ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-------***-------
ĐÀO THỊ LƢƠNG
VAI TRÒ CỦA NHÂN VIÊN CÔNG TÁC XÃ HỘI TRONG
VIỆC TRỢ GIÚP GIA ĐÌNH CÓ TRẺ TỰ KỶ TIẾP CẬN
VỚI CÁC NGUỒN LỰC HỖ TRỢ
(Nghiên cứu thực hiện tại địa bàn huyện Văn Giang – Hưng Yên)
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÀNH CÔNG TÁC XÃ HỘI
Hà Nội – 2014
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-------***-------
ĐÀO THỊ LƢƠNG
VAI TRÒ CỦA NHÂN VIÊN CÔNG TÁC XÃ HỘI
TRONG VIỆC TRỢ GIÚP GIA ĐÌNH CÓ TRẺ TỰ KỶ
TIẾP CẬN VỚI CÁC NGUỒN LỰC HỖ TRỢ
(Nghiên cứu thực hiện tại địa bàn huyện Văn Giang – Hưng Yên)
Chuyên ngành: Công tác xã hội
Mã số : 60 90 01 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÀNH CÔNG TÁC XÃ HỘI
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS. TS. Đặng Cảnh Khanh
Hà Nội – 2014
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................................................... 7
1. Lý do chọn đề tài .............................................................................................................................. 7
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu..................................................................................................... 8
2.2. Về các nguồn lực hỗ trợ cho các gia đình có trẻ tự kỷ ............................................................... 10
3. Ý nghĩa của nghiên cứu ................................................................................................................. 14
4. Câu hỏi nghiên cứu ........................................................................................................................ 14
5. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................................................ 14
6. Giả thuyết nghiên cứu .................................................................................................................... 15
7. Đối tƣợng và khách thể nghiên cứu .............................................................................................. 15
8. Phƣơng pháp nghiên cứu ............................................................................................................... 15
9. Phạm vi nghiên cứu ........................................................................................................................ 17
NỘI DUNG ......................................................................................................................................... 18
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA NHÂN VIÊN CÔNG TÁC XÃ HỘI VỚI
VIỆC TIẾP CẬN CÁC NGUỒN LỰC HỖ TRỢ CỦA GIA ĐÌNH CÓ TRẺ TỰ KỶ. ............... 18
1.1 Một số lý thuyết áp dụng trong nghiên cứu ............................................................................... 18
1.1.1 Lý thuyết hệ thống ...................................................................................................................... 18
1.1.2. Lý thuyết vai trò ..................................................................................................................... 23
1.2 Một số định nghĩa, khái niệm liên quan đến vấn đề nghiên cứu ........................................ 28
1.2.1. Vai trò ...................................................................................................................................... 28
1.2.2. Công tác xã hội.......................................................................................................................... 29
1.2.3. Hoạt động trợ giúp ................................................................................................................ 30
1.2.4. Tự kỷ ........................................................................................................................................ 30
1.2.6. Nguồn lực và nguồn lực hỗ trợ ............................................................................................... 33
2.1. Vài nét về địa bàn nghiên cứu ............................................................................................... 38
2.2 Trẻ tự kỷ và những khó khăn của gia đình có trẻ tự kỷ .................................................. 40
2.2.1. Hầu hết các gia đình đều phải trải qua giai đoạn “sốc” tinh thần khi con có chẩn
đoán tự kỷ. ......................................................................................................................................... 40
2.2.2. Thiếu thông tin khiến các gia đình không có định hướng, lúng túng trong việc tìm
biện pháp can thiệp cho trẻ, hoặc đổ lỗi cho người khác. ........................................................ 41
2.2.3. Khó khăn với trẻ và gia đình không chỉ là sự khó nhọc về thể xác .............................. 42
2.2.4. Gánh nặng kinh tế đè nặng lên vai những gia đình khó khăn khi nhà nước chưa có
sự hỗ trợ nào thích đáng cho những gia đình có trẻ tự kỷ. ...................................................... 44
2.2.5. Nhiều gia đình ở xa trung tâm quá gian nan trong việc đưa con đến các cơ sở can
thiệp ..................................................................................................................................................... 45
1
2.2.6. Thời gian cho quá trình can thiệp của trẻ là không giới hạn ................................................ 46
2.3. Thực trạng chăm sóc trẻ tự kỷ và các mô hình hỗ trợ trẻ tự kỷ ................................... 46
Chƣơng 3: VAI TRÒ CỦA NHÂN VIÊN CÔNG TÁC XÃ HỘI VỚI VIỆC TIẾP CẬN
CÁC NGUỒN LỰC HỖ TRỢ CỦA GIA ĐÌNH CÓ TRẺ TỰ KỶ .................................... 51
3.1 Khẳng định vai trò của nhân viên CTXH trong nỗ lực trợ giúp gia đình trẻ tự kỷ
tiếp cận với các nguồn lực hỗ trợ ................................................................................................. 51
3.2. Vai trò của NVXH với việc tiếp cận các nguồn lực của gia đình có trẻ tự kỷ ............ 52
3.2.1 Chuyên gia ............................................................................................................................... 52
3.2.2 Nhà tham vấn .......................................................................................................................... 53
3.2.3 Trợ giúp .................................................................................................................................... 54
3.2.4 Biện hộ ...................................................................................................................................... 54
3.2.5 Tác nhân thay đổi ................................................................................................................... 54
3.3 Xác định vai trò của NVXH thông qua việc triển khai mô hình công tác xã hội với
việc tiếp cận các nguồn lực hỗ trợ của gia đình có trẻ tự kỷ. ................................................ 55
3.3.1 Xác định đối tượng và mục đích hỗ trợ .............................................................................. 55
3.4 Giới thiệu mô hình Lớp hỗ trợ hòa nhập ............................................................................ 56
3.4.1 Lý do triển khai mô hình ....................................................................................................... 56
3.4.2 Chức năng của mô hình ........................................................................................................ 57
3.4.3 Các dịch vụ trợ giúp ............................................................................................................... 57
3.4.4 Kinh phí hoạt động ................................................................................................................. 62
3.4.5 Đánh giá mô hình ................................................................................................................... 62
KẾT LUẬN ....................................................................................................................................... 66
KIẾN NGHỊ ....................................................................................................................................... 71
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................................. 75
PHỤ LỤCPHỤ LỤC 1 ................................................................................................................... 77
DANH SÁCH CÁC TRƢỜNG HỢP PHỎNG VẤN SÂU ..................................................... 78
2
DANH MỤC BẢNG - ẢNH
Bảng 1.1: Các hệ thống CTXH của Pincus và Minahan ...................... 22
Bảng 1.2: Hiện trạng mạng lƣới các cơ sở bảo trợ xã hội chăm sóc ngƣời
khuyết tật ...................................................................................................... 47
DANH MỤC ẢNH
Ảnh 1: Tháp nhu cầu của maslow ........................................................... 29
Ảnh 2.1: Thông tin từ sách báo .................................................................... 35
Ảnh 2.2: Thông tin từ các buổi hội thảo ...................................................... 36
Ảnh 3.1: Dịch vụ chuẩn đoán 1.................................................................... 36
Ảnh 3.2: Dịch vụ chuẩn đoán 2.................................................................... 37
Ảnh 4.1: Hỗ trợ vận động ............................................................................ 37
Ảnh 4.2: Can thiệp ngôn ngữ ....................................................................... 38
Ảnh 4.3: Can thiệp nhóm ............................................................................. 38
3
Ảnh 5: Bản đồ huyện Văn Giang - Hƣng Yên ............................................. 40
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
CTXH : Công tác xã hội
TTK : Trẻ tự kỷ
CLB : Câu lạc bộ
NVXH : Nhân viên xã hội
4
TP : Thành phố
LỜI CẢM ƠN
Qua quá trình học tập hệ đào tạo sau đại học ngành Công tác xã hội tại trƣờng,
tôi không chỉ tích lũy cho bản thân thêm nhiều kiến thức chuyên ngành hữu ích mà
thêm vào đó còn có cơ hội đƣợc học hỏi những bạn bè, đồng nghiệp những kỹ năng
thực hành nghề Công tác xã hội ở những lĩnh vực khác nhau. Đặc biệt là những kinh
nghiệm tác nghiệp thực tế mà các thầy cô và các anh chị, bạn bè đồng nghiệp đã chia
sẻ.
Quá trình thực hiện đề tài luận văn “Vai trò của nhân viên Công tác xã hội
trong trợ giúp gia đình có trẻ tự kỷ tiếp cận với các nguồn lực hỗ trợ” (nghiên cứu
thực hiện tại địa bàn huyện Văn Giang – Hưng Yên) tôi đã nhận đƣợc sự giúp đỡ, hỗ
trợ của rất nhiều ngƣời. Kết quả của đề tài cũng là nhờ sự hỗ trợ tận tình của giáo viên
hƣớng dẫn, đồng nghiệp và của rất nhiều gia đình của trẻ em có nhu cầu đặc biệt nói
chung và gia đình trẻ tự kỷ nói riêng. Qua đây, tôi xin đƣợc gửi lời cảm ơn tới những
gia đình có trẻ tự kỷ tại địa bàn nghiên cứu và khu vực lân cận đã nhiệt tình cung cấp
thông tin và sẵn sàng tạo mọi điều kiện để cũng tôi và đồng nghiệp nỗ lực cho tiến
trình thực hiện đề tài. Xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới các thầy cô bộ môn Công tác xã
hội – Trƣờng ĐH KHXH và NV cùng các thầy cô ở những cơ sở khác vì những kiến
thức và những hƣớng dẫn hữu ích các thầy cô cung cấp trong suốt quá trình học tập
tại trƣờng.
Cuối cùng, em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến GS.TS Đặng Cảnh Khanh, ngƣời
đã hết sức tận tình, tạo nhiều điều kiện để tôi hoàn thành đề tài của mình.
Vì điều kiện về thời gian và kinh nghiệm của bản thân còn hạn chế nên đề tài
luận văn có thể còn thiếu sót. Rất mong nhận đƣợc sự góp ý của các thầy cô, đồng
nghiệp và bạn bè để đề tài thêm hoàn thiện.
Xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, tháng 12 năm 2014
Học viên
Đào Thị Lƣơng
5
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn với đề tài “Vai trò của nhân viên Công tác xã
hội trong trợ giúp gia đình có trẻ tự kỷ tiếp cận với các nguồn lực hỗ trợ”
(Nghiên cứu thực hiện tại địa bàn huyện Văn Giang – Hƣng Yên) là đề tài
nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nghiên cứu và số liệu trong luận văn này
là trung thực và không trùng lặp với các đề tài khác.
Tác giả đề tài
Học viên
6
Đào Thị Lƣơng
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Mỗi bậc cha mẹ khi sinh con ai cũng mong muốn con mình thông
minh, khỏe mạnh; ai cũng mong muốn con mình đƣợc chăm sóc, nuôi
dạy tốt và hơn hết là đƣợc lớn lên trong một môi trƣờng với đầy đủ sự
quan tâm của xã hội. Cũng nhƣ vậy, tất cả mọi trẻ em khi sinh ra đều có
quyền đƣợc chăm sóc, học hành và đƣợc tạo điều kiện nhƣ nhau để phát
triển. Với những trẻ em có nhu cầu đặc biệt nói chung và trẻ tự kỷ nói
riêng thì hơn ai hết gia đình các em là hệ thống phải nỗ lực nhiều nhất để
đảm bảo cho các em đƣợc hƣởng những quyền lợi chính đáng hay nói
đúng hơn là giúp các em có cơ hội đƣợc hòa nhập. Nếu nhƣ những quyền
ấy chƣa đƣợc đảm bảo một cách trọn vẹn hoặc gia đình trẻ gặp khó khăn
trong việc tiếp cận các nguồn lực hỗ trợ thì không những cuộc sống của
trẻ mà của cả gia đình trẻ sẽ càng thêm khó khăn.
Ở Việt Nam, chƣa có một số liệu thống kê hay điều tra khảo sát
dịch tễ nào về tự kỷ nhƣng theo nhận định của các chuyên gia thì số trẻ bị
tự kỷ đƣợc phát hiện có xu thế ngày một gia tăng so với các bệnh và dạng
khuyết tật khác thƣờng gặp ở trẻ em. Mặc dù chƣa có số liệu thống kê
chính xác về vấn đề này. Tuy nhiên, tính đến năm 2009, chỉ tính riêng
Bệnh viện Nhi Trung ƣơng có 1752 bệnh nhi mắc chứng tự kỷ, trƣớc đó,
năm 2008 là 963 trẻ, nhƣ vậy chỉ sau 1 năm số trẻ Tự kỷ đƣợc phát hiện
và điều trị tại bệnh viện đã tăng gần gấp đôi. Nghiên cứu mô hình khuyết
tật ở trẻ em của khoa Phục hồi Chức năng Bệnh viện Nhi Trung ƣơng
giai đoạn 2000-2007 cho thấy số lƣợng trẻ đƣợc chẩn đoán và điều trị tự
kỷ ngày càng đông; số trẻ tự kỷ đến khám năm 2007 gấp 50 lần năm
2000; số trẻ tự kỷ đến điều trị năm 2007 gấp 33 lần năm 2000. Còn tại
Thành Phố Hồ Chí Minh, nếu nhƣ năm 2000 chỉ có 02 trẻ tự kỷ điều trị
7
thì năm 2008 đã là 324 trẻ, tăng hơn 160 lần. Thực tế này cùng với
những bằng chứng rõ ràng về nhu cầu đƣợc can thiệp sớm cho trẻ thấy
rằng rất cần những nghiên cứu định hƣớng nhằm huy động tối đa sự hỗ
trợ của xã hội cho việc tiếp cận các nguồn lực hỗ trợ của những gia đình
có trẻ tự kỷ. Bên cạnh sự hỗ trợ tích cực của các ngành khác cho trẻ tự kỷ
nhƣ: giáo dục đặc biệt, tâm lý, y học…thì vai trò của công tác xã hội
trong nỗ lực trợ giúp gia đình trẻ tự kỷ tiếp cận với các nguồn lực hỗ trợ
dƣờng nhƣ vẫn còn hết sức mờ nhạt. Vì vậy, để góp phần khẳng định vai
trò của nhân viên công tác xã hội với việc tiếp cận các nguồn lực hỗ trợ
của gia đình có trẻ tự kỷ và chỉ ra những vai trò chính yếu của nhân viên
công tác xã hội trong nỗ lực chung hỗ trợ gia đình có trẻ tự kỷ, ngƣời viết
lựa chọn vấn đề “vai trò của nhân viên công tác xã hội trong việc trợ
giúp gia đình có trẻ tự kỷ tiếp cận với các nguồn lực hỗ trợ” làm định
hƣớng cho nghiên cứu.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
2.1. Một số nghiên cứu về chứng tự kỷ và những khó khăn của gia đình
có trẻ tự kỷ
Nghiên cứu một số đặc điểm lâm sàng của trẻ tự kỷ từ 18 đến 36 tháng
tuổi của bác sĩ Nguyễn Thị Hƣơng Giang (2010) Nghiên cứu chỉ ra hiện
nay ở Việt Nam các nghiên cứu về đặc điểm lâm sàng của trẻ tự kỷ còn
hạn chế, chƣa có những nghiên cứu mô tả lâm sàng một cách toàn diện ở
lứa tuổi nhỏ trƣớc 3 tuổi. Kết quả cho thấy tỷ lệ trẻ tự kỷ ở mức độ nặng
còn cao. Trẻ tự kỷ thƣờng có: Khiếm khuyết về chất lƣợng quan hệ xã
hội nhƣ: Không giao tiếp bằng mắt (86,9%), không biết gật đầu hay lắc
đầu khi đồng ý hoặc phản đối (97,6%), Thích chơi một mình (94,8%),
không biết khoe khi đƣợc đồ vật (976%), không đáp ứng khi đƣợc gọi tên
(96,8 %). Khiếm khuyết về chất lƣợng giao tiếp: Phát ra một chuỗi âm
thanh khác thƣờng (82,1%), không biết chơi giả vờ (98,4%)…. Nhiều trẻ
8
tự kỷ còn đƣợc phát hiện muộn. Trẻ tự kỷ nếu đƣợc phát hiện và can
thiệp sớm sẽ có nhiều cơ hội hòa nhập xã hội. Nhƣ vậy, do những nguyên
nhân chủ quan hay khách quan, một số lƣợng trẻ tự kỷ chƣa đƣợc phát
hiện và can thiệp sớm dẫn đến những khó khăn cho quá trình can thiệp,
đặc biệt những gia đình ở khu vực xa trung tâm lại càng bị hạn chế hơn
về cơ hội tiếp cận các dịch vụ hỗ trợ [15]. Nghiên cứu này là cơ sở cung
cấp những thông tin cơ bản giúp các nhà chuyên môn và gia đình trẻ có
định hƣớng phát hiện sớm để trẻ có điều kiện đƣợc can thiệp sớm, đồng
thời nhân viên CTXH cũng có cơ sở để tác nghiệp với đối tƣợng tốt hơn.
Nghiên cứu hành vi ngôn ngữ của trẻ tự kỷ 5 -6 tuổi của Ths. Đào
Thị Thu Thủy (2012) cho thấy ở Việt Nam số lƣợng trẻ đƣợc chẩn đoán
và điều trị tự kỷ ngày càng nhiều. Thực tế, số lƣợng trẻ tự kỷ đƣợc đi học
còn rất hạn chế do do những ảnh hƣởng về ngôn ngữ, hành vi và khả
năng tƣơng tác gây nên. Tuy nhiên chƣa có công trình nghiên cứu về vấn
đề ngôn ngữ của trẻ tự kỷ nói chung và hành vi ngôn ngữ của trẻ tự kỷ
nói riêng nói riêng. Nghiên cứu chỉ ra can thiệp hành vi ngôn ngữ cho trẻ
tự kỷ sẽ giúp trẻ tăng cƣờng khả năng nhận thức, tƣơng tác và hòa nhập
cộng đồng. Nghiên cứu cũng mô tả thực trạng hành vi ngôn ngữ của trẻ
tự kỷ tuổi mẫu giáo nhằm giúp giáo viên hỗ trợ, chuyên gia giáo dục trẻ
tự kỷ…xác định đƣợc mức độ hành vi ngôn ngữ của trẻ tự kỷ góp phần
nâng cao chất lƣợng giáo dục trẻ tự kỷ, giúp trẻ tự kỷ tham gia học hóa
nhập. Có thể thấy kết quả nghiên cứu này đã đóng góp về mặt lý luận và
thực tiễn trong nghiên cứu hành vi ngôn ngữ của trẻ tự kỷ độ tuổi 5 – 6
tuổi. Tuy nhiên đây mới chỉ là sự đóng góp ở khía cạnh chuyên môn
dành cho các chuyên gia, giáo viên hỗ trợ trẻ còn về phía gia đình do
chuyên môn giáo dục can thiệp trẻ có nhu cầu đặc biệt còn hạn chế nên
ngoài mặt lí luận, những gia đình có trẻ tự kỷ cũng cần một sự hỗ trợ cụ
9
thể hơn [16]
Một tổ chức chuyên nghiên cứu về biện pháp can thiệp giúp cải thiện nhận
thức ở trẻ tự kỷ đã ghi nhận hiệu quả của phƣơng pháp tƣơng tác xã hội đối
với các trẻ tự kỷ. Nghiên cứu này đƣợc thực hiện tại một trƣờng đại học
ở Washington, nằm trong chuỗi chƣơng trình chuyên biệt nhằm tìm hiểu
về các phƣơng pháp cải thiện nhận thức và phản ứng của bộ não trẻ tự
kỷ. Đứng đầu nhóm nghiên cứu, bà Geraldine Dawson cho biết: “Quá
trình lớn lên và tiếp thu của một đứa trẻ đang tập đi ảnh hưởng rất nhiều
đến khả năng tương tác xã hội hàng ngày của các em. Riêng đối với
những đứa trẻ mắc chứng tự kỷ thì sự can thiệp sớm của cộng đồng sẽ
giúp các bé nhận được sự tương tác, quan tâm của cộng đồng” [17]
2.2. Về các nguồn lực hỗ trợ cho các gia đình có trẻ tự kỷ
Nhƣ chúng ta đã biết, tự kỷ là một dạng rối loạn phát triển thể hiện ở
nhiều mặt trong cuộc sống của trẻ. Nếu nhƣ trẻ và gia đình không nhận đƣợc
những hỗ trợ cần thiết thì cuộc sống của cả trẻ và gia đình sẽ càng trở nên phức
tạp và mất phƣơng hƣớng. Trong mọi trƣờng hợp, ở bất cứ khu vực nào thì nhu
cầu về sự hỗ trợ cho trẻ tự kỷ và gia đình trẻ đều hết sức cần thiết. Tuy nhiên,
so với các nƣớc phát triển nhƣ: Mỹ, Úc, Nhật Bản…. thì tại Việt Nam những
nguồn lực hỗ trợ trẻ tự kỷ và gia đình trẻ chƣa đƣợc đồng đều và chƣa có sự bài
bản. Những nghiên cứu đề cập đến việc tiếp cận các nguồn lực hỗ trợ của trẻ tự
kỷ và gia đình trẻ không nhiều, đặc biệt là những nghiên cứu nhấn mạnh đến
yếu tố ngành công tác xã hội trong nỗ lực chăm sóc và hỗ trợ trẻ tự kỷ cũng nhƣ
trợ giúp gia đình trẻ. Thực tế hiện nay cho thấy phụ huynh, đặc biệt là những
phụ huynh ở xa trung tâm đều phải tự mày mò tìm phƣơng hƣớng giải quyết các
vấn đề xoay quanh việc trong gia đình có thành viên là trẻ tự kỷ. Họ gần nhƣ
thiếu hụt các nguồn lực hỗ trợ giúp họ giải quyết vấn đề. Trƣớc sự bức thiết về
nhu cầu hỗ trợ xã hội, một số phụ huynh tự tạo ra nguồn lực hỗ trợ cho mình
10
nhƣ việc thành lập các nhóm, hội, câu lạc bộ hay thiết thực hơn là xây dựng môi
trƣờng can thiệp chuyên biệt cho con em mình. Điểm hình nhất phải kể đến ý
nghĩa của việc ra đời câu lạc bộ gia đình trẻ tự kỷ Hà Nội.
Xuất phát từ nhu cầu liên kết, trao đối thông tin, chia sẻ kinh nghiệm
can thiệp cho con, ban đầu những gia đình có con tự kỷ đầu tiên ở Hà
Nội đã liên kết với nhau thành lập Câu lạc bộ gia đình trẻ tự kỷ Hà Nội.
Mục đích của câu lạc bô là tạo ra một môi trƣờng để chia sẻ kinh nghiệm
cũng nhƣ những kiến thức khoa học về giáo dục đặc biệt cho trẻ tự kỷ
giúp trẻ có cơ hội hòa nhập cộng đồng. Đồng thời nâng cao nhận thức
trong toàn xã hội về tự kỷ, giúp can thiệp sớm từ phía các gia đình để có
biện pháp can thiệp kịp thời cho trẻ, nâng cao sự quan tâm và trách
nhiệm của toàn xã hội về hội chứng tự kỷ để ngƣời tự kỷ đƣợc hƣởng
mọi quyền lợi chính đáng về giáo dục, việc làm và chăm sóc y tế nhƣ
những ngƣời khuyết tật và mọi ngƣời trong xã hội. Câu lạc bộ có điều lệ
quy định cụ thể về thành viên tham gia, điều kiện tham gia, nghĩa vụ và
quyền lợi của thành viên, nguyên tắc hoạt động và cơ cấu tổ chức, vai trò
và trách nhiệm của ban điều hành….Câu lạc bộ đã hoạt động đƣợc hơn
10 năm với số lƣợng hàng trăm gia đình là thành viên tại Hà Nội và các
tỉnh lân cận.
