tủy

xương đến thời điểm này đã được chứng minh là dòng tế bào gốc đa năng, với khả

năng biệt hóa giới hạn trong các dòng tế bào thuộc lớp trung mô như tế bào xương,

sụn, và mỡ. Tuy nhiên, một số thí nghiệm khác cũng cho thấy rằng dòng tế bào gốc

này cũng có khả năng biệt hóa thành tế bào gan, tế bào tim, tế bào thần kinh nhưng

quá trình biệt hóa rất nhiều giai đoạn và có tỉ lệ thành công thấp [92].

Để tăng khả năng phân lập tế bào gốc trung mô từ tủy xương, việc phân tách

các tế bào đơn nhân hiện hữu trong tủy xương là một trong những phương pháp

đơn giản, ít tốn kém, và không tốn nhiều thời gian. Trong số đó, phương pháp thu

thập tế bào đơn nhân bằng kỹ thuật ly tâm tỉ trọng Ficoll là phương pháp phổ biến

nhất. Nguyên lý cơ bản của kỹ thuật này nằm ở quá trình phân tách các loại tế bào

khác nhau bên trong tủy xương dựa vào tỉ trọng của chúng khi ly tâm với Ficoll.

Sau quá trình ly tâm, hồng cầu, tế bào bạch cầu trung tính, và các cặn xương sẽ

nằm ở lớp dưới cùng của ống ly tâm, lớp tế bào đơn nhân sẽ nằm ở lớp giữa Ficoll

và huyết tương, hay còn gọi là lớp Buffy coat. Tại thời điểm ban đầu của quá trình

nuôi cấy (Passage 0 – P0), tế bào gốc trung mô từ tủy xương có đặc điểm hình thái

tương tự như nguyên bào sợi với kích thước nhỏ, hai đầu tế bào phân cực kéo dài,

có khả năng tăng sinh và nhân đôi ở tốc độ chậm. Hình thái của các tế bào này

thường trở nên đồng nhất và tăng sinh nhanh hơn qua những lần cấy chuyển. Khi

dòng tế bào đã ổn định, tế bào gốc trung mô từ tủy xương có thể cấy chuyển từ 10

đến 20 lần tùy thuộc vào bản chất của tế bào thường liên quan trực tiếp đến thể

trạng người hiến như độ tuổi, bệnh lý và đăc điểm của mỗi bệnh nhân [92].

1.3. ỨNG DỤNG CỦA TẾ BÀO GỐC TRUNG MÔ TRONG ĐIỀU TRỊ BỆNH ĐÁI

THÁO ĐƯỜNG TÍP 2

1.3.1. Cơ sở lý luận của phương pháp ghép tế bào gốc trên bệnh nhân đái

tháo đường típ 2

Tế bào gốc đã được ứng dụng trong y học tái tạo, sử dụng để điều trị các bệnh

khác nhau cũng như trong điều trị ĐTĐ, xơ gan, tái tạo biểu mô, da và chấn thương

chỉnh hình như sửa chữa sai hỏng xương, sụn, dây chằng, gân. Đặc biệt vai trò của tế

bào gốc trong điều trị các bệnh tự miễn: viêm khớp tự miễn, bệnh Crohn đã được

chứng minh [50], [53], [73], [74], [87]. Trong các loại tế bào gốc, tế bào gốc trung mô

là loại tế bào có thuộc tính điều hòa miễn dịch mạnh mẽ nhất và đã được chứng minh

qua mô hình động vật thí nghiệm cũng như trên các thử nghiệm lâm sàng trên người.

Mặc dù vậy chúng có thể được nuôi cấy và tăng sinh rất tốt ở điều kiện phòng thí

nghiệm [59].

Cơ chế tác động của MSC được thể hiện trong Hình 1.6 với khả năng biệt hóa

thành tế bào tụy (IPC) làm tăng khả năng tiết insulin và cải thiện chức năng của tế bào

bêta tụy. Cùng với đó là sự thúc đẩy tái tạo các tế bào tuyến tụy thông qua việc tiết ra

các cytokine và các nhân tố tăng trưởng như VEGF, IGF0-1, PDGF-BB, angiopoietin-1

phục hồi tế bào bêta, thúc đẩy sự chuyển đổi tế bào alpha sang tế bào beta. Tiếp theo là

cải thiện sự kháng insulin sự hoạt hóa con đường tín hiệu IRS-1/PI3K, sự chuyển đổi

của đại thực báo gây viêm M1 thành các đại thực báo kháng viêm M2, ngoài ra cũng

giảm các cytokines và chemokines gây viêm. Với khả năng điều hòa miễn dịch, chống

oxyhoa và tắng sự tự thực bào, MSC giúp tăng cường bảo vệ các tế bào tụy nội sinh

[118].

Hình 1.6. Cơ sở lý luận của phương pháp ghép tế bào gốc trên bệnh nhân đái tháo đường típ [118]

Khả năng biệt hóa thành tế bào tụy (IPC)

Tiềm năng biệt hóa thành IPC được cho là cơ chế chính giúp MSC cải thiện

tình trạng tăng đường huyết trong ĐTĐ T2 [44]. Sự biệt hóa của MSC thành các

khoang nội tiết của tuyến tụy được kiểm soát bởi các yếu tố phiên mã quan trọng

như Pdx-1, Ngn-3, NeuroD1, Pax4, Pax6 [44]. Việc tạo lập chính xác con đường tín

hiệu này giúp MSC có thể biệt hóa thành IPC. Chen và cộng sự đã thu được IPC biệt

hóa không hoàn toàn có biểu hiện insulin và nestin bằng cách nuôi cấy BM-MSC

chuột trong môi trường không có huyết thanh với sự hiện diện của nồng độ Glucose

cao, novotinamide và mercaptoethanol [114]. Nhiều các nghiên cứu về sau đã được

sửa đổi với các tác nhân kích thích khác nhau đã được áp dụng để cải thiện sự biệt

hóa và hiệu quả. Mortiscot và cộng sự lần đầu tiên biệt hóa tế bào BM-MSC của con

người thành IPC bằng cách sử dụng các véc tơ adenovirus trên chuột Pdx-1 và Xie

đã tạo ra IPC theo một quy trình biệt hóa ba bước trong đó có sử dụng Activin A

như là một chất biệt hóa ở bước cuối cùng, kết quả thu được là IPC đã có thể giải

phóng insulin theo cách phụ thuộc glucose [82], [116]. Các nguồn tế bào gốc trung

mô cũng có thêm nhiều lựa chọn hơn, đặc biệt là tế bào gốc trung mô từ dây rốn

UC-MSC. Các tế bào gốc trung mô có nguồn gốc từ lớp Wharton Jelley (WJ-MSC) của

dây rốn có thể biệt hóa thành công thành IPC, tiềm năng biệt hóa của dòng tế bào

này nổi trội hơn rất nhiều so với BM-MSC. Chao và cộng sự, đã biệt hóa thành công

WJ-MSC bằng cách sử dụng môi trường điều hòa neuron trong in vitro và chứng

minh rằng các IPC đã thể hiện chức năng của các tế bào beta điển hình tronng in

vivo [23]. Tuy nhiên, thời gian tồn tại của các tế bào biệt hóa, kết quả từ việc sử

dụng các tác nhân kích thích và véc tơ adenovirus trong quá trình biệt hóa đã hạn

chế ứng dụng của việc thiết lập tái tạo đảo tủy trước khi ghép. Vì vậy, ghép trực tiếp

các MSC được cho là cách hiệu quả và an toàn nhất để tránh các hậu quả không

mong muốn này. Các nghiên cứu về khả năng tái tạo tiếp theo được nghiên cứu trên

chuột. MSC đã được truyền trực tiếp vào mô tụy bị tổn thương, tuy nhiên, chỉ một

phần nhỏ các tế bào dương tính với insulin được tìm thấy trong tuyến tụy, chúng

không thể hoàn toàn giải thích được cho sự đổi mới của các tế bào đảo tụy [51].

Ianus và cộng sự, 2003, đã quan sát sự tái sinh đáng kể của các tế bào beta trưởng

thành ở chuột mắc bệnh tiểu đường sau khi cấy BM – MSC, mặc dù chỉ có khoảng 3

% tế bào đảo tụy có nguồn gốc từ tủy xương. Lecher và cộng sự , 2003, không tìm

thấy sự biệt hóa đáng kể nào của BMMSC trong các tế bào beta khi nuôi cấy invivo

(chỉ có 2 tế bào trên tổng số 100.000 tế bào beta có nguồn gốc từ BM –MSC) [55].

Choi và cộng sự, 2003, đã báo cáo rằng các tế bào được dán nhãn GFP đã được tìm

thấy trong các đảo nhỏ sau khi ghép tủy xương, nhưng không có tế bào nào trong số

này biểu hiện insulin [25]. Từ các dữ liệu cho thấy được nguồn gốc của tụy được tái

tạo chưa thực sự rõ ràng và đó có phải là kết quả của sự biệt hóa từ MSC hay không

vẫn còn nhiều tranh cãi.

Điều hòa hệ thống miễn dịch trong cơ thể

Ngoài các đặc tính tái tạo, MSC cũng đã chứng minh khả năng điều hòa miễn

dịch. MSC còn được gọi là các tế bào đặc quyền miễn dịch vì biểu hiện phức hệ hoà

hợp miễn dịch (MHC) thấp và các phân tử đồng kích thích [67], [70]. Là tác nhân

chính của đáp ứng miễn dịch thích ứng, tế bào lympho T đóng vai trò nổi bật trong

bệnh tự miễn và thải ghép. Một số nghiên cứu đã chứng minh rằng các chất ức chế

sự tăng sinh của tế bào lympho T bằng cách ức chế sự chuyển hóa năng lượng của

quần thể tế bào T, thúc đẩy sự dung nạp tế bào T hoặc gây ra sự tăng sinh của quần

thể tế bào T điều tiết [48]. Hơn nữa, MSC cũng ức chế sự tăng sinh của các tế bào B

và ngăn chặn một loạt các chức năng tế bào miễn dịch, bao gồm bài tiết cytokine và

độc tế bào của tế bào T và tế bào giết người tự nhiên (NK), tế bào B trưởng thành

và bài tiết kháng thể [110]. Các tác dụng ức chế miễn dịch của MSC làm giảm các

quá trình tự miễn dịch có nguy cơ dẫn đến phá hủy các tế bào beta tuyến tụy.

Các nghiên cứu đã cho thấy MSC thúc đẩy sự sống sót của đảo nhỏ bằng việc

chống lại tình trạng thiếu oxy và stress oxy hóa [22]. Trong nghiên cứu của

Chdravanshi và cộng sự, 2017, sau 48 giờ nuôi cấy tiếp xúc trực tiếp với các MSC có

nguồn gốc từ thạch của Wharton, các tế bào đảo tụy thể hiện khả năng sống sót cao

hơn và giảm việc chết theo chu trình so với điều kiện của chúng mà không cần nuôi

cấy [22]. Ngoài sự tăng biểu hiện của các cytokine chống viêm như TGF-β và TNF-α

và giảm các cytokine gây viêm, các tế bào đảo đồng nuôi cấy cho thấy mức độ giảm

của các loại oxy phản ứng, oxit nitric cho thấy tác dụng bảo vệ của MSC trên các tế

bào đảo chống lại các tổn thương tế bào qua trung gian căng thẳng oxy hóa. Tổn

thương do stress oxy hóa gây ra do tăng đường huyết được công nhận là yếu tố căn

nguyên chính trong sự phát triển của bệnh tiểu đường, nghiên cứu thêm về khả

năng chống oxy hóa của các sản phẩm MSC để thúc đẩy sự sống sót của đảo nhỏ có

thể xác nhận tính hữu ích của việc ghép đồng với MSC [66].

Tự thực bào (autophagy) đóng một vai trò không thể thiếu trong một loạt

các bệnh, chẳng hạn như rối loạn thoái hóa thần kinh và bệnh tim mạch. Tự thực

bào cần thiết để duy trì kiến trúc và chức năng của các tế bào beta đảo tụy. Cả sự

thiếu hụt và tăng cường của tự thực bào đều đóng một vai trò trong cơ chế bệnh

sinh của ĐTĐ T2 [8], [31], [60], [98]. Trong một nghiên cứu gần đây, Zhao và cộng

sự, 2015, nhận thấy rằng việc nuôi cấy cùng với BM-MSC đã làm giảm đáng kể độc

tính của tình trang đường huyết tăng cao của các tế bào INS-1. Độc tính của glucose

trong các tế bào INS-1 được đặc trưng bởi giảm khả năng sống của tế bào, tăng

apoptosis của tế bào và suy giảm bài tiết insulin cơ bản và bài tiết insulin do glucose

kích thích. Một nghiên cứu sau đó cho thấy tác dụng bảo vệ của BM-MSC trên các tế

bào INS-1 được trung gian bằng cách thúc đẩy sự hình thành sự tự thực bào [123].

Tất cả những kết quả này cung cấp bằng chứng hỗ trợ cho việc tăng cường khả

năng tự trị của MSC như là một chiến lược lý tưởng để điều trị ĐTĐ T2.

Cải thiện tình trạng kháng insulin

Rối loạn chức năng của các tế bào beta đảo tụy sản xuất insulin và IR cùng tồn

tại trong T2DM. Do đó, cơ chế điều trị ĐTĐ T2 được mô tả ở trên không thể được

giải thích thỏa đáng chỉ bằng khả năng tiềm năng của MSC để thúc đẩy chức năng

tế bào beta đảo tụy. Si và cộng sự lần đầu tiên phát hiện ra rằng cấy ghép BM-MSC

làm giảm mức tăng đường huyết ở chuột với chế độ ăn nhiều chất béo gây ra bởi

STZ bằng cách kích hoạt đường dẫn tín hiệu của chất nền thụ thể insulin (IRS) -

1. Điều này dẫn đến tăng khả năng chuyển vị và biểu hiện của GLUT-4, cải thiện tình

trạng IR qua trung gian BM-MSC trong các mô đích của insulin ngoại biên [104].

Điều thú vị là, truyền MSC trong giai đoạn đầu (7 ngày) có thể khôi phục chức năng

tế bào, cải thiện sự phá hủy các đảo nhỏ tụy, thúc đẩy các tế bào đến các mô bị tổn

thương và giảm IR, trong khi truyền vào giai đoạn muộn (21 ngày) chỉ đơn thuần là

tình trạng IR được cải thiện, gợi ý một cửa sổ thời gian điều trị hợp lý trong giai

đoạn đầu của bệnh tiểu đường [46]. Sau phát hiện hấp dẫn này, Hughey và cộng sự

đã có một khám phá tình cờ rằng sự hấp thu glucose ở các mô ngoại biên, bao gồm

cả cơ xương và mô mỡ, đã tăng lên ở những con chuột được điều trị bằng MSC bị

nhồi máu cơ tim. Hơn nữa, sự hấp thu glucose tăng cường trong các mô này có liên

quan đến việc truyền tín hiệu insulin được cải thiện khi được đánh giá bởi sự

phosphoryl hóa Akt và biểu hiện của GLUT-4 [54]. Tuy nhiên, không thể hiểu hoàn

toàn cơ chế MSC cải thiện tình trạng IR.

Hiện nay tình trạng IR được coi là có liên quan chặt chẽ với viêm mạn tính

toàn thân. Cytokine và chemokine, chẳng hạn như yếu tố hoại tử khối u alpha (TNF-

α) và interleukin-1 beta (IL-1β) được tạo ra bởi các đại thực bào mô mỡ (ATM) ở

trạng thái viêm nhiễm M1 đã được xác định là tác nhân quan trọng trong khởi đầu

viêm và sự phát triển IR [88]. Tuy nhiên, còn có các thành phần chống viêm được

gọi là M2, hoặc các đại thực bào được kích hoạt xen kẽ, đã được chứng minh là có

vai trò trong việc ngăn ngừa IR [37]. MSC đã được chứng minh là có tác dụng chống

viêm bằng cách thúc đẩy M2 trong các vết thương ngoài da và tổn thương thận

trong cả in vitro và in vivo [39], [119]. Một nghiên cứu gần đây đã xác nhận rằng

UC-MSC làm giảm bớt tình trạng IR ở chuột T2DM bằng cách lập trình lại các đại

thực bào được kích hoạt cổ điển (M1, pro-viêm) thành một kiểu hình được kích hoạt

xen kẽ (M2, chống viêm). Phân tích sâu hơn cho thấy các UC-MSC được kích thích

bằng M1 tăng biểu hiện IL-6. IL-6 điều chỉnh tăng biểu hiện IL4R, thúc đẩy quá trình

phosphoryl hóa STAT6 trong các đại thực bào và cuối cùng được lập trình lại các

đại thực bào thành kiểu hình M2 [116]. Ngoài ra, môi trường được điều hòa từ các

MSC có nguồn gốc từ mô mỡ đã đảo ngược tình trạng kháng insulin trong các mô

hình tế bào IR, bằng chứng là insulin được phục hồi và kích thích sự hấp thu

glucose, thông qua việc tăng biểu hiện gen GLUT4 và giảm chất ức chế IL-6 và chất

ức chế plasminogen trong biểu hiện gen 1 (PAI-1) [103]. Các kết quả khác cho thấy

UC-MSC làm giảm bớt tình trạng IR ở chuột bị mắc bệnh T2DM bằng cách điều

chỉnh biểu hiện NLRP3 trong các mô mục tiêu insulin ngoại biên. Mặc dù nhiều câu

hỏi về MSC và tình trạng kháng insulin vẫn chưa được trả lời, nhưng những kết quả

này đã làm sáng tỏ những tác động mới của MSC với tình trạng IR liên quan đến

béo phì trong ĐTĐ T2.

1.3.2. Đặc điểm tế bào gốc trung mô trong bệnh lý đái tháo đường típ 2

Mặc dù việc ghép đồng loài với việc sử dụng các tế bào gốc trung mô từ dây

rốn đã được sử dụng trong nghiên cứu khác nhau tuy nhiên việc sử dụng tế bào của

người cho có hoàn toàn đảm bảo về mặt miễn dịch đối với người nhận hay không

thì đó là một vấn đề vẫn đang được tìm hiểu. Trong khi đó nguồn tế bào gốc tự thân

lại sẵn có và nguy cơ đào thải là không cao và đảm bảo tính an toàn cho người bệnh

[118]. Tối ưu hóa việc mở rộng in vitro và đặc tính của BM-MSCs đặc hiệu cho bệnh

sẽ cung cấp thông tin quan trọng để tối ưu hóa hiệu quả của liệu pháp truyền BM-

MSCs tự thân trong bệnh tiểu đường [83] Với các đặc tính tăng sinh ổn định, tế bào

gốc trung mô từ tủy xương được ứng dụng trên các bệnh khác nhau, tuy nhiên

chúng cũng đã được chứng minh là khác biệt trên các bệnh lý khác nhau. Các

nghiên cứu đã chỉ ra rằng BM-MSCs được phân lập từ bệnh nhân mắc bệnh

Parkinson, bệnh xơ cứng teo cơ một bên (ALS), bệnh bạch cầu lymphoblastic cấp

tính (ALL), bệnh Hodgkin (HD) và u lympho không Hodgkin (NHL), tương tự như

BM-MSC trưởng thành bình thường về hình thái, bề mặt epitopes, và khả năng biệt

hóa trong ống nghiệm [34], [85], [122]. Các nghiên cứu cũng không tìm thấy về các

bất thường ở các mẫu đánh giá dự ổn định của nhiễm sắc thể. Tuy nhiên, BM-MSC

được phân lập từ bệnh nhân mắc bệnh bạch cầu cấp tính (AML) suy thận mạn, hội

chứng rối loạn sinh tủy, đa u tủy xương và viêm khớp dạng thấp cho thấy các đặc

tính sinh học bất thường, với khả năng tăng sinh tế bào gốc còn nhiều hạn chế [30],

[34], [38], [76], [126].

