Ngày nhận bài: 28-02-2025 / Ngày chấp nhận đăng bài: 18-04-2025 / Ngày đăng bài: 21-04-2025
*Tác giả liên hệ: Trần Nhật Huy. Bộ môn Phụ Sản, Đại học Y Dược Thành Phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. E-mail:
tranhuy@ump.edu.vn
© 2025 Bản quyền thuộc về Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh.
https://www.tapchiyhoctphcm.vn 157
ISSN: 1859-1779
o o Ca m sàng
Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh; 28(4):157-163
https://doi.org/10.32895/hcjm.m.2025.04.20
Ung thư biểu mô tuyến gp dạng nhú xut phát từ u quái
gp và cách tiếp cn ln chuyên khoa
Trần Nht Huy1,*
1Bộ môn Phụ Sản, Đại học Y Dược Thành Phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam
Tóm tắt
Đặt vấn đ: Ung thư biểu tuyến giáp dạng nhú xuất phát tu quái giáp (PTC) một thbệnh m ng cực kỳ hiếm
gặp. Biểu hiệnm sàng, tiêu chuẩn chẩn đoán, phương pháp điều trị còn nhiều điều chưa rõ ràng do sự thiếu hụt về cơ
sở dữ liệu. Chúng i trình bày một ca m sàng vthể bệnh này và cho thấy sự hiệu quả của việc phối hợp các chuyên
khoa khác nhau nhằm đạt được sự tối ưu trong việc quản điều trị cho bệnh nhân.
Ca lâm ng: Bệnh nhân nữ 37 tuổi, nhập viện với khối u buồng trứng hai n được phẫu thut nội soi c u với chẩn
đoán trước mổ là u quái trưởng thành của buồng trứng hai n, kích tớc ln gây cm giác trằn nặng vùng chậu. Mô
học sau phẫu thuật đượcc định là ung t biểu tuyến giáp dạng nhú xuất phát từ u quái giáp. Với kết quả học
n vậy, chúng tôi tiến hànhc khảo sát liên quan tiếp theo phát hiện một nang giáp phân loại TRADS 2 một tổn
thươngch nghi ngờ là tổn thương di căn. Sự phối giữa các nhà lâm sàng về ung t, phụ khoa, nội tiết và hình ảnh
can thiệp đã giúp đánh g và đưa ra ớng điều trị thích hợp cho bệnh nhân. Sau khi được phẫu thuật lần hai nội soi cắt
hai phần phụ, mạc nối lớn và phân giai đon, bệnh nhân được theo dõi định kỳ và kết cục ngn hạn cho thấy một kỳ
vọng rất khả quan.
Kết luận: Ung thư biểu mô tuyến giáp dạng nxuất phát từ u quái giáp là một thể bệnh rất hiếm trên lâm ng, do đó
y ra không ít bối rối cho các nhàm sàng khi gặp phải. Việc quản, nhất các phương pháp phẫu thuật còn nhiều
tranh luận. Bên cạnh việc dựa vào c thông tin y văn sẵn thì đánh giá bệnh nhân một cách cẩn thận, thh
ng như phối hợp giữa các chuyên khoa khác nhau cho thấy hiệu quả đáng mong đợi trong điều trị trước mắt và lâu
i cho bệnh nhân.
Từ khoá: ung thư biểu tuyến giáp dạng nxuất phát tu qi gp; u quái gp; tiếp cận liên chuyên khoa
Abstract
PAPILLARY THYROID CARCINOMA ARISING IN STRUMA OVARII AND A
INTERDISCIPLINARY APPROACH
Tran Nhat Huy
Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh * Tập 28 * Số 4 * 2025
158 | https://www.tapchiyhoctphcm.vn https://doi.org/10.32895/hcjm.m.2025.04.20
Objective: Papillary thyroid carcinoma (PTC) arising in struma ovarii is an extremely rare clinical disease. Clinical
manifestations, diagnostic criteria, and treatment methods remain unclear due to a lack of data. We presented a clinical
case of this disease and demonstrated the necessity of an interdisciplinary approach to achieve optimal management
and treatment for the patient.
Case presentation: A 37-year-old patient was admitted to the hospital with bilateral ovarian teratomas and underwent
laparoscopic cystectomy with a preoperative diagnosis of large mature teratoma of both ovaries, causing a feeling of
heaviness in the pelvic area. Postoperative histopathology was identified as papillary thyroid carcinoma arising in struma
ovarii; examination afterward revealed a TI-RADS 2 thyroid nodule and a lesion in the spleen suspected to be a
metastatic lesion. The collaboration between oncologists, gynaecologists, endocrinologists, and interventional
radiologists helped assessing and indicating appropriate treatment for the patient. After undergoing a second
laparoscopic surgery to remove both adnexa, omentum, and staging, the patient was monitored regularly, and the short-
term outcome showed very promising expectations.
