
vietnam medical journal n02 - MAY - 2019
154
giả Nguyễn Hùng Long và cộng sự (2016) về
thực trạng an toàn thực phẩm tại cơ sở kinh
doanh giò chả ở một số chợ quận Hai Bà Trưng
và huyện Thanh Trì, Hà Nội cho kết quả có 46,2
% mẫu giò có hàn the và 58,8% mẫu chả dương
tính với hàn the [5]. Kết quả này cho thấy
nghiên cứu ở các nơi, các thời điểm khác nhau ở
nước ta đều có ghi nhận chung về việc mất an
toàn trong sử dụng hàn the ở mức đáng lo ngại.
Cũng cần phải nói thêm rằng sự tích lũy gây độc
của hàn the đã được minh chứng nên dù ít vẫn
có thể gây nguy hại cho sức khỏe.
Hàn the không có trong danh mục các chất
được Bộ Y tế cho phép dùng chế biến thực phẩm
do tính độc hại của nó [2]. Mặc dù đã có nhiều
thông tin cảnh báo tác hại của hàn the, ý thức
người kinh doanh, sản xuất cũng như người tiêu
dùng đã có sự chuyển biến tích cực, nhưng nhìn
chung đến nay vẫn chưa chấm dứt được việc sử
dụng hàn the trong các thực phẩm chế biến sẵn.
Việc quản lý và cấm sử dụng vẫn còn gặp rất
nhiều khó khăn, hàn the vẫn được bày bán công
khai tại các chợ, việc mua bán quá dễ dàng, giá
thành lại rẻ. Các hộ gia đình sản xuất với quy mô
nhỏ lẻ nên việc xử lý vi phạm còn gặp nhiều khó
khăn. Chính vì vậy, việc quản lý, giám sát không
sử dụng hàn the trong thực phẩm đang là vấn đề
khó khăn, cần có thời gian nhất định để thực hiện.
V. KẾT LUẬN
Số mẫu thực phẩm xét nghiệm dương tính với
hàn the ở cả 3 huyện là khá cao, Đồng văn
40,0% cao hơn 2 huyện còn lại Mèo Vạc 36,7%,
Quản Bạ 30,0%.
Hàm lượng hàn the trung bình ở các mẫu thực
phẩm giò lợn tại huyện Đồng văn (0,25 ± 0,26)
cao hơn huyện Quản Bạ (0,16 ± 0,21) và huyện
Mèo Vạc (0,15 ± 0,20), tuy nhiên p > 0,05.
Hàm lượng hàn the trong mẫu chả lợn (0,097
± 0,15), và mẫu bún (0,085 ± 0,13), tại huyện
Đồng Văn là cao hơn huyện Mèo Vạc (0,14 ±
0,18 và 0,083 ± 0,13) và huyện Quản Bạ (0,097
± 0,15 và 0,075 ± 0,12), tuy nhiên p > 0,05.
KHUYẾN NGHỊ. Nâng cao kiến thức, thái độ,
thực hành của người chế biến, buôn bán cũng
như người tiêu dùng về tác hại của hàn the
nhằm hạn chế tối đa việc sử dụng hàn the trong
chế biến và bảo quản thực phẩm.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Y tế (2000), Quyết định số 3390/2000/QĐ-BYT,
ngày 28/9/2000 ban hành “Thýờng quy kỹ thuật
định tính và bán ðịnh lýợng natri borat và acid
boric trong thực phẩm”.
2. Bộ Y tế (2001), Quyết định số 3742/2001/QĐ-BYT
ngày 31/8/2001 ban hành Quy định danh mục các
chất phụ gia được phép sử dụng trong thực phẩm.
3. Trương Thị Thùy Dương và cộng sự (2016),
Hàm lượng hàn the trong một số thực phẩm chế
biến sẵn ở 2 chợ trung tâm thành phố Thái Nguyên
năm 2016, Tạp chí Y học thực hành (1032), số
1/2017, tr. 51-53.
4. Trần Thị Khánh Linh (2016), Nghiên cứu thực
trạng sử dụng Hàn the trong một số thực phẩm
lưu thông ở chợ tại thành phố Nam Định đầu năm
2016, Hội nghị khoa học ATTP lần thứ VII - 2016,
Tạp chí DD&TP 12, số 6 (1) - 2016, tr.213.
5. Nguyễn Hùng Long và cộng sự (2016), Thực
trạng an toàn thực phẩm tại cơ sở kinh doanh giò
chả ở một số chợ quận Hai Bà Trưng và huyện
Thanh Trì, Hà Nội năm 2016, Tạp chí Y học dự
phòng tập 27 số 3 2017 tr. 36.
ỨNG DỤNG THUẬT TOÁN BLAND - ALTMAN, T - TEST VÀ PEARSON
ĐÁNH GIÁ TƯƠNG ĐƯƠNG BỘ XÉT NGHIỆM CẢI TIẾN VÀ XÉT NGHIỆM
HALOSPERM TRONG XÁC ĐỊNH MỨC ĐỘ ĐỨT GÃY ADN TINH TRÙNG
Nguyễn Minh Thu*, Nguyễn Thị Trang*
TÓM TẮT42
Mục tiêu:
Đánh giá tương đương bộ xét nghiệm
cải tiến và bộ xét nghiệm thương mại Halosperm trong
xác định mức độ đứt gãy ADN tinh trùng. Đối tượng
nghiên cứu và phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt
ngang trên 300 mẫu tinh dịch của bệnh nhân nam giới
*Trường Đại học Y Hà Nội
Chịu trách nhiệm chính: Nguyễn Thị Trang
Email: trangnguyen@hmu.edu.vn
Ngày nhận bài: 7.3.2019
Ngày phản biện khoa học: 25.4.2019
Ngày duyệt bài: 29.4.2019
được chẩn đoán vô sinh đến làm xét nghiệm tại Trung
tâm Tư vấn Di truyền, Bệnh viện Đại học Y Hà Nội và
có mật độ tinh trùng ≥ 1 triệu/ml. Sử dụng thuật toán
Bland - Altman, T - test và Pearson để so sánh 2
phương pháp.
Kết quả:
Có sự tương quan mạnh
vềchỉ số đứt gãy ADN tinh trùng đo được bằng hai
phương pháp (r = 0,995; p<0,001). Khác biệt kết quả
giữa 2 phương pháp rất nhỏ (trung bình khác biệt
0,042) và không có ý nghĩa thống kê với độ tin cậy
95% (p = 0,236 > 0,05).
Kết luận:
Bộ xét nghiệm cải
tiến xác định mức độ đứt gãy ADN tinh trùng tương
đương với bộ xét nghiệm thương mại đạt chuẩn
Halosperm.
Từ khóa:
Đứt gãy ADN tinh trùng, DFI, Cải tiến.