BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
............/............ ....../......
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
TẠ THỊ MINH THU
VAI TRÒ CỦA HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ VIỆT NAM TRONG GIÁM SÁT VÀ PHẢN BIỆN XÃ HỘI
Chuyên ngành : Quản lý công
Mã số
: 8 34 04 03
TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG
HÀ NỘI - NĂM 2020
Công trình được hoàn thành tại: HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
Người hướng dẫn khoa học: TS. Ngọ Văn Nhân
Người phản biện 1: PGS.TS Nguyễn Ngọc Đào
Luận văn được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận văn thạc sĩ, Học viện Hành
chính Quốc gia
Địa điểm: Phòng họp D, Nhà A Hội trường bảo vệ luận văn thạc sĩ, Học
viện Hành chính Quốc gia
Số: 77 Nguyễn Chí Thanh - Quận: Đống đa - Thành phố: Hà Nội
Thời gian: vào hồi 9 giờ ngày 24 tháng 8 năm 2020
Người phản biện 2: TS. Tạ Ngọc Hải
Có thể tìm hiểu luận văn tại Thư viện Học viện Hành chính Quốc gia
hoặc trên trang Web Khoa Sau đại học, Học viện Hành chính Quốc gia
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài luận văn Giám sát và phản biện xã hội là hoạt động quan trọng nhằm phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của nhân dân, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, hiệu quả hoạt động của các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị. Đồng thời kịp thời phát hiện và kiến nghị xử lý sai phạm, khuyết điểm; kiến nghị sửa đổi, bổ sung chính sách, pháp luật, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tăng cường đồng thuận xã hội.
Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam (Hội) là tổ chức chính trị - xã hội trong hệ thống chính trị, có tư cách pháp nhân, đại diện cho quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của các tầng lớp phụ nữ Việt Nam; phấn đấu vì sự phát triển của phụ nữ và bình đẳng giới. Hội cũng là thành viên của Liên đoàn Phụ nữ Dân chủ Quốc tế và Liên đoàn các tổ chức phụ nữ ASEAN. Là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Hội có vai trò tham mưu, đề xuất, tham gia xây dựng, phản biện xã hội và giám sát việc thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước có liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của phụ nữ, gia đình, trẻ em và bình đẳng giới.
Trong những năm quá hoạt động giám sát của Hội đã góp phần xây dựng, thực hiện đúng các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, các chương trình kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại; kịp thời phát hiện những sai sót, khuyết điểm, yếu kém và kiến nghị sửa đổi, bổ sung các chính sách cho phù hợp; phát hiện, phổ biến những nhân tố mới, những mặt tích cực; phát huy quyền làm chủ của nhân dân, góp phần xây dựng Đảng, Nhà nước, các cấp chính quyền nói chung, các cấp Hội nói riêng trong sạch, vững mạnh. Hoạt động phản biện xã hội của Hội góp phần phát hiện những nội dung còn thiếu, chưa sát, chưa đúng, chưa phù hợp trong các văn bản dự thảo của các cơ quan Đảng, Nhà
1
nước, chính quyền các cấp; kiến nghị những nội dung thiết thực, góp phần bảo đảm tính đúng đắn, phù hợp với thực tiễn đời sống xã hội và tính hiệu quả trong việc hoạch định chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân, của hội viên; phát huy dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội.
Trong giai đoạn hiện nay, việc nâng cao nhận thức, thực hiện đúng đắn, đầy đủ vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam trong hoạt động giám sát và phản biện xã hội vừa là yêu cầu cấp thiết, vừa là nhiệm vụ cấp bách đang được đặt ra đối với Hội nói chung, các cấp Hội nói riêng. Đó cũng là lý do học viên lựa chọn chủ đề “Vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam trong giám sát và phản biện xã hội” làm đề tài luận văn thạc sĩ, chuyên ngành Quản lý công.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn Giám sát, phản biện xã hội là một trong những vấn đề quan trọng trong đời sống chính trị ở nước ta hiện nay, bởi thông qua hoạt động giám sát, phản biện xã hội sẽ thấy được sự tham gia của người dân, của các đoàn thể nhân dân trong việc giám sát, kiểm tra các kế hoạch thực hiện phát triển kinh tế - xã hội ở các cấp Hội, địa phương, tính dân chủ, minh bạch và công khai trong đời sống xã hội. Đó cũng là lý do vấn đề giám sát, phản biện xã hội thu hút được sự quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà khoa học, nhà nghiên cứu ở các cấp độ, các cách tiếp cận khác nhau.
Một số công trình nghiên cứu tiêu biểu như: - Trần Đăng Tuấn, Phản biện xã hội: một số vấn đề chung, Tạp chí Cộng sản số 17 (tháng 9/2007); Phương thức thực hiện phản biện xã hội, Tạp chí Cộng sản số 23 (tháng 12/2007). Trong hai bài viết này, tác giả đã luận bàn dưới nhiều góc độ khác nhau về những vấn đề chung của phản biện xã hội, phân tích khái niệm phản biện, phản biện xa hội, chủ thể, nội dung, phương thức thực hiện phản biện xã hội; khẳng định vai trò quan trọng của phản biện xã hội trong xây dựng chế độ dân chủ hiện đại và dân chủ pháp quyền trong mọi chế
2
độ xã hội, đặc biệt là trong trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân và vì dân; đề xuất các giải pháp cụ thể nhằm nâng cao vai trò của phản biện xã hội.
- Hồ Bá Thâm và Nguyễn Thị Tường Văn, Phản biện xã hội và phát huy dân chủ pháp quyền, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010. Các tác giả đã khảo sát thực trạng phản biện xã hội trên các vấn đề tham nhũng, đất đai, ô nhiễm môi trường, giáo dục, y tế, giao thông... của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thành phố Hồ Chí Minh như một mô hình phản biện xã hội ở Việt Nam; từ đó, chỉ ra những khó khăn, trở ngại khi thực hiện phản biện xã hội ở nước ta hiện nay.