Conclusion: Papillary thyroid carcinoma arising in struma ovarii is a very rare clinical disease, thus causing considerable
confusion for clinicians. Management, especially surgical methods, is still controversial. Based on available medical
literature, careful evaluation of the patient, individualization, and coordination between different medical specialties
show promising outcomes for the patient.
Keywords: papillary thyroid carcinoma arising in struma ovarii (PTC); struma ovarii; interdisciplinary approach
1. ĐT VẤN Đ
U quái giáp một thể bệnh lâm sàng hiếm gặp, chiếm tlệ
ới 1% các loại u buồng trứng và dưới 2,7% các loại u quái
của buồng trứng [1]. Loại u buồng trứng này được đặc trưng
bởi thành phần mô tuyến giáp chiếm ưu thế ợt trội so với
c thành phần còn lại, tiêu chuẩn chẩn đoán học được
xác định khi thành phần tuyến giáp chiếm hơn 50% [2],
nhuộm h miễn dịch cho thấy biểu hiện dương tính với
Thyroid Transcription factor 1 (TTF-1), Pair-Box Gene 8
(PAX8) thyroglobulin [3]. Hầu hết c loại u qi giáp của
buồng trứng là lành tính, tuy nhiên vẫn tồn tại các th ác tính
với tỉ lệ rất hiếm, khoảng 0,05% các loại u buồng trứng, gây
ra nhiều bối rối cho các nhà lâm sàng trong vic chẩn đoán,
quản lý và vấn cho bệnh nhân [4]. Trong c thác tính của
u quái giáp thì ung thư biểu tuyến giáp dạng nhú th
bệnh thường gặp hơn cả. Biểu hiện về lâm sàng, hình ảnh
ng như các chất đánh dấu sinh học bướu của thể bệnh này
hầu như không có sự khác biệt ng o với các loại u qi
khác của buồng trứng, điều này dẫn tới rất nhiều khó khăn
cho các nhà lâm sàng. Chẩn đoán chỉ được xác lập sau phẫu
thuật khi khảo sát mô học của khối u. Chúng tôi trình bày một
ca bệnh lâmng ung thư biểu tuyến giáp dạng nhú xuất
phát từ u quái giáp kèm theo c tổn thương tuyến giáp
chính vị nhulách, đồng thời cho thấy sphối hp liên
chuyên khoa trong vic quản lý toàn diện và đem lại những
kết quả tốt đẹp cho bệnh nhân mắc thể bệnh lâm ng hiếm
gp này.
2. BÁOO CA
Bệnh nhân nữ, 37 tuổi, para 2012, với hai lần sinh thường
và một lần phá thai nội khoa trước đó, không kèm theo vấn
đề bất thường. c tiền n về bệnh nội, ngoại khoa
tớc đó ng bình thường. Bệnh nhân ngừa thai với dụng cụ
tcung cha đồng, Tcu, được 8 năm nay, kinh nguyệt đều,
hành kinh bình thường. Bệnh nhân đi khám sức khoẻ thỉnh
thoảng thấy căng trằn vùng bụng dưới phát hiện u buồng
trứng hai bên nghĩ là u quái trưởng thành dựa vào các đặc
điểm điển hình trên siêu âm. Khám lâm sàng ghi nhận buồng
trứng hai bên khối u ch thước lần ợt bên phải 10x6 cm,
và bên trái 4x5 cm, di động, trơn láng, giới hạn rõ, không đau.
Các chất đánh dấu sinh học ớu ghi nhận kết qu bình
tờng với Alpha Fetoprotein 1 IU/mL, CA125 14,4 IU/mL,
Beta-hCG < 0,2 mIU/mL, HE4 34,5pmol/L. Với c khảo sát
tờng quy trước mổ trong giới hạn bình thường, bệnh nhân
được phẫu thuật nội soi bóc khối u buồng trứng hai bên, quá
tnh bóc khối u nguyên vẹn, người bệnh được xuất viện trong
ng ngày phẫu thuật.
