Luận Văn "VAI TRÒ CỦA NHTW TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG"
1
LỜI NÓI ĐẦU
Trong nền kinh tế thị trường, tiền trở thành một phương tiện
đảm bảo cho mọi hoạt động kinh tế diễn ra một cách bình thường.
Hoạt động của tiền trong nền kinh tế luôn gắn liền với các hiện tượng
kinh tế như: lạm phát, chu kỳ kinh doanh, thâm hụt ngân sách ... Tiền
liên quan đến các quyết định của các cá nhân và ảnh hưởng đến tình
trạng chung của nền kinh tế quốc gia.
Liên quan đến sự vận động của tiền trong nền kinh tế là hoạt
động của các tổ chức tài chính (các ngân hàng, công ty bảo hiểm,
các quỹ tương trợ... ) và thị trường tài chính (thị trường chứng khoán,
thị trường cổ phiếu và hối đoái). Các thị trường tài chính và các tổ
chức tài chính không chỉ tác động đến đời sống hàng ngày của mỗi cá
nhân mà còn liên quan đến sự luân chuyển của những dòng vốn lớn
trong nền kinh tế, tác động đến hiệu quả hoạt động của các doanh
nghiệp và đến cả tình trạng kinh tế của một nước.
Như chúng ta đã biết, nếu vốn được coi là một trong những
nguồn lực quan trọng và đóng vai trò quyết định đối với sự phát triển
kinh tế, nó có một tính chất khan hiếm. Vậy vấn đề đặt ra làm thế nào
dể sử dụngmột cách triệt để và có hiệu quả nhất nguồn vốn trong
nước và ngoài nước? Để đạt được điều này, trước hết cần phải có một
hệ thống ngân hàng phát triển đồng bộ, có sự phối hợp nhịp nhàng
giữa ngân hàng Nhà nước (NHNN) hay ngân hàng Trung Ương
(NHTW) với các ngân hàng thương mại (NHTM) trong việc thực
hiện chính sách tiền tệ. Ở đó, vai trò đặc biệt của NHTW là không
2
thể thay thế được.
Chính vì vậy mà bài viết này có tên là:
“VAI TRÒ CỦA NHTW TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG”
C MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
CHƯƠNG I : VAI TRÒ CỦA NHTW TRONG NỀN KINH TẾ
THỊ TRƯỜNG. 1
1. Khái niệm NHTW 2
2. Chức năng, nhiệm vụ của NHTW trong nền kinh tế thị
trường 4
2.1. NHNN là Ngân hàng phát hành 6
2.2. Ngân hàng của Chính Phủ 9
2.3. Ngân hàng của các Ngân hàng 12
2.4. NHTW và việc thực hiện chính sách tiền tệ 17
CHƯƠNG II: NHNN VIỆT NAM TRONG SỰ CHUYỂN ĐỔI TỪ
NỀN KINH TẾ KẾ HOẠCH HOÁ TẬP TRUNG
SANG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG CÓ SỰ QUẢN
LÝ CỦA NHÀ NƯỚC. 28
1. Sự cần thiết phải xây dựng các thể chế tài chính hữu hiệu
trong nền kinh tế chuyển tiếp.29
2. Vai trò của khu vực Ngân hàng. 32
3. Việt Nam trong quá trình đổi mới và hoàn thiện hệ thống Ngân
hàng 33
CHƯƠNG III : MỘT SỐ GIẢI PHÁP CỦNG CỐ VÀ HỖ TRỢ
VAI TRÒ CỦA NHTW TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY. 34
3
1. Một số vấn đề còn tồn tại trong hoạt động của NHTW.
2. Một số giải pháp khắc phục37
KẾT LUẬN 47
TÀI LIỆU THAM KHẢO
HƯƠNG I
VAI TRÒ CỦA NHTW TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
I. KHÁI NIỆM NHTW
Mọi quốc gia đều có NHTW, nhưng tên gọi có thể khác nhau
(ngân hàng trung tâm, ngân hàng Nhà nước, quỹ dự trữ liên bang
...). Tiền thân của ngân hàng trung ương là ngân hàng phát hành tiền.
Khi ngân hàng có tên là NHTW thì ngân hàng này đảm nhiệm việc
độc quyền phát hành tiền và quản lý Nhà nước.
Do tính chất hoạt động của NHTW mà ngân hàng này đã nắm
trong tay công cụ quản lý chủ yếu nhất của Nhà nước trong quản lý
kinh tế vĩ mô là chính sách tiền tệ. NHTW là một bộ phận trong bộ
máy quản lý của Nhà nước.
NHTW là cơ quan duy nhất có quyền phát hành tiền (in tiền) vì
thế nó là ngân hàng duy nhất không có khả năng bị phá sản. Nó đóng
vai trò chủ ngân hàng đối với các ngân hàng thương mại, đảm bảo
cho hệ thống ngân hàng hoạt động không trục trặc và còn đóng vai
trò chủ ngân hàng đối với Chính phủ, gánh trách nhiệm kiểm soát
việc cung ứng tiền tệ và việc tài trợ cho thâm hụt ngân sách của
Chính phủ.
II. CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ CỦA NHTW TRONG NỀN
4
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG.
Hoạt động của NHNN và sự chỉ đạo chính sách tiền tệ của nó
liên quan đến các hoạt động tác động đến bảng quyết toán tài sản của
nó (tài sản có và tài sản nợ)
Tài sản có Tài sản nợ
- Chứng khoán của Chính phủ - Tiền giấy của NHNN đang lưu
& cơ quan Chính phủ, hối phiếu thông
được ngân hàng chấp nhận - Tiền gửi ngân hàng
- Tiền cho vay chiết khấu - Tiền gửi của kho bạc
- Tiền đúc - Tiền gửi của nước ngoài và
- Tiền mặt đang thu tiền gửi khác
- Những tài khoản khác - Tiền mặt trả sau
- Các khoản nợ khác và tài
khoản tư bản
Bảng quyết toán tài sản của ngân hàng cho thấy các nguồn vốn
và cách sử dụng vốn của ngân hàng. Thông qua bảng quyết toán tài
sản, người ta có thể đánh giá chính xác tình trạng hoạt động của ngân
hàng.
+ Tài sản có: gồm những chứng khoán mà NHTW nắm giữ gồm
có trước hết là chứng khoán kho bạc nhưng trước đây gồm cả hối
phiếu được ngân hàng chấp nhận. Tổng kim ngạch chứng khoán do
các nghiệp vụ thị trường mở quyết định. Đây là loại tài sản có quan
trọng trong bảng tổng kết và tài sản của NHTW.
Cho vay chiết khấu: đó là những khoản tiền mà NHTW cho các
ngân hàng vay và kim ngạch vay chịu tác động của lãi suất mà
NHTW ânăng suất định cho những khoản vay đó (lãi suất chiết
khấu).
Hai tài sản có trên đóng một vai trò quan trọng trong bảng
5
quyết toán tài sản của NHTW
Lý do thứ nhất: những thay đổi trong các khoản tài khoản có
này sẽ dẫn đến các thay đổi về tiền dự trữ và tiếp sau đó là những
thay đổi về lượng tiền cung ứng.
Thứ hai: do các tài sản này (chứng khoán Chính phủ và tiền cho
vay chiết khấu) đem lại lãi suất trong khi các tài sản nợ (đồng tiền
lưu hành và tiền dự trữ) không phải thanh toán lãi suất. Như vậy tài
sản có mang lại thu nhập, tài sản nợ không phải tốn kém gì.
Các chứng khoán Chính phủ gồm các tài khoản chứng khoán
của NHTW do kho bạc phát hành. NHTW cung cấp tiền dự trữ cho hệ
thống ngân hàng hoạt động bằng cách mua chứng khoán do dó làm
tăng tài sản có của nó. Một sự tăng chứng khoán Chính phủ do
NHTW nắm giữ dẫn đến một sự tăng lượng tiền cung ứng. Ngoài ra,
NHTW có thể cung cấp tiền dự trữ cho hệ thống ngân hàng bằng cách
cho các ngân hàng vay chiết khấu. Một sự tăng tiền cho vay chiết
khấu cũng có thể là một nguồn gây ra sự tăng lượng tiền cung ứng.
Khi NHTW cung cấp cho hệ thống ngân hàng thêm một đồng tiền gửi
dự trữ thì tiền gửi tăng một bội số của tiền này. Quá trình này được
gọi là tạo ra bội số tiền gửi.
+ Tài sản nợ :
- Tiền giấy NHTW đang lưu thông : NHTW phát hành đồng tiền
giấy. Đồng tiền đang lưu hành là tổng số lượng tiền đang lưu thông
trong tay dân chúng (ở bên ngoài ngân hàng). Đây là một thành phần
quan trọng của lượng tiền cung ứng (đồng tiền do các tổ chức nhận
tiền gửi nắm giữ cũng là tài sản nợ của NHTW nhưng được nộp vào
khoản dự trữ).
- Tiền gửi ngân hàng : tất cả ngân hàng đều có một tài khoản ở
NHTW, ở đó bao gồm các khoản tiền gửi của các ngân hàng gửi tại
NHTW. Những khoản tiền này cộng với tiền mặt tại các ngân hàng
(được coi là tiền két bởi nó được để trong các két ngâng hàng) được
6
gọi là các khoản tiền dự trữ.
Các khoản tiền dự trữ là tài sản có của các ngân hàng như là các
tài sản nợ của NHTW. Một sự tăng các khoản tiền dự trữ dẫn đến một
sự tăng mức tiền gửi và do đó tăng lượng tiền cung ứng.
Ở đây, tiền dự trữ có thể được chia làm hai loại : tiền dự trữ mà
NHTW đòi hỏi các ngân hàng lưu trữ (tiền dự trữ bắt buộc) và tiền
dự trữ mà các ngân hàng lưu giữ theo ý muốn (tiền dự trữ quá mức).
Hai tài sản nợ trong bảng quyết toán : đồng tiền lưu hành và các
khoản tiền dự trữ, thường được gọi là các tài sản nợ về tiền tệ của
NHTW. Chúng là một phần quan trọng của lượng tiền cung ứng, bởi
vì việc tăng một trong hai thứ hoặc cả hai thứ sẽ dẫn đến một sự tăng
lượng tiền cung ứng (mọi thứ khác không đổi).
Tổng tài sản nợ tiền tệ của NHTW và các tài sản nợ tiền tệ của
kho bạc (tiền mặt kho bạc đang lưu hành) gọi là cơ số tiền tệ khi nói
về cơ số tiền tệ, chúng ta chỉ tập trung vào tài sản nợ tiền tệ của
NHTW bởi tài sản nợ tiền tệ của kho bạc chỉ tieeu tới không quá 10%
của cơ số tiền nói trên.
Cơ số tiền tệ (MB) còn gọi là tiền có quyền lực cao, hình thành
từ các tài sản nợ tiền trong lưu thông(C) cộng dự trữ (R).
MB = C + R.
Để có thể hiểu rõ hơn về bảng quyết toán tài sản của NHTW
chúng ta sẽ đi vào nghiên cứu các chức năng và vai trò của NHTW
trong nền kinh tế thị trường.
Vai trò đặc trưng nhất của NHNN là ngân hàng phát hành ngân
hàng của Nhà nước và ngân hàng của các ngân hàng.
2.1. Ngân hàng Nhà nước là ngân hàng phát hành.
Nhiệm vụ bao trùm nhất là hoạch định và thực thi chính sách
tiền tệ theo cơ chế thị trường.
Khi Ngân hàng phát hành TW ra đời thì toàn bộ việc phát hành
7
tiền được tập trung vào NHTW theo chế độ độc quyền. Đây là chức
năng cơ bản và vốn có của NHTW. Tiền do NHTW phát hành là
phương tiện thanh toán hợp pháp duy nhất.
Với chức năng phát hành, NHNN không chỉ phát hành tiền mặt
mà cả phương tiện lưu thông nói chung. Trách nhiệm của NHTW là
bảo đảm cung ứng đủ, không để thiếu phương tiện thanh toán (kể cả
tiền mặt), làm sao cho tổng cung phù hợp với tổng cầu tiền tệ.
Ở đây, một vấn đề có tính nguyên tắc là đòi hỏi nghiêm ngặt
đối với việc vận hành chính sách tiền tệ là không được phát hành tiền
bù đắp thiếu hụt ngân sách.