Câu lạc bộ liên tục tổ chức những buổi hội thảo về các vấn đề liên
quan đến trị liệu cho trẻ tự kỷ: trị liệu tâm lý, giúp bố mẹ chơi với con,
giúp trẻ học toán, tập đọc, trị liệu ngôn ngữ, trị liệu y sinh…..
Câu lạc bộ cũng là diễn đàn, là cầu nối giữa gia đình và các chuyên
gia, giữa gia đình mới và những gia đình có con tự kỷ nhiều năm. Việc
duy trì sinh hoạt câu lạc bộ này giúp những phụ huynh mới đƣợc cung
cấp thêm nhiều thông tin, tài liệu hỗ trợ cho quá trình can thiệp trẻ. Lồng
ghép vào đó là những buổi tập huấn của chuyên gia dành cho các phụ
huynh có mong muốn tìm hiểu thông tin về chứng tự kỷ và định hƣớng
11
can thiệp cho trẻ tại nhà hay cách làm việc hiệu quả với giáo viên chuyên
biệt, định hƣớng vận động chính sách cho chính các gia đình. Có thể nói
đây là cơ hội để những gia đình có con tự kỷ tâm sự, chia sẻ kinh nghiệm
ở tất cả mọi lĩnh vực, là cầu nỗi của không chỉ những gia đình ở khu vực
Hà Nội mà rất nhiều nơi trên đất nƣớc, thậm chí có thành viên định cƣ ở
nƣớc ngoài vẫn duy trì liên lạc và chia sẻ thông tin hoặc các phƣơng pháp
mới. Tuy nhiên, cách thức hỗ trợ gia đình trẻ tự kỷ của câu lạc bộ chủ
yếu thiên về hỗ trợ các thông tin cho phụ huynh, có lịch sinh hoạt định kỳ
chứ không liên tục. Với những gia đình có trẻ tự kỷ ở xa trung tâm thì chỉ
có thể tham gia gián tiếp hoặc không có điều kiện để tham gia thƣờng
xuyên, chƣa đáp ứng những nhu cầu thiết yếu của họ, cụ thể là nhu cầu
về một cơ sở can thiệp trực tiếp thuận tiện cho họ chƣa đƣợc đáp ứng.
Có thể thấy đây cũng là một nguồn lực hỗ trợ hữu ích đối với những
phụ huynh có điều kiện tham gia thƣờng xuyên và khá thuận tiện cho các
gia đình ở khu vực gần trung tâm nhƣng vẫn còn những bất lợi nhất định
với những gia đình xa trung tâm nhƣ ở địa bàn nghiên cứu và khu vực lân
cận địa bàn nghiên cứu. Vì vậy, cần thiết đƣợc triển khai và mở rộng
thêm nhiều mô hình nhƣ vậy ở những khu vực xa trung tâm hơn hoặc có
thể dành những buổi hội thảo chia sẻ kinh nghiệm ở địa bàn nghiên cứu
để nhiều hơn nữa các gia đình đƣợc tiếp cận với sự hữu ích của mô hình
này [18]
Khi có những nghi ngờ đầu tiên về các biểu hiện bất thƣờng của con,
chắc chắn gia đình trẻ cần một điểm đến để kiểm tra và biết kết luận về
tình trạng của trẻ. Yêu cầu đối với cơ sở phải là cơ sở công lập và có
chức năng, thẩm quyền trong công tác chẩn đoán trẻ. Hiện nay, việc này
mới chỉ đƣợc áp dụng và đƣợc hầu hết phụ huynh tin tƣởng khu vực
Miền Bắc là Khoa Tâm Bệnh của Bệnh Viện Nhi Trung Ƣơng. Mức độ
và tình trạng của trẻ đƣợc xác định sau khi trẻ trải qua các bài test do các
12
bác sĩ Khoa Tâm Bệnh tiến hành. Chẩn đoán cuối cùng của bác sĩ dựa
trên những bài kiểm tra và đánh giá về các lĩnh vực phát triển của trẻ.
Với mỗi phiếu chẩn đoán phụ huynh đều nhận đƣợc những tƣ vấn về
hƣớng can thiệp cho trẻ. Đồng thời, tại Khoa Tâm Bệnh cũng có cung
cấp dịch vụ trị liệu tại chỗ cho trẻ. Tuy nhiên để giảm tải số lƣợng trẻ can
thiệp tại đây, Khoa tâm Bệnh cũng có những quy định hạn chế số lƣợng
trẻ can thiệp tại chỗ; thêm vào đó những trẻ đƣợc can thiệp cũng sẽ bị
giới hạn thời gian trị liệu tại đây theo từng đợt. Mỗi đợt chỉ từ 2 – 3 tuần,
sau đó trẻ trở về gia đình và đợi đợt can thiệp tiếp theo. Khoa khuyến
khích các gia đình tìm cơ sở can thiệp bên ngoài bệnh viện hoặc tìm giáo
viên đến tận nhà thay vì chờ đợi và tham gia các khóa học của bệnh viện
vì nhƣ vậy sẽ lãng phí thời gian của cả trẻ và gia đình. Điều này đồng
nghĩa với việc quá trình can thiệp của trẻ sẽ bị gián đoạn nếu cứ cứng
nhắc chờ đợi đợt can thiệp của Bệnh viện Nhi và tất yếu gia đình phải
thực sự chủ động trong việc lựa chọn cơ sở can thiệp hoặc giáo viên can
thiệp tại nhà cho trẻ.
Có thể nhận thấy, mỗi mô hình can thiệp, hỗ trợ trẻ có những ƣu điểm
và hạn chế nhất định. Vậy nên, cha mẹ trẻ phải luôn chủ động và linh
hoạt trong việc lựa chọn hƣớng can thiệp cho con. Tuy vậy, không phải
gia đình nào cũng có thời gian, điều kiện để lựa chọn đƣợc những cơ sở
can thiệp phù hợp với tình hình của trẻ và gia đình. Những gia đình còn
khó khăn trong tiến trình tìm cơ sở can thiệp cho con hay nói một cách
khái quát hơn thì có những gia đình gặp khó khăn trong việc tiếp cận các
nguồn lực hỗ trợ rất cần đƣợc trợ giúp để có thể tiếp cận đƣơc với những
nguồn lực ấy.
Ngoài các hội, nhóm, câu lạc bộ, dịch vụ chẩn đoán cho trẻ còn
phải kể đến nguồn hỗ trợ hết sức thiết thực từ các mô hình can thiệp cho
trẻ. Chức năng của những mô hình này ngoài việc cung cấp các dịch vụ
13
đánh giá ,can thiệp trực tiếp còn có dịch vụ tập huấn cho phụ huynh theo
định kỳ nên đối với những gia đình có trẻ tự kỷ đây là một nguồn lực đáp
ứng đƣợc phần lớn nhu cầu cả về hỗ trợ trẻ lẫn việc tiếp cận các dịch vụ
cần thiết cho họ. Tuy nhiên, hầu hết các mô hình hiện nay, yếu tố ngành
Công tác xã hội chƣa phổ biến, có thể thấy rõ nhƣ chức năng kết nối
nguồn lực chƣa đƣợc phát huy nhiều. Việc hỗ trợ sẽ hiệu quả và toàn
diện hơn nếu nhƣ tại các mô hình đó có cung cấp dịch vụ nhƣ: tham vấn
chính sách, kết nối gia đình trẻ với các hệ thống khác: trƣờng học các
cấp, địa phƣơng, các nhà tài trợ…. Nhƣ vậy, trong việc trợ giúp gia đình
có trẻ tự kỷ tiếp cận với các nguồn lực hỗ trợ chính nhân viên Công tác
xã hội cũng trở thành một nguồn lực hỗ trợ hữu ích qua việc làm tốt các
vai trò của mình đối với từng vấn đề và nhu cầu của gia đình.
3. Ý nghĩa của nghiên cứu
Nghiên cứu, tìm hiểu nhu cầu và những khó khăn gặp phải của
những gia đình có trẻ tự kỷ trong việc tiếp cận với các nguồn lực hỗ trợ.
Kết quả của nghiên cứu khẳng định và chỉ ra vai trò của nhân viên CTXH
trong việc trợ giúp gia đình có trẻ tự kỷ tiếp cận với các nguồn lực hỗ trợ.
4. Câu hỏi nghiên cứu
- Những gia đình có trẻ tự kỷ đã và đang gặp phải những khó
khăn nào?
- Khả năng tiếp cận các nguồn lực hỗ trợ của các gia đình có trẻ
tự kỷ nhƣ thế nào?
- Vai trò của nhân viên công tác xã hội thể hiện nhƣ thế nào trong
nỗ lực trợ giúp gia đình có trẻ tự kỷ tiếp cận với các nguồn lực
hỗ trợ?
5. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Mục đích nghiên cứu
- Đánh giá khả năng tiếp cận với các nguồn lực hỗ trợ của các gia
14
đình có trẻ tự kỷ
- Khẳng định vai trò của nhân viên công tác xã hội trong trợ giúp
gia đình có trẻ tự kỷ tiếp cận với các nguồn lực hỗ trợ.
5.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tiến hành tìm hiểu những khó khăn gặp phải của trẻ tự kỷ và gia
đình có trẻ tự kỷ tại cộng đồng và tại nơi trẻ tự kỷ đƣợc can
thiệp.
- Tìm hiểu những nguồn lực hỗ trợ trẻ tự kỷ và gia đình trẻ tự kỷ
hiện có.
- Thông qua các hoạt động CTXH trợ giúp trực tiếp cho trẻ tự kỷ
và gia đình có trẻ tự kỷ tiếp cận với nguồn lực hỗ trợ.
6. Giả thuyết nghiên cứu
- Trẻ tự kỷ và gia đình có trẻ tự kỷ đã và đang gặp phải nhiều khó
khăn trong các lĩnh vực của đời sống: học tập, giao tiếp, hòa nhập tại
trƣờng học cũng nhƣ cộng đồng.
- Có nhiều nguồn lực hỗ trợ trẻ tự kỷ và gia đình có trẻ tự kỷ song
khả năng tiếp cận của các gia đình chƣa toàn diện và họ còn gặp nhiều
khó khăn trong việc tiếp cận các nguồn lực đó.
7. Đối tƣợng và khách thể nghiên cứu
7.1. Khách thể nghiên cứu
- Trẻ tự kỷ và gia đình có trẻ tự kỷ tại huyện Văn Giang – Hƣng Yên
- 30 gia đình có con tự kỷ
7.2. Đối tượng nghiên cứu
- Vai trò của nhân viên công tác xã hội trong việc trợ giúp gia đình có
trẻ tự kỷ tiếp cận các nguồn lực hỗ trợ.
8. Phƣơng pháp nghiên cứu
15
8.1. Phương pháp luận
Các phƣơng pháp lý luận đƣợc sử dụng trong quá trình nghiên cứu:
dựa trên phƣơng pháp luận của chủ nghĩa duy vật lịch sử, các quan điểm
của Đảng và Nhà nƣớc ta về chính sách xã hội đối với trẻ em.
8.2. Phương pháp nghiên cứu
Phƣơng pháp phân tích, tổng hợp tài liệu: Dựa trên việc tham khảo
các tài liệu có liên quan đến vấn đề nghiên cứu, ngƣời viết sẽ phân tích ƣu
điểm và những tồn tại của tài liệu cùng vấn đề liên quan đến đề tài nghiên
cứu. Từ đó,tổng hợp đƣợc những thông tin hữu ích và định hƣớng rõ ràng
cho việc nghiên cứu cũng nhƣ quá trình hỗ trợ thân chủ.
Phƣơng pháp phỏng vấn sâu: Nhằm xác định thực trạng hỗ trợ trẻ
tự kỷ và gia đình có trẻ tự kỷ tại địa phƣơng cũng nhƣ tại cơ sở hỗ trợ trẻ
tự kỷ. Ngƣời thực hiện tiến hành lựa chọn và phỏng vấn sâu 5 ngƣời.
Trong đó có lãnh đạo trung tâm hỗ trợ trẻ tự kỷ, đại diện nhóm gia đình
có trẻ tự kỷ tại địa bàn nghiên cứu, lãnh đạo trƣờng mầm non tại địa bàn
nghiên cứu.
Phƣơng pháp chuyên gia : Ngƣời viết sử dụng phƣơng pháp này
nhằm thu thập và xử lý những đánh giá, dự báo bằng cách tập hợp và hỏi
ý kiến các chuyên gia có kinh nghiệm về Công tác xã hội nói chung và
trẻ tự kỷ nói riêng. Phƣơng pháp này cũng dựa trên cơ sở đánh giá tổng
kết kinh nghiệm, những đánh giá khoa học về vấn đề nghiên cứu của các
chuyên gia để có cái nhìn vừa tổng quan vừa sâu sắc về các vấn đề liên
quan. Các ý kiến chuyên gia sẽ là những gợi ý hữu ích giúp quá trình
nghiên cứu và tác nghiệp của ngƣời viết thêm thuận lợi và hiệu quả hơn.
Phƣơng pháp công tác xã hội với cá nhân: Thông qua tiến trình
công tác xã hội với cá nhân thu thập những thông tin khách quan về
những vấn đề và khó khăn mà gia đình trẻ gặp phải khi tiếp cận với các
nguồn lực hỗ trợ, qua đó, thể hiện vai trò của nhân viên công tác xã hội
16
trong tiến trình trợ giúp cá nhân có con là trẻ tự kỷ.
9. Phạm vi nghiên cứu
- Vai trò của nhân viên công tác xã hội trong trợ giúp gia đình có trẻ tự kỷ tiếp
17
cận với các nguồn lực hỗ trợ.
NỘI DUNG
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA NHÂN VIÊN CÔNG TÁC
XÃ HỘI VỚI VIỆC TIẾP CẬN CÁC NGUỒN LỰC HỖ TRỢ CỦA GIA
ĐÌNH CÓ TRẺ TỰ KỶ.
1.1 Một số lý thuyết áp dụng trong nghiên cứu
1.1.1 Lý thuyết hệ thống
Thuyết các hệ thống có một tác động lớn đến CTXH kể từ thập
niên 1970 và đã là chủ đề gây nhiều tranh cãi kể từ đó đến nay. Thông
thƣờng có hai hình thức thức thuyết hệ thống trong CTXH. Đó là: Thuyết
các hệ thống khái quát và thuyết các hệ thống sinh thái.
Có các khái niệm về thuyết hệ thống nhƣ sau:
Một hệ thống là một chỉnh thể (entity) cới các đƣờng biên
(boundary) mà các năng lƣợng thể chất và tinh thần đƣợc trao
đổi nhiều hơn trong đƣờng biên so với ngoài đƣờng biên.
Một hệ thống đóng là khi không có sự trao đổi lẫn nhau qua
đƣờng biên nhƣ trong một bình chân không đóng kín.
Một hệ thống mở là khi có năng lƣợng đi qua đƣờng biên
thấm qua đƣợc, giống nhƣ trà túi lọc trong một cốc nƣớc
nóng cho phép nƣớc vào túi trà và trà thẩm thấu ra bên ngoài
nhƣng giữ lá trà ở bên trong.
Phƣơng pháp làm việc của các hệ thống và phƣơng pháp trao đổi
đƣợc hiểu trong một hệ khái niệm khác (Greif và Lynch, 1983):
Đầu vào (input) – năng lƣợng đƣợc nạp vào hệ thống qua
đƣờng biên
Đƣờng đi qua (throughput) – phƣơng pháp sử dụng năng
18
lƣợng trong hệ thống.
Đầu ra (output) – các tác động lên môi trƣờng của năng
lƣợng thoát ra qua đƣờng biên của một hệ thống
Các đƣờng vòng phản hồi (feedback loops) – thông tin và
năng lƣợng truyền đến hệ thống gây ra bởi đầu ra của nó tác
động lên môi trƣờng cho nó biết những kết quả của đầu ra
của nó .
Entropy – xu hƣớng của các hệ thống sử dụng năng lƣợng
của riêng chúng để duy trì hoạt động, điều này có nghĩa là
nếu chúng không nhận đƣợc đầu vào từ bên ngoài đƣờng
biên, chúng sẽ hết năng lƣợng và chết.
Trạng thái của một hệ thống ở bất kỳ thời điểm nào đƣợc xác định
bởi năm đặc tính:
Trạng thái ổn định của nó: nó có thể duy trì bản thân nhƣ thế
nào thông qua việc nhận đầu vào và sử dụng nó.
Sự điều bình (homeostasis) hay cân bằng (equilibrium) của
nó.: khả năng duy trì các bản chất cơ bản, thay vì thay đổi khi
nó nhận đƣợc đầu vào, đi qua nó và đƣa ra đầu ra
Sự khác biệt: qua thời gian, các hệ thống sẽ trở nên phức tạp
hơn với những loại thành phần khác nhau.
Không tính tổng (nonsumativity): toàn bộ thì nhiều hơn tổng
của các bộ phận.
Sự trao đổi lẫn nhau: nếu một phần của hệ thống thay đổi thì
sự thay đổi tác động với tất cả các phần khác và cũng sẽ thay
đổi.
Áp dụng thuyết hệ thống trong thực hành CTXH : Pincus và Minahan
Pincus và Minahan (1973) đƣa ra một cách tiếp cận đến CTXH áp
19
dụng các tƣ tƣởng hệ thống. Nguyên tắc của những đƣờng hƣớng của họ
là con ngƣời phụ thuộc vào những hệ thống trong môi trƣờng xã hội gần
gũi của họ để có cuộc sống thỏa mãn. Vì vậy, CTXH phải tập trung vào
những hệ thống nhƣ vậy.Ba loại hệ thống có thể giúp con ngƣời là:
Các hệ thống thân tình hay tự nhiên nhƣ gia đình, bạn bè,
ngƣời đƣa thƣ hay đồng nghiệp…
Các hệ thống chính quy nhƣ các nhóm cộng đồng hay công
đoàn(Với trẻ tự kỷ và gia đình có trẻ TK thì hàng xóm, láng
giềng cũng là một hệ thống có ảnh hƣởng rất quan trọng)
Các hệ thống xã hội nhƣ bệnh viện, trƣờng học(Với TTK thì
hệ thống các trƣờng chuyên biệt là mô hình can thiệp cần
thiết).
Những ngƣời gặp những vấn đề nào đó trong cuộc sống có thể
không có khả năng sử dụng hệ thống vì:
Những hệ thống đó có thể không tồn tại trong cuộc sống cuả
họ hay có những nguồn lực cần thiết hay thích hợp với vấn đề
của họ (Ví dụ, tại địa phƣơng có TTK chƣa có cơ sở có thể
chẩn đoán về những biểu hiện bất thƣờng của trẻ thì gia đình
trẻ phải đƣa trẻ đến những cơ sở khác ở địa phƣơng khác và
vì vậy không có hệ thống xã hội phù hợp hỗ trợ TTK và gia
đình).
Ngƣời ta có thể không biết về hay không mong muốn sử
dụng những hệ thống nhƣ vậy.
Các chính sách của hệ thống có thể tạo ra những vấn đề mới
cho ngƣời sử dụng(ví dụ, gia đình có TTK vẫn gặp nhiều khó
khăn khi đi xin chế độ trợ cấp hàng tháng cho con em mình
vì mặc dù Pháp lệnh ngƣời tàn tật 2010 có công nhận trẻ em
20
khuyết tật là đối tƣợng đƣợc hƣởng trợ cấp hàng tháng, song
vì trong hƣớng dẫn thi hành luật không đề cập đến thuật ngữ
tự kỷ nên hồ sơ xin hƣởng trợ cấp hàng tháng cho TTK vẫn
còn bị bỏ ngỏ).
Các hệ thống có thể mâu thuẫn lẫn nhau(Mức phí chi trả cho
hoạt động can thiệp khá cao trong khi không phải gia đình có
TTK nào cũng đủ điều kiện đáp ứng)
CTXH cố gắng tìm nơi mà các yếu tố trong sự tƣơng tác giữa thân
chủ và môi trƣờng của họ đang gây ra các vấn đề.
Các nhân viên CTXH quan tâm đến mối quan hệ của „các rắc rối cá
nhân” với “các vấn đề công cộng”. Họ tìm kiếm và làm việc trên các kết
quả tổng quát cuả các vấn đề cá nhân và tác động lên các cá nhân của
những vấn đề chung hơn.
Pincus và Minahan định nghĩa bốn hệ thống cơ bản trong CTXH.
CTXH sẽ trở nên rõ ràng nếu nhân viên CTXH phân tích ngƣời mà họ
21
đang làm việc với rơi vào hệ thống nào tại mọi thời điểm.
Hệ thống
Mô tả
Thông tin thêm
Hệ thống tác nhân
Nhân viên CTXH và tổ
thay đổi
chức họ làm việc
Hệ thống thân chủ Con ngƣời, các nhóm,
Thân chủ thực sự đã
các gia đình, các cộng
đồng ý nhận sự trợ giúp
đồng tìm kiếm sự giúp
và đã tự tham gia, các
đỡ và tham gia vào làm
thân chủ tiềm năng là
việc với hệ thống tác
những ngƣời mà nhân
nhân thay đổi
viên CTXH đang cố
gắng đƣa vào(ví dụ,
những ngƣời đang bị án
treo hay bị điều tra về
lạm dụng trẻ em)
Hệ thống mục tiêu Những ngƣời mà hệ
Thân chủ và hệ thống
thống tác nhân thay đổi
mục tiêu có thể hoặc
đang cố thay đổi để đạt
không là một
đƣợc các mục tiêu của
họ
Hệ thống hành động Những ngƣời mà hệ
Các hệ
thống
thân
thống tác nhân thay đổi
chủ,mục tiêu và hành
làm việc để đạt đƣợc
động có thể hoặc không
các mục tiêu của họ
là một.
Bảng 1.1: Các hệ thống CTXH của Pincus và Minahan
Lý thuyết hệ thống cung cấp một khung làm việc thống nhất để
phân loại và lƣợng giá thế giới. Thực tế có nhiều khái niệm và định nghĩa
rất hữu ích trong lý thuyết hệ thống.Ở nhiều trƣờng hợp nó cung cấp cho
chúng ta một phƣơng pháp học giả để đánh giá phân tích tình hình. Một
đặc điểm quan trọng hơn nữa đó là nó cung cấp cho chúng ta một cách
22
tiếp cận phổ cập với tất cả các ngành khoa học.
1.1.2. Lý thuyết vai trò
Mỗi cá nhân trong xã hội đều có những vị trí, vai trò khác nhau.