Sau phẫu thuật, chẩn đoán được xác định dựa vào kết quả
mô học ung thư biểu mô tuyến giáp dạng n xuất phát từ
u quái giáp bên phải u quái trưởng thành buồng trứng
Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh * Tập 28 * Số 4 * 2025
https://doi.org/10.32895/hcjm.m.2025.04.20 https://www.tapchiyhoctphcm.vn | 159
n ti. c khảo sát để đánh giá, quản một bệnh nhân ung
t buồng trứng được tiến hành ngay sau đó. Siêu âm 2D
tuyến giáp ghi nhận một nhân giáp thu trái kích thước 7x4
mm, phản âm hỗn hợp, giới hạn rõ, bờ đều, trục ngang, được
phân loại TI-RADS 2. CT Scan ngực không ghi nhận hình
ảnh bất thường, tuy nhiên CT Scan bụng lại nghi nhận các tổn
tơng bắt thuốc m rải rác ở lách với kích thước 12 mm,
nghi ng tổn thương di căn. Chức năng tuyến giáp cũng
được khảo sát với kết quả bình thường TSH 1,9 mIU/L, FT4
10,5Pmol/L. Các bác ung bướu được tham vấn đđánh giá
tổn thươngtuyến gp, bác sĩ chuyên vềnhnh can thiệp
được mời để đánh g can thiệp tổn thương lách. Sau khi
thống nhất giữa các chuyên khoa, chúngi quyết định nhân
gp TI-RADS 2 sẽ được tiếp tục theo dõi định kỳ qua lâm
sàng và siêu âm, tổn thương lách s được sinh thiết ới
ớng dẫn của siêu âm, người bệnh ng được vấn vềc
biện pháp can thiệp sau đó. Kết quả mô học sau sinh thiết tổn
tơng ch u lành mạch u. Người bệnh được phẫu
thuật nội soi cắt phần phụ hai bên, cắt mạc nối lớn, sinh thiết
phúc mạc, phân giai đoạn ung thư và sử dụng nội tiết thay thế
sau phẫu thuật. Bệnh nhân sau phẫu thuật được theo dõi định
kỳ không thêm can thiệp nào khác. các thời điểm 3 tháng,
6 tháng sau phẫu thuật ghi nhận sức khoẻ của bệnh nhân ổn
định, không phát hiện bất kỳ tổn thương o khác trên lâm
sàng cũng như hình ảnh. Tn bộ quá trình thăm khám, chẩn
đoán hình ảnh, xét nghiệm, chẩn đoán mô học và phẫu thuật
bệnh nhân đều được thc hiện tại bệnh viện Đại học Yợc
Thành phố Hồ Chí Minh (Hình 1-6).
nh 1. Siêu âm thang xám khối u buồng trứng trái, phản âm hỗn
hợp với các thành phần phản âm y xen kcác dải phản âm
ng
nh 2. Siêu âm thang m khi u buồng trng phải, phản âm
hỗn hợp với c thành phần phản âm dày xen kcác dải phản
âm sáng
nh 3. Khối u buồng trứng phải qua phẫu thuật nội soi
nh 4. Mạc nối lớn trơnng qua phẫu thuật nội soi
Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh * Tập 28 * Số 4 * 2025
160 | https://www.tapchiyhoctphcm.vn https://doi.org/10.32895/hcjm.m.2025.04.20
nh 5. học ung thư biểu tuyến giáp dạng nhú xuất phát từ u quái giáp, thượng tuyến giápng sản tạo nhú có trục liên
kết mạch máu, nn lớn,ng, trong nhân chứa thể vùi. Nhuộm Hematoxylin & Eosin, độ phóng đại 100x và 400x
nh 6. Tổn thương khu trú thuỳ ti tuyến giáp với phản âm hỗn hợp kích thưc 7x4 mm
3. N LUẬN
Về chẩn đoán trước mổ; ung thư biểu mô tuyến giáp dạng
nhú xuất phát từ u qi giáp (PTC) hầu nkhông được chẩn
đoán trước mổ vì biểu hiện m sàng, các xét nghiệm về nh
ảnh, hay các chất đánh dấu sinh học bướu đều không đặc hiệu
[5,6]. Phần lớn bệnh nhân s được ch định m như một
tờng hợp u quái thông thường của buồng trứng, có th kèm
theo các triệu chứng khó chịu như trằn nặng bụng, hay một
khối u ng chậu. Vẫn có những trường hợp khối u buồng
trứng kèm theo các dấu hiệu gợi ý cho u quái giáp như bệnh
nhân biểu hiện cường giáp, dịch bụng hay huyết khối
tĩnh mạch sâu, tuy nhiên những trường hợp này rất hiếm
gp [6]. Trong ca lâm sàng được trình bày, bệnh nhân phát
hiện bệnh do cảm giác trằn nặng vùng bụng dưới, ngi ra,
không biểu hiện bất thường khác trên lâm sàng. Hình
ảnh siêu âm ghi nhận khối u buồng trứng hai bên với kích
tớc 10x6 cm bên phải 4x3 cm bên ti, c tính cht trên
hình ảnh gợi ý cho u quái trưởng thành của buồng trứng, các
chất đánh dấu sinh học bướu cũng không phát hiện bất
tờng. Phẫu thuật được tiến hành sau đó khi stham vấn
và cùng quyết định giữa bác lâm sàng phụ khoa và người
bệnh, với chẩn đoán tớc mổ là u quái trưởng thành buồng
trứng hain to, gây trằn nặng vùng chậu, phẫu thuật nội soi
c u buồng trứng hai bên.