Ở môi trường bên trong cơ thể trên các bệnh lý khác nhau thì các đặc điểm

của tế bào gốc cũng bị thay đổi. Môi trường tiểu đường dẫn đến những tổn thương

thực thể trên từng loại tế bào khác nhau đặc biết tế bào cơ, tế bào gan và phần nào

cũng ảnh hướng đến tế bào gốc. Các nghiên cứu về sự ảnh hưởng của vi môi trường

lên tế bào gốc từ tủy xương đã chỉ ra các đặc điểm về hình thái tế bào gốc không bị

thay đổi, chúng vẫn giữ được hình ảnh giống như các nguyên bào sơi, bào tương

rộng và biểu hiện đặc trưng bởi hình ảnh rõ ràng của nhân tế bào. Tế bào gốc trung

mô cũng được chứng minh giữ nguyên các mức biểu hiện các dấu ấn dương tính bề

mặt bao gồm CD29, CD44, CD 73 CD 90 CD105 và ít biểu hiện các dấu ấn âm tính

CD34, CD45, CD11b, CD14, CD19, CD79α và HLA-DR. Phân tích nhiễm sắc thể sau

các giai đoạn nuôi cấy cũng cho những đánh giá tích cực về việc duy trì ổn định bộ

nhiễm sắc thể người bình thường. Tuy nhiên nghiên cứu của Smruti M. Phadnis và

công sự trên 90 mẫu bệnh nhân bị tiểu đường chỉ ghi nhận nuôi cấy thành công

hơn nửa số mẫu, các mẫu còn lại tế bào tăng sinh không ổn định hoặc không thể

tăng sinh ở các bệnh nhân trên 50 tuổi. Các mẫu tế bào của bệnh nhân trẻ tuổi có

khả năng tăng sinh ổn định có thể duy trì đến lần cấy chuyển thứ 15. Tính chất

biệt hóa đa dòng thành tế bào xương, sụn, mỡ không có sự thay đổi trong vi môi

trường tiểu đường và chỉ được thực hiện định tính [90].

Các nghiên cứu về ảnh hưởng của môi trường tiểu đường cũng được thực

hiện trên các tế bào gốc mỡ. Tế bào gốc trung mô từ mô mỡ (Adipose-Derived

Mesenchymal Stem Cells – AD-MSCs) được coi là một chiến lược trị liệu rất hấp dẫn

cho các bệnh nhân mắc ĐTĐ T2. Tuy nhiên, các kết quả thu được đã xác nhận rằng

bệnh tiểu đường loại 2 làm suy yếu các chức năng quan trọng của ASC, như khả

năng sống sót, hoạt động tăng sinh, chức năng của ty thể, cơ chế bảo vệ chống lại

stress oxy hóa, cũng như khả năng bài tiết. Hơn nữa, các rối loạn chuyển hóa dẫn

đến suy yếu cân bằng nội môi glucose và nhạy cảm với insulin, thông qua việc điều

hòa một số mRNA và miRNA, có vai trò quan trọng trong chuyển hóa glucose và

lipid [4].

Như vậy, việc nghiên cứu và đánh giá các đặc tính tế bào của tế bào gốc tự

thân trên các đối tượng bệnh lý khác nhau là rất quan trọng. Việc làm này ảnh

hưởng trực tiếp đến hiệu quả điều trị trên bệnh nhân.

1.3.3. Ứng dụng của tế bào gốc trung mô trong điều trị đái tháo đường típ 2

Trên mô hình động vật thực nghiệm, ghép MSCs đã mang lại những kết quả

hứa hẹn, những kết quả này được ứng dụng trên thử nghiệm lâm sàng. Có 96 thử

nghiệm lâm sàng được đăng ký pha I và pha II trên bệnh nhân ĐTĐ T2, được ghi

nhận trên http://www.clinicaltrials.gov/. Một số các nghiên cứu được tổng hợp

trong Bảng 1.2

Năm 2008, Estrada và cộng sự lần đầu tiên kết hợp ghép tế bào gốc trung mô

tủy xương kết hợp liệu pháp hyperbaric oxygen therapy (HOT), kết quả cho thấy chỉ

số HbA1C giảm có ý nghĩa cho tới một năm [33]. Mức giảm insulin có ý nghĩa thống

kê trong nghiên của Bhasali và cộng sự năm 2009 chỉ với một lần truyền BM-MSCs

duy nhất [6]. Các yếu tố tiết ra bởi MSCs như VEGF(Vascular Endothelial Growth

Factor), IGF-1(Insulin-like Growth Factor -1), và β-FGF (β-Fibroblast Growth

Factor) có thể điều hòa vi môi trường của mô bị tổn thương, ức chế sự chết lập

trình của tế bào, cải thiện hệ miễn dịch, thúc đẩy hình thành mạch máu mới và tái

tạo mô. Ghép MSCs theo đường tĩnh mạch được coi là phương pháp hiệu quả hơn so

với ghép tại mô, cơ quan vì MSCs chủ yếu tác động qua cơ chế tiết cytokines – hơn là

từ sự biệt hóa của MSCs [110]. Tuy nhiên đường truyền MSCs như thế nào vẫn còn

là vấn đề cần làm sáng tỏ. Một số nghiên cứu cho thấy truyền nhiều lần mang lại

hiệu quả kiểm soát đường huyết tốt hơn truyền một lần. Nhóm tác giả Bhansali đã

thử nghiệm truyền MSCs lần 2 sau lần thứ nhất 12 tuần, kết quả giảm liều Insulin

lâu dài hơn gợi ý rằng truyền nhiều lần có hiệu quả tốt hơn truyền một lần [6]. Tuy

nhiên cần có nhiều nghiên cứu hơn để khẳng định điều này. Liều truyền của MSCs

cũng là một yếu tố chưa xác định. Các thử nghiệm lâm sàng hiện tại cho thấy liều

trung bình MSCs là 1 × 106 tới 3 × 106/kg trọng lượng cơ thể. Liều truyền cao cho

thấy kết quả HbA1C giảm một cách đáng kể [105]. Tuy nhiên, cũng chưa có nhiều

nghiên cứu để khẳng định kết quả liều truyền tối ưu cũng như liều truyền liên quan

đến nguồn MSCs khác nhau. C-peptide là chỉ số gián tiếp đánh giá mức Insulin tổng

hợp được từ tế bào tụy, chỉ số này được định lượng ở 13 thử nghiệm lâm sàng

truyền MSCs trên bệnh nhân ĐTĐ T2 đã mang lại hiệu quả cải thiện chức năng tụy

rất đáng khích lệ [6], [52], [57], [69], [75], [94], [105], [106], [108], [108], [114],

[124]. C-Peptide tăng một cách có ý nghĩa thống kê trong nhóm truyền MSCs so với

nhóm chứng, tăng 43.8% so với trước truyền. Trong nghiên cứu của Liu và cộng sự,

C-peptide được tìm thấy tăng đỉnh điểm ở 6 tháng, giảm nhẹ ở 12 [6], [75], [115].

Bảng 1.2. Một số các thử nghiệm lâm sàng ứng dụng tế bào gốc trung mô trong điều trị đái tháo đường típ 2.

Số Đường Phương STT bệnh Loại tế bào Hiệu quả điều trị Tác giả truyền pháp nhân

MNC kết hợp Giảm glucoso lúc đói, HbA1C, Tăng C-peptide, Estrada và cs, 2008 25 1 Tinh mạch Tự thân HBO

giảm liều insuin. Giảm liều dùng insulin. Tăng C-peptide [33]. Bhansali và cs, 2009 10 2 BM-MSC N/A Tự thân

MSC từ nhau Giảm liều insulin. Tăng C-peptide [12]. Jiang và cs, 2011 10 3 Tĩnh mạch N/A thai [57].

Chức năng gan, thận được cải thiện BN bị tắc nghẽn mạch máu chi nghiêm trọng và BM-MSC loét bàn chân : Tình trạng đau đớn giảm. Chỉ số 4 41 hoặc BM- Tiêm cơ N/A Lu và cs, 2011 [77]. bệnh được cải thiện hơn ở nhóm điều trị bằng MNC

Động mạch BM-MSC Giảm FPG, Giảm HbA1C, Tăng C-peptide. Wang và cs, 2011 6 31 BM-MNCs Tự thân tụy [109].

BM-MSC và Điều trị loét bàn chân và tắt nghẽn mạch máu

TB sửa chữa Ghép tự chi nghiệm trọng do ĐTĐ 18/22 bệnh nhân Kirana và cs, 2012 30 7 Tiêm cơ mô (Tế bào thân được điều trị lành vết thương sau 45 tuần sau [64].

CD90+)

Ghép tự ghép tế bào. HbA1C và C-peptide được cải thiện đáng kể 118 8 BM-MSC Tiêm tụy Hu và cs, 2012 [52]. thân

36 9 CB-SC Tĩnh mạch Giảm nồng độ HbA1C, giảm IR, giảm liều insulin. Zhao và cs, 2012

[124].

BM ĐTĐ bị tắt nghẽn mạch máu chi nghiêm MSC máu Mohammadzadeh Ghép tự 10 7 N/A trọng sau điều trị: Tình trạng đau đớn giảm. ngoại vi và cs, 2013 [50]. thân

Làm chậm tiến trình tháo khớp Giảm nhu cầu insulin (66,7%), tăng C-peptide Bhansali và cs, 2014 Ghép tự 11 21 BM-MSC Tĩnh mạch [6]. thân

sau 12 tháng điều trị. Cải thiện nồng độ C-peptide và chức năng tế bào Ghép tự 12 12 UC-MSC Tĩnh mạch beta, và giảm các dấu hiệu viêm hệ thống và số Liu và cs, 2014 [74]. thân

lượng tế bào lympho T. Tăng nống độ C-peptide, giảm liều insulin. Wu và cs, 2014 Ghéo tự BM-MNC kết 13 80 Tĩnh mạch [114]. thân hợp HOT

Đáp ứng mạnh mẽ với biểu hiện của FDG khi Sood và cs,2015 Tĩnh mạch/ Ghép tự truyền theo đường động mạch và các đạp ứng 14 - MNC [106]. Động mạch thân

tại phổi khi truyền theo đường tĩnh mạch. Giảm liều thuốc, tăng C-peptide. Skyler và cs,2015 Ghép tự 15 61 BM-MSCs Tĩnh mạch [107].

Giảm hiệu quả đường huyết thân Ghép

đồng 16 18 UC-MSC Tĩnh mạch Tăng sản xuất C-peptide và các tế bào Treg Cai và cs, 2016 [19].

BM-MSC và loại Ghép tự nhưng không có ý nghĩa thống kê (p>0,05) Giảm liều insulin, giảm HbA1C ở cả 2 nhóm BM- Bhansali và cs, 2017 17 30 Tĩnh mạch BM-MNC thân MSC và BM-MNC so với nhóm chứng. [13].

Tại Việt Nam, hiện nay, các nghiên cứu về tế bào gốc đã có nhiều bước tiến

quan trọng. Cụ thể, trong những năm gần đây, nghiên cứu về tế bào gốc đã gặt hái

được nhiều thành tựu ở nhiều đơn vị như Phòng thí nghiệm Nghiên cứu và Ứng

dụng Tế bào gốc, Đại học Y – Dược TP HCM, Đại học Y Phạm Ngọc Thạch, Bệnh viện

108, Bệnh viện Bạch Mai. Một số nghiên cứu cũng được đánh giá rất cao. Bên cạnh

đó, từ năm 1997 đến nay, việc ứng dụng liệu pháp tế bào gốc cũng mang lại các kết

quả quan trọng trong điều trị một số bệnh như: ghép tế bào gốc điều trị ung thư

máu (Bệnh viện Truyền máu- Huyết học, 2004), ghép thành công tế bào gốc tự thân

điều trị bệnh xương (Bệnh viện 108, 2010), ghép tế bào gốc điều trị bệnh động mạch

vành (Viện tim mạch, 2011), ghép tế bào gốc điều trị bệnh nhồi máu cơ tim, hỗ trợ

điều trị ung thư và điều trị các bệnh thị giác (Đại học Y Hà Nội, 2007), ghép tế bào

gốc điều trị bệnh khớp và loét bàn chân do ĐTĐ [2].

Nghiên cứu và ứng dụng tế bào gốc trong điều trị bệnh ĐTĐ được xem như là

một bước đột phá lớn và mở ra niềm hi vọng cho bệnh nhân bị bệnh ĐTĐ trên thế

giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Theo các công bố trong nước tính đến thời

điểm này, việc nghiên cứu thử nghiệm điều trị ĐTĐ bằng công nghệ tế bào gốc đã

đạt được một số kết quả nhất định. Khai thác các nguồn tế bào khác nhau để điều

trị, một số nhóm nghiên cứu cũng đạt được bước đầu về việc sử dụng tế bào gốc hay

tế bào tiết insulin được biệt hóa thành tế bào gốc trong điều trị thử nghiệm mô hình

chuột ĐTĐ. Trên các ứng dụng trên người , Phạm Văn Phúc và cộng sự đã bước đầu

điều trị đái tháo đường bằng tế bào gốc trung mô tự thân phân lập từ mô mỡ được

áp dụng, 3 bệnh nhân ĐTĐ T2 phân lập, nuôi cấy MSCs từ mô mỡ tự thân, kết quả

cho thấy giảm mức glucose máu ở tất cả 3 bệnh nhân vào thời điểm 3 tháng sau

truyền [70]. Một số các ca lâm sàng cũng được báo cáo từ các trung tâm tế bào gốc

khác nhau, có thấy hiệu quả thực sự của tế bào gốc trung mô trong điều trị ĐTĐ T2

[2].

1.3.4. Phản ứng phụ, tác dụng bất lợi của liệu pháp ghép tế bào gốc.

Sự an toàn của bệnh nhân và cân nhắc giữa nguy cơ và lợi ích mà liệu pháp

mang lại luôn là điều quan trọng nhất trong thử nghiệm lâm sàng. Vì vậy, các tác

dụng phụ, biến cố bất lợi luôn được theo dõi chặt chẽ trong tất cả các thử nghiệm

lâm sàng đánh giá hiệu quả của MSCs trên bệnh nhân ĐTĐ T2. Không có phản ứng

miễn dịch hay dị ứng cấp tính nào được ghi nhận trong tất cả 13 thử nghiệm trên

người [117]. Sự hình thành mô không mong muốn cũng không được tìm thấy trong

các thử nghiệm, một tỷ lệ nhỏ chảy máu, đau tại vị trí truyền và đặt catheter động

mạch tụy sau ghép MSCs được báo cáo bởi Wu, Liu, Bhansali và cộng sự [6], [75],

[115]. 13 bệnh nhân tương đương 22.2% có triệu chứng sốt nhẹ đến trung bình

[68], [121]. Một số triệu chứng như buồn nôn, nôn, đau đầu, đau bụng dưới, và hiếm

nhiễm trùng hô hấp trên [53], [73], [92]. Các bằng chứng thử nghiệm lâm sàng trên

đã chứng minh sử dụng tế bào gốc nói chung và tế bào gốc trung mô nói riêng trong

điều trị ĐTĐ là một liệu pháp an toàn và hiệu quả.

CHƯƠNG 2: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU

2.1.1. Cỡ mẫu

30 bệnh nhân được lựa chọn để tham gia nghiên cứu.

2.1.2. Tiêu chuẩn lựa chọn bệnh nhân

Bệnh nhân tham gia nghiên cứu được lựa chọn thông qua việc khám sàng lọc

tại bệnh viện Đa khoa quốc tế Vinmec và đáp ứng được các tiêu chuẩn lựa chọn và

tiêu chuẩn loại trừ như sau:

2.1.2.1.Tiêu chuẩn lựa chọn

- Tiêu chuẩn lựa chọn nhận vào giai đoạn chuẩn bị (10 tuần trước khi

lấy tủy xương):

+Tuổi từ 18 trở lên

+Bệnh nhân cả nam và nữ được chẩn đoán xác định là ĐTĐ T2 theo “Hướng

dẫn chẩn đoán và điều trị đái tháo đường típ 2” của Bộ Y tế ban hành 2017.

+Bệnh nhân đang sử dụng các thuốc điều trị đái tháo đường (thuốc uống,

thuốc tiêm và/hoặc Insulin) với liều lượng ổn định trong 10 tuần.

+Tại thời điểm sàng lọc HbA1C ≥ 7,5% và ≤ 9% và FPG < 10 mmol/L.

+Bệnh nhân không có các bệnh cấp tính nặng nào khác cần được điều trị.

+Bệnh nhân đồng ý sử dụng dịch vụ ghép tế bào gốc để điều trị sau khi đã

được các bác sỹ giải thích về lợi ích, các nguy cơ, rủi ro có thể xảy ra.

- Tiêu chuẩn nhận vào truyền tế bào gốc sau giai đoạn chuẩn bị (Tuần

0):

+ Bệnh nhân tuân thủ điều trị sử dụng thuốc trong 10 tuần chuẩn bị với tỷ lệ

tuân thủ điều trị từ 80%.

+ HbA1C tại Tuần 0 ≥ 7,5% và ≤ 9%.

2.1.2.2.Tiêu chuẩn loại trừ

- Bệnh nhân có một trong các tiêu chuẩn dưới đây sẽ bị loại khỏi

nghiên cứu tại Tuần -10 và Tuần 0:

+ Bệnh nhân đang nhiễm trùng cấp tính, ung thư, bệnh tim, phổi, suy thận, suy

gan nặng.

+ Bệnh nhân mắc các bệnh khác, hoặc có các điều kiện, hoàn cảnh khác, theo

đánh giá nghiên cứu viên là khó đảm bảo tuân thủ điều trị nghiên cứu.

+ Các bệnh nhân có rối loạn đông máu có ý nghĩa lâm sàng.

+ Tiền sử dị ứng với thuốc gây mê, gây tê, kháng sinh.

2.2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.2.1. Thiết kế nghiên cứu

- Nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng, nhãn mở, đơn nhóm, so sánh trước và sau

điều trị.

2.2.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu

- Địa điểm: Viện nghiên cứu Tế bào gốc và Công nghệ Gen Vinmec

- Thời gian: Từ tháng 11/2017 đến tháng 03/2020

2.2.3. Quy trình nghiên cứu

Hình 2.1. Sơ đồ nghiên cứu

Bước 1: Thu tuyển bệnh nhân (theo quy trình lựa chọn đối tượng nghiên cứu

tại mục 2.1.2) thực hiện bởi các bác sỹ điều trị.

Bước 2: Thu thập mẫu tủy xương

Bênh nhân sau khi đủ tiêu chuẩn để tham gia nghiên cứu, sẽ được lấy tủy

xương từ gai chậu trước trên. Mỗi bệnh nhân sẽ được gây mê qua mask thanh quản

và gây tê tại chỗ, sau đó phẫu thuật viên sẽ hút khoảng 30-35 ml tủy xương từ gai

chậu trước trên và được đựng trong ống chuyên dụng có hòa lẫn Heparin với tỷ lệ

(1:1).

Bước 3: Phân lập tế bào gốc trung mô từ tủy xương để thu toàn bộ các tế bào

đơn nhân và nuôi cấy.

Khối tế bào đơn nhân được tách ra nhờ phương pháp ly tâm tỷ trọng sử dụng

dung dịch Ficoll Hypaque. Theo đó, lớp huyết tương ở phía trên cùng của ống

Falcon, lớp hồng cầu có tỷ trọng lớn nhất sẽ lắng xuống dưới đáy, lớp phân cách

màu trắng ngay dưới huyết tương sẽ được hút nhẹ nhàng bằng pipet nhựa vô

trùng, sản phẩm thu được là khối tế bào đơn nhân sẽ được dùng để nuôi cấy.

Thực hiện tại Phòng Tế bào gốc, Viện nghiên cứu Tế bào gốc và Công nghệ Gen

Vinmec bởi các chuyên viên và kỹ thuật viên trong đề tài nghiên cứu.