Những vị trí và vai trò ấy thể hiện thông qua các mối quan hệ và sự
tƣơng tác với các hệ thống. Thuyết vai trò cho rằng mỗi cá nhân đều
chiếm giữ các vị trí trong cấu trúc xã hội. Mỗi vị trí đều có một vai trò
gắn liền với nó. Các vai trò là hệ thống những kỳ vọng hoặc những hành
vi gắn với các vị trí đó trong cấu trúc xã hội. Quan điểm này bao hàm
đƣợc các vai trò thƣờng xuyên đƣợc xem xét trong bối cảnh về các mối
quan hệ, vai trò đó chỉ nằm trong các mối quan hệ mà các vai trò đƣợc
xác định (Munson và Balgopal, 1978 ). Các vai trò tạo nên đƣợc bản sắc
của chúng ta nhƣ việc những ngƣời khác nhìn nhận về nó. Vì theo cách
này, những cá nhân khác sẽ có phản ứng đối với chúng ta, các vai trò
cũng nhƣ các cá nhân khác nhìn nhận những vấn đề đó tạo nên đƣợc
quan niệm riêng của chúng ta về bản sắc riêng của mình(Ruddock, 1969).
Các vai trò có từ sự kỳ vọng của chúng ta hoặc những kỳ vọng khác từ
ngƣời khác. Hệ thống vai trò là tập hợp các vai trò gắn với một vị thế xã
hội cụ thể qua việc chiếm giữ vị trí đó mà bạn có thể có đƣợc một hay
một số vai trò
Vai trò đề cập đến vị trí của một ngƣời liên quan đến những ngƣời
khác trong một hệ thống phân cấp của một nhóm nhất định. Thông qua
quá trình đánh giá trong nhóm, mỗi cá nhân đƣợc trao một vị trí đặc biệt
trong nhóm. Các thành viên tự xếp hạng lẫn nhau, cơ sở để xếp hạng phụ
thuộc vào các giá trị và nguyện vọng của các thành viên trong
nhóm…Giá trị có thể thống nhất trong nhóm từ thỏa thuận chung nhƣng
cũng có thể bị xung đột với nhóm, với ngƣời lãnh đạo nhóm hay những
ngƣời xung quanh. Phƣơng thức đánh giá có thể dựa trên nhiệm vụ
23
nhƣng cũng phản ánh yếu tố tình cảm. Vị trí của một ngƣời trong một
nhóm xác định mức độ và ảnh hƣởng, trách nhiệm và khả năng kiểm soát
liên quan đến các thành viên khác.
Các nhà khoa học xã hội khác sử dụng thuật ngữ “vai trò” để định
nghĩa hành vi thực tế của một ngƣời trong mối liên hệ với vị trí đƣợc
trao….
Mặc dù các định nghĩa về vai trò có khác nhau nhƣng hầu hết các
công thức đều xét đến ba thành phần lý thuyết vai trò. Nhƣ Gross đã nêu,
bao gồm: “Cá nhân có những ứng xử (1) với những mong đợi (2) ở một
vị trí xã hội (3)”
Khi một ngƣời đảm nhận một vai trò, họ mang theo những kỳ vọng
dành cho hành vi của mình và cá nhân phải hành động phù hợp với kỳ
vọng đó và động cơ của mình. Không có hai ngƣời nào đảm nhận một vai
trò theo cách giống nhau. Khi một ngƣời đáp ứng đƣợc mong đợi dành
cho mình, anh ta thƣờng nhận đƣợc sự phản hồi tích cực, khi anh ta
không đáp ứng đƣợc mong đợi, sự trừng phạt tiêu cực có thể sẽ đƣợc áp
dụng
Nhƣ vậy, theo thuyết này, trong công tác xã hội, việc tìm hiểu các
vấn đề xoay quanh cá nhân, nhóm, cộng đồng phụ thuộc vào vai trò, vị
thế mà họ đƣợc kỳ vọng và thừa nhận trong gia đình và xã hội. Nếu
những vai trò, vị thế đƣợc thể hiện đúng mực, tích cực thì cá nhân, nhóm,
cộng đồng sẽ hành động đúng nhƣ những gì mà xã hội kỳ vọng vào họ.
1.1.3. Lý thuyết về thang bậc nhu cầu
24
Abraham Maslow là nhà khoa học xã hội nổi tiếng đã xây dựng học thuyết về nhu cầu của con ngƣời vào những năm 1950. Lý thuyết của ông nhằm giải thích những nhu cầu nhất định của con ngƣời cần đƣợc đáp ứng nhƣ thế nào để một cá nhân hƣớng đến cuộc sống lành mạnh và có ích cả về thể chất lẫn tinh thần.
Lý thuyết về thang bậc nhu cầu của ông giúp cho sự hiểu biết của chúng ta về những nhu cầu của con ngƣời bằng cách nhận diện một hệ thống thứ bậc các nhu cầu. Ông đã đem các loại nhu cầu khác nhau của con ngƣời, căn cứ theo tính đòi hỏi của nó và thứ tự phát sinh trƣớc sau của chúng để quy về 5 loại sắp xếp thành thang bậc về nhu cầu của con ngƣời tƣ thấp đến cao.
Nhu cầu sinh lý
Đây là nhu cầu cơ bản để duy trì cuộc sống của con ngƣời nhƣ nhu
cầu ăn uống, ngủ, nhà ở, sƣởi ấm và thoả mãn về tình dục.
Là nhu cầu cơ bản nhất, nguyên thủy nhất, lâu dài nhất, rộng rãi nhất của con ngƣời. Nếu thiếu những nhu cầu cơ bản này con ngƣời sẽ không tồn tại đƣợc. Đặc biệt là với trẻ em vì chúng phụ thuộc rất nhiều vào ngƣời lớn để đƣợc cung cấp đầy đủ các nhu cầu cơ bản này. Ông quan niệm rằng, khi những nhu cầu này chƣa đƣợc thoả mãn tới mức độ cần thiết để duy trì cuộc sống thì những nhu cầu khác của con ngƣời sẽ không thể tiến thêm nữa.
Nhu cầu về an toàn hoặc an ninh
An ninh và an toàn có nghĩa là một môi trƣờng không nguy hiểm,
có lợi cho sự phát triển liên tục và lành mạnh của con ngƣời.
Nội dung của nhu cầu an ninh: An toàn sinh mạng là nhu cầu cơ bản nhất, là tiền đề cho các nội dung khác nhƣ an toàn lao động, an toàn môi trƣờng, an toàn nghề nghiệp, an toàn kinh tế, an toàn ở và đi lại, an toàn tâm lý, an toàn nhân sự,…
25
Đây là những nhu cầu khá cơ bản và phổ biến của con ngƣời. Để sinh tồn con ngƣời tất yếu phải xây dựng trên cơ sở nhu cầu về sự an toàn. Nhu cầu an toàn nếu không đƣợc đảm bảo thì công việc của mọi ngƣời sẽ không tiến hành bình thƣờng đƣợc và các nhu cầu khác sẽ không thực hiện đƣợc. Do đó chúng ta có thể hiểu vì sao những ngƣời
phạm pháp và vi phạm các quy tắc bị mọi ngƣời căm ghét vì đã xâm phạm vào nhu cầu an toàn của ngƣời khác.
Ví dụ, nếu NVXH làm việc với trƣờng hợp gia đình có trẻ tự kỷ bị từ chối ở trƣờng mầm non cần xác định đƣợc một trong những lý do cần phải đƣợc thông cảm ở trƣờng mầm non đó là sự mong muốn giữ an toàn cho những trẻ khác trong lớp khi có những trẻ tự kỷ có những hành vi không đƣợc khuyến khích nhƣ: đánh, tranh giành đồ chơi với bạn…. Xác định đƣợc việc đảm bảo nhu cầu về sự an toàn tại hệ thống trƣờng học NVXH sẽ dễ dàng hơn trong việc hỗ trợ gia đình có trẻ tự kỷ lựa chọn phƣơng án hòa nhập cho con em mình.
Những nhu cầu về quan hệ và được thừa nhận (tình yêu và sự chấp
nhận).
Do con ngƣời là thành viên của xã hội nên họ cần nằm trong xã hội
và đƣợc ngƣời khác thừa nhận.
Nhu cầu này bắt nguồn từ những tình cảm của con ngƣời đối với sự lo sợ bị cô độc, bị coi thƣờng, bị buồn chán, mong muốn đƣợc hòa nhập, lòng tin, lòng trung thành giữa con ngƣời với nhau.
Nội dung của nhu cầu này phong phú, tế nhị, phức tạp hơn. Bao gồm các vấn đề tâm lý nhƣ: Đƣợc dƣ luận xã hội thừa nhận, sự gần gũi, thân cận, tán thƣởng, ủng hộ, mong muốn đƣợc hòa nhập, lòng thƣơng, tình yêu, tình bạn, tình thân ái là nội dung cao nhất của nhu cầu này. Lòng thƣơng, tình bạn, tình yêu, tình thân ái là nội dung lý tƣởng mà nhu cầu về quan hệ và đƣợc thừa nhận luôn theo đuổi. Nó thể hiện tầm quan trọng của tình cảm con ngƣời trong quá trình phát triển của nhân loại.
26
Điều này thực sự ý nghĩa đối với trẻ tự kỷ và gia đình trẻ trong hòa nhập cộng đồng. Khẳng định nhu cầu đƣợc thừa nhận, đƣợc yêu thƣơng, đƣợc tạo điều kiện để tham gia tất cả các hoạt động mà những trẻ em cùng trang lứa tham gia nhƣ: đƣợc tạo điều kiện trong học tập, đƣợc vui chơi giải trí, đƣợc nhận những hỗ trợ cần thiết cho phát triển. Nắm bắt và
dựa trên những nội dung của nhu cầu này giúp NVXH làm tốt hơn vai trò biện hộ cho trẻ tự kỷ và gia đình, qua đó hỗ trợ có hiệu quả cho tiến trinh hòa nhập của trẻ tự kỷ và việc tiếp cận các nguồn lực hỗ trợ của gia đình trẻ.
Nhu cầu được tôn trọng
Nội dung của nhu cầu này gồm hai loại: Lòng tự trọng và đƣợc ngƣời
khác tôn trọng.
+ Lòng tự trọng bao gồm nguyện vọng muồn giành đƣợc lòng tin, có năng lực, có bản lĩnh, có thành tích, độc lập, tự tin, tự do, tự trƣởng thành, tự biểu hiện và tự hoàn thiện.
+ Nhu cầu đƣợc ngƣời khác tôn trọng gồm khả năng giành đƣợc uy tín, đƣợc thừa nhận, đƣợc tiếp nhận, có địa vị, có danh dự,… Tôn trọng là đƣợc ngƣời khác coi trọng, ngƣỡng mộ. Khi đƣợc ngƣời khác tôn trọng cá nhân sẽ tìm mọi cách để làm tốt công việc đƣợc giao. Do đó nhu cầu đƣợc tôn trọng là điều không thể thiếu đối với mỗi con ngƣời.
Trẻ tự kỷ cũng nhƣ bao trẻ khác dù sự phát triển ở nhiều lĩnh vực có chậm hơn nhƣng tin rằng lòng tự trọng và nhu cầu đƣợc ngƣời khác tôn trọng luôn hiện hữu cũng với sự lớn lên của tuổi tác. Gia đình trẻ tự kỷ cũng vậy, khi có một thành viên gặp khó khăn về sự phát triển, chậm hơn ở một vài lĩnh vực cũng là điều khiến họ lo lắng, khổ tâm nhƣng có lẽ điều đó sẽ đƣợc xoa dịu đi rất nhiều nếu nhƣ trẻ đƣợc xã hội thừa nhận với đầy đủ sự tôn trọng và yêu thƣơng. Hơn thế, chính việc đƣợc tôn trọng, đƣợc tiếp nhận, đƣợc thừa nhận nhƣ một ngƣời có ích cho xã hội sẽ giúp trẻ tự kỷ tăng nhận thức về vai trò của mình với bản thân và gia đình. Điều này giúp NVXH có định hƣớng rõ ràng trong việc phát huy vai trò là chuyên gia và tác nhân thay đổi bằng việc xây dựng chiến lƣợc hỗ trợ phù hợp.
27
Nhu cầu phát huy bản ngã
Maslow xem đây là nhu cầu cao nhất trong cách phân cấp về nhu cầu của ông. Đó là sự mong muốn để đạt tới, làm cho tiềm năng của một cá nhân đạt tới mức độ tối đa và hoàn thành đƣợc mục tiêu nào đó. Nội dung nhu cầu bao gồm nhu cầu về nhận thức (học hỏi, hiểu biết, nghiên cứu,…) nhu cầu thẩm mỹ (cái đẹp, cái bi, cái hài,…), nhu cầu thực hiện mục đích của mình bằng khả năng của cá nhân.
Nhƣ vậy, đây là nhu cầu mà trẻ tự kỷ mong muốn đƣợc thể hiện mà đúng hơn là cần đạt đƣợc để hƣớng tới sự hòa nhập và phát triển. Nhu cầu này cần đƣợc các nhà chuyên môn trong làm việc với trẻ tự kỷ và gia đình trẻ nắm bắt một cách rõ ràng, thấu đáo để có thể làm tốt vai trò trợ giúp của mình. Với NVXH, đây là cơ sở để vai trò chuyên gia đƣợc thể hiện một cách đầy đủ và khoa học nhất.
Ảnh: Tháp nhu cầu của Maslow
1.2 Một số định nghĩa, khái niệm liên quan đến vấn đề nghiên cứu
1.2.1. Vai trò
Vai trò là những khuôn mẫu ứng xử khác nhau do xã hội áp đặt cho
mỗi chức vị của con ngƣời trong xã hội đó. Thí dụ bố phải thƣơng con,
mẹ phải hiền, chồng phải biết chăm sóc vợ, vợ phải đảm đang, con cái
28
phải nghe lời bố mẹ, trò phải chăm chỉ, thầy phải nghiêm túc…
Có hai loại vai trò khác nhau: vai trò hiện và vai trò ẩn. Vai trò hiện
là vai trò bên ngoài mọi ngƣời đều có thể thấy đƣợc. Vai trò ẩn là vai trò
không biểu lộ ra bên ngoài mà có khi chính ngƣời đóng vai trò đó cũng
không biết. Vì một ngƣời có thể có nhiều vai trò khác nhau, những khuôn
mẫu ứng xử do xã hội áp đặt có thể mâu thuẫn với nhau, tạo ra khó khăn.
Nhân viên công tác xã hội khi tác nghiệp với từng đối tƣợng, từng
vấn đề của đối tƣợng cần xác định đƣợc vai trò của mình trong tiến trình
làm việc với đối tƣợng. Xác định đƣợc vai trò phù hợp sẽ giúp nhân viên
xã hội thực hiện có hiệu quả và cùng với thân chủ giải quyết tốt hơn vấn
đề của họ.
1.2.2. Công tác xã hội
Để trả lời cho câu hỏi vì sao Công tác xã hội lại có vai trò quan trọng
trong việc giúp đỡ trẻ tự kỷ và gia đình có trẻ tự kỷ tiếp cận với các nguồn lực
hỗ trợ trƣớc hết cần tìm hiểu về bản chất của thuật ngữ Công tác xã hội.
Dù có nguồn gốc và lịch sử lâu đời trên thế giới nhƣng ở nƣớc ta
Công tác xã hội vẫn là một nghề, một lĩnh vực khá mới mẻ. Công tác xã
hội hƣớng đến việc cải thiện cuộc sống của những đối tƣợng yếu thế dựa
trên việc khuyến khích khả năng phát huy nội lực của bản thân đối tƣợng.
Công tác xã hội nhƣ là cầu nối để đối tƣợng tìm ra hƣớng giải quyết vấn
đề một cách nhanh chóng và hiệu quả. Trẻ tự kỷ và gia đình có trẻ tự kỷ
là một trong những nhóm đối tƣợng đáng quan tâm của Công tác xã hội.
Có rất nhiều quan niệm về ngành công tác xã hội. Song, đáng chú ý
vẫn là hai khái niệm của Hiệp hội quốc gia nhân viên công tác xã hội Mỹ
(NASW) và của Hiệp hội cán sự công tác xã hội Quốc tế thông qua tháng
7/2000 tại Montreal – Canada (IFSW).
Theo định nghĩa của Hiệp hội quốc gia nhân viên xã hội Mỹ
29
(NASW):
“Công tác xã hội là một chuyên ngành để giúp đỡ cá nhân, nhóm
hoặc cộng đồng tăng cƣờng hay khôi phục việc thực hiện các chức năng
xã hội của họ và tạo những điều kiện thích hợp nhằm đạt đƣợc các mục
tiêu đó”
Định nghĩa của Hiệp hội cán sự công tác xã hội Quốc tế thông qua
tháng 7/2000 tại Montreal – Canada (IFSW) : “ Nghề công tác xã hội
thúc đẩy sự thay đổi xã hội, giải quyết vấn đề trong mối quan hệ của con
ngƣời, tăng năng lực và giải phóng cho ngƣời dân nhằm giúp cho đời
sống của họ ngày càng thoải mái, dễ chịu. Vận dụng các lí thuyết về hành
vi con người và hệ thống xã hội, công tác xã hội tương tác vào những
điểm giữa con người với môi trường của họ. Nhân quyền và công bằng
xã hôi là các nguyên tắc căn bản của nghề”.
1.2.3. Hoạt động trợ giúp
Có nhiều khái niệm khác nhau về hoạt đông trợ giúp. Tuy nhiên, có
thể hiểu hoạt động trợ giúp ở đây là việc cung cấp các dịch vụ phù hợp,
cần thiết cho ngƣời có nhu cầu nhằm đảm bảo quyền và lợi ích của đối
tƣợng góp phần vào giải quyết vấn đề mà đối tƣợng đang gặp phải.
1.2.4. Tự kỷ
Từ thập kỷ 90 đến nay thuật ngữ tự kỷ đƣợc biết đến rộng rãi hơn ở
nƣớc ta. Có rất nhiều những định nghĩa và quan niệm khác nhau về tự kỷ.
Thậm chí tồn tại những quan niệm và đánh giá sai lệch về chứng này. Vì
vậy, để có một cái nhìn sâu rộng và thống nhất hơn về thuật ngữ này cần
xem xét dựa trên những nhận xét, đánh giá của các chuyên gia cả ở trong
và ngoài nƣớc.
Trƣớc hết, tự kỷ hay còn gọi là hội chứng tự kỷ bao gồm một nhóm
30
các chứng rối loạn phát triển bao gồm những khiếm khuyết trong quan hệ
xã hội, khó khăn về giao tiếp đi kèm với các rối loạn hành vi kiểu nhƣ có
mối quan tâm và hoạt động bó hẹp.
“Tự kỷ là một loại khuyết tật phát triển suốt đời được thể hiện
trong vòng 3 năm đầu đời. Tự kỷ là do rối loạn của hệ thần kinh gây ảnh
hưởng đến hoạt động của não bộ. Tự kỷ có thể xảy ra ở bất kỳ cá nhân
nào không phân biệt giới tính, chúng tộc, giàu nghèo và địa vị xã hội. Tự
kỷ được biểu hiện ra ngoài bằng những khiếm khuyết về tương tác xã
hội, khó khăn về giao tiếp ngôn ngữ và phi ngôn ngữ, và hành vi, sở thích và hoạt động mang tính hạn hẹp và lặp đi lặp lại”1
Tác giả Leo Kanner (1943) là ngƣời đầu tiên mô tả hội chứng tự kỷ
ở một nhóm trẻ: Tự kỷ ở trẻ em đƣợc xác định bởi sự xuất hiện những rối
loạn phát triển từ rất sớm trong quá trình xã hội hóa, giao tiếp và hoạt
động tƣởng tƣợng:
Khiếm khuyết về tƣơng tác xã hội
Khiếm khuyết về phát triển ngôn ngữ
Hành vi, thói quen, sở thích định hình
Khó khăn với các trò chơi tƣởng tƣợng
Trong nhiều trƣờng hợp, tự kỷ gây ra những vấn đề nhƣ:
Giao tiếp thành lờ hay không thành lời
Tƣơng tác xã hội với ngƣời khác dƣới dạng va chạm cơ thể
1 Autism is a lifelong developmental disability that manifests itself during the first three years of life. It results from a neurological disorder that affects the functioning of the brain, mostly affecting children and adults in many countries irrespective of gender, race or socio- economic status. It is characterized by impairments in social interaction, problems with verbal and non–verbal communication and restricted, repetitive behaviour, interests and activities.
31
(nắm, húc, đẩy…) và thành lời (nói chuyện)
Các hành vi lặp đi lặp lại theo thói quen, giống nhƣ lặp đi lặp
lại một vài từ ngữ hay hành động, hay tự sắp xếp đồ vật riêng
của mình.
1.2.5. Gia đình có trẻ tự kỷ
Trƣớc hết, ta đề cập đến khái niệm gia đình. Có không ít
những cách hiểu từ nhiều khía cạnh khác nhau của gia đình. Tuy vậy, có
những điểm khái quát về gia đình nhƣ sau:
Gia đình là một đơn vị cơ bản của đời sống nhân loại, gia
đình là một nhóm ngƣời có quan hệ với nhau bởi huyết thống, hôn nhân
hoặc con nuôi. Các thành viên trong gia đình có chung mục tiêu, những
giá trị. Họ có cùng trách nhiệm đối với các quyết đinh và sự ràng buộc
trong suốt cuộc đời.
Gia đình là một hình thức tổ chức đời sống cộng đồng của con
ngƣời, một thiết chế văn hóa xã hội đặc thù, đƣợc hình thành, tồn tại và
phát triển trên cơ sở quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống, quan hệ
nuôi dƣỡng và giáo dục…giữa các thành viên. Gia đình đƣợc xem là một
đơn vị nền tảng cho mọi cộng đồng xã hội và có nhiều hình thức khác
nhau: Gia đình huyết thống, gia đình hạt nhân, gia đình đa thế hệ, gia
đình phụ hệ, gia đình mẫu hệ….
Chính những mối quan hệ ràng buộc nhau giữa các thành viên gia
đình đã khiến cho sự tƣơng tác và ảnh hƣởng lẫn nhau rất mạnh mẽ. Điều
này gây ra những cơ chế không tốt cho các thành viên. Nếu đó là một gia
đình rối nhiễu không ổn định nhƣng ngƣợc lại, điều đó lài có giá trị tích
cực lên từ thành viên, nếu gia đình đó đƣợc tái cấu trúc hay đƣợc trang bị
những kiến thức, kỹ năng để xây dựng các mối tƣơng giao lành mạnh.
Nhƣ vậy, có thể hiểu gia đình có trẻ tự kỷ là một hệ thống đƣợc gắn
kết bởi các thành viên có mối quan hệ ràng buộc với nhau dựa trên cơ sở
32
hôn nhân, huyết thống, quan hệ nuôi dƣỡng và giáo dục. Trong đó, một
hoặc nhiều hơn một thành viên là con em của gia đình mắc phải hội
chứng tự kỷ với những khó khăn ở nhiều lĩnh vực của đời sống. Việc có
thành viên nhƣ vậy, gia đình cũng cùng sống chung với những khó khăn
mà chứng tự kỷ đem lại. Vì gia đình là một hệ thống ràng buộc và có mối
quan hệ tƣơng tác lẫn nhau nên để giúp đỡ trẻ tự kỷ hòa nhập cả hệ thống
đều phải chấp nhận trải qua tất cả những rào cản và những vấn đề phát
sinh từ hội chứng mà trẻ mắc phải.
1.2.6. Nguồn lực và nguồn lực hỗ trợ
Nguồn lực là tổng thể vị trí địa lý, các nguồn tài nguyên thiên
nhiên, hệ thống tài sản quốc gia, nguồn nhân lực, đƣờng lối chính sách,
vốn và thị trƣờng….ở cả trong nƣớc và nƣớc ngoài có thể đƣợc khai thác
nhằm phục vụ cho việc phát triển kinh tế của một lãnh thổ nhất định.