Chẩn đoán được xác định sau đó là ung thư biểu mô tuyến
gp dạng nhú xuất phát từ u quái giáp bên phải, u quái trưởng
tnh buồng trứng bên trái, dựa o các tính chất trên mô
học. Về đại thể, khối u bên phải chia thành nhiều thuỳ,
vách mỏng, mặt cắt màu vàng, chứa chất dạng keo, có vùng
đặc ch thước 1,5 cm x 1 cm. Khối u bên trái dạng nang,
vách mỏng, bên trong chứa mô bã, lông, tóc. Vi th u bên
Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh * Tập 28 * Số 4 * 2025
https://doi.org/10.32895/hcjm.m.2025.04.20 https://www.tapchiyhoctphcm.vn | 161
phải thượng tuyến giáp tăng sản tạo nhú trc liên
kết mạch máu, nhân lớn, sáng, trong nhân chứa thể vùi, bên
ti hiện diện biểu da gồm c lớp tế o gai, phần phụ
da, tuyến giáp, mỡ lành tính. Ung thư biểu mô tuyến giáp
dạng nhú xuất phát tu quái giáp buồng trứng một thể bệnh
rất hiếm, chẩn đoán mô học của nó được dựa vào những tiêu
chẩn đoán của ung thư biểu tuyến giáp dạng nhú của tuyến
gp chính v, việc áp dụng những tiêu chuẩn y th
vẫn còn tranh luận [2], mô học của ung thư biểu mô tuyến
gp dạng nhú từ tuyến gp chính vràng thống nhất.
n nữa, Devaney K cũng báo o 13 ca chẩn đoán là PTC
xuất phát từ buồng trứng sử dụng tiêu chuẩn của PTC từ tuyến
gp chính vị chỉ thật sự 1 trong số những ca đó cho thấy
đặc nh sinh học ác tính phát triển xâm lấn ra khỏi buồng
trứng [7]. Tuy nhiên, vì các trường hợp PTC từ buồng trứng
n quá ít, nên hiện thời c báo o ca hay loạt ca đều sử
dụng tiêu chuẩn chẩn đoán của PTC từ tuyến giáp chính vị.
Theo đó, hình ảnh nhân tế bào lớn, sáng, chồng lấn lên nhau,
chứa th vùi, màng nhân không đều ơng đối điển hình để
xác lập chẩn đoán [2]. Trong một số trường hợp khi chẩn đoán
không rõ ràng hoặc cần thêm thông tin hỗ trợ thì việc nhuộm
hmô miễn dịch với TTF-1, Thyroglobulin cũng cho thấy
sự hữu ích đáng kể [8,9]. Ung thư biểu mô tuyến gp dạng
nhú xuất phát từ u quái buồng trứng một thể bệnh cực kỳ
hiếm trên m sàng. Về mặt chẩn đoán, c dấu hiệu, triệu
chứng của thbệnhy, ngay cả vớinh ảnh học, chất đánh
dấu sinh học ớu đều không đặc hiệu. Thậm chí, phần lớn
c bệnh nhân y s những biểu hiện gần như giống hoàn
tn với một bệnh nhân u quái buồng trứng trưởng thành.