- Ngọ Văn Nhân, Dư luận xã hội với tư cách là phương thức thực hiện phản biện xã hội ở nước ta hiện nay, Tạp chí Khoa học Xã hội, số 5(105) - 2007. Theo tác giả bài viết, việc tìm kiếm những phương thức cụ thể, hữu hiệu để thực hiện phản biện xã hội ở nước ta hiện nay đang là vấn đề có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực tiễn. Do những đặc điểm, tính chất của mình, dư luận xã hội được coi là một trong những kênh chủ yếu, là phương thức để thực hiện phản biện xã hội. Nội dung của phản biện xã hội thông qua dư luận xã hội là xác định tính đúng đắn, hợp lý; tính hợp hiến, hợp pháp; tính tất yếu khách quan và tính khả thi của các mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ đặt ra trong các đường lối, chính sách kinh tế - xã hội, trong các dự án, dự thảo luật của Đảng và Nhà nước. Để làm được điều đó thì nhất thiết phải tiến hành điều tra, thăm dò dư luận xã hội.
- Hoàng Thị Ngân, Một số vấn đề về giám sát xã hội và phản biện xã hội, bài tham luận tại Hội thảo khoa học “Vấn đề phản biện và giám sát xã hội ở thành phố Hồ Chí Minh hiện nay - thực trạng và giải pháp” do Viện Nghiên cứu khoa học xã hội thành phố Hồ Chí Minh tổ chức năm 2007. Bài viết trình bày khái lược về các vấn đề như khái niệm, nội dung, mục đíc, hậu quả, đặc trưng, vai trò, ý nghĩa của giám sát và phản biện xã hội; chỉ ra những thuận lợi và khó khăn trong thực hiện giám sát và phản biện xã hội.
3
- Trần Hậu, Các hình thức và giải pháp thực hiện giám sát xã hội và phản biện xã hội đối với tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị, Đề tài nghiên cứu khoa học thuộc Chương trình khoa học và công nghệ KX10.06-10, Hà Nội, 2009. Công trình tập trung luận giải khái niệm giám sát xã hội và phản biện xã hội, phân tích bản chất và nững đặc trưng cơ bản của hoạt động giám sát và phản biện xã hội; vai trò, tác dụng của giám sát, phản biện xã hội đối với quyền lực chính trị, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong điều kiện cụ thể của nước ta; xác định chủ thể, khách thể, các hình thức, giải pháp thực hiện giám sát xã hội và phản biện xã hội; vận dụng chúng để xử lý các tình huống thực tiễn trong hoạt động của hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của đề tài là nghiên cứu cơ sở lý luận, đánh giá thực trạng thực hiện vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam trong giám sát, phản biện xã hội, xác định rõ nguyên nhân để từ đó đề xuất một số giải pháp bảo đảm phát huy vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam trong giám sát, phản biện xã hội ở nước ta hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Đề hiện thực hóa mục đích nghiên cứu, đề tài triển khai thực
hiện các nhiệm vụ nghiên cứu sau: Thứ nhất, nghiên cứu cơ sở lý luận về vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam trong giám sát, phản biện xã hội.
Thứ hai, đánh giá thực trạng, chỉ ra những kết quả đạt được, hạn chế, bất cập trong việc thực hiện vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam trong giám sát, phản biện xã hội; làm rõ nguyên nhân dẫn đến thực trạng.
Thứ ba, đề xuất, luận giải tính khả thi của một số giải pháp phát huy vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam trong giám sát, phản biện xã hội.
4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn 4.1. Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của đề tài là vấn đề vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam trong giám sát, phản biện xã hội.
4.2. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu của đề tài được giới hạn theo không gian và thời gian:
- Theo không gian: Đề tài giới hạn việc nghiên cứu vai trò giám sát, phản biện xã hội của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam nói chung, của một số cấp Hội tại các địa phương ở nước ta nói riêng
- Theo thời gian: Luận văn tập trung nghiên cứu tình hình triển khai các hoạt động giám sát, phản biện xã hội, góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền từ năm 2014 đến năm 2018 trong hệ thống Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam. - Theo nội dung: Luận văn tập trung nghiên cứu làm rõ vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam trong giám sát và phản biện xã hội
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn 5.1. Phương pháp luận Đề tài được triển khai nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của Triết học Mác - Lênin về hệ thống chính trị, về các tổ chức chính trị - xã hội; tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về vị trí, vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội, của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, về hoạt động giám sát và phản biện xã hội.
5.2. Phương pháp nghiên cứu Để hoàn thành mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu, đề tài sử dụng các phương pháp phân tích và tổng hợp; phương pháp quy nạp và diễn dịch; phương pháp lịch sử và lôgíc; phương pháp phân tích nguồn thông tin, tài liệu có sẵn; phương pháp thống kê; phương pháp so sánh, khái quát hóa, hệ thống hóa...
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Về mặt lý luận Đề tài góp phần khái quát hóa, phân tích, làm rõ cơ sở lý luận về vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam trong hoạt động giám sát
5
và phản biện xã hội; đánh giá được thực trạng thực hiện vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam trong hoạt động giám sát và phản biện xã hội, chỉ rõ nguyên nhân và rút ra một số bài học kinh nghiêm; đồng thời đề xuất, luận giải được một số giải pháp khoa học, khả thi nhằm phát huy vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam trong hoạt động giám sát và phản biện xã hội.
6.2. Về mặt thực tiễn Với những kết quả nghiên cứu đạt được, đề tài có ý nghĩa thực tiễn quan trọng, có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo đối với học viên, sinh viên các cơ sở giáo dục đại học trong quá trình học tập, nghiên cứu những vấn đề có liên quan đến hoạt động giám sát, phản biện xã hội của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam.
Kết quả nghiên cứu của đề tài cũng có thể là nguồn tài liệu tham khảo hữu ích đối với Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam nói chung, các cấp Hội, hội viên nói riêng trong việc triển khai các hoạt động giám sát, phản biện xã hội phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của từng cấp Hội. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn có kết cấu gồm 03 chương, 11 tiết. Chương 1: Cơ sở lý luận về vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam trong giám sát và phản biện xã hội;
Chương 2: Thực trạng thực hiện vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam trong giám sát và phản biện xã hội; Chương 3: Giải pháp bảo đảm phát huy vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam trong giám sát và phản biện xã hội;
6
Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ VIỆT NAM TRONG GIÁM SÁT VÀ PHẢN BIỆN XÃ HỘI 1.1. Quản lý nhà nước về hoạt động giám sát, phản biện xã hội 1.1.1. Các khái niệm cơ bản 1.1.1.1. Khái niệm hoạt động giám sát Theo cuốn Tìm hiểu một số thuật ngữ trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng: “Giám sát là sự theo dõi, kiểm tra, phát hiện, đánh giá của cá nhân, tổ chức, cộng đồng người này đối với cá nhân, tổ chức, cộng đồng người khác trong các lĩnh vực hoạt động kinh tế- xã hội; trong việc thực hiện chủ trương, đường lối, quan điểm của Đảng, Hiến pháp, pháp luật, chính sách của Nhà nước, các quyền, nghĩa vụ công dân, của các tổ chức chính trị- xã hội và những kiến nghị phát huy ưu điểm, thành tựu, xử lý đối với các nhân, tổ chức có những hành vi sai trái”.