Bước 4: Đánh giá chất lượng tế bào trong quá trình nuôi cấy

- Đánh giá khả năng tăng sinh

Tế bào sau khi được phân lập sẽ được đưa vào nuôi cấy để đảm bảo đủ số

lượng truyền cho bệnh nhân với liều 1x106 TB/kg cân nặng

Để đánh giá chính xác khả năng tăng sinh của BMMSCs thì một phần tế bào

được cũng được nuôi cấy riêng rẽ và đánh giá thông qua chỉ số “ Thời gian nhân đôi

tế bào” (population doubling time - PDT). Tế bào được nuôi cấy ổn định từ passage

3 (P3) đến passage 7 (P7) với mật độ 5000 tế bào/cm2 trong các chai T25. Lặp lại 3

lần ở mỗi mẫu trong điều kiện nuôi cấy 5% O2 và 37°C. Khi mật độ nuôi cấy đạt

80% độ che phủ thì thu lấy tế bào, xác định tỷ lệ sống chết và đếm số lượng tế bào.

log 10(tổng số tế bào thuhoạch/ số tế bào gieo cấy) log 10(2)

 Số lần nhân đôi tế bào =

Thời gian nuôi cấy Số lần nhân đôi

x 100( %)

 PDT =

số lượngtế bào sống Tổng số tế bào

 Tỷ lệ tế bào sống =

- Định danh tế bào gốc trung mô từ tủy xương bằng phương pháp đếm

tế bào qua dòng chảy

Tế bào gốc trung mô từ tủy xương sau khi được nuôi cấy sẽ tiến hành định

danh MSC tại P3 bằng phương pháp đếm tế bào theo dòng chảy sử dụng máy

Navios Flow Cytometer của Beckman Coulter. Tối thiểu 106 tế bào được nhuộm với

các kháng thể bao gồm CD73, CD90, CD105 và các kháng thể âm tính (CD34, CD45,

CD11b, CD14, CD19, CD79α và HLA-DR (Human MSC Analysis Kit, BD Biosciences).

Kết quả định danh MSC với tỷ lệ CD73, CD90, CD 105 lớn hơn 95% và các giá trị của

các dấu ấn âm tính nhỏ hơn 2%.

Thực hiện tại phòng QC, Viện nghiên cứu Tế bào gốc và Công nghệ Gen Vinmec

- Đánh giá khả năng biệt hóa đa dòng thành tế bào sụn, xương và mỡ

Đánh giá khả năng biệt hóa của tế bào tại lần cấy chuyển số 4. Tế bào được

nuôi cấy tăng sinh trong đĩa 12 giếng. Bổ sung môi trường biệt hóa của Miltenyi

Biotec cho các dòng biệt hóa xương, sụn , mỡ khi mức độ cho phủ bề mặt của đĩa

đạt 80%. Theo dõi các mẫu tế bào biệt hóa hàng ngày, nhuộm tế bào theo các

khoảng thời gian như sau:

 Tế bào xương: Sau 7-10 ngày, sử dụng thuốc nhuộm Alizarin Red S gắn

kết chọn lọc với canxium phosphate của thành phần nên tạo ra từ các tế

bào xương được biệt hóa

 Tế bào sụn: sau 15- 20 ngày, sử dụng thuốc nhuộm Acian blue 8GX nhạy

cảm với proteoglycan và glycosaminoglycan sulface trong mẫu mô sụn

tạo thành

 Tế bào mỡ: sau khoảng 10 - 13 ngày, sử dụng thuốc nhuộm Oil red O có

thể hòa màng thẩm thấu vào bên trong các không bào có chứa các giọt

mỡ đã được biệt hóa.

- Đánh giá mức độ bất thường nhiễm sắc thể bằng việc xây dựng nhiễm

sắc thể đồ (Karyotyping).

Để phân tích bộ nhiễm sắc thể cho bệnh nhân, ít nhất 2x10 6 tế bào BM-MSCs

được ủ với Colcemid (Karyomax) nhằm giữ các tế bào ở nguyên trạng thái đang

phân bào, tế bào sau đó được thu thập bằng cách sử dụng enzyme phân tách, sau đó

li tâm thu cặn tế bào. Cố định tế bào bằng dung dịch Carnoy (3 methanol : 1 acetic

acid), sau đó được nhuộm nhiễm sắc thể D-Band và lập công thức NST. NST sau khi

xử lý với các phương pháp khác nhau như dùng trypsin, dung dịch kiềm, nhiệt độ

cao, muối thì vùng dị nhiễm sắc và nhiễm sắc thực sẽ bắt màu khác nhau (vùng dị

nhiễm sắc bắt màu đậm, vùng nhiễm sắc thực bắt màu nhạt) tạo nên các vùng băng

(band) sáng, tối đặc trưng cho từng NST. Dựa vào hình thái, kích thước và vùng

băng đặc hiệu của nhiễm sắc thể, lập công thức NST theo khuyến cáo của Hệ thống

di truyền tế bào học người (International System for Human Cytogenetic

Nomenclature - ISCN) để phát hiện bất thường số lượng, cấu trúc NST.

Thực hiện tại phòng Gen, Viện nghiên cứu Tế bào gốc và Công nghệ Gen Vinmec.

Bước 5: Kiểm định tính an toàn của tế bào trước truyền cho bệnh nhân.

Xét nghiệm Mycoplama

Xét nghiệm Mycoplasma được thực hiện bằng Kit MycoAlertTM để phát hiện

Mycoplasma có trong mẫu nuôi cấy tế bào, quy trình thực hiện theo khuyến cáo của

nhà sản xuất (Lonza, Mỹ). Enzyme tạo ra do quá trình dung giải Mycoplasma sẽ xúc

tác cho phản ứng chuyển hóa ADP thành ATP khi có mặt cơ chất thích hợp. Sau đó

nhờ enzyme luciferase ATP được chuyển thành tín hiệu ánh sáng. Bằng cách đo

mức độ ATP trước và sau khi bổ sung cơ chất thích hợp sẽ cho phép phát hiện có

hay không sự có mặt của Mycoplasma.). Sử dụng Kit MycoAlertTM cho phép xác

định độ phát quang sinh học của mẫu tế bào trước (giá trị A) và sau (giá trị B) khi

thêm cơ chất phản ứng để suy ra giá trị X = B/A. Sử dụng ngưỡng [0,9 – 1,2] để

nhận định kết quả, với X < 0,9 → Âm tính, với 0,9 < X < 1,2 → Nghi ngờ và X > 1,2 →

Dương tính.

Thực hiện tại phòng QC, Viện nghiên cứu Tế bào gốc và Công nghệ Gen Vinmec

Xét nghiệm nội độc tố Endotoxin

Dựa vào phản ứng tạo màu của Limulus Amebocyte Lysate (LAL) và phương

pháp đo quang phổ để xác định nồng độ nội độc tố- endotoxin có trong mẫu. Sử

dụng kit phát hiện nội độc tố trên hệ thống máy kiểm tra nội độc tố của hãng

Charlie River (Endosafe- PTS 100). Quy trình thực hiện theo hướng dẫn của nhà sản

xuất kit. Giá trị đo được của mẫu là chỉ số EU (endotoxin unit) trong mẫu đã nhân

với độ pha loãng. Hàm lượng nội độc tố trong sản phẩm tế bào không được lớn hơn

5 EU/kg cân nặng khi truyền qua đường tĩnh mạch ngoại vi và động mạch tụy.

Thực hiện tại phòng QC, Viện nghiên cứu Tế bào gốc và Công nghệ Gen Vinmec.

Xét nghiệm cấy khuẩn cấy nấm

Các mẫu cấy khuẩn, cấy nấm được chuyển tới Khoa xét nghiệm, bệnh viện Đa

khoa quốc tế Vinmec để tiến hành và trả kết quả sau từ 3 đến 5 ngày.

Tóm lại, các sản phẩm tế bào gốc trung mô từ tủy xương của các bệnh nhân

đái tháo đường típ 2 trước khi truyền phải đảm bảo các tiêu chuẩn:

- Đạt đủ liều truyền 1x106 tế bào/kg cân nặng với thể tích truyền là 20 ml

với đường truyền là tĩnh mạch ngoại vi và 10 ml khi truyền vào động

mạch tụy.

- Tỉ lệ tế bào sống trên 70% (đánh giá bằng phương pháp nhuộm Trypan

Blue).

- Không nhiễm vi khuẩn, vi nấm, và mycoplasma.

- Có đánh giá các biểu hiện bề mặt đạt tiêu chuẩn của tổ chức ISCT.

- Có nồng độ nội độc tố nằm trong giới hạn cho phép truyền cho bệnh

nhân (hàm lượng nội độc tố không được lớn hơn 5 EU/kg cân nặng).

- Đảm bảo sự ổn định về số lượng và cấu trúc nhiễm sắc thể theo khuyến

cáo của ISCN

Bước 6: Truyền tế bào cho bệnh nhân.

Tế bào truyền cho bệnh nhân theo 2 đường là tĩnh mạch ngoại vi và động

mạch tụy. Đường truyền tĩnh mạch ngoại vi xuất phát từ tĩnh mạch cánh tay.

Đường truyền động mạch tụy xuất phát từ động mạch đùi.

Bước 7: Theo dõi sau ghép 1 tháng, 3 tháng, và 6 tháng.

Các bệnh nhân sau ghép ổn định được xuất viện sau 72 giờ theo dõi, tái khám

định kì tại thời điểm 1 tháng, 3 tháng và 6 tháng sau ghép và được đánh giá các chỉ

số lâm sàng và cận lâm sàng (FPG và HbA1C).

2.2.4. Chỉ số nghiên cứu

2.2.4.1.Thông tin bệnh nhân:

- Tuổi (năm)

- Giới (nam/nữ)

Cânnặng (chiều cao)2

- BMI = (trong đó: câng nặng: kg, chiều cao: m)

- Thời gian mắc bệnh (năm)

- Tiền sử mắc các bệnh kèm theo (có/ không)

- Chỉ số Glucoso tĩnh mạch lúc đói trước ghép (FPG-mmol/L) và HbA1C (%)

2.2.4.2.Quá trình thu thập tủy xương

x 100 (%)

Tế bào đơnnhân sau phân lập Tế bào đơn nhântrước phân lập

- Hiệu suất thu thập (%) =

- Số lượng tế bào đơn nhân (Mononuclear cell) (tế bào)

2.2.4.3.Quá trình nuôi cấy tế bào truyền cho bệnh nhân

- Tổng số lượng tế bào thu được cho mỗi bệnh nhân (tế bào)

- Số ngày nuôi cấy (ngày)

- Thời điểm truyền theo giai đoạn cấy chuyển.

- Tỷ lệ tế bào sống (%)

2.2.4.4.Đánh giá các đặc điểm của tế bào gốc trung mô từ tủy xương của các

bệnh nhân Đái tháo đường TÍP 2

- Thời gian nhân đôi tế bào (giờ)

- Mức độ biểu hiện các dấu ấn bề mặt CD73, CD90, CD105 và các dấu ấn âm tính (%).

- Khả năng biệt hóa của tế bào trung mô ở các bệnh nhân đái tháo đường TÍP

2 (có/không)

- Tính ổn định của nhiễm sắc thể đồ (ổn định/không ổn định).

2.2.4.5.Chỉ số đánh giá tính an toàn của mẫu

- Mycoplama (âm tính/ nghi ngờ/ dương tính)

- Endotoxin (âm tính: <0,05 EU/L/ dương tính >0,05 EU/L)

- Cấy khuẩn cấy nấm (âm tính/ dương tính)

- Các triệu chúng lâm sang (cơ năng, thực thể).

- Các chỉ số lâm sàng cơ bản (công thức máu, chức năng gan, chức năng thận,

đông máu cơ bản, siêm âm tim, siêu âm ổ bụng, X-quang tim-phổi).

- Các chỉ số lâm sàng khác với các bệnh nhân xuất hiện các biến cố bất lợi

trong suốt thời gian ghép.

2.2.4.6.Đánh giá tính hiệu quả sau ghép

- Nồng độ đường huyết tĩnh mạch lúc đói (mmol/L): Được đo vào thời điểm buổi

sáng khi bệnh nhân đến khám, yêu cầu bệnh nhân nhịn ăn trước 8 giờ khi làm xét

nghiệm.

- Nồng độ HbA1C (%): Nồng độ HbA1C được đặc trưng bởi khả năng gắn

Glucose lên Hemoglobin của hồng cầu, bình thường chỉ số phần trăm này 4-6%. Các

trị số ngoài khoảng này đều cho phép đánh giá khả năng kiểm soát đường huyết

của bệnh nhân.

Hai nồng độ này được theo dõi tại thời điểm 72 giờ, 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng

sau ghép.

Tất cả các chỉ số cận lâm sàng đều được thực hiện tại Khoa xét nghiệm của

Bệnh viện đa khoa quốc tế Vinmec.

2.2.4.7.Đánh giá tính an toàn của liệu pháp

- Tác dụng phụ trước ghép, trong ghép và sau ghép

2.2.5. Thiết bị, hóa chất, vật tư tiêu hao

2.2.5.1.Hóa chất

Bảng 2.3. Hóa chất sử dụng trong nghiên cứu

STT Tên hóa chất Hãng sản xuất Quốc gia

Môi trường nuôi cấy MSCs 1 StemCELL Canada

Môi trường biệt hóa 2 Israel Biological Industries

Trypan Blue solution 4% 3 Thermo Fisher Mỹ

CTS™ Fibronectin™ Substrate 4 Thermo Fisher Mỹ

5 CTS™ GlutaMAX™-I Supplement (10X) Thermo Fisher Mỹ

6 PBS 1X Thermo Fisher Mỹ

7 CTS™ TrypLE™ Select Enzyme (1X) Thermo Fisher Mỹ

8 KaryoMAX® Colcemid™ Solution in PBS Thermo Fisher Mỹ

9 Methanol Sigma-Sldrich Đức

10 Acetic acid 100% Sigma-Sldrich Đức

11 FBS Sigma-Sldrich Đức

12 Kit định danh human MSCs BD Biosciences Mỹ

13 Mycoplasma Abcam Anh

14 Endotoxin Lozan Mỹ

15 Cồn 70̊ Việt Nam

2.2.5.2.Thiết bị

Bảng 2.4. Thiết bị sử dụng trong nghiên cứu

STT Tên dụng cụ Hãng sản xuất Quốc gia

1 Aspiration Integra Canada

2 Kính hiển vi soi ngược có camera Olumpus Mỹ

3 Máy ly tâm Eppendorf Đức

4 Pipet acid Eppendorf Đức

5 Pipet đơn kênh Eppendorf Đức

6 Tủ an toàn sinh học cấp 2 Thermo Fisher Mỹ

7 Tủ nuôi cấy tế bào

8 Gallios Flow Cytometer Mỹ Thermo Fisher Mỹ Beckman Coulter

2.2.5.3.Vật tư tiêu hao

Bảng 2.5. Vật tư tiêu hao sử dụng trong nghiên cứu

STT Tên vật tư Hãng sản xuất Quốc gia

1 Chai nuôi cấy Nunc T75 Thermo Fisher Mỹ

2 Chai nuôi cấy Nunc T25 Thermo Fisher Mỹ

3 Đĩa nuôi cấy tế bào 24 giếng Thermo Fisher Mỹ

4 Serological pipette 5 ml Thermo Fisher Mỹ

5 Serological pipette 10 ml Thermo Fisher Mỹ

6 Serological pipette 25 ml Thermo Fisher Mỹ

7 Buồng đếm tế bào Incyto Hàn

8 Ống ly tâm 15 ml Corning Mỹ

9 Ống ly tâm 50 ml Corning Mỹ

10 Đầu Tips Pippette 10 µl Greiner bio-one Áo

11 Đầu Tips Pippette 100 - 200 µl Thermo Fisher Mỹ

12 Đầu Tips Pippette 1000 µl Thermo Fisher Mỹ

13 Gạc sạch Việt Nam

14 Gạc vô khuẩn Việt Nam

15 Gẵng tay phẫu thuật Indonesia

2.2.6. Đạo đức trong nghiên cứu.

Nghiên cứu: “Thử nghiệm lâm sàng nhãn mở đơn nhóm đánh giá tính an toàn

và hiệu quả của liệu pháp ứng dụng tế bào gốc trung mô tự thân từ tủy xương

trong điều trị đái tháo đường típ 2” đã được thông qua bởi Hội đồng đạo đức trong

nghiên cứu y sinh học cấp quốc gia theo quyết định số 5393/QD BYT ngày

30/11/2017 do Bộ trưởng Bộ Y tế phê duyệt.

2.2.7. Phân tích dữ liệu

- Kết quả nghiên cứu được phân tích trên phần mềm Stata 12.0 và

GraphPad Prism 7.04. Các biến số định lượng có hàm phân chuẩn được

biểu diễn dưới dạng Mean ± SD và các biến số định lượng không có hàm

phân phối chuẩn được biểu diễn dưới dạng Median (range).

- Sử dụng kiểm định t-test ghép cặp (hàm phân phối chuẩn) / Wilcoxon test

(hàm phân phối không chuẩn) để đánh giá hiệu quả trước sau.

- Sử dụng kiểm định Mann-whitney test (hàm phân phối không chuẩn cho 2

nhóm độc lập)/ Kruskal-Wallis (hàm phân phối không chuẩn trên 2 nhóm)

đối với biến định lượng.

- Sử dụng kiểm định Fisher’s exact test đối với biến định tính.

CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ - BÀN LUẬN

3.1. ĐẶC ĐIỂM CHUNG CỦA BÊNH NHÂN THAM GIA NGHIÊN CỨU

Phân tích kết quả trên 22 bệnh nhân đã hoàn thành thời gian theo dõi 6 tháng

tại thời điểm báo cáo nghiên cứu. Kết quả điều trị của các bệnh nhân được trình

bày theo 2 đường truyền là tĩnh mạch (TM) và động mạch (ĐM).

Bảng 3.6. Đặc điểm chung của bệnh nhân tham gia nghiên cứu.

Tất cả bệnh nhân (N=22) 57,32 ± 10,2 3 (13,6) 19 (86,6)

14 (63,6) 8 (35,4) 23,0 ± 2,7 11,3 (2-25)

22 (100) 0 (0)

21 (95,5) 1 (4,5)

15 (68,2) 7 (32,8)

3 (13,6) 19 (86,4)

Tuổi, Mean±SD, năm >50 tuổi <50 tuổi Giới,N(%) Nam Nữ BMI, Mean±SD Thời gian mắc bệnh Tiến sử sử dụng thuốc lá, n (%) Không Có Tiền sử dụng rượu bia, n (%) Không Có Tiền sử tăng huyết áp, n (%) Không Có Tiền sử rối loạn lipid máu, n (%) Không Có Chỉ số cận lâm sàng trước ghép, n (%) Nộng độ đường huyết TM lúc đói (mmol/L) HbA1C (%)

7,9 ± 1,9 8.,4 ± 0,6

Đánh giá đặc điểm bệnh nhân tham gia nghiên cứu trên cả 2 nhóm TM và ĐM

cho thấy: Phần lớn bệnh nhân tham gia nghiên cứu là nam giới với tỷ lệ là 63,6%.

Độ tuổi trung bình là 57,3 ± 10,3 (n=22) tuổi. Tuy nhiên, phần lớn các bệnh

nhân tham gia nghiên cứu đều đạt độ tuổi trên 50 tuổi, chỉ có 3 bệnh nhân dưới 50

tuổi. Độ tuổi phân bố không đều theo tiêu chí của đề tài đã chọn cũng có thể ảnh

hưởng việc đánh hiệu quả điều trị theo tiêu chí này bởi một đặc điểm quan trong

của việc tăng sinh tế bào gốc trung mô liên quan mật thiết đến tuổi của bệnh nhân

[2]. Theo thời gian số lượng tế bào gốc ở mỗi cá thể có nguy cơ giảm dần và việc

nuôi cấy chúng ngày càng trở lên khó khăn. Thậm chí ở một số nghiên cứu có

những mẫu tế bào gốc của một số bệnh nhân tiểu đường không thể tăng sinh được

[89]. Tuy nhiên, chúng tôi vẫn lựa chọn để phân tích với mong muốn đánh giá bước

đầu với những bệnh nhân trẻ tuổi để có những định hướng cho các nghiên cứu tiếp

theo. Độ tuổi của đối tượng tham gia nghiên cứu của cao hơn với các nghiên cứu

tương tự trước đó như: nghiên cứu của Bhasali và cộng sự, 2014 có độ tuổi trung

bình thấp hơn với 51 tuổi (46,5 – 5,6). Nghiên cứu của Liu và cộng sự, 2014, có độ

tuổi là 52,9 ± 10,5 năm. Wu và cộng sư, 2014, là 56,9 ± 5,9 [6], [75], [115].