Do đó, vai trò của c sĩ giải phẫu bệnh trong việc chẩn đn
mô học với phương pháp nhuộm Hematoxylin & Eosin,
nhuộm h mô miễn dịch với TTF-1 cực kỳ quan trọng.
thể nói đây những phương tiện gần như duy nhất giúp
c lâm lâm sàng có thchẩn đoán quản lý những bệnh
nhân với thể bệnh cực khiếm này. Về mặt sinh học phân tử,
c đột biến gen BRAF, HRAS và NRAS gần đây ng được
nhắc tới nhiều hơn trong y văn [10]. một số trường hợp,
việc phân biệt giữa u quái giáp lành tính ác tính gặp rất
nhiều khó khăn về mô học, do vbao các thể lành nh
không phải c o cũng ràng gây khó khăn trong việc phân
biệt chúng với các thể xâm lấn ác tính. Hơn nữa, nhân tếo
đôi khi những biến đổi được gọi là “giống ung thư biểu mô
tuyến dạng nhúng gây thêm k khăn về mặt chẩn đoán.
Trong một o o 14 ca được xác định u quái giáp lành
tính, không ca bệnh nào ghi nhận đột biến BRAF hay RAS.
Trong khi đó, với 17 ca u quái giáp ác tính thì 29% ghi nhận
đột biến BRAF, đặc biệt với các thể điển hình của ung thư
biểu mô tuyến gp dạng nhú xut phát từ u quái buồng trứng
t đột biến BRAF ghi nhận ở tất cả c trường hợp [11]. Đối
với đột biến RAS thì Sobrinho-Simões M cũng ghi nhận 43%
c trường hợp được chẩn đoán ung thư biểu mô tuyến giáp
dạng nhú điển hình [12].Trong c thể di căn xa của u quái
gp ác tính thì có khoảng 35% trường hợp cho thấy tái phát
sau đó, nhưng các tu chuẩn, đặc tính để tiên lượng bệnh t
chưa ràng, do đó bên cạnh việc giúp ích vmặt chẩn đoán,
c đột biến BRAF, RAS gần đây cũng được ghi nhận kỳ
vọng th giúp ích cho mặt tiên ợng, tuy nhiên cần phải
thêm nhiều khảo sát, nghiên cứu thêm về vấn đnày.
Cần chú ý, bên cạnh ung thư biểu mô tuyến gp dạng n
xuất phát từ u quái giáp thì một dng ác tính khác ít gặp hơn
nữa của u quái giáp ung thư biểu mô dạng nang biệt hoá
cao cũng được ghi nhận. Chẩn đoán thnày thường khó khăn
hơn với những đặc điểm tổn thương xâm nhập o các
xung quanh ngoài buồng trứng, xâm nhập mạch máu, hoặc di
căn đồng thời thiếu vắng các hình ảnh mô học điển hình của
ung thư biểu mô tuyến gp dạng nhú [6].
Việc quản bệnh nhân ung thư biểu tuyến giáp dạng
nhú xuất phát từ u quái gp một thách thức thật sự. Hiện
nay vì số ca bệnh còn ít, hoàn toàn thiếuc nghiên cứu lâm
sàng giá trị cao cácớng dẫn điều trnên việc quản
tuỳ thuộc vào từng bệnh nhân bệnh cảnh cụ thể. Phẫu thuật
vẫn là biện pháp điều trị chính cho nhóm bệnh này, đi tphẫu
thuật bảo tồn như c khối u buồng trứng đối với các tổn
tơng tại chổ, không bằng chứng xâm lấn vỏ bao hay di
căn xa cho đến phẫu thuật cắt phần phụ một bên, hai bên, cắt
tcung, cắt mạc nối lớn, thể kèm theo cắt trọn tuyến
gp điều trị tiếp theo với iode phóng xạ [13,14]. Xạ trị
ngoài hay h trị cũng thđược sử dụng cho các trường
hợp di căn sau đó. Đối với bệnh nhân của chúng tôi, nữ, 37
tuổi, hai con, sau khi xác định chẩn đoán, cũng nthực hiện
c khảo sát cần thiết nhằm đánh giá giai đoạn bệnh, tìmc
tổn thương thphát bên ngoài buồng trứng, bao gồm các
đánh giá tuyến giáp, bụng, ngực, chúng tôi xác định bệnh
n khu trú buồng trứng. Quyết định được đưa ra phẫu
thuật nội soi cắt phần phụ hai bên, cắt mạc nối lớn m sinh
thiết phúc mạc rãnh đại tràng hai n sử dụng nội tiết thay
thế cho bệnh nhân sau mổ. Theo dõi ngắn hạn sau mổ cho
thấy sức khoẻ của bệnh nhân ổn định không cần thêm điều
trị bổ trợ khác. Việc chỉ cắt phần phụ bên phải hay cắt cả