Theo Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội (Ban hành kèm theo Quyết định số 217-QĐ/TW, ngày 12/12/2013 của Bộ Chính trị): “Giám sát là việc theo dõi, phát hiện, xem xét; đánh giá kiến nghị nhằm tác động đối với cơ quan, tổ chức và cán bộ, đảng viên, đại biểu dân cử, công chức, viên chức nhà nước về việc thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước”.
Hoạt động giám sát là hoạt động theo dõi, xem xét, đánh giá có tính bao quát của chủ thể từ bên ngoài hệ thống đối với đối tượng không nằm trong cùng một hệ thống phụ thuộc nhau nhằm bảo đảm việc thực hiện đúng những chuẩn mực, quy định. 1.1.1.2. Khái niệm hoạt động phản biện xã hội Trong đời sống chính trị của một đất nước, các thiết chế cầm quyền luôn đứng trước nhu cầu là phải lựa chọn, đắn đo cân nhắc trong số rất nhiều các dữ kiện chủ quan và khách quan cũng như các
7
lợi ích của các giai cấp, các nhóm xã hội, dân tộc, quốc tế.v.v. khác nhau để đưa ra những quyết sách đúng đắn, kịp thời, hợp lý nhất nhằm giải quyết những vấn đề mà thực tiễn cuộc sống đặt ra.
Phản biện xã hội khác với phản biện khoa học. Phản biện khoa học là hình thức được áp dụng khi tiến hành nghiên cứu, xét duyệt, nghiệm thu các công trình nghiên cứu khoa học để đưa ra các quyết định về tính đúng sai; chủ thể tiến hành các cuộc phản biện khoa học là hội đồng nghiệm thu, đánh giá các công trình nghiên cứu khoa học, đề án, dự án có những thẩm quyền xác định (nghiệm thu - không nghiệm thu, tán thành - không tán thành) đối với công trình nghiên cứu, phát minh, sáng chế được đưa ra xét duyệt, còn phản biện xã hội là hình thức được áp dụng để tìm được sự đồng thuận xã hội về lợi ích trong thẩm định, xét duyệt các chủ trương, đường lối, trong ban hành các đạo luật, trong hoạch định các đề án, dự án, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội.
Từ những điểm phân tích, luận giải nêu trên, có thể định nghĩa: Phản biện xã hội là hoạt động phân tích, luận chứng một cách khách quan, khoa học về tính đúng đắn, hợp lý của các đường lối, chính sách, quyết định liên quan tới lợi ích chung của các cộng đồng xã hội do các chủ thể lãnh đạo, quản lý xã hội đưa ra dựa trên các ý kiến, kiến nghị của các tầng lớp xã hội. 1.1.1.3. Khái niệm quản lý nhà nước về hoạt động giám sát,
phản biện xã hội
Quản lý nhà nước là một dạng đặc biệt của quản lý xã hội, mang tính quyền lực nhà nước. Quản lý nhà nước về hoạt động giám sát và phản biện xã hội được hiểu là các cơ quan quản lý nhà nước dùng quyền lực nhà nước (quyền hành pháp) quản lý tất cả các hoạt động giám sát và phản biện xã hội trên tất cả các lĩnh vực của đời sống chính trị, văn hóa, kinh tế... theo quy định của pháp luật. Giám sát công tác quản lý nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo; hoạt động giám sát với cơ quan hành chính nhà nước ở một tổ chức hay cơ quan nào đó; phản biện với các dự án luật, các dự án trọng điểm quốc
8
gia, Các hội nghị phản biện xã hội, các cuộc giám sát đã góp phần phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong việc tham gia xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. 1.1.2. Nội dung quản lý nhà nước về hoạt động giám sát, phản biện xã hội
Ở nước ta hiện nay, Hiến pháp, pháp luật đã giao cho Mặt trận Tổ quốc Việt Nam chịu trách nhiệm thực hiện giám sát xã hội và phản biện xã hội. Theo Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là giám sát mang tính nhân dân, hỗ trợ cho công tác giám sát, kiểm tra, thanh tra của Nhà nước; góp phần xây dựng và bảo vệ Nhà nước trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả; bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân.
Phản biện xã hội bao gồm phản biện các dự thảo văn bản về chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật, các quy hoạch, kế hoạch, chương trình, dự án phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của Nhà nước khi được yêu cầu phản biện, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội. Để giám sát và phản biện xã hội thật sự phát huy hiệu quả trong cuộc sống, các cơ quan chức năng cần nghiên cứu và xây dựng các quy chế, quy định về tiếp thu ý kiến, kiến nghị từ hoạt động giám sát và phản biện xã hội 1.1.3. Phương thức quản lý nhà nước về giám sát, phản biện xã hội
Phương thức quản lý nhà nước là những phương thức, cách thức và chủ thể áp dụng để tác động lên khách thể quản lý nhằm đạt được những mục đích đề ra. Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ là mối quan hệ vốn ra đời trước đổi mới. Trong đó, hoạt động giám sát chủ yếu dựa trên 03 hình thức: (i) Tham gia giám sát với cơ quan quyền lực nhà nước; (ii) Vận động nhân dân giám sát và (iii) Tự mình giám sát.
9
Phản biện xã hội nói lên sự phản hồi của xã hội đối với các hoạt động lãnh đạo, quản lý của Đảng và Nhà nước. Phản biện xã hội về thực chất là người dân, các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp của dân góp sức với Đảng và Nhà nước trong việc xây dựng các chủ trương, chính sách, chuẩn bị các quyết định của về chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Phản biện xã hội là một hình thức, một biện pháp cụ thể thể hiện quyền của dân và ý thức trách nhiệm của dân đối với công việc chung của đất nước, thể hiện lòng tin của cơ quan lãnh đạo đối với mối quan hệ chặt chẽ giữa Đảng và Nhà nước với dân, tin ở trình độ chính trị của dân, mức độ hiểu biết của dân về lãnh đạo và quản lý.
