HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

TRẦN TIẾN THẠO

VĂN HÓA GIA ĐÌNH Ở THÀNH PHỐ BẢO LỘC - LÂM ĐỒNG HIỆN NAY

Chuyên ngành

: Văn hóa học

Mã số

: 60 31 06 04

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HÓA HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. LÊ XUÂN KIÊU

HÀ NỘI - 2014

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của

riêng tôi, dưới sự hướng dẫn của TS. Lê Xuân Kiêu, các số

liệu đưa ra trong luận văn có chứng cứ rõ ràng. Những kết

luận mới về khoa học của luận văn chưa hề được công bố

trong bất kỳ công trình nào.

Tác giả luận văn

Trần Tiến Thạo

MỤC LỤC

Trang

MỞ ĐẦU

1

Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VĂN HÓA GIA ĐÌNH VÀ

9

KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THÀNH PHỐ BẢO LỘC, TỈNH LÂM ĐỒNG

1.1. Một số vấn đề lý luận về văn hóa gia đình 9

1.2. Khái quát chung về thành phố Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng 23

Chương 2: THỰC TRẠNG VĂN HÓA GIA ĐÌNH Ở THÀNH PHỐ BẢO

31

LỘC, TỈNH LÂM ĐỒNG HIỆN NAY

2.1. Thực trạng văn hóa sản sinh và nuôi dạy con người trong các gia

đình ở thành phố Bảo Lộc 31

2.2. Thực trạng văn hóa vật chất và tiêu dùng các sản phẩm vật chất

của các gia đình ở thành phố Bảo Lộc 42

2.3. Thực trạng văn hóa tinh thần và tiêu dùng các sản phẩm tinh thần

của các gia đình ở thành phố Bảo Lộc 54

Chương 3: ĐÁNH GIÁ VỀ VĂN HÓA GIA ĐÌNH Ở THÀNH PHỐ BẢO

72

LỘC, TỈNH LÂM ĐỒNG HIỆN NAY VÀ CÁC GIẢI PHÁP, KIẾN NGHỊ ĐỀ XUẤT

3.1. Đánh giá về văn hóa gia đình ở thành phố Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng 72

3.2. Những nhân tố tác động văn hóa gia đình ở thành phố Bảo Lộc,

tỉnh Lâm Đồng trong thời gian tới 80

3.3. Những giải pháp, kiến nghị đề xuất 89

102

KẾT LUẬN

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

105

PHỤ LỤC

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

CNH, HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

CB, CNVC : Cán bộ, Công nhân viên chức

CLB : Câu lạc bộ

ĐBDTTS : Đồng bào dân tộc thiểu số

GS : Giáo sư

HĐND : Hội đồng nhân dân

KHKT : Khoa học kỹ thuật

KHHGĐ : Kế hoạch hóa gia đình

PGS : Phó giáo sư

PTTH : Phổ thông trung học

SKSS : Sức khỏe sinh sản

TDĐKXDĐSVH : Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa

THCS : Trung học cơ sở

TS : Tiến sĩ

UBMTTQVN : Ủy ban Mặt trận tổ quốc Việt Nam

UBND : Ủy ban nhân dân

UNESCO : Tổ chức văn hóa và khoa học giáo dục

của Liên hợp quốc

XHCN : Xã hội chủ nghĩa

DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ TRONG LUẬN VĂN

Trang

Biểu đồ 2.1: Khảo sát về sự quan tâm coi trọng con trai hay con gái

trong gia đình 34

Biểu đồ 2.2: Khảo sát về sự coi trọng giáo dục con cái trong gia đình 39

Biểu đồ 2.3: Khảo sát mức chi phí của gia đình 51

Biểu đồ 2.4: Khảo sát về hôn nhân trong gia đình 55

67 Biểu đồ 2.5: Khảo sát việc sử dụng thời gian rỗi của các gia đình

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Gia đình là nền tảng của xã hội. Sự ổn định và phát triển của xã hội phụ

thuộc rất lớn vào gia đình. Một xã hội phát triển phồn vinh chỉ có thể xây

dựng trên nền tảng của gia đình ấm no, hạnh phúc. Là thiết chế xã hội cơ bản,

gia đình không chỉ là môi trường quan trọng nhất để hình thành nuôi dưỡng

và giáo dục nhân cách con người mà gia đình còn là nơi bảo tồn và phát huy

các giá trị văn hóa dân tộc. Gia đình là tế bào của xã hội, do đó xây dựng văn

hóa gia đình có mối quan hệ chặt chẽ với việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn

hóa truyền thống dân tộc. Con người là chủ thể của văn hoá và cũng là sản

phẩm của văn hóa. Cá thể người chỉ trở thành con người nhờ có quá trình

nhập thân văn hóa, mà trước hết diễn ra trong môi trường gia đình. Chính gia

đình là một thiết chế văn hoá góp phần tạo dựng nên nền tảng của xã hội. Xã

hội càng phát triển, càng phản ánh sự đa dạng phong phú trong cuộc sống gia

đình. Gia đình càng hoàn thiện, càng ổn định và có nền tảng văn hoá sẽ góp

phần xây dựng lối sống tốt đẹp cho xã hội. Khi gia đình và xã hội không gắn

kết, đồng phát triển sẽ tạo nên sự trì trệ, xáo trộn và mất ổn định xã hội.

Trong các văn kiện của Đảng, vấn đề gia đình chiếm vị trí quan trọng

Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VI đã khẳng định: “Gia đình là tế bào của xã

hội, có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp xây dựng chế độ mới, nền kinh

tế mới, con người mới". Các Nghị quyết Đại hội lần thứ VII, VIII, IX, X của

Đảng Cộng sản Việt Nam đều đề cập đến vị trí, vai trò của gia đình trong sự

nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Đến Đại hội XI của Đảng, vị trí, vai

trò của gia đình được xác định cụ thể và rõ ràng hơn: Phát huy giá trị truyền

thống của gia đình Việt Nam, thích ứng với những giá trị của quá trình CNH,

HĐH. Xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, thật sự là tổ

ấm của mỗi người, là tế bào lành mạnh của xã hội, là môi trường quan trọng

hình thành, nuôi dưỡng và giáo dục nhân cách con người, bảo tồn và phát huy

văn hóa truyền thống tốt đẹp, tạo nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp xây dựng

và bảo vệ Tổ quốc.

2

Từ những trình bày trên đây cho thấy vai trò đặc biệt quan trọng của

gia đình nói chung, văn hóa gia đình nói riêng trong việc tạo ra môi trường

lành mạnh, nuôi dưỡng, giáo dục nhân cách con người, tạo nguồn nhân lực

phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Ở nước ta, trong quá trình đổi mới, với truyền thống giàu lòng nhân ái,

thủy chung, trọng tình nghĩa, giá trị của đạo đức gia đình, văn hóa gia đình và

vai trò của gia đình trong quan hệ nhà - làng - nước vẫn được chú trọng. Hiện

nay, nhiều gia đình Việt Nam vẫn giữ gìn và phát huy được những đức tính,

phẩm chất tốt đẹp của đạo đức gia đình, văn hóa gia đình truyền thống. Cùng

với sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước, đời sống vật chất và đời sống

tinh thần của mỗi gia đình được nâng lên, là điều kiện thuận lợi cho việc phát

huy các giá trị của văn hóa gia đình Việt Nam.

Tuy nhiên, bên cạnh đó,văn hóa gia đình ở nước ta hiện nay đang đặt ra

nhiều vấn đề. Sự tác động từ mặt trái của kinh tế thị trường, của các sản phẩm

phi văn hóa, của lối sống thực dụng phương Tây… đang làm băng hoại văn

hóa, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ các gia đình. Những quan

hệ thiêng liêng trong gia đình như cha mẹ và con cái, vợ chồng, anh em với

những chuẩn mực đạo đức cơ bản là tình nghĩa, thủy chung, hiếu thảo, hòa

thuận đang có nguy cơ bị xâm hại, lấn át bởi sức mạnh của đồng tiền. Nhiều

biểu hiện tiêu cực về đạo đức gia đình đã và đang phát sinh, ảnh hưởng không

nhỏ tới đạo đức cá nhân và văn hóa gia đình trên địa bàn cả nước nói chung ở

thành phố Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng nói riêng.

Thành phố Bảo Lộc là một thành phố mới được thành lập của tỉnh Lâm

Đồng, thuộc đô thị miền núi của khu vực nam Tây Nguyên, nằm trên cao

nguyên Di Linh, là trung tâm kinh tế khu vực phía nam của tỉnh. Là một thành

phố đô thị loại 3, thành phố Bảo Lộc có tính chất đặc thù riêng, hoàn toàn

khác so với nhiều thành phố trong cả nước. Đó là thành phố miền núi thuộc

cao nguyên vừa có thành thị và nông thôn, với 11 đơn vị hành chính, gồm 6

phường và 5 xã; là địa bàn cư trú của hơn 20 dân tộc anh em sinh sống. Với 4

tôn giáo chính gồm Phật giáo, Công giáo, Tin lành, Cao đài, trong đó tín đồ

các tôn giáo chiếm tỷ lệ hơn 50% dân số toàn thành phố hiện nay [47].

3

Cũng như các địa phương khác trong cả nước, trong điều kiện phát

triển kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế và đô thị hóa, văn hóa gia đình ở

thành phố Bảo Lộc đang có những biến đổi mạnh mẽ, đan xen cả yếu tố tích

cực và tiêu cực. Do đó, việc nghiên cứu thực trạng văn hóa gia đình ở thành

phố Bảo Lộc, trên cơ sở đó, đề xuất những giải pháp và kiến nghị thiết thực

nhằm xây dựng văn hóa gia đình ở thành phố Bảo Lộc, đảm bảo cho sự phát

triển bền vững ở đây là việc làm cần thiết và có ý nghĩa.

Xuất phát từ những lý do đó, tôi lựa chọn đề tài“Văn hóa gia đình ở

thành phố Bảo Lộc - Lâm Đồng hiện nay” làm luận văn tốt nghiệp hệ đào

tạo thạc sĩ Văn hoá học tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Trong những năm gần đây, ở nước ta, xuất hiện nhiều công trình

nghiên cứu về gia đình, văn hóa gia đình. Liên quan đến đề tài, có thể kể đến

nhiều hướng nghiên cứu, cụ thể như sau:

Thứ nhất, những công trình nghiên cứu về gia đình nói chung

- Một vài nét nghiên cứu về gia đình Việt Nam (1990), của tập thể tác

giả Trung tâm nghiên cứu khoa học về gia đình và phụ nữ, thuộc Trung tâm

Khoa học xã hội nhân văn Quốc gia. Trong công trình này, các tác giả đã

nghiên cứu về vai trò, vị trí của gia đình trong xã hội nhưng mới chỉ đặt vấn

đề và gợi ý là chủ yếu.

- Những nghiên cứu xã hội về gia đình Việt Nam (1991), do tập thể tác

giả của Viện Xã hội học thuộc Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc

gia phối hợp với Khoa xã hội học Trường đại học Gothenburg (Thụy Điển) đã

tiến hành khảo sát ở nhiều tỉnh, thành trong cả nước về đặc điểm của gia đình

Việt Nam trước những năm 1990.

- Văn minh Phương Đông và gia đình Việt Nam truyền thống (1994),

Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia do quỹ Toyota

Founddation tài trợ, đã có những khảo sát và nghiên cứu, đánh giá bước đầu

về gia đình truyền thống ở Việt Nam qua một số mốc lịch sử của Việt Nam.

- Gia đình Việt Nam với chức năng xã hội hóa (1998) của tác giả Lê

Ngọc Văn, Nxb Giáo dục, Hà Nội. Ở công trình này, tác giả đã tập trung trình

4

bày về chức năng xã hội hóa để làm rõ sự biến đổi chức năng của gia đình

Việt Nam truyền thống khi xã hội Việt Nam chuyển từ xã hội nông nghiệp

sang xã hội công nghiệp.

- Gia đình Việt Nam trong bối cảnh đất nước đổi mới (2003) của GS.

Lê Thi (kết quả cuộc điều tra về gia đình Việt Nam có quy mô lớn nhất từ

trước tới nay), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Công trình này tác giả đã trình

một cách tổng thể về gia đình Việt Nam. Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại

hóa, đô thị hóa và hội nhập quốc tế tạo ra nhiều cơ hội và điều kiện thuận lợi,

đồng thời cũng đặt gia đình và công tác gia đình trước nhiều khó khăn, thách

thức. Mặt trái của cơ chế thị trường và lối sống thực dụng tác động mạnh tới

các giá trị đạo đức truyền thống và lối sống. Sự phân hóa giàu nghèo giữa các

gia đình đang có sự gia tăng.

- Gia đình và biến đổi gia đình ở Việt Nam (2012) của tác giả Lê Ngọc

Văn, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Công trình này trình bày hệ thống về

những vấn đề gia đình và biến đổi gia đình ở Việt Nam trong hơn hai thập

niên vừa qua và gợi ý cho những nghiên cứu tiếp tục về chủ đề gia đình trong

thời gian tới.

Thứ hai, những công trình nghiên cứu về văn hóa gia đình

- Văn hóa gia đình và sự phát triển xã hội (1994) của nhiều tác giả, do

nhà văn Lê Minh chủ biên, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

- Văn hóa gia đình với việc hình thành và phát triển nhân cách trẻ em

(2001) của PGS.TS Lê Như Hoa, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.

- Văn hóa gia đình (2007) của GS. Vũ Ngọc Khánh, Nxb Thanh niên,

Hà Nội.

- Người phụ nữ trong văn hóa gia đình đô thị (2003) của TS. Lê Quý

Đức và Ths. Vũ Thy Huệ, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

Các công trình nghiên cứu trên đã đề cập đến những vấn đề lý luận và

thực tiễn về gia đình, văn hóa gia đình, xây dựng văn hóa gia đình, sự biến đổi

của gia đình và văn hóa gia đình trong bối cảnh mới, những vấn đề của gia đình

Việt Nam từ truyền thống đến hiện tại, cũng như ảnh hưởng của văn hóa gia

đình đối với sự phát triển của cá nhân nói riêng và xã hội nói chung.