Hoạt động tín dụng không tách riêng mà nằm trong hoạt động
tiền tệ. Phát hành tiền không còn là nguồn vốn tín dụng, mà chỉ là
hình thức cung ứng tiền trung ương, đáp ứng nhu cầu phương tiện
thanh toán của các ngân hàng và nền kinh tế. Tiền mặt không phải là
tất cả, mà nằm trong lượng tiền cung ứng. Trước đây, quản lý tiền
mặt đã từng là công cụ quản lý duy nhất, là nhiệm vụ thường xuyên
hàng đầu của NHNN. Giờ đây, tiền mặt chỉ là phương tiện thanh
toán, xã hội cần bao nhiêu đều được đáp ứng đủ. Quản lý tiền mặt
được thay bằng khái niệm quản lý lượng tiền cung ứng.
2.2. Ngân hàng của chính phủ.
Ngân hàng Nhà nước không chỉ được phép thay mặt điều hành
kiểm soát hoạt động tiền tệ và toàn hệ thống các tổ chức tín dụng, mà
còn làm các công việc ngân hàng của Nhà nước như in đúc tiền ,quản
lý dự trữ ngoại hối của đất nước, ký kết các hiệp định Nhà nước về
ngân hàng và tín dụng, đại diện cho chính phủ tại các tổ chức tài
chính, tiền tệ quốc tế, quản lý quỹ của ngân sách nhà nước ...
Với vai trò là chủ ngân hàng của chính phủ, ngân hàng TW phải
đảm bảo rằng Chính phủ có khả năng đáp ứng những khoản chi tiêu
khi nó đang thâm hụt.
Nếu không tính đến nguồn vay từ bên ngoài thì có hai cách để
8
tài trợ cho thâm hụt ngân sách.
Thứ nhất, Chính phủ có thể vay tiền của dân ở trong nước bằng
cách bán ra những chứng khoán tài chính, kỳ phiếu của Chính phủ và
công trái cho dân chúng.
Chính phủ bán các chứng khoán cho Ngân hàn TW lấy tiền mặt
bù đắp cho khoản thâm hụt. Đến lượt mình, Ngân hàng TW tiến hành
một nghiệp vụ thị trường mở, bán những chứng khoán này trên thị
trường mở để lấy tiền mặt. Khi quá trình này kết thúc, những người
dân giữ trong tay những chứng khoán có lãi của chính phủ, nhưng
lượng cung ứng tiền tệ không thay đổi. Qua việc chi dùng khoản
thâm hụt, Chính phủ đã đưa trở lại nền kinh tế số tiền mặt mà Chính
phủ đã rút ra khi bán các chứng khoán lấy tiền mặt. Và NHTW qua
việc án ra các chứng khoán này, đã thu hồi lại số tiền mặt cho Chính
phủ vay lúc đầu.
Thứ hai, Chính phủ có thể tài trợ cho thâm hụt ngân sách bằng
cách in thêm tiền. Thực ra, Chính phủ bán chứng khoán cho NHTW
lấy tiền mặt để trang trải cho khoản chi tiêu vượt quá khoản thu thuế.
Khối lượng các chứng khoán Chính phủ nằm trong các ngân hàng
thương mại hay ở cá nhân các công dân không thay đổi nhưng cơ số
tiền đã tăng lên lượng cung ứng tiền sẽ tăng lên nhiều hơn do có hệ
số tiền.
2.3. Ngân hàng của các ngân hàng.
Thực hiện chức năng này, NHTW đóng vai trò là ngân hàng còn
các ngân hàng thương mại và các trung gian tài chính (quỹ tín dụng,
công ty bảo hiểm...) là các khách hàng của NHTW.
NHTW là ngân hàng của các ngân hàng, được thực hiện thông
qua nhiều mối quan hệ :
a. NHNN tiến hành tái cấp vốn, thực hiện vai trò người vay
cuối cùng, qua nghiệp vụ tái chiết khấu đối với các ngân hàng thương
9
mại. Thực chất, đây là loại tín dụng có thế chấp giấy tờ có giá ngắn
hạn. Qua nghiệp vụ này, NHTW thực hiện kiểm soát số lượng và chất
lượng tín dụng của các ngân hàng thương mại.
Ta biết rằng, bất kỳ một hệ thống NHTM nào có nguồn dự trữ ít
ỏi cũng sẽ dễ bị ảnh hưởng bởi những cơn hoảng loạn tài chính. Hoản
loạn ngân hàng xảy ra khi các ngân hàng không có khả năng đáp ứng
nhu cầu rút ra của người gửi, khi đó ngân hàng buộc phải chấp nhận
phá sản. Để tránh được những cơn hoảng loạn tài chính, cần phải có
sự đảm bảo rằng các ngân hàng có thể nhận được tiền mặt khi có nhu
cầu thực sự. Nguy cơ của những cơn hoảng loạn tài chính có thể
tránh được hoặc ít nhất giảm bớt được đáng kể khi biết rằng NHTW
sẵn sàng đóng vai trò cứu cánh cho vay cuối cùng khi không còn
phương sách cứu vãn nào khác. NHNN luôn có được khả năng này vì
nó là ngân hàng duy nhất có quyền phát hành tiền. Vai trò của
NHTW là cứu cánh cho vay cuối cùng không chỉ đơn thuần duy trì
được hệ thống tài chính hiện đại tinh vi và gắn bó chặt chẽ với nhau,
trong đó sự thất bại của một ngân hàng sẽ kéo theo sự sụp đổ của
nhiều ngân hàng khác. Nó cũng làm giảm tính bất khả đoán lớn trong
quá trình kiểm soát tiền tệ hàng ngày.
b. NHNN thực hiện có hiệu quả hơn nữa chức năng than tra
kiểm soát thông qua hai kênh :
Kiểm soát hệ tiền tệ, bảo đảm tương quan giữa tổng cung và
tổng cầu tiền tệ, vừa tạo điều kiện thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ
mô, vừa kiềm chế lạm phát, giữ cho nền kinh tế ổn định và phát triển.
Kiểm soát các NHTM nhằm gìn giữ và đảm bảo an toàn cho hệ
thống các tổ chức tín dụng, giúp cho hoạt động các ngân hàng thương
mại lành mạnh, ổn định và có hiệu quả.
Việc kiểm soát các NHTM chủ yếu thông qua hệ thống các
công cụ kinh tế, không can thiệp trực tiếp, quá sân vào hoạt động
10
kinh doanh của họ.
c. NHNN tìm kiếm các hình thức và phương tiện thanh toán
thay tiền mặt, tổ chức hệ thống thanh toán trong nền kinh tế quốc dân
bao gồm hệ thống thanh toán trong cùng một ngân hàng, thanh toán
giữa các ngân hàng, thanh toán bù trừ trên từng địa bàn từ trung ương
đến địa phương.
d. NHTW có trách nhiệm và quan tâm trong việc thành lập và
phát triển thị trường tiền tệ và thị trường vốn dài hạn để từng bước
chuyển các quan hệ vay mượn truyền thống, trực tiếp với các NHTM
qua quan hệ gián tiếp thông qua các thị trường này và cũng tạo điều
kiện để NHNN triển khai các nghiệp vụ thị trường mở.
Qua việc phân tích ở trên chúng ta thấy được phần nào chức
năng cũng như vai trò của NHTW trong nền kinh tế. Nhưng để
NHTW thực sự trở thành ngân hàng của Nhà nước, ngân hàng của
các ngân hàng thì nó phải thực hiện tốt chính sách tiền tệ.
2.4. NHTW và việc thực hiện chính sách tiền tệ.
Chính sách tiền tệ là một bộ phận của chính sách kinh tế xã hội
của Nhà nước. Nó là công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước trong lĩnh
vực tiền tệ do NHTW khởi thảo và thực hiện mục tiêu cao nhất là ổn
định giá trị đồng tiền để từ đó ổn định và tăng truưởng kinh tế.
Trong nền kinh tế thị trường, NHTW không chỉ độc quyền phát
hành tiền mà còn điều tiết lượng tiền cung ứng tức là NHTW phải
thực hiện chính sách tiền tệ không gây ra lạm phát, ổn định giá trị
đồng tiền. Chính vì vậy, sự ổn định tiền tệ là nhệm vụ thường trực
của NHTW, là định hướng chỉ đạo toàn bộ hoạt động của NHTW.
a. Chính sách tiền tệ là một phương thức theo đó NHTW kiểm
soát và điều tiết khối lượng tiền tệ cung ứng.
Sự chỉ đạo chính sách tiền tệ của NHTW tác động đến việc tăng
giảm lượng tiền cung ứng cho nền kinh tế. Các biến chuyển trong
11
lượng tiền cung ứng tác động đến sức khoẻ của nền kinh tế và do đó
ảnh hưởng đến đời sống của mọi người chúng ta. Điều đó nó lên tầm
quan trọng của chính sách tiền tệ.
NHTW thực hiện chính sách tiền tệ tức là quá trình NHTW
kiểm soát tiền tệ sao cho khối lượng tiền tệ cân đối với mức tăng
tôngr sản phẩm quốc dân danh nghĩa, cân đối giữa tổng cung và tổng
cầu về tiền. Một chính sách tiền tệ đúng đắn phải hướng vào việc
khống chế nguồn gốc làm tăng hoặc giảm lượng tiền cung ứng, làm
tăng hoặc giảm khối lượng tiền tệ nói chung chứ không phải chỉ
khống chế tiền mặt.
Chính sách tiền tệ của một quốc gia có thể được xác định theo
hai hướng:
Chính sách thắt chặt tiền tệ được dùng trong những thời kỳ có
lạm phát cao; với mục đích là làm giảm lượng tiền cung ứng. Từ đó
dẫn tới việc lãi suất tăng, tiêu dùng và đầu tư giảm, xuất khẩu vòng
giảm, GNP giảm, việc làm giảm thất nghiệp tăng, kìm hãm sự phát
triển quá nóng của nền kinh tế.
Chính sách mở rộng tiền tệ được dùng khi nền kinh tế suy thoái.
Mục đích là tăng lượng tiền cung ứng, lãi suất giảm. Và từ đó tiêu
dùng và đầu tư tăng, xuất khẩu vòng tăng, GNP tăng, việc làm tăng,
thất nghiệp giảm.
b. Mục tiêu của chính sách tiền tệ
Do chính sách tiền tệ là một phần của chính sách kinh tế vĩ mô
nên những mục tiêu của chính sách tiền tệ cũng là mục tiêu của chính
sách kinh tế vĩ mô.
NHTW thường đề ra 6 mục tiêu cơ bản của chính sách tiền tệ
của mình. Đó là việc làm cao, ổn định lãi suất, ổn định thị trường tài
chính và ổn định thị trường ngoại hối. Đây là những mục tiêu cuối
12
cùng của chính sách tiền tệ.
Nếu nền kinh tế đang diễn ra những vấn đề đó thì chính sách
tiền tệ nhằm làm cho mọi hoạt động kinh tế không tách rời những
mục tiêu đó. Nếu những vấn đề đó chưa có thì chính sách tiền tệ phải
luôn hướng tới chung.
Thử thách lớn nhất trong việc hoạch định và thực thi chính sách
tiền tệ thông qua các công cụ kinh tế vĩ mô chính là xử lý hài hoà
hàng loạt mối quan hệ vốn mâu thuẫn với nhau trên tất cả các công
cụ đó: Giữa mục tiêu kiềm chế lạm phát và mục tiêu tăng trưởng kinh
tế; giữa lợi ích chung (kiềm chế lạm phát và tăng trưởng kinh tế) với
lợi ích của các NHTM và tổ chức tín dụng giữa lợi ích người gửi tiền
với nhà kinh doanh tiền tệ và người vay vốn. Chính vì vậy cần tìm
đến những điểm dung hoà khi tìm ra những mục tiêu trung gian,
những mục tiêu được coi là cấp bách nhất cho từng giai đoạn cụ thể.
MS
MS1 MS2
i
i
Việc lựa chọn các mục tiêu trung gian phải xuất phát từ việc
thiết lập càng chặt chẽ, càng tốt mối quan hệ qua lại thật hoàn hảo
1
2
i
i2 i1
giữa mục tiêu trung gian với mục tiêu cuối cùng. Mục tiêu trung gian
Md2
Md2
phải là mục tiêu mà NHTM bằng việc sử dụng những phương tiện
Md1
Md1
hiện có, có thể kiểm soát được, giải quyết được.