1.2. Khái quát về Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam 1.2.1. Vị trí, vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
Là tổ chức thành viên của Mặt trận tổ quốc Việt Nam, sinh thời Chủ tịch Hồ Chí minh luôn quan tâm và đánh giá cao vị trí vai trò của phụ nữ trong quá trình phát triển của lịch sử dân tộc Việt Nam. Bác từng nhấn mạnh: “Non sông gấm vóc Việt Nam do phụ nữ ta, do phụ nữ ta trẻ cũng như già, ra sức dệt thêu mà thêm tốt đẹp, rực rỡ”; “'Nhân dân ta anh hùng là nhờ có các bà mẹ Việt Nam anh hùng”; “Dân tộc ta và Đảng ta đời đời biết ơn các bà mẹ Việt Nam đã sinh ra và cống hiến những người ưu tú, đã và đang chiến đấu anh dũng tuyệt vời bảo vệ non sông gấm vóc do tổ tiên ta để lại”.
Vai trò đại diện của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam được xác định cụ thể hơn thể hiện thông qua việc quy định Cơ quan Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam “có quyền trình dự án luật trước Quốc hội, trình dự án pháp lệnh trước Ủy ban thường vụ Quốc hội”; “đại diện cơ quan Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam có thể được mời dự các phiên họp công khai của Quốc hội”; “người đứng đầu cơ quan trung ương của tổ chức chính trị - xã hội được mời tham dự phiên họp của Chính phủ khi bàn các vấn đề có liên quan”; cơ quan Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam “có quyền đề
10
nghị Ủy ban thường vụ Quốc hội giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh”. Đây là những cơ sở pháp lý quan trọng, tạo điều kiện thuận lợi để Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam thực hiện giám sát và phản biện xã hội, kiến nghị và theo dõi các cơ quan có thẩm quyền tiếp thu kiến nghị, đề xuất của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam.
1.2.2. Cơ cấu tổ chức của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam Hội LHPN Việt Nam tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tự nguyện, dân chủ, liên hiệp, thống nhất hành động. Hội LHPN Việt Nam là tổ chức thống nhất trong cả nước với hệ thống tổ chức chặt chẽ ở 4 cấp: Trung ương; Tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và tương đương (gọi chung là cấp tỉnh); Huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh và tương đương (gọi chung là cấp huyện); Xã, phường, thị trấn và tương đương (gọi chung là cấp cơ sở). Như vậy, hệ thống tổ chức Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam được thành lập tương ứng với hệ thống tổ chức hành chính nhà nước.
1.2.3. Chức năng. nhiệm vụ của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam Về chức năng, Điều lệ Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam xác định chức năng của Hội là “Đại diện chăm lo, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của các tầng lớp phụ nữ, tham gia xây dựng Đảng, tham gia quản lý Nhà nước; Đoàn kết, vận động phụ nữ thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; vận động xã hội thực hiện bình đẳng giới”. Hội vận động, đoàn kết, tổ chức, hướng dẫn phụ nữ nâng cao hiểu biết về giới và trình độ mọi mặt để góp phần thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, chăm lo quyền lợi phụ nữ, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Về nhiệm vụ, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam có các nhiệm vụ sau:, (i) Động viên phụ nữ tự lực, tự cường nâng cao hiểu biết về giới, về luật pháp, chính sách và trình độ mọi mặt. Tham gia tích cực vào các chương trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; (ii) Tham gia xây dựng và kiểm tra giám sát việc thực hiện Hiến pháp, pháp luật, chính sách của Nhà nước có liên quan đến quyền lợi, đời
11
sống của phụ nữ, trẻ em nhằm tạo điều kiện để phụ nữ thực hiện bình đẳng và phát triển; (iii) Hướng dẫn, giúp đỡ phụ nữ hiểu biết về nuôi dạy con, giữ gìn giá trị đạo đức, truyền thống tốt đẹp của phụ nữ Việt Nam, tổ chức cuộc sống gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc; (iv) Xây dựng, củng cố các cấp Hội vững mạnh, đào tạo bồi dưỡng cán bộ Hội, giới thiệu phụ nữ có đức, có tài tham gia vào các cơ quan lãnh đạo Đảng, Chính quyền các cấp...; (v) Đoàn kết, hợp tác rộng rãi với phụ nữ các nước, các tổ chức và cá nhân tiến bộ, trong khu vực và trên thế giới vì bình đẳng, phát triển và hoà bình.
1.3. Khái niệm, nội dung, phương thức hoạt động giám sát,
phản biện xã hội của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam
Hoạt động giám sát của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam là việc Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam các cấp theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt động của cơ quan, tổ chức, đại biểu dân cử, công chức, viên chức trong việc thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước nhằm kịp thời phát hiện và kiến nghị xử lý những sai sót, khuyết điểm đồng thời kiến nghị sửa đổi, bổ sung các chính sách cho phù hợp; phát hiện, phổ biến những nhân tố mới, những mặt tích cực; phát huy quyền làm chủ của nhân dân góp phần kiểm soát quyền lực nhà nước, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy Đảng và Nhà nước.
Hoạt động phản biện xã hội của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam là việc Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam các cấp, theo tôn chỉ, mục đích, điều lệ, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ được giao, triển khai việc nhận xét, đánh giá, nêu quan điểm, chính kiến, đề xuất, kiến nghị đối với dự thảo các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, các quy hoạch, kế hoạch, chương trình, dự án phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của Nhà nước (trừ những vấn đề thuộc bí mật quốc gia) nói chung, của từng ngành, lĩnh vực, địa phương nói riêng.
12
Trên bình diện chung, nội dung hoạt động giám sát của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam là việc thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, các quy định, nội quy, quy chế tổ chức, hoạt động của cơ quan, đơn vị... từ phía cơ quan, tổ chức và cán bộ, đảng viên, đại biểu dân cử, công chức, viên chức nhà nước. Giám sát những vấn đề liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của cán bộ, hội viên, phụ nữ thuộc phạm vi giám sát của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam được quy định trong nhiều văn bản pháp luật.