Nguồn lực thay đổi theo không gian và thời gian. Con ngƣời có thể làm
thay đổi nguồn lực theo hƣớng có lợi cho mình.
Nhƣ vậy có thể hiểu, nguồn lực hỗ trợ ở đây chính là tất cả những điều
kiện về vị trí địa lý, nguồn thông tin, các dịch cụ chẩn đoán, các hình
thức can thiệp, đƣờng lối, chính sách, vốn và môi trƣờng hỗ trợ cho việc
giải quyết những nhu cầu nào đó của chủ thể.
Đó là chính là những điều kiện cần thiết đáp ứng những yêu cầu của quá
trình can thiệp, hay nói cách khác, những nguồn lực hỗ trợ thiết yếu
chính là những nhu cầu, nguyện vọng và mong muốn chính đáng của
những gia đình có trẻ tự kỷ mà do những nguyên nhân nào đó họ chƣa
33
thể tiếp cận hoặc chƣa đạt đƣợc. Ví nhƣ:
34
Ảnh 2.1: thông tin từ sách báo
Ảnh 2.2: thông tin từ các buổi hội thảo
35
Ảnh 3.1: Dịch vụ chuẩn đoán 1
Ảnh 3.2: Dịch vụ chẩn đoán 2
36
Ảnh 4.1: Hỗ trợ vận động
Ảnh 4.2: Can thiệp ngôn ngữ
37
Ảnh 4.3: Các hình thức can thiệp nhóm
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ TIẾP CẬN CÁC NGUỒN LỰC
HỖ TRỢ CỦA GIA ĐÌNH CÓ TRẺ TỰ KỶ
2.1. Vài nét về địa bàn nghiên cứu
Không phải ngẫu nhiên mà ngƣời viết lựa chọn huyện Văn Giang –
Hƣng Yên là địa bàn nghiên cứu sâu. Bởi lẽ, Văn Giang là huyện nông
nghiệp nằm ở phía Tây Bắc Hƣng Yên, giáp ranh với Hà Nội. Ngƣời dân
ở địa bàn này chủ yếu làm nông nghiệp và có thu nhập thêm từ việc duy
trì một số làng nghề. Tuy hiện tại các dịch vụ phục vụ ngƣời dân đƣợc
chú trọng và đời sống của họ đƣợc cải thiện hơn nhƣng những vấn đề
phát sinh xung quanh cuộc sống của ngƣời dân huyện Văn Giang vẫn là
một bài toán khó. Một trong số những vấn đề đó là việc ngày càng phát
hiện thêm nhiều trẻ có nhu cầu đặc biệt, số lƣợng trẻ tự kỷ cũng chiếm tỷ
lệ không nhỏ tại địa phƣơng. Chính vì vậy, nhu cầu đƣợc can thiệp, hỗ
trợ của những gia đình có trẻ tự kỷ càng trở nên bức thiết. Trong khi đó,
có một thực tế là tại huyện Văn Giang, những cơ sở công lập với chức
năng hỗ trợ trẻ khuyết tật lại chƣa có hình thức hỗ trợ riêng cho trẻ tự kỷ,
hơn nữa tại địa phƣơng lực lƣợng giáo viên có chuyên môn về lĩnh vực
chăm sóc, hỗ trợ trẻ tự kỷ còn rất hạn chế: “chị có nhờ giáo viên ở Hà
Nội về dạy với mức học phí cao nhưng do đi xa quá nên số buổi can thiệp
rất ít, bây giờ thì cô không dạy cháu được nữa vì cô đã nhận học sinh ở
Hà Nội rồi” (trƣờng hợp PV sâu số 16). Từ những bất lợi đó, gia đình có
trẻ tự kỷ tại Văn Giang phải đƣa con đến các cơ sở tƣ nhân tại Hà Nội để
can thiệp với mức chi phí rất cao và quãng đƣờng di chuyển khá dài.
Điều này còn ảnh hƣởng đến cả sức khỏe của trẻ và kéo theo đó là hạn
chế hiệu quả của việc can thiệp : “Chị thuê nhà cho cháu đi học ở Hà
Nội 3 tháng thì cháu ốm mất hơn 1 tháng” (Trƣờng hợp PV sâu số 10).
Mặt khác với mức thu nhập không ổn định của những gia đình có con là
38
trẻ tự kỷ tại Văn Giang thì việc khắc phục đƣợc những khó khăn trên quả
là quá sức với họ. Cần một sự hỗ trợ tích cực và có hiệu quả để những
gia đình có trẻ tự kỷ tại địa bàn này giải quyết những khó khăn họ đang
gặp phải.
Ảnh 2: Bản đồ huyện Văn Giang – Hưng Yên
Qua việc trải nghiệm khoảng cách từ huyện Văn Giang – Hƣng
Yên đến các cơ sở can thiệp trẻ tự kỷ tại Hà Nội thấy rằng để trẻ tự kỷ có
thể tham gia các lớp học chuyên biệt ngoài khó khăn về kinh phí can
thiệp, sức khỏe của trẻ, gia đình phải đối mặt với việc phải cùng con di
chuyển với quãng đƣờng quá dài. Điều này không những làm tăng chi
phí cho quá trình can thiệp mà còn ảnh hƣởng đến sức khỏe và sự an toàn
của cả trẻ lẫn ngƣời đi cùng với trẻ. Nếu không chọn phƣơng án di
chuyển hàng ngày thì phụ huynh có trẻ tự kỷ phải tìm cách thuê trọ gần
cơ sở can thiệp. Tuy nhiên không phải gia đình nào cũng có điều kiện để
39
duy trì hình thức này lâu dài. “Trước đây, chị cho cháu theo học một trung
cách nhà 30 km, học phí mỗi tháng là 8 triệu và phải mất một người nghỉ làm
để đưa cháu đi học. Kinh tế phụ thuộc vào mức lương công nhân của bố cháu
thì không đủ nên cố gắng lắm chị cũng chỉ cho cháu học 1 tháng rồi lại nghỉ
đến bây giờ” (trƣờng hợp PV sâu số 12)
2.2 Trẻ tự kỷ và những khó khăn của gia đình có trẻ tự kỷ
Chứng tự kỷ là một dạng rối loạn phát triển ảnh hƣởng đến các kỹ
năng giao tiếp và xã hội. Tự kỷ thƣờng kèm với mất khả năng về học tập,
ngôn ngữ, tƣơng tác xã hội. Vì vậy, hầu hết các trẻ đều bị hạn chế khả
năng tự chăm sóc và sinh hoạt trong cuộc sống hàng ngày. Điều này đồng
nghĩa với việc những gia đình có trẻ tự kỷ sẽ phải đối mặt với nhiều khó
khăn: Kinh phí can thiệp, thăm khám, chẩn đoán; mâu thuẫn gia đình; sự
thiếu chia sẻ từ phía láng giềng thậm chí cả ngƣời thân trong gia đình; áp
lực tinh thần đặc biệt với ngƣời mẹ và vô số những hạn chế, khó khăn
khác phát sinh trong cuộc sống hàng ngày.
2.2.1. Hầu hết các gia đình đều phải trải qua giai đoạn “sốc” tinh
thần khi con có chẩn đoán tự kỷ.
Gia đình nào khi sinh con cũng đều mong muốn con cái mình
thông minh, khỏe mạnh. Với mỗi bậc cha mẹ, khi con đau ốm hay có vấn
đề gì đó với sức khỏe cũng là một sự lo lắng. Việc con mình mắc hội
chứng tự kỷ là một điều khó có thể chấp nhận với họ. Đặc biệt khi họ biết
thế nào là tự kỷ.
“Khi đưa V đi khám, biết V mắc tự kỷ chị hoàn toàn suy sụp. Sau
đó, chị phải mất 6 tháng rơi vào trạng thái trầm cảm, chị không biết phải
trách ai bây giờ (khóc)” (trƣờng hợp PV sâu số 2)
“Nhà bà có mỗi bố M là con trai, khi sinh M ra cả họ nhà bà vui
mừng, lúc bé cháu nhanh nhảu, kháu khỉnh lắm nhưng cứ chậm dần, gia
đình bà phát hiện cho cháu đi khám thì được biết là cháu mắc tự kỷ, cả
40
nhà không thể tin nổi vào việc đó”( trƣờng hợp PV sâu số 5)
“Mười tháng H rất nhanh nhảu, cháu đã biết bắt chước các hành
động của mọi người, biết vỗ tay nhưng mãi vẫn không thấy nói. Ai cũng
bảo chậm nói giống bố ngày xưa. Sau khi đưa cháu đi khám về chị tưởng
như mọi thứ sụp đổ” (trƣờng hợp PV sâu số 14)
“T là con đầu lòng của chị. Khi sinh T vì không nhờ được ai trông
cháu nên chị quyết định nghỉ việc để ở nhà chăm con đến nay 3 năm rồi.
3 tuổi T không nói được nên chị đưa T đi khám và biết cháu mắc chứng
tự kỷ. Chắc là tại chị không chịu nói chuyện gì với con mà chỉ cho con
xem ti vi thôi phải không em (khóc)” (trƣờng hợp PV sâu số 9)
Theo quan sát và qua quá tình làm việc tại các gia đình, NVXH
nhận thấy rất nhiều gia đình khi biết con mắc chứng tự kỷ ngƣời đau khổ
và tuyệt vọng nhất là ngƣời mẹ. Bởi lẽ họ biết những gì mà tiếp sau đó
họ phải đối mặt là không hề dễ dàng. Phần lớn các trƣờng hợp khi đƣợc
hỏi về cảm giác của mình khi biết con có hội chứng tự kỷ đều có chung
trạng thái tinh thần đó là đau khổ, tuyệt vọng, mất phƣơng hƣớng. Điều
mà họ cần nhất chính là sự an ủi, sẻ chia và thông cảm từ các thành viên
khác, các hệ thống khác xung quanh.
2.2.2. Thiếu thông tin khiến các gia đình không có định hướng,
lúng túng trong việc tìm biện pháp can thiệp cho trẻ, hoặc đổ lỗi cho
người khác.
Nếu nhƣ trẻ mắc chứng tự kỷ không phải là thành viên trong gia
đình có lẽ với các gia đình thuật ngữ tự kỷ vẫn còn ít đƣợc biết đến. Số
đông các gia đình đƣợc phỏng vấn cho thấy việc thiếu hụt thông tin, lúng
túng không biết nên làm điều gì cho trẻ và phải bắt đầu nhƣ thế nào.
“Chị đọc rất nhiều sách và mua rất nhiều thứ để về dạy con nhưng
chị không dạy được cháu, không có chuyên môn chị cũng chẳng biết phải
41
bắt đầu như thế nào” (Trƣờng hợp PV sâu số 16)
Thậm chí, nhiều gia đình đánh mất rất nhiều thời gian của trẻ chỉ
để tìm địa điểm can thiệp.
“Nhà bà phát hiện ra tình trạng của M từ khi cháu 18 tháng. Sau
đó bà cho đi can thiệp ngay nhưng can thiệp hơn 1 năm mà không có tiến
triển, nhà bà lại tìm nơi khác cho M can thiệp, bà còn cho cháu đi Hải
Phòng thở ôxy cao áp, làm lễ và cầu xin khắp nơi rồi” (Trƣờng hợp PV
sâu số 5)
“Nhà chị lương công nhân nhưng bác sĩ kê đơn thuốc 2 loại mà
mua hơn 2 triệu chị cũng cố gắng mua về cho con uống, không biết có
khá hơn không” (Trƣờng hợp PV sâu số 2 )
Lẽ thƣờng thấy, khi một đứa trẻ có vấn đề về sức khỏe, kém ăn hay
chƣa nghe lời thì khi quy kết trách nhiệm ngƣời mẹ bao giờ cũng phải
chịu trách nhiệm nhiều hơn vì “Con hư tại mẹ”. Ở đây, ngƣời mẹ trong
gia đình có trẻ tự kỷ cũng phải đối mặt với việc bị đổ lỗi.
“Mẹ nó không biết dạy con, suốt ngày chỉ ở nhà có làm gì đâu
nhưng không bao giờ chịu dạy con cái gì cả” (trƣờng hợp PV sâu số 26)
“Mẹ thì suốt ngày chỉ có dọn dẹp rồi để con xem ti vi quá nhiều,
bây giờ con chẳng biết thứ gì chỉ dán mắt vào cái ti vi” (trƣờng hợp PV
sâu số 22)
Nếu lỗi không ở mẹ thì là lỗi của ngƣời giúp việc:
“Chị sai lầm khi suốt một năm trời giao con cho bà giúp việc, bà
cứ dọn dẹp rồi bật ti vi cho cháu ngồi xem suốt ngày nên đến bây giờ
cháu không nói được gì và cũng chẳng biết giao tiếp gì với mọi người
xung quanh” (trƣờng hợp PV sâu số 13)
2.2.3. Khó khăn với trẻ và gia đình không chỉ là sự khó nhọc về thể
42
xác
Những ngƣời là ông, bà, bố mẹ và những ngƣời thân khác không
chỉ cảm thấy mệt mỏi khi liên tục phải để mắt, phục vụ con cháu mình
trong mọi sinh hoạt mà còn phải đối mặt với nỗi đau về tinh thần rất lớn.
Khi NVXH tiến hành phỏng vấn một số ông bà tại các gia đình đều thấy
có một điểm chung là không chỉ bố mẹ mà cả các ông bà của trẻ dù tuổi
cao nhƣng cũng cố gắng giúp trẻ nhiều nhất có thể theo cách riêng của
họ, những chia sẻ của họ thể hiện sự kỳ vọng lớn lao cho việc tiên bộ của
con cháu mình.
“11 tuổi đầu mà ngay cả việc đi vệ sinh ông bà cũng phải rửa cho.
Không biết bao giờ cháu mới có thể lấy cho ông bà cái tăm hay chỉ là
biết đi vệ sinh đúng chỗ. Bằng tuổi này cháu nhà người ta làm được
nhiều việc lắm rồi” (trƣờng hợp PV sâu số 14)
Đôi khi, chỉ một động thái thiếu thông cảm và kỳ thị của hàng xóm
láng giềng, của các hệ thống hỗ trợ khác lại khiến cho gia đình thêm mặc
cảm và bế tắc.
“Chị thấy Đ thích chơi với 2 bé hàng xóm, chị có sang nói chuyện
và kể thật về tình hình của Đ với mong muốn chị ấy tạo điều kiện cho hai
bé sang chơi với Đ nhiều hơn để cháu cải thiện giao tiếp nhưng từ sau
hôm đó 2 bé hàng xóm cũng bị cấm cửa sang nhà chị luôn” (trƣờng hợp
PV sâu số 18)
“Hàng xóm cứ bảo thằng bé bị thần kinh và không cho con cháu
chơi cùng vì sợ lây. Ông thấy tội thằng bé lắm mà chẳng biết làm thế
nào” (trƣờng hợp PV sâu số 10)
“Nhà trường nói không thể nhận T vì sợ ảnh hưởng đến các bạn
khác, các cô cũng không thể trông nổi vì trong lớp cháu cứ chạy lung
tung” (Trƣờng hợp PV sâu số 10)
Sự khổ tâm sẽ là vô tận khi trẻ trở về nhà cùng với những vết
43
thƣơng trên cơ thể:
“Hôm đó về bà tắm cho cháu thấy cả hình bàn tay in trên lưng
cháu mà khi bà đến đón cháu không thấy các cô có ý kiến gì. Gia đình
đến trường mầm non hỏi thì cô phụ trách lớp cháu chỉ xin lỗi và cho biết
cô phạt cháu vì buổi trưa cháu không chịu ngủ. Trước đây thấy cháu có
nhiều vết thâm ở chân và tay bà cũng nghi ngờ nhưng chưa dám hỏi các
cô” (trƣờng hợp PV sâu số 30)
“Nó có biết gì đâu, nó chẳng nói được nên về chỉ thấy khóc và hôm
sau sợ không muốn đi lớp, lấy ba lô là khóc. Đến lớp mới có bạn kể lại là
hôm qua cháu bị cô phạt vì không chịu ngủ trưa” (trƣờng hợp PV sâu số
17)
2.2.4. Gánh nặng kinh tế đè nặng lên vai những gia đình khó khăn
khi nhà nước chưa có sự hỗ trợ nào thích đáng cho những gia đình có trẻ
tự kỷ.
Nhƣ đã biết, tự kỷ không đƣợc xếp vào một dạng bệnh, cũng chƣa
đƣợc coi là một dạng khuyết tật nên chƣa có văn bản chính thức nào quy
định việc trợ cấp cho trẻ tự kỷ. Vì vậy, các gia đình có trẻ tự kỷ vẫn phải
tự xoay xở trong tất cả mọi nguồn từ kinh phí can thiệp đến hƣớng can
thiệp cho con em mình. Hơn thế, việc can thiệp chuyên biệt cho trẻ tự kỷ
mới chỉ tập trung ở các trung tâm chuyên biệt của tƣ nhân và với mức phí
can thiệp rất cao, không phải gia đình nào cũng có khả năng đáp ứng
đƣợc, đặc biệt với những gia đình ở xa trung tâm và kinh tế khó khăn.
“Có lẽ tháng sau chị phải cho con nghỉ học một thời gian vì thực
sự lương công nhân của chị không đủ để vừa đóng học phí ở trường mầm
non cho con vừa đi học chuyên biệt. Chị thương con lắm nhưng không
biết làm thế nào” (trƣờng hợp PV sâu số 28)
“Nói thật với em là năm nay chồng chị làm ăn thua lỗ, chị thì cứ
44
ốm đau đi viện suốt, anh của V đi học tốn kém nữa nên mặc dù muốn chị
cũng chưa thể có điều kiện cho V đi học chuyên biệt được” (trƣờng hợp
PV sâu số 2)
Không ít gia đình có mong muốn nhận đƣợc sự hỗ trợ nào đó từ cơ
quan nhà nƣớc nên đã thử làm hồ sơ xin trợ cấp hàng tháng cho tình
trạng của con nhƣng câu trả lời nhận đƣợc vẫn là chƣa có văn bản chính
thức nào quy định trẻ tự kỷ đƣợc hƣởng trợ cấp hàng tháng nên việc trợ
cấp cho trẻ tự kỷ vẫn còn khá xa vời với các gia đình khó khăn.
“Chị đi hỏi nhiều cấp rồi nhưng câu trả lời nhận được là như
nhau. Vô ích thôi. Không biết bao giờ các cháu mới được hưởng cái
quyền mà đáng ra chúng nó phải được hưởng?”(trƣờng hợp PV sâu số
2)
2.2.5. Nhiều gia đình ở xa trung tâm quá gian nan trong việc đưa
con đến các cơ sở can thiệp
Ngoài những khó khăn về kinh phí, chính sách thì khoảng cách di
chuyển để đến những cơ sở can thiệp cho trẻ cũng là vấn đề lớn với
những gia đình có trẻ tự kỷ, điều này không chỉ ảnh hƣởng đến công
việc, thời gian của cha mẹ mà còn đến cả sức khỏe của gia đình và của
trẻ.
“Nhà chị cách Hà Nội hơn 30 km. Mỗi lần đưa con đi học là cả
một sự cố gắng lớn. Có hôm phải gọi con dậy từ sớm để sang Hà Nội học
1 giờ đến tận 12 giờ trưa hai mẹ con lại mới về đến nhà” (trƣờng hợp PV
sâu số 10)
“Nhà chị ai cũng đi làm, muốn đưa con đi học thì lại phải nghỉ làm
nhưng không thể nghỉ nhiều được trừ khi chị phải xin nghỉ hẳn. Gia đình
chị cũng muốn nhờ giáo viên về nhà can thiệp cho cháu nhưng do nhà
mình ở xa trung tâm quá nên chị chưa tìm được giáo viên”(trƣờng hợp
45
PV sâu số 27)
“Chị đã thuê nhà cho cháu ở gần trung tâm cho cháu học, đóng
học phí cả tháng cho cháu nhưng học được nửa tháng cháu ốm quá chị
lại phải cho cháu về ” (trƣờng hợp PV sâu số 16)
2.2.6. Thời gian cho quá trình can thiệp của trẻ là không giới hạn
Theo các nhà chuyên môn thì việc can thiệp cho trẻ tự kỷ cần thực
hiện liên tục và thời gian can thiệp tùy thuộc vào tình trạng của mỗi trẻ.
Những trẻ đƣợc phát hiện sớm và ở mức độ nhẹ thì chỉ 1,2 năm các cháu
đã có thể đi học hòa nhập và đƣợc theo dõi, tác động thêm tại gia đình
còn những trẻ phát hiện muộn hoặc mức độ nặng thì thời gian can thiệp
sẽ dài hơn và dƣờng nhƣ không có giới hạn định trƣớc.
“Nhà bà phát hiện và cho M đi can thiệp từ khi M 18 tháng. Bây
giờ M 5 tuổi rồi nhưng chưa biết đến bao giờ mới được tốt nghiệp, bà
xác định là M sẽ phải học suốt đời rồi” (Trƣờng hợp PV sâu số 5)
“D nhà chị năm nay 12 tuổi, cháu đã đi can thiệp nhiều nơi từ lúc
2 tuổi với nhiều phương pháp ý học kết hợp giáo dục chuyên biệt. Chị sẽ
cho cháu can thiệp nhiều năm nữa đến bao giờ chị không đủ khả năng
nữa thì thôi” (trƣờng hợp PV sâu số 1)
Nhƣ vậy, những khó khăn của những gia đình có trẻ tự kỷ xuất hiện
ở nhiều mặt đời sống chứ không chỉ riêng một lĩnh vực nào. Thiết nghĩ,
việc có một nơi để họ trao niềm tin và cùng gia đình nỗ lực vì sự tiến bộ
của trẻ là điều hết sức cần thiết và có ý nghĩa. Tạo nên điều ý nghĩa này
là một trong những chức năng và sứ mệnh cao cả của ngành Công tác xã
hội.
2.3. Thực trạng chăm sóc trẻ tự kỷ và các mô hình hỗ trợ trẻ tự kỷ
Hội chứng tự kỷ bao gồm một nhóm các chứng rối loạn phát triển
bao gồm những khiếm khuyết trong quan hệ xã hội, khó khăn về giao
46
tiếp đi kèm với các rối loạn hành vi và rối loạn các kỹ năng phát triển
nhƣ tự chăm sóc, ngôn ngữ, giao tiếp ứng xử, quan hệ xã hội, hành vi,
cảm xúc, trí tuệ.
Trong khi tự kỷ đã trở thành một vấn đề mang tính xã hội và đƣợc
phổ biến ở nhiều nƣớc trên thế giới, đặc biệt là ở các nƣớc phƣơng Tây
nhƣ Anh, Mỹ, Australia... thì ở Việt Nam, đây vẫn là một lĩnh vực hết
sức mới mẻ và chƣa có nhiều công trình nghiên cứu. Các chính sách về
hỗ trợ và phúc lợi xã hội cho trẻ tự kỷ đã đƣợc cải thiện song vẫn còn hạn
chế. Số trẻ tự kỷ đƣợc hƣởng các loại hình dịch vụ và giáo dục đặc biệt
chƣa nhiều, nếu có thì cũng chỉ tập trung ở các thành phố lớn nhƣ Hà Nội
Cơ sở BTXH
Tổng số
Cơ sở BTXH
tổng hợp
đối tƣợng
STT
Tỉnh/thành phố
chuyên biệt
(Ngƣời)
Tổng số
35
7269
22
Miền núi Đông bắc
I
3
466
3
Miền núi Tây Bắc
II
2
80
1
Đồng bằng sông Hồng
III
5
1663
2
Bắc Trung Bộ
IV
3
857
6
Duyên hải miền Trung
V
3
767
3
Tây Nguyên
VI
5
841
3
VII
Đông Nam Bộ
10
1973
2
Đồng bằng Sông Cửu
3
VIII
622
2
Long
hay Thành phố Hồ Chí Minh.