5

Thứ ba, các đề tài, luận văn, luận án nghiên cứu gia đình, xây dựng

gia đình văn hóa, văn hóa gia đình dưới góc độ triết học, chủ nghĩa xã hội

khoa học và văn hóa học, có thể kể đến một số công trình sau:

- Vai trò của gia đình trong việc giáo dục thế hệ trẻ ở nước ta hiện nay

(2001), Luận án tiến sĩ triết học, chuyên ngành chủ nghĩa xã hội khoa học của

Nghiêm Sỹ Liêm (Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh).

Trong luận án này, tác giả đã làm rõ vai trò, các yếu tố ảnh hưởng đến gia

đình và thực trạng của giáo dục gia đình đối với thế hệ trẻ ở nước ta hiện nay.

- Gia đình Việt Nam và vai trò của người phụ nữ trong gia đình Việt

Nam hiện nay (2003), Luận án tiến sĩ Triết học, chuyên ngành Chủ nghĩa xã

hội khoa học, của Dương Thị Minh (Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí

Minh). Trong luận án này, tác giả đã khẳng định vị trí, vai trò của phụ nữ Việt

Nam được xác định là một nhiệm vụ quan trọng, tạo bình đẳng thực sự để chị

em vừa có cơ hội thể hiện, cống hiến năng lực của mình.

- Gia đình trong việc bảo vệ chăm sóc trẻ em của nước ta hiện nay

(2004), Luận văn thạc sĩ Triết học, chuyên ngành chủ nghĩa xã hội khoa học

của Phạm Thị Xuân (Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh).

Tác giả đã đề cập và khẳng định trẻ em là thành phần quan trọng cấu

thành gia đình. Cha mẹ và các thành viên trong gia đình là những người gần

gũi mật thiết thường xuyên ở bên cạnh trẻ em, việc chăm sóc con trẻ không

chỉ là trách nhiệm mà còn là “bản năng” của họ.

- Phát huy vai trò của người phụ nữ trong xây dựng gia đình văn hóa ở tỉnh

Bạc Liêu hiện nay (2006), luận văn thạc sĩ Triết học, chuyên ngành chủ nghĩa xã

hội khoa học của Lê Cẩm Lệ. Tác giả cũng đề cập tới vai trò quan trọng của người

phụ nữ trên cơ sở thực hiện chức năng của gia đình trong tỉnh Bạc Liêu.

- Văn hóa gia đình và vấn đề xây dựng gia đình văn hóa ở thủ đô Hà Nội

(2003), Luận văn thạc sỹ văn hóa học của Đỗ Xuân Đán (Trường Đại học Văn

hóa Hà Nội). Tác giả phân tích thực trạng trong bối cảnh CNH, HĐH đất nước

đồng thời khảo sát về cuộc vận động xây dựng gia đình văn hóa ở Hà Nội.

- Văn hóa gia đình và xây dựng văn hóa gia đình trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh

(2009), Luận văn thạc sĩ Văn hóa học của Nguyễn Thị Nguyệt (Học viện Chính trị

6

- Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh). Trong luận văn này, tác giả đã đánh giá

thực trạng việc xây dựng gia đình văn hóa và văn hóa gia đình ở tỉnh Hà Tĩnh.

- Văn hóa gia đình ở huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình hiện nay (2012),

Luận văn Thạc sĩ của Võ Thị Thanh Thủy (Học viện Chính trị - Hành chính

quốc gia Hồ Chí Minh). Luận văn này nghiên cứu các phương diện lý luận về

văn hóa gia đình, tập trung khảo sát văn hóa gia đình được thể hiện ở các hệ

giá trị của gia đình.

- Văn hóa gia đình trong việc giáo dục trẻ em trước tuổi đến trường

tiểu học (tỉnh Hưng Yên), Luận văn thạc sĩ, chuyên ngành văn hóa học của Lê

Thị Hiền. Tác giả đã đề cập đến vai trò của gia đình, văn hóa gia đình trong

việc hình thành nhân cách cho trẻ, góp phần tạo ra môi trường phát triển lành

mạnh, toàn diện cho trẻ.

Như vậy, có thể nói, cho đến nay vẫn chưa có một công trình nào nghiên

cứu về văn hóa gia đình ở thành phố Bảo Lộc - Lâm Đồng. Trên cơ sở kết quả

nghiên cứu của các tác giả đi trước, luận văn nghiên cứu, khảo sát về văn hóa

gia đình ở thành phố Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng hiện nay, đề xuất những giải

pháp, kiến nghị để phát huy các giá trị văn hóa gia đình ở Bảo Lộc trong thời

gian tới.

3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn

3.1. Mục đích

Trên cơ sở hệ thống lại những vấn đề lý luận về văn hóa gia đình, luận

văn nghiên cứu thực trạng văn hóa gia đình ở thành phố Bảo Lộc, tỉnh Lâm

Đồng trong thời gian vừa qua và đề xuất một số giải pháp góp phần nâng cao

chất lượng, hiệu quả công tác xây dựng văn hóa gia đình của địa phương thời

gian tới.

3.2. Nhiệm vụ - Hệ thống những vấn đề lý luận về văn hóa gia đình, vai trò của văn

hóa gia đình đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở thành phố Bảo Lộc, tỉnh

Lâm Đồng hiện nay.

- Khảo sát, đánh giá thực trạng văn hóa gia đình ở thành phố Bảo Lộc,

tỉnh Lâm Đồng.

7

- Đề xuất các giải pháp nhằm góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả

công tác xây dựng văn hóa gia đình của địa phương thời gian tới.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Văn hóa gia đình ở thành phố Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

- Về thời gian: từ năm 2005 đến nay.

- Về không gian: thành phố Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn

5.1. Cơ sở lý luận

Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư

tưởng Hồ Chí Minh và đường lối của Đảng về xây dựng nền văn hoá tiên tiến,

đậm đà bản sắc dân tộc, trong đó có vấn đề xây dựng văn hóa gia đình.

5.2 Phương pháp nghiên cứu

Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu liên ngành và đa ngành

như: văn hoá học, lịch sử, nhân học, xã hội học và các phương pháp nghiên

cứu cơ bản khác: phân tích và tổng hợp, đối chiếu và so sánh, logic và lịch sử,

thống kê … để hoàn thành mục tiêu nghiên cứu.

6. Những đóng góp về khoa học của luận văn

Luận văn nghiên cứu thành công sẽ có những đóng góp sau:

- Đánh giá thực trạng văn hóa gia đình ở thành phố Bảo Lộc, tỉnh Lâm

Đồng từ năm 2005 đến nay.

- Đề xuất các giải pháp nhằm góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả

công tác xây dựng văn hóa gia đình của địa phương thời gian tới.

7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho các

luận văn, luận án, đề tài nghiên cứu về văn hóa gia đình.

Làm cơ sở cho các cơ quan chức năng của thành phố Bảo Lộc trong

quá trình thực hiện công tác gia đình và xây dựng văn hóa gia đình ở thành

phố Bảo Lộc.

8

Làm tài liệu tham khảo phục vụ công tác tuyên truyền vận động cho

các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể thành phố Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng.

8. Kết cấu luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung

luận văn gồm 3 chương, 8 tiết.

9

Chương 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VĂN HÓA GIA ĐÌNH VÀ KHÁI

QUÁT CHUNG VỀ THÀNH PHỐ BẢO LỘC, TỈNH LÂM ĐỒNG

1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VĂN HÓA GIA ĐÌNH

1.1.1. Quan niệm về văn hóa gia đình

1.1.1.1. Quan niệm về văn hóa

Sự phát triển của loài người gắn liền với văn hoá ngay từ những bước

đi lịch sử đầu tiên của mình. Văn hoá xuất hiện cùng với con người. Tuy

không phải ngay lúc đó đã có một khái niệm văn hoá nhưng có thể nói rằng từ

văn hoá xuất hiện khá sớm trong ngôn ngữ của nhiều dân tộc trên thế giới

ngay từ thời cổ đại như Trung Hoa, Ấn Độ, Ai Cập, Hy Lạp.

Ở phương Đông, từ văn hoá mà chúng ta đang sử dụng có cội nguồn từ

tiếng Hán. Trong ngôn ngữ Hán, hai từ văn và hoá xuất hiện khá sớm, như hai

từ đơn có nghĩa riêng biệt. Văn có nghĩa là vẻ đẹp, hoá có nghĩa là biến đổi,

biến hoá. Văn hoá gộp lại theo nghĩa gốc là làm cho đẹp, trở thành đẹp đẽ.

Ở phương Tây, dựa theo sự nghiên cứu của nhà ngôn ngữ học người

Đức W.Vunđơ, từ văn hoá bắt nguồn từ một động từ tiếng Latinh “colere” sau

chuyển thành cultural, có nghĩa là cày cấy, vun trồng. Về sau, từ cultural

chuyển nghĩa từ trồng trọt cây cối chuyển sang vun trồng tinh thần, trí tuệ.

Nhờ có quá trình gieo trồng tinh thần này mà loài người mới tạo ra được sự

khác biệt về bản chất với muôn loài. Cũng chính nhờ có văn hoá mà từng

cộng đồng dân tộc có thể tự nhận thức về mình và mới có thể tự phân biệt

mình với người khác. Sau này, trong ngôn ngữ hiện đại, Culture trong tiếng

Anh, Pháp, Kutur tiếng Đức, Kultura tiếng Nga đều chỉ văn hoá.

Trong khoa học xã hội và nhân văn, từ văn hoá được đưa vào trong

khoa học sớm nhất là ở Đức bởi Pu-phen-dooc, nhà nghiên cứu pháp luật

người Đức năm 1774 và đến năm 1783, được ghi vào từ điển với nghĩa văn

hoá là toàn bộ những gì do hoạt động xã hội của con người tạo ra, văn hoá là

cái đối lập với trạng thái tự nhiên.

10

Đầu thế kỷ XX, các ngành khoa học nghiên cứu về văn hoá nở rộ trên

thế giới, có rất nhiều ngành khoa học cùng lấy thuật ngữ văn hoá làm đối

tượng nghiên cứu như Dân tộc học, Sử học, Xã hội học, Nhân học…, mỗi nhà

nghiên cứu thường nhấn mạnh một khía cạnh đặc sắc của văn hóa, phù hợp

với cách tiếp cận của họ. Kết quả là ra đời hàng nghìn định nghĩa về văn hóa,

trong đó, nhà văn hóa học người Nga, A.X.Ka-rơ-min đã tổng hợp và phân ra

14 nhóm định nghĩa văn hóa như sau: [34, tr.6].

Định nghĩa mang tính chất miêu tả thiên về liệt kê các yếu tố riêng lẻ

và các biểu hiện của văn hóa, như: phong tục, tín ngưỡng, các dạng hoạt

động: nghệ thuật, giáo dục, khoa học, thể dục thể thao.

Định nghĩa mang tính chất nhân loại học;

Xuất phát từ chỗ cho rằng văn hóa là một tổng thể các sản phẩm do

hoạt động người tạo ra, thế giới vật thể, đối lập với thiên nhiên, là những thứ

do con người sáng tạo ra (thiên nhiên thứ hai).

Định nghĩa mang tính chất giá trị;

Giải thích văn hóa như là tổng thể các giá trị tinh thần và vật chất, do

con người sáng tạo ra.

Định nghĩa mang tính chất chuẩn mực;

Xác nhận rằng nội dung của văn hóa tạo ra các chuẩn mực và quy tắc,

để điều tiết đời sống mọi người.

Định nghĩa mang tính chất thích nghi;

Văn hóa được giải thích như là phương thức đáp ứng các nhu cầu, như

một dạng hoạt động đặc biệt, là cái vốn có ở con người, bằng cách truyền đạt

kinh nghiệm mà con người thâu lượm được từ thế hệ này đến thế hệ khác.

Định nghĩa mang tính chất lịch sử;

Nhấn mạnh rằng văn hóa là sản phẩm của lịch sử xã hội và phát triển

bằng cách truyền đạt kinh nghiệm mà con người thâu lượm được từ thế hệ này

đến thế hệ khác.

Định nghĩa mang tính chất chức năng;

11

Xác định văn hóa thông qua các chức năng, văn hóa thực hiện các chức

năng trong xã hội, các chức năng ấy tạo nên sự thống nhất và mối tương liên

giữa chúng trong văn hóa.

Định nghĩa mang tính chất ký hiệu học;

Xem xét văn hóa như là hệ thống ký hiệu, được xã hội sử dụng.

Định nghĩa mang tính chất biểu tượng;

Nhấn vào sự quan tâm đến việc sử dụng các biểu tượng trong văn hóa.

Định nghĩa mang tính chất thông diễn học;

Liên quan đến văn hóa như một đa số văn bản, chúng được thông giải

và được suy ngẫm bởi mọi người.

Định nghĩa mang tính chất tinh thần;

Xác định văn hóa như là đời sống tinh thần của xã hội, như là dòng tư

tưởng và các sản phẩm khác của sáng tạo tinh thần, chúng được tích lũy trong

ký ức xã hội.

Định nghĩa mang tính chất tâm lý học;

Chỉ ra mối liên hệ giữa văn hóa với tâm lý học ứng xử (hành vi) của

mọi người và nhận thấy trong văn hóa có những đặc điểm quy ước về mặt xã

hội của tâm lý người.

Định nghĩa mang tính chất học tập;

Xem xét văn hóa như là cái mà con người học được (chứ không phải là

di truyền sinh học).

Định nghĩa mang tính chất xã hội học;

Văn hóa được quan niệm như là nhân tố tổ chức đời sống xã hội, như là

tổng thể các ý tưởng, các nguyên tắc, các định chế xã hội, bảo đảm duy trì

hoạt động tập thể của mọi người.

Trong toàn bộ các dạng định nghĩa vừa kể trên đây, mỗi dạng đều có

nội dung hợp lý, chỉ ra những (nét) đặc điểm ít hay nhiều quan trọng của

văn hóa.

Luận văn tìm hiểu về văn hóa của một nhóm xã hội đặc thù là gia đình,

trên một địa bàn cụ thể là thành phố Bảo Lộc - Lâm Đồng. Với cách tiếp cận

12

này, văn hóa mang ý nghĩa của nhân tố có khả năng gắn kết các thành viên

của gia đình thông qua việc chia sẻ các giá trị, thực hiện các chuẩn mực, các

hoạt động chung, thực hiện các chức năng của gia đình, qua đó hình thành nên

văn hóa gia đình.