Tập trung phản biện về sự cần thiết, tính cấp thiết của văn bản dự thảo; sự phù hợp của văn bản dự thảo với chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, thực tiễn của đơn vị, địa phương; tính đúng đắn, khoa học, phù hợp với thực tiễn đời sống xã hội và tính khả thi của văn bản dự thảo; dự báo tác động của văn bản dự thảo đối với các nhóm đối tượng chịu tác động trực tiếp của văn bản, hiệu quả về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại của văn bảo dự thảo.
Phương thức hoạt động giám sát là cách thức (phương pháp, hình thức) được Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam các cấp sử dụng nhằm hiện thực hóa mục tiêu, yêu cầu, nhiệm vụ giám sát việc thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, các quy định, nội quy, quy chế tổ chức, hoạt động của cơ quan, đơn vị... từ phía cơ quan, tổ chức và cán bộ, đảng viên, đại biểu dân cử, công chức, viên chức nhà nước.
Phương thức hoạt động phản biện xã hội là tổng thể quy trình, biện pháp, hình thức được Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam các cấp sử dụng để triển khai việc nhận xét, đánh giá, nêu quan điểm, chính kiến, đề xuất, kiến nghị đối với dự thảo các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, các quy hoạch, kế hoạch, chương trình, dự án phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của Nhà nước (trừ những vấn đề thuộc bí mật quốc gia) nói chung, của từng ngành, lĩnh vực, địa phương nói riêng.
13
1.4. Các yếu tố ảnh hướng tới việc thực hiện vai trò giám sát, phản biện xã hội của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam
Bất kỳ một hoạt động xã hội nào của con người cũng chịu sự ảnh hưởng bởi những yếu tố, điều kiện, hoàn cảnh nhất định. Cũng như các dạng hoạt động xã hội khác, việc thực hiện vai trò giám sát và phản biện xã hội của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam cũng chịu sự tác động ảnh hưởng của nhiểu yếu tố khác nhau, bao gồm cả các yếu tố chủ quan và các yếu tố khách quan, yếu tố Chính trị, kinh tế văn hóa…. Điều đó giải thích tại sao cùng trong điều kiện hoàn cảnh như nhau, việc thực hiện vai trò giám sát và phản biện xã hội của Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, một số cấp Hội Phụ nữ được triển khai một cách chủ động, tích cực, nhận được sự quan tâm chỉ đạo sâu sát, kịp thời của cấp ủy Đảng, giúp các cấp Hội Phụ nữ thực hiện hiệu quả công tác giám sát và phản biện xã hội. Tiểu kết chương 1
Trong nội dung chương 1, luận văn đã đề cập, phân tích, luận giải các vấn đề lý luận liên quan đến quản lý nhà nước về hoạt động giám sát, phản biện xã hội, bao gồm khái niệm, nội dung, phương thức quản lý nhà nước về hoạt động giám sát, phản biện xã hội.
Trên cơ sở trình bày về vị trí, vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, về cơ cấu tổ chức, chức năn, nhiệm vụ của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, luận văn đã tập trung làm rõ khái niệm, nội dung, phương thức thực hiện hoạt động giám sát, phản biện xã hội của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam.;; chỉ ra các yếu tố ảnh hướng tới việc thực hiện vai trò giám sát, phản biện xã hội của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam.
14
Chương 2 THỰC TRẠNG THỰC HIỆN VAI TRÒ CỦA HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ VIỆT NAM TRONG GIÁM SÁT VÀ PHẢN BIỆN XÃ HỘI
2.1. Kết quả đạt được, nguyên nhân và những hạn chế, bất cập trong thực hiện vai trò giám sát và phản biện xã hội của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt nam
2.1.1. Trong thực hiện vai trò giám sát Vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam trong giám sát việc thực thi các chính sách bình có liên quan tới đẳng giới được coi là trung tâm vì vị thế đặc biệt của Hội Liên hiệp Phụ nữ trong hệ thống chính trị và xã hội của Việt Nam. Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam đã chủ trì giám sát 10 nội dung với 28 đoàn giám sát tại 26 tỉnh và 02 bộ ngành. Trong 5 năm, Hội Liên hiệp Phụ nữ cấp tỉnh, huyện, xã đã chủ trì thành lập đoàn giám sát 15.601 cuộc; trong đó, cấp tỉnh chủ trì thành lập đoàn giám sát 523 cuộc; cấp huyện chủ trì thành lập đoàn giám sát 2.438 cuộc; cấp xã chủ trì thành lập đoàn giám sát 12.640 cuộc. Ngoài ra, các cấp Hội giám sát bằng các hình thức khác, như nghiên cứu xem xét văn bản; tham gia các đoàn giám sát của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền (Quốc hội, Hội đồng nhân dân, cơ quan quản lý nhà nước); qua đơn thư khiếu nại, tố cáo, phản ảnh; quan sát, tìm hiểu, giao tiếp.
2.1.2. Trương thực hiện vai trò phản biện xã hội Từ năm 2014 đến nay, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam đã tập trung phản biện xã hội nhiều dự thảo luật, dự thảo báo cáo quan trọng, có ảnh hưởng trực tiếp đến phụ nữ, trẻ em, bình đẳng giới, như: dự thảo Bộ luật Dân sự (sửa đổi); dự thảo Bộ luật Hình sự (sửa đổi), Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam đã tổ chức 06 Hội thảo tham vấn ý kiến chuyên gia, đại biểu các ngành và cán bộ Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam các cấp tại 6 tỉnh; Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam các tỉnh, thành tổ chức được 7.809 cuộc góp ý kiến với tổng số 3.287.039 người tham gia, dự thảo Luật Hôn nhân và gia
15
đình; dự thảo Luật Bảo hiểm xã hội, dự thảo Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (sửa đổi), dự thảo Luật Trẻ em; dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật Các cơ quan đại diện nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài; dự thảo Luật Trợ giúp pháp lý; dự thảo Luật Tiếp cận thông tin; dự thảo Báo cáo mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới năm 2017, Luật Giáo dục (sửa đổi), Luật Thi hành án hình sự (sửa đổi)... Ngoài ra Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam các cấp ở địa phương đã tích cực tham gia phản biện xã hội, góp ý vào các dự thảo văn bản pháp luật, kế hoạch, chương trình, dự án phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội cấp địa phương.