Lượng tiền
Lượng tiền
M (hình a)
M1 M2 (hình b)
Vậy những mục tiêu chính là mục tiêu về tỷ suất lợi tức và mục
tiêu về số lượng cung tiền, số lưọng có số tiền.
Tuy nhiên, NHTM không thẻ thực hiện đồng thời cả hai mục
tiêu ổn định lãi suất và ổn định mức cung ứng tiền tệ.
Nếu đảm bảo mức cung ứng tiền tệ thì phải chấp nhận thay đối
lãi suất (hình a). Nếu muốn ổn định lái suất, thì buộc phải thay đổi
lượng cung ứng tiền tệ một khi lượng cầu tiền thay đổi (hình b). Trên
thực tế, NHTM thường muốn điều chỉnh lãi suất để đảm bảo mức
13
cung ứng tiền.
Từ việc xác định được mục tiêu của chính sách tiền tệ, NHTM
chỉ đạo chính sách tiền tệ bằng cách sử dụng các công cụ để tác động
vào thái độ của ngân hàng, nhờ đó tác động đến lượng tiền cung ứng.
c. Ba công cụ chính mà NHTM sử dụng để tác động đến lượng
cung ứng tiền tệ, đó là:
+ Nghiệp vụ thị trường mở: là nghiệp vụ được tiến hành khi
NHTW thay đổi cơ số tiền bằng cách mua vào (nếu muốn làm tăng cơ
số tiền) hoặc bán ra các chứng khoán (nếu muốn làm giảm cơ số tiền)
trên thị trường.
Ta cũng thấy rằng có rất ít khác biệt khi NHTW giao dịch trực
tiếp với các ngân hàng khác hoặc với các tổ chức công cộng phi ngân
hàng. Các ngân hàng luôn có tiền dự trữ lớn hơn số dự trữ bắt buộc
để đề phòng sự bất định về lãi suất trên thị trường tiền tệ. Mặt khác,
các ngân hàng phải có một lượng chứng khoán đáng kể khi cần vốn
khả dụng, họ buộc phải bán ngay một phần đó đi. Nếu NHTW bán
chứng khoán cho trực tiếp chứng khoán cho hệ thống chứng khoán
cho hệ thống ngân hàng, dự trữ tiền mặt của các ngân hàng sẽ giảm
ngay lập tức. Nếu NHTW bán chứng khoán cho công chúng, các cá
nhân sẽ trả lại bằng séc theo tài khoản của họ ở ngân hàng, làm cho
dự trữ tiền mặt của ngân hàng lại bị giảm sút. Như vậy là, cả hai
14
trường hợp bằng nghiệp vụ thị trường mở trong lĩnh vực chứng khoán
tài chính NHTW làm biến đổi cơ số tiền, dự trữ tiền mặt của các ngân
hàng khoản cho vay tiền ký gửi và lượng cung ứng tiền tệ.
Nghiệp vụ thị trường mở có hai loại:
Nghiệp vụ thị trường mở năng động: NHTW chủ động tiến hành
các việc mua bán chứng khoán để thay đổi mức dự trữ của NHTW,
do đó làm thay đổi cơ số tiền và thay đổi lượng cung ứng tiền.
Nghiệp vụ thị trường mở thụ động được tiến hành khi cần thiết
phải đối phó lại những tác động của các nhân tố khác làm ảnh hưởng
đến cơ số tiền.
NHTW nhờ có nghiệp vụ này đã kiểm soát được hoàn toàn thị
trường tự do. Nghiệp vụ thị trường tự do linh hoạt và chính xác có
thể được sử dụng ở bất cứ mức độ nào. Nghiệp vụ thị trường tự do dễ
dàng được đảo ngược lại khi có một sai lầm sẩy ra trong lúc tiến hành
nghiệp vụ thị trường tự do, NHTW có thể lập tức đảo ngược lại việc
sử dụng công cụ đó. Nếu NHTW thấy rằng cung ứng tiền tệ tăng quá
nhanh do nó mua trên thị trường tự do quá nhiều thì nó có thể sửa
chữa ngay lập tức bằng cách tiến hành nghiệp vụ bán trên thị trường
tự do.
Nghiệp vụ thị trường tự do có thể được hoàn thành nhanh chóng
không gây nên những chậm trễ về mặt hành chính. Và tác dụng của
nghiệp vụ thị trường tự do đối với tiền dự trữ là không chắc chắn hơn
nhiều so với tác dụng đó đối với cơ số tiền tệ.
+ Chính sách chiết khấu:
Lãi suất chiết khấu là lãi suất mà NHTW tính với NHTM khi họ
muốn vay tiền. Thông qua lãi suất chiết khấu NHTW tác động đến
lượng dự trữ của NHTM. Các NHTM phải cân đối lãi suất họ sẽ thu
được một khoản cho vay biên (có tính đến cả những nguy cơ và chi
phí có kiên quan nếu có dòng tiền mặt rút ra bất thình lình và lớn)
với lãi suất chiết khấu. Một lãi suất chiết khấu cao hơn làm tăng phí
15
vay từ NHTW, như vậy các NHTM sẽ vay chiết khấu ít hơn, và từ đó
làm giảm bớt có số tiền và thu hẹp cung ứng tiền. Nếu một lãi suất
chiết khấu thấp hơn làm cho vay chiết khấu hấp dẫn hơn với các ngân
hàng và khối lượng vay sẽ tăng lên, làm tăng cơ số tiền và tăngcung
ứng tiền tệ.
Những điều kiện dễ dàng của NHTW mà theo đó những khoản
cho vay chiết khấu được cung cáp cho các ngân hàng được gọi là cửa
sổ chiết khấu.
NHTW có thể tác động đến khối lượng vay chiết khấu bằng hai
cách: bằng cách tác động đến giá cả của khoản vay (lãi suất chiết
khấu) như phần trên đã trình bày hoặc bằng cách tác động đến số
lượng vay thông qua việc NHTW quản lý cửa sổ chiết khấu.
Các khoản vay chiết khấu mà NHTW cấp cho các NHTM có ba
loại: tín dụng điều chỉnh, tín dụng thời vụ, và tín dụng mở rộng.
(cid:0) Tín dụng điều chỉnh, đây là loại tín dụng thông dụng nhất, nhằm
giúp cho các ngân hàng giải quyết vấn đề khả năng hoàn trả ngắn
hạn do tiền gửi bị tạm thời rút ra.
(cid:0) Tín dụng thời vụ được cấp để đáp những ứng nhu cầu thời vụ của
một số ít ngân hàng đang nghỉ và những vùng nông nghiệp hoạt
động theo kiểu thời vụ.
(cid:0) Tín dụng mở rộng được cấp cho các NHTM bị khó khăn nghiêm
trọng về khả năng hoàn trả do tiền gửi bị rút ra; thì không yêu cầu
hoàn trả nhanh chóng ngay. Những ngân hàng được cấp loại tín
dụng này phải nộp một bản đề nghị trình bày nhu cầu vay tín dụng
mở rộng và một bản kế hoạch khôi phục lại khả năng hoàn trả của
ngân hàng.
Ngoài việc sử dụng làm một công cụ để ảnh hưởng đến cơ số
tiền tệ và cung ứng tiền tệ, chiết khấu còn quan trọng ở chỗ nhằm
tránh khỏi những cơn sụp đổ tài chính. Vai trò quan trọng nhất của
NHTW là trở thành người cho vay cuói cùng, nó phải cung cấp dự trữ
16
cho ngân hàng khi các ngân hàng bị đe doạ phá sản, do đó ngăn chặn
những cưn sụp đổ ngân hàng và tài chính. Sử dụng công cụ chiết
khấu để tránh những cơn sụp đổ tài chính bằng cách thực hiện vai trò
người cho vay cuối cùng là một yêu cầu cực kỳ quan trọng để tiến
hành chính sách tiền tệ thành công.
Tuy nhiên, một vấn đề nảy sinh là nếu một ngân hàng biết được
NHTW sẽ cấp cho mình tín dụng chiết khấu khi ngân hàng gặp khó
khaưn thì nó dám mạo hiểm chấp nhận nhiều rủi ro hơn vì tin rằng
NHTW sẽ đến giải quyết khó khăn cho nó. Vai trò người cho vay
cuối cùng của NHTW tạo ra như một vấn đề may rủi về tinh thần.
So với công cụ nghiệp vụ thị trường tự do, việc sử dụng chính
sách chiết khấu để kiểm soát cung ứng tiền tệ hình như không có hiệu
quả bằng các nghiệp vụ thị trường tự do hoàn toàn là sự tự do hành
động của NHTW trong khi khối lượng cho vay chiêtài sản khấu lại
không như vậy. NHTW có thể thay đổi lãi suất chiết khấu nhưng
không thể bắt các ngân hàng phải đi vay. Hơn nữa các nghiệp vụ thị
trường tự do dễ dàng được đảo ngược lại hơn là đảo ngược những
thay đổi trong chính sách chiết khấu, việc can thiệp vào thị trường
mở sẽ được ưa chuộng hơn kỹ thuật tái chiết khấu vì nó mềm dẻo
hơn.
Đối với các nghiệp vụ tái chiết khấu, chính các NHTW đóng vai
trò bị động, do phải đáp ứng nhu cầu hàng ngày của NHTW. Trong
hệ thống thị trường mở, NHTW đóng vai trò chủ động bởi vì chính
NHTW yêu cầu vốn khả dụng cho thị trường tiền tệ. Phương thức thị
trường mở không chỉ cung cấp vốn khả dụng cho các NHTM trên thị
trường tiền tệ mà còn rút vốn khả dụng ra khỏi thị trường tiền tệ.
Điều đó giúp NHTW kiểm soát tốt hơn lượng vốn khả dụng ngân
hàng và lãi suất trên thị trường.
Cũng cần phải nói thêm rằng, tuy hai công cụ trên đều có những
mặt ưu nhược điểm riêng nhưng chúng đều có mục đích là đảm bảo
17
tái cấp vốn của NHTW cho NHTM.
Ngoài hai công cụ trên, NHTW còn sử dụng công cụ là quy
định tỷ lệ dự trữ bắt buộc (Rd)
+ Dự trữ bắt buộc.
Tỷ lệ dự trữ bắt buộc là tỷ lệ tối thiểu giữa dự trữ tiền mặt với
các khoản ký gửi mà NHTW yêu cầu NHTM phải duy trì.
Khoản dự trữ bắt buộc là khoản tiền dự trữ cần thiết để NHTM
có thể ứng phó với những luồng tiền mặt rút ra bất ngờ.
Nếu một khoản dự trữ bất buộc đang có hiệu lực, các NHTM có
thể giữ lượng tiền mặt cao hơn dự trữ tiền mặt theo yêu cầu nhưng
không được giữ ít hơn. Nếu lượng tiền mặt của họ giảm xuống xuống
thấp hơn lượng bắt buộc, họ phải vay tiền mặt ngay, thường là vay
của NHTW để khôi phục lại tỷ lệ dự trữ bắt buộc
Khi NHTW quy định một khoản dự trữ bắt buộc cao hơn tỷ lệ
dự trữ mà các ngân hàng thận trọng phải duy trì trong bất kỳ tình
hình nào thì hậu quả của nó là giảm bớt việc tạo ra những khoản ký
gửi của các ngân hàng, làm giảm giá trị của thừa số tiền và giảm
lượng cung tiền đối với bất kỳ cơ số tiền bất định nào.
Một khoản dự trữ bắt buộc có tác dụng như một khoản thuế
đánh vào các ngân hàng bằng cách bắt buộc họ phải duy trì một
khoản dự trữ cao hơn trong tổng số các khoản có dưới dạng dự trữ
ngân hàng và một tỷ lệ thấp hơn của các khoản cho vay có lãi suất
cao.
Hệ thống dự trữ bắt buộc tạo nên một mối quan hệ máy móc
giữa tạo tiền do NHTM thực hiện (bằng việc làm xuất hiện tiền gửi)
và nhu câù tái cấp vốn tại NHTW. Hệ thống này rất mềm dẻo vì tuỳ
theo mục đích của chính sách tiền tệ và tuỳ theo mức vốn khả dụng
ngân hàng, NHTW có thể điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Đặc biệt,
việc tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc có thể điều hoà vốn khả dụng ngân
18
hàng khi có nguồn thu ngoại tệ lớn. Hệ thống này có sự cạnh tranh
giữa các ngân hàng bởi vì nó áp dụng không phân biệt mọi ngân hàng
trong toàn hệ thống.