1.1.1.2. Quan niệm về gia đình

Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, “gia đình” là một trong những phạm

trù sớm xuất hiện trong lịch sử nhân loại; và từ “gia đình” có lẽ được sử dụng

nhiều nhất trong ngôn ngữ hàng ngày và trong nhiều lĩnh vực hoạt động xã

hội cũng như trong các nghiên cứu về gia đình, song hiếm khi “gia đình”

được định nghĩa một cách rõ ràng. Ngày nay, chúng ta vừa biết nhiều hơn lại

vừa biết ít hơn về gia đình, bởi sự biến đổi và tính đa dạng của gia đình.

Trong thực tế không có một loại gia đình đồng nhất cũng như không có một

hình thức gia đình giống nhau ở mọi nơi và mọi thời điểm. Gia đình không

chỉ khác nhau giữa các quốc gia và các nền văn hóa mà thậm chí còn không

giống nhau từ gia đình này đến gia đình khác trong một nền văn hóa.

Xác định gia đình có ý nghĩa quan trọng trong đời sống của mỗi người,

trong nhận thức xã hội, đồng thời còn là cơ sở để xây dựng những chính sách,

chương trình phù hợp với gia đình. Trong các nghiên cứu, gia đình không chỉ là

chủ thể nghiên cứu mà còn là một đơn vị cơ bản để thu hút thông tin, phân tích

số liệu. Vì thế việc xác định khái niệm gia đình là hết sức cần thiết cho việc tiến

hành những nghiên cứu về gia đình, định hướng các vấn đề nghiên cứu.

Cho dù có rất nhiều công trình nghiên cứu về gia đình đã được triển

khai, song “gia đình là gì” vẫn còn đang là vấn đề gây nhiều tranh cãi. Cho

đến nay gia đình được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau. Và thuật ngữ

gia đình vẫn là “một thuật ngữ được định nghĩa lỏng lẻo nhất trong từ vựng

của nhà xã hội học” [36, tr.34]. Khó khăn trong việc xác định khái niệm gia

đình do nhiều nguyên nhân. Trước hết bởi gia đình là một thuật ngữ hết sức

quen thuộc với tất cả mọi người. Gia đình là nơi mỗi người sinh ra và lớn lên

khi nhắc tới khái niệm gia đình ai cũng có thể có ngay những hình dung về

nó. Chính sự quen thuộc này khiến nhiều người tưởng hiểu rất rõ về gia đình

13

lại cảm thấy rất mơ hồ khi được yêu cầu cung cấp những tiêu chí để nhận diện

gia đình. Thứ hai, gia đình là một nhóm xã hội đặc thù, khác với các nhóm xã

hội khác, gia đình hội tụ trong đó tất cả các yếu tố sinh học, tâm lý, văn hóa

và cả kinh tế. Sự phức tạp trong chính đặc điểm của gia đình khiến việc định

nghĩa gia đình trở nên khó khăn. Thứ ba, gia đình luôn biến đổi cùng với sự biến

đổi của xã hội, của nền văn hóa mà gia đình tồn tại trong đó. Không dễ dàng để

xác định một khái niệm gia đình đúng với tất cả các dạng gia đình khác nhau về

mặt văn hóa, lịch sử. Thực tế lịch sử phát triển của loài người đã cho thấy, gia

đình đã tồn tại với rất nhiều kiểu loại, từ gia đình cùng dòng máu, tới gia đình cặp

đôi, gia đình một vợ, một chồng… khác biệt trong bản chất của nó. Cho đến nay,

gia đình đã được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau.

Từ điển tiếng Việt do tác giả Văn Tân chủ biên - Nhà xuất bản khoa

học xã hội phát hành - định nghĩa “ Gia đình là đơn vị xã hội thành lập trên cơ

sở cùng dòng máu, bắt đầu có từ thời đại thị tộc mẫu hệ; trong thời đại phong

kiến, thường có cha mẹ, con cháu, có khi có cả chắt nữa, trong thời đại tư bản

thường chỉ có vợ chồng và con cái” [71, tr.17].

Từ điển tiếng Việt, 1996 do tác giả Hoàng Phê chủ biên - Nhà xuất bản

Đà Nẵng định nghĩa gia đình là: “Tập hợp người cùng sống chung thành một

đơn vị nhỏ nhất trong xã hội, gắn bó với nhau bằng quan hệ hôn nhân và dòng

máu, thường gồm có vợ chồng, cha mẹ và con cái” [71, tr.17].

Theo cách tiếp cận vĩ mô, gia đình được định nghĩa với tư cách là một

thiết chế xã hội, một đơn vị cơ sở của xã hội, thực hiện những chức năng xã

hội nhất định, trước hết là chức năng tái sinh sản ra con người. Trong cuốn từ

điển xã hội học của G.Endweeit và G. Trommsdorff, các tác giả đưa ra định

nghĩa gia đình như sau: Gia đình là một nhóm thuộc loại đặc biệt vì nó biểu

hiện một cấu trúc vai trò nhất định (bố, mẹ, con gái, con trai, cháu, em,…),

với nó thì sự tách biệt về giới tính và thế hệ là tiêu chí của cơ cấu gia đình

(bằng một hay đa thế hệ, nam, nữ) và qua nó sẽ chuyển hóa một quan hệ hợp

tác và đoàn kết rất đặc biệt mà ở tất cả các xã hội đều tổ chức theo nghi lễ sự

thành lập của nó [80, tr.27]. Ngoài ra, xã hội cũng trao cho nhóm xã hội này

14

những chức năng rất đặc biệt. Theo định nghĩa này, gia đình được xác định là

một nhóm có cấu trúc và đảm nhận chức năng trong xã hội.

Khái niệm về gia đình mang tính pháp lý ở Việt Nam được ghi trong

Luật Hôn nhân và gia đình, năm 2000 (điều 8): “Gia đình là một tập hợp

những người gắn bó với nhau theo hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc do

quan hệ nuôi dưỡng, làm phát sinh các nghĩa vụ và quyền lợi giữa họ với

nhau theo quy định của luật này” [49, tr.12].

Bên cạnh sự quy định của pháp luật, trong cuộc sống gia đình duy trì

phương thức ứng xử, tình nghĩa giữa vợ chồng, cha mẹ, con cái lòng biết ơn, sự

quan tâm chăm sóc người già, trẻ em, sự hy sinh vì người thân của gia đình.

Gia đình là một cộng đồng người mang tính huyết thống (thân tộc)

khác với cộng đồng làng xã, (phường bản) mang tính địa lý hành chính. Gia

đình cũng khác với cộng đồng người (mang đặc trưng chung về nguồn gốc

xuất hiện…). Nó cũng khác cộng đồng dân tộc hình thành trên quan hệ chính

trị, kinh tế, xã hội.

Như vậy, có nhiều định nghĩa về gia đình với các cách tiếp cận khác

nhau. Dưới góc độ văn hóa học, khái niệm gia đình trong luận văn chỉ một

cộng đồng người (nhóm xã hội) có quan hệ mật thiết với nhau trong sinh hoạt

vật chất và tinh thần mang tính đặc thù dựa trên quan hệ hôn nhân và huyết

thống, quan hệ nuôi dưỡng và giáo dục giữa các thành viên, các quan hệ pháp

lý hay luật tục khác.

Định nghĩa này đã nêu bật được đặc trưng quan trọng và chức năng của

gia đình trong việc sinh sản, giáo dục con người. Đồng thời nhấn mạnh vai trò

của việc xã hội hóa con người, biến con người tự nhiên thành con người xã hội,

duy trì sự sống và chuyển giao các giá trị văn hóa từ thế hệ này sang thế hệ khác

qua những giá trị chuẩn mực trong quan hệ ứng xử cơ bản của gia đình.

1.1.1.3. Quan niệm về văn hóa gia đình

Văn hóa gia đình là một nội dung quan trọng trong lĩnh vực nghiên cứu

về gia đình. Nghiên cứu văn hóa gia đình giúp chúng ta có cơ sở khoa học để

hiểu đúng đắn bản chất và truyền thống của gia đình Việt Nam, trên cơ sở đó,

15

xác định những giải pháp để phát huy vai trò to lớn của gia đình trong sự phát

triển chung của xã hội. Tuy nhiên, cho đến nay, các công trình nghiên cứu về

văn hóa gia đình “Chưa đưa ra được một định nghĩa đầy đủ và một cách giải

thích thuyết phục về khái niệm văn hóa gia đình. Điều này đã gây ra khó khăn

cho việc xác định đối tượng và phạm vi nghiên cứu của văn hóa gia đình” [80,

tr.47]. Một số nhà nghiên cứu định nghĩa văn hóa gia đình bằng việc liệt kê

các yếu tố được coi là thuộc về văn hóa gia đình, một số tác giả khác xác định

văn hóa gia đình là các giá trị, chuẩn mực tốt đẹp của đời sống gia đình mà

mỗi thành viên trong gia đình phải chấp nhận tuân theo.

Nếu coi văn hóa là gồm tất cả những gì làm cho cộng đồng này phân

biệt với cộng đồng khác, thì văn hóa gia đình, một bộ phận của văn hóa nói

chung cũng “bao gồm tất cả những gì làm cho gia đình của một cộng đồng, xã

hội này, dân tộc này, khu vực này khác với gia đình của các cộng đồng, xã

hội, dân tộc, khu vực khác” [80, tr.52]. Nghiên cứu văn hóa gia đình là tìm

hiểu những dấu ấn để lại trong đời sống vật chất, tinh thần của gia đình được

biểu hiện thông qua các mối quan hệ, cấu trúc, chức năng, sinh hoạt, đời sống

tâm linh… của gia đình. Đó là những dấu ấn “được duy trì qua lịch sử, trở

thành truyền thống, ăn sâu vào tiềm thức, tâm lý, chi phối hành vi, cách ứng

xử giữa các thành viên trong gia đình, giữa gia đình với xã hội, tiếp nối từ thế

hệ này sang thế hệ khác. Những dấu ấn để lại trong đời sống gia đình ở các

cộng đồng, quốc gia, dân tộc không giống nhau, tạo nên tính đa dạng của văn

hóa gia đình” [80, tr.53]. Xuất phát từ quan niệm như vậy, tác giả Lê Ngọc

Văn đưa ra định nghĩa về văn hóa gia đình:

Văn hóa gia đình là hệ thống các giá trị, chuẩn mực khu biệt đặc thù

điều tiết mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình và mối

quan hệ giữa gia đình và xã hội, phản ánh bản chất của các hình thái

gia đình đặc trưng cho cộng đồng các tộc người, các dân tộc và các

khu vực khác nhau được hình thành và phát triển qua lịch sử lâu dài

của đời sống gia đình, gắn liền với những điều kiện phát triển kinh

tế, môi trường tự nhiên và xã hội [57, tr.54].

16

Theo tác giả Lê Ngọc Văn, các thành tố của văn hóa gia đình không tồn

tại một cách cô lập mà liên kết với nhau tạo thành một hệ thống thực hiện các

chức năng của văn hóa gia đình, cùng với sự biến đổi của xã hội, văn hóa gia

đình cũng có những biến đổi mạnh mẽ, từ sự thay đổi của mỗi chức năng cũng

như vị trí, mối quan hệ của các chức năng trong hệ thống văn hóa gia đình.

Tác giả Nguyễn Thị Mỹ Hạnh cho rằng, văn hóa con người bắt đầu từ

chính văn hóa gia đình. Văn hóa gia đình không phải là một cái gì trừu tượng,

chung chung mà được thể hiện cụ thể, sinh động trong nếp sống, sinh hoạt,

suy nghĩ, tình cảm của mỗi người và mỗi thành viên trong gia đình. Văn hóa

gia đình chính là gia phong của gia đình đó, bao gồm gia giáo (nền giáo dục

theo truyền thống gia đình); gia lễ (nghi lễ truyền thống hay tập tục riêng

trong cung cách ăn nói, ứng xử); gia huấn (truyền dạy cho con cháu những

điều hay lẽ phải phù hợp với gia đình và đạo lý của xã hội); gia phả (để biết

công đức của tổ tiên); gia đạo (đạo lý của gia tộc); gia pháp (nguyên tắc, quy tắc

của gia đình); gia thanh (tiếng thơm của gia đình); gia thế (thế lực của gia đình).

Với tư cách là văn hóa của một nhóm xã hội, văn hóa gia đình và văn hóa xã hội

có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, biến đổi cùng với văn hóa xã hội.

Xuất phát từ quan niệm cho rằng, gia đình là một thiết chế văn hóa - xã

hội đặc biệt, bao trùm trong toàn bộ cuộc sống gia đình là sự chi phối của hệ

thống giá trị văn hóa, các chuẩn mực đạo đức của cộng đồng xã hội đối với

nhận thức, thái độ, hành vi của các thành viên trong gia đình khi giải quyết

các mối quan hệ trong và ngoài gia đình theo hướng Chân - Thiện - Mỹ, tác

giả Hoàng Hồng Hạnh đưa ra định nghĩa “Văn hóa gia đình là hệ thống giá trị

văn hóa được tích hợp từ các giá trị văn hóa truyền thống và hiện đại của một

dân tộc, thể hiện nhận thức, thái độ, hành vi của các thành viên trong việc

thực hiện các chức năng của gia đình và ứng xử trong các mối quan hệ cá

nhân - gia đình - xã hội, nhằm xây dựng gia đình ấm no, bình đẳng, tiến bộ và

hạnh phúc” [71, tr.479]. Văn hóa gia đình có vai trò hết sức quan trọng đối

với sự phát triển của cá nhân, gia đình và xã hội. Sức mạnh nội sinh của hệ

thống giá trị văn hóa gia đình “sẽ quy định thái độ, tình cảm, cách thức ứng

17

xử, tổ chức cuộc sống tích cực giữa các thành viên trong gia đình và mối quan

hệ của gia đình với xã hội” [71, tr.479].

Từ những trình bày trên đây về văn hóa gia đình, trong luận văn này,

văn hóa gia đình được quan niệm như sau:

Văn hóa gia đình là dạng đặc thù của văn hóa cộng đồng bao gồm

tổng thể sống động các hoạt động sống của gia đình mang đặc trưng

văn hóa bị chi phối bởi các giá trị, chuẩn mực, truyền thống, thị hiếu

của một cộng đồng mà các thành viên trong gia đình đã chọn lựa và

ứng xử với nhau trong gia đình và ngoài xã hội [22, tr.33].