2.1.3. Những hạn chế, bất cập trong thực hiện vai trò giám sát, phản biện xã hội của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam và nguyên nhân Thứ nhất, hoạt động giám sát của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam các cấp mới chủ yếu triển khai giám sát chuyên đề và tập trung chủ yếu vào các cơ quan, đơn vị sự nghiệp công lập, doanh nghiệp...; ít thực hiện giám sát thường xuyên và chưa thực hiện được việc giám sát đối với các tổ chức Đảng, đặc biệt chưa giám sát được cán bộ, đảng viên, người đứng đầu các cơ quan, đơn vị.
Thứ hai, trong việc thực hiện vai trò phản biện xã hội của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam chưa có cơ chế khuyến khích tiếp nhận ý kiến của các tầng lớp nhân dân vào các văn bản dự thảo.
Thứ ba, một bộ phận cán bộ Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam các cấp chưa hiểu biết đầy đủ, chưa nắm vững các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về giám sát và phản biện xã hội; năng lực giám sát, phản biện xã hội, khả năng phát hiện, lựa chọn, lập luận, phân tích vấn đề phục vụ hoạt động phản biện xã hội còn hạn chế, chỉ ở mức độ theo dõi, phản ứng chứ chưa đi đến cùng để giải quyết vấn đề đặt ra.
Thứ tư, trong thực hiện vai trò giám sát, phản biện xã hội của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, có thể nhận thấy rằng, càng xuống cấp dưới thì công tác giám sát, phản biện xã hội càng gặp nhiều khó khăn, lúng túng, hiệu quả chưa rõ nét, chưa có nhiều phát hiện, kiến
16
nghị xử lý sau giám sát; nhiều kiến nghị còn chung chung, chưa chỉ ra lĩnh vực, vấn đề cụ thể cần khắc phục, giải quyết.
2.2. Một số bài học kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn thực hiện vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam trong giám sát, phản biện xã hội
Thứ nhất, sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của cấp ủy là yếu tố đầu tiên, có vị trí rất quan trọng để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội các cấp nói chung, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam các cấp nói riêng thực hiện có hiệu quả hoạt động giám sát, phản biện xã hội. Người đứng đầu cấp ủy phải nhận thức đầy đủ, sâu sắc và trách nhiệm trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo quá trình triển khai thực hiện các hoạt động này.
Thứ hai, để hoạt động giám sát, phản biện xã hội, góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền đi vào thực chất, các cấp Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam cần chủ động lựa chọn những nội dung giám sát, phản biện xã hội, những vấn đề gây bức xúc dư luận xã hội, có liên quan trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của hội viên, phụ nữ; xây dựng chương trình, kế hoạch giám sát và phản biện xã hội, trong đó xác định cụ thể nội dung chủ trì, nội dung phối hợp giám sát, lựa chọn phương pháp giám sát, phản biện xã hội phù hợp với từng nội dung, đối tượng tránh chồng chéo qua đó mang lại hiệu quả cao khi triển khai thực hiện.
Thứ ba, nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng, năng lực chuyên môn, nghiệp vụ và rèn luyện bản lĩnh chính trị cho cán bộ Hội, hội viên là nhân tố quyết định chất lượng công tác giám sát, phản biện xã hội, tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền.
Thứ tư, chính quyền các cấp cần tạo các điều kiện thuận lợi để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, trong đó có Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam các cấp, thực hiện và phát huy vai trò giám sát, phản biện xã hội
Thứ năm, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam các cấp, nhất là cấp Trung ương, cần chú trọng, đầu tư thỏa đáng cho công tác sơ kết,
17
tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, dự báo khoa học những vấn đề sẽ xảy ra trong tương lai, lấy đó làm cơ sở khoa học cho hoạt động giám sát, phản biện xã hội, góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền; tránh tình trạng tham gia góp ý qua loa, hình thức vì ngại bày tỏ quan điểm, chính kiến. Tiểu kết chương 2
Nội dung chương 2 của luận văn tập trung phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện vai trò giám sát và phản biện xã hội của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam thông qua việc luận chứng những thành công, kết quả đạt được trong thực hiện vai trò giám sát, phản biện xã hội của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, chỉ ra những nguyên nhân đem đến những kết quả đạt được; phân tích những hạn chế, bất cập trong thực hiện vai trò giám sát, phản biện xã hội của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam và làm rõ các nguyên nhân dẫn đến những hạn chế, bất cập đó. Trên cơ sở đánh giá thực trạng, chỉ ra nguyên nhân, luận văn đã rút ra được một số bài học kinh nghiệm từ thực tiễn thực hiện vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam trong giám sát, phản biện xã hội; lấy đó làm cơ sở để đề xuất, luận giải các giải pháp phát huy vài trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam trong hoạt động giám sát, phản biện xã hội.