Bảng 1.2: Hiện trạng mạng lưới các cơ sở bảo trợ xã hội chăm sóc người
khuyết tật
Nếu nhƣ trƣớc đây hình thức chăm sóc chủ yếu của trẻ tự kỷ ở Việt
Nam chủ yếu trên phƣơng diện y tế thì những năm trở lại đây hình thức
47
giáo dục đặc biệt cho trẻ tự kỷ đƣợc quan tâm hơn. Ngay tại Hà Nội một
số trung tâm chăm sóc và giáo dục trẻ khuyết tật trong đó có trẻ tự kỷ
đƣợc thành lập. Tuy nhiên nếu nhìn nhận về thực trạng số trẻ bị tự kỷ
hiện nay thì mới chỉ đáp ứng một phần rất nhỏ. Những hình thức tổ chức
mà cộng đồng cùng chung tay vì trẻ tự kỷ nhƣ Câu lạc bộ gia đình trẻ tự
kỷ tại Trung tâm đào tạo và phát triển Giáo dục đặc biệt (ĐHSP Hà Nội)
hay Hội cha mẹ trẻ tự kỷ Thành phố Hà Nội đã mang đến những lợi ích
thiết thực trong công tác chăm sóc và giáo dục trẻ tự kỷ. Từ chỗ nhiều
bậc phụ huynh không biết phải làm gì với căn bệnh mà con mình mắc
phải họ đã biết cùng nhau chia sẻ và học tập kinh nghiệm. Hiện nay có
nhiều phƣơng pháp điều trị và can thiệp dành cho trẻ tự kỷ, trong đó can
thiệp giáo dục đƣợc coi là hƣớng can thiệp hiệu quả nhất ở Việt Nam và
trên thế giới. Điều quan trọng trong giáo dục trẻ tự kỷ đó là sự kiên trì kết
hợp với lòng yêu thƣơng, tinh thần trách nhiệm và trình độ chuyên môn.
Hiện nay, mô hình can thiệp sớm tại trung tâm và tại trƣờng mầm
non hòa nhập là phổ biến hơn. Ngoài các trƣờng, trung tâm dƣới sự quản
lý của Nhà nƣớc, nhằm đáp ứng nhu cầu thực tiễn của gia đình và các trẻ
tự kỷ, các trung tâm, trƣờng tƣ thục đƣợc thành lập ngày một nhiều, nhất
là ở các thành phố lớn nhƣ Hà Nội hay thành phố Hồ Chí Minh. Tuy
nhiên, hầu nhƣ các mô hình can thiệp sớm này mới chỉ đáp ứng đƣợc nhu
cầu cho trẻ tự kỷ và gia đình ở các thành phố, tỉnh thành lớn. Nhiều tỉnh
thành xa chƣa có trƣờng, trung tâm riêng, do đó chất lƣợng chăm sóc,
giáo dục và can thiệp cho trẻ tự kỷ hiện nay ở Việt Nam chƣa đồng đều.
Đây cũng là thực trạng và là thách thức chung của Việt Nam hiện nay.
Bên cạnh đó, các cơ sở bảo trợ xã hội chăm sóc, phục hồi chức
năng cho trẻ tự kỷ hiện đang rất thiếu về số lƣợng và yếu về chất lƣợng;
quy trình chăm sóc và phục hồi chức năng chƣa mở; thiếu kỹ năng và
phƣơng pháp chăm sóc khoa học; cơ sở vật chất bị xuống cấp, thiếu các
48
trang thiết bị phục hồi chức năng; cán bộ, nhân viên công tác xã hội làm
việc tại cộng đồng và trong các cơ sở chăm sóc trẻ tự kỷ còn thiếu về số
lƣợng, chƣa đƣợc đào tạo về công tác xã hội trong lĩnh vực chăm sóc trẻ
tự kỷ; chƣa có dịch vụ công tác xã hội trong chăm sóc và phục hồi chức
năng. Do đó cần đổi mới lĩnh vực chăm sóc, phục hồi chức năng cho trẻ
tự kỷ theo hƣớng phát triển các dịch vụ công tác xã hội, trợ giúp xã hội
kết hợp với điều trị y tế và can thiệp giáo dục, tâm lý để hỗ trợ cho trẻ Tự
kỷ phát triển và hòa nhập.
Mặt khác, các cơ sở giáo dục chuyên biệt công lập còn rất hạn chế.
Vì vậy, để trẻ đƣợc hƣởng các dịch vụ hỗ trợ đặc biệt gia đình trẻ phải
chấp nhận mức phí can thiệp rất cao: 4.000.000 đồng – 10.000 000
đồng/tháng đối với trẻ học bán trú tại cơ sở, từ 150.000 – 250.000 đồng/
giờ đối với trẻ có giáo viên can thiệp tại nhà. Mạng lƣới các mô hình can
thiệp tƣ nhân cho trẻ tự kỷ đƣợc thành lập và phát triển khá đa dạng, nhất
là tại các thành phố lớn nhƣ Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Tại các
thành phố này, các câu lạc bộ, hội, nhóm gia đình có con em là trẻ tự kỷ
đƣợc thành lập theo nguyện vọng và nhu cầu của các gia đình. Đây là cầu
nối để các phụ huynh có cùng mối quan tâm chia sẻ kiến thức, kinh
nghiệm trong việc can thiệp hỗ trợ trẻ tự kỷ. Tuy vậy, không phải phụ
huynh có con tự kỷ nào cũng có điều kiện để tham gia bởi những phụ
huynh ở các địa phƣơng xa trung tâm dù muốn cũng không thể tham gia
sinh hoạt đều đặn và thƣờng xuyên đƣợc. Tại địa bàn nghiên cứu cũng
chƣa có đƣợc một mô hình nào để phụ huynh có thể tham gia: “chị cũng
muốn có một nơi để tham gia và học hỏi nhưng ở đây chưa có mô hình
nào cả, các chị đều phải tự mày mò tìm hiểu tài liệu can thiệp và nhờ
người mua đồ dùng can thiệp cho con ”( trƣờng hợp PV sâu số 15)
Thực tế cho thấy, những nơi thăm khám và chẩn đoán tự kỷ chỉ có
ở những thành phố lớn nhƣ Hà Nội, Đà Nẵng, thành phố Hồ Chí Minh và
49
tập trung hầu hết ở các bệnh viện Nhi, còn ở những vùng xa trung tâm
hơn nhƣ địa bàn huyện Văn Giang và những địa phƣơng lân cận thì chƣa
hề có cơ sở thăm khám và chẩn đoán nào. Trong khi đó, tại các thành phố
lớn để đƣợc thăm khám, thời gian mà các gia đình phải đợi không hề
ngắn. Sau khi đƣợc thăm khám và chẩn đoán hội chứng, các trẻ sẽ đƣợc
chọn lọc và sắp xếp thời gian bắt đầu can thiệp. Thời gian can thiệp cho
trẻ đƣợc chia làm nhiều đợt, mỗi đợt chỉ vài tuần và thời gian trống giữa
các đợt cũng khiến phụ huynh lo ngại bởi tính hiệu quả của việc can
thiệp phụ thuộc vào độ liên tục của quá trình.
“Khi đi khám và đăng ký can thiệp ở bệnh viện Nhi Trung Ương vì
nhà xa chị phải thuê nhà gần bệnh viện để hằng ngày đưa cháu đến can
thiệp nhưng mỗi lần can thiệp chỉ có 2 đến 3 tuần sau đó lại phải đợi vài
tuần mới đến đợt can thiệp tiếp theo” (trƣờng hợp PV sâu số 19)
Điều này dễ nhận thấy sự bất cập và thiếu khả quan bởi lẽ quá trình
can thiệp cho trẻ tự kỷ để đạt hiệu quả cần một quá trình thƣờng xuyên
và liên tục. Sự ngắt quãng giữa chừng sẽ khiến trẻ chậm tiến và giảm đi
hiệu quả của việc can thiệp, gây tốn kém và mệt mỏi cho cả gia đình và
50
bản thân trẻ.
Chƣơng 3: VAI TRÒ CỦA NHÂN VIÊN CÔNG TÁC XÃ HỘI VỚI
VIỆC TIẾP CẬN CÁC NGUỒN LỰC HỖ TRỢ CỦA GIA ĐÌNH CÓ
TRẺ TỰ KỶ
3.1 Khẳng định vai trò của nhân viên CTXH trong nỗ lực trợ giúp gia
đình trẻ tự kỷ tiếp cận với các nguồn lực hỗ trợ
Qua quá trình nghiên cứu cùng với thời gian làm việc với trẻ tự kỷ
tại gia đình và với những gia đình có trẻ tự kỷ, ngƣời viết ý thức đƣợc vai
trò của mình với tƣ cách là nhân viên CTXH trong việc hỗ trợ gia đình có
trẻ tự kỷ rất quan trọng và sự có mặt của nhân viên CTXH trong nỗ lực
chung hỗ trợ trẻ tự kỷ và gia đình trẻ là thực sự cần thiết. Khi tác nghiệp,
nhân viên CTXH không chỉ là chuyên gia can thiệp trực tiếp cho trẻ,
hƣớng dẫn gia đình trong chăm sóc và giáo dục trẻ mà còn là ngƣời đồng
hành thân thiết của gia đình trẻ. Với việc xác định đƣợc những khó khăn,
thiệt thòi của trẻ, NVXH có thêm nhiều thông tin rõ ràng hơn về những
rào cản mà trẻ và gia đình gặp phải trong việc hòa nhập của trẻ để từ đó
có định hƣớng đúng đắn, hiệu quả cho tiến trình hỗ trợ. Dựa vào những
phân tích về những khó khăn, vấn đề trẻ tự kỷ và gia đình gặp phải, thêm
vào đó là những kết quả đạt đƣợc của quá trình nghiên cứu cho thấy việc
trợ giúp trẻ tự kỷ và gia đình trẻ không phải chỉ có những nhà hoạch định
chính sách, nhà giáo dục đặc biệt mà nhân viên CTXH cũng có đóng góp
không hề nhỏ cho nỗ lực chung này.
Khi các ngành có liên quan: y học, giáo dục có những hỗ trợ theo
đúng chức năng của ngành nhƣng chƣa kịp thời và chƣa đáp ứng đƣợc
nhu cầu của đối tƣợng thì NVXH với kiến thức, kỹ năng và chức năng
của ngành mình cũng có thể cung cấp đƣợc những dịch vụ và sự hỗ trợ
51
hiệu quả, đúng lúc cho những nhu cầu và mong đợi của họ dựa trên sự
tìm hiểu và nắm bắt đƣợc chính xác tất cả những thông tin có liên quan
đến đối tƣợng và nhu cầu của họ.
Việc trợ giúp gia đình có trẻ tự kỷ tiếp cận với các nguồn lực hỗ trợ
chính là sự kết nối giữa nhu cầu của đối tƣợng với những điều kiện thuận
lợi đáp ứng đƣợc nhu cầu và giải quyết đƣợc những khó khăn mà họ
đang phải đối mặt. Có thể khẳng định rằng trong nỗ lực này NVXH cũng
chính là một nguồn lực hỗ trợ quan trọng và có ý nghĩa tiên quyết trong
toàn bộ tiến trình.
3.2. Vai trò của NVXH với việc tiếp cận các nguồn lực của gia đình có
trẻ tự kỷ
Trƣớc hết, phải khẳng định rằng với đối tƣợng là trẻ em nói chung
và trẻ tự kỷ nói riêng thì ngành CTXH có một sự gắn bó mật thiết và vai
trò hết sức quan trọng. Nhân viên CTXH không chỉ bằng kỹ năng, nghiệp
vụ của ngành CTXH mà còn linh hoạt sử dụng kinh nghiệm và kiến thức
của ngành giáo dục đặc biệt trong nỗ lực trợ giúp các gia đình có trẻ tự
kỷ tiếp cận với các nguồn lực hỗ trợ. Và sự nỗ lực không chỉ dừng lại ở
đó, Nhân viên CTXH đã thực sự trở thành cầu nối hữu ích khi xây dựng
và triển khai đƣợc mô hình lớp học hỗ trợ hoà nhập dành cho trẻ tự kỷ
nói riêng và trẻ em có nhu cầu đặc biệt nói chung đáp ứng đƣợc phần lớn
nhu cầu của những gia đình có trẻ tự kỷ ở địa bàn xa trung tâm nhƣ: Văn
Giang và những địa phƣơng lân cận khu vực này.
3.2.1 Chuyên gia
Với vai trò này, nhân viên CTXH bằng kỹ năng nghề CTXH kết
hợp những kinh nghiệm, kiến thức của ngành giáo dục đặc biệt giúp đánh
giá tình trạng, mức độ của trẻ tự kỷ ngay tại gia đình. Từ đó, đề xuất
chƣơng trình, kế hoạch can thiệp phù hợp cho trẻ. Ngoài ra, NVXH làm
việc với gia đình trẻ và giúp gia đình trẻ tự lập kế hoạch can thiệp tại nhà
52
bằng việc đề ra mục tiêu vừa sức với trẻ theo từng giai đoạn. Quá trình
can thiệp cho trẻ cần liên tục và giữ đƣợc mối liên hệ, trao đổi qua lại
giữa chuyên gia và gia đình để có sự phản hồi đúng lúc, thiết thực.
Kết quả phỏng vấn sâu cho thấy hầu hết các gia đình chƣa lƣợng
giá đƣợc rõ ràng tình trạng thực tế của trẻ nên
3.2.2 Nhà tham vấn
Dựa trên kinh nghiệm và sự tích lũy kiến thức trong suốt quá trình
làm việc với trẻ tự kỷ, NVXH đã tham vấn cho gia đình về những quyền
lợi mà trẻ xứng đáng đƣợc nhận nhƣ: quyền đƣợc đến trƣờng, quyền
đƣợc tôn trọng, quyền đƣợc chăm sóc….. Thêm vào đó, NVXH đã đƣa ra
những gợi ý về định hƣớng lựa chọn nơi can thiệp, hình thức can thiệp
phù hợp cho trẻ. Có những gia đình còn tƣ tƣởng phủ nhận tình trạng của
trẻ nên không cho con đi kiểm tra, cũng không có hành động nào can
thiệp giúp con cải thiện, NVXH là ngƣời phân tích tầm quan trọng của
việc phát hiện và can thiệp sớm để gia đình có trẻ tự kỷ nhận thức và có
những hành động tích cực cho trẻ. Một vấn đề nữa đó là việc có gia đình
sau khi biết đƣợc tình trạng của con trở nên suy sụp, mất niềm tin, không
còn động lực. Khi đó NVXH vừa là ngƣời định hƣớng, vừa là ngƣời bạn
giúp các bậc cha mẹ lấy lại niềm tin, lấy con làm động lực để họ mạnh
mẽ hơn trong “cuộc chiến” này. Cuối cùng việc lựa chọn con đƣờng tiếp
theo sẽ đi nhƣ thế nào phụ thuộc vào sự cân nhắc và quyết định của mỗi
gia đình.
Có thể lấy một ví dụ điển hình nhƣ trƣờng hợp PV sâu số 16, ngƣời
mẹ trở nên buồn bã, gặp ai cũng khóc khi nói về tình trạng của con,
thƣờng xuyên cáu bẳn với chồng một cách vô cớ khiến ngƣời chồng trở
nên chán nản và không muốn trở về nhà sau giờ làm việc: “Nhiều hôm về
đến cổng mà anh cảm thấy chán nên lại quay trở lại cơ quan xin làm ca
53
đêm luôn”. Nhận thấy bản thân ngƣời vợ cần định hƣớng lại cách suy
nghĩ và cách hành xử của bản thân nên trong quá trình tham vấn, NVXH
đã đƣa ra những phân tích để ngƣời vợ tự đƣa ra câu trả lời, cũng là sự
gợi mở để thân chủ cân nhắc hơn trong việc lựa chọn cách hành xử và
cách nhìn nhận vấn đề cởi mở hơn nhằm cải thiện trƣớc hết là cảm xúc
của bản thân sau đó là cải thiện mối quan hệ trong gia đình, huy động sự
tham gia của những thành viên khác
3.2.3 Trợ giúp
Huyện Văn Giang là địa bàn xa trung tâm, còn khó khăn về cả kinh
tế và tiếp cận thông tin. Vì vậy,gia đình có trẻ tự kỷ dù muốn cũng rất
khó tìm đƣợc nguồn hỗ trợ về chuyên gia hay cơ sở can thiệp ở gần địa
bàn. NVXH đã hƣớng dẫn gia đình trẻ các bƣớc xác định mức độ của trẻ,
liên hệ chuyên gia. Đặc biệt, NVXH với kiến thức và kinh nghiệm có
đƣợc ở lĩnh vực giáo dục đặc biệt còn là nhà trị liệu cho trẻ tự kỷ của một
số gia đình có hoàn cảnh khó khăn tại địa bàn và một số địa phƣơng lân
cận.
3.2.4 Biện hộ
Một gia đình có trẻ tự kỷ không tránh khỏi việc bị một bộ phận
cộng đồng có suy nghĩ tiêu cực xa lánh, kỳ thị. Ngay cả bản thân trẻ cũng
không đƣợc hƣởng trọn vẹn quyền mà một trẻ em xứng đáng đƣợc nhận:
học trƣờng công, vui chơi tại các điểm vui chơi cộng đồng…. NVXH đã
liên kết với bộ phận Văn hóa thông tin của địa phƣơng có bài tuyên
truyền đến ngƣời dân để cộng đồng không kỳ thị, tạo điều kiện để trẻ tự
kỷ đƣợc hòa nhập tại cộng đồng vì trẻ tự kỷ cũng có quyền đƣợc chăm
sóc, đƣợc yêu thƣơng, đƣợc tôn trọng, tạo điều kiện để phát triển nhƣ bao
trẻ em khác, sự kỳ thị càng tăng thêm khó khăn cho trẻ và gia đình,
3.2.5 Tác nhân thay đổi
Với việc xác định đƣợc những khó khăn cấp thiết của những gia
54
đình có trẻ tự kỷ ở địa bàn huyện Văn Giang và các địa phƣơng lân cận,
NVXH khi thực hiện đề tài “Vai trò của nhân viên công tác xã hội trong
việc trợ giúp gia đình có trẻ tự kỷ tiếp cận với các nguồn lực hỗ trợ” đã
thể hiện rõ vai trò tác nhân khi triển khai một mô hình “ Lớp hỗ trợ hòa
nhập” cho trẻ tự kỷ và những trẻ có nhu cầu đặc biệt khác tại huyện Gia
Lâm - huyện giáp ranh của huyện Văn Giang – Hƣng Yên. Mô hình này
không chỉ là cầu nối giúp gia đình trẻ tự kỷ có định hƣớng trong việc can
thiệp cho trẻ mà đây còn chính là nguồn hỗ trợ trực tiếp giúp khắc phục
nhiều khó khăn cho những gia đình có trẻ tự kỷ tại địa bàn nghiên cứu và
các địa bàn lân cận. Qua phỏng vấn các phụ huynh của trẻ tự kỷ đã theo
học tại mô hình này thấy đƣợc sự hài lòng và hiệu quả bƣớc đầu thể hiện
đó là nhiều trẻ tự kỷ đƣợc can thiệp, gia đình có trẻ tại địa bàn huyện Văn
Giang và các địa phƣơng lân cận không còn phải lo gánh nặng trong việc
di chuyển hay chi phí can thiệp vì chi phí can thiệp đề xuất tại mô hình
này đã đƣợc tham khảo và điều chỉnh thấp hơn so với những cơ sở can
thiệp khác ở khu vực trung tâm thành phố. Đây không chỉ là một địa chỉ
gần gũi với các gia đình có trẻ tự kỷ tại địa bàn nghiên cứu mà còn cho
cả những gia đình ở địa bàn lân cận “Giá mà lớp học này được triển khai
sớm hơn thì tốt quá, bây giờ có nơi để M theo học vừa gần, chi phí lại
vừa phải bà thấy vui quá vì bố mẹ cháu đều là công nhân nên nếu có
muốn thì cũng khó cho cháu theo học nếu chi phí cao quá. Bà cảm ơn
các cô nhiều lắm!” (trƣờng hợp PV sâu số 5)
3.3 Xác định vai trò của NVXH thông qua việc triển khai mô hình công
tác xã hội với việc tiếp cận các nguồn lực hỗ trợ của gia đình có trẻ tự kỷ.
3.3.1 Xác định đối tượng và mục đích hỗ trợ
3.3.1.1 Đối tượng
Đối tƣợng hỗ trợ trực tiếp là trẻ tự kỷ và gia đình có trẻ tự kỷ. Với
trẻ, việc trợ giúp mà trẻ nhận đƣợc là sự can thiệp trực tiếp để cải thiện
55
các lĩnh vực còn hạn chế. Với gia đình trẻ, việc trợ giúp đƣợc cụ thể háo
bằng các hoạt động nhƣ: Tham vấn, đánh giá học sinh, tập huấn can thiệp
cho trẻ tại nhà, cung cấp mô hình can thiệp ở địa điểm gần nơi trẻ và gia
đình sinh sống. Đặc biệt là trẻ ở xa trung tâm nhƣ địa bàn huyện Văn
Giang và các khu vực lân cận.
3.3.1.2 Mục đích hỗ trợ
Tạo thêm một nguồn lực hỗ trợ cần thiết và hữu ích cho trẻ tự kỷ và
gia đình trẻ ở địa bàn nghiên cứu và địa bàn lân cận. Cùng với gia đình có
trẻ tự kỷ tại địa bàn nghiên cứu tháo gỡ những khó khăn gặp phải trong tiến
trình can thiệp cho trẻ. Đồng thời, bằng kiến thức và kinh nghiệm của ngƣời
làm CTXH mang đến cho cho gia đình có trẻ tự kỷ một sự hỗ trợ thiết thực
bằng việc xây dựng và triển khai mô hình lớp hỗ trợ hòa nhập dành cho trẻ
tự kỷ và các trẻ có nhu cầu đặc biệt khác.
3.3.1.3 Xác định mục tiêu
Khi tìm hiểu đƣợc các nhu cầu, nguyện vọng của gia đình trẻ,
NVXH tiến tới việc xác định các mục tiêu từ mục tiêu ƣu tiên đến mục
tiêu thứ cấp nhằm hƣớng tới việc đáp ứng những nhu cầu và nguyện
vọng đó. Mục tiêu ƣu tiên ở đây chính là liên kết đƣợc những nguồn lực
hỗ trợ hữu ích cho các gia đình có trẻ tự kỷ. Việc xây dựng mô hình
“Lớp hỗ trợ hòa nhập” là một mô hình hƣớng tới mục tiêu đó. Khi mô
hình đƣợc triển khai và đƣa vào hoạt động thì coi nhƣ những mục tiêu đó
đƣợc hiện thực hóa.