1.1.2. Cấu trúc văn hóa gia đình

Từ các cách tiếp cận khác nhau về văn hóa gia đình nên việc phân chia

cấu trúc văn hóa gia đình cũng đa dạng. Quan niệm văn hóa gia đình là hệ

thống các giá trị, các tác giả của đề tài cấp Nhà nước Văn hóa gia đình thuộc

chương trình KX06, do PGS,TS Lê Minh làm chủ nhiệm, xác định cấu trúc

văn hóa gia đình gồm ba yếu tố: các giá trị cấu trúc, các giá trị chức năng và

các giá trị tâm linh. Cũng ở cách tiếp cận này, nhóm nghiên cứu đề tài cấp Bộ

Bạo lực gia đình dưới góc độ tiếp cận văn hóa học, chia văn hóa gia đình

thành những nhóm giá trị văn hóa truyền thống và hiện đại: nhóm giá trị văn

hóa tâm linh, nhóm giá trị tình cảm - đạo đức, nhóm giá trị xã hội - công dân.

Tác giả Nguyễn Thị Mỹ Hạnh chia giá trị văn hóa gia đình thành hai loại: thứ

nhất là các giá trị văn hóa gia đình gắn với đời sống hiện hữu, với các quan hệ

hiện hữu của gia đình và các thành viên của nó. Tiêu biểu như cấu trúc gia

đình, kiến trúc nhà ở… Thứ hai là các giá trị về mặt tâm linh, những giá trị

bền vững và có thể xem là hằng số của văn hóa gia đình, hạt nhân của văn hóa

gia đình.

Luận văn nghiên cứu văn hóa gia đình dưới góc độ văn hóa của một

nhóm xã hội là gia đình, tập hợp những người có quan hệ mật thiết với nhau

trong cả đời sống vật chất, tinh thần và các quan hệ đặc thù khác theo hôn

nhân và huyết thống. Do đó, cấu trúc văn hóa gia đình được lựa chọn, là cơ sở

để khảo sát thực trạng văn hóa gia đình ở thành phố Bảo Lộc - Lâm Đồng

18

được xác định bởi ba yếu tố: văn hóa sản sinh và nuôi dạy con người, văn hóa

vật chất và tiêu dùng các sản phẩm vật chất, văn hóa tinh thần và hưởng thụ

các sản phẩm tinh thần.

Văn hóa sản sinh và nuôi dạy con người

Việc sinh đẻ, tái sản xuất ra thế hệ tương lai một mặt để đáp ứng nhu

cầu của xã hội. Mặt khác, đáp ứng nhu cầu của chính những thành viên trong

gia đình, đặc biệt là những người đóng vai trò làm cha, làm mẹ. Con cái là tài

sản vô giá mà mỗi một cặp vợ chồng khi kết hôn có được. Mong muốn thiên

chức được làm cha, làm mẹ là điều tất yếu và thiêng liêng cao cả của các gia

đình. Niềm vui, hạnh phúc của người làm cha, làm mẹ là được chăm sóc, nuôi

dạy, dưỡng dục con cái. Vì vậy, khi tái sản xuất ra thế hệ tương lai, sinh con

dù trai hay gái đều rất thiêng liêng cao cả trong mỗi gia đình.

Để đáp ứng nhu cầu dạy dỗ con cái, các gia đình đã “tích lũy một loạt

những tri thức, kinh nghiệm, cách thức, thái độ và các thể chế cho việc sinh

nở, nuôi dạy con người”. Từ những hiểu biết về quan hệ tính giao hay quan hệ

tình dục đến việc chăm sóc giáo dục thai nhi (thai giáo) ở trong bụng mẹ đến

lúc trưởng thành, từ lúc một sinh thể người được sinh ra cho tới lúc trưởng

thành. Những tri thức đó được trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác

thông qua vai trò của giáo dục gia đình. Do vậy, giáo dục trong gia đình là

một yếu tố quan trọng của văn hóa gia đình. Bài học đầu tiên của con người là

trong gia đình, nơi diễn ra quá trình nhập thân văn hóa của con người từ tuổi

thơ ấu. Giáo dục trong gia đình diễn ra liên tục trong cuộc đời con người. Đó

là sự tác động một cách “kiên trì, thường xuyên, tổng thể và sâu sắc của gia

đình đối với sự hình thành và phát triển nhân cách mỗi con người” [71,

tr.358]. Giáo dục gia đình chủ yếu được thực hiện bằng tình cảm, vừa toàn

diện, vừa cụ thể và mang tính cá biệt cao.

Giáo dục gia đình được thực hiện thông qua cách thức tổ chức đời sống

gia đình, quá trình tổ chức các hoạt động của các thành viên, dựa trên nền

tảng căn bản là sự gương mẫu, sự nêu gương của các bậc cha mẹ. Nguyên tắc

của giáo dục trong gia đình là tôn trọng nhân cách, cá tính và phẩm chất riêng

19

của mỗi thành viên. Nội dung giáo dục gia đình rất phong phú, bao gồm: hành

vi đạo đức, tri thức căn bản; thái độ, kỹ năng sống và lao động, thể chất và

thẩm mỹ. Trong đó, kỹ năng sống là một nội dung mới và đặc biệt quan trọng

của giáo dục gia đình trong xã hội hiện đại. Mục tiêu của giáo dục gia đình là

tạo ra những con người hiếu thảo, có đạo đức trong sáng, có lối sống lành

mạnh, có trách nhiệm với gia đình và xã hội.

Văn hóa vật chất và tiêu dùng các sản phẩm vật chất

Để đáp ứng nhu cầu vật chất, gia đình và các thành viên của nó phải

tiến hành sản xuất ra các sản phẩm vật chất cho những sinh hoạt hàng ngày về

ăn, mặc, ở, đi lại và các phương thức sử dụng. Những sản phẩm ấy và các

phương thức sử dụng nói lên trình độ chiếm lĩnh, khai thác các vật thể trong

tự nhiên, trình độ phát triển lực lượng bản chất của con người trong lĩnh vực sản

xuất và đời sống vật chất. Từ những kinh nghiệm hiểu biết, kỹ năng, bí quyết

trong sản xuất sản phẩm tiêu dùng đến cách thức, kỹ thuật công nghệ chế tác

công cụ sản xuất, các phương tiện sử dụng… từ cách tiêu dùng, phân phối,

hưởng thụ, trao đổi, dâng biếu các sản phẩm vật chất đến thể chế phân chia tài

sản, thừa kế gia sản đã tạo nên văn hóa vật chất của gia đình.

Văn hóa tinh thần và hưởng thụ các giá trị tinh thần

Bên cạnh những biểu hiện, kinh nghiệm, cách thức ứng xử trong văn

hóa sản sinh, nuôi dạy con người, văn hóa sản xuất và tiêu dùng vật chất của

gia đình là toàn bộ giá trị đạo đức, tín ngưỡng tâm linh, phong tục, tập quán,

thị hiếu thẩm mỹ và cả những bí quyết nghề nghiệp truyền thống… là phương

diện văn hóa tinh thần của gia đình. Chúng được đúc kết lại thành hệ giá trị,

chuẩn mực, khuôn mẫu văn hóa của gia đình mà trong gia đình truyền thống

gọi là gia phong. Hệ giá trị văn hóa gia đình là yếu tố cốt lõi làm nên đặc

điểm riêng của mỗi loại hình gia đình và có sức mạnh chi phối đời sống tâm

lý, tâm linh, hành vi ứng xử của các thành viên trong gia đình, trong đó nổi

bật là mối quan hệ giữa bố mẹ và con cái.

Quan hệ giữa cha mẹ và con cái bao gồm hai chuẩn mực cơ bản đó là

Từ và Hiếu. Từ đòi hỏi và thể hiện tình thương, trách nhiệm với con cái. Tình

20

thương và trách nhiệm của cha mẹ với con cái được hình thành trong lòng sâu

của sinh hoạt gia đình của nền văn hóa truyền thống dân tộc. Trong đời sống

thường nhật, tình thương ấy được thể hiện ở sự quan tâm chăm sóc cho đời

sống tinh thần và vật chất, cho tương lai của những đứa con. Nuôi con khỏe,

dạy con ngoan khôn lớn, trưởng thành, nhân cách ứng xử trong quan hệ cha

mẹ, anh em, họ hàng và cộng đồng xã hội, dựng vợ, gả chồng và cố gắng chắt

chiu, dành dụm cho con một chút sản nghiệp vừa là trách nhiệm và vừa là

niềm vui của cha mẹ. Tình thương yêu và trách nhiệm đó tạo nên công nghĩa

sinh thành dưỡng dục của cha mẹ mà ca dao đã nói:

Công cha như núi Thái Sơn

Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra

Một lòng thờ mẹ kính cha

Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con

Con cái yêu quý, kính trọng, biết ơn và hiếu thảo với cha mẹ là chuẩn

mực và trách nhiệm của những người con trong gia đình. Đã có nhiều tấm

gương hiếu thảo với gia đình, ông bà, cha mẹ được thể hiện qua hành động

chăm chỉ học tập làm làm việc, rèn đức luyện tài.

1.1.3. Vai trò của văn hóa gia đình

1.1.3.1. Truyền tải văn hóa từ thế hệ trước đến thế hệ sau

Gia đình là nơi bảo tồn, làm giàu và phát huy các giá trị văn hóa truyền

thống Việt Nam trong thời kỳ đất nước đổi mới và hội nhập.

Gia đình có vai trò rất lớn trong việc hình thành và phát triển của xã

hội, góp phần xây dựng, tô thắm, làm rạng rỡ thêm bản sắc văn hoá dân tộc;

là nơi duy trì nòi giống, là môi trường quan trọng hình thành, nuôi dưỡng và

giáo dục nhân cách con người, bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống tốt

đẹp, chống lại tệ nạn xã hội, tạo nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp xây dựng

và bảo vệ Tổ quốc. Mỗi quốc gia, mỗi dân tộc muốn tồn tại và phát triển đều

phải biết chăm sóc và bảo vệ gia đình.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định vai trò của gia đình trong xã hội:

“Nhiều gia đình cộng lại mới thành xã hội, gia đình tốt thì xã hội mới tốt, xã

21

hội tốt thì gia đình càng tốt. Hạt nhân của xã hội là gia đình. Chính vì muốn

xây dựng chủ nghĩa xã hội phải chú ý hạt nhân cho tốt” [42, tr.523].

Gia đình là tế bào của xã hội, cấu thành cộng đồng xã hội, là nền tảng

của sự cấu kết cộng đồng. Chính vì vậy mà khi gia đình có nguy cơ sụp đổ thì

xã hội không tránh khỏi chao đảo, kỷ cương xã hội trở nên yếu kém, chuẩn

mực xã hội, giá trị đạo đức bị đảo lộn. Cho nên Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn

mạnh xã hội tốt thì gia đình càng tốt và ngược lại gia đình tốt thì xã hội mới

tốt. Thông qua sự giữ gìn, giáo dục các giá trị truyền thống, văn hóa gia đình

đã thực hiện chức năng giữ gìn văn hóa truyền thống dân tộc.

Các giá trị truyền thống văn hóa gia đình cũng như truyền thống văn

hóa của dân tộc được các gia đình quan tâm giáo dục con cháu. Đó là việc

giáo dục lòng yêu nước và ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, lòng

dũng cảm, kiên cường, lòng nhân ái thủy chung, việc truyền dạy đức tính cần

cù chịu khó, tinh thần lạc quan và ý chí phấn đấu vươn lên trong cuộc sống,

giáo dục lòng hiếu thảo, biết ơn ông bà, tôn kính tổ tiên, tinh thần học tập,

ham hiểu biết, nâng cao tri thức, kinh nghiệm, đạo đức, lối sống, thẩm mỹ cho

con cái và tinh thần tôn sư, trọng đạo, thông qua lễ tết và thờ cúng tổ tiên;

thông qua các quan hệ ứng xử giữa các thành viên trong gia đình và giữa các

gia đình với nhau; thông qua việc giữ gìn nền văn hóa nghệ thuật truyền thống

của dân tộc và giữ gìn các di sản văn hóa…những giá trị ấy được truyền thụ

và giáo dục cho các thế hệ con cháu từ khi mới sinh ra cho đến lúc trưởng

thành, từ đời này sang đời khác.

1.1.3.2. Duy trì sự cân bằng của đời sống gia đình

Ở nước ta hiện nay, đang thực hiện đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH và

hội nhập kinh tế quốc tế trong xu hướng toàn cầu hóa. Sự giao lưu, mở cửa hội

nhập đã đem đến cho gia đình Việt Nam nhiều cơ hội phát triển kinh tế, giao lưu

hội nhập với các nền văn hóa tiến tiến của các nước trên thế giới. Song, bên cạnh

những mặt tích cực đó, mặt trái của cơ chế thị trường cũng nẩy sinh nhiều vấn đề

tác động đến đời sống gia đình Việt Nam đang đứng trước những thử thách sóng

22

gió. Chính vì vậy, cơ sở của sự cần bằng trong đời sống gia đình có được chính

là ở việc lựa chọn các giá trị văn hóa truyền thống của gia đình. Bên cạnh đó,

còn phải biết tiếp thu những tinh hoa của giá trị mới, hợp với thời đại là yếu tố

cần thiết để vận dụng cụ thể trong các quan hệ ứng xử cơ bản của gia đình để

duy trì sự tồn tại, cân bằng bền vững của đời sống gia đình.

1.1.3.3. Hình thành các giá trị văn hóa mới

Gia đình chính là môi trường tạo nên nhân cách con người ngay từ thuở

ấu thơ, là nơi chắp cánh cho chúng ta vào đời. Gia đình là tế bào của xã hội, là

hạt nhân cơ bản của sự phát triển xã hội, là nơi gắn kết tình cảm của mọi thế

hệ con người với nhau.

Điều đó đã được khẳng định qua mấy nghìn năm lịch sử dựng nước và

giữ nước của dân tộc. Trong thời kỳ đổi mới hiện nay, với xu hướng hòa nhập

với cộng đồng quốc tế, chúng ta vẫn đang giữ gìn và phát huy những nét đặc

trưng cơ bản về bản sắc văn hóa dân tộc, đặc biệt vấn đề gia đình vẫn phải

được nhìn nhận, xem xét dưới góc độ văn hóa, và là nền tảng chủ yếu để hình

thành nhân cách văn hóa con người từ thuở ban đầu.