Chương 3 GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ VIỆT NAM TRONG GIÁM SÁT, PHẢN BIỆN XÃ HỘI
3.1. Tiếp tục quán triệt sâu sắc quan điểm, đường lối của Đảng, thực hiện nghiêm túc chính sách, pháp luật của Nhà nước về giám sát, phản biện xã hội
3.1.1. Tiếp tục quán triệt sâu sắc quan điểm, đường lối của Đảng về giám sát, phản biện xã hội, đặc biệt là Quyết định số 217- QĐ/TW và Quyết định số 218-QĐ/TW ngày 12/12/2013 của Bộ Chính trị tới các cấp Hội, hội viên
Cụ thể hóa bằng Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội (Ban hành
18
kèm theo Quyết định số 217-QĐ/TW ngày 12/12/2013 của Bộ Chính trị) và Quy định về việc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền đó là những văn bản chính trị - pháp lý rất quan trọng, mở ra một bước ngoặt lớn trong nhận thức về giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội trong hệ thống chính trị cũng như trong xã hội, góp phần quan trọng vào tham gia xây dựng Đảng, chính quyền các cấp trong sạch, vững mạnh. 3.1.2. Thực hiện nghiêm túc chính sách, pháp luật của Nhà nước về giám sát, phản biện xã hội
Ban hành các văn bản triển khai có hiệu quả Quy chế giám sát và phản biện xã hội là một trong nhiệm vụ trọng tâm của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam nhằm phục vụ cho các cấp Hội tiếp tục thực hiện nghiêm túc chính sách, pháp luật của Nhà nước về giám sát và phản biện xã hội, phát huy vai trò của cán bộ, hội viên, phụ nữ trong đấu tranh ngăn chặn, đầy lùi sự suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
3.2. Tạo sự phối hợp chặt chẽ giữa Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam trong hoạt động giám sát, phản biện xã hội
3.2.1. Xây dựng, ban hành quy chế phối hợp giữa Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam trong giám sát, phản biện xã hội
Có sự phối hợp chặt chẽ với các cơ quan, tổ chức liên quan; không làm trở ngại các hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân được giám sát và phản biện xã hội; Trong quá trình giám sát và phản biện xã hội phải bảo đảm dân chủ, công khai, khách quan và mang tính xây dựng; tôn trọng các ý kiến khác nhau nhưng không trái với quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của hội viên phụ nữ. Sự phối hợp đó trên cơ sở phải đảm bảo 3 nguyên tắc theo Thông tri số 28 /TTr-MTTW-BTT ngày 17/4/2014 Hướng dẫn thực hiện một số điều
19
của Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội
3.2.2. Tạo cơ chế, diễn đàn phù hợp, bảo đảm sự phối hợp thực chất, hiệu quả giữa Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam trong hoạt động giám sát, phản biện xã hội
Thường xuyên Tổ chức đối thoại trực tiếp, các ý kiến đều được người đứng đầu tiếp thu giải trình, nhiều ý kiến được giải quyết ngay tại các hội nghị đối thoại. Từ đó góp phần tạo môi trường dân chủ, cởi mở, kết hợp đối thoại với nhiều bên, nhiều cấp cùng tham gia. Qua đó người dân được bày tỏ tâm tư, nguyện vọng, phản ánh, kiến nghị với thái độ tích cực, chân thành, góp ý với tinh thần thẳng thắn, có trách nhiệm; người đứng đầu giải trình, tiếp thu hầu hết các ý kiến ngay tại hội nghị đối thoại, qua đó đã góp phần củng cố niềm tin của nhân dân với Đảng và Nhà nước; người dân hiểu và chấp hành pháp luật tốt hơn, giúp họ yên tâm lao động, sản xuất, tích cực tham gia phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
Ở góc độ khác, khi Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam phối hợp với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội thực hiện giám sát và phản biện sẽ tiết kiệm được thời gian, nguồn lực, đảm bảo không trùng lắp quá nhiều đoàn giám sát một địa phương đơn vị.
3.3. Tăng cường công tác phổ biến, tuyển truyền nâng cao nhận thức của các cấp Hội, hội viên về vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam trong giám sát, phản biện xã hội 3.3.1. Lựa chọn báo cáo viên có năng lực, uy tín cao thực hiện công tác phổ biến, tuyên truyền
Trong những năm qua, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam các cấp đã chú trọng lựa chọn được những báo cáo viên đáp ứng ở mức độ nhất định các tiêu chuẩn, yêu cầu đề ra; đội ngũ báo cáo viên cũng đã cố gắng thực hiện tròn vai các nhiệm vụ được giao. Trong thời gian tới, việc lựa chọn đội ngũ báo cáo viên tham gia tập huấn, bồi dưỡng nhằm nâng cao nhận thức của các cấp Hội, hội viên về vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam trong giám sát, phản biện xã hội.
20
3.3.2. Đổi mới phương pháp phổ biến, tuyên truyền Để tạo ra bước đột phá trong việc đổi mới phương pháp giảng dạy, phổ biến, tuyên truyền về hoạt động giám sát, phản biện xã hội cho đội ngũ cán bộ Hội, hội viên, phụ nữ, các báo cáo viên cần phải đổi mới phương pháp giảng dạy, tuyên truyền theo hướng “lấy người nghe làm trung tâm” nhằm phát huy tính chủ động, tích cực, sáng tạo của người nghe, buộc người nghe phải đầu tư nhiều thời gian tự học hỏi, nghiên cứu về hoạt động thực hiện giám sát và phản biện xã hội. Qua cần phải kết hợp hài hòa giữa phương pháp thuyết trình truyền thống với phương pháp nêu vấn đề, kết hợp giữa trình bày các nội dung lý thuyết với việc nêu ra các tình huống thực tế, những bài tập thực hành giám sát, phản biện xã hội. Các báo cáo viên cần hạn chế sử dụng phương pháp thuyết trình theo lối độc thoại một chiều; tăng cường sử dụng các phương pháp đối thoại, thảo luận nhóm theo các chủ đề, nội dung khác nhau của hoạt động giám sát, phản biện xã hội, phương pháp nêu tình huống thực tế để lôi cuốn người nghe vào sự tranh luận, tìm ra hướng giải quyết hợp lý nhất...; chuyển mạnh từ phương pháp “lấy người dạy làm trung tâm” sang phương pháp “lấy người nghe làm trung tâm”. Ngoài ra, tuyên truyền còn phải lồng ghép, cài đặt những video phim, hình ảnh, tư liệu chọn lọc, liên quan trực tiếp đến nội dung bài giảng cần truyền đạt cho người nghe; qua đó, tạo sự hấp dẫn, lôi cuốn người nghe vào nội dung bài giảng, gia tăng hiệu quả truyền đạt thông tin. Bên cạnh đó, mỗi cơ quan, tổ chức Hội Liên hiệp Phụ nữ các cấp cũng cần chú trọng xây dựng hệ thống thông tin điện tử; giúp cho cán bộ Hội, hội viên, phụ nữ có đủ khả năng, điều kiện tiếp cận công nghệ thông tin hiện đại phục vụ cho việc trau dồi kỹ năng thực hiện giám sát và phản biện xã hội.
3.3.3. Đa dạng hóa hình thức phổ biến, tuyên truyền Hình thức phổ biến, tuyên truyền về vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam trong thực hiện giám sát, phản biện xã hội, về thực chất, là những dạng hoạt động mà thông qua đó, các cấp Hội, báo cáo viên thực hiện việc phổ biến, tuyên truyền, giáo dục. Các hình
21
thức phổ biến, tuyên truyền khác nhau được sử dụng có tác dụng thúc đẩy đội ngũ cán bộ Hội, hội viên, phụ nữ rèn luyện, cọ sát thực tế, rút ra những điều bổ ích cho công tác chuyên môn nói chung, kỹ năng thực hiện giám sát, phản biện xã hội nói riêng thực hiện theo phương châm đa dạng hóa bằng nhiều hình thức phong phú, sinh động, sáng tạo, phù hợp với từng cấp Hội, hội viên.