Thời gian mắc bệnh trung bình là 11,3 năm, tuy nhiên, sự chênh lệch số năm

mắc giữa các bệnh nhân là rất lớn, trong khi có bệnh nhân chỉ có thời gian mắc là 2

năm thì cũng có bệnh nhân có thời gian mắc lên đến 25 năm. không phải tất cả các

nghiên cứu đều tối ưu hóa được khoảng thời gian mắc bệnh để đánh giá được hiệu

quả điều trị một cách chính xác và giảm các yếu tố nhiễu, một số nghiên cứu chỉ đưa

ra lựa chọn giành riêng cho các bệnh nhân có thời gian mắc trên 10 năm nhưng

cũng có một số nghiên cứu vẫn lựa chọn khoảng thời gian mắc từ 2 năm đến hơn 20

năm [6], [115]. Trong nghiên cứu của chúng tôi, số năm mắc của bệnh nhân không

được quy định rõ ràng, vì vậy đó cũng là lý do việc đánh giá hiệu quả điều trị của

bệnh nhân chưa thể khách quan vì thời gian ảnh hưởng của môi trường tiểu đường

có thực sự ảnh hưởng đến chất lượng tế bào BM-MSCs vẫn chưa được nghiên cứu rõ

ràng trong các nghiên cứu trước đó.

Chỉ số khối cơ thể (Body Mass Index) chỉ số BMI trung bình chung ở cả 2

nhóm là 23,0 ± 2,7. Không có sự khác biệt giữa hai nhóm TM và ĐM

Tất cả các bệnh nhân qua khai thác tiền sử đều không sử dụng thuốc lá, chỉ

có một bệnh nhân thuộc nhóm truyền tĩnh mạch có sử dụng rượu bia. Gần một phần

ba số lượng bệnh nhân có tiền sử tăng huyết áp (32,8 %) và 84,6% số lượng bệnh

nhân có ghi nhận rối loạn lipid máu. Tỷ lệ rối loạn lipid máu cao ở cả 2 nhóm. Chỉ số

BMI kết hợp với tiền sử rối loạn lipid máu là một chỉ số vô cùng quan trọng trong

việc đánh giá hiệu quả điều trị của các bệnh nhân ĐTĐ T2 bởi việc thừa cân béo phì,

kèm theo rối loạn chuyển hóa lipid sẽ là yếu tố làm nặng thêm tiến triển của bệnh

[42]. Bằng chứng đã chỉ ra rằng nồng độ chất chuyển hóa lipid nội bào tăng có liên

quan đến giảm sự nhạy cảm với insulin ở cả gan và cơ xương. Cơ chế phân tử cụ

thể của kháng insulin do lipid đã được xem xét kỹ lưỡng trong các nghiên cứu

trước [96], [24]. Sự tích lũy quá mức các chất chuyển hóa lipid độc hại, chẳng hạn

như diacylglycerol (DAG) và các loại ceramide, cung cấp một mối liên hệ nhân quả

giả định giữa tăng lipid mô và kháng insulin gan thông qua điều chỉnh tín hiệu

insulin [24], [102]. Trong nghiên cứu này, phần lớn các bệnh nhân có rối loạn lipid

nhẹ, điều này cũng ảnh hưởng đến việc đánh giá kết quả điều trị.

Các bệnh nhân được lựa chọn có nồng độ đường huyết tĩnh mạch lúc đói trung

bình là 8,1 ± 1,8 mmol/L. Nồng độ HbA1C là 8,2 ± 0,5 (%). Các bệnh nhân đều đảm

bảo được các tiêu chuẩn lựa chọn đề ra. Chúng tôi kì vọng các tất cả các bệnh nhân

có thể giảm được mức HbA1C xuống dưới 7,5%. Kết quả lựa chọn chỉ số HbA1C ban

đầu của các bệnh nhân trong các nghiên cứu trước ở mức cao ví dụ như nghiên cứu

của Etada (2008) Skyler (2015) Hu (2012) và công sự lần lượt là 8,8± 0,2%, 8,6 ±

0,11%;7,9 ± 0,64% [33], [105], [52].

3.2. ĐẶC ĐIỂM TẾ BÀO GỐC TRUNG MÔ TỪ TỦY XƯƠNG CỦA BỆNH NHÂN ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TÍP 2

3.2.1. Kết quả phân lập và nuôi cấy tăng sinh tế bào gốc trung mô từ tủy

xương của bệnh nhân đái tháo đường típ 2.

Bảng 3.7. Kết quả tế bào thu được của quá trình thu thập, phân lập và nuôi cấy tăng sinh tế bào gốc trung mô từ tủy xương của bệnh nhân đái tháo đường típ 2

Tất cả mẫu bệnh nhân STT Đặc điểm (N=22)

Số lượng tế bào đơn nhân trước phân 133 1

lập (106 tế bào) Số lượng tế bào đơn nhân sau phân lập (35 - 231) 87,3 2

(106 tế bào) Hiệu suất phân lập % (2,4 - 168) 67 3 (6.9 - 133)

5

(Mean ± SD) Thời điểm truyền cho bệnh nhân (n, %) P3 – lần cấy chuyển số 3 P4 – lần cấy chuyển số 4 P5 – lần cấy chuyển số 5 Tỷ lệ tế bào sống (%) Số ngày nuôi cấy Số lượng tế bào truyền cho bênh nhân 6 7 4 15 (68,2) 6 (27,3) 1 (4,5) 97,9 ± 1,4 24 ± 6,4 59,4 ± 12,2

Các bệnh nhân đủ tiêu chuẩn tham gia nghiên cứu được tiến hành lấy tủy

xương để thu thập tế bào gốc và sau đó một lượng lớn tế bào sẽ được tăng sinh

nhằm đảm bảo đủ số lượng tế bào truyền cho bệnh nhân. Bảng 3.2 cho thấy:

Thu thập tế bào gốc trung mô từ tủy xương

Tế bào đơn nhân thu thập từ tủy xương của bệnh nhân có sự khác nhau, số

lượng tế bào này có thể phụ thuộc vào tuổi của bệnh nhân, vào thời gian mắc bệnh

tiểu đường, nhưng không loại trừ các yếu tố về mặt kĩ thuật của phẫu thuật viên

hoặc có thể do vùng chọc tủy không chính xác. Hiệu suất phân lập tương đối đồng

đều giữa các mẫu và đạt ngưỡng trung bình là 68,2 ± 8,4. tế bào đơn nhân trước khi

phân lập đạt khoảng 133 triệu tế bào, trong khi con số này chỉ đạt 87,3 triệu sau

phân lập bằng phương pháp thủ công sử dụng Ficoll khi ly tâm gradient tỷ trọng.

Tuy nhiên số lượng tế bào đơn nhân sau khi phân lập lại rất quan trọng, điều này

được dẫn chứng bởi tình trạng số lượng thu thập quá ít có thể cần phải kéo dài thời

gian nuôi cấy trước khi truyền cho bệnh nhân. Điều này có thể ảnh hưởng đến chất

lượng tế bào và hiệu quả điều trị.

Đánh giá khối tế bào truyền cho bệnh nhân

Các tế bào đơn nhân sau khi phân lập được nuôi cấy tăng sinh để đảm bảo

số lượng truyền theo liều 1x106 tế bào/kg cân nặng cho mỗi bệnh nhân. Hầu hết các

bệnh nhân đều có đủ số lượng tế bào cần. Tuy nhiên, có một bệnh nhân tế bào tăng

sinh chậm và không đủ số lượng truyền. (Bệnh nhân nam, 67 tuổi, tiền sử mắc ĐTĐ

T2 5 năm có số lượng tế bào thu được sau thời gian nuôi cấy 31 ngày tại lần cấy

chuyển thứ 4 với 32 triệu tế bào trong khi lượng tế bào cần cho bệnh nhân là 79

triệu tế bào).

Hầu hết các bệnh nhân đều được ghép tế bào gốc tại lần P3 (68,2%), chỉ có

một bệnh nhân phải ghép tại P5. Mặc dù việc truyền tế bào ở các giai đoạn khác

nhau không nằm trong yêu cầu chuẩn bị tế bào BM-MSC trước ghép cho bệnh nhân,

tuy nhiên việc kéo dài thời gian tăng sinh và tăng số lần cấy chuyển cũng ảnh

hưởng đến chất lượng truyền vào cho bệnh nhân.

Tỷ lệ tế bào sống của tế bào gốc sau khi tăng sinh là rất cao với giá trị trung

bình là 97,9 ± 1,4.

3.2.2. Đánh giá chất lượng tế bào gốc trung mô từ tủy xương

3.2.2.1.Hình thái tế bào gốc trung mô từ tủy xương

Trong khi nuôi cấy bằng môi trường không chứa huyết thanh (Serum-free) và

không chứa các chất có nguồn gốc từ động vật (Xeno-free), dòng tế bào gốc trung

mô phân lập từ tủy xương của các bệnh nhân mắc ĐTĐ T2 có biểu hiện các đặc

điểm hình thái học cơ bản của tế bào gốc bao gồm: khả năng bám dính trên bề mặt

chai nuôi cấy bằng nhựa, có hình dạng giống nguyên bào sợi, tế bào thuôn dài, nhân

to, dễ quan sát. Hình thái của tế bào không thay đổi trong suốt thời gian nuôi cấy

khi quan sát từ lần cấy chuyển thứ 3 (P3) đến lần cấy chuyển thứ 7 (P7) và tương

tự nhau ở các mẫu (Hình 3.1).

Hình 3.1. Đặc điểm hình thái học của tế bào gốc trung mô từ tủy xương của bệnh

nhân đái tháo đường típ 2 khi nuôi cấy trong môi trường không chứa huyết

thanh (Serum-free) và không chứa các chất từ động vật (xeno-free). Hình đại diện

của dòng tế bào gốc BM-MSCs được nuôi cấy ở P3 và P7 cho thấy sự đồng nhất về hình

thái khi nuôi cấy trong môi trường phòng thí nghiệm. Thanh tỉ lệ: 100 µm

3.2.2.2.Thời gian tăng sinh tế bào gốc trung mô từ tủy xương của bệnh nhân

đái tháo đường típ 2

Khả năng tăng sinh của tế bào gốc trung mô từ tủy xương của các bệnh nhân

ĐTĐ T2 được đánh giá thông qua chỉ số “Thời gian nhân đôi” (Population Doubling

Time - PDT). Phân tích PDT của tế bào trên 16 bệnh nhân ở cả hai nhóm cho thấy giá

trị trung vị của thời gian nhân đôi là 59,29 giờ. Tuy nhiên, khi phân tích khả năng tăng

sinh của tế bào theo số năm mắc ĐTĐ T2 cho thấy có sự khác biệt về thời gian nhân đôi

của tế bào gốc trung mô từ tủy xương của các nhóm bệnh nhân. Thời gian nhân đối tế

bào của nhóm có thời gian mắc từ 5-15 năm là cao nhất với trung vị là 81,76 (61,52-

100,36). Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê ở nhóm có thời gian mắc nhỏ hơn 5 năm

và nhóm bệnh nhân có thời gian mắc dưới 5 năm với khi sử dụng kiểm định Kruskal

Wallis test (p < 0,05) (Hình 3.2).

Hình 3.2. Thời gian nhân đôi của tế bào gốc trung mô từ tủy xương ở bệnh nhân đái tháo đường típ 2.

Thời gian tăng sinh tế bào gốc trung mô từ tủy xương của các bệnh nhân mắc ĐTĐ T2

theo số năm mắc (G1: Thời gian mắc <5 năm,n= 5, G2: Thời gian mắc bệnh 5-15

nămn,n= 9 G3: Thời gian mắc bệnh >15 năm, n=5) Thời gian nhân đối tế bào của

nhóm có thời gian mắc từ 5-15 năm là cao nhất với trung vị là 81,76 (61,52-

100,36). Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê ở nhóm có thời gian mắc nhỏ hơn 5

năm và nhóm bệnh nhân có thời gian mắc dưới 5 năm với khi sử dụng kiểm định

Kruskal Wallis test (p < 0,05).

Những bệnh nhân mắc trên 5 năm thì nguy cơ biến chứng của tiểu đường tăng

cao, điều này gợi ý rằng, việc xuất hiện các biến chứng sau mắc sẽ ảnh hưởng đến

chất lượng tế bào gốc của các bệnh nhân mắc ĐTĐ T2 mà nguyên nhân sâu xa có

thể do ảnh hưởng từ môi trường tiểu đường trong cơ thể ở các bệnh nhân này. Một

số nghiên cứu về ảnh hưởng của tiểu đường lên tốc độ tăng sinh cho thấy thời gian

mắc bệnh càng lâu thì tốc độ tăng sinh tế bào có xu hướng giảm [62]. Các bệnh

nhân có thời gian mắc dưới 5 năm có PDT là 57,81 giờ (42,47- 59,09, n=5) điều này

được giải thích bởi các bệnh nhân này có tuổi khá trẻ, 2/5 bệnh nhân thuộc nhóm

này có tuổi dưới 50 chiếm toàn bộ số lượng bệnh nhân trẻ của đối tượng tham gia

nghiên cứu. Tuy nhiên vẫn có 2/5 bệnh nhân trên 50 tuổi nên không thể khẳng

hoàn toàn rằng yếu tố tuổi quyết định đến thời gian tăng sinh tế bào mà cần có kết

hợp với diễn biến bệnh. Đây cũng là một trong những điều đáng lưu ý từ tế bào của

các bệnh nhân ĐTĐ T2. Tuổi cao kèm theo bệnh lý mạn tính với thời gian mắc bệnh

kéo dài có thể ảnh hưởng đến các đặc tính của tế bào gốc. So sánh với PDT của các

dòng tế bào gốc trung mô khác nhau trong nghiên cứu của June và cộng sự, 2016,

cho thấy rằng các dòng tế bào khỏe mạnh trong nghiên cứu của họ có thời gian cao

hơn với nghiên cứu của chúng tôi là 52 giờ, tuy nhiên nhóm bệnh nhân có thời gian

mắc dưới 5 năm thì có PDT tương đương và nhóm có thời gian mắc từ 5 đến 15

năm lại có PDT cao hơn. Trong khi đó, PDT của tế bào gốc tử dây rốn, nhau thai ,

mô mỡ lại thấp hơn với giá trị tương ứng là 43, 37, 40 giờ [98]. Một nghiên cứu

khác của của Michalina Alika và cộng sự (năm 2019) nghiên cứu các đặc điểm tăng

sinh của tế bào gốc trung mô từ mô mỡ cũng cho thấy thời gian nhân đôi tế bào của

nhóm bệnh nhân tiểu đường là 47 giờ tương đồng với nhóm có thời gian mắc <5

năm của chúng tôi [4]. Từ đó rút ra giả thiết rằng thời gian nhân đối của tế bào gốc

có liên quan đến số năm mắc bệnh ĐTĐ T2 và diễn biến theo thời gian của các bệnh

nhân ĐTĐ T2.

Các nghiên cứu về ảnh hưởng của môi trường tiểu đường lên đặc điểm tăng

sinh của tế bào gốc trung mô đã được thực hiện trên các loại tế bào khác nhau.

Trong nghiên cứu của Phadnis và công sự, 2009, trên 90 bệnh nhân mắc ĐTĐ T2

cho thấy chỉ có 57% số tế bào của bệnh nhân có thể tăng sinh được, với nhiều mẫu

tế bào của các bệnh nhân trên 50 tuổi không thể tăng sinh và các bệnh nhân trẻ có

thể tăng sinh lên đến lần cấy chuyển thứ 15 [90]. Tuy nhiên, trong nghiên cứu của

chúng tôi hầu hết các mẫu tế bào của bệnh nhân trên 50 tuổi đều tăng sinh ổn định,

ngoài ra tế bào của các bệnh nhân trẻ tuổi cho thấy khả năng tăng sinh vượt trội

hơn tương đồng với kết quả nghiên cứu trên dòng tế bào gốc thương mại cho thấy

khả năng tăng sinh đến lần cấy chuyển thứ 23 và sau đó chúng dường như bước

vào giai đoạn lão hóa [120]. Đánh giá ảnh hưởng của môi trường bệnh tiểu đường

lên tế bào gốc mô mỡ trong nghiên cứu của Michalina Alika và cộng sự không chỉ

dừng lại ở việc tính toán thời gian nhân đôi của tế bào mà nghiên cứu còn chỉ ra

mức độ biểu hiện của protein Ki-67- một protein hạt nhân có vai trò quan trọng

trong sự tăng sinh tế bào và được biểu hiện trong giai đoạn chu kỳ tế bào G1,S,G2,M

và không có trong pha G0 bằng phương pháp nhuộm miễn dịch huỳnh quang. Điểm

phần trăm Ki-67 được tính là số ô vuông có bắt màu dương tính, trong khi ở nhóm

chứng điểm phần trăm này là 60% thì ở nhóm bệnh nhân tiểu đường là 40%. Hơn

nữa, các nghiên cứu trước đã chứng minh rằng hoạt động tăng sinh giảm có liên

quan mật thiết đến việc rút ngắn thời gian telomere ở những bệnh nhân mắc các

bệnh liên quan đến tuổi và bệnh ĐTĐ T2 [28] [97].

3.2.2.3.Đánh giá biểu hiện các dấu ấn bề mặt của tế bào gốc trung mô từ tủy

xương của bệnh nhân đái tháo đường típ 2

Định danh tế bào gốc theo phương pháp đếm tế bào qua dòng chảy cho thấy

tất cả các mẫu tế bào đều cho biểu hiện các dấu ấn dương tính CD73, CD90, CD105

trên 95% và biểu hiện rất ít các dấu ấn âm tính bao gồm CD34, CD45, CD11b, CD14,

CD19, CD79α và HLA-DR (<2%) theo tiêu chuẩn của Hiệp hội Quốc tế về Liệu pháp

tế bào ISCT 2006 (International Society for Cell and Gene Therapy 2006) cả P3 và

P7 (Hình 3.3) cho thấy khi các bệnh nhân truyền ở các giai đoạn cao hơn thì các tế

bào này vẫn đảm bảo được các đặc trưng của tế bào gốc. Việc các bệnh nhân truyền

tế bào tại P5 thì theo tiêu chuẩn này vẫn đảm bảo về chất lượng tế bào. Tuy nhiên,

một thực tế là tiêu chuẩn của ISCT trong việc xác định kiểu hình của MSC thì với các

dấu ấn bề mặt này vẫn chưa thể phân biệt được MSC với các nguyên bào sợi, hay

một số dòng tế bào khác. Điều này được thể hiện ở việc các MSC được nuôi cấy có

tính đồng nhất và mạnh mẽ đối với CD105, CD90 và CD73, bất kể trong thời gian

nuôi cấy lâu dài. Tuy nhiên, CD105 và CD73 cũng được thể hiện trên các nguyên bào

sợi da – một loại tế bào có khả năng tăng sinh và biệt hóa thấp hơn nhiều so với

BM-MSC. Hơn nữa, một loại tế bào có khả năng bám dính tương tự MSC có khả

năng nhân lên trong tế bào nội mô tĩnh mạch, tế bào tĩnh mạch chủ cũng là biểu

hiện CD105 và CD73 dương tính. Điều này ngụ ý rằng việc chứng minh duy nhất

biểu hiện CD105 và CD73 và CD90 trên các tế bào nuôi cấy là không đủ để chứng

minh danh tính MSC của chúng. Sẽ là thuận lợi nếu có thể tìm thấy một dấu phân tử

của các MSC, theo cách của oct-4 cho các tế bào gốc phôi nhằm giúp xác định các

MSC trong các mô và cơ quan khác. Một số gợi ý rằng việc sử dụng Stro-1 kết hợp

với CD106 trong hệ thống dấu ấn dương tính nhằm tăng khả năng lựa chọn tối ưu

dòng MSC, tuy nhiên các dấu ấn này lại lại biểu hiện tốt trong các tế bào MSC gốc

mà giảm biểu hiện ở các dòng MSC đã tăng sinh và biệt hóa thành các dòng khác

[43]. Ngoài ra, sự biểu hiện đồng thời của các yếu tố phiên mã (TF) kích hoạt một số

dòng trung mô (bao gồm mỡ, sụn xương và các dòng tế bào khác) đã được báo cáo

trong các BM-MSCs gốc hoặc thế hệ các dòng tế bào được tăng sinh từ chúng . Gần

đây, một số nghiên cứu đã tìm thấy sự biểu hiện mạnh mẽ của các gen hỗ trợ

pericytic và hematopoiesis trong CD271 + của BM MSC gốc hay đã tăng sinh với

các phát hiện trước đó thu được bằng cách sử dụng lựa chọn MSC dựa trên Stro-1

[17]. Tuy nhiên, tất cả các giả thiết này vẫn chưa đủ mạnh để có thể đưa ra được

các căn cứ về việc tìm ra các dấu ấn đặc trung hơn cho các dòng MSC nói chung và

BM-MSC nói riêng.