Mỗi con người, ai cũng được sinh ra và lớn lên nơi mái ấm gia đình,

những năm tháng của tuổi thơ đã đi qua để lại những ký ức tốt đẹp về một tổ

ấm gia đình, về hình ảnh của những người thân yêu trong gia đình. Và chính

những tháng năm của thời thơ ấu đó có một ý nghĩa quyết định trong bước

đường hình thành nhân cách, lối sống, tư tưởng, văn hóa… của mỗi cá nhân

trước những tác động và ảnh hưởng sâu sắc của môi trường văn hóa, xã hội và

tất cả cộng đồng.

Chính vì vậy, gia đình hôm nay phải là một môi trường tái sản xuất ra

những con người mới phát triển toàn diện, có tri thức, có lương tâm, đạo đức,

sống có đạo lý, biết kết hợp hài hòa giữa lợi ích cộng đồng và lợi ích cá nhân

nhằm thỏa mãn chung mọi nhu cầu về tâm lý, tinh thần, tình cảm và vật chất

của mỗi thành viên trong gia đình. Giáo dục con cái từ thuở ấu thơ là chắp đôi

cánh cho các cháu vào đời với niềm vui sáng tạo, cảm nhận được vai trò làm

chủ của mình trong việc chiếm lĩnh tri thức và có đầy đủ ý thức trách nhiệm

23

đối với gia đình, đất nước đang bước vào thiên niên kỷ mới. Đó chính là

những nền tảng quan trọng để trên cơ sở đó, các cá nhân sáng tạo và cống

hiến những giá trị văn hóa mới cho xã hội, tạo nên sự phát triển của xã hội.

1.2. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THÀNH PHỐ BẢO LỘC, TỈNH LÂM ĐỒNG

1.2.1. Điều kiện địa lý, tự nhiên

Bảo Lộc là một thị xã trực thuộc tỉnh Lâm Đồng, được thành lập năm

1994 trên cơ sở tách huyện Bảo Lộc cũ thành hai đơn vị mới là thị xã Bảo Lộc

và huyện Bảo Lâm. Bảo Lộc nằm trên tuyến quốc lộ 20, cách Thành phố Đà

Lạt khoảng 110 km, cách Thành phố Hồ Chí Minh khoảng 190 km, cách

thành phố Phan Thiết (Bình Thuận) khoảng 100 km. Tháng 3-2009, Bảo Lộc

được công nhận là đô thị loại III thuộc tỉnh và ngày 8-4-2010, Chính phủ đã

ra Nghị quyết thành lập thành phố Bảo Lộc (trực thuộc tỉnh Lâm Đồng). Bảo

Lộc có diện tích 23.256 ha, chiếm 2,38% diện tích toàn tỉnh Lâm Đồng. Phía

đông, phía nam và phía bắc giáp với huyện Bảo Lâm. Phía tây giáp với huyện

ĐạHuoai. Địa bàn huyện này thuộc Vườn quốc gia Cát Tiên đã được

UNESCO công nhận là khu dự trữ sinh quyển thế giới. Thành phố Bảo Lộc

nằm trên cao nguyên Bảo Lộc-Di Linh, địa hình có sự phân hoá thành 3 dạng

địa hình chính là núi cao, đồi dốc và thung lũng:

Núi cao ở khu vực Tây Nam (900-1.100m) chiếm 11% diện tích toàn

thành phố, khoảng 2.500 ha.

Đồi dốc với các ngọn đồi và dải đồi dốc có đỉnh tương đối bằng phẳng

(800-850m), độ dốc sườn đồi lớn, chiếm 79,8% diện tích toàn thành phố, là

địa bàn sản xuất cây công nghiệp dài ngày như chè, cà phê, dâu tằm.

Thung lũng tập trung ở Lộc Châu và Đại Lào, chiếm 9,2% diện tích

toàn thành phố. Đây là địa hình thấp, bằng phẳng, thích hợp phát triển cà phê

và chè, cũng có thể trồng cây dâu và cây ngắn ngày.

Thành phố Bảo Lộc được xây dựng trên các ngọn đồi tương đối bằng

phẳng có độ cao trung bình 850m, địa hình dốc từ Bắc xuống Nam, từ Đông

sang Tây. So với các đô thị miền núi, Bảo Lộc có địa hình xây dựng lý tưởng,

đẹp về cảnh quan thiên nhiên, thuận lợi về xây dựng và phát triển du lịch.

24

Bảo Lộc có khí hậu thuận lợi nhất trong vùng cao nguyên, quanh năm

mát mẻ. Khí hậu theo chế độ nhiệt đới gió mùa nhưng biến thiên theo độ cao

và hình thể địa hình. Với những điều kiện địa lý, tự nhiên như vậy, Bảo Lộc là

vùng đất phù hợp để chuyên canh trà, cà phê, dâu tằm, chăn nuôi gia súc và

phát triển các ngành công nghiệp chế biến bao gồm các ngành chế biến trà, cà

phê, se tơ, dệt, may mặc...

1.2.2. Điều kiện kinh tế, xã hội

Với chức năng là vùng kinh tế trọng điểm phía nam tỉnh Lâm Đồng,

đồng thời là trung tâm công nghiệp của cả tỉnh, trong những năm qua, kinh tế

thành phố Bảo Lộc luôn tăng trưởng ở mức cao, cơ cấu kinh tế trên địa bàn

thành phố được chuyển dịch tích cực phù hợp với tính chất kinh tế đô thị theo

hướng: tăng tỷ trọng công nghiệp - xây dựng, giảm tỷ trọng nông lâm nghiệp.

Với thế mạnh là các ngành công nghiệp chế biến nông sản, dệt may, tơ tằm,

công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng, khai thác, chế biến khoáng sản và các

ngành công nghiệp hỗ trợ, phụ trợ…, với hàng trăm doanh nghiệp lớn, nhỏ đã có

những đóng góp đáng kể trong sự phát triển kinh tế của Bảo Lộc. Các khu, cụm

công nghiệp đã hình thành và đi vào hoạt động ổn định như: Khu công nghiệp

Lộc Sơn, cụm Công nghiệp - dịch vụ Lộc Phát, cụm công nghiệp Đại Lào…

Thương mại - Dịch vụ - Du lịch trong những năm gần đây tăng trưởng ổn

định, hệ thống trung tâm thượng mại, siêu thị, chợ trung tâm, chợ khu dân cư,

nhà hàng… được quan tâm đầu tư xây mới và nâng cấp như chợ trung tâm

thành phố, Siêu thị Coop Mart,….; hệ thống cơ sở lưu trú phát triển mạnh với

52 khách sạn, nhà nghỉ, các dịch vụ: tài chính, ngân hàng, bưu chính viễn

thông, dịch vụ kiểm hóa, kiểm định... ngày càng phát triển theo hướng hiện

đại. Trên địa bàn thành phố có hầu hết chi nhánh các ngân hàng lớn như Ngân

hàng Nông nghiệp phát triển nông thôn, Ngân hàng Đầu tư phát triển BIDV,

Ngân hàng Công thương (ViettinBank), Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài

Gòn Thương tín (Sacombank), Ngân hàng Sài Gòn - Hà Nội (SHB), Ngân

hàng Á Châu (ACB)….với cơ sở vật chất khang trang cùng với hệ thống các

25

Quỹ tín dụng nhân dân trên địa bàn các phường xã, hoạt động kinh doanh đạt

hiệu quả cao, góp phần quan trọng vào sự tăng trưởng chung của thành phố.

Trong lĩnh vực nông nghiệp, phát huy thế mạnh của các loại cây công nghiệp

lâu năm trên địa bàn thành phố như trà, cà phê, dâu tằm với diện tích trà 7.756

ha, cà phê hơn 8000 ha, dâu tằm 160 ha, sản lượng trà, cà phê tăng hàng năm.

Trong đó sản lượng chè tươi bình quân hàng năm đạt trên 75.000 tấn, sản

lượng chè chế biến đạt 17.000 tấn/ năm; Thành phố tập trung thực hiện các

mô hình ứng dụng nông nghiệp công nghệ cao, nâng cao hiệu quả sản xuất

nông nghiệp; Kinh tế trang trại phát triển, có trọng tâm, quy hoạch cụ thể theo

thế mạnh của địa phương. Đến nay, thành phố Bảo Lộc có gần 100 trang trại,

bao gồm trang trại chăn nuôi và trang trại trồng trọt phát triển theo hướng quy

mô, tập trung, đảm bảo cung ứng nguyên liệu cho công nghiệp chế biến [76].

Các hoạt động y tế, khoa học công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực, văn

hóa - thông tin, thể dục thể thao… có nhiều chuyển biến tiến bộ. Toàn thành

phố hiện có 74 cơ sở giáo dục từ hệ mầm non đến cao đẳng, tỷ lệ kiên cố hóa

trường lớp đạt 82%. Thành phố đang tập trung triển khai các dự án xây dựng

phân hiệu Đại học Tôn Đức Thắng, trường PTTH chuyên Bảo Lộc, góp phần

đào tạo nguồn nhân lực cho thành phố và khu vực [76].

Ngành y tế thực hiện tốt các chương trình mục tiêu quốc gia về y tế,

dân số, truyền thông sức khỏe cộng đồng, chăm sóc sức khỏe sinh sản; tỷ lệ

tăng dân số tự nhiên giảm còn 12,1%, tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng còn 12,5

%, tỷ lệ dân số đô thị sử dụng nước sạch trên 88%.Trên địa bàn thành phố có

2 bệnh viện cấp tỉnh, 2 phòng khám khu vực và có 11 trạm y tế phường, xã,

Thành phố đang tập trung triển khai dự án xây dựng mới Bệnh viện II Lâm

Đồng. Nhìn chung, các công trình y tế tương đối đầy đủ về lực lượng, trang

thiết bị, đã đáp ứng được nhu cầu khám chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe cho

nhân dân thành phố và các địa phương trong khu vực phía Nam của tỉnh [75].

Công tác thông tin tuyên truyền gắn với các sự kiện chính trị, văn hóa

quan trọng và thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội của thành phố được triển

khai sâu rộng đến các khu dân cư. Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng

26

đời sống văn hóa” được quan tâm củng cố, kiện toàn và từng bước nâng cao

chất lượng. Toàn thành phố có 94% số khu dân cư văn hóa, 36.4% số xã

phường đạt chuẩn văn hóa, 66% cơ quan đơn vị văn hóa, 86% hộ gia đình văn

hóa, 36% số xã. phường có thiết chế nhà văn hóa, 56,3% số thôn, tổ dân phố

có Nhà sinh hoạt cộng đồng. Thành phố đang tập trung thực hiện hạng mục

sân tập bóng đá và nhà thi đấu đa năng đi đôi với triển khai dự án xây dựng

trung tâm văn hóa thể thao thành phố tại khu quy hoạch Hà Giang. Chương

trình xây dựng nông thôn mới ở 5 xã của thành phố được tập trung đẩy mạnh

và gắn kết với thực hiện các nhiệm vụ của phong trào TDĐKXDĐSVH. Công

tác quản lý nhà nước về văn hóa, thông tin cơ bản thực hiện tốt. Đời sống vật

chất, tinh thần của nhân dân từng bước được nâng cao [48].

Bưu chính, viễn thông phát triển nhanh, đáp ứng nhu cầu thông tin liên

lạc của nhân dân trên địa bàn thành phố. số máy điện thoại cố định là 17

máy/100 người và di động là 29 máy/100 người, cao hơn nhiều so với bình

quân chung toàn tỉnh. Toàn thành phố có một bưu cục trung tâm và 5 bưu cục

cấp 3 được trang bị hiện đại, một trung tâm viễn thông, đã hòa mạng thông tin

trong nước, quốc tế và phát triển khá đều, phủ sóng rộng khắp thành phố.

Mạng đại lý bưu điện đa dịch vụ phát triển rộng khắp. Mạng lưới đường thư

cấp II, III bảo đảm hành trình 100% xã, phường, cơ quan, đơn vị trên địa bàn

thị xã có báo trong ngày, 100% số trường học trên địa bàn thành phố có mạng

internet, 100% số xã, phường có đại lý dịch vụ internet.. Thành phố có 01 Đài

Truyền thanh, truyền hình với quy mô, trang thiết bị cơ bản cùng với hệ thống

các trạm Truyền thanh FM tại các phường xã đáp ứng nhu cầu về văn hoá tinh

thần của nhân dân địa phương cũng như thực hiện tốt nhiệm vụ tuyên truyền,

phổ biến đường lối, chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước

đến với mọi người dân tại cơ sở [48].

Thành phố đã nỗ lực trong thực hiện các chính sách an sinh xã hội, xóa

đói giảm nghèo. Đến nay, tỉ lệ hộ nghèo giảm còn 1,85%. Giải quyết việc làm

hàng năm cho gần 4.200 lao động, tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 37,8% [76].

Hoạt động của MTTQVN và các đoàn thể đã thực hiện có hiệu quả các

27

phong trào thi đua yêu nước, tăng cường củng cố khối đại đoàn kết toàn dân. Sự

lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, năng lực quản lý, điều hành của các cấp chính

quyền đã được nâng lên, lãnh đạo, tổ chức thực hiện có hiệu quả các mục tiêu,

nhiệm vụ kinh tế, xã hội, quốc phòng an ninh, xây dựng hệ thống chính trị.

Đặc trưng của dân cư: Do những biến cố lịch sử trong nhiều thập niên

của thế kỷ trước và quá trình phát triển qua những lần điều chỉnh ranh giới

hành chính nên đặc điểm dân cư và dân số địa phương cũng có nhiều biến

động: ngoài số ít đồng bào dân tộc thiểu số gốc bản địa (chiếm 2%), số đông

dân cư của thành phố là người lao động từ các tỉnh đồng bằng Bắc bộ, duyên

hải miền Trung, Bắc Trung Bộ và Nam Bộ di cư đến trong những năm 1930 -

1945, họ mang theo cả gia đình đến định cư lập nghiệp, làm ăn sinh sống sau

những lần bộ phu khai phá đất đai mở đồn điền của các nhà tư sản Pháp, đi

công tra mở đường giao thông, hoặc chạy trốn khi bị địch truy lùng hoặc đàn

áp… sống phụ thuộc làm công cho các chủ đồn điền.