Ba công cụ kể trên đây có tác dụng tổng quát là kiểm soát khối
lượng cho vay của ngân hàng, mức lãi suất và khối lượng tiền tệ nói
chung. Nhưng ngân hàng trung gian còn thoải mái ở chỗ cho ai vay
tuỳ sự xét đoán của mình, điều đó có nghĩa là ba công cụ nên chưa
ảnh hưởng đến cơ cấu tín dụng mà ngân hàng trung gian cấp cho
khách hàng. Nếu NHTW không áp dụng chính sách kiểm soát tín
dụng, ngân hàng trung gian sẽ chỉ hướng vào những nơi có thể thu
được lợi nhuận cao ít chú trọng tới những ngành có hoạt động lợi ích
xã hội nhiều hơn. Chính sách kiểm soát tín dụng sẽ giới hạn mức tối
đa cấp cho những ngành hoạt động nào được xem như ưu tiên, cần
yểm trợ tín dụng mạnh hơn. Chính sách kiểm soát tín dụng gồm hai
19
nội dung chính là hạn mức tài sản và quản lý lãi suất.
CHƯƠNG II
NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM TRONG SỰ CHUYỂN
ĐỔI TỪ NỀN KINH TẾ KẾ HOẠCH HOÁ TẬP TRUNG SANG
NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG CÓ SỰ QUẢN LÝ CỦA NHÀ
NƯỚC
1. Sự cần thiết phải xây dựng các thể chế tài chính hữu hiệu
trong nền kinh tế chuyển tiếp
Qua qua trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung
sang nền kinh tế thị trường là hết sức khó khăn và phức tạp. Kinh tế
trong giai đoạn chuyển tiếp có khu vực kinh tế tư nhân nhỏ nhưng
phát triển rất nhanh và nhanh chóng và khu vực kinh tế Nhà nước
ngày càng co lại. Tuy nhiên, phần lớn các trường hợp kinh tế tư nhân
không xuất hiện ngay lập tức mà dần theo thời gian và khu vực kinh
tế Nhà nước cũng không hề có biểu hiện mất ngay.
Với sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân, xây dựng được
một hệ thống tài chính vững chắc, lấy thị trường làm có sở để đảm
bảo cho các thành phần kinh tế hoạt độngtốt là một việc làm hết sức
cần thiết.
Trong quá trình chuyển tiếp sang nền kinh tế thị trường các nhà
ra quyết định phải đối mặt với những mâu thuẫn giữa các mục tiêu đã
đề ra; mặc dù sự chuyển đổi hướng tới nền kinh tế thị trường hàm ý
rằng Chính phủ cần phải rút khỏi vị trí thống trị của mình trong nền
kinh tế nhưng mặt khác cũng cần phải có hoạt động của Chính phủ để
giải quyết những nhiệm vụ mới suất hiện. Một trong số những nhiệm
vụ đó là xây dựng một hệ thống tài chính vững chắc hữu hiệu, lấy thị
trường làm cơ sở, thực thi một chính sách tiền tệ có hiệu quả.
Những nền kinh tế này thiếu hầu hết những tổ chức quan trọng
của kinh tế thị trường, thị trường cạnh tranh cho các nhân tố, các
20
hàng hoá và dịch vụ, một hệ thống tài chính cạnh tranh và được đầu
tư vốn đầy đủ, một cơ cấu pháp luật và điều chỉnh nhằm đảm bảo cho
hệ thống tài chính.
Trong các nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung trước đây, hệ
thống tài chính đều ở trạng thái tồi tệ. Tài chính hầu như chỉ đóng vai
trò ghi chép, lưu giữ thụ động, trong khi việc phân bố các nguồn lực
do chính kế hoạch tập trung kiểm soát
Các quyết định tín dụng đều đã được lên kế hoạch trước. Hệ
thống ngân hàng bị suy kiệt vì nguồn vốn thấp, một số lượng lớn các
khoản nợ không hoạt động của các quốc doanh, các khoản cho vay
gián tiếp tập trung theo khu vực địa lý và khu vực ngành, ngân hàng
tiết kiệm có mạng lưới chi nhánh nhỏ bé. Hoạt động kinh doanh của
ngân hàng hầu như không có lãi, được Nhà nước bù lỗ. Các nhà quản
lý lại có rất ít kinh nghiệm trong việc đánh giá các đơn xin vay, trong
việc tính toán và giải quyết các rủi ro. Thị trường cổ phần và thị
trường trái phiếu thì hoặc là không tồn tại hoặc là rất nhỏ bé và
không linh hoạt trong việc chuyển đổi ra tiền mặt hoặc trên có sở trao
đổi và các doanh nghiệp đã tạo nên một mạng lưới rộng rái tín dụng
giữa các hãng vỡi nhau.
Những khó khăn trên đây đặt ra những yêu cầu rất lớn đối với
hệ thống tài chính.
Như trên đã nêu, xây dựng được một hệ thống tài chính vững
chắc là việc làm cần thiết song nó cũng đòi hỏi chúng ta luôn luôn
phải thận trọng trong từng bước đi không vội vã và có thể dẫn đến sự
đổ bể của cả nền kinh tế. Cần phải nắm vững những di sản để lại từ
nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung. Không nên áp đặt đột ngột việc
kiềm chế tín dụng gắt gao đối với các doanh nghiệp, điều này có thể
gây ra sự páh sản hàng loạt các doanh nghiệp. Đối với quá trình tư
nhân hoá các xí nghiệp quốc doanh, tài chính là - và cần phải là chủ
yếu trong việc tạo điều kiện chuyển quyền sở hữu từ Nhà nước sang
21
khu vực tư nhân, đảm bảo cho kết quả của quá trình tư nhân hoá sẽ
thay đổi thực sự cách thức hoạt động của các doanh nghiệp. Mặt
khác, việc xây dựng hệ thống tài chính còn phụ thuộc vào tình hình
tài chính thực tế mỗi nước. Mỗi nước đều có những đặc điểm kinh tế
riêng biệt, những thuận lợi và khó khăn khác nhau trong quá trình
phát triển do đó vấn đề đặt ra là mỗi nước phải xác định được rõ ràng
điểm nào là điểm mạnh, điểm nào là điểm yếu của mình để từ đó xác
định đâu là điểm chủ yếu, đâu là điểm thứ yếu trong hệ thống tài
chính.
Chúng ta đều thấy rằng con đương dẫn đến sự thành công chính
là xây dựng hệ thống tài chính hữu hiệu và vững chắc, song điều này
không có nghĩa là tiến hành cải tổ đồng loạt. Ưu tiên tối cao phải
giành cho việc cải tổ lại khu vực ngân hàng .
Trong nền kinh tế thị trường, ngân hàng là nguồn cung cấp vốn
cho hoạt động ngắn hạn của Công ty và đưa ra các khoản đầu tư dễ
chuyển đổi thành tiền mặt mà ngân hàng có thể lưu giữ chứng từ.
Ngân hàng cũng là nguồn cung cấp chính vốn con nguời đã được đào
tạo trong việc đánh giá các rủi ro tín dụng và nhờ thế tạo ra nền tảng
đảm bảo cho việc phân phối nguồn tài lực một cách có hiệu quả. Việc
cung cấp tài chính có hiệu quả sẽ trực tiếp tác động vào việc nâng
cao hiệu quả trong sản xuất nói riêng và trong xã hội nói chung.
2. Vai trò của khu vực ngân hàng
Một trong những thử thách với những nền kinh tế kế hoạch tập
trung trước đây chính là sự phân quyền trong việc phân bố nguồn tài
lực. Lý do hang đầu trong động cơ kinh tế nhằm chuyển đổi sang cơ
chế thị trường là sự nhận thức được rằng kế hoạch hoá tập trung
không đưa lại sự phân phối vốn có hiệu quả và vì thế mà các nguồn
tài nguyên vật chất không được sử dụng có năng suất thấp. Về mặt
này bản chất của thị trường là giảm tới mức tối thiểu ảnh hưởng của
các nhân tố phi kinh tế tác động leen sự phân phối các nguồn tài
22
nguyên và cũng chính nhờ đó mà cải thiện được hiệu suất đầu tư.
Vấn đề trọng tâm phải quyết định cái gì sẽ thay thế cơ chế kế
hoạch hoá làm trung gian giữa những thành phần kinh tế có nguồn tài
chính thặng dư và những thành phần kinh tế không có đủ vốn để cung
cấp cho công việc đầu tư của mình.
Theo truyền thống, vị trí trung gian này được thống trị bởi khu
vực ngân hàng. Sự cạnh tranh giữa các ngân hàng với nhau và với các
hình thức trung gian ngoài ngân hàng đã buộc ngân hàng phải nâng
cao sự thành thạo trong việc đánh giá rủi ro tín dụng và xác định
những khoản đầu tư có lợi nhất. Trong quá trình thực hiện điều này
các ngân hàng đòi những nguồn tin có giá trị về cả người cho vay và
người vay tiền. Trên cơ sở đánh giá các nguồn thông tin đó ngân
hàng sẽ quyết định lựa chọn những khoản đầu tư có lơị nhất. Ngay cả
ở những nước công nghiệp phát triển, mặc dù có sự phát triển và đa
dạng của nhiều tổ chức tài chính song vai trò chủ đạo của khu vực
ngân hàng đối với sự phát triển của nền kinh tế là không thể phủ nhận
được.
Ở nước ta trước đây thì sao ? do hậu quả của lạm phát kéo dài,
bắt nguồn từ những mất cân đối nghiêm trọng trong nền kinh tế quốc
dân, thực trạng hoạt động tiền tệ, tín dụng trong những năm 80 hết
sức rối ren. Tiền mặt phát ra rất lớn năm sau cao hơn năm trước với
khối lượng lớn hơn nhiều lần nhưng vẫn không đáp ứng đủ cho nhu
cầu sản xuất và lưu thông hàng hoá. Chức năng trung tâm tiền mặt
của ngân hàng bị thu hẹp. Tiền mặt quay ngoài vòng kiểm soát của
ngân hàng với tất cả tác động tiêu cực của nó đến đời sôngs kinh tế -
xã hội. Trong tín dụng, nhất là tín dụng ngắn hạn, dư nợ tăng rất
nhanh và dần thoát khỏi nguồn vốn huy động. Tốc độ tăng tín dụng
vượt xa tốc độ phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hoá. Các chi
nhánh ngân hàng cơ sở chỉ biết cho vay, ỷ lại hoàn toàn vào vốn của
NHTW bù đắp. Thiệt hại duy nhất thuộc về NHNN người đại diện
23
cho Chính phủ quản lý nguồn vốn đó. Hơn nữa, chức năng quản lý
Nhà nước, chức năng hướng dẫn thanh toán trong nền kinh tế quốc
dân của NHNN không thực hiện được. Mối liên hệ hữu cơ giữa tiền
mặt và tiền gửi bị phá vỡ. Phạm vi thanh toán qua tài khoản ở ngân
hàng bị thu hẹp. Thanh toán bằng tiền mặt ngày càng mở rộng.
Tình hình trên bắt nguồn từ tổ chức hoạt động của hệ thống
ngân hàng. Từ khi ra đời, NHNN là ngân hàng phát hành, đồng thời
vừa là ngân hàng trực tiếp cho vay vốn đối với nền kinh tế quốc dân,
vừa là tổ chức quản lý Nhà nước về tiền tệ tín dụng, thanh toán.
Do hoạt động của nền kinh tế quốc dân trong cơ chế tập trung
quan liêu bao cấp, không thừa nhận thị trường nên không có thị
trường t1. Hoạt động ngân hàng tương đối đơn giản, không đòi hỏi sự
năng động, linh hoạt trong hạch toán kinh doanh vì ngân hàng thực
chất như là cơ quan cấp phát tài chính thứ hai, sau ngân sách cấp phát
vốn cho xí nghiệp.
Quản lý nhà nước trong hệ thống ngân hàng một cấp không
thoát khỏi việc tuân thủ một cách máy móc những quy định, những
chỉ thị, mệnh lệnh của ngân hàng cấp trên về tiền tệ , tín dụng, thanh
toán.
Trong hoạt động tín dụng, ngân hàng không ý thức đầy đủ về
trách nhiệm đối với nguồn vốn huy động chỉ biết cho vay theo chỉ
tiêu kế hoạch của cấp trên, càng xin được vốn nhiều càng cho vay
rộng rãi, trong khi đó dịch vụ ngân hàng lại yếu kém. Thái độ phục
vụ khách hàng, phong cách giao dịch của nhân viên ngân hàng còn
nhiều khâu phiền hà, cửa quyền thiếu văn minh, lịch sử cần thiết ...