A

B

Lần cấy chuyển

(n=22)

Dấu ấn bề mặt CD73 (%) Mean,SD CD90 (%) Mean, SD CD105 (%) Mean, SD CD45, CD34, CD11b, CD19, HLA-DR (%) P3 98,8 ± 0,5 98,6 ± 1,2 98,5 ± 1,2 0,005 P7 97,8 ± 0,9 98,9 ± 1,2 99,6 ± 0,7 0,077

Hình 3.3. Đánh giá biểu hiện dấu ấn bề mặt tế bào gốc trung mô từ tủy xương của bệnh nhân mắc đái tháo đường típ 2 tại thời điểm cấy chuyển số 3 và số 7 bằng phương pháp đếm tế bào theo dòng chảy. A - Hình ảnh biểu hiện các dấu ấn tế bào tại P3 của bệnh nhân nam, 57 tuổi với mức độ biểu hiện các dấu ấn dương tính với CD 73 là 96,9%, CD90 là 99,5%, CD105 là 99,5% và các dấu ấn âm tính (CD45, CD34, CD11b, CD19, HLA-DR) là 0,077%. 3.2.2.4.Đánh giá khả năng biệt hóa của tế bào gốc trung mô từ tủy xương của

bệnh nhân đái tháo đường típ 2

Đánh giá khả năng biệt hóa tế bào của tất cả các mẫu bệnh nhân cho

thấy tất cả các mẫu tế bào BM-MSC của các bệnh nhân ĐTĐ T2 đều có khả

năng biệt hóa thành các tế bào mỡ, xương và sụn. Nhuộm các tế bào mỡ với

thuốc nhuộm Oil red O sẽ thấy rõ các không bào chứa các giọt lipid bắt màu

vàng cam do thuốc nhuộm này có khả năng thẩm thấu qua màng phospholipid

kép của tế bào, sau đó đi vào không bào và giúp các giọt lipid bắt màu một

cách rõ ràng (Hình 3.4A). Các tế bào sau khi được biệt hóa thành xương thể

hiện màu đỏ khi nhuộm với thuốc nhuộm Alizarin Red S bởi sự gắn kết chọn

lọc với canxium phosphate của thành phần nên tạo ra từ các tế bào xương

được biệt hóa (Hình 3.4B). Các tế bào sụn được nhuộm bởi Acian blue 8GX

chất nhuộm đặc hiệu của proteoglycan và glycosaminoglycan trên bề mặt tế

bào trong mẫu mô sụn tạo thành (Hình 3.4C).

Khả năng biệt hóa thành tế bào xương và mỡ cho thấy sự ổn định hơn tế bào

sụn. Có sự khác biệt về mức độ biệt hóa giữa các mẫu bệnh nhân tuy nhiên chúng

tôi vẫn chưa có đủ công cụ để có thể định lượng sự khác biệt này. Đánh giá khả

năng biệt hóa theo tiêu chuẩn của ISCT 2006 mang tính chất định tính cho các mẫu

tế bào để xác định rằng quần thể tế bào gốc còn khả năng biệt hóa hay không sau

khi nhuộm với các thuốc nhuộm đặc hiệu, tuy nhiên lại không thể đánh giá sự khác

biệt của các nhóm bệnh nhân [29]. Khi nghiên cứu về khả năng biệt hóa của nhóm

tế bào gốc trong liệu pháp tế bào để điều ĐTĐ T2 nghiên cứu của Phadnis và cộng

sự cho thấy môi trường tiểu đường không ảnh hưởng nhiều đến khả năng biệt hóa

của tế bào gốc trung mô từ tủy xương, tuy nhiên nghiên cứu này cũng không làm rõ

được mức độ biệt hóa để so sánh giữa các nhóm [90]. Một nghiên cứu khác của

nhóm tác giả về việc so sánh khả năng biệt hóa của các dòng tế bào khác nhau: tủy

xương, mô mỡ, dây rốn và nguyên bào sợi của tế bào gốc trung mô từ mô mỡ cho

kết quả các gen biểu hiện sau khi biệt hóa tạo xương (DLX5 RUNX2, SPP1), tạo

mỡ (PPARG, C / EBPA và LPL) và các gen liên quan đến tạo sụn (BMP7, SOX9 và

COL2A1) đã được thử nghiệm [123] [54]. Việc sự dụng mức độ biểu hiện gen là cần

thiết đề đánh giá sự biệt hóa khác nhau giữa các bệnh nhân, từ đó đánh giá được

mức độ biệt hóa tối ưu có thể áp dụng trong điều trị cá thể định hướng các phương

pháp điều trị hiệu quả hơn.

Hình 3.4. Khả năng biệt hóa đa dòng của tế bào gốc trung mô từ tủy xương của

bệnh nhân đái tháo đường típ 2 - nam, 37 tuổi tại giai đoạn cấy chuyển số 3

thành tế bào mỡ, xương và sụn . A - Tế bào trước biệt hóa, B - Tế bào mỡ sau khi

nhuộn với thuốc nhuộm Oil red O xuất hiện các giọt lipid bắt màu vàng cam (vị trí mũi

tên chỉ), C-Tế bào xương sau khi nhuộm với Alizarin Red S bắt màu đỏ, D - Tế bào sụn

sau khi nhuộm với thuốc nhuộm Acian blue 8GX bắt màu xanh lam. Thanh tỷ lệ: 50µm.

3.2.2.5.Phân tích bộ nhiễm sắc thể người sau thời gian nuôi cấy của tế bào

gốc trung mô từ tủy xương của bệnh nhân đái tháo đường típ 2

Hình 3.5. Hình ảnh bộ nhiễm sắc thể người 46, XY tại giai đoạn cấy chuyển số 3

trên tế bào gốc trung mô từ tủy xương của bệnh nhân đái tháo đường típ 2 - nam,

33 tuổi bằng phương pháp nhuộm D-Band nhiễm sắc thể.

Đánh giá kết quả phân tích nhiễm sắc thể của 22 mẫu bệnh nhân tại P3, tất cả

các mẫu đều cho ra kết quả bình thường hình thái nhiễm sắc thể và đủ tiêu chuẩn

để truyền cho bệnh nhân (Hình 3.5). Việc tăng sinh tế bào gốc qua những lần cấy

chuyển khác nhau chứa ẩn các nguy cơ thay đổi về số lượng cũng như cấu trúc

nhiễm sắc thể. Để kiểm tra được tính an toàn cũng ổn định về mặt nhiễm sắc thể, tất

cả các mẫu truyền cho bệnh nhân đều được đánh giá kiểu hình nhiễm sắc thể. Theo

khuyến cáo của Hệ thống di truyền tế bào học người (International System for

Human Cytogenetic Nomenclature - ISCN) thì việc phân tích một bộ nhiễm sắc thế

cần đến 20 tế bào đang trong chu kì phân bào tại pha phân bào (Metaphase) [62].

Tuy nhiên, không phải lúc nào số lượng metaphase cũng đủ cho một lần phân tích.

Trong nghiên cứu của chúng tôi việc phân tích bộ nhiễm sắc thể người sau thời gian

nuôi cấy tại giai đoạn P3 cho thấy hầu hết các mẫu tế bào bệnh nhân đều cho kết

quả bình thường của hình thái nhiễm sắc thể. Rối loạn số lượng không lặp lại xảy ra

ở một số mẫu với tỷ lệ thấp điều này được giải thích bởi kỹ thuật phân tích G-

banding luôn có các sai số liên quan đến số lượng. Trong một nghiên cứu tổng quan

hệ thống về các bất thường nhiễm sắc thể đã chỉ ra trong 15 bài báo đạt tiêu chuẩn

phân tích thì có 8 bài viết báo cáo bất thường về nhiễm sắc thể của BM-MSC hay

AD-MSC trong đó đột biến về số lượng không lặp lại được phát hiện thường xuyên

hơn so với những thay đổi về cấu trúc [62].

3.2.2.6.Kết quả quả cấy khuẩn cấy nấm, mycoplasma, endotoxin của mẫu tế

bào gốc trước khi ghép cho bệnh nhân.

Ngoài việc đảm bảo được chất lượng tế bào trước khi truyền cho bệnh nhân

chúng tôi cũng tiến hành các xét nghiệm cấy khuẩn, cấy nấm, Mycoplasma và

Endotoxin nhằm đảm bảo tính an toàn trước truyền cho bệnh nhân. Các mẫu tế bào

trước ghép cho thấy đều không bị nhiễm khuẩn, nhiễm nấm. Kết quả Mycoplasma

âm tính và yếu tố độc tế bào (Endotoxin) nằm trong giới hạn cho phép (<0,05EU/L).

3.3. KẾT QUẢ GHÉP TẾ BÀO GỐC

3.3.1. Đánh giá tính an toàn của việc áp dụng các quy trình ghép tế bào gốc

tủy xương tự thân điều trị đái tháo đường típ 2

3.3.1.1.An toàn trong qui trình lấy tủy xương

Tất cả các bệnh nhân đều được lấy tủy xương theo quy trình chuẩn, trong

quá trình lấy tủy không xảy ra bất kì các tai biến nào.

Theo dõi 24h sau lấy tủy xương ghi nhận các tai biến sau:

- 1/22 bệnh nhân có biểu hiện đau tại vùng chọc tủy (Vas 3 điểm),

- 1/22 bệnh nhân có biểu hiện chóng mặt, buồn nôn.

Cả 2 bệnh nhân đều được xử lý bằng việc nghỉ ngơi và hồi phục hoàn toàn sau

24 giờ.

3.3.1.2.An toàn trong qui trình truyền tế bào gốc

Qui trình đã được thực hiện trên 22 bệnh nhân với 11 lượt truyền vào TM

cánh tay và 11 lượt truyền vào ĐM tụy (đường can thiệp xuất phát từ ĐM đùi).

Ghi nhận các tác dụng ngoài ý muốn sau ghép tế bào gốc bao gồm:

3.3.1.3.Biến chứng theo dõi sau ghép 72 giờ

Bảng 3.8. Kết quả theo dõi bệnh nhân 72 giờ sau ghép trên hai nhóm bệnh

nhân truyền động mạch và tĩnh mạch

Tình tràng bênh nhân sau Động mạch, n (%) Tĩnh mạch, n (%)

truyền Ổn định Biến chứng Đau tại vị trí can thiệp Cháy máu Chóng mặt Buồn nôn/Nôn Tăng FPG sau ăn Bí tiểu (cầu bàng quang) Biến chứng khác (ghi rõ) 8 (72,3) 3 (27,7) 1 (9) 1 (9) 1 (9) 1 (9) 1 (9) 1 (9) 0 (0) 10 (91) 1 (9) - - - - 1(9) - 0(0)

Biến chứng theo dõi sau ghép 72 giờ của các bệnh nhân truyền đường ĐM

nhiều hơn TM với tỷ lệ tương ứng là 27,5% và 9%. Ở cả hai nhóm đều ghi nhân

một bệnh nhân bị tăng đường huyết tĩnh mạch sau ăn > 20mmol/L, các bệnh

nhân này đều được điều chỉnh liều Insulin phù hợp và đưa về ngưỡng kiểm

soát. Ở nhóm truyền TM một bệnh nhân bị đau và tê bì tại vùng can thiệp mạch

(động mạch đùi P). Xuất hiện một trường hợp chóng mặt, tăng huyết áp, nôn

nhiều, bí tiểu sau can thiệp cũng trong nhóm này, bệnh nhân được xử trí bằng

dùng thuốc hạ áp, nghỉ ngơi, chườm ấm, bệnh nhân hồi phục sau 24 giờ theo

dõi (Bảng 3.3).

3.3.1.4.Biến chứng sau ghép 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng

- Ghi nhận hai trường hợp bệnh nhân truyền ĐM sau ghép lần 1 xuất hiện mệt

mỏi nhiều, hồi phục sau lần tái khám vào 3 tháng.

- Một bệnh nhân xuất hiện các cơn hạ đường huyết về trưa, được điều chỉnh

chế độ ăn phù hợp và ổn định sau lần tái khám vào tháng thứ 3.

3.3.1.5.Đánh giá các chỉ số cận lâm sàng cơ bản sau ghép 6 tháng

Bảng 3.9. Đánh giá các chỉ số cận lâm sàng cơ bản sau 6 tháng. (Các chỉ số công chức máu, chức năng gan, thận nằm trong giới hạn bình thường).

Chỉ số

Tất cả mẫu (n=22)

Tĩnh mạch (N=11)

Động mạch (N=11)

Sô lượng hồng cầu (T/L)

4,74 ± 0,5

4,7 ± 0,4

4,8 ± 0,6

Huyết sắc tố - Hemoglobin

130,3 ± 32,8

133,9 ± 21

137,2 ± 13,7

Số lượng bạch cầu (G/L)

6,2 ± 1,9

5,7 ± 1,9

6,63 ± 1,8

Số lượng tiểu cầu (G/L)

202,6 ± 57,2 200,4 ± 55,8 204,8 ± 61,1

AST-AST-Alanin Amino Transferase (U/L)

22,1 ± 5,8

22,7 ± 5,6

21,4 ± 6,2

ALT-ALT-Aspartate Amino Transferase (U/L)

24,8 ± 12,1

23,9 ± 9,5

25,7 ± 14,6

GGT-GGT-Gamma Glutamyl Transferase (U/L)

39,1 ± 25,2

39,4 ± 19,3

38,8 ± 31,1

Ure (mmol/L)

6,3 ± 1,2

6,3 ± 1,3

6,5 ± 1,4

Creatinine (mmol/L)

78,7 ± 19,2

86,3 ± 19,1

70,7 ± 16,3

Albumin niệu (g/L)

100% âm tính 100% âm tính 100% âm tính

Các chỉ số cận lâm sàng sau ghép 6 tháng, không ghi nhận các bất thường

trong đánh giá chức năng gan, thận, công thức máu toàn phần (Bảng 3.4).

Ngoài ra bệnh nhân còn được đánh giá về điện tim, siêu âm ổ bụng, X-quang

tim-phổi cho thấy các kết quả ổn định không phát hiện các tổn thương mới phát

sinh. Các chất chỉ điểm khối u tại thời điểm 6 tháng không được đánh giá.

Như vậy có thể nói rằng liệu pháp ghép tế bào gốc trung mô từ tủy xương

của các bệnh nhân ĐTĐ T2 là an toàn trong thời gian theo dõi 6 tháng. Các biến

cố bất lợi khác trong nghiên cứu của chúng tôi cũng được ghi nhận tương tự

trong các nghiên cứu trước đó bao gồm: tỷ lệ xuất huyết thấp, đau sau can thiệp

và tụ máu dưới da tại vị trí tiêm sau khi cấy ghép MSC đã được báo cáo bởi Wu

và cộng sự, Liu và cộng sự, Bhasi và cộng sự, tương ứng [75], [115], [12]. Sốt nhẹ

và trung bình (38°C), sau đó tự ổn định khi truyền tế bào gốc bằng đường tĩnh

mạch cũng được báo cáo ở 13,6% bệnh nhân [75], [69]. Các trường hợp buồn

nôn, nôn, đau đầu, đau bụng cũng được ghi nhận [105], [75], [102]. Hạ đường

huyết mức độ nhẹ là phổ biến, trong khi không có trường hợp hạ đường huyết

nặng nào được báo cáo.

3.3.2. Đánh giá hiệu quả sau ghép tế bào gốc

Nghiên cứu này sử dụng hai chỉ số cận lâm sàng chính để đánh giá hiệu

quả lâm sàng là đường huyết tĩnh mạch lúc đói (FPG) và chỉ số HbA1c tại thời

điểm 1 tháng 3 tháng và 6 tháng sau khi ghép tế bào gốc trung mô tự thân từ

tủy xương.

3.3.2.1.Kết quả theo dõi đường huyết tĩnh mạch lúc đói của bệnh nhân sau 6

tháng ghép tế bào gốc trung mô tự thân từ tủy xương

Nồng độ đường huyết lúc đói của bệnh nhân sau ghép (FPG)

Nồng độ FPG của bệnh nhân không thay đổi trong 6 tháng sau ghép (Hình

3.6.A). Phân nhóm bệnh nhân theo đường truyền TM và ĐM cho thấy ở các

bệnh nhân được truyền tế bào gốc theo đưỡng TM có xu hướng kiểm soát

đường huyết tốt hơn ở những bệnh nhân được truyền bằng đường ĐM. Trong

khi chỉ số này ở bệnh nhân truyền đường TM giảm từ 8,43 mmol/L (6,39-9,25)

xuống còn 7,2 mmol/L (5,97-10,38), thì ở các bệnh nhân nhóm ĐM tăng từ 8,02

(6,62-9,41) lên 8,71 (7,4 -12,55) thứ tự tại thời điểm trước ghép và sau ghép 6

tháng tháng mặc dù xu hướng kiểm soát đường huyết ở nhóm ĐM tốt hơn

nhóm TM ở thời điểm sau ghép 1 tháng. Các giá trị theo dõi giữa hai nhóm tại

các thời điểm đều không có sự khác biệt với kiểm định Mann-Witney test với

p>0,05 và kiểm định Wilcoxon test đánh giá sự khác biệt về nồng độ FPG tại các

thời điểm cho giá trị p>0,05 (Hình 3.6.B).

A

B

Hình 3.6. Kết quả theo dõi nồng độ FPG của bệnh nhân sau 6 tháng.

A-Nồng độ đường huyết lúc đói chung của các bệnh nhân không thay đổi nhiều sau 6 tháng và giữ ở mức xấp xỉ 8 mmol/L, N=22; B- Nồng độ đường huyết lúc đói nhóm TM (màu xanh) giảm từ 8,43 (6,39-9,25) mmol/L xuống còn 7,2 (5,97-10,38) mmol/L, n=11; nhóm ĐM (màu đỏ) tăng từ 8,02 (6,62-9,41) mmol/L lên 8,71 (7,4 -12,55) mmol/L, n=11 sau ghép 6 tháng; kiểm định sự khác biệt giữa hai nhóm với Man- wistney test p >0,05, kiểm định Wilcoxon test so sánh trước – sau cũng cho giá trị p>0,05).

Đánh giá mức giảm đường huyết theo đường truyền

Hình 3.7. Độ giảm FPG tại các thời điểm theo dõi sau ghép tế bào gốc ở hai nhóm tĩnh mạch (n=11) và động mạch (n=11) sau ghép 6 tháng. Không có sự giảm rõ ràng ở nhóm TM (1 tháng: -0,75 (-19,28-2,17)mmol/L, 3 tháng:-0,22

(-7,14-2,16)mmo/L, 6 tháng: -0,37 (-8,23-3,28)mmol/L). Độ giảm FPG giảm ở nhóm ĐM tại thời điểm 1 tháng: 0,55 (-1,31-1,54)mmo/L, 3 tháng:-1,18 (-4,81-2,1)mmol/L và 6 tháng sau ghép: -0,92(-10,01-2,65)mmol/L. Không có sự khác biệt giữa hai nhóm với kiểm định Mann – withney test với p>0,05, và kiểm định Wilcoxon đánh giá trước-sau p>0,05

FPG của các bệnh nhân được truyền theo đường TM (n=11) không có

nhiều thay đổi. Tuy nhiên mức giảm đường huyết của bệnh nhân truyền theo

đường ĐM (n=11) lại giảm, đồng nghĩa với việc lượng đường huyết tăng ở

nhóm bệnh nhân này sau ghép. Điều này tương đồng với việc phân tích nồng độ

FPG (Hình 3.7)

Chỉ số FPG chưa thực sự đáng tin cậy khi chỉ số này chịu ảnh hưởng quá

nhiều từ phía chuẩn bị của bệnh nhân dẫn đến các sai số hệ thống khi đánh giá.