Năm 1954, một bộ phận đồng bào công giáo từ các tỉnh phía Bắc di cư

vào. Sau năm 1975 thống nhất đất nước thực hiện công cuộc đổi mới và quá

trình đô thị hóa phát triển của kinh tế thị trường, một bộ phận khá đông người

lao động từ các tỉnh phía Bắc, miền Trung, có cả đồng bào dân tộc thiểu số

đến định cư lập nghiệp và làm ăn sinh sống trong các nông, lâm trường, cơ

quan, xí nghiệp, cơ sở sản xuất… dẫn đến dân số trên địa bàn thành phố tăng

nhanh. Những biến động đó là một trong các nguyên nhân làm cho đặc điểm

về dân cư của thành phố thêm đa dạng, phong phú nhiều màu sắc về tín

ngưỡng tôn giáo, phong tục tập quán, nhận thức hiểu biết của các tầng lớp

nhân dân thành phố không đồng nhất.

Tuy vậy, người dân thành phố Bảo Lộc đa số xuất thân từ những người

lao động, là người nông dân với bản chất cần cù lao động, siêng năng trong

mọi công việc, có tinh thần yêu nước, biết giữ gìn phát huy bản sắc văn hóa,

truyền thống dân tộc, có đường lối và sự lãnh đạo của Đảng tinh thần yêu

nước được phát huy, đoàn kết trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm và rất

quý trọng tự do độc lập.

Trình độ dân trí: Trước năm 1975 do chính sách áp bức bóc lột của chế

28

độ thực dân đế quốc, hệ thống giáo dục của Bảo Lộc kém phát triển, số người

mù chữ chiếm trên 10%, còn phổ biến là chỉ học hết cấp 1, đặc biệt trong

đồng bào DTTS ít người biết chữ.

Từ sau giải phóng, được Đảng và Nhà nước quan tâm đã tổ chức xóa

mù chữ đã hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học, hoàn thành phổ cập giáo

dục THCS và hiện nay đang phấn đấu để hoàn thành phổ cập chương trình

giáo dục PTTH. Cùng với các phương tiện thông tin đại chúng và các hoạt

động văn hóa, văn nghệ, thể thao từng bước làm cho nhận thức trong các tầng

lớp nhân dân có những chuyển biến tích cực trên cơ sở các chủ trương đường

lối chính sách của Đảng và truyền thống văn hóa dân tộc. Phần lớn lực lượng

trong độ tuổi lao động có trình độ học vấn, trình độ chuyên môn kỹ thuật

tương đối cao so với các năm trước đây và so với các huyện trong toàn tỉnh.

1.2.3. Môi trường văn hóa

Là vùng đa văn hóa, nhiều dân tộc, nhiều cộng đồng người và truyền

thống văn hóa của nhiều vùng miền trong cả nước về sinh sống. Nên ngoài

những đặc điểm của văn hóa gia đình Việt Nam nói chung thì vẫn có những

nét văn hóa gia đình của các vùng, miền cư dân vùng đồng bằng sông Hồng,

Bắc Trung Bộ, duyên hải Nam Trung Bộ và văn hóa gia đình của tộc người,

người bản địa KơHo và Châu Mạ sống xen kẽ giữa các hộ dân cư đều hòa

quyện, tạo nên sự hỗn dung, đa dạng trong văn hóa.

Do có khí hậu mát mẻ quanh năm nên Bảo Lộc là nơi lý tưởng để xây

dựng các khu du lịch nghỉ dưỡng. Bảo Lộc có nhiều thác, hồ, suối đẹp như:

Thác ĐamB'ri, thác bảy tầng, hồ Nam Phương, suối Đá Bàn... Khu du lịch

ĐamB'ri nổi tiếng với thác nước hùng vĩ cao 57m và các cánh rừng nguyên

sinh, là địa điểm lý tưởng cho nghỉ dưỡng, cắm trại....Năm 2010, Công trình

giải trí máng trượt dài nhất Đông Nam Á được thực hiện tại khu du lịch Thác

ĐamB'ri thu hút hàng năm trên 130 nghìn lượt du khách [75].

Hệ thống khách sạn, nhà nghỉ toàn thành phố hiện có 52 cơ sở lưu trú từ

3 sao, với tiện nghi được trang bị khá tốt đã đáp ứng được nhu cầu của khách

tham quan, du lịch đến với Bảo Lộc. Mạng lưới các nhà hàng, các điểm dịch

29

vụ bán hàng đặc sản của địa phương và hàng trăm cơ sở chế biến, kinh doanh

trà, cà phê lớn nhỏ của thành phố sẵn sàng cung ứng cho du khách các sản

phẩm của địa phương với đa dạng các loại trà Ôlong, trà hương, trà đen đã

lảm nên một thương hiệu trà Blao có tiếng từ bao đời nay.

Và cũng chính vì vậy, cứ 2 năm một lần thành phố lại được tỉnh giao

trách nhiệm tổ chức Lễ hội văn hóa trà Lâm Đồng - một lễ hội ngành nghề

truyền thống của nhân dân Lâm Đồng - và như một điểm hẹn cho du khách

gần xa về với vùng trà B’Lao - Bảo Lộc để được hiểu hơn về vùng đất, con

người Bảo Lộc gắn bó với nghiệp trà gần 100 năm qua trên vùng đất bazan.

Những điều kiện như vậy đã thu hút một lượng khách du lịch trong và ngoài

nước đến với thành phố Bảo Lộc ngày càng tăng. Do vậy, sự giao lưu văn hóa

trên địa bàn thành phố được mở rộng, ít nhiều đã tác động đến lối sống của

các gia đình ở thành phố Bảo Lộc.

Thời gian gần đây cảnh quan kiến trúc, bộ mặt đô thị được chỉnh trang,

cải thiện đáng kể. Văn hoá, xã hội có bước phát triển đồng bộ. An ninh -

Quốc phòng vững chắc, chính trị - xã hội ổn định. Thu nhập bình quân đầu

người, đời sống vật chất, tinh thần và dân trí của người dân thành phố đã được

cải thiện đáng kể, đạt trên mức trung bình của cả nước. Nhiệm vụ xây dựng

Đảng đã được chú trọng trên cả 3 mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức. Phong

trào thi đua yêu nước được các ngành, các cấp và nhân dân hưởng ứng và thu

được nhiều kết quả.

Với những kết quả đạt được nói trên, thành phố Bảo Lộc đã, đang và sẽ

tiếp tục đóng góp tích cực vào sự phát triển chung của tỉnh Lâm Đồng.

TIỂU KẾT CHƯƠNG 1

Gia đình là một hình thức tổ chức đời sống cộng đồng con người,

một thiết chế văn hóa xã hội đặc thù, được hình thành tồn tại và phát triển

trên cơ sở quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống, quan hệ nuôi dưỡng,

giáo dục giữa các thành viên trong gia đình. Trình độ phát triển kinh tế - xã

30

hội quyết định quy mô, kết cấu, hình thức tổ chức và tính chất của gia đình.

Tuy nhiên, với tư cách là “ Tế bào xã hội”, gia đình đã tác động to lớn đến

tiến trình phát triển xã hội. Vị trí, vai trò to lớn của gia đình và văn hóa gia

đình đối với xã hội được thể hiện qua các chức năng cơ bản của gia đình:

chức năng sinh sản và nuôi dạy con người, chức năng kinh tế và tổ chức

đời sống gia đình, chức năng thỏa mãn các nhu cầu tâm - sinh lý, tình cảm

và chức năng giáo dục…

Có thể thấy, thông qua việc thực hiện những chức năng này mà gia đình

tồn tại, phát triển, đồng thời tác động đến sự biến đổi chung của xã hội. Xây

dựng văn hóa gia đình là điều kiện để các giá trị văn hóa gia đình lan tỏa, chi

phối nhận thức, thái độ và hành vi của các thành viên gia đình xử lý các mối

quan hệ trong và ngoài gia đình, hướng đến xây dựng gia đình hạnh phúc. Thông

qua sự giữ gìn, giáo dục các giá trị truyền thống văn hóa gia đình, các giá trị

truyền thống văn hóa dân tộc cũng được bảo tồn và phát huy.

Nghiên cứu văn hóa gia đình, vai trò của văn hóa gia đình đối với sự

phát triển của xã hội luôn là một đề tài mở đối với các nhà khoa học và những

người quan tâm đến gia đình, nhất là trong giai đoạn hiện nay, khi mà đất nước

ta đang trong quá trình đổi mới, sự xuất hiện các chuẩn mực và các giá trị mới

đan xen với những chuẩn mực truyền thống. Vì vậy, việc phát huy những giá

trị văn hóa gia đình có ý nghĩa hết sức quan trọng góp phần, giữ gìn và phát

triển những giá trị truyền thống của văn hóa, con người Việt Nam nói chung, ở

thành phố Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng nói riêng, nhằm nuôi dưỡng, giáo dục thế

hệ trẻ để văn hóa gia đình trở thành động lực thúc đẩy sự phát triển của đất

nước hôm nay và trong tương lai một cách bền vững.

31

Chương 2

THỰC TRẠNG VĂN HÓA GIA ĐÌNH Ở THÀNH PHỐ BẢO LỘC,

TỈNH LÂM ĐỒNG HIỆN NAY

2.1. THỰC TRẠNG VĂN HÓA SẢN SINH VÀ NUÔI DẠY CON NGƯỜI

TRONG CÁC GIA ĐÌNH Ở THÀNH PHỐ BẢO LỘC

2.1.1. Quan niệm về vấn đề con cái

Con cái là tài sản vô giá của cha mẹ, sự gắn kết bền vững của hạnh

phúc gia đình. Quan niệm về vấn đề con cái ở mỗi thời kỳ, với mỗi cộng

đồng, địa phương lại có những điểm khác nhau.

Trên địa bàn thành phố Bảo Lộc đa số các gia đình đều ý thức về vấn

đề sinh con và nuôi dạy con cái. Là vùng đất có nhiều cư dân của hơn 20 tỉnh

thành trong cả nước về cư trú, họ mang theo những phong tục, tập quán khác

nhau giữa các vùng miền nên có những nhận thức và quan niệm khác nhau ở

từng thời kỳ, cho nên việc sinh con và nuôi dạy con cái cũng có nét đặc trưng

văn hóa. Thời gian qua, ở đây đã có những thay đổi nhất định của các gia đình

trong quan niệm về con cái. Trước đây, con cái được coi là tài sản chung của

bố mẹ. Gia đình càng nhiều con càng có nhiều sức lao động do đó sẽ tạo ra

được nhiều của cải cho gia đình. Do đặc điểm của vùng núi khu vực Nam Tây

Nguyên, đất rộng, người thưa nên các gia đình thường mong muốn nhiều con

để có nguồn lao động dồi dào, tạo ra của cải vật chất cho mọi sinh hoạt trong

gia đình. Hơn nữa, nó cũng là nền tảng về tinh thần cho các bậc làm cha, làm

mẹ sau này khi trở thành ông bà, đến lúc ốm đau được “con đàn, cháu đống”

quây quần chăm sóc, họ an tâm khi về già, trái gió trở trời... Ngày nay, quan

niệm này đã thay đổi cơ bản. Đa số các cặp vợ chồng chỉ muốn có hai con để

nuôi dạy cho tốt. Việc đầu tư cho con cái là nhằm phát triển hoàn thiện con

người với những chi phí lớn cho nuôi dưỡng, học tập, đào tạo nghề nghiệp

kéo dài nhiều năm. Nguyên nhân dẫn đến sự thay đổi đó là do xã hội hiện đại,

cạnh tranh gay gắt trong nhiều lĩnh vực của đời sống nên cũng như các gia

đình Việt Nam hiện nay, nhiều gia đình ở Bảo Lộc không muốn sinh nhiều

32

con. Mô hình gia đình truyền thống “ con đàn, cháu đống” không còn phù

hợp. Vì thế mà mô hình hạt nhân và gia đình chỉ có từ một đến hai con dần trở

nên phổ biến.

Trên địa bàn thành phố Bảo Lộc chỉ còn một bộ phận rất nhỏ các gia

đình có quan niệm muốn sinh nhiều con. Đó là ở những vùng có trình độ dân

trí thấp, thường có từ 3 con trở lên mà buộc phải có con trai để nối dõi tông

đường, rơi vào những gia đình vùng sâu, vùng xa, vùng có đồng bào dân tộc

thiểu số, một bộ phận vùng đồng bào theo đạo Thiên chúa giáo ở một số

phường, xã: Phường Blao, phường Lộc Sơn, phường Lộc Phát, xã Lộc Châu,

xã Lộc Nga, xã Lộc Thanh. Có nơi tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên tới 17%. Tỷ lệ

tăng dân số tự nhiên và tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên ở những năm 2005 và 2008

quá cao. Năm 2005 là 1,36% dân số tự nhiên và tỷ lệ sinh con thứ 3 là 10,2%;

năm 2008 là 1,46% dân số tự nhiên và tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên là 13% cao

hơn các năm từ năm 2006 đến năm 2012 [68]. Trong khi đó, công tác thông

tin giáo dục tuyên truyền ở một số địa phương trên địa bàn thành phố Bảo Lộc

chưa đáp ứng tính đặc thù về nghề nghiệp, địa lý, dân tộc cũng như phong tục,

tập quán của vùng này. Bên cạnh đó là sự thiếu hiểu biết và sử dụng các

phương pháp kế hoạch hóa gia đình. Đối với vùng sâu, vùng xa, vùng đồng

bào dân tộc thiểu số, vùng đồng bào theo đạo Thiên chúa giáo do những

phong tục, tập quán, yếu tố tâm lý, văn hóa của đạo công giáo cấm phụ nữ đã

mang thai thì không được phá thai, phải sinh con để nuôi nấng, cùng với tâm

lý muốn có nhiều con của xã hội cổ truyền, tư tưởng có con trai nối dõi tông

đường, đông con là nhờ hồng phúc vẫn tồn tại. Đây cũng chính là nỗi trở ngại

cho công tác dân số, kế hoạch hóa gia đình còn gặp nhiều khó khăn trên địa

bàn thành phố.

Qua khảo sát, điều tra các phường, xã trên địa bàn thành phố Bảo Lộc

khi được hỏi về mong muốn số con trong gia đình có tới 80% là muốn có 2

con, 15% muốn có 1 con và 5% muốn có từ 3 người con trở lên [ Phụ lục 1].

Điều đó cho thấy, mô hình mỗi gia đình chỉ có 2 con ở thành phố Bảo

Lộc đang ngày càng phổ biến được các gia đình lựa chọn phù hợp trong việc

33

nuôi dạy con cái cho thuận tiện để tập trung phát triển kinh tế, nâng cao chất

lượng cuộc sống và có điều kiện để học tập, công tác. Việc coi trọng con trai

con gái gần như là tương đương không còn khoảng cách quá xa như trước đây

chỉ coi trọng con trai.