3.4.1 Lý do triển khai mô hình
3.4 Giới thiệu mô hình Lớp hỗ trợ hòa nhập
Dựa trên những thông tin tìm hiểu đƣợc qua nghiên cứu về những
khó khăn, những vấn đề nan giải chƣa có hƣớng giải quyết của các gia
đình có trẻ tự kỷ tại địa bàn nghiên cứu cùng với kinh nghiệm tích lũy
đƣợc qua quá trình làm việc trực tiếp trong lĩnh vực can thiệp cho trẻ tự
56
kỷ ngƣời viết nhận thấy cần có một động thái thiết thực cùng với các gia
đình có con tự kỷ dần tháo gỡ những khó khăn mà họ đang phải đối mặt.
Hơn thế, việc có một mô hình để cùng chung tay hỗ trợ các gia đình về
chuyên môn, rút ngắn khoảng cách, giảm nhẹ chi phí và cung cấp thông
tin trên nhiều khía cạnh là một sự nỗ lực hết sức có ý nghĩa với không chỉ
riêng đối tƣợng ở địa bàn nghiên cứu mà còn cho cả những đối tƣợng có
nhu cầu tại khu vực lân cận. Hơn cả rất nhiều lời nói, đó là sự hỗ trợ cần
thiết và cần đƣợc duy trì, mở rộng hơn nữa để thêm nhiều trẻ có nhu cầu
đặc biệt và gia đình các trẻ đƣợc hƣởng lợi từ mô hình này. Vì vậy, ngƣời
viết đồng thời cũng là ngƣời có quá trình làm việc trực tiếp với trẻ và gia
đình trẻ xây dựng và triển khai mô hình “Lớp hỗ trợ hòa nhập” với sự
ủng hộ và tham gia của nhóm những nhà can thiệp có kỹ năng làm việc
với trẻ tự kỷ. Đây là nhóm giáo viên với các chuyên ngành: Công tác xã
hội, giáo dục đặc biệt, mầm non…. có quá trình tìm hiểu và làm quen với
trẻ có nhu cầu đặc biệt liên kết với nhau tạo nên một hệ thống đa chức
năng. Với mục tiêu lấy sự tiến bộ của trẻ làm kim chỉ nam hoạt động, đội
ngũ giáo viên cũng là một hệ thống hay nói đúng hơn là một nguồn lực
hỗ trợ hết sức hữu ích cho hầu hết các nhu cầu của đối tƣợng.
3.4.2 Chức năng của mô hình
Với sự tập hợp đội ngũ có thế mạnh là kinh nghiệm và kỹ năng đa
dạng ở nhiều lĩnh vực, mô hình có chức năng can thiệp hỗ trợ cho trẻ tự
kỷ nói riêng và trẻ em có nhu cầu đặc biệt nói chung: trẻ chậm nói, chậm
phát triển trí tuệ, trẻ có khó khăn về học tập và giao tiếp, trẻ rối loạn hành
vi……. Mô hình là cầu nối giữa trẻ, gia đình và các trƣờng mầm non để
tạo môi trƣờng thuận lợi cho trẻ đƣợc hòa nhập, cũng là sự kết hợp can
thiệp để việc can thiệp chuyên biệt và việc học ở lớp có sự thống nhất,
quá trình can thiệp đạt đƣợc kết quả cao.
3.4.3 Các dịch vụ trợ giúp
57
3.4.3.1 Tham vấn
Khi tiếp nhận trẻ, phụ huynh đƣợc tham vấn về những vấn đề liên
quan đến tình trạng của trẻ, hƣớng can thiệp và đƣợc giải đáp tất cả
những thắc mắc của gia đình về chƣơng trình can thiệp hay thủ tục để
tham gia quá trình can thiệp. Những gia đình có khó khăn trong việc cho
con học hòa nhập sẽ có những gợi ý về các hệ thống trƣờng mầm non để
các gia đình có thể cho đăng ký cho con học kết hợp. Ngoài ra, một điều
hết sức hữu ích cho phụ huynh có con tự kỷ đó là các gia đình đƣợc tập
huấn các phƣơng pháp kết hợp can thiệp tại nhà theo định kỳ. Tại đây,
gia đình đƣợc cung cấp thêm thông tin, đƣợc thực hành dƣới sự hƣớng
dẫn trực tiếp của giáo viên để có đƣợc sự thống nhất trong việc tiếp cận
trẻ. Giáo viên sẽ hƣớng dẫn các kỹ năng hỗ trợ trẻ theo từng nội dung cụ
thể. Ngoài buổi tập huấn, những gia đình có nhu cầu dự giờ trực tiếp sẽ
đƣợc sắp xếp để trực tiếp quan sát các giáo viên thực hành với trẻ. Về
chính sách cho các gia đình, mô hình cố gắng tạo điều kiện tối đa về mức
phí can thiệp cho con em của gia đình khó khăn. Tài liệu, dịch vụ tham
vấn, hƣớng dẫn là hoàn toàn miễn phí.
3.4.3.2 Đánh giá tình trạng trẻ
Ban đầu, trƣớc khi bƣớc vào tiến trình can thiệp trẻ sẽ đƣợc nhóm
giáo viên đánh giá về tình trạng hiện tại: điểm mạnh, điểm yếu, mức độ
phát triển so với lứa tuối để làm cơ sở xây dựng chƣơng trình can thiệp
phù hợp. Trong suốt quá trình can thiệp, trẻ sẽ có hồ sơ theo dõi riêng và
đƣợc đánh giá mức độ tiến triển theo định kỳ có thể là hàng ngày, hàng
tuần hoặc hàng tháng.
3.4.3.3 Can thiệp chuyên biệt
Ngoài việc tham vấn cho gia đình, đánh giá tình trạng trẻ thì can
thiệp chuyên biệt cũng là một trong những hoạt động chính giúp đỡ trực
tiếp cho trẻ theo các mục tiêu can thiệp đề ra cho từng trẻ. Việc này gắn
58
với các nội dung cụ thể: rèn tính kỷ luật cho trẻ, rèn các kỹ năng tự phục
vụ bản thân, kỹ năng vận động, tăng cƣờng nhận thức, phát triển ngôn
ngữ, điều chỉnh hành vi, cải thiện giao tiếp… hƣớng tới việc khắc phục
những điểm yếu của trẻ, phát huy những điểm mạnh và hơn cả là sự hòa
nhập tối thiểu của trẻ với bạn bè cùng chang lứa và môi trƣờng sống
xung quanh trẻ.
Có hai hình thức can thiệp đƣợc áp dụng tại mô hình đó là: Can
thiệp tập trung và can thiệp tại nhà. Can thiệp tập trung là hình thức can
thiệp áp dụng cho những trẻ mà gia đình có khả năng đƣa trẻ đến lớp
học, phụ thuộc vào sự tự sắp xếp của gia đình. Hầu hết những học sinh
học tập trung cần một lƣợng thời gian can thiệp nhiều hơn vì mức độ của
trẻ nặng hơn và độ tuổi lớn hơn, có trẻ không đủ điều kiện để đi học lớp
mầm non hòa nhập. Hình thức can thiệp tại nhà áp dụng theo nhu cầu của
những gia đì
nh ở những địa bàn khác của Hà Nội. Mô hình “Lớp hỗ trợ hòa nhập” có
sự liên kết với đội ngũ cộng tác viên nhiệt tình, có kinh nghiệm nên khi
gia đình có nhu cầu đội ngũ cộng tác viên sẽ trực tiếp đến làm việc với
trẻ ngay tại gia đình. Hình thức này đáp ứng đƣợc nhu cầu của những gia
đình không có điều kiện đƣa trẻ đến lớp học hoặc sức khỏe của trẻ không
đáp ứng đƣợc. Đội ngũ cộng tác viên bao gồm những thành viên nhiệt
huyết với các chuyên môn đƣợc đào tạo: Công tác xã hội, mầm non, giáo
dục đặc biệt…. Đội ngũ cộng tác viên này sẽ đƣợc những giáo viên nhiều
kinh nghiệm hơn bổ trợ kiến thức và kỹ năng định kỳ và có sự trao đổi
kinh nghiệm can thiệp thƣờng xuyên để nâng cao trình độ chuyên môn
chung của tất cả đội ngũ.
59
Quy trình can thiệp
Tiếp nhận trẻ
Đánh giá đầu vào
Tham vấn phụ huynh
Tiến hành can thiệp
Xây dựng chƣơng trình can thiệp Đánh giá và trao đổi định kỳ về tình hình của trẻ
Tiếp nhận trẻ: Ngƣời chịu trách nhiệm quản lý mô hình cũng là
ngƣời có nhiều kinh nghiệm trong việc tiếp nhận trẻ sẽ là ngƣời tiếp
nhận khi có trẻ mới. Nhiệm vụ mà ngƣời tiếp nhận trẻ phải đảm nhận
đó là việc hƣớng dẫn các bƣớc đăng ký nhập học cho phụ huynh, giải
đáp tất cả các thắc mắc của phụ huynh liên quan đến quá trình can thiệp
cũng nhƣ nguyên tắc hoạt động của mô hình.
Đánh giá đầu vào về tình trạng trẻ: Sau khi tiếp nhận trẻ, ngƣời trực
tiếp tiếp nhận trẻ sẽ tiến hành quan sát, phỏng vấn phụ huynh, tƣơng tác
với trẻ để đƣa ra những đánh giá cụ thể nhất về tình trạng và mức độ
của trẻ bổ sung cho phiếu kiểm tra lâm sàng mà trẻ đã đƣợc thực hiện
tại các cơ sở công lập (nếu có), phiếu kiểm tra này chủ yếu đƣợc thực
hiện tại Khoa Tâm Bệnh – Bệnh viện Nhi Trung Ƣơng. Kết quả đánh
giá đầu vào sẽ là định hƣớng cho việc xây dựng chƣơng trình can thiệp
cho trẻ dựa trên những hạn chế mà trẻ đang gặp phải. Đồng thời cho
phụ huynh cái nhìn sâu sắc và cụ thể hơn về mức độ của trẻ, từ đó có
những can thiệp phù hợp cho trẻ tại gia đình
Tham vấn phụ huynh: Sau khi, NVXH đƣa ra đánh giá về tình
60
trạng của trẻ, định hƣớng can thiệp, một số hình thức can thiệp cụ thể
để phụ huynh tham khảo. Phụ huynh sẽ là ngƣời cân nhắc và đƣa ra lựa
chọn theo nhu cầu và nguyện vọng của gia đình. Đối với những gia
đình khó khăn, NVXH hƣớng dẫn thủ tục hỗ trợ miễn giảm học phí cho
trẻ. Tất cả những băn khoăn, thắc mắc của gia đình sẽ đƣợc NVXH giải
đáp và có hƣớng dẫn cụ thể nhất.
Xây dựng chƣơng trình can thiệp: Bƣớc này đƣợc thực hiện sau khi
có kết quả đánh giá về tình trạng của trẻ. Chƣơng trình can thiệp dựa
trên những yếu kém, hạn chế của trẻ nhằm mục đích cải thiện tất cả
những hạn chế, yếu kém đó và quá trình xây dựng chƣơng trình can
thiệp cho trẻ là sự làm việc nhóm của cả nhóm giáo viên can thiệp để
chƣơng trình can thiệp cho trẻ có sự phong phú về hoạt động, thống
nhất về nội dung và phƣơng pháp. Đồng thời, các giáo viên có thể chia
sẻ kinh nghiệm lẫn nhau và đảm bảo cả giáo viên can thiệp và trẻ không
gặp khó khăn khi làm việc với nhau.
Tiến hành can thiệp: Sau khi xây dựng và đƣa ra đƣợc chƣơng trình
can thiệp trẻ sẽ bƣớc vào quá trình can thiệp chính thức dựa trên những
mục tiêu đã đề ra. Quá trình can thiệp có sự giám sát của ngƣời đứng ra
quản lý mô hình và thực hiện nghiêm túc nhằm tiến đến đạt những mục
tiêu từ nhỏ nhất. Tiến trình can thiệp với nội dung và các hoạt động
triển khai đƣợc thể hiện qua nhật ký can thiệp – phƣơng tiện liên lạc
giữa giáo viên can thiệp và gia đình.
Đánh giá và trao đổi về tình hình của trẻ theo định kỳ: Quá trình
đánh giá tình hình của trẻ sau can thiệp đƣợc tiến hành thƣờng xuyên,
định kỳ có thể theo ngày, tuần, tháng tùy vào việc lƣợng giá mức độ
tiến bộ của trẻ hoặc theo nhu cầu của gia đình. Thông thƣờng tiến trình
này trải qua hai giai đoạn. Đầu tiên là sự lƣợng giá của giáo viên sau đó
giáo viên sẽ đƣa ra đánh giá và trao đổi trực tiếp với gia đình về những
61
ƣu điểm và hạn chế của trẻ sau thời gian can thiệp nhất định. Việc đánh
giá và trao đổi về tình hình của trẻ là kênh liên lạc để phụ huynh nắm
bắt đƣợc mức độ của trẻ và đồng thời có những hỗ trợ phù hợp, kịp thời
hoặc có phản hồi phục vụ cho việc can thiệp đạt hiệu quả tốt hơn, tạo sự
thống nhất giữa giáo viên và gia đình.
3.4.4 Kinh phí hoạt động
Khi bắt đầu triển khai mô hình, ngƣời viết dựa trên tính cấp thiết
của việc trợ giúp các đối tƣợng là gia đình có trẻ tự kỷ tiếp cận với các
nguồn lực hỗ trợ tại địa bàn nghiên cứu. Mục tiêu đầu tiên hƣớng tới đó
là việc triển khai mô hình càng sớm thì nỗ lực trợ giúp càng có ý nghĩa.
Tuy nhiên, với bất kỳ một ý tƣởng nào để hiện thực hóa chúng cần đảm
bảo những điều kiện nhất định và nguồn vốn là kim chỉ nam trong hầu
hết các hoạt động. Nguồn vốn để hoạt động ban đầu của mô hình này
đƣợc huy động từ 100% vốn tự có của các thành viên tâm huyết, ủng hộ
tính ứng dụng của mô hình. Dù nguồn vốn hoạt động ban đầu chƣa lớn
nhƣng bằng tất cả tình yêu với trẻ, kỹ năng nghề nghiệp, các thành viên
đã bƣớc đầu gây dựng đƣợc nền tảng hoạt động nhất định giúp nhiều trẻ
tiến bộ, nhiều gia đình tháo gỡ đƣợc những khó khăn và bế tắc tƣởng
chừng nhƣ không thể tháo gỡ. Để duy trì và phát triển mô hình trong giai
đoạn tiếp theo, chắc chắn sẽ cần huy động sự hỗ trợ từ nhiều nguồn lực
khác và cần một kế hoạch cụ thể cho bƣớc này hƣớng tới mục tiêu ngày
càng có thêm nhiều trẻ tự kỷ và gia đình trẻ đƣợc hƣởng lợi từ mô hình
này.
3.4.5 Đánh giá mô hình
3.4.5.1 Ưu điểm
Sau thời gian 6 tháng triển khai mô hình “Lớp hỗ trợ hòa nhập” và
dựa trên sự phản hồi của các gia đình, nhận thấy việc triển khai mô hình
đã có những thành công ban đầu trong việc giúp trẻ cải thiện đƣợc các kỹ
62
năng: ngôn ngữ, giao tiếp,điều chỉnh các hành vi…. Với việc lựa chọn
địa điểm triển khai thuận tiện không chỉ giải quyết khó khăn trong việc di
chuyển của các gia đình ở địa bàn huyện Văn Giang mà còn cho các gia
đình ở khu vực lân cận. Với ý nghĩa nhân văn sâu sắc và sự hỗ trợ thiết
thực, mô hình đã miễn giảm học phí can thiệp cho nhiều trẻ, hỗ trợ tham
vấn, tập huấn miễn phí cho các gia đình để con em của những gia đình
khó khăn đều có điều kiện đƣợc can thiệp kịp thời. Điều dễ thấy ở đây đó
là các gia đình đã tìm đƣợc một địa chỉ tin cậy, phù hợp để cùng với lớp
học nỗ lực vì sự tiến bộ của trẻ. Nụ cƣời của trẻ, sự hài lòng của gia đình
chính là sự khẳng định mạnh mẽ cho việc nên tiếp tục duy trì, phát triển
mô hình này lâu dài và cần đƣợc mở rộng hơn nữa. Mặc dù chƣa có bất
kỳ một sự hỗ trợ nào về nguồn vốn hoạt động và còn gặp nhiều khó khăn
trong quá trình triển khai mô hình song đội ngũ những nhà can thiệp của
lớp học vẫn thực hiện đúng với chức năng của mô hình, làm việc bằng tất
cả sự tâm huyết, tình yêu với nghề và hơn hết là niềm tin sắt đá rằng mọi
sự nỗ lực đều có ý nghĩa nếu xuất phát từ tình yêu thƣơng. Và, lớp học
này cũng chính là một nguồn lực hỗ trợ quan trọng, cần thiết cho các gia
đình có trẻ tự kỷ tại địa bàn.
3.4.5.2 Hạn chế
Tuy đã có những thành công bƣớc đầu trong nỗ lực trợ giúp trẻ tự
kỷ và gia đình có trẻ tự kỷ tiếp cận với những nguồn lực thiết yếu và đạt
đƣợc những mục tiêu nhất định khi triển khai mô hình. Song, hoạt động
của mô hình cũng không tránh khỏi những hạn chế, vẫn còn những vấn
đề mới phát sinh trong quá trình triển khai thực hiện. Điều hạn chế đầu
tiên phải kể đến đó là nguồn kinh phí để phát triển hoạt động của mô
hình còn rất hạn hẹp do hầu hết các trẻ đƣợc can thiệp đều đến từ những
gia đình khó khăn. Vì vậy, chính sách hỗ trợ miễn giảm học phí cho các gia
đình này đƣợc ƣu tiên. Trong khi đó, mô hình hoạt động không dựa trên sự
63
hỗ trợ kinh phí của tổ chức nào mà 100% huy động vốn tự có. Đây cũng là
một thách thức không nhỏ cho những ngƣời thực hiện, có trách nhiệm duy
trì hoạt động của mô hình.
Mô hình này hoạt động dƣới dạng một nhóm lớp hỗ trợ hòa nhập,
đƣợc gắn kết bởi các thành viên có tâm huyết với nghề giáo dục trẻ có
nhu cầu đặc biệt, đƣợc đào tạo với các ngành chuyên môn khác nhau:
Công tác xã hội, giáo dục đặc biệt, mầm non….. Xét về quy mô thì đây là
mô hình hoạt động nhỏ nên việc huy động các nguồn lực hỗ trợ khác
nhƣ: nguồn vốn, chuyên gia… gặp rất nhiều khó khăn.
Về cơ sở vật chất, do quá trình hoạt động chƣa lâu, thời gian triển
khai mô hình ngắn nên sự đầu tƣ cho cơ sở vật chất còn hạn chế. Vì vậy,
hiệu quả của tiến trình can thiệp chƣa đạt tối đa nhƣ mong muốn.
Về chuyên môn, để tiến trình can thiệp cho trẻ tự kỷ đạt hiệu quả tối
ƣu thì đội ngũ can thiệp phải là sự liên kết các chuyên ngành để hƣớng tới
hỗ trợ đƣợc đa dạng các nội dung: trị liệu tâm lý, ngôn ngữ hành vi, tham
vấn và tập huấn cho phụ huynh, phục hồi chức năng cho một số đối tƣợng
trẻ em. Mô hình “Lớp hỗ trợ hòa nhập” hiện tại đang có hạn chế trong các
kỹ năng phục hồi chức năng cho trẻ.
Về nguồn nhân lực, không phải dễ dàng để tìm đƣợc ứng viên vừa
có năng lực chuyên môn vừa có đủ tâm huyết với một mô hình nhỏ và
đang ở giai đoạn hoàn thiện này. Đặc biệt, ở khu vực xa trung tâm, không
chỉ thiếu hụt các mô hình hỗ trợ mà chính các ứng viên phù hợp cũng hạn
chế về số lƣợng. Việc di chuyển với các ứng viên là vấn đề họ phải cân
nhắc. Chỉ những ứng viên thực sự yêu nghề, tâm huyết thì mới có thể gắn
bó đƣợc với mô hình này và nỗ lực hết mình cho công việc.
Đây là một vài trong vô số những khó khăn, hạn chế khi triển khai
mô hình “Lớp hỗ trợ hòa nhập”. Thiết nghĩ bất cứ một mô hình nào khi
triển khai cũng không tránh khỏi những khó khăn nhất định. Điều quan
64
trọng là mục đích hƣớng tới của nó có thực sự hƣớng tới cộng đồng hay
không. Nếu những thành quả có đƣợc thực sự ý nghĩa và giải quyết đƣợc
phần lớn những nhu cầu tất yếu của đối tƣợng thì việc khắc phục những
65
khó khăn đó chỉ là vấn đề thời gian.
KẾT LUẬN
1. Thiếu thông tin, thiếu nguồn lực hỗ trợ nên các trẻ mất đi cơ hội đƣợc
can thiệp sớm
Can thiệp sớm là chìa khóa giúp cho quá trình hòa nhập của trẻ bớt
khó khăn, hạn chế đƣợc mức độ ảnh hƣởng tới các lĩnh vực tƣơng tác xã
hội của trẻ. Tuy nhiên, không phải trẻ nào cũng đƣợc phát hiện và can
thiệp sớm, cũng không phải bất cứ gia đình nào cũng có khả năng phát
hiện và can thiệp sớm cho trẻ. Hơn nữa, việc thiếu hụt thông tin dẫn đến
những hiểu biết sai lầm trong đánh giá những biểu hiện ban đầu của trẻ.
Qua nghiên cứu cho thấy, những gia đình ở những khu vực xa trung tâm
còn mơ hồ và chƣa thực sự có đƣợc những hiểu biết đúng đắn về thuật
ngữ “tự kỷ”. Với những gia đình có trẻ tự kỷ thì đánh mất cơ hội phát
hiện và can thiệp sớm của trẻ, những hệ thống khác: trƣờng học, hàng
xóm… không tạo điều kiện thuận lợi, đúng mức để giúp trẻ hòa nhập.
Thêm vào đó, khi phát hiện ra tình trạng của trẻ, gia đình hoàn toàn thụ
động trong việc tìm kiếm các nguồn lực hỗ trợ. Những khu vực xa trung
tâm, việc thiếu hụt các mô hình hỗ trợ khiến các gia đình ở những khu
vực này càng khó khăn hơn trong nỗ lực giúp con hòa nhập hoặc phải
đánh đổi nhiều cơ hội khác để có thể tiếp cận đƣợc với nguồn lực hỗ trợ
nào đó trong khi hiệu quả của việc can thiệp phụ thuộc rất nhiều vào thời
gian.
2. Không có điều kiện kinh tế, không ở gần khu vực trung tâm, không có
chính sách hỗ trợ những gia đình có trẻ tự kỷ buộc phải chấp nhận sự
chậm tiến của con.
Tự kỷ có sự ảnh hƣởng lớn đến các nhiều lĩnh vực đời sống của trẻ.