Bệnh nhân phải nhịn đói trước xét nghiệm 8 tiếng, tuy nhiên không phải tất cả

các bệnh nhân đều tuân thủ vấn đề này. Thậm chí có những bệnh nhân vẫn sử

dụng bữa ăn sáng trước khi được thử đường huyết. HbA1C một loại

hemoglobin đặc biệt kết hợp giữa hemoglobin (Hb) và đường glucose, chỉ số

này đại diện cho tình trạng gắn kết của đường trên Hb hồng cầu. HbA1C phản

ánh chính xác tình trạng kiểm soát đường huyết tốt trong 3 tháng. Vì vậy,

chúng tôi cũng phân tích HbA1C tại thời điểm 1 tháng, 3 tháng và 6 tháng sau

ghép.

3.3.2.2.Kết quả theo dõi chỉ số HbA1C của bệnh nhân sau 6 tháng ghép tế bào

gốc.

Nồng độ HbA1C (%) sau 6 tháng

Nồng độ HbA1C có xu hướng tăng sau ghép tế bào gốc. Hình 3.8A cho thấy

xu hướng tăng nhẹ sau ghép ở tháng thứ nhất, nhưng sau đó đã có dấu hiệu giảm

vào tháng thứ 3. Tuy nhiên nồng độ HbA1c tại thời điểm này không có sự chênh lệch

nhiều trước ghép với mức giảm từ 8,4% (7,7-9,6, n=22) xuống 8,3% (7,3-10,1,

n=22). Tại thời điểm 6 tháng nồng độ HbA1C tăng trở lại với nồng độ HbA1c là

8,5% (7,4 – 10,5, n=22) và cao hơn tại thời điểm trước ghép. Sự chênh lệch về nồng

độ HbA1c không có ý nghĩa thống kê với kiểm định Wilcoxon đạt giá trị p>0,05.

Phân tích chỉ số này theo 2 nhóm truyền ĐM và TM cho thấy có sự khác biệt về nồng

độ HbA1C giữa 2 nhóm này, trong khi nồng độ HbA1c của nhóm TM luôn dao động

ở mức 8,5% thì ở nhóm ĐM lại có sự thay đổi rõ rệt qua các thời điểm khác nhau

đặc biệt tại thời điểm 3 tháng mức giảm HbA1C từ 8,3% (7,7-9,1, n=11) tại thời

điểm trước ghép xuống còn 8,1% (7,2-10,1, n=11), tuy nhiên tại thời điểm 6 tháng

lại tăng cao với nồng độ HbA1C là 8,5% (7,5-10,5, n=11) Hình 3.8B.

Hình 3.8. Kết quả theo dõi nồng độ HbA1C của bệnh nhân sau ghép 6 tháng.

A - Giá trị nồng độ HbA1c của tất cả các bệnh nhân tại thời điểm trước ghép, 3 tháng, 6

tháng lần lượt là 8,4% (7,7-9,6); 8,3% (7,3-10,1); 8,5% (7,4 – 10,5)(n=22). B-Phân

tích kết quả HbA1C theo 2 nhóm, nhóm TM (màu xanh) không có sự thay đổi nhiều

và luôn dao động ở mức 8,5% ( n=11), nhóm ĐM (màu đỏ) có chỉ số HbA1C tại thời

điểm trước ghép, sau ghép 3 tháng, 6 tháng 8,3% (7,7-9,1); 8,1% (7,2-10,1); 8,5%

(7,5-10,5) (n=11). Kiểm định Wicoxon tại các thời điểm sau ghép cho thấy sự thay

đổi nồng độ HbA1C không có sự khác biệt với p>0,05, Không có sự khác biệt về chỉ

số HbA1C của cả 2 nhóm ĐM và TM với kiểm định Mann-Witney test p>0,05.

Mức giảm HbA1C tại thời điểm 1 tháng 3 tháng và 6 tháng sau

ghép theo đường truyền

Phân tích mức độ giảm HbA1C tại từng thời điểm sau ghép cho thấy được

trong nhóm Tĩnh mạch có xu hướng tăng nhẹ giá trị trung vị nồng độ HbA1C, mặc

dù tại thời điểm sau ghép 1 tháng giá trị này chỉ đạt mức âm là -1,6 % (-0,55-

0,51%, n=11). Tuy nhiên cũng tại thời điểm này cũng có bệnh nhân giảm HbA1c đến

mức 1,36 %. Mức giảm nồng độ HbA1C này không có ý nghĩa thống kê với Wilcoxon

test p>0,05. Phân tích nhóm ĐM cho thấy bệnh nhân đã giảm được trung vị giá trị

HbA1C tại thời điểm 3 tháng nhiều nhất với 0.29% (-0,21-0,63). Sau đó mực giảm

này lại giảm dần ở tháng thứ 6 xuống còn 0,2%. Không có sự khác biệt giữa các

thời điểm theo dõi với kiểm định Wilcoxon test có p >0,05. Mức giảm nồng độ

HbA1C tại các thời điểm sau ghép giữa 2 nhóm Tĩnh mạch và động mạch là không

khác biệt với p-Mann-Whitney test>0,05(Hình 3.9).

Hình 3.9. Độ giảm HbA1C tại các thời điểm theo dõi sau ghép tế bào gốc theo hai

đường truyền tĩnh mạch và động mạch. Mức giảm HbA1C ở nhóm TM (n=11) có xu

hướng tăng, đồng nghĩa với giá trị HbA1C thực giảm. Nhóm ĐM (n=11) cho thấy mức

giảm HbA1C biến động khi tăng vào tháng thứ 3 và giảm vào tháng thứ 6 sau ghép.

Không có sự khác biệt giữa các thời điểm theo dõi với kiểm định Kruskal Wallis test p >

0,05. Mức giảm nồng độ HbA1C tại các thời điểm sau ghép giữa 2 nhóm TM và động

mạch là không khác biệt với kiểm định Mann-Whitney test p > 0,05.

3.3.2.3.Số lượng bệnh nhân có giảm HbA1C tại các thời điểm sau ghép

Đánh giá số lượng bệnh nhân có đáp ứng trên cả hai nhóm cho thấy trên

50% tổng số bệnh nhân có đáp ứng điều trị ở cả 2 nhóm Tm và ĐM. Trong đó tỷ

lệ có mức giảm HbA1c lớn hơn 10% so với trước ghép đạt 9-18% ở các thời

điểm đánh giá. Điều này cho thấy mặc dù các bệnh nhân có đáp ứng với điều trị,

tuy nhiên mức giảm HbA1c vẫn chưa cao chưa thể đạt được mục tiêu điều trị.

Bảng 3.10. Đánh giá số lượng bệnh nhân có đáp ứng điều trị theo mức giảm

HbA1C theo hai đường truyền tĩnh mạch và động mạch sau 6 tháng . Tỷ lệ bệnh

nhân có giảm HbA1C sau 6 tháng là bằng nhau với tỷ lệ 63,6% ở mỗi nhóm. Mức giảm

trên 10% chỉ chiếm một lượng nhỏ bệnh nhân ở cả 2 nhóm. Không thực hiện phép

kiểm định thống kê.

Tĩnh mạch (n=11) Động mạch (n=11)

1 tháng 3 tháng 6 tháng 3 tháng 6 tháng Số lượng bệnh nhân có giảm HbA1C 1 tháng

Có giảm (n,%) 6 (54,5) 5 (45,5) 7 (63,6) 5 (45,5) 7 (63,6) 7 (63,6)

>10% 1 (9) 1 (9) 0 1 (9) 2 (18,1) 2 (18,1)

<10% 4 (36,4) 4 (36,5) 6 (54,5) 100 6 (54,5) 5 (45,5)

Không giảm (n,%) 5 (45,5) 6 (54,5) 4 (36,4) 6 (54,5) 4 (36,4) 4 (36,5)

Như vậy, phân tích trên toàn bộ mẫu bệnh nhân (N=22) chúng tôi cũng thu

nhận được kết quả của HbA1C tương tự với FPG là không có sự thay đổi nhiều.

Tuy nhiên, kết quả phân tích theo các đường truyền khác nhau lại cho thấy sự

đối lập, các bệnh nhân truyền bằng đường ĐM có đáp ứng tốt hơn các bệnh nhân

truyền bằng đường TM. Chúng tôi nhận thấy với các bệnh nhân truyền ĐM kết

quả thu được cho thấy hiệu quả rõ ràng tại thời điểm 3 tháng sau truyền. Tuy

nhiên lượng HbA1C lại tăng trở lại vào thời điểm 6 tháng. Kết quả này cũng phù

hợp với nghiên cứu của chúng tôi khi mà hiệu quả từ nhóm các bệnh nhân truyền

ĐM nổi bật ở những tháng đầu tiên sau đó lại giảm dần. Chúng tôi vẫn chưa có

các cơ sở rõ ràng để giải quyết vấn đề tăng trở lại này. Tuy nhiên, không loại trừ

các yếu tố từ chế độ ăn và chế độ luyện tập của bệnh nhân bị thay đổi trong quá

trình nghiên cứu. Việc tự ý điều chỉnh liều thuốc mà không thông báo với bác sỹ

đã được ghi nhận cũng khiến cho chúng tôi gặp rất nhiều khó khăn trong quá

trình đánh giá. Trong nghiên cứu của chúng tôi, các ca lâm sàng có đáp ứng tốt

(nghĩa là có sự kiểm soát FPG ổn định và HbA1C giảm về ngưỡng an toàn) được

chia đều cho cả hai nhóm TM và ĐM, nên cũng không thể khẳng định được rằng,

đường truyền nào là tốt hơn.

3.3.2.4.Đánh giá việc giảm liều thuốc của bệnh nhân

Hầu hết các bệnh nhân tại thời điểm 6 tháng sau truyền chưa có những

cải thiện rõ rêt và đủ tiêu chuẩn để giảm liều. Tuy nhiên, 3 bệnh nhân (ở cả 2

nhóm) có mức giảm HbA1C trên 10% sẽ theo dõi và đánh giá thêm.

Có một bệnh nhân được giảm liều từ 39 IU xuống 35IU tại thời điểm sau

ghép 1 tháng ở nhóm truyền tĩnh mạch (bệnh nhân nam,, 33 tuổi).

3.3.2.5.Ca lâm sàng điển hình.

Ca lâm sàng 1

Bệnh nhân nam, 33 tuổi, tiền sử mắc ĐTĐ T2 đã phát hiện cách đây 4

năm và đã được điều trị bằng Insulin đường tiêm với liều 39 IU/ngày. Bệnh

nhân không có các bệnh lý khác kèm theo, tiền sử gia đình không phát hiện gì

bất thường.

Thăm khám tại thời điểm trước ghép, bệnh nhân có thể trạng trung bình

với chỉ số khối cơ thể (Body Mass Index – BMI) là 19,6, các chỉ số cận lâm sàng

thu được ban đầu là FPG 6,19 mmol/L, HbA1C là 8,79%. Bệnh nhân được lấy

tủy xương, tế bào gốc trung mô từ tủy xương đã được phân lập và nuôi cấy

tăng sinh để đạt được tế bào tổng số phù hợp với cân nặng bệnh nhân là 55x10 6

tế bào (tương đương liều 1x106tế bào/kg). Tiến hành truyền tĩnh mạch cánh

tay. Không có bất kì biến cố bất lợi nào trong suốt thời gian lấy tủy và truyền tế

bào gốc cho bệnh nhân.

Kết quả thu được sau ghép 6 tháng cho thấy cảm nhận về tinh thần của

bệnh nhân cải thiện, bệnh nhân cảm thấy khỏe mạnh, tinh thần lạc quan, ăn

ngon miệng hơn và ngủ sâu giấc hơn. Các kết quả khám và cận lâm sàng thu

nhận được trong bảng 3.6 cho thấy BMI của bệnh nhân tăng lên đáng kể từ

19,6 đến 21,2, bệnh nhân tăng 6 kg trong vòng 6 tháng sau ghép. Chỉ số HbA1C

giảm đáng kể tại thời điểm 1 tháng và 3 tháng sau ghép với nồng độ HbA1C lần

lượt là 7,56%, 7,17%.

Bảng 3.11. Các chỉ số theo dõi sau ghép của bệnh nhân nam, 33 tuổi sau 6

tháng ghép tế bào gốc trung mô tự thân từ tủy xương.

Sau ghép 1 Sau ghép 3 Sau ghép 6 Chỉ số Trước ghép

BMI FPG (mmol/L) HbA1C (%) Liều Insulin (IU) 19,6 6,19 9,79 39 tháng 20,1 9,84 7,56 35 tháng 20.8 5,21 7,17 35 tháng 21.2 4,17 7,43 35

Mặc dù chỉ số HbA1C tăng lại vào tháng thứ 6 với 7,43%, tuy nhiên, bệnh

nhân vẫn đạt được ngưỡng mục tiêu trong nghiên cứu (nhỏ hơn 7,5%). Quá

trình giảm HbA1C được ghi nhận trong suốt quá trình điều trị, bệnh nhân được

giảm liều tiêm insulin từ 39 UI/ngày xuống còn 35 IU/ngày. Bệnh nhân ổn định

trong suốt 6 tháng sau ghép. Theo dõi điều trị và dự kiến giảm liều cho bệnh

nhân vào các lần tái khám tiếp theo.

Ca lâm sàng 2

Bệnh nhân nam, 67 tuổi, tiền sử ĐTĐ T2 12 năm, đang điều trị thuốc

uống Diamicron 90mg/ngày, Glucopha 1500mg/ngày, tiêm insulin 22IU/ngày.

Bệnh nhân có tiền sử cao huyết áp nhiều năm, đang điều trị bằng Coversyl

5mg/ngày. Tiền sử gia đình không phát hiện gì bất thường.

Thăm khám tại thời điểm trước ghép, toàn trạng bệnh nhân ổn định, thể

trạng trung bình. Đánh giá các chỉ số cận lâm sàng trước ghép cho thấy FPG

9.63 mmo/L, HbA1C là 8,18%. Tổng số tế bào truyền cho bệnh nhân là 62x10 6 tế

bào. Bệnh nhân được truyền tế bào gốc bằng đường tĩnh mạch. Không ghi nhận

tác dụng phụ nào trong suốt quá trình lấy tủy.

Sự cải thiện về mặt tinh thần được cải thiện rõ, bệnh nhân cảm thấy

thoải mái, khỏe mạnh hơn, ăn ngọn miêng và ngủ sâu giấc, ghi nhận các chỉ số

cận lâm sàng sau ghép 6 tháng cho thấy cả nồng dộ FPG và HbA1C đều có xu

hướng giảm một cách đều đặn tại thời điểm 1 tháng, 3 tháng, và 6 tháng. Nồng

độ FPG ghi nhận tại thời điểm 6 tháng là 7,68 mmol/L, trong khi trước ghép giá

trị của chỉ số này là 9,63 mmol/L. Nồng độ HbA1C giảm một cách đáng kể từ

8,18% trước ghép, xuống 7,55% sau ghép 6 tháng (Bảng 3.7). Mặc dù có

những chuyển biến tốt trong các chỉ số lâm sàng và cận lâm sàng, tuy nhiên,

việc giảm liều thuốc cần phải cân nhắc vì chỉ số HbA1C chưa đạt đến ngưỡng

mục tiêu điều trị.

Bảng 3.12. Các chỉ số theo dõi sau ghép của bệnh nhân nam, 67 tuổi. sau 6

tháng ghép tế bào gốc trung mô tự thân từ tủy xương.

Chỉ số Trước ghép Sau ghép 1 tháng Sau ghép 3 tháng Sau ghép 6 tháng

9,63 8,15 7,79 7,68 FPG (mmol/L)

8,18 8,06 7,97 7,55 HbA1C (%)

90 90 90 90 Diamicron (mg)

1500 1500 1500 1500 Glucopha (mg

1000 1000 1000 1000 Metformin (mg)

22 22 22 22 Insulin (IU)

Ca lâm sàng 3

Bệnh nhân nam, 37 tuổi, tiền sử ĐTĐ T2 7 năm đang điều trị thuốc Uống

Glucobay 200mg/ngày, tiêm insulin 40 IU/ngày. Không có các bệnh lý kèm theo,

tiền sử gia đình khỏe mạnh.

Khám tại thời điểm trước ghép cho thấy toàn trạng ổn định, thể trạng

trung bình, BMI 23,1. Các chỉ số cận lâm sàng cho thấy FPG là 9,14 mmol/L,

HbA1C là 8,69%. Tống số tế bào truyền cho bệnh nhân là 66x10 6 tế bào. Bệnh

nhân được tiến hành gây mê mask thanh quản, gây tê tại chỗ, can thiệp động

mạch đùi, tìm đường vào vào động mạch tụy, truyền tế bào gốc vào động mạch

tụy. Không ghi nhận tác dụng phụ trong quá trình truyền.

Đánh giá các chỉ số lâm sàng và cận lâm sàng sau 6 tháng sau ghép cho

thấy nồng độ HbA1C giảm từ từ và dần tiến đến ngưỡng mục tiêu điều trị là 7,5

%. Bệnh nhân giảm được 1,17% giá trị HbA1C trong 6 tháng. Kết thúc sáu

tháng theo dõi, bệnh nhân tiên lượng giảm liều vào lần đánh giá cận lâm sàng

tiếp theo.

Bảng 3.13. Các chỉ số theo dõi sau ghép của bệnh nhân nam, 37 tuổi sau 6

tháng ghép tế bào gốc trung mô tự thân từ tủy xương.

Sau ghép 1 Sau ghép 3 Sau ghép 6

Chỉ số Trước ghép

tháng tháng tháng

9,41 FPG (mmol/L) 7,87 8,35 9,16

8,69 HbA1C (%) 8,15 8,06 7,52

200 Glucobay (mg) 200 200 200

40 Insulin (IU) 40 40 40

Ca lâm sàng 4

Bệnh nhân nam, 36 tuổi, tiền sử mắc ĐTĐ T2 cách 6 năm, đang điều trị

Janumet 50/1000mg/ngày. Không phát hiện các bệnh kèm theo, tiền sử gia

đình khỏe mạnh.

Tương tự như các bệnh nhân khác, toàn trạng bệnh nhân trước ghép ổn

định, thể trạng trung bình với BMI 21,6. Tống số tế bào gốc truyền cho bệnh

nhân là 63x106 tế bào. Đường truyền: động mạch. Không phát hiện các bất

thường sau ghép.

Sau ghép 6 tháng, bệnh nhân ổn định, đặc biệt nồng độ HbA1C giảm từ

9% xuống 7,77% trong vòng 6 tháng. Bệnh nhân được cân nhắc giảm liều vào

lần tái khám tiếp theo.

Bảng 3.14. Các chỉ số theo dõi sau ghép của bệnh nhân nam, 33 tuổi sau 6

tháng ghép tế bào gốc trung mô tự thân từ tủy xương.