Đối với các gia đình vùng đồng bào dân tộc thiểu số gốc Tây Nguyên là

người KơHo và người Châu Mạ thì có những đặc điểm riêng. Họ rất muốn gia

đình đông con, đặc biệt là có con gái thì càng tốt, đây là yếu tố của chế độ

mẫu hệ. Con cái được sinh ra theo họ mẹ và người chồng phải ở rể phụ thuộc

phần lớn vào bên gia đình vợ. Việc sinh sản, chăm sóc và nuôi dạy con cái

còn rất hạn chế. Do đó, tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng gia tăng, việc giáo dục cho

con cái ăn học còn nhiều hạn chế trong những vùng đặc thù này.

Người KơHo và người Châu Mạ, trước đây họ sinh con theo tập tục

sàng lọc tự nhiên và những hủ tục kiêng kị. Đứa bé sinh ra thường được đưa

ra suối để tắm rửa và mẹ chúng là những người cắt rốn, dùng thuốc là những

lá cây rừng, đa phần tự sinh ở nhà chứ ít có trường hợp tới trạm xá hay bệnh

viện. Trong nhà, ở thời điểm có người sinh đẻ và súc vật nuôi trong nhà cũng

đẻ thì họ kiêng kị không dám vào vì sợ rằng sẽ gặp điều không tốt…Hiện nay,

những hủ tục đó đã dần mất đi, do quá trình giao lưu với các gia đình người

Kinh, học tập ở người Kinh về những cách thức lao động sản xuất và sinh

hoạt hàng ngày. Đặc biệt, ở một số gia đình có điều kiện về kinh tế họ cũng

đầu tư cho con cái ăn học, hiểu biết, tiếp cận với các phương tiện truyền thông

đại chúng nên đời sống dân trí được nâng lên, dễ hòa đồng và biết áp dụng

khoa học kỹ thuật tiên tiến vào sản xuất. Họ chính là nhân tố để góp phần xây

dựng tinh thần đại đoàn kết dân tộc giúp buôn làng xóa bỏ những hủ tục

không còn phù hợp với cuộc sống mới.

Trong quan niệm về giới tính con cái, phần lớn các hộ gia đình, nhất là

các hộ gia đình là cán bộ, công nhân viên chức và một bộ phận người dân đã

có những nhận thức thay đổi trong quan niệm phải có con trai để nối dõi tông

đường đã không còn phổ biến, các gia đình có ý thức về số lần sinh con và

khoảng cách các năm sinh để thực hiện nuôi dạy cho tốt. Việc sinh con trai,

34

con gái không còn là nỗi lo ngại và trở thành áp lực cho các cặp vợ chồng trẻ.

Nhiều gia đình sẵn sàng đầu tư cho con cái ăn học bất kể là con trai hay con

gái. Họ tự cân nhắc và thận trọng trong vấn đề nuôi dạy con cái phải đến nơi,

đến chốn, mục đích là chăm sóc và nuôi dạy trẻ cho tốt, nuôi con khỏe, dạy

con ngoan. Khi được hỏi về sự coi trọng con trai hay con gái trong gia đình,

chị Nguyễn Anh Thư ở phường II, thành phố Bảo Lộc cho biết:

“ Trong xã hội bây giờ, con trai và con gái đều như nhau. Con nào thì

mình cũng phải lo cho chúng nó ăn học nên người, đứa nào ráng học tốt thì

mình sẵn sàng đầu tư, còn đứa nào học không được phải cho đi học nghề. Đứa

nào cũng đối xử công bằng, chứ không có coi trọng con trai mà xem nhẹ con

gái. Anh thấy đấy, khối gia đình có con trai rất nhiều mà cũng chẳng phụ

giúp bố mẹ chu đáo, nhất là lúc ốm đau, chỉ có con gái mới gần gũi với bộ mẹ

và chăm lo chu đáo nên bây giờ, mỗi gia đình chỉ có hai con, nếu gia đình nào

không có con gái là một thiệt thòi”. Điều đó, ít nhiều đã cho thấy sự nhìn

nhận và đánh giá rất khác so với xã hội truyền thống, thậm chí ở một số gia

đình lại thích có được con gái.

Biểu đồ 2.1: Khảo sát về sự quan tâm coi trọng con trai hay con gái

200

147

150

100

50

23

20

0

con trai

con gái

cả hai

trong gia đình

Nguồn: Kết quả điều tra của tác giả tháng 12/2013 [Phụ lục 1].

Các gia đình trẻ, gia đình cán bộ, công chức, gia đình ở thành phố biết

cách chăm sóc, giáo dưỡng thai nhi từ trong bụng mẹ, từ chế độ dinh dưỡng,

nghỉ ngơi, vui chơi, giải trí để đứa trẻ được sinh ra khỏe mạnh, thông minh, tạo

điều kiện cho cha mẹ có đủ thời gian học tập và công tác, nâng cao chất lượng

35

cuộc sống của cá nhân và gia đình. Đó cũng là xu hướng của các gia đình trẻ trên

địa bàn thành phố. Đặc biệt, đối với những gia đình cán bộ, công chức thì quyền

quyết định số con và lựa chọn khoảng cách sinh con để nuôi dưỡng cho phù hợp

và thuận tiện. Chính yếu tố này đã góp phần làm cho tỷ lệ tăng dân số tự nhiên

của địa phương đạt được chỉ tiêu. Từ năm 2005 là 1,36%, năm 2006 là 1,33, năm

2007 là 1,32 và cho tới năm 2012 là 1,25% [68].

Như vậy, qua phản ánh thực trạng quan niệm về sinh con trong các gia

đình ở thành phố Bảo Lộc đã có sự thay đổi so với trước đây. Nguyên nhân là

do xã hội ngày một phát triển và quá trình đô thị hóa, hội nhập kinh tế, văn

hóa của đất nước nói chung và thành phố Bảo Lộc nói riêng đã có những ảnh

hướng tích cực, tác động mạnh mẽ vào ý thức, trong đời sống của các gia

đình, làm cho trình độ nhận thức, trình độ dân trí, điều kiện sống được nâng

lên rõ rệt. Từ đó, việc sinh sản không bị ép buộc phải sinh nhiều con vì điều

kiện sản xuất không cần phải có đông con để có nhiều lao động, nhu cầu khác

trong cuộc sống các gia đình được phát triển mạnh. Cùng với việc tuyên

truyền về Pháp lệnh dân số của Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã có chuyển

biến tích cực nên có sự thay đổi về quan niệm đông con sang ít con. Mô hình

gia đình chỉ có hai con để nuôi dậy cho tốt là khá phổ biến, các gia đình đều

hướng tới chất lượng của cuộc sống và nguồn nhân lực chất lượng cao.

2.1.2. Giáo dục trong gia đình

Cũng giống gia đình Việt Nam nói chung, mục tiêu giáo dục trong gia

đình ở Bảo Lộc là tạo ra những người con hiếu thảo, có đạo đức trong sáng,

có lối sống, suy nghĩ lành mạnh, có thể chất mạnh khỏe và có chuyên môn,

nghiệp vụ nghề nghiệp cao, đáp ứng yêu cầu của gia đình và xã hội. Hay nói

cách khác, giáo dục gia đình tạo ra những con người chân chính, có đời sống

ấm no, tự do, hạnh phúc, có năng lực, trí tuệ, có lối sống lành mạnh, đạo đức

trong sáng, hết mình vì mọi người, vì quê hương.

Về nội dung giáo dục trong gia đình trước đây, hầu hết tất cả các gia

đình ở thành phố Bảo Lộc đều chú trọng trong việc giáo dục con cái và các

thành viên gia đình về những giá trị truyền thống như răn dạy con cái phải

36

biết sống có đạo đức: “đói cho sạch, rách cho thơm”, “giấy rách phải giữ lấy

lề”. Ăn ở phải có nhân, có nghĩa, biết kính trên, nhường dưới trong gia đình,

quan hệ họ hàng, cư xử phải đạo với cộng đồng xã hội. Con người phái biết

trau dồi đạo đức, biết tôn vinh những giá trị văn hóa truyền thống, biết cảm

thụ cái hay, cái đẹp, cái nhân văn cao cả, biết nhận ra cái xấu, cái phi đạo đức

để lên án. Nội dung giáo dục trong gia đình ở thành phố Bảo Lộc tương đối

toàn diện cả về tri thức, kinh nghiệm, giáo dục đạo đức và lối sống, giáo dục

nhân cách và thẩm mỹ, ý thức cộng đồng… Trong nội dung giáo dục có sự kế

thừa những giá trị tốt đẹp của truyền thống nhưng có đổi mới cho sự phù hợp

với yêu cầu của điều kiện kinh tế - xã hội hiện nay.

Giáo dục thông qua làm gương của các bậc cha mẹ là vấn đề nhiều gia

đình ở Bảo Lộc quan tâm. Đã có rất nhiều tấm gương cha mẹ làm lụng vất vả,

hy sinh để nuôi con cái ăn học trưởng thành và nhiều tấm gương con ngoan,

trò giỏi, nhiều gia đình hiếu học, dòng họ hiếu học ở địa bàn thành phố… Đây

cũng chính là nét văn hóa truyền thống hiếu học của dân tộc Việt Nam nói

chung và thành phố Bảo Lộc nói riêng. Thành phố Bảo Lộc là địa phương có

phong trào học tập, khuyến học khuyến tài rất phát triển ở các gia đình được

Thủ tướng Chính phủ tặng bằng khen về công tác khuyến học, khuyến tài.

Nhiều gia đình cũng nhận thức được rằng, trong điều kiện hiện nay, giáo dục

gia đình đều phải hướng con người, vì con người, nhằm tạo ra những con

người, cá nhân trưởng thành với tất cả những phẩm cách cần thiết của người

lao động độc lập, tự chủ, năng động và có khả năng thích ứng với cơ chế của

nền kinh tế thị trường.

Chính vì thế không chỉ những hộ gia đình ở thành phố có điều kiện mà

rất nhiều hộ gia đình nông dân ở một số xã như ĐamBri, Đại Lào, Lộc Nga,

Lộc Châu còn gặp nhiều khó khăn về kinh tế vẫn cố gắng đầu tư cho con cái

ăn học, tất cả vì con, mong muốn sau này con cái có ăn có học để đỡ vất vả

trong cuộc sống, sống có ích, có ý nghĩa góp phần xây dựng xã hội phát triển

lành mạnh. Ít còn tình trạng gia đình giáo dục con cái có nếp sống và suy nghĩ

thực dụng “tham lợi nhỏ, bỏ lợi lớn”, trước mắt là chỉ cần cho học hết cấp 2,

37

cho học lấy cái nghề nào đó để phụ giúp cuộc sống của gia đình. Đặc biệt, không

phân biệt giới tính trọng nam coi thường nữ trong lĩnh vực đầu tư học tập, coi

đầu tư cho gia đình, đầu tư cho con cái ăn học là một sự phát triển bền vững.

Nhiều gia đình, dòng tộc là những tấm gương tiêu biểu về học tập được

cộng đồng nhân rộng và noi theo. Tiêu biểu như dòng tộc họ Phan ở Phường I,

khu dân cư xóm 3 thôn 8 xã ĐamBri và ở nhiều hộ gia đình khác nữa. Riêng

dòng tộc họ Phan, chỉ tính từ năm 2009 đến 2013 đã có 710 con em các gia đình

là học sinh giỏi cấp I, II, cấp III đạt loại khá trở nên, đỗ đại học là 105 em, trong

đó có 03 tiến sĩ và 04 thạc sĩ [30]. Các gia đình, họ hàng, dòng tộc hàng năm đều

đóng góp quỹ khuyến học cho các gia đình có con học giỏi. Đối với dòng họ

Phan, mỗi năm các gia đình đều đóng góp từ 20 đến 30 triệu đồng cho quỹ

khuyến học. Chỉ tính riêng trong năm 2013, số tiền đóng góp quỹ khuyến học

của dòng họ đã lên tới 97 triệu đồng để kịp thời động viên các gia đình trong họ

có hoàn cảnh khó khăn [30]. Hàng năm, dòng tộc này đều chọn một số gia đình

tiêu biểu, tổ chức họp mặt, giao lưu, chia sẻ kinh nghiệm về nuôi dạy con cái học

tập tốt cho các gia đình khác noi theo. Những hoạt động đó đã trở thành phong

trào thi đua trong học tập trong dòng tộc và cộng đồng, số con em trong gia đình

của dòng tộc, khu dân cư có kết quả học tập đạt loại trung bình giảm, không có

con em là học sinh cá biệt, hư hỏng. Đặc biệt là, những người thành đạt trong

họ, mặc dù đi làm nơi xa nhưng hàng năm họ vẫn về để họp mặt, chia sẻ, đóng

góp cả về vật chất và tinh thần cho con em trong họ tộc mình, thậm chí giúp đỡ

nhau giải quyết phần lớn công ăn việc làm cho dòng tộc. Đây cũng là một trong

những giá trị lớn về mặt tinh thần, thể hiện nghĩa cử cao đẹp của người Việt

Nam mang tính nhân văn cao đẹp luôn được thế hệ các gia đình ở thành phố Bảo

Lộc kế thừa và phát huy.

Phương pháp giáo dục của các gia đình ở Bảo Lộc rất đa dạng. Trên cơ

sở kế thừa các phương pháp của gia đình truyền thống như nói chuyện, giảng

giải, khuyên bảo, thưởng phạt hoặc răn đe, thăm quan, giao lưu học hỏi…

nhưng chủ yếu và có hiệu quả nhất vẫn là phương pháp thuyết phục nêu

gương. Việc giáo dục nghiêng về phân tích lý lẽ, giảng giải để con cái phân

38

biệt đúng sai, tự điều chỉnh hành vi, thái độ, suy nghĩ của chúng. Trước đây,

giáo dục mang tính khuôn phép lễ giáo có sẵn bằng sự chỉ bảo uy quyền,

mệnh lệnh thậm chí kể cả bạo lực. Phương pháp giáo dục ở đây là buộc phải

tuân theo, phải chấp hành chứ không được phép phân tích đúng sai. Con cái

trong gia đình không được phép cãi lại bố mẹ hay làm trái ý cha mẹ. Tất cả

các hành vi đi ngược lại ý kiến cha mẹ bất kể đúng sai đều bị lên án. Cách

thức giáo dục như thế tạo ra sự ổn định, có tôn ti, trật tự trên dưới trong gia

đình truyền thống. Nhưng nó cũng tạo ra những con người, cộng đồng thụ

động, chỉ biết phục tùng, cam chịu, nặng đầu óc bảo thủ trì trệ, hạn chế trong

việc giáo dục các tri thức mới.