Trẻ cần đƣợc can thiệp và can thiệp sớm để tiến tới sợ hòa nhập. Nếu
66
không đƣợc can thiệp, mức độ ảnh hƣởng đến trẻ sẽ nghiêm trọng, trẻ
giảm dần khả năng tƣơng tác xã hội, kém về nhận thức và không phát
triển về ngôn ngữ…. Vì vậy, với những trẻ đã đƣợc chẩn đoán tự kỷ điều
cần thiết trƣớc hết với trẻ chính là đƣợc can thiệp ngay khi phát hiện để
hạn chế mức độ ảnh hƣởng đến trẻ sẽ nặng hơn. Chắc hẳn với mỗi gia
đình điều này là mong muốn và nhu cầu khẩn thiết nhƣng không phải gia
đình nào cũng làm đƣợc bởi những thách thức và khó khăn mà họ phải
đối mặt. Những gia đình có điều kiện kinh tế khó khăn, ở xa trung tâm là
những đối tƣợng nhƣ thế. Khi không có nguồn lực hỗ trợ hoặc không có
khả năng tiếp cận dịch vụ thì điều tất yếu là họ sẽ phải chấp nhận tiến
trình can thiệp của con sẽ bớt đi ngƣời đồng hành, có những gia đình mất
quá nhiều thời gian chỉ để loay hoay với việc tiếp cận thông tin, tiếp cận
nguồn giáo viên can thiệp nhƣng không ít lần rơi vào tình trạng thất
vọng. Thiết nghĩ, mỗi trẻ em đều có quyền đƣợc yêu thƣơng, mỗi trẻ em
đều có thể đến trƣờng nếu chúng muốn, đều có quyền đƣợc tạo điều kiện
để phát triển nhƣng với trẻ tự kỷ thì những điều đó chƣa thực sự tọn vẹn.
Quyền đƣợc học tập của trẻ chƣa đảm bảo và chƣa thể đáp ứng đƣợc nhu
cầu của trẻ, đặc biệt lại là khi trẻ ở khu vực xa trung tâm, là con em của
những gia đình khó khăn, trẻ tự kỷ không thuộc đối tƣợng quy định trong
các văn bản pháp quy về việc đƣợc hƣởng trợ cấp xã hội nên khó khăn
của gia đình trẻ càng chồng chất khó khăn, trẻ càng tăng thời gian không
đƣợc can thiệp càng chậm tiến.
3. Trƣờng mầm non – cơ sở công lập cũng chƣa tạo điều kiện thích đáng
cho trẻ tự kỷ
Không ít gia đình vì mong muốn con có cơ hội hòa nhập và có môi
trƣờng để tƣơng tác theo tƣ vấn của bác sĩ nên đã xin cho con đi học
trƣờng mầm non ở địa phƣơng. Tuy nhiên, câu trả lời nhận đƣợc lại
67
không hề nhƣ họ mong đợi.
“Đ ra lớp rất ngoan và nghe lời cô nhưng cứ có đợt kiểm tra là
con phải ở nhà không được đến lớp vì các cô sợ ảnh hưởng đến thành
tích của lớp” (trƣờng hợp PV sâu số 18)
Khi trẻ không có điều kiện, không có thời gian để thích nghi với
môi trƣờng hòa nhập:
“Bà cho M ra trường mầm non một thời gian để cháu tương tác
được với nhiều bạn nhưng hôm nào cũng khóc và mỗi lần khóc các cô lại
gọi và bà phải đưa cháu về”(trƣờng hợp PV sâu số 5)
Khi trẻ bị từ chối:
“Chị đã nói chuyện với cô hiệu trưởng, cô giáo chủ nhiệm để mong
cô tạo điều kiện cho T được đến lớp với các bạn nhưng nhất định cô
không đồng ý. Cô bảo vì cháu nghịch quá các cô không thể trông được”
(trƣờng hợp PV sâu số 10 )
Nhƣ vậy, không có sự chung tay của cộng đồng thì trẻ khó có thể
hòa nhập, trẻ sẽ mất đi cơ hội đƣợc đến trƣờng, mất đi điều kiện để phát
triển và tƣơng tác xã hội, gia ðình mất niềm tin. Khi sự quan tâm, yêu
thƣơng và tạo điều kiện của cộng đồng chƣa đủ lớn thì trẻ tƣ kỷ còn tiếp
tục nhận sự thiệt thòi về mình.
4. Những nhân tố thúc đẩy việc triển khai mô hình hỗ trợ
Hiện nay, mô hình can thiệp sớm tại trung tâm và tại trƣờng mầm
non hòa nhập là phổ biến hơn. Ngoài các trƣờng, trung tâm dƣới sự quản
lý của Nhà nƣớc, nhằm đáp ứng nhu cầu thực tiễn của gia đình và các trẻ
tự kỷ thì số lƣợng các trung tâm, trƣờng tƣ thục đƣợc thành lập mới cũng
ngày một nhiều, nhất là ở các thành phố lớn nhƣ Hà Nội hay thành phố
Hồ Chí Minh. Những mô hình này tập trung hầu hết ở khu vực trung tâm
thành phố. Vì vậy, hầu nhƣ các mô hình can thiệp sớm này mới chỉ đáp
ứng đƣợc nhu cầu cho trẻ tự kỷ và gia đình ở các thành phố, tỉnh thành
68
lớn. Nhiều tỉnh thành, khu vực xa chƣa có những trƣờng, trung tâm riêng,
do đó mà chất lƣợng chăm sóc, giáo dục và can thiệp cho trẻ tự kỷ hiện
nay ở Việt Nam chƣa đồng đều, mới chỉ tập trung nhiều ở các thành phố
lớn hoặc mới chỉ đƣợc quan tâm ở các gia đình có điều kiện. Đây cũng là
thực trạng và là thách thức chung của Việt Nam hiện nay.
Nghiên cứu này chỉ ra rằng những gia đình có trẻ tự kỷ ở khu vực
xa trung tâm và các địa bàn lân cận đang thiếu hụt rất nhiều những nguồn
lực hỗ trợ cần thiết. Có chăng thì đó phải là sự đánh đổi rất nhiều thứ mới
có đƣợc: chi phí đi lại hoặc chi phí thuê giáo viên can thiệp tại nhà rất
cao, sức khỏe của trẻ bị ảnh hƣởng do di chuyquãng đƣờng quá xa để
đƣợc can thiệp, thời gian can thiệp gián đoạn do nhiều nguyên nhân,
công việc của ngƣời trực tiếp đƣa trẻ đến cơ sở can thiệp….. Trong khi
đó, rất cần một đội ngũ giáo viên, cộng tác viên tâm huyết sẵn sàng làm
việc với trẻ dù quãng đƣờng di chuyển xa, việc can thiệp cho trẻ lại vất
vả. Và khi đã tập hợp đƣợc một đội ngũ nhƣ cậy chính một điều kiện
thuận lợi để có thể triển khai mô hình. Khi đó, địa điểm đƣợc lựa chọn là
địa điểm thuận tiện cho việc tìm kiếm, sự an toàn cho trẻ đƣợc ƣu tiên để
phần nào giảm bớt khó khăn cho trẻ và gia đình. Mô hình đƣợc triển khai
hoạt động là cả sự nỗ lực lớn của những NVXH, những nhà giáo dục tâm
huyết và hết lòng vì sự tiến bộ của trẻ.
5. Tất cả các gia đình có trẻ tự kỷ đều cần có nguồn lực hỗ trợ thiết thực
để giúp con hòa nhập
Để tiến trình hòa nhập của trẻ đƣợc thuận lợi thì trẻ và gia đình cần
nhiều sự hỗ trợ từ các hệ thống xung quanh. Sự hỗ trợ này chính là
những điều kiện thuận lợi đảm bảo cho việc giải quyết các vấn đề khó
khăn của trẻ và gia đình. Đặc biệt là đối tƣợng ở địa bàn nghiên cứu và
khu vực lân cận sẽ đƣợc hƣởng lợi trƣớc nhất. Mô hình “Lớp hỗ trợ hòa
69
nhập” là một sự hỗ trợ nhƣ thế.
Đối với những gia đình tại địa bàn nghiên cứu, sự hỗ trợ thiết thực ở
đây chính là việc duy trì và phát triển mô hình “Lớp hỗ trợ hòa nhập”
cho trẻ em có nhu cầu đặc biệt bởi tính hiệu quả và ý nghĩa mà nó mang
lại. Có thể thấy rằng những nhu cầu bức thiết của gia đình có trẻ tự kỷ
đang từng bƣớc đƣợc giải quyết khi mô hình đƣợc triển khai.
Một nguồn lực hỗ trợ đƣợc gọi là thiết thực và có ý nghĩa là việc
nguồn lực đó đƣợc thể hiện bằng những hoạt động cụ thể hƣớng tới việc
giải quyết những nhu cầu thiết yếu và chính đáng của đối tƣợng. Nguồn
lực đó có thể là những dịch vụ cung cấp cho các đối tƣợng có nhu cầu ở
nhiều lĩnh vực khác nhau: Tham vấn, đánh giá mức độ phát triển của trẻ,
giáo dục, phục hồi chức năng cho trẻ…….
Có thể nói rằng, cùng với sự góp sức của rất nhiều ngành khoa học
cho nỗ lực hỗ trợ gia đình có trẻ tự kỷ tiếp cận với các nguồn lực hỗ trợ
thiết thực, hữu ích thì NVXH cũng góp vào đó sự trợ giúp nhất định,
đóng những vai trò hết sức quan trọng. Việc thực hiện những vai trò ấy
khẳng định tính cần thiết của yếu tố ngành và hơn thế là sự hài lòng
bƣớc đầu của gia đình có trẻ tự kỷ cho thấy NVXH chính là một hệ
thống hay nói đúng hơn là một nguồn lực không thể thiếu giúp kết nối
gia đình có trẻ tự kỷ với các nguồn lực khác cần thiếu cho cuộc sống của
70
trẻ và gia đình trẻ.
KIẾN NGHỊ
Để đƣa ra các giải pháp hay một chƣơng trình hành động cụ thể
nào có thể giải quyết đƣợc hầu hết các khó khăn mà trẻ tự kỷ và gia đình
trẻ đang phải đối mặt là điều không phải dễ dàng. Thậm chí đây có thể
nhƣ là một bài toán chƣa có đƣợc lời giải thích hợp. Vì vậy, đối tƣợng
hầu hết phải tự giải bài toán ấy theo năng lực của mình. Việc giải quyết
đƣợc các vấn đề tồn tại ở đây có liên quan đến rất nhiều yếu tố: Kinh tế,
chính sách xã hội, sự nhìn nhận vấn đề của cộng đồng…. Cần có một
nghiên cứu hoặc một hành động cụ thể ở phổ rộng mang tầm khu vực
hay trên phạm vi toàn quốc. Trên cơ sở nghiên cứu tình hình thực tiễn,
việc ứng dụng thí điểm mô hình “Lớp hỗ trợ hòa nhập” cùng với những
phát hiện của nghiên cứu, ngƣời viết xin đƣa ra một số kiến nghị để nỗ
lực hỗ trợ trẻ tự kỷ và gia đình trẻ đƣợc toàn diện và hiệu quả hơn, đáp
ứng đƣợc những nhu cầu và nguyện vọng chính đáng của đối tƣợng.
1. Về công tác đánh giá thực trạng chăm sóc, hỗ trợ trẻ tự kỷ
Thực tế hiện nay, nƣớc ta chƣa có một nghiên cứu nào cụ thể về
thực trạng chăm sóc, giáo dục và hỗ trợ trẻ tự kỷ, mới có những nghiên
cứu và đƣa ra số liệu về thực trạng ngƣời khuyết tật nói chung hay trẻ em
nói chung. Điều này hạn chế cái nhìn của cộng đồng về trẻ tự kỷ và thực
trạng chăm sóc, giáo dục trẻ. Kéo theo đó là sự quan tâm và chung tay
của cộng đồng vào nỗ lực chung chăm sóc, hỗ trợ trẻ tự kỷ cũng bị hạn
chế. Vì vậy, cần thiết có những nghiên cứu cụ thể đánh giá tình hình,
hiện trạng chăm sóc, hỗ trợ trẻ tự kỷ để khuyến khích sự quan tâm của
cộng đồng vào công tác hỗ trợ trẻ.
2. Về khía cạnh chính sách xã hội
Nhƣ nghiên cứu đã chỉ ra, hiện nay các văn bản quy phạm pháp
luật chƣa có quy định về mức hỗ trợ hay trợ cấp nào dành cho trẻ tự kỷ.
71
Bởi lí do tự kỷ chƣa đƣợc xét là một dạng khuyết tật cụ thể nào nên trẻ tự
kỷ và gia đình chƣa có khoản trợ cấp. Tuy nhiên, xét cho cùng, dẫu đƣợc
xếp vào dạng hay mức độ khuyết tật nào thì những khó khăn mà trẻ và
gia đình phải đối mặt hiện hữu rất rõ, thậm chí những khó khăn ấy còn
thể hiện ở nhiều mặt của đời sống chứ không riêng gì ở việc khó khăn
trong sinh hoạt hàng ngày. Vì vậy, khó khăn với các gia đình có trẻ tự kỷ
lại càng thêm khó khăn khi hệ thống pháp lý chƣa hƣớng đến họ. Điều
này là một trong số những nguyên nhân lý giải tại sao sự tham gia của
cộng đồng với việc chăm sóc, hỗ trợ trẻ tự kỷ vẫn còn hạn chế nhƣ vậy.
Qua đây, thấy rằng để đảm bảo quyền lợi chung của những trẻ em có nhu
cầu đặc biệt và giảm bớt khó khăn, gánh nặng cho các gia đình có trẻ tự
kỷ thì việc ban hành những văn bản quy phạm pháp luật quy định sự hỗ
trợ thiết thực cho trẻ tự kỷ và gia đình trẻ là thực sự cần thiết thể hiện sự
quan tâm thực sự của cộng đồng dành cho họ, giúp họ vững niềm tin hơn
trên con đƣờng giúp con hòa nhập.
3. Về công tác đào tạo, tập huấn chuyên môn
Việc nâng cao tay nghề, cải thiện chuyên môn đóng vai trò quan
trọng trong nỗ lực chăm sóc, hỗ trợ trẻ tự kỷ. Thực tế hiện nay, phần
đông nhân viên CTXH chƣa đƣợc trang bị kỹ năng chăm sóc, hỗ trợ trẻ
tự kỷ. Mỗi nhà can thiệp, mỗi chuyên gia khi làm việc với trẻ tự kỷ cần
chú ý cập nhật những thông tin, phƣơng pháp can thiệp mới và hiệu quả.
Tuy nhiên, quá trình tự cập nhật sẽ kém hiệu quả hơn so với việc đƣợc
đào tạo, tập huấn với nhiều nội dung đa dạng bởi những chuyên gia có
trình độ cao trong và ngoài nƣớc. Việc này cần có sự quan tâm, tạo điều
kiện từ các cơ quan, tổ chức có chứ năng và thẩm quyền. Bởi để tổ chức
đƣợc những buổi tập huấn thì một hay một vài cá nhân không có khả
năng tiến hành đƣợc. Nó liên quan đến nguồn kinh phí thực hiện và việc
liên hệ với chuyên gia. Hơn nữa công tác đào tạo, tập huấn chuyên môn
72
cho những ngƣời làm việc trong lĩnh vực chăm sóc, hỗ trợ trẻ tự kỷ cần
đƣợc triển khai trên diện rộng cho nhiều đối tƣợng: giáo viên mầm non,
giáo viên tiểu học, phụ huynh….để việc chăm sóc và hỗ trợ trẻ đƣợc
thống nhất, đồng bộ.
4. Về công tác truyền thông
Không thể phủ nhận vai trò của truyền thông trong đời sống. Càng
khẳng định tầm quan trọng của truyền thông trong việc gắn kết trẻ tự kỷ,
gia đình trẻ với cộng đồng qua các phƣơng tiện thông tin đại chúng đa
dạng. Qua các phƣơng tiện truyền thông, mọi tầng lớp trong xã hội sẽ có
cái nhìn sâu rộng hơn về tự kỷ và những khó khăn mà gia đình có trẻ tự
kỷ phải đối mặt. Từ đó, có sự thông cảm sẻ chia và hỗ trợ phù hợp khi
cần thiết. Trái lại, truyền thông cũng là kênh dễ gây hiểu nhầm và tạo tác
dụng tiêu cực trong nhận thức cộng đồng về tự kỷ nếu công tác truyền
thông không đƣợc quan tâm, giám sát. Vì vậy, để đây là nơi mang lại
những kiến thức chân thực, tăng cƣờng nhận thức của cộng đồng về tự
kỷ, công tác chăm sóc, hỗ trợ trẻ tự kỷ thì cần đƣợc quan tâm, chỉ đạo
sâu sát từ cấp cơ sở đến các cấp cao hơn. Sao cho kết quả mà truyền
thông mang lại giúp gắn kết đƣợc trẻ với cộng đồng, trẻ đƣợc yêu thƣơng
và tạo điều kiện bình đẳng trong cộng đồng để có cơ hội phát triển.
Trong tất cả những nỗ lực chăm sóc, hỗ trợ trẻ tự kỷ thì truyền thông
chính là một kênh, một nguồn lực hết sức hữu ích. Khi nhận thức của
cộng đồng về tự kỷ đƣợc cải thiện chắc chắn những gia đình có con tự kỷ
sẽ bớt đi nhiều gánh nặng, đƣợc chia sẻ nhiều hơn trên bƣớc đƣờng cùng
con cố gắng. Mỗi ngƣời trong xã hội nên là một kênh truyền thông hữu
ích cho trẻ tự kỷ và gia đình trẻ.
5. Về xây dựng, hoàn thiện các mô hình hỗ trợ trẻ tự kỷ và gia đình trẻ
Nói đến các mô hình hỗ trợ trẻ tự kỷ và gia đình trẻ thì dễ nhận
thấy sự đa dạng và ngày càng có thêm nhiều cơ sở hỗ trợ trẻ tự kỷ đƣợc
73
thành lập nhƣng hầu hết đều là các cơ sở tƣ nhân với mức phí rất cao và
những mô hình này tập trung chủ yếu ở các khu vực trung tâm của thành
phố. Vì vậy, để trẻ tự kỷ ở những địa bàn xa trung tâm nhƣ: Văn Giang –
Hƣng Yên, Gia Lâm… có thể nhận đƣợc sự can thiệp, hỗ trợ từ những
mô hình này là điều hết sức khó khăn. Đó là cả một sự đánh đổi, một sự
cố gắng gấp nhiều lần. Thêm vào đó, những con em của gia đình khó
khăn dẫu muốn cũng không đủ điều kiện để tham gia vào quá trình trị
liệu. Vậy là, trẻ tự kỷ bị bỏ qua giai đoạn can thiệp sớm, thậm chí không
đƣợc can thiệp. Cần có chƣơng trình hành động cụ thể về việc xây dựng,
hoàn thiện các mô hình hỗ trợ trẻ tự kỷ và gia đình trẻ để trẻ tự kỷ của
những gia đình ở khu vực xa trung tâm, gia đình khó khăn cũng có thể
tiếp cận với các dịch vụ hỗ trợ, cũng đƣợc tạo điều kiện để phát triển và
đƣợc đảm bảo quyền lợi nhƣ những trẻ em khác trong cộng đồng.
6. Về sự tham gia của ngành Công tác xã hội
Trẻ tự kỷ và gia đình có trẻ tự kỷ là đối tƣợng cần có sự hỗ trợ
thích đáng để tiến trình hòa nhập của trẻ bớt gian nan, ngành công tác xã
hội cùng với những ngành khác sẽ tạo nên mối liên kết đa ngành để sự hỗ
trợ đƣợc toàn diện hơn. Bằng việc thực hiện các vai trò dựa trên các nhu
cầu của gia đình của trẻ tự kỷ NVXH có thể góp sức đáng kể cho việc
đáp ứng nhu cầu của gia đình trẻ và giúp họ giải quyết những khó khăn
gặp phải trong cuộc sống. Để việc tiếp cận các nguồn lực hỗ trợ của các
gia đình có trẻ tự kỷ đƣợc hiệu quả, NVXH cần nắm đƣợc đa dạng thông
tin xung quanh cuộc sống và những vấn đề của trẻ và gia đình trẻ, xác
định đƣợc nhu cầu bức thiết để có động thái tích cực giúp đáp ứng tối đa
74
nhất nhu cầu của đối tƣợng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Tài liệu tiếng Anh
1. Tran Thi Minh Thu (2011), Employment opppotunities for
adolescents with austism a Vietnamese case, Linnaenus University.
2. Malcolm Payne (1997), Modern Society Theory, Nhà xuất bản
Lyceum Books, YNC
II. Tài liệu Tiếng Việt
1. Lê Chí An, Lourdes G. Balanon (2011), Quản trị CTXH chính sách
và hoạch định, Tài liệu tham khảo, Dự án đào tạo CTXH tại Việt
Nam, Hà Nội.
2. Đỗ Văn Bình, Erlinda Natulla (2011), Thực hành CTXH với các
nhóm và cộng đồng, Tài liệu tham khảo, Dự án đào tạo CTXH ở
Việt Nam, Hà Nội.
3. Phạm Huy Dũng (2007), bài giảng Công tác xã hội, NXB Đại học sƣ
phạm Hà Nội, Hà Nội
4. Trần Văn Kham (2009), “Hiểu về quan niệm Công tác xã hội”, tạp
chí khoa học, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
5. Bùi Thị Xuân Mai, Gina A.Yap, Joel C.Cam (2011), Nghề Công tác
xã hội nền tảng và triết lý, Tài liệu tham khảo, Dự án đào tạo CTXH
tại Việt Nam, Hà Nội.
6. Hội đồng phối hợp công tác phổ biến giáo dục pháp luật của chính
phủ (2010), Đặc san tuyên truyền pháp luật số 05, Hà Nội.
7. Liên hợp Quốc (1989),Công ƣớc quốc tế về quyền trẻ em, NewYork
8. Liên Hợp Quốc (2007), Công ƣớc quốc tế về quyền của ngƣời
khuyết tật, NewYork.
9. Lisa Rubble (2008), Nghiên cứu tình huống khám chữa bệnh, NXb
75
SAGE, Mỹ.
10. Nguyễn Văn Tuấn (2013), Công tác xã hội trong lĩnh vực chăm sóc
trẻ tự kỷ, tạp chí điện tử Lao động và Xã hội, Hà Nội.
11. Quốc hội (2010), Luật ngƣời khuyết tật, Hà Nội
12. Ủy ban các vấn đề xã hội (2010), báo cáo một số vấn đề lớn về việc tiếp
thu, giải trình và chỉnh lý dự án luật ngƣời khuyết tật, Hà Nội.
III. Tài liệu trực tuyến
15. Câu lạc bộ gia đình trẻ tự kỷ Hà Nội, Câu lạc bộ gia đình trẻ tự kỷ
TP Hà Nội,
www.tretuky.com, www.tretuky.com/baiviet/282/CAU-LAC-BO-
GIA-DINH-TRE-TU-KY-TP-H%C3%80-NOI.aspx, 25/10/2014.
16. Nguyễn Thị Hƣơng Giang, Nghiên cứu một số đặc điểm lâm sàng
của trẻ tự kỷ từ 18 tháng đến 36 tháng tuổi, www.nhp.org.vn,
www.nhp.org.vn/show.aspx?cat=041&nid=1304, 23/10/2014
17. Đào Thị Thu Thủy, Nghiên cứu hành vi ngôn ngữ của trẻ tự kỷ 5 - 6
tuổi, www.vnies.edu.vn, www.vnies.edu.vn/detail-thread-view-1-25-
413_nghien-cuu-hanh-vi-ngon-ngu-cua-tre-tu-ky-56-tuoi.html,
23/10/2014.