Nói chung, có thể thấy rằng những điều kiện cần có để tiến
hành hoạt động kinh doanh ngân hàng, đến lúc này là chưa có. Và
đây cũng chính là sự cần thiết phải chuyển ngân hàng sang hạch toán
kinh doanh xã hội chủ nghĩa.
Từ thực trạng này, vấn đề đặt ra là phải tiến hành cải tổ hệ
24
thống ngân hàng.
3. Việt nam trong quá trình đổi mới và hoàn thiện hệ thống
ngân hàng.
Nền kinh tế Việt Nam trong những năm gần đây đang đẩy mạnh
từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế tiền tệ có sự
quản lý của Nhà nước, từng bước hoà nhập với nền kinh tế khu vực
và kinh tế thế giới. Việt Nam mới đang ở trong giai đoạn chuyển tiếp
(thời kỳ quá độ), trong giai đoạn tới để thúc đẩy mạnh mẽ nền kinh tế
phát triển theo đúng định hướng mà Đảng và Nhà nưóc đã vạch ra,
một trong những nhiệm vụ đầu tiên phải được xem xét chính là hoàn
thiện và phát triển lĩnh vực ngân hàng, tiền tệ.
Tiền tệ và ngân hàng đóng vai trò như là người mở đầu, người
nâng đỡ, người điều chỉnh, người tham gia, người quyết định đối với
mọi quá trình sản xuất, từ hình thái thô sơ nhất đến hình thái phức
tạp, hiện đại và tinh vi nhất. Hình thái tiền tệ phản ánh trình độ phát
triển kinh tế, là thước đo lịch sử, là vật kết tinh của xã hội và là động
cơ cực mạnh cuốn hút và khơi dậy mọi tiềm ẩn kinh tế, xã hội.
Tầm quan trọng của ngân hàng và tiền tệ trong sự phát triển
kinh tế là không thể phủ nhận. Vị trí của đồng tiền và vai trò của
ngân hàng càng trở nên quan trọng đối với việc ổn định và phát triển
kinh tế trong điều kiện cơ chế thị trường. Trong nền kinh tế tiền tệ ,
mọi hoạt động kinh tế đều liên quan đến hoạt động tài chính, tín
dụng, giám sát và điều tiết thông qua hệ thống ngân hàng ;ngân hàng
được coi là một bộ phận của kết cấu hạ tầng. Do đó ngân hàng được
tổ chức thành một hệ thống nhất, điều tiết lưu thông hàng hoá và dịch
vụ trên phạm vi toàn quốc nhằm thực hiện chức năng quản lý vĩ mô
đối với quá trình sản xuất, lưu thông, phân phối và tín dụng trên
phạm vi toàn xã hội.
Như vậy chúng ta có thể thấy được ý nghĩa quan trọng của hệ
thống ngân hàng, đặc biệt là đối với Việt nam, một đất nước mà từ
25
trước cho đến nay, ngoài ngân hàng, các tổ chức tài chính tín dụng
như Công ty tài chính, hợp tác xã tín dụng thì các hình thức tài chính
phi ngân hàng còn chưa phát triển.
Nhận thức được tầm quan trọng đó, công cuộc đổi mới và hoàn
thiện hệ thống ngân hàng đã bắt đầu thực sự tiến hành với mốc đánh
dấu là Nghị định số 53/HĐBT ngày 16/3/1988 của Hội đồng bộ
trưởng nay là Chính phủ về việc tổ chức lại hệ thống ngân hàng Việt
nam. hệ thống ngân hàng Việt nam được phân định thành hai cấp là
Ngân hàng Nhà nước Việt nam với chức năng quản lý Nhà nước đối
với toàn bộ hệ thống ngân hàng, ngân hàng chuyên doanh hoạt động
như những ngân hàng thương mại theo chế độ hạch toán kinh tế.
Cùng với quá trình đổi mới toàn diện nền kinh tế, để tiếp tục
đổi mới hệ thống ngân hàng, ngày 23/5/19909 Hội đồng Nhà nước
(nay là Uỷ ban thường vụ Quốc hội) đã thông qua Pháp lệnh ngân
hàng. Hợp tác xã tín dụng Công ty tài chính. Việc ban hành hai pháp
lệnh Ngân hàng nói trên đã tạo cơ sở pháp lý cho việc đổi mới một
cách toán diện các hoạt động tài chính, t1, đánh dấu một bước ngoặt
quan trọng trong việc đổi mới hệ thống Ngân hàng việt nam. Đặc
điểm, gần đây ngày 26/12/1997 chủ tịch nước Trần Đức Lương đã ký
lệnh công bố luật Ngân hàng Nhà nước Việt nam (gồm 7 chương, 63
điều) và luật các tổ chức tín dụng (gồm 11 chương, 131 điều). Điều
này đảm bảo cho tính đồng bộ của cơ chế tài chính tiền tệ quốc gia,
phục vụ đắc lực cho sự phát triển kinh tế.
Bên cạnh đó, hoạt động của hệ thống Ngân hàng và các tổ chức
tài chính tín dụng còn được sự hỗ trợ rất đắc lực của hàng loạt các
luật, các Nghị định như luật Công ty, luật phá sản, luật đất đai ....
Với sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, và với sự nỗ lực của
bản thân ngành, trong thời gian qua hệ thống Ngân hàng Việt nam đã
đạt được nhiều thành tích đáng kể. Đó là bước đầu xây dựng được hệ
thống ngân hàng thích ứng với cơ chế tiền tệ, có sự quản lý của Nhà
26
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, góp phần đẩy lùi lạm phát,
thúc đẩy tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Cụ thể là những năm 1980 - 1986 nền kinh tế nước ta lâm vào
tình trạng khủgn hoảng nặng nề mà đặc trưng nổi bật là lạm phát phi
mã, tốc độ phát triển kinh tế giảm sút, mất cân đối cả đối nội và đối
ngoại. Bước ngoặt đầutiên của hoạt động ngân hàng từ năm 1988, khi
các chính sách và biện pháp cải tổ mạnh mẽ đã được ngành ngân
hàng thực hiện : nâng lãi suất huy động lên mức cao (12%/tháng đầu
năm 1989) để thu hút khối lượng tiền mặt rất lớn đang nằm đọng
trong lưu thông, xoá bỏ cơ bản chế độ tỷ giá, áp dụng tỷ giá thả nổi
có điều tiết linh hoạt, đi đôi với điều chỉnh dần lãi suất xuống theo
kết quả kìm chế lạm phát, kích thích xuất khẩu, hướng nhập khẩu vào
các mặt hàng phục vụ sản xuất trong nước. Mặt khác, từ sau khi có
Pháp lệnh ngân hàng, ngành ngân hàng đã từng bước áp dụng các
công cụ quản lý vĩ mô gián tiếp thay thế cho các công cụ kiêmr soát
trực tiếp trong quá trình thực thi chính sách tiền tệ. Đặc biệt, NHNN
đã áp dụng một loạt biện pháp nhằm thắt chặt lượng tiền cung ứng và
kết quả là tốc độ lạm phát phi mã trước đó 410,9% năm 1988 xuống
còn 67,4% năm 1991, 17,4% năm 1992 và 5,2% năm 1993. Năm
1994, nền kinh tế vẫn duy trì được mức tăng trưởng kinh tế cao hơn
năm 1993 (8,8%) nhưng mức lạm phát đã cao hơn dự kiến (14,4%) ;
mức lạm phát năm 1995 là 12,7% năm 1996 là 4,5% và gần 4% năm
1997.
Những năm đầu của quá trình đổi mới ngân hàng, nền kinh tế
nước ta phải đối phó với những khó khăn gay gắt. Với những chính
sách đổi mới của Ngân hàng Nhà nước, đặc biệt là khống chế khối
lượng tiền cung ứng, chính sách tín dụng, chính sách lãi suất, chính
sách tỷ giá ... đã góp phần thúc đẩy sự cải thiện nền kinh tế theo
hướng phục hồi và phát triển. ngành Ngân hàng cũng góp phần vào
27
việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Cơ cấu tín dụng Ngân hàng đã tăng
dần cho lĩnh vực kinh tế ngoài quốc doanh trong khi bảo đảm có chọn
lọc việc duy trì những doanh nghiệp Nhà nước kinh doanh có hiệu
quả. Tỷ trọng cho vay các xí nghiệp quốc doanh năm 1991 là 90% và
ngoài quốc doanh là 10% thì đến năm 1994, tỷ trọng đó là 65%, năm
1995 là 58,5% và 41,5%. Trước đây, Ngân hàng Trung ương hoạt
động ngắn hạn là chủ yếu. Để phục vụ tốt hơn cho quá trình công
nghiệp hoá, Ngân hàng đã chú ý mở rộng hoạt động trung và dài hạn.
Tỷ trọng cho vay ngắn hạn từ 85% và trung dài hạn 15% (năm 1991)
thì đến năm 1994 đã thay đổi 67% và 33%. Năm 1995 so với năm
1994, dư nợ cho vay ngắn hạn tăng 36,7%, dư nợ cho vay trung và
dài hạn tăng 24,6%.
Cơ cấu tín dụng ngân hàng qua các năm
Comment [l1]: Trích từ : Sách “ Ngân Hàng Việt Nam quá trình xấy dựng và phát triển“ - NXB Cính Trị Quốc Gia - 1996 Trang
Quốc Ngoài quốc Ngắn hạn Trung &
doanh doanh dài hạn
1991 90,0 10,0 85,0 15,0
1992 88,0 12,0 84,0 16,0
1993 72,0 28,0 77,0 23,0
1994 65,0 35,0 67,0 33,0
1995 58,0 41,0 75,0 25,0
Sự tăng trưởng tín dụng và các định hướng của nền kinh tế quốc
dân đã tạo nên cơ cấu tín dụng ngày càng hợp lý, thúc đẩy từng bước
sự thay đổi cơ cấu kinh tế.
Hơn nữa, cùng với việc mở rộng cho vay đến tất cả các thành
phần kinh tế, hệ thống ngân hàng đặc biệt quan tâm đầu tư phát triển
khu vực nông nghiệp và nông thôn, quan tâm đến cho vay khuyến
khích xuất khẩu, cho vay ứng dụng tiến bộ khoa học và áp dụng công
nghệ mới. Nhiều công cụ và hình thức huy động vốn đa dạng được
28
đưa vào áp dụng trong hệ thống ngân hàng : kỳ phiếu của NHTM, tiết
kiệm xây dựng nhà ở... Nhờ đó, vốn hoạt động của các ngân hàng đã
tăng liên tục với tỷ lệ khá cao : năm 1991 tăng 68%, năm 1992 tăng
19%, năm 1993 tăng 14%, 1994 tăng 59% và năm 1995 tăng 32%.
Nguồn vốn trong nước được tăng trưởng cùng với nguồn vốn từ nước
ngoài là điều kiện cơ bản, đã góp phần tích cực tăng đầu tư, phục vụ
sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Có thể nói, những thành quả bước đầu đạt được trong công cuộc
đổi mới và hoàn thiện hệ thống ngân hàng ở Việt nam đã góp phần
đáng kể vào sự phát triển chung của nền kinh tế trong đó không thể
thiếu vai trò đặc biệt quan trọng của NHTW Thống đốc ngân hàng
Nhà nước giờ đây đã có quyền kiểm soát tăng trưởng tiền tệ để thực
hiện được các chỉ tiêu về lạm phát và tăng trưởng kinh tế lành mạnh.
NHNN đã chủ động hơn trong việc lựa chọn các biện pháp, chính
sách can thiệp vào nền kinh tế để nhằm đạt được các mục tiêu của
chính sách tiền tệ.