Chỉ số Trước ghép Sau ghép 1 tháng Sau ghép 3 tháng Sau ghép 6 tháng

FPG 9 (mmol/L) 6,45 8,02 6,87 5,92

HbA1C (%) 9 8,56 7,18 7,77

Sitaglipin(mg) 50 50 50 50

Metformin (mg) 1000 1000 1000 1000

So sánh chỉ số HbA1C từ nghiên cứu của chúng tôi dựa trên sự tiến triển

bệnh của một số bệnh nhân có đáp ứng điều trị ở cả hai nhóm. Các bệnh nhân

có đáp ứng điều trị ngay ở tháng đầu tiên sau ghép, kết quả này trùng hợp với

nghiên cứu của một số tác giả như Wang và cs, 2011, khi mà chỉ số HbA1C

trong nghiên cứu này có thể giảm từ 8,7% xuống còn 7,1 % [109]. Mặc dù

nghiên cứu của chúng tôi không đạt được kết quả đáng mong đợi, nhưng việc

nồng độ HbA1C giảm liên tục trong 6 tháng đầu tiên cũng cho thấy rằng BM-

MSC có tác dụng trong việc hỗ trợ điều trị ĐTĐ T2 một cách hiệu quả. Điều này

chưa kể đến rằng, trong nghiên cứu của Wang còn là kết hợp của liệu pháp tế

bào gốc và oxy hyperbaric (HBO) trị liệu, bởi theo nghiên cứu của Wang, việc

kết hợp với liệu pháp HBO đã đem lại những hiệu quá đáng ngạc nhiên cho

bệnh nhân. Điều này được giải thích bởi cơ chế tác dụng của HBO. HBO làm

tăng lượng nitric oxide synthase (NOSs) - là một họ enzyme xúc tác cho việc sản

xuất oxit nitric (NO) từ L-arginine. NO là một phân tử tín hiệu tế bào quan

trọng, giúp điều chỉnh trương lực mạch máu, bài tiết insulin, hô hấp, liên quan

đến hình thành mạch và sự phát triển thần kinh …enzym này huy động tế bào

gốc từ tủy xương và giải phóng các tế bào tiền thân nội mô (EPC - Endothelial

progenitor cells), các tế bào này sẽ được định hướng đến các tổ chức viêm

thông qua các cytokine chemokines và có thể tham gia vào quá trình sửa chữa

đảo tụy. Tuy nhiên, ở các bệnh nhân đái tháo đường lại có sự suy giảm một

trong các tín hiệu nghiêm trọng như SDF-1a (Stroma Derived factor 1 alpha)

điều này cũng khiến EPC tạo ra bị giảm các chức năng sinh học di chuyển và

duy trì hoạt động tối ưu. Các bằng chứng mạnh mẽ cho thấy HBO có khả năng

đảo ngược ít nhất một trong 3 nguyên nhân suy giảm EPC trong đó cơ việc tăng

cường tín hiệu SDF-1a giúp làm tăng hoạt động của EPC, tăng khả nặng tạo

cụm và giúp các tế bào gốc cũng như các tế bào EPC thực hiện chức năng sinh

học [108]. Một nghiên cứu trước đây của Estrada và cs, 2008, cho thấy việc sử

dụng kết hợp truyền tế bào gốc từ tủy xương tự thân vào động mạch tụy và liệu

pháp oxy hyperbaric (HBO) dẫn đến giảm đáng kể nồng độ FPG và liều insulin,

tăng nồng độ C-peptide vào thời điểm 12 tháng sau ghép [33]. Giả thuyết được

đưa ra với việc biệt hóa tế bào gốc thành tế bào tuyến tụy cùng với đó là việc

giảm viêm ở tuyến tụy đã được tăng cường bằng liệu pháp HBO. Tuy nhiên hạn

chế trong nghiên cứu này là không có nhánh giả dược, và các bệnh nhân được

tuyển dụng có mức độ kiểm soát đường huyết khác nhau và đang dùng các loại

thuốc trị đái tháo đường khác nhau [33].

Nghiên cứu của Bhansali và cộng sự, 2017 trên 30 bệnh nhân nhằm đánh

giá hiệu quả điều trị của 3 nhóm bệnh nhân sử dụng phương pháp khác nhau

bao gồm: nhóm chứng (n=10), nhóm bệnh nhân được truyền tế bào gốc trung

mô từ tủy xương (BM-MSC) và nhóm bệnh nhân được nhân tế bào đơn nhân

(BM-MNC) cho kết quả với 60% số bệnh nhân ở cả 2 nhóm sử dụng BM-MSC và

BM-MNC đều có thể giảm HbA1C xuống dưới 7%, thêm vào đó liệu insulin cũng

giảm tới 50 %. Điều này cho thấy rằng việc sử dụng BM-MSC hay BM-MSC đều

mang lại những hiệu quả nhất định cho các bệnh nhân ĐTĐ [13]. Các nghiên

cứu tương tự trong việc sử dụng BM-MNC trước đó cũng đã được thực hiện bởi

Bhansali và cs, 2009; Bhansali và cs, 2014; Hu và cs,2012; Wu và cs, 2014 [6],

[52], [12]. Kết quả từ nghiên cứu trên 10 bệnh nhân của Bhansali và cs, 2009

cho thấy bảy bệnh nhân là những người đáp ứng và cho thấy giảm 75% nhu

cầu insulin trong vòng 48 ngày sau khi điều trị. Ba bệnh nhân đã có thể ngừng

hoàn toàn insulin, mặc dù nó chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn. Mức giảm

HbA1c trung bình là 1% và 3 trong số 7 bệnh nhân có giá trị HbA1c < 7%. Giảm

cân đáng kể 5,5 kg đã được ghi nhận ở những người trả lời, trong khi đó,

những người không đáp ứng lại tăng 2,2 kg cân nặng. Như vậy, mức giảm

HbA1C cũng được ghi nhận tại tháng đầu tiên sau ghép tương như như các

bệnh nhân của chúng tôi [12]. Tác giả này cũng thực hiện một nghiên cứu

tương tự vào năm 2014, tuy nhiên, trong nghiên cứu sự xuất hiện của nhóm

chứng khiến cho kết quả nghiên cứu có giá trị hơn rất nhiều. Cỡ mẫu cho

nghiên cứu này là 21 bệnh nhân trong đó 10 bệnh nhân ở nhóm chứng và 11

bệnh nhân ở nhóm can thiệp. 9/11 (82%) bệnh nhân trong nhóm can thiệp đạt

được đạt được mục tiêu giảm liều insulin đến 50%, trong khi không có bệnh

nhân nào trong nhóm đối chứng thực hiện trong thời gian nghiên cứu (p =

0,002). Nhu cầu insulin giảm 66,7% trong nhóm can thiệp từ 42,0 (31,0 ‐ 64,0)

IU mỗi ngày xuống 14,0 (0,0 ‐ 30,0) IU mỗi ngày. Có sự gia tăng khiêm tốn

nhưng không đáng kể về HbA1c (%) trong các trường hợp từ 6,9% (6,4 ‐7,2%) lên

7,1% (6,6 ‐7,5%) cũng như trong ngưỡng kiểm soát từ 6,9% (6,2 ‐ 7,0%) đến

7,0% (6,9 ‐7,5%). Mười trong số 11 bệnh nhân (91%) có thể duy trì HbA1c < 7%

trong nhóm can thiệp, trong khi đó, 6 trong số 10 người đã làm (60%) trong nhóm

đối chứng cũng có nồng độ HbA1C < 7% (p = 0.167) [6]. Trong nghiên cứu của

chúng tôi, nồng độ HbA1C chỉ giảm đến xấp xỉ 7,5% mà chưa thể xuống ngưỡng

< 7%, cũng vì đó mà việc chỉnh liều thuốc cho các bệnh nhân còn rất hạn chế và

phải cân nhắc rất nhiều. Báo cáo của Hu và cs, 2012 cũng cho thấy việc giảm

nồng độ HbA1C của nhóm sử dụng BM-MSCs kéo dài trong thời gian sau ghép,

trong khi nhóm bệnh nhân không sử dụng lại không đạt được kết quả này. Wu và

cs, 2014 đã tiến hành phối hợp ghép BM-MSCs với liệu pháp HBO và cũng đem

lại các kết quả khả quan, đặc biệt là việc tăng chỉ số C-peptide nội sinh [52].

KẾT LUẬN

1. Môi trường tiểu đường có nguy cơ ảnh hưởng tới khả năng tăng sinh của

các bệnh nhân đái tháo đường tuýp 2, đặc biệt là các bệnh nhân có số năm

mắc kéo dài. Không ảnh hưởng đến mức độ biểu hiện các dấu ấn bề mặt để

định danh tế bào gốc trung mô.

2. Các bệnh nhân truyền tế bào gốc theo đường TM có xu hướng duy trì nồng

độ đường huyết TM lúc đói tốt hơn là các bệnh nhân được truyền bằng

ĐM.

3. Mức giảm HbA1C được ghi nhân tại thời điểm 3 tháng sau ghép nhưng có

xu hướng tăng trở lại ở tháng thứ 6.

4. Tính đến thời điểm sau ghép 6 tháng, việc sử dụng tế bào gốc trung mô từ

tủy xương cho bệnh nhân ĐTĐ T2 là an toàn. Tuy nhiên, cần phải theo dõi

tình trạng bệnh nhân trong các thời gian tiếp theo.

KHUYẾN NGHỊ

1. Xây dựng thí nghiệm đánh giá lại khả năng biệt hóa đa dòng của các bệnh

nhân tham gia nghiên cứu. Tìm hiểu các đặc điểm khác của tế bào gốc

trung mô từ tủy xương trong vi môi trường tiểu đường.

2. Theo dõi và đánh giá sau ghép lần 2 để đánh giá hiệu quả theo số lần

truyền và theo đường truyền.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

TIẾNG VIỆT

1. Bộ Y tế, Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị Đái tháo đường típ 2 năm 2017,

Số: 3319/QĐ-BYT, .

2. Phan K.N., Phạm, V.P, and Trương, D Công nghệ tế bào gốc, 2010: Nhà xuất

bản giáo dục.

TIẾNG ANH

3. American Diabetes Association, Standards of medical care in diabetes

(2017).

4. Alicka M., Major P., Wysocki M., et al. (2019). Adipose-Derived Mesenchymal

Stem Cells Isolated from Patients with Type 2 Diabetes Show Reduced

“Stemness” through an Altered Secretome Profile, Impaired Anti-Oxidative

Protection, and Mitochondrial Dynamics Deterioration. J Clin Med, 8(6).

5. Alvarez C.V., Garcia-Lavandeira M., Garcia-Rendueles M.E.R., et al. (2012).

Defining stem cell types: understanding the therapeutic potential of ESCs,

ASCs, and iPS cells. Journal of Molecular Endocrinology, 49(2), R89–R111.

6. Anil, Bhansali, Asokumar P., Walia R., et al. (2014). Efficacy and safety of

autologous bone marrow-derived stem cell transplantation in patients with

type 2 diabetes mellitus: a randomized placebo-controlled study. Cell

Transplant, 23(9), 1075–1085.

7. Atkinson M.A. (2012). The pathogenesis and natural history of type 1

diabetes. Cold Spring Harb Perspect Med, 2(11).

8. Bachar-Wikstrom E., Wikstrom J.D., Ariav Y., et al. (2013). Stimulation of

autophagy improves endoplasmic reticulum stress-induced diabetes.

Diabetes, 62(4), 1227–1237.

9. Banerjee M., Kumar A., and Bhonde R.R. (2005). Reversal of experimental

diabetes by multiple bone marrow transplantation. Biochem Biophys Res

Commun, 328(1), 318–325.

10. Bellin M.D., Barton F.B., Heitman A., et al. (2012). Potent induction

immunotherapy promotes long-term insulin independence after islet

transplantation in type 1 diabetes. Am J Transplant, 12(6), 1576–1583.

11. Benoit S.R. (2018). Trends in Diabetic Ketoacidosis Hospitalizations and In-

Hospital Mortality — United States, 2000–2014. MMWR Morb Mortal Wkly

Rep, 67.

12. Bhansali A., Upreti V., Khandelwal N., et al. (2009). Efficacy of autologous

bone marrow-derived stem cell transplantation in patients with type 2

diabetes mellitus. Stem Cells Dev, 18(10), 1407–1416.

13. Bhansali S., Dutta P., Kumar V., et al. (2017). Efficacy of Autologous Bone

Marrow-Derived Mesenchymal Stem Cell and Mononuclear Cell

Transplantation in Type 2 Diabetes Mellitus: A Randomized, Placebo-

Controlled Comparative Study. Stem cells and development, 26(7), 471–

481.

14. Bhansali S., Kumar V., Saikia U.N., et al. (2015). Effect of mesenchymal stem

cells transplantation on glycaemic profile & their localization in

streptozotocin induced diabetic Wistar rats. Indian J Med Res, 142(1), 63–

71.

15. Boggi U., Vistoli F., Amorese G., et al. (2011). Results of Pancreas

Transplantation Alone with Special Attention to Native Kidney Function

and Proteinuria in Type 1 Diabetes Patients. Rev Diabet Stud, 8(2), 259–

267.

16. Bossolasco P., Cova L., Calzarossa C., et al. (2005). Neuro-glial

differentiation of human bone marrow stem cells in vitro. Exp Neurol,

193(2), 312–325.

17. Boxall S.A. and Jones E. (2012). Markers for Characterization of Bone

Marrow Multipotential Stromal Cells. Stem Cells Int, 2012.

18. Butler A.E., Janson J., Bonner-Weir S., et al. (2003). Beta-cell deficit and

increased beta-cell apoptosis in humans with type 2 diabetes. Diabetes,

52(1), 102–110.

19. Cai J., Wu Z., Xu X., et al. (2016). Umbilical Cord Mesenchymal Stromal Cell

With Autologous Bone Marrow Cell Transplantation in Established Type 1

Diabetes: A Pilot Randomized Controlled Open-Label Clinical Study to Assess

Safety and Impact on Insulin Secretion. Diabetes Care, 39(1), 149–157.

20. Casanova D. (2017). Pancreas transplantation: 50 years of experience. Cir

Esp, 95(5), 254–260.

21. Cersosimo E., Triplitt C., Solis-Herrera C., et al. (2000). Pathogenesis of Type

2 Diabetes Mellitus. Endotext. MDText.com, Inc., South Dartmouth (MA).

22. Chandravanshi B. and Bhonde R.R. (2017). Shielding Engineered Islets With

Mesenchymal Stem Cells Enhance Survival Under Hypoxia. J Cell Biochem,

118(9), 2672–2683.

23. Chao K.C., Chao K.F., Fu Y.S., et al. (2008). Islet-like clusters derived from

mesenchymal stem cells in Wharton’s Jelly of the human umbilical cord for

transplantation to control type 1 diabetes. PLoS ONE, 3(1), e1451.

24. Chaurasia B. and Summers S.A. (2015). Ceramides - Lipotoxic Inducers of

Metabolic Disorders. Trends Endocrinol Metab, 26(10), 538–550.

25. Choi J.B., Uchino H., Azuma K., et al. (2003). Little evidence of

transdifferentiation of bone marrow-derived cells into pancreatic beta cells.

Diabetologia, 46(10), 1366–1374.

26. Czech M.P. (2017). Insulin action and resistance in obesity and type 2

diabetes. Nature Medicine, 23(7), 804–814.

27. De Miguel M.P., Fuentes-Julián S., Blázquez-Martínez A., et al. (2012).

Immunosuppressive properties of mesenchymal stem cells: advances and

applications. Curr Mol Med, 12(5), 574–591.

28. Del Campo A., Bustos C., Mascayano C., et al. (2018). Metabolic Syndrome

and Antipsychotics: The Role of Mitochondrial Fission/Fusion Imbalance.

Front Endocrinol (Lausanne), 9, 144.

29. Dominici M., Le Blanc K., Mueller I., et al. (2006). Minimal criteria for

defining multipotent mesenchymal stromal cells. The International Society

for Cellular Therapy position statement. Cytotherapy, 8(4), 315–317.

30. Drewa T., Joachimiak R., Kaznica A., et al. (2008). Bone marrow progenitors

from animals with chronic renal failure lack capacity of in vitro

proliferation. Transplant Proc, 40(5), 1668–1673.

31. Ebato C., Uchida T., Arakawa M., et al. (2008). Autophagy is important in

islet homeostasis and compensatory increase of beta cell mass in response

to high-fat diet. Cell Metab, 8(4), 325–332.

32. El-Badawy A. and El-Badri N. (2016). Clinical Efficacy of Stem Cell Therapy

for Diabetes Mellitus: A Meta-Analysis. PLoS ONE, 11(4), e0151938.

33. Estrada E.J., Valacchi F., Nicora E., et al. (2008). Combined treatment of

intrapancreatic autologous bone marrow stem cells and hyperbaric oxygen

in type 2 diabetes mellitus. Cell Transplant, 17(12), 1295–1304.

34. Ferrero I., Mazzini L., Rustichelli D., et al. (2008). Bone marrow

mesenchymal stem cells from healthy donors and sporadic amyotrophic

lateral sclerosis patients. Cell Transplant, 17(3), 255–266.

35. Folli F., Okada T., Perego C., et al. (2011). Altered Insulin Receptor Signalling

and β-Cell Cycle Dynamics in Type 2 Diabetes Mellitus. PLoS One, 6(11).

36. Friedenstein A.J., Gorskaja J.F., and Kulagina N.N. (1976). Fibroblast

precursors in normal and irradiated mouse hematopoietic organs. Exp

Hematol, 4(5), 267–274.

37. Fujisaka S., Usui I., Bukhari A., et al. (2009). Regulatory mechanisms for

adipose tissue M1 and M2 macrophages in diet-induced obese mice.

Diabetes, 58(11), 2574–2582.

38. Garayoa M., Garcia J.L., Santamaria C., et al. (2009). Mesenchymal stem cells

from multiple myeloma patients display distinct genomic profile as

compared with those from normal donors. Leukemia, 23(8), 1515–1527.

39. Geng Y., Zhang L., Fu B., et al. (2014). Mesenchymal stem cells ameliorate

rhabdomyolysis-induced acute kidney injury via the activation of M2

macrophages. Stem Cell Res Ther, 5(3), 80.

40. Gnecchi M. and Melo L.G. (2009). Bone marrow-derived mesenchymal stem

cells: isolation, expansion, characterization, viral transduction, and

production of conditioned medium. Methods Mol Biol, 482, 281–294.

41. Gosmanov A.R., Gosmanova E.O., and Kitabchi A.E. (2000). Hyperglycemic

Crises: Diabetic Ketoacidosis (DKA), And Hyperglycemic Hyperosmolar State

(HHS). Endotext. MDText.com, Inc., South Dartmouth (MA).

42. Gray N., Picone G., Sloan F., et al. (2015). The Relationship between BMI and

Onset of Diabetes Mellitus and its Complications. South Med J, 108(1), 29–36.

43. Gronthos S., Zannettino A.C.W., Hay S.J., et al. (2003). Molecular and cellular

characterisation of highly purified stromal stem cells derived from human

bone marrow. Journal of Cell Science, 116(9), 1827–1835.

44. Guney M.A. and Gannon M. (2009). Pancreas cell fate. Birth Defects Res C

Embryo Today, 87(3), 232–248.

45. Hakim N.S. (2002). Pancreatic transplantation for patients with Type I

diabetes. HPB (Oxford), 4(2), 59–61.

46. Han Y.-F., Sun T.-J., Han Y.-Q., et al. (2015). Clinical perspectives on mesenchymal

stem cells promoting wound healing in diabetes mellitus patients by inducing

autophagy. Eur Rev Med Pharmacol Sci, 19(14), 2666–2670.

47. Hao H., Liu J., Shen J., et al. (2013). Multiple intravenous infusions of bone

marrow mesenchymal stem cells reverse hyperglycemia in experimental

type 2 diabetes rats. Biochem Biophys Res Commun, 436(3), 418–423.

48. Hematti P., Kim J., Stein A.P., et al. (2013). Potential role of mesenchymal

stromal cells in pancreatic islet transplantation. Transplant Rev (Orlando),

27(1), 21–29.

49. Heo J.S., Choi Y., Kim H.-S., et al. (2016). Comparison of molecular profiles of

human mesenchymal stem cells derived from bone marrow, umbilical cord

blood, placenta and adipose tissue. Int J Mol Med, 37(1), 115–125.

50. Heo J.S., Heo J.S., Choi Y., et al. (2016). Comparison of molecular profiles of

human mesenchymal stem cells derived from bone marrow, umbilical cord

blood, placenta and adipose tissue. International Journal of Molecular

Medicine, 37(1), 115–125.

51. Hess D., Li L., Martin M., et al. (2003). Bone marrow-derived stem cells

initiate pancreatic regeneration. Nat Biotechnol, 21(7), 763–770.

52. Hu J., Li C., Wang L., et al. (2012). Long term effects of the implantation of

autologous bone marrow mononuclear cells for type 2 diabetes mellitus.

Endocr J, 59(11), 1031–1039.

53. Hu M.S., Longaker M.T., and Lorenz H.P. (2016). Discussion: Transplantation

of an LGR6+ Epithelial Stem Cell-Enriched Scaffold for Repair of Full-

Thickness Soft-Tissue Defects: The In Vitro Development of Polarized Hair-

Bearing Skin. Plast Reconstr Surg, 137(2), 508–509.