3.4. Bảo đảm các điều kiện cần thiết cho việc thực hiện vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam trong giám sát, phản biện xã hội
3.4.1. Bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành của các cấp ủy đảng, cán bộ lãnh đạo các cấp Hội trong hoạt động giám sát, phản biện xã hội
Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam sáng lập, rèn luyện; mọi hoạt động của Hội đều đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Sự lãnh đạo của Đảng đối với Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam là tất yếu và quan trọng để Hội hoạt động đúng tôn chỉ, mục đích, phát huy vai trò giám sát và phản biện xã hội, tham gia xây dựng Đảng, chính quyền trong sạch, vững mạnh. Thực tiễn hoạt động giám sát, phản biện xã hội của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam còn nhiều vấn đề đặt ra cần bám sát sự lãnh đạo, chỉ đạo Đảng để có phương hướng và giải pháp phù hợp. Trong Văn kiện Đại hội lần thứ XII của Đảng, Đảng ta yêu cầu: “Tiếp tục thể chế hóa và cụ thể hóa các quan điểm đường lối, chủ trương chính sách của Đảng và đại đoàn kết dân tộc, hoàn thiện và thực hiện có hiệu quả các cơ chế, chính sách phát huy vai trò của nhân dân trong việc quyết định những vấn đề lớn của đất nước; bảo đảm tất cả các quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; khắc phục những hạn chế, bảo đảm tác dụng, hiệu quả thực chất hoạt động giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận 3.4.2. Bảo đảm các điều kiện cần thiết về kinh tế cho hoạt động giám sát, phản biện xã hội
Trong bối cảnh hiện nay, hầu hết hoạt động của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam vẫn do ngân sách nhà nước đảm bảo. Các cấp Hội
22
cần phải quản lý, điều hành, sở dụng hiệu quả nguồn ngân sách do Nhà nước phân bổ hàng năm, đảm bảo đúng quy định hiện hành, linh hoạt bám sát nhiệm vụ và tình hình thực tiễn. Bên cạnh đó, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam các cấp cần chủ động khai thác nguồn thu phục vụ nhiệm vụ chính trị được giao: Dân chủ, công khai, minh bạch là đòi hỏi tất yếu của quá trình đổi mới hoạt động của Đảng, Nhà nước đồng thời cũng tạo điều kiện thuận lợi để Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam tiến hành giám sát, phản biện xã hội một cách chủ động, khoa học, hiệu quả. 3.4.3. Bảo đảm chất lượng nguồn nhân lực tham gia hoạt động giám sát, phản biện xã hội
Đối với cấp Trung ương: Hiện nay, cơ cấu tổ chức Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam gồm có Văn phòng và 9 Ban với 276 biên chế; trong đó: lãnh đạo cơ quan: 5; cán bộ chuyên trách Đảng ủy, Công đoàn, Văn phòng Đảng đoàn: 3; Khối phong trào (gồm Văn phòng và 9 Ban): 143 công chức, người lao động (trong đó có 15 hợp đồng theo Nghị định 68/2000/NĐ-CP). Riêng khối đơn vị sự nghiệp hiện. Cần xây dựng đội ngũ cán bộ Hội có bản lĩnh chính trị, có năng lực chuyên môn, nhiệt tình, tâm huyết có kỹ năng vận động quần chúng, có phương pháp làm việc khoa học, kế hoạch là chủ thể của quá trình đổi mới lấy mong muốn, nguyện vọng chính đáng của phụ nữ làm cơ sở để đề ra nội dung, phương thức hoạt động của các cấp Hội làm bằng chứng cho việc hoạch định chiến lược phát triển của Hội cũng như đề xuất chính sách, pháp luật, phản biện chính sách, pháp luật liên quan đến bình đẳng giới, phụ nữ, trẻ em và tổ chức Hội. Tiểu kết chương 3
Nội dung chương 3 tập trung đề xuất, phân tích, luận giải tính khoa học, khả thi của các giải pháp bảo đảm phát huy vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, bao gồm các giải pháp cụ thể sau: (1) Tiếp tục quán triệt sâu sắc quan điểm, đường lối của Đảng, thực hiện nghiêm túc chính sách, pháp luật của Nhà nước về giám sát, phản biện xã hội; (2) Tạo sự phối hợp chặt chẽ giữa Mặt trận Tổ quốc Việt
23
Nam và Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam trong hoạt động giám sát, phản biện xã hội; (3) Tăng cường công tác phổ biến, tuyển truyền nâng cao nhận thức của các cấp Hội, hội viên về vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam trong giám sát, phản biện xã hộ; (4) Bảo đảm các điều kiện cần thiết cho việc thực hiện vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam trong giám sát, phản biện xã hội.
KẾT LUẬN
Giám sát và phản biện xã hội của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam là hoạt động mang tính tất yếu khách quan góp phần xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền trong sạch vững mạnh. Thực tiễn sau hơn 30 năm đổi mới cho thấy, hoạt động giám sát, phản biện xã hội được Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam xác định là một trong những nhiệm vụ trọng tâm để Hội thực hiện tốt chức năng đại diện bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng cho hội viên phụ nữ, giám sát không chỉ thực hiện quyền và trách nhiệm giám sát theo quy định của pháp luật, mà còn thực hiện có hiệu quả chức năng dân chủ đại diện cho các tầng lớp phụ nữ theo Điều lệ Hội, góp phần thực hiện mục tiêu bình đẳng giới và vai trò, trách nhiệm của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam trong tham gia quản lý nhà nước và phản biện xã hội đối với các chính sách, pháp luật. Đồng thời, nó cũng là kinh nghiệm quý báu cho hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật, tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý và giải quyết đơn thư.
Với kết quả nghiên cứu đề tài “Vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam trong giám sát và phản biện xã hội”, học viên hy vọng rằng sẽ góp phần nghiên cứu, làm rõ các cơ sở lý luận và thực tiễn, đánh giá đúng thực trạng thực hiện vai trò giám sát và phản biện xã hội của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam; từ đó, đề xuất, luận giải tính khả thi của các giải pháp bảo đảm phát huy vai trò giám sát, phản biện xã hội của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, góp phần phát huy dân chủ, xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền các cấp trong sạch, vững mạnh.
24