Trên thế giới, tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể mà mỗi quốc gia
có mục tiêu của chính sách tiền tệ khác nhau. ở Việt nam, chính sách
tiền tệ có mục tiêu đã được xác định là thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
và kiềm chế lạm phát từ đầu thập kỷ 90 đến nay, lạm phát đã giảm
thấp và được kiềm chế, chỉ còn 14,3% năm 1994, 12,7% năm 1995 và
4,5% trong năm 1996, và gần 4% năm 1997. Trong khi đó, nền kinh
tế tăng trưởng cao và ổn định : 8,8% năm 1994 và 9,5% năm 1995 và
Comment [l2]:
29
9,5% năm 1996.
møc t¨ng tiÒn tÖ vµ l¹m ph¸t (%)
30
25
20
15
10
5
0 1994
1995
1996
1997
Cung øng tiÒn
ChØ sè gi¸ CPI
Sè cuèi kú
tõ ®Çu 12/1994 tæng lîng tiÒn më réng thªm 12NH)
Thành công đó của Việt nam trong quá trình chuyển đổi sang
kinh tế thị trường, đã được dư luận quốc tế đánh giá cao. Trong số
22,6
22,7
19,6
27,8
các nguyên nhân của thành tựu, nổi lên là việc điều hành có hiệu quả
4,5
3,6
12,7
lãi suất và tỷ giá trong nền kinh tế. 14,4 Lãi suất là công cụ có vị trí quan trọng số một trong hệ thống
các công cụ của chính sách tiền tệ quốc gia. Về bản chất, lãi suất là
giá cả mua bán vốn, có tác dụng điều hoà cung cầu vốn, thúc đẩy
tăng tốc độ lưu chuyển vốn trong nền kinh tế.
Ở Việt nam, cho đến hết năm 1996, lãi suất vẫn chưa trở thành
giá cả mua bán vốn trong nền kinh tế nên các ngân hàng thương mại
thừa hàng nghìn tỷ đồng vốn trong khi nhu cầu của các doanh nghiệp
vẫn rất lớn. Tuy nhiên nhìn lại, năm 1996, đã đánh dấu mốc lịch sử
trong cuộc cách mạng về lãi suất của hệ thống ngân hàng Việt nam.
Các mức trần lãi suất cho vay tối đa được điều chỉnh trong năm 1996 Đơn vị : %
Loại lãi suất 1/1/96 15/7/96 1/9/95 1/10/96
1. Cho vay ngắn hạn tối 1,75 1,60 1,5 1,25
30
đa 1,65 1,55 1,35 1,7
1,8 1,7 1,5 2. Cho vay trung và dài 2,0
hạn
3. Lãi suất cho vay của 2,2 2,1 1,8 2,5
NHTMCP nông thôn
4. Lãi suất cho vay của
QTDND
Từ ngày 1/1/1996, NHNN Việt Nam chấm dứt việc quy định cụ
thể chi tiết các loại lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay thay bằng việc
chỉ quy định trần lãi suất cho vay tối đa, NHNN đã 4 lần quyết định
hạ trần lãi suất. Theo đó, lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa lần lượt
giảm từ 2,1% / tháng (trước 31/12/1995) xuống còn 1,75% từ
1/1/1996, 1,6% từ 15/7/1996 ; 1,50% từ 1/9/96 và 1,25%/tháng từ
1/10/1996. Phù hợp với thông lệ quốc tế, lãi suất cho vay trung hạn
được nâng lên cao hơn lãi suất cho vay ngắn hạn : 1,55%/tháng từ
1/9/1996 và 1,35% / tháng từ 1/10/1996. Đồng thời khoảng cách giữa
lãi suất cho vay bằng nội tệ và lãi suất cho vay bằng ngoại tệ rút ngắn
lại, tạo sự bình đẳng hơn nữa giữa nội tệ và ngoại tệ.
Lãi suất cho vay giảm tới mức thấp nhất từ trước đến nay đã
thúc đẩy các doanh nghiệp, các thành phần kinh tế vay vốn đầu tư
phát triển sản xuất kinh doanh. Điều đặc biệt là khác hẳn với các đợt
điều chỉnh lãi suất trước đây mặc dù 4 lần điều chỉnh giảm lãi suất
mà tình hình kinh tế - xã hội vẫn ổn định, giá cả không có biến động.
Điều đó cho thấy người dân đã đặt lòng tin vào hệ thống ngân hàng,
sức mua đồng đều được đảm bảo. Tuy nhiên, để cho công cụ lãi suất
của Việt nam đóng được vai trò của nó như ở các nước có nền kinh tế
tiền tệ thì cần phải làm nhiều việc.
Đó là cần sự linh hoạt trong buôn bán tiền. ở các nước trên thế
giới, NHTW chỉ công bố một loại lãi suất tái chiết khấu, còn ở Việt
31
nam, NHTW cần công bố nhiều loại trần lãi suất khác nhau, có tới 4
loại lãi suất cho vay của NHTM Chính phủ nông thôn và lãi suất cho
vay của quỹ tín dụng nhân dân (TTDND). Do đó, tính linh hoạt của
lãi suất để thúc đẩy cạnh tranh chưa được phát huy đúng ý nghĩa của
nó, láiuất cho vay của NHTM Chính phủ nông thôn là 1,5% và của
QTDND là 1,8% / tháng đã làm cho nông dân là người phải chịu lãi
suất cao nhất trong nền kinh tế gấp 1,2 - 1,5 lần so với mức 1,25 %
cho vay ở thành thị. Trong khi thành phần kinh tế này đúng ra phải
được ưu tiên hơn cả bởi vì lợi nhuận thấp, lao động chủ yếu là thủ
công lại đóng góp khối lượng hàng hoá lớn nhất cho xuất khẩu : gạo,
cà phê, cao su, hạt điều, hàng thủ công, thuỷ hải sản. Điều này có vẻ
trái ngược với qui định chênh lệch lãi suất 0,35%. Ngay từ đầu năm
cho đến hết năm 1996, NHTW quy định cho các tổ chức tín dụng
(TCTD) phải thực hiện bình quân lãi suất đầu ra và đầu vào không
được vượt quá 0,35%. Đây được coi là một bước tiến (bỏ quy định cụ
thể các mức lãi suất tiền gửi ) nhưng lại có hai bức lùi bởi quy định
này làm triệt tiêu động lực cạnh tranh giữa các TCTD, họ không phấn
đấu giảm chi phí hoạt động, không tạo điều kiện mạnh dạn đầu tư cho
đổi mới công nghệ ...
Bên cạnh đó, các công cụ điều chỉnh lãi suất chưa phát huy tác
dụng. Cho đến cuối năm 1996, hệ thống ngân hàng Việt nam đã phát
triển đến giai đoạn cao nhất về số lượng, cơ cấu và các loại hình ngân
hàng : 4 NHTM quốc doanh với 1200 chi nhánh, 54 NHTM cổ phần
và 2 công ty tài chính cổ phần, 3 NH liên doanh với nước ngoài, 24
chi nhánh ngân hàng nước ngoài và 70 văn phòng đậi diện ngân hàng
nước ngoài, 1 công ty liên doang cho thuế tài chính và 1 công ty cho
thuế tài chính của nước ngoài, 50 HTX tín dụng và hơn 700 QTĐND;
ngoài ra còn có 5 công ty bảo hiểm, một công ty liên doanh bảo hiểm,
một công ty tái bảo hiểm và 6 quỹ đầu tư ở Việt Nam. Những tổ chức
đó thông qua công cụ lãi suất thực hiện huy động vốn và đầu tư vốn
32
cho nên kinh tế thực hiện mua bán vốn trực tiếp lẫn nhau hoặc trên
thị trường liên ngân hàng, hình thành nên lãi suất trên thị trường liên
ngân hàng.
Thị trường nội tệ liên ngân hàng được NHTW đưa vào hoạt
động từ năm 1992 và thị trường ngoại tệ liên ngân hàng bắt đầu hoạt
động từ cuối 1993. Đến nay mới chỉ có khoảng hơn 50% số tổ chức
tài chính tín dụng nói trên là thành viên tham gia vào thị trường. Thị
trường hoạt động không thường xuyên chưa trở thành nơi buôn bán
vốn giữa
các thành
Tæng nguån vèn tÝn dông
viên, lãi
140
suất trên
120 100
80
thị trường
60 40
liên ngân
20
hàng chưa
0
1994 1994
1995 1995
1996 1996
1997(íc) 1997(íc)
có tác
dụng hình
thành nên lãi suất cho vay bình quân trong nền kinh tế. Các ngân
hàng vẫn trực tiếp vay vốn lẫn nhau.
Cho đến hết năm 1996, tổng nguồn vốn của các tổ chức tài
Đơn vị : %
chính tín dụng ở Việt nam lên tới gần 100.000 tỷ đồng, chi nợ cho
127
129
129
vay và đầu tư cho nền kinh tế gần 75.000 tỷ đồng, đạt mức cao nhất
từ trước đến nay. Khối lượng vốn nay tiếp tục tăng nhanh trong
100
33
những năm tới. Trong khi đó, Việt nam đang tiến tới hoà nhập với
cộng đồng tài chính quốc tế, có đông đảo các ngân hàng nước ngoài
đang hoạt động ở Việt nam... Do đó, NHTW cần có biện pháp thu hút
tất cả các tổ chức nói trên tham gia là thành viên và giao dịch thường
xuyên trên thị trường liên ngân hàng ; NHTW cần chỉnh sửa những
cơ chế, quy chế không phù hợp, phát huy hiệu quả hoạt động của thị
trường này để cho lãi suất trên thị trường liên ngân hàng có tác tác
dụng điều chỉnh lãi suất bình quân trong nền kinh tế. NHTW không
nên quy định trần lãi suất cho vay tối đa, chỉ công bố lãi suất cho vay
tái chiết khâu mà thôi. Một vấn đề quan trọng là cần có các biện
pháp thanh tra, kiểm soát có hiệu quả và có biện pháp hỗ trợ kịp thời.
Cuối thập kỷ 80 và đầu thập kỷ 90, cùng với việc gia tăng lạm
phát, đồng tiền Việt Nam cũng suất giá nhanh, có thời điểm chiếm tỷ
giá ngoại tệ lên tới 14.500 - 14. 600 VNĐ/USD. Nạn mua bán, trao
đổi trên thị trường chợ đen "phát triển", người dân đua nhau đầu cơ
và cất trữ ngoại tệ. Sau đó, do NHTW thực hiện nhiều biện pháp có
hiệu quả, tỷ giá ngoại tệ đã giảm dần xuống và trong hơn hai năm
qua, ổn định ở mức 11.000 VNĐ/USD, mức dao động tỷ giá trong
năm 1995 chỉ có +0,4% và trong 14 tháng đầu năm 1996 là +0,2%
Với việc kiên trì điều hành tỷ giá theo hướng ổn định, NHTW
đã chống đỡ được xu hướng tỷ giá giảm thấp do luồng ngoại tệ đổ
vào VIệt Nam tăng nhanh, thúc đẩy cả xuất khẩu và nhập khẩu đều
tăng,, tạo nên sự phát triển ổn định của nền kinh tế. NHTW đã tăng
cường kiểm tra tình trạng ngoại hối của các NHTM và quy định các
NHTM chỉ được quy định mức tỷ giá mua bán ngoại tệ tăng giảm 1%
so với mức tỷ giá công bố hàng ngày của NHTW.
Tuy nhiên, việc quản lý ngoại tệ và tỷ giá hối đoái trong thời
gian có một số vấn đề đang nổi lên là công tác quản lý việc mua bán,
thanh toán, trao đổi bằng ngoại tệ vẫn chưa được thực hiện nghiêm
túc. TRên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng nhiều khi cung nhiều
34
hơn cầu, người bán không có người mua hoặc ngược lại, người mua
không có người bán. NHTW đã mua ngoại tệ vào quá mức dự trữ của
mình trong khi đó chỉ tiêu phát hành VNĐ cho mua ngoại tệ cũng đã
hết hoặc không bán ra kịp thời làm giảm sút ý nghĩa của tiền tệ ngoại
tệ liên ngân hàng.
Lãi suất cho vay bằng nội tệ vẫn cao gấp 1,3 - l,6 lần lãi suất
cho vay ngoại tệ. Vậy vấn đề đặt ra là NHTW cần lựa chọn chiến
lược lãi suất (lãi suất trong nước lãi suất ngoại tệ) như thế nào cho
hợp lý ?
Sang năm 1997, như chúng ta đã biết là năm nổ ra cơn bão tiền
tệ ở Đông Nam Á và khủng hoảng tài chính toàn cầu nhưng nền tài
chính tiền tệ ở Việt Nam vẫn đứng vững. Tình hình đó có nhiều
nguyên nhân, có thể là do đồng tiền Việt Nam chưa phải là đồng tiền
chuyển đổi, Việt Nam chưa có tiền tệ chứng khoán, đầu tư nước
ngoài vào Việt nam đều là đầu tư trực tiếp và tình trạng đầu cơ tiền tệ
chưa có ở Việt Nam nhưng trước hết là do NHTW đã có những biện
pháp, chính sách kịp thời và hợp lý để nhằm làm giảm tới mức tối
thiểu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng đến nền kinh tế nước nhà.