18. Thi Trân (Siencedaily), Can thiệp xã hội sớm giúp trẻ tự kỷ cản thiện
nhận thức,
www.doisong.vnexpress.net,
www.doisong.vnexpress.net/tintuc/suckhoe/can-thiep-xa-hoi-som-
76
giup-tre-tu-ky-cai-thien-nhan-thuc-2863612.html, 23/10/2014.
PHỤ LỤC
77
PHỤ LỤC 1
DANH SÁCH CÁC TRƢỜNG HỢP PHỎNG VẤN SÂU
DANH SÁCH CÁC TRƢỜNG HỢP PHỎNG VẤN SÂU
(Địa bàn huyện Văn Giang – Hƣng Yên)
TT
Họ và tên
Địa chỉ
Mô tả trƣờng hợp
Gđ cháu Trần Tùng Dƣơng
Xã Long Hƣng
1
Là con trai lớn trong gia đình có 2 anh em, năm nay 12 tuổi, phát hiện mắc chứng tự kỷ từ 4,5 tuổi. Đã trải qua quá trình can thiệp với nhiều hình thức nhƣng tiến bộ rất chậm và do điều kiện về kinh tế và đi lại nên gia đình quyết định để cháu ở nhà. Khi TD nhập học lớp hỗ trợ hòa nhập cháu đã ở nhà không can thiệp trong hai năm. Hiện tại D đã có ngôn ngữ và kỹ năng tự phjc vụ tốt
Gđ cháu Kiều Hoàng Việt
TT Văn Giang
2
Là con trai út trong gia đình có hai an hem, năm nay V 7 tuổi. Phát hiện mắc hội chứng tự kỷ năm 2,5 tuổi. Bố mẹ V đều là công nhân, mẹ sức khỏe yếu. V cũng trải qua nhiều hình thức can thiệp nhƣng ngắt quãng nên kém hiệu quả. Hiện tại V là học sinh của lớp hỗ trợ hòa nhập, cháu đã có ngôn ngữ và giảm đƣợc hành vi tăng động.
Gđ cháu Đỗ Đức Minh
TT Văn Giang
3
Là con trai cả trong gia đình có 2 anh em. Năm nay M 7 tuổi. M nhập học đƣợc 3 tháng tại lớp hỗ trợ hòa nhập. Hiện tại cháu đã có những từ đơn đầu tiên và nhân thức tăng lên nhiều. Kỹ năng
78
tự phục vụ bản thân tốt
Gđ cháu Đào Ngọc Minh
Xã Cửu Cao
4
M năm nay 5 tuổi, là con trai cả trong gia đình có 2 anh em. Phát hiện mắc hội chứng tự chứng từ năm 3,5 tuổi. Đã can thiệp trong khoảng 1 năm nhƣng ngắt quãng do điều kiện công việc của bố mẹ không thuận tiện cho việc đƣa đón.
Gđ cháu Nguyễn Huy Minh
Xã Cửu Cao
5
Là con trai cả trong gia đình có 2 anh em. M năm nay 5 tuổi, M đƣợc phát hiện mắc hội chứng tự kỷ từ 18 tháng tuổi và đã qua nhiều hình thức can thiệp ở rất nhiều cơ sở nhƣng không có hiệu quả. Hiện tại M chƣa có ngôn ngữ, khả năng tự phục vụ bản thân kém. Qua quá trình can thiệp tại lớp hỗ trợ hoà nhập M có tiến bộ rõ rệt về khả năng đáp ứng mệnh lệnh.
Gđ cháu Nguyễn Ngọc Hà Châu
Xã Đan Nhiễm
6
HC 5 tuổi, là con gái lớn trong gia đình có hai chị em. HC vừa mắc bệnh tim bẩm sinh vừa mắc hội chứng tự kỷ. HC nhận thức kém và nhanh quên. Hiện tại HC mới dần cải thiện kỹ năng vận động tinh và phản ứng nhanh hơn.
Gđ cháu Dƣơng Tƣờng Anh
Xã Đan Nhiễm
7
TA năm nay 4,5 tuổi, đã từng can thiệp cá nhân gần 1 năm nhƣng không có hiệu quả. Bố mẹ TA đều là công nhân, nhận thức của bố mẹ chậm nên việc đƣa đón TA là do ông nội cháu đảm nhận. Hiện tại TA đã có một vài âm, hành vi tăng động giảm đáng kể.
Gđ cháu Phùng Đăng Quang
Xã Đan Nhiễm
8
Q là học sinh lớn tuổi thứ hai của lớp hỗ trợ hòa nhập, năm nay Q 17 tuổi, là con trai lớn trong gia đình hai anh em. Q chậm nhận thức và kỹ năng phục vụ kém. Hiện tại Q đã làm tốt một số công việc đơn giản, bắt đầu làm quen đƣợc với số và chữ cái
79
Gđ cháu Ngô Duy Tùng
Xã Tân Tiến
9
T năm nay 4 tuổi, đƣợc phát hiện với hội chứng tự kỷ từ năm 2 tuổi. Do nhà ở xa các cơ sở can thiệp nên T chỉ ở nhà do mẹ chăm sóc chứ chƣa từng đƣợc can thiệp chuyên biệt. Khi tiếp nhận T vào lớp hỗ trợ hòa nhập T chƣa có ngôn ngữ và không có sự tƣơng tác.
Gđ cháu Nguyễn Quang Tuyến
Xã Cửu Cao
10
T năm nay 7 tuổi, con trai út trong gia đình có hai chị em. T đƣợc phát hiện và bắt đầu đƣợc can thiệp chuyên biệt từ 4 tuổi. Tuy nhiên, quá trình can thiệp bị ngắt quãng do nhà T quá xa các trung tâm can thiệp. Khi tiếp nhận, T mới có một số từ, T tăng động và nhận thức rất kém
Gđ cháu Nguyễn Thu Hằng
Xã Cửu Cao
11
H năm nay 19 tuổi. Là con gái lớn trong gia đình có hai chị em. H có ngôn ngữ, có sự tƣơng tác nhƣng chƣa nhanh nhẹn, nhận thức kém và chƣa biết cách sử dụng câu từ sao cho phù hợp ngữ cảnh. Bố mẹ đều là lao động tự do. H cũng đã từng can thiệp ở một số nơi nhƣng bị ngắt quãng nên hiệu quả can thiệp không cao.
Gđ cháu Ngô An Khánh
Xã Tân Tiến
12
K năm nay 4,5 tuổi, đƣợc phát hiện mắc hội chứng tự kỷ năm 3 tuổi, K có thêm chứng tim bẩm sinh nên cơ thể yếu. Bố mẹ đều là công nhân nên K can thiệp đƣợc 1 tháng tại một cơ sở nội thành Hà Nội nhƣng do kinh phí quá cao và khoảng cách di chuyển xa nên gia đình không thể cho con tiếp tục theo học
Gđ cháu Nguyễn Khánh An
TT Văn Giang
13
KA năm nay 2,5 tuổi, là con trai út trong gia đình có 2 chị em. KA đƣợc phát hiện khi 20 tháng. KA nhập học lớp hỗ trợ hòa nhập từ sau khi đƣợc chẩn đoán. Đến nay, ngôn ngữ tốt và tƣơng tác khá linh hoạt so với thời gian đầu mới nhập học.
80
Gđ cháu Phạm Huy Hùng
Xã Liên Nghĩa
14
H năm nay 13 tuổi, con trai cả của gia đình có 3 anh em. H đƣợc phát hiện mắc tự kỷ năm 4 tuổi, đã từng đƣợc can thiệp nhiều nơi với nhiều hình thức nhƣng sự tiến bộ chậm. H đã có ngôn ngữ nhƣng nhận thức chậm và kỹ năng tự phục vụ kém. Do điều kiện ở xa trung tâm thành phố và bố mẹ đều phải đi làm nên việc can thiệp của H bị ngắt quãng.
Gđ cháu Nguyễn Nhật Minh
Xã Đan Nhiễm
15
M năm nay 6 tuổi. Bố công tác ở xa, một mình mẹ M ở nhà lo việc chăm sóc M và em trai M. M có ngôn ngữ nhƣng nhận thức còn chậm và vận động tinh kém. M từng đƣợc can thiệp vài tháng nhƣng do điều kiện công việc của mẹ và khoảng cách xa nên M không thể tiếp tục quá trình can thiệp.
Gđ cháu Nguyễn Hoàng Hiếu
TT Văn Giang
16
H năm nay 4 tuổi, đƣợc phát hiện năm 2 tuổi, đến 2,5 tuổi H bắt đầu đƣợc can thiệp chuyên biệt. Lúc này, khả năng ngôn ngữ của H bắt đầu có tiến bộ. Sau đó việc can thiệp lại bị ngắt quãng do nhà ở xa trung tâm thành phố nên không có giáo viên nhận can thiệp tại nhà và gia đình không có ngƣời đƣa đón.
Gđ cháu Nguyễn Tuấn Anh
Xã Mễ Sở
17
TA năm nay 7 tuổi, TA đƣợc can thiệp lúc 4 tuổi, đến 5 tuổi mới bắt đầu có ngôn ngữ. TA có hành vi tăng động nặng và mắc bệnh máu khó đông. Mẹ phải nghỉ hẳn việc để ở nhà chăm sóc và nhờ ngƣời đến can thiệp nhƣng nhà ở xa và điều kiện kinh tế khó khăn nên quá trình can thiệp lại bị ngắt quãng
Gđ cháu Trƣơng Thành Đạt
Xã Phụng Công
18
Đ năm nay 4 tuổi, đƣợc phát hiện khi 2,5 tuổi. Sau đó đƣợc giáo viên can thiệp cá nhân tại nhà trong vòng 3 tháng, sau đó Đ tạm dừng can thiệp do giáo viên không thể di chuyển với quãng đƣờng quá dài.
81
Gđ cháu Nguyễn Đức Minh
Xã Xuân Quan
19
M năm nay 5,5 tuổi. Là con trai út trong gia đình có 2 chị em. M chƣa có nhiều từ và còn nói ngọng, nhận thức kém. M mới can thiệp đƣợc vài tháng tại nhà sau đó lại tạm dừng can thiệp
Gđ cháu Nguyễn Ngọc Sơn
Xã Thắng Lợi
20
S năm nay 6 tuổi, nhận thức chậm và chƣa có ngôn ngữ, nhà xa và công việc của bố mẹ đều bận nên S chƣa đƣợc can thiệp chuyên biệt
Gđ cháu Bùi Quang Sơn
Xã Nghĩa Trụ
21
S năm nay 6 tuổi, là con trai út trong gia đình có 3 chị em, S đã tham gia cấy gien gốc 2 lần nhƣng hành vi tăng động còn nặng, chƣa có ngôn ngữ và chƣa có khả năng phục vụ bản thân.
Gđ cháu Nguyễn Hải Anh
TT Văn Giang
22
HA năm nay 6 tuổi, con trai út trong gia đình có 3 chị em. Bố mẹ đi làm ở nƣớc ngoài nên HA ở nhà với bà và các chị. HA từng đƣợc can thiệp ở trung tâm chuyên biệt và có giáo viên đến nhà nhƣng các chị bận đi làm và bà sức khỏe yếu và không có khả năng đƣa đón nên quá trình can thiệp bị ngắt quãng, khả năng tƣơng tác của HA kém
Gđ cháu Nguyễn Quang Vinh
Xã Tân Tiến
23
V 30 tháng tuổi, chƣa có ngôn ngữ và khả năng đáp ứng kém. Nhận thức còn chậm hơn so với lứa tuổi. V đƣợc phát hiện khi 29 tháng. Chƣa từng đƣợc can thiệp.
Gđ cháu Nguyễn Thành Đạt
Xã Cửu Cao
24
Đ năm nay 10 tuổi, con trai út trong gia đình có 2 chị em. Đ có ngôn ngữ nhận thức kém và có hành vi tăng động. Vận động tinh của Đ kém. Gia đình ở xa, công việc của bố mẹ bận nên Đ mặc dù đƣợc can thiệp nhiều nơi, nhiều hình thức nhƣng quá trình bị ngắt quãng.
82
Gđ cháu Hoàng Bảo Khánh
TT Văn Giang
25
K năm nay 3 tuổi, chƣa có ngôn ngữ, khả năng tập trung kém, khả năng giao tiếp yếu, chƣa chủ động. Việc đƣa đón K đi can thiệp nhờ bà ngoại cháu vì bố mẹ tan ca muộn, bà ngoại vẫn còn công tác nên việc can thiệp của K cũng không đƣợc đều và liên tục do đi xa nên phụ thuộc vào công việc của bà
Gđ cháu Nguyễn Ngọc Nhi
Xã Long Hƣng
26
N năm nay 3,5 tuổi, chƣa có ngôn ngữ, khả năng giao tiếp kém, chƣa từng đƣợc can thiệp. Hiện tại N là học sinh của lớp hỗ trợ hòa nhập. Gia đình N ở xa nên việc có một cơ sở để con có thể đƣợc can thiệp chuyên biệt đáp ứng đƣợc nhu cầu bức thiết của gia đình cháu
Gđ cháu Trần Quốc Anh
Xã Tân Tiến
27
QA là con trai út của gia đình có 2 chị em, QA năm nay 5 tuổi, đã có ngôn ngữ nhƣng hành vi và kỷ luật kém. Bố đi làm xa, mẹ vẫn còn công tác, việc can thiệp cho QA chủ yếu do sự sắp xếp công việc của mẹ.
Gđ cháu Nguyễn Anh Đức
Xã Phụng Công
28
Đ năm nay 10 tuổi, đã có ngôn ngữ nhƣng nhiều từ nói chƣa rõ. Khả năng tự phục vụ bản thân yêu và chƣa chủ động tƣơng tác. Trƣớc khi trở thành học sinh của lớp hỗ trợ hòa nhập, Đ đƣợc can thiệp tại trung tâm cách nhà 25 km. Hiện tại, gia đình Đ đã giải quyết đƣợc vấn đề lớn đó là tìm đƣợc cơ sở can thiệp phù hợp cho con.
Gđ cháu Nguyễn Duy Hùng
Xã Long Hƣng
29
H năm nay 7 tuổi, ngôn ngữ có nhƣng nói khá ngọng, vận động tinh yếu nên chƣa thể cầm bút, H bắt đầu đƣợc can thiệp kh 4,5 tuổi. Bố mẹ H đều là công nhân, không có khả năng chi trả lâu dài cho phí can thiệp tại nhà của H. Hiện tại H là học sinh của
83
lớp hỗ trợ hòa nhập và đã bắt đầu có tiến bộ trong việc chỉnh ngọng, H đƣợc miễn giảm học phí nên gia đình cũng bớt đi nỗi lo lắng về chi phí can thiệp
Gđ cháu Nguyễn Hoàng Anh
Xã Đan Nhiễm
30
HA năm nay 3 tuổi, đƣợc phát hiện mắc hội chứng tự kỷ khi 20 tháng tuổi. Chƣa có ngôn ngữ, khả năng đáp ứng kém. Gia đình khó khăn nên HA mới chỉ đƣợc can thiệp thời gian ngắn và phải tạm dừng.
84
PHỤ LỤC 2
Mẫu phỏng vấn sâu
Trƣờng hợp PV sâu số 10 (Theo danh sách trƣờng hợp PV sâu)
1. Anh chị có thể chia sẻ một vài thông tin về con không?
Cháu năm nay 2 tuổi rưỡi, gia đình chị phát hiện cháu mắc hội
chứng tự kỷ khi cháu được 2 tuổi. Khi đó, cháu chưa nói được một từ nào
cả trong khi các bạn khác đã nói và biết rất nhiều thứ. Cháu là con trai
út của gia đình chị, trên cháu là một chị gái, chị gái cháu thì lại rất
nhanh nhẹn.
2. Cháu đã từng đƣợc can thiệp ở cơ sở nào chƣa? Nếu có thì trong bao
lâu?
Chị cho cháu đi học được 3 tháng ở một trung tâm gần đường
Láng, sau đó cháu ốm quá nên chị cho cháu về nhà và mời cô giáo về
dạy với mức học phí 200 nghìn/giờ nhưng do cô đi xa quá nên dạy được
một thời gian ngắn cô không dạy cháu được nữa.
3. Anh chị có thể chia sẻ về cảm giác của mình khi con đƣợc phát hiện
mắc hội chứng tự kỷ?
Ban đầu, chị thấy cháu chậm nói và có một số biểu hiện bất thường
nên chị cho cháu đi khám, lúc đó chị chưa hiểu nhiều về hội chứng tự kỷ.
Sau khi bác sĩ chẩn đoán cháu mắc hội chứng tự kỷ chị mới tìm hiểu
nhiều hơn và gần như rơi vào trạng thái trầm cảm. Vợ chồng chị có thời
gian còn không nói chuyện gì với nhau vì tình trạng của con.
4. Sau khi cháu đƣợc phát hiện mắc tự kỷ, điều đầu tiên mà anh chị nghĩ
đến là gì?
Chị có cảm giác như mọi thứ đang sụp đổ trước mắt mà mình
85
không làm gì được. Chị bị bế tắc trong suốt một thời gian dài.
5. Theo anh chị, việc trong gia đình có thành viên mắc chứng tự kỷ có tác
động nhƣ thế nào đến đời sống gia đình? Trong cuộc sống hàng ngày,
cháu và gia đình đã gặp phải những khó khăn nào?
Thực sự là có quá nhiều thay đổi và những ảnh hưởng không tốt
với gia đình chị và cháu khi cháu được chẩn đoán mắc hội chứng tự kỷ.
Ban đầu chưa hiểu và chưa muốn chấp nhận vấn đề nên hai vợ chồng chị
thường xuyên cãi vã, thậm chí chồng chị còn đăng ký làm ca đêm để
không về nhà nữa, chị thì bế tắc trong việc tìm hướng can thiệp cho con.
Chị đã quyết định nghỉ việc để ở nhà chăm sóc và dạy con. Có những
hàng xóm không thông cảm còn không cho phép con của họ chơi với
cháu, ban đầu trường mầm non còn không nhận cháu, chị đã phải gào
khóc khi xin cho con đi học. Chị cảm thấy khổ tâm lắm. Nếu cứ như thế
này không biết bao giờ con mới tiến bộ (chị khóc)
6. Ở địa phƣơng mình đã có cơ sở hỗ trợ chuyên biệt nào chƣa?
Ở khu vực nhà chị không có cơ sở can thiệp chuyên biệt nào. Vả lại
do xa Hà Nội nên cũng không có giáo viên về nhà dạy em ạ.
7. Cháu đang đƣợc can thiệp theo hình thức nào? Nếu đang đƣợc can
thiệp tập trung tại cơ sở chuyên biệt thì gia đình phải di chuyển với
khoảng cách bao xa, ai là ngƣời đƣa cháu đến nơi can thiệp mỗi ngày?
Thời gian trước chị cho cháu học ở đường Láng nhưng do điều
kiện kinh tế và sức khỏe của cháu chị lại không sang được nữa. Mỗi lần
sang bên đó chị phải thuê xe vì nhà chị cách cơ sở can thiệp gần 40 km.
Cứ một tuần học 3 buổi là 1 triệu tiền xe em ạ.
8. Anh chị có thể cho biêt mức học phí can thiệp hiện tại cho việc can
thiệp của cháu là bao nhiêu/tháng?
Thời gian đó cơ sở thu học phí cho trẻ học tại trung tâm là 150.000
đồng/giờ can thiệp. Gia đình khó khăn nhưng chị cứ cố được ngày nào
86
thì hay ngày đó em ạ.
9. Anh chị có nhận đƣợc bất kỳ sự hỗ trợ nào từ địa phƣơng hay cơ sở
can thiệp không? Nếu có, đó là những hỗ trợ gì?
Không có em ạ.
10. Anh chị có mong muốn, nguyện vọng gì cho việc can thiệp, hỗ trợ trẻ
không?
Chị chỉ mong con có một cơ sở nào đó ở gần đây mà gia đình chị
có thể tham gia để giúp con can thiệp. Có lẽ đó là mong muốn cháy bỏng
nhất lúc này vì cháu đang ở giai đoạn vàng để can thiệp. Bây giờ chị và
87
một số chị phụ huynh khác cứ như mò kim đáy bể.
Trƣờng hợp PV sâu số 1 (Theo danh sách các trƣờng hợp PV sâu)
1. Chị cho biết năm nay cháu bao nhiêu tuổi rồi?
Năm nay cháu 12 tuồi rồi em ạ.
2. Gia đình phát hiện cháu mắc hội chứng tự kỷ từ khi nào?
Gia đình chị phát hiện cháu mắc tự kỷ cũng khá lâu rồi. Nhưng
thời của D có mấy ai biết đến tự kỷ đâu em nên các nơi can thiệp rất ít,
chị có tìm nhưng những khu vực lân cận nhà chị không nơi nào cả. Mãi
sau này c quyết định nghỉ việc để đưa cháu đi can thiệp bên Hà Nội, khi
đó ai bảo đi đâu chị đều đi đó, đến bây giờ cháu cũng chỉ chậm thế thôi
em ạ.
3. Chị có thể kể qua về một số hình thức mà D đã từng đƣợc can thiệp
không ạ?
Cháu thì can thiệp nhiều hình thức lắm rồi. Từ đi trung tâm đến
cấy chỉ, bấm huyệt. Sau đó, do đi nhiều chị cũng mệt mỏi mà nói thật
kinh tế có hạn, chị lại không thể nghỉ việc nên chị cho D ở nhà gửi D cho
một cô trông nhóm trẻ.
4. Thời gian phát hiện D mắc tự kỷ, gia đình chị có gì thay đổi không?
Lúc đó mọi người có ai biết tự kỷ là như thể nào đâu em. Sauk hi
nghe bác sĩ trao đối về tình trạng của con chị mới chỉ thấy buồn bã thôi,
sau đó về đọc thêm tài liệu về tự kỷ chị lại thấy sợ. Mãi 7 năm sau chị
mới dám có ý định sinh em D.
5. Việc trong gia đình có thành viên mắc chứng tự kỷ có làm cho cuộc
sống của gia đình mình khó khăn hơn không?
Có chứ em. Suốt cả thời gian từ sau khi đi khám cho D về ban đầu
gia đình chị có chút mâu thuẫn vì việc đổ lỗi lẫn nhau rồi hàng xóm
không hiểu bảo nhà có thằng câm, người độc địa hơn thì nói nhà có
thằng thần kinh. Giai đoạn đó chị nản lắm em ạ. Chỉ có suy nghĩ mà già
88
người đi. Bây giờ đỡ hơn rồi, mọi người lâu rồi cũng hiểu và thông cảm
cho nhưng chị lúc nào cũng lo cho tương lai sau này của con. Năm nay
12 tuổi rồi mà vẫn còn dại lắm (khóc)
6. Vậy chị có mong muốn gì với con và cho gia đình?
Mong sự cảm thông nhiều hơn nữa của tất cả mọi người, các cháu
không có tội, chúng cần nhiều tình thương hơn là sự xa lánh. Một điều
nữa đó là với những nơi xa trung tâm như ở đây thì rất cần có môi
trường học tập phù hợp cho không chỉ riêng D mà còn nhiều cháu khác
89
nữa.
PHỤ LỤC 3
Một số hình ảnh hoạt động của “Lớp hỗ trợ hoà nhập”
90
Giờ học cá nhân: Can thiệp ngôn ngữ
Giờ vận động tinh của HC – xã Dương Xá – Gia Lâm
91
Giờ hoạt động nhóm
92
Giờ thư giãn của cô và trò
93
Cô và trò đón giáng sinh