54. Hughey C.C., Ma L., James F.D., et al. (2013). Mesenchymal stem cell

transplantation for the infarcted heart: therapeutic potential for insulin

resistance beyond the heart. Cardiovasc Diabetol, 12, 128.

55. Ianus A., Holz G.G., Theise N.D., et al. (2003). In vivo derivation of glucose-

competent pancreatic endocrine cells from bone marrow without evidence

of cell fusion. J Clin Invest, 111(6), 843–850.

56. International Diabetes Federation (2015), IDF diabetes atlas.

57. Jiang R., Han Z., Zhuo G., et al. (2011). Transplantation of placenta-derived

mesenchymal stem cells in type 2 diabetes: a pilot study. Front Med, 5(1), 94–100.

58. Johnson D.D., Palumbo P.J., and Chu C.P. (1980). Diabetic ketoacidosis in a

community-based population. Mayo Clin Proc, 55(2), 83–88.

59. Jones E.A., Kinsey S.E., English A., et al. (2002). Isolation and

characterization of bone marrow multipotential mesenchymal progenitor

cells. Arthritis Rheum, 46(12), 3349–3360.

60. Jung H.S., Chung K.W., Won Kim J., et al. (2008). Loss of autophagy

diminishes pancreatic beta cell mass and function with resultant

hyperglycemia. Cell Metab, 8(4), 318–324.

61. Justino Ferreira R., Ferreira R.J., Irioda A.C., et al. Controversies About the

Chromosomal Stability of Cultivated Mesenchymal Stem Cells: Their Clinical

Use is it Safe?. Current Stem Cell Research & Therapy, 7(5), 356–363

62. Karina K., Rosliana I., Sobariah S., et al. (2019). Diabetes mellitus type 2

reduces the viability, proliferation, and angiogenic marker of adipose-

derived stem cells cultured in low-glucose anti-oxidant-serum supplemented

medium. Biomed Res Ther, 6(3), 3073–3082.

63. Khue N.T. (2015). Diabetes in Vietnam. Annals of Global Health, 81(6), 870–

873.

64. Kirana S., Stratmann B., Prante C., et al. (2012). Autologous stem cell

therapy in the treatment of limb ischaemia induced chronic tissue ulcers of

diabetic foot patients. International Journal of Clinical Practice, 66(4),

384–393.

65. Kitabchi A.E., Umpierrez G.E., Murphy M.B., et al. (2001). Management of

hyperglycemic crises in patients with diabetes. Diabetes Care, 24(1), 131–153.

66. Klionsky D.J. and Emr S.D. (2000). Autophagy as a regulated pathway of

cellular degradation. Science, 290(5497), 1717–1721.

67. Klyushnenkova E., Mosca J.D., Zernetkina V., et al. (2005). T cell responses to

allogeneic human mesenchymal stem cells: immunogenicity, tolerance, and

suppression. J Biomed Sci, 12(1), 47–57.

68. Kobielak, K, E.Kandyba, and Y.Leung Chapter 22 - Skin and skin Appendage

Regeneration. Translational Regenerative Medicine. 2015, Academic Press:

Boston. p. 269-292. .

69. Kong D., Zhuang X., Wang D., et al. (2014). Umbilical cord mesenchymal

stem cell transfusion ameliorated hyperglycemia in patients with type 2

diabetes mellitus. Clin Lab, 60(12), 1969–1976.

70. Le Blanc K., Tammik C., Rosendahl K., et al. (2003). HLA expression and

immunologic properties of differentiated and undifferentiated mesenchymal

stem cells. Exp Hematol, 31(10), 890–896.

71. Le P.T.-B., Pham P.V., Vu N.B., et al. (2016). Expanded autologous adipose

derived stem cell transplantation for type 2 diabetes mellitus. Biomed Res

Ther, 3(12), 1034–1044.

72. Li L., Hui H., Jia X., et al. (2016). Infusion with Human Bone Marrow-derived

Mesenchymal Stem Cells Improves β-cell Function in Patients and Non-obese

Mice with Severe Diabetes. Sci Rep, 6, 37894.

73. Lilly M.A., Davis M.F., Fabie J.E., et al. (2016). Current stem cell based

therapies in diabetes. Am J Stem Cells, 5(3), 87–98.

74. Lin Y.-C., Harn H.-J., Lin P.-C., et al. (2017). Commercial Production of

Autologous Stem Cells and Their Therapeutic Potential for Liver Cirrhosis.

Cell Transplant, 26(3), 449–460.

75. Liu X., Zheng P., Wang X., et al. (2014). A preliminary evaluation of efficacy

and safety of Wharton’s jelly mesenchymal stem cell transplantation in

patients with type 2 diabetes mellitus. Stem Cell Res Ther, 5(2), 57.

76. Lopez-Villar O., Garcia J.L., Sanchez-Guijo F.M., et al. (2009). Both expanded

and uncultured mesenchymal stem cells from MDS patients are genomically

abnormal, showing a specific genetic profile for the 5q- syndrome.

Leukemia, 23(4), 664–672.

77. Lu G., Zhang S., Chen Q., et al. (2011). [Isolation and multipotent

differentiation of human decidua basalis-derived mesenchymal stem cells].

Nan Fang Yi Ke Da Xue Xue Bao, 31(2), 262–265.

78. Macrin D., Joseph J.P., Pillai A.A., et al. (2017). Eminent Sources of Adult

Mesenchymal Stem Cells and Their Therapeutic Imminence. Stem Cell Rev

and Rep, 13(6), 741–756.

79. Marion N.W. and Mao J.J. (2006). Mesenchymal stem cells and tissue

engineering. Meth Enzymol, 420, 339–361.

80. Matz R. (1999). Management of the Hyperosmolar Hyperglycemic

Syndrome. AFP, 60(5), 1468–1476.

81. Meirelles Júnior R.F., Salvalaggio P., and Pacheco-Silva A. (2015). Pancreas

transplantation: review. Einstein (Sao Paulo), 13(2), 305–309.

82. Moriscot C., de Fraipont F., Richard M.-J., et al. (2005). Human bone marrow

mesenchymal stem cells can express insulin and key transcription factors of

the endocrine pancreas developmental pathway upon genetic and/or

microenvironmental manipulation in vitro. Stem Cells, 23(4), 594–603.

83. Moriscot C., de Fraipont F., Richard M.-J., et al. (2005). Human bone marrow

mesenchymal stem cells can express insulin and key transcription factors of

the endocrine pancreas developmental pathway upon genetic and/or

microenvironmental manipulation in vitro. Stem Cells, 23(4), 594–603.

84. Morrison S.J. and Scadden D.T. (2014). The bone marrow niche for

haematopoietic stem cells. Nature, 505(7483), 327–334.

85. Müller I., Lymperi S., and Dazzi F. (2008). Mesenchymal stem cell therapy

for degenerative inflammatory disorders. Curr Opin Organ Transplant,

13(6), 639–644.

86. National Diabetes Statistics Report, 2014. 8.

87. Neckař P. and Syková E. (2015). [Stem cells in orthopaedics]. Cas Lek Cesk,

154(3), 107–109.

88. Olefsky J.M. and Glass C.K. (2010). Macrophages, inflammation, and insulin

resistance. Annu Rev Physiol, 72, 219–246.

89. Peloso A., Citro A., Zoro T., et al. (2018). Regenerative Medicine and

Diabetes: Targeting the Extracellular Matrix Beyond the Stem Cell

Approach and Encapsulation Technology. Front Endocrinol (Lausanne), 9.

90. Phadnis S.M., Ghaskadbi S.M., Hardikar A.A., et al. (2009). Mesenchymal

stem cells derived from bone marrow of diabetic patients portrait unique

markers influenced by the diabetic microenvironment. Rev Diabet Stud,

6(4), 260–270.

91. Piryaei A., Valojerdi M.R., Shahsavani M., et al. (2011). Differentiation of

bone marrow-derived mesenchymal stem cells into hepatocyte-like cells on

nanofibers and their transplantation into a carbon tetrachloride-induced

liver fibrosis model. Stem Cell Rev Rep, 7(1), 103–118.

92. Pittenger M.F., Mackay A.M., Beck S.C., et al. (1999). Multilineage potential

of adult human mesenchymal stem cells. Science, 284(5411), 143–147.

93. Pontikoglou C., Deschaseaux F., Sensebé L., et al. (2011). Bone marrow

mesenchymal stem cells: biological properties and their role in hematopoiesis

and hematopoietic stem cell transplantation. Stem Cell Rev Rep, 7(3), 569–589.

94. Pox C., Ritzel R., Büsing M., et al. (2002). Combined pancreas and kidney

transplantation in a lean type 2 diabetic patient. Effects on insulin secretion

and sensitivity. Exp Clin Endocrinol Diabetes, 110(8), 420–424.

95. Ramalho-Santos M. and Willenbring H. (2007). On the origin of the term

“stem cell.” Cell Stem Cell, 1(1), 35–38.

96. Reaven G.M. (1988). Banting lecture 1988. Role of insulin resistance in

human disease. Diabetes, 37(12), 1595–1607.

97. Révész D., Milaneschi Y., Verhoeven J.E., et al. (2015). Longitudinal

Associations Between Metabolic Syndrome Components and Telomere

Shortening. J Clin Endocrinol Metab, 100(8), 3050–3059.

98. Rivera J.F., Costes S., Gurlo T., et al. (2014). Autophagy defends pancreatic β

cells from human islet amyloid polypeptide-induced toxicity. J Clin Invest,

124(8), 3489–3500.

99. Ruud J., Steculorum S.M., and Brüning J.C. (2017). Neuronal control of

peripheral insulin sensitivity and glucose metabolism. Nature

Communications, 8(1), 1–12.

100. Ryan E.A., Paty B.W., Senior P.A., et al. (2005). Five-year follow-up after

clinical islet transplantation. Diabetes, 54(7), 2060–2069.

101. Sadan O., Melamed E., and Offen D. (2009). Bone-marrow-derived

mesenchymal stem cell therapy for neurodegenerative diseases. Expert Opin

Biol Ther, 9(12), 1487–1497.

102. Samuel V.T. and Shulman G.I. (2012). Mechanisms for insulin resistance:

common threads and missing links. Cell, 148(5), 852–871.

103. Shree N. and Bhonde R.R. (2017). Conditioned Media From Adipose Tissue

Derived Mesenchymal Stem Cells Reverse Insulin Resistance in Cellular

Models. J Cell Biochem, 118(8), 2037–2043.

104. Si Y., Zhao Y., Hao H., et al. (2012). Infusion of mesenchymal stem cells

ameliorates hyperglycemia in type 2 diabetic rats: identification of a novel

role in improving insulin sensitivity. Diabetes, 61(6), 1616–1625.

105. Skyler J.S., Fonseca V.A., Segal K.R., et al. (2015). Allogeneic Mesenchymal

Precursor Cells in Type 2 Diabetes: A Randomized, Placebo-Controlled,

Dose-Escalation Safety and Tolerability Pilot Study. Diabetes Care, 38(9),

1742–1749.

106. Sood V., Mittal B.R., Bhansali A., et al. (2015). Biodistribution of 18F-FDG-

Labeled Autologous Bone Marrow-Derived Stem Cells in Patients With Type

2 Diabetes Mellitus: Exploring Targeted and Intravenous Routes of Delivery.

Clin Nucl Med, 40(9), 697–700.

107. Sordi V., Malosio M.L., Marchesi F., et al. (2005). Bone marrow mesenchymal

stem cells express a restricted set of functionally active chemokine receptors

capable of promoting migration to pancreatic islets. Blood, 106(2), 419–

427.

108. Thom S.R., Bhopale V.M., Velazquez O.C., et al. (2006). Stem cell mobilization

by hyperbaric oxygen. Am J Physiol Heart Circ Physiol, 290(4), H1378-1386.

109. Wang L., Zhao S., Mao H., et al. (2011). Autologous bone marrow stem cell

transplantation for the treatment of type 2 diabetes mellitus. Chin Med J,

124(22), 3622–3628.

110. Wang Y., Chen X., Cao W., et al. (2014). Plasticity of mesenchymal stem cells

in immunomodulation: pathological and therapeutic implications. Nat

Immunol, 15(11), 1009–1016.

111. Weems P. and Cooper M. (2014). Pancreas transplantation in type II

diabetes mellitus. World J Transplant, 4(4), 216–221.

112. WHO, (2015), STEPwise approach to chronic disease risk factor

surveillance.

113. Williams G. and Pickup J.C. (2004), The Handbook of Diabetes, Wiley-

Blackwell, Malden, Mass.

114. Wu X.-H., Liu C.-P., Xu K.-F., et al. (2007). Reversal of hyperglycemia in diabetic

rats by portal vein transplantation of islet-like cells generated from bone

marrow mesenchymal stem cells. World J Gastroenterol, 13(24), 3342–3349.

115. Wu Z., Cai J., Chen J., et al. (2014). Autologous bone marrow mononuclear

cell infusion and hyperbaric oxygen therapy in type 2 diabetes mellitus: an

open-label, randomized controlled clinical trial. Cytotherapy, 16(2), 258–

265.

116. Xie Z., Hao H., Tong C., et al. (2016). Human umbilical cord-derived

mesenchymal stem cells elicit macrophages into an anti-inflammatory

phenotype to alleviate insulin resistance in type 2 diabetic rats. Stem Cells,

34(3), 627–639.

117. Yaribeygi H., Farrokhi F.R., Butler A.E., et al. (2019). Insulin resistance:

Review of the underlying molecular mechanisms. Journal of Cellular

Physiology, 234(6), 8152–8161.

118. Zang L., Hao H., Liu J., et al. (2017). Mesenchymal stem cell therapy in type 2

diabetes mellitus. Diabetol Metab Syndr, 9.

119. Zhang Q.-Z., Su W.-R., Shi S.-H., et al. (2010). Human gingiva-derived

mesenchymal stem cells elicit polarization of m2 macrophages and enhance

cutaneous wound healing. Stem Cells, 28(10), 1856–1868.

120. Zhang S., Zhao C., Liu S., et al. (2018). Characteristics and multi-lineage

differentiation of bone marrow mesenchymal stem cells derived from the

Tibetan mastiff. Mol Med Rep, 18(2), 2097–2109.

121. Zhang Y., Shen W., Hua J., et al. (2010). Pancreatic islet-like clusters from

bone marrow mesenchymal stem cells of human first-trimester abortus can

cure streptozocin-induced mouse diabetes. Rejuvenation Res, 13(6), 695–

706.

122. Zhang Z., Wang X., and Wang S. (2008). Isolation and characterization of

mesenchymal stem cells derived from bone marrow of patients with

Parkinson’s disease. In Vitro Cell Dev Biol Anim, 44(5–6), 169–177.

123. Zhao K., Hao H., Liu J., et al. (2015). Bone marrow-derived mesenchymal

stem cells ameliorate chronic high glucose-induced β-cell injury through

modulation of autophagy. Cell Death Dis, 6, e1885.

124. Zhao Y., Jiang Z., Zhao T., et al. (2012). Reversal of type 1 diabetes via islet β

cell regeneration following immune modulation by cord blood-derived

multipotent stem cells. BMC Medicine, 10(1), 3.

125. Zhao Y., Jiang Z., Zhao T., et al. (2013). Targeting insulin resistance in type 2

diabetes via immune modulation of cord blood-derived multipotent stem cells

(CB-SCs) in stem cell educator therapy: phase I/II clinical trial. BMC Med, 11,

160.

126. Zhao Z.-G., Liang Y., Li K., et al. (2007). Phenotypic and functional

comparison of mesenchymal stem cells derived from the bone marrow of

normal adults and patients with hematologic malignant diseases. Stem Cells

Dev, 16(4), 637–648.

DANH SÁCH BỆNH NHÂN THAM GIA NGHIÊN CỨU

STT Mã bệnh nhân

Tuổi Giới

Địa chỉ

Ngày lấy tủy

Chẩn đoán

Ngày khám sàng lọc

Ngày truyền tế bào gốc

Tái khám sau 1 tháng

Tái khám sau 3 tháng

Tái khám sau 6 tháng

1

33

Nam

Hà Nội

02.11.17

09.03.18

29.03.18

26.04.18

28.06.18

01.10.18

ĐTĐ T2

2

61

Nam

Hà Nội

09.03.18

09.03.18

26.04.18

26.04.18

06.03.19

09.10.18

ĐTĐ T2

3

63

Nam Hải Phòng

15.03.18

15.03.18

10.05.18

10.05.18

09.07.18

12.10.18

ĐTĐ T2

4

53

Nam

Hà Nội

30.03.18

19.04.18

08.06.18

08.06.18

06.08.18

13.03.19

ĐTĐ T2

5

Hà Nội

09.03.18

19.04.18

11.06.18

11.06.18

10.08.18

26.11.18

ĐTĐ T2

62

Nữ

6

Hà Nội

11.04.18

11.05.18

28.06.18

28.06.18

29.08.18

03.12.18

ĐTĐ T2

66

Nữ

7

64

Nam Quảng Ninh

08.05.18

25.05.18

18.07.18

18.07.18

15.09.18

14.12.18

ĐTĐ T2

8

Hà Nội

26.05.18

12.07.18

05.09.18

05.09.18

08.11.18

28.01.19

ĐTĐ T2

56

Nữ

9

Hà Nội

26.06.18

19.07.18

05.09.18

05.09.18

08.11.18

13.02.19

ĐTĐ T2

56

Nữ

10

67

Nam

Hà Nội

07.06.18

11.07.18

14.09.18

14.09.18

19.11.18

13.02.19

ĐTĐ T2

11

37

Nam

Hà Nội

10.05.18

25.05.18

27.09.18

27.09.18

27.11.18

26.02.19

ĐTĐ T2

12

57

Nam

Hà Nội

26.07.18

31.07.18

04.10.18

04.10.18

06.12.18

11.03.19

ĐTĐ T2

VN01-MSC- VINMEC03-002 VN01-MSC- VINMEC03-001 VN01-MSC- VINMEC03-003 VN01-MSC- VINMEC03-004 VN01-MSC- VINMEC03-005 VN01-MSC- VINMEC03-006 VN01-MSC- VINMEC03-007 VN01-MSC- VINMEC03-009 VN01-MSC- VINMEC03-010 VN01-MSC- VINMEC03-012 VN01-MSC- VINMEC03-013 VN01-MSC- VINMEC03-014

13

58

Nam

Hà Nội

20.03.18

15.08.18

09.10.18

09.10.18

05.12.18

04.03.19

ĐTĐ T2

14

52

Nam

Phú Thọ

31.07.18

08.08.18

22.10.18

22.10.18

19.12.18

30.03.19

ĐTĐ T2

15

57

Nam

Bắc Ninh

11.06.18

09.05.18

29.10.18

29.10.18

29.12.18

30.03.19

ĐTĐ T2

16

68

Nữ

Hà Nội

07.06.18

13.07.18

09.11.18

09.11.18

08.01.19

16.04.19

ĐTĐ T2

17

68

Nữ

Hà Nội

12.07.18

26.09.18

27.11.18

27.11.18

15.02.19

18.04.19

ĐTĐ T2

18

36

Nam Hải Phòng

17.10.18

19.10.18

15.12.18

15.12.18

22.02.19

09.05.19

ĐTĐ T2

19

61

Nữ

Hà Nội

23.10.18

23.10.18

16.11.18

18.12.18

15.02.19

29.05.19 ĐTĐ T2

20

67

Nam

Hà Nội

18.10.18

09.11.18

27.12.18

27.12.18

28.02.19

06.06.19

ĐTĐ T2

21

55

Nam Hồ Chí Minh

23.10.18

26.10.18

16.11.18

23.10.18

18.12.18

15.02.19 ĐTĐ T2

22

62

Nam

Hà Nội

16.11.18

17.12.18

18.01.19

18.02.19

25.04.19

25.07.19

ĐTĐ T2

VN01-MSC- VINMEC03-015 VN01-MSC- VINMEC03-016 VN01-MSC- VINMEC03-018 VN01-MSC- VINMEC03-019 VN01-MSC- VINMEC03-021 VN01-MSC- VINMEC03-022 VN01-MSC- VINMEC03-023 VN01-MSC- VINMEC03-024 VN01-MSC- VINMEC03-025 VN01-MSC- VINMEC03-029