Ngày 13/10/1997 Thống đốc NHNN Việt nam đã ký quyết định
số 342/QĐ - NH3, cho phép các NHTM được phép mua bán ngoại tệ
trong biên độ 10% so với tỷ giá chính thức do NHNN công bố, tăng
gấp đôi so với mức 5% trước đó. Tỷ giá ngoại tệ đã tăng đột biến,
với mức tỷ giá từ chỗ 11.800 VNĐ/USD đã tăng lên 12.200 rồi 12500
và 13.000 đồng. Cho đến thời điểm cuối năm (giữa tháng 12/1997)
vẫn ở mức xấp xỉ 14.000 VNĐ/USD. Sau đó, (từ 20/12/1997) tỷ giá
có giảm chút ít còn 13.350 - 13.400 VNĐ/USD nhưng vẫn ở mức
cao. Thực chất việc tăng tỷ giá ngoại tệ (VNĐ/USD của NHNN
không phải là phá giá VNĐ. Nói đúng ra đây là một giải pháp tích
cực dù có phần chậm chễ và đột ngột bước đầu đã kéo được đồng tiền
35
Việt Nam (mà xét đến cùng là cả nền kinh tế ) thoát ra khỏi thế "gọng
kìm" nguy hiểm của hiện tượng "đôla hoá" và gánh nặng nợ nước
ngoài luôn có chiều hướng gia tăng.
Xét trong bối cảnh thị trường tiền tệ quốc tế hiện nay, nhất là
trong mối tương quan sức mua đồng VNĐ và USD thì mức điều
chỉnh nâng tỷ giá danh nghĩa VNĐ/USD mới chỉ ở vào khoảng 80-
85% tỷ giá ngang bằng sức mua đáng kể phải có. Xét ở trong nước,
thực tế sức mua VNĐ vẫn đang tăng lên (biểu hiện ở chỉ lạm phát
thấp, lãi suất hạ biên). Đây còn là sự điều chỉnh hợp lý nhằm phá thế
"đông cứng" tỷ giá VNĐ/USD từ nhiều năm nay mà do chưa đủ điều
kiện (lạm phát còn cao) nên chưa thực hiện tốt và chỉ như vậy mới
phản ánh đúng hơn tương quan giữa đồng VNĐ và USD.
Chính sách tỷ giá mới đang thúc đẩy hỗ trợ tích cực việc điều
chỉnh một loạt các chính sách thương mại, đầu tư, tín dụng ... của
Nhà nước nhằm ngăn chặn ảnh hưởng tiêu cực của cuộc khủng hoảng
tiền tệ các nước trong khu vực Đông Nam á đã và đang có dấu hiệu
tác động đến nền kinh tế Việt Nam kể từ hồi đầu tháng 7/1997.
Về lãi suất, từ 1/7/1997 NHNN đã điều chỉnh giảm "trần" lãi
suất cho vay các loại phù hợp với chỉ số lạm phát để khuyến khích
các doanh nghiệp vay vốn ngân hàng, sử dụng đồng vốn có hiệu quả
hơn. Như vậy, kể từ cuối năm 1995 đến nay, đây là lần giảm lãi suất
thứ 5. Lãi suất cho vay đồng nội tệ tiếp tục giảm chung các loại
khoảng 20%, lãi suất cho vay đồng ngoại tệ giảm khoảng 10%. Các
mức lãi suất cho vay đối với các khu vực nông thôn và các đối tượng
được ưu đãi như vùng núi, hải đảo, người nghèo cũng được giảm
tương ứng. Lãi suất nợ quá hạn cũng được điều chỉnh giảm áp dụng
thống nhất theo mặt bằng mới để giảm bớt gánh nặng cho các doanh
nghiệp.
Tuy nhiên cũng cần thấy rằng, đây vẫn chỉ là phương thức
hoạch định chính sách lãi suất mang tính tình thế, thụ động. Bởi lẽ về
36
cơ bản, lãi suất chỉ đạo của NHNN vẫn chưa phản ánh đúng thực chất
quan hệ cung - cầu vốn của nền kinh tế. Nền kinh tế vẫn thiếu vốn
trầm trọng, đặc biệt là nhu cầu vốn trung, dài hạn để đổi mới, trang bị
kỹ thuật, công nghệ hiện đại nhằm nâng cao năng lực sản xuất, hiệu
quả và sức mua cạnh tranh của các mặt hàng nội địa. Trong lúc đó,
nhiều doanh nghiệp vẫn khó tiếp cận vay vốn ngân hàng theo nhu cầu
mong muốn. Kết quả là áp lực vay nợ nước ngoài, tìm kiếm thêm
nguồn ngoại tệ qua con đường này vẫn gia tăng khiến "cầu" tín dụng
trong nước bị thu hẹp tương đối.
Việc hạ lãi suất nội tệ liên tục ngày càng kém ý nghĩa một khi
còn nới lỏng quản lý nợ nước ngoài, thiếu nhất quán về quản lý ngoại
hối và chậm trễ phát triển hoàn thiện các thị trường tiền tệ thống nhất
trong cả nước để tập trung, thu hút mọi nguồn vốn nhà rỗi vào sử
dụng một cách hiệu quả nhất thông qua hệ thống tài chính - ngân
hàng.
Như vậy, phần nào chúng ta cũng đã thấy được một số hoạt
động chính cũng như vai trò đặc biệt quan trọng của NHNN Việt nam
trong sự chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền
kinh tế thị trường có sự điều tiêts của Nhà nước. Những thành tựu đã
được là không thể phủ nhận, tuy nhiên vẫn còn tồn tại một số vấn đề
đòi hỏi cần có giải pháp hữu hiệu để giải quyết, từ đó mới có thể
37
nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động của NHTW trong nền kinh tế.
CHƯƠNG III
MỘT SỐ GIẢI PHÁP CỦNG CỐ VÀ HỖ TRỢ VAI TRÒ
CỦA NHTW TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
1.Một số vấn đề còn tồn tại trong hoạt động của NHTW :
Từ sự phân tích ở phần chương II, có thể thấy một số hạn chế
trong hoạt của NHNN Việt nam như sau :
- NHNN còn can thiệp quá sâu vào việc ấn định các mức lãi
suất của NHTM, còn qui định nhiều mức lãi suất khống chế khác
nhau, khiến cho các NHTM không thể nào hoạt động theo thông lệ
thị trường, không thể cạnh tranh với nhau vì lợi ích của bản thân và
của nền kinh tế. ở hầu hết các nước NHTW chỉ công bố lãi suất tái
chiết khấu và quản lý cho vay cao nhất (trần lãi suất ), để cho các
NHTM chủ động qui định lãi suất tiền gửi và cho vay cụ thể, tạo
thuận lợi cho các NHTM tự chịu trách nhiệm về các hoạt động nghiệp
vụ của mình. NHTW điều chỉnh lãi suất tái cấp vốn đối với các
NHTM sát với lãi suất huy động vốn trên thị trường, tăng cường kiểm
tra để đảm bảo thực hiện đúng qui định về lãi suất và không để có sự
chênh lệch khoảng cách quá lớn giữa các ngân hàng.
- Việc qui định lãi suất theo thời hạn tín dụng có nội dung khác
biệt với thông lệ Quốc tế. Vốn cho vay trung hạn và dài hạn có lãi
suất thấp hơn lãi suất vốn cho vay ngắn hạn không những có sự trái
ngược với thông lệ Quốc tế, mà còn có nghịch lý ngay cả việc thực
hiện chính sách lãi suất trong nước : lãi suất huy động vốn trung hạn
và dài hạn cao hơn lãi suất huy động vốn ngắn hạn, trong khi lãi suất
cho vay thì ngược lại. Vốn cho vay thời hạn ngày càng dài, tỷ lệ rủi
ro càng lớn nên lãi suất càng cao dần lên. Lãi suất huy động và lãi
suất cho vay giữa ngoại tệ và bản tệ có sự chênh lệch lớn chưa
khuyến khích việc thu hút ngoại tệ gửi vào ngân hàng nhưng lại
38
khuyến khích các doanh nghiệp thích vay ngoại tệ làm nảy sinh tiêu
cực, thu lợi chưa xác đáng, chưa hạn chế việc sử dụng ngoại tệ trong
thanh toán và lưu thông.
- Mức lãi suất tín dụng đang thực hiện ở nước ta hiện nay do
qui định của NHNN từ ngày 01/01/1993 trong đó lãi suất cho vay vốn
ngắn hạn tối đa là 2,1%/tháng, tương ứng với 25,2%/năm, như vậy là
cao gấp 2,5 - 3 lần lãi suất cho vay của các nước trên thế giới ( mức
lãi suất cho vay bình quân của các nước là 6 - 8%/năm ) mức lãi suất
trên không phù hợp với chỉ số tăng giá trên thị trường xã hội, ở các
nước lãi suất được điều chỉnh thường xuyên theo diễn biến của thị
trường. Mức lãi suất trên cũng chưa thoả đáng so với hiệu quả chung
của nền kinh tế trong giai đoạn hiện nay, do đó hạn chế người kinh
doanh vay vốn để mở rộng đầu tư, làm tăng giá thành hàng hoá sản
suất trong mức khiến cho hàng nội địa không cạnh tranh với hàng
ngoại.
- Như vậy, với khung lãi suất hiện hành, NHTW muốn tạo thế
cân bằng nhưng thực tế nó không thể tạo được cân bằng trong nền
kinh tế thực của đất nước.
- Khối lượng giao dịch bằng tiền mặt vẫn còn là chủ yếu. Thói
quen và cách tổ chức giao dịch này của hệ thống ngân hàng hạn chế
đến tốc độ và tính nhanh nhạy kịp thời trong hoạt động sản xuất kinh
doanh, gây khó khăn, trở ngại trong quá trình lưu thông hàng hoá,
dịch vụ.
- Sự phối hợp hoạt động giữa các ngân hàng còn rất ít và thiếu
chặt chẽ. Sự luôn chuyển vốn trong trong và ngoài nước từ nơi thừa
đến nơi cần chưa được đáp ứng kịp thời và có hiệu quả thông qua hệ
thống ngân hàng.
- Quy mô cung ứng tiền tệ đã tăng đáng kể trong những năm
gần đây nhưng ngành ngân hàng vẫn chưa thể quản lý đánh giá và
kiểm soát được lượng tiền trôi nổi trong dân nhất là lượng vàng và
39
ngoại tệ.
- Các mối quan hệ lợi ích chưa được giải quyết thoả đáng giữa
cấu trúc về lãi suất gửi, lãi suất tiền vay với cấu trúc về thuế (kinh
doanh ngân hàng phải chịu thuế 4 - 15%) và các khoản qui định về
khoản dự trữ (ở Việt nam, các NHTM phải có tỷ lệ dự trữ bắt buộc là
10% gửi ở NHNN bất kỳ lúc nào. Ngày 10 tháng 01 năm 1995 NHNN
đã ra thông tư quy định lại tỷ lệ này là 8%). Ngoài ra, NHNN còn yêu
cầu tất cả các NHTM giữ lại thêm 20% và gửi ở NHNN để giải quyết
những khiếu nại. Với lãi suất 0,3%/tháng thêm 20% này các NHTM
phải chịu thêm một thứ thuế đáng kể nữa cùng với lãi suất gửi tiền
tiết kiệm 1,7%/3tháng. Tất cả làm giảm động cơ của NHTM trong
việc tích cực huy động tiền gửi.
- Việc quản lý ngoại hối còn nhiều tồn tại. Nhiều hoạt động
thương mại nước ngoài không nằm trong sự kiểm soát của ngân hàng.
NHNN chưa thực sự kiểm soát được các luồng ngoại hối vào Việt
nam trên mọi lĩnh vực như suất nhập khẩu, đầu tư nước ngoài, vay nợ
viện trợ, chuyển tiền phi mậu dịch, kiều hối... Nguyên nhân của tình
trạng này là việc sử dụng ngoại tệ còn rộng rãi. Tổ chức và cá nhân
đều có quyền mở tài khoản ngoại tệ. Ngoại tệ không phân biệt nguồn
gốc đều có thể sử dụng được. Ngoại tệ tiền mặt được lưu hành rộng
rãi và trở thành phương tiện thanh toán, cất giữ trong dân... chính
những yếu tố này ảnh hưởng không tốt tới thị trường hàng hoá, thị
trường ngoại tệ và tỷ giá.
- Đội ngũ cán bộ tuy có được đào tạo lại và nâng cao trình độ
nhưng vẫn còn xa mới đáp ứng được yêu cầu hoạt động của ngân
hàng trong giai đoạn hiện nay.
Với những tồn tại trên đây, đòi hỏi các biện pháp giải quyết
thoả đáng để nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động của NHTW từ đó
“... Tạo lập được một hệ thống ngân hàng đủ mạnh, cả về năng lực
hoạch định và thực thi chính sách, năng lực quản lý, năng lực điều
40
hành kinh doanh, đủ mạnh về trình độ công nghệ và kỹ thuật hiện đại
để thích ứng với cơ chế thị trường, trở thành công cụ đắc lực cho
mục tiêu phát triển kinh tế của đất nước và sớm hội nhập vào cộng
đồng tài chính Quốc tế.
2. Một số giải pháp khắc phục
- NHTW cần mạnh dạn từ bỏ cách điều chỉnh lãi suất như thời
gian qua. Trước đây, khi chúng ta từ bỏ việc qui định giá bán xi
măng, bỏ việc bao cấp lương thực... thì cũng rất lo ngại về biến động
thị trường, nhưng thực tế cho thấy tình hình thị trường lại diễn biến
tốt hẳn lên. Vấn đề quan trọng là cần có các biện pháp thanh tra,
kiểm soát có hiệu quả và có biện pháp hỗ trợ kịp thời.
- NHTW cần thực thi một chính sách lãi suất linh hoạt hơn nên
suất pháp từ cung cần về vốn trên thị trường để lãi suất thực sự trở
thành giá cả mua bán vốn trong nền kinh tế để lãi suất là công cụ hữu
hiệu nhất trong điều hành chính sách tiền tệ và là đòn bẩy tích cực
thúc đẩy hoạt động tiết kiệm, tích luỹ và đầu tư trong nền kinh tế, cần
chuẩn bị sớm những điều kiện cần thiết để thu hẹp dần khoảng cách
lãi suất giữa bản tệ và ngoại tệ, tiến tới chỉ cho phép NHTM mua,
bán ngoại tệ mà không được cho vay bằng ngoại tệ.
- Cần sửa đổi một số điểm trong quyết định 396/TTg và thông
tư hướng dẫn thực hiện QĐ 396/TTg của thủ tướng chính phủ về
quản lý ngoại tệ. Tăng cường các biện pháp bảo đảm thực hiện
nghiêm túc QĐ 396, tăng cường quản lý chặt chẽ việc vay nợ nước
ngoài.
- Cần tổng kết hoạt động của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng
và nội tệ liên ngân hàng, rút ra những hợp lý và bất hợp lý, điều
chỉnh hoạt động và nâng cấp đưa lãi suất trên thị trường liên ngân
hàng cả nội tệ và ngoại tệ, có tính chất điều chỉnh lãi suất của các
NHTM và điều chỉnh lãi suất trong nền kinh tế.
Việc NHTW can thiệp vào tỷ giá cũng chỉ nên dừng ở mức độ nhất
41
định trong khuôn khổ của chính sách tiền tệ, còn cần thiết phải để cho
thị trường bao gồm: cung cần ngoại tệ lạm pháp, sức mua thực tế của
VNĐ... điều chỉnh tỷ giá trên thị trường.
- Cần nghiên cứu giảm bớt sự phụ thuộc của đồng tiền nước ta
với việc dùng USD trong nhiều trường hợp đưọc coi như phương tiện
thanh toán chuẩn, từ đó quy ra tiền Việt nam. ý tưởng về việc hình
thành tỷ giá hối đoái không chỉ dựa vào USD mà cả các đồng tiền
khác là rất đáng lưu ý nghiên cứu.
- Nền kinh tế của một đất nước được ví như cơ thể sống, gồm
nhiều bộ phận có quan hệ hữu cơ và tác động tương hỗ, do vậy
NHNN cần đảm bảo tính hệ thống của các giải pháp. Đụng đến tỷ giá
hối đoái là đụng đến lãi suất tiền gửi, tiền vay, hoạt động suất nhập
khẩu, đầu tư, nợ nước ngoài... do đó cần tính toán thành nhiều
phương án cụ thể, trong đó có lượng hoá được cái lợi, cái hại để so
sánh, lựa chọn phương án tối ưu.
- NHNN cần điều chỉnh chính sách tài chính - tiền tệ quốc gia
hướng mạnh vào tăng hiệu quả sử dụng mọ nguồn vốn trong và ngoài
nước, hạn chế tiêu dùng xã hội để khuyến khích tiết kiệm và đầu tư,
cần phát triển mạnh thị trường nội tệ.
Tập trung vốn cho khu vực , ngành sản xuất - kinh doanh có lợi
thế cạnh tranh cao và đi đầu trong cải cách thương mại và thuế khoá,
đồng thời hỗ trợ tích cực cho việc sắp sếp, cải cách các doanh nghiệp
Nhà nước có nhiều triển vọng tốt. Khôi phục niềm tin của dân chúng,
các nhà đầu tư và mọi doanh nghiệp voà hệ thống tài chính - ngân
hàng.
- Chấn chỉnh, kiện toàn các thị trường nội, ngoại tệ liên ngân
hàng. NHNN chủ động can thiệp không để biến động tỷ giá ngoại tệ,
giá vàng cao thấp bất thường, kiên quyết ngăn chặn và dập tắt mọi
hành vi đầu có ngoại tệ, gây mất ổn định tiền tệ, gây mất ổn định tiền
tệ. Sớm đưa các điểm mua bán ngoại tệ phi tập trung vào quy trình
42
quản lý chặt chẽ của Nhà nước, tăng cường quản lý ngoại hối một
cách tập trung, nâng cao mức dự trữ ngoại tệ quốc gia trên 3 tháng
(12 tuần nhập khẩu); cần đổi mới công tác thanh toán - NHNN chủ
động phối hợp chặt chẽ với các bộ nghành liên quan thực hiện đồng
bộ các chính sách kinh tế vĩ mô, đảm bảo cùng hướng tới mục kích
“cần” của nền kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế một cách tích
cực, khẩn trương xử lý dứt điểm công nợ để góp phần làm lành mạnh
hoá quan hệ tín dụng giữa các doanh nghiệp và ngân hàng, tao điều
kiện mở rộng tín dụng mới. Cần tăng cường nâng cao trình độ cán bộ
ngân hàng.
Để lành mạnh hoạt động tín dụng ngân hàng, nên phân định
rạch ròi trách nhiệm ngân hàng thực hiện các chính sách xã hội (xoá
đói, giảm nghèo, hỗ trợ cho phát triển nông nghiệp nông thôn, tạo
việc làm, khắc phục thiên tai, cho vay sinh viên ...) thông qua các chủ
trương, chính sách cơ chế và hình thức triển khai rõ ràng (nguồn vốn,
bù lỗ lãi suất, bù trừ rủi ro, thời gian ân hạn, điều kiện vay trả nợ ...).
Cuối cùng, vấn đề đặt ra là phải tạo ra môi trường pháp lý đầy
đủ để các hoạt động trong lĩnh vực tiền tệ được an toàn và phát triển
vững chắc (cần sớm ban hành luật về thế chấp cầm cố tài sản và luật
phát mại tài sản.)
Trên đây là một số giải pháp chính để góp phần cửng cố và hỗ trợ
hơn nữa vai trò của NHTW trong giai đoạn hiện nay NHTW với tư
cách là ngân hàng của chính phủ và ngân hàng của các ngân hàng sẽ
đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong việc điều hành chính sách tiền
tệ quốc gia từ nay đến năm 2000.Đây sẽ là một giai đoạn hết sức
quan trọng trong sự phát triển kinh tế nước ta. Giai đoạn này có
nhiều thuận lợi cũng như không ít khó khănđòi hỏi nghành ngân hàng
nhất là NHNN phải đổi mới hoạt động một cách toàn diện và sâu sắc,
đây là một yêu cầu cấp bách. Bởi đổi mới ngân hàng để thích nghi
với điều kiện kinh tế thị trường và thúc đẩy, phục vụ nền kinh tế thị
43
trường. Ngân hàng là nghành chủ yếu trong việc tạo vốn cho công
nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Đổi mới ngân hàng vì một nền
kinh tế mở ,đổi mới để hiện đại hoá ngân hàng - một hướng đổi mới
hợp thời đại, đổi mới ngân hàng để có khả năng hợp tác và cạnh
44
tranh.
KẾT LUẬN
Quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch tập trung sang nền
kinh tế thị trường đang diễn ra ở hàng loạt các nước trên thế giới. Khi
một nền kinh tế đã hoạt động và phát triển theo cơ chế thị trường thì
bên cạnh các thị trường hàng hoá và thị trường sức lao động , thị
trườngvốn cũng cần phát triển theo cùng nhịp độ. Chính sự phát triển
của thị trường vốn vừa là đòi hởi khách quan vừa là yếu tố thúc đẩy
sự phát triển của thị trường hàng hoá và thị trường sức lao dộng. Đến
lượt mình thị trường hàng hoá phát triển lại đòi hỏi và thúc đẩy thị
trường vốn phát triển.
Chúng ta biết rằng bất kỳ một hoạt động kinh tế nào cũng liên
quan đến ngân hàng dù là gián tiếp hay trực tiếp ; như vậy khu vưc
ngân hàng phải được đặt ở vị trí hàng đầu đặc biệt là NHTW giúp
cho các ngân hàng không đi chệch khởi mục tiêu đã định.Một khu
vực ngân hàng vững mạnh sẽ là hậu thuẫn cho các thành phần kinh tế
hoạt động có hiệu quả. Một khu vưc ngân hàng sẽ tạo điều kiện để
hình thành thị trường vốn hoàn hảo trong nền kinh tế.
Chuyển sang nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCH là
một cong việc còn nhiều mới mẻ đối với Việt Nam. Đảng và Phính
phủ đã xác định đúng đắn nhiệm vụ của đất nước là phải đổi mới căn
bản hệ thống tài chính , tiền tệ ,ngân hàng phải thực sự trở thành
trung tâm tiền tệ, tín dụng của cả nước. Trong thời gian qua, bộ máy
hoạt các loại hình kinh doanh của khu vực này đã dược đỏi mới và
đang từng bước được hiện đại hoá để theo kịp trình độ các nước trong
khu vực và trên thế giới. Các hoạt động tài chính tín dụng đã bước
đâù dựa trên nguyên tắc thị trường. ngoài nỗ lực của bản thân khu
45
vực ngân hàng, Đảng và Chính phủ cũng cần quan tâm hơn nữa bằng
cách nhanh chóng hoàn thiện hệ thống pháp luật ,bổ sung các điều
luật cần thiết phục vụ cho hoạt động trong lĩnh vực này.
Hoàn thiện hệ thống ngân hàng là cơ sở vững chắc, tiền đề quan
trọng cho sự ra đời của thị trường chứng khoán ở Việt Nam.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1) Sách “Kinh tế học” của David Begg, Stanley Fischer và Ruchger
Dornbusch - NXB Giáo dục 1995(Trường đại học kinh tế quốc dân )
2) Sách “Ngân hàng Việt Nam quá trình xây dựng và phát triển”
NXB chính trị quốc gia - 1996 ( Ngân hàng nhà nước Việt Nam )
3) Sách “ Ngân hàng trong nền kinh tế thị trường” Dịch và biên soạn
: Phó tiến sĩ Nguyễn Đức Thảo. NXB Mũi Cà Mau .
4) Sách “ Tiền tệ , tín dụng và ngân hàng”
Chủ biên: Giáo sư - Tiến sĩ Lê Văn Tư
NXB Thống kê 1997
5) Giáo trình “ Kinh tế học tiền tệ - ngân hàng”- khoa kinh tế -
Trường ĐHKHXH và NV.
6) Tạp chí “Kinh tế 96-97 Việt Nam và thế giới”
“Kinh tế 97-98 Việt Nam và thế giới”
của thời báo kinh tế Việ Nam
46
7) Báo: “Thời báo kinh tế Việt Nam”, “Đầu tư”
“Tài chính và thị trường” (Bộ tài chính - Thời báo tài chính
47
Việt Nam).
48