Tác động của kinh tế thị trường không chỉ làm thay đổi mục tiêu, nội

dung giáo dục của gia đình mà còn tác động đến việc đổi mới phương thức giáo

dục. Những gia đình có trách nhiệm, có ý thức đầy đủ về vai trò giáo dục gia

đình đã tìm mọi hình thức, biện pháp để tác động đến con cái theo hướng tích

cực thông qua sinh hoạt gia đình, các bậc ông bà, cha mẹ, chuyển tải nội

dung văn hóa truyền thống cho con cháu như giáo dục nề nếp, gia phong, tạo

không khí gia đình ấm cúng, cởi mở, cha mẹ gần gũi lắng nghe con cái bày tỏ,

định hướng con cái trong đời sống, đưa con cái đi thăm, viếng, du lịch tới

những địa danh lịch sử, thắng cảnh thiên nhiên của đất nước…thông qua hình

ảnh, các phương tiện của truyền thông đại chúng giúp con tự nhận thức và

hoàn thiện nhân cách…đồng nghĩa với việc cá nhân, thành viên trong xã hội

phải tự vận động, tự quan tâm, tự chăm sóc bản thân nhiều hơn. Chính vì thế,

nhiều gia đình đã thay đổi cách giáo dục con cái theo hướng tạo tính tự lập để

con cái phát huy vai trò chủ thể tích cực của mình. Biểu hiện ở việc nhiều gia

đình đã có những thay đổi phù hợp về các giá trị cần giáo dục cho con cái

như dạy con có ước mơ và biết làm giàu chính đáng, coi trọng những lao động

chân chính, có thu nhập cao hoặc biết sống đồng cảm với người khác, với

cộng đồng. Hướng nội dung giáo dục của gia đình, thống nhất với giáo dục

nhà trường, xã hội góp phần tạo nên những người lao động đáp ứng yêu cầu

của điều kiện kinh tế xã hội mới.

39

Nhìn chung, giáo dục trong các gia đình ở địa bàn thành phố Bảo Lộc

đã có sự thay đổi so với trước đây, giáo dục phần lớn do gia đình và nhà

trường đảm nhiệm nhưng vẫn chú trọng, trách nhiệm cao là ở chính gia đình

thì bây giờ đã chú trọng cả ba yếu tố, gia đình, nhà trường và xã hội.

Biểu đồ 2.2: Khảo sát về sự coi trọng giáo dục con cái trong gia đình

Qua số liệu điều tra cho thấy, tổng số là 200 phiếu trưng cầu ý kiến

23, 11%

8, 4%

Gia đình

5, 2%

Nhà trường

Xã hội

Cả ba yếu tố

169, 83%

trong 200 hộ gia đình, phương án lựa chọn nhiều nhất vẫn là cả ba yếu tố:

Nguồn: Kết quả điều tra của tác giả tháng 12/2013 [Phụ lục 1]

Qua khảo sát ở các xã, phường trên địa bàn thành phố cho thấy ở các

gia đình bất kể là nông thôn, thành thị… cha mẹ càng có học vấn cao thì càng

thấy được tầm quan trọng và sự tin tưởng đối với con cái họ. Họ có thể nhìn

nhận từ sự nhận thức từ kinh nghiệm thực tế của đời sống xã hội và bản thân

để có cách ứng xử phù hợp với con cái. Đặc biệt, đối với các gia đình ở

phường, rất quan tâm đến con cái thể hiện ở việc học tập, những mối quan hệ

của con, tôn trọng sự lựa chọn và biết dành thời gian để con cái tâm sự hoặc

thậm chí còn tranh luận cả những vấn đề đang được xã hội quan tâm. Điều đó

cho thấy sự bình đẳng và tính dân chủ tiến bộ trong các gia đình này mà

không hề làm mất đi uy tín cũng như vai trò của cha mẹ mà giúp con cái hiểu

thêm về mình, những vấn đề mà thế hệ trẻ quan tâm cũng như những quan

điểm, suy nghĩ của họ về nghề nghiệp, giới tính, tình yêu và hôn nhân. Đây là

điều ít gặp ở các gia đình truyền thống.

Song bên cạnh đó, nền kinh tế thị trường với quy luật cạnh tranh khốc

liệt đã và đang tác động đến quá trình giáo dục trong gia đình, tác động có

40

tính hai mặt của cơ chế thị trường vừa tạo điều kiện cho giáo dục gia đình

phát huy tính cao độ vai trò và thế mạnh của mình nhưng cũng vừa đặt ra

nhiều vấn đề, nhiều lo lắng thậm chí là bức xúc cho gia đình và xã hội. Tác

động của nền kinh tế hiện nay khiến cho nhiều gia đình đề cao vai trò phát

triển kinh tế, coi trọng quá mức giá trị vật chất nên các giá trị khác bị xem

nhẹ, thậm chí là không quan tâm như: giáo dục con cái, xây dựng tổ ấm gia

đình, xây dựng quan hệ nội ngoại, quan hệ làng xóm, tổ dân phố… Nhiều gia

đình bị cuốn theo sự căng thẳng của những hoạt động kinh tế nên vẫn còn tình

trạng thiếu quan tâm đến việc dạy dỗ con cái. Sự phát triển đa dạng các dịch

vụ công cộng đã khiến chức năng giáo dục, xã hội hóa của gia đình phải chia

sẻ nhiều hơn với nhiều thiết chế xã hội và các dịch vụ chăm sóc trẻ em như

gia sư, bảo mẫu… Chính vì vậy đối với một số gia đình, việc dạy dỗ con cái

gần như được chuyển giao toàn bộ chức năng cho nhà trường và xã hội.

Trước đây, việc dạy dỗ con cháu về đạo đức, văn hóa là do cha, mẹ (hoặc

ông, bà) đảm trách là chủ yếu thì đến nay, do bố mẹ quá bận rộn với công

việc làm ăn, công việc xã hội, và rất nhiều công việc khác nên đa số các bậc

phụ huynh đều gửi con đến trường ngay từ nhỏ hoặc thuê gia sư để uốn nắn,

kèm cặp. Do vậy, thời gian quan tâm chăm sóc hoặc chia sẻ tình cảm giữa

ông, bà, cha, mẹ và con cháu hầu như không nhiều hoặc rất hạn chế. Điều đó

đã dẫn đến nhiều trường hợp đau lòng đáng tiếc xảy ra. Nhiều gia đình mải

làm ăn, không thường xuyên quan tâm, chăm sóc về tâm tư tình cảm, ước

mong, khát vọng cá nhân của con cái nơi tổ ấm gia đình, bởi thời gian gần gũi

con cái quá ít, mà nếu có gặp được để giáo dục thì lại nặng về quở trách hoặc

chửi mắng, thậm chí bạo lực.

Bên cạnh những bậc làm cha mẹ quan tâm, chia sẻ, tôn trọng, bình

đẳng, hỏi ý kiến của con cái trong vấn đề giáo dục thì có những ông bố, bà mẹ

lại quá nghiêm khắc cứng nhắc trong việc giáo dục con cái. Tuy có sự khác

nhau trong cách thức giáo dục ở vùng thành thị, nông thôn, vùng sâu, vùng

ĐBDTTS, nhưng sự nghiêm khắc vẫn tồn tại ở những vùng nông thôn. Tính

gia trưởng vẫn còn tồn tại trong nhiều gia đình, con cái phải phục tùng cha

41

mẹ, chúng không chỉ học tập mà còn phải lao động rất sớm, ít có thời gian đi

chơi để mở mang các mối quan hệ xã hội. Vì vậy, ở thành phố các bậc cha mẹ

nhận thức về vấn đề xã hội nhanh và thoáng hơn, tôn trọng và để cho con cái

phần nào tự do hơn. Nhưng cũng có một số bậc làm cha, làm mẹ vì quá coi

trọng thành tích học tập mà xem nhẹ hoặc thậm chí bỏ qua giáo dục đạo đức

cá nhân, buông lỏng việc giáo dục phẩm chất đạo đức. Hoặc một số cha mẹ

gần như không quan tâm, thờ ơ thậm chí còn né tránh trách nhiệm. Không ít

gia đình bố mẹ đã dung túng cho tính tham lam, ích kỷ, ngang ngược để con

cái buông thả quá mức. Ý kiến của ông Phạm Quang Minh, Trưởng ban đại

diện Hội Người cao tuổi thành phố Bảo Lộc về vấn đề giáo dục trong gia đình

ở thành phố Bảo Lộc cho rằng:

Giáo dục trong gia đình hiện nay quả là phức tạp, thành thị cũng

chẳng hơn gì nông thôn là mấy, bởi họ đã không chú trọng nhiều tới

vấn đề đạo đức truyền thống và nhân cách con người. Nhiều người chỉ

coi trọng phát triển kinh tế lo kiếm tiền, có tiền thì con cái mạc phó

cho nhà trường và xã hội mà bây giờ thì xã hội cũng lá yếu tố quan

trọng không thể không đề cập trong giáo dục gia đình [Phụ lục 2].

Riêng người KơHo và người Châu Mạ thì do tính đặc thù của văn hóa

tộc người nên họ dạy dỗ con cái có phần khác so với đồng bào Kinh. Họ rất

quan tâm và yêu quý con cái, họ cũng truyền đạt cho con cái từ cách sống thích

nghi với môi trường tự nhiên và môi trường xã hội. Chẳng hạn, trước đây đứa

trẻ khi sinh ra được nuôi dưỡng cho tới khi 6 tháng tuổi trở lên, ba mẹ chúng

đến thời điểm làm rẫy có thể gùi chúng trên lưng để đi làm. Đến tuổi vị thành

niên nếu là con trai phải được truyền đạt cách thức cài bẫy, săn bắt thú rừng,

con gái ngoài việc tham gia lao động cùng gia đình thì phải biết đan lát, thêu

thùa, dệt thổ cẩm…; nhưng giá trị cốt lõi và chủ yếu nhất là họ vẫn trao truyền

cho con cái, những thế hệ lớp người kế tiếp về những nét đẹp văn hóa truyền

thống của tộc người mình. Tuy nhiên, việc tạo điều kiện cho con cái ăn học ở

những bậc học Cao đẳng, Đại học thì rất ít. Theo số liệu thống kê của Phòng

Nội vụ thành phố, hiện có 5.267 người ĐBDTTS, chiếm khoảng 3,3% dân số

42

toàn thành phố. Trong đó tộc người gốc Tây Nguyên là KơHo và Châu Mạ có

650 hộ với 2.676 nhân khẩu nhưng chỉ có khoảng gần 50 người có trình độ học

vấn ở bậc Cao đẳng, Đại học, chiếm tỷ lệ chưa đầy 2% trong tổng số tộc người

của họ [46].

Trong quá trình giao lưu, tiếp xúc với các cộng đồng dân tộc khác, mà

chủ yếu là người Kinh, giáo dục trong các gia đình dân tộc KơHo và Châu Mạ

có tác động đáng kể. Khi được phỏng vấn, chị KaĐum người dân tộc Châu Mạ

đã nhận xét:

“Trước đây, giáo dục con cái lúc bé thì dễ, còn bây giờ chúng nó lớn

lên là rất khó giáo dục. Bởi chúng ít nhiều cũng được ăn học, biết tiếp cận với

cuộc sống tân tiến của người Kinh nên nhiều khi nó biết và hỏi bố mẹ nó

không giải thích được nên nó cũng không tin tưởng lắm”[Phụ lục 2]. Qua đó,

có thể thấy, thế hệ trẻ của các dân tộc thiểu số trên địa bàn thành phố Bảo Lộc

ít nhiều cũng chịu ảnh hưởng trong quá trình tiếp xúc với các dân tộc khác và

có suy nghĩ khác với cha mẹ, nhất là đối với những người có học vấn thì lại

càng khó. Lý do là họ được học tập, hiểu biết, trở thành những hạt nhân làm

cho tộc người của mình đỡ ràng buộc bởi những hủ tục, hòa mình với cuộc

sống của cộng đồng các dân tộc trên địa bàn thành phố. Xét đến cùng, sự phát

triển của đời sống xã hội là luôn luôn vận động theo hướng phát triển đi lên.

Vì vậy, yếu tố này có thể ảnh hưởng đến tâm lý, thói quen, nếp sinh hoạt của

người thiểu số, nhưng lại là mặt tích cực hướng tới sự tiến bộ văn minh của

giao thoa văn hóa giữa các cộng đồng dân tộc thiểu số với người Kinh trên địa

bàn thành phố Bảo Lộc.

2.2. THỰC TRẠNG VĂN HÓA VẬT CHẤT VÀ TIÊU DÙNG CÁC SẢN

PHẨM VẬT CHẤT CỦA CÁC GIA ĐÌNH Ở THÀNH PHỐ BẢO LỘC

2.2.1. Không gian sống của các gia đình

Thành phố Bảo Lộc là địa phương có cư dân của nhiều tỉnh thành đến

khai hoang và xây dựng kinh tế mới. Là vùng đa văn hóa, nhiều dân tộc,

nhiều cộng đồng người về sinh sống, nên ngoài nét văn hóa chủ yếu truyền

thống của gia đình Việt Nam thì vẫn có những nét văn hóa gia đình của các

43

vùng, miền như văn hóa truyền thống của gia đình cư dân vùng đồng bằng

sông Hồng, Bắc Trung Bộ và duyên hải Nam Trung Bộ và nét văn hóa gia

đình của tộc người, người bản địa KơHo và Châu Mạ sống xen kẽ giữa các hộ

dân cư đều hòa quyện, tạo nên sự hỗn dung, đa dạng trong văn hóa.

Địa bàn rộng lớn, dân số chưa nhiều, chính vì thế mà không gian

sống của các gia đình rất rộng mở, nhiều hộ gia đình có thể định cư ở nhiều

nơi trên địa bàn thành phố, là dân cư của nhiều vùng miền nên họ dễ tiếp

nhận và hòa đồng giữa những thói quen, nếp nghĩ, văn hóa của nhiều hộ gia

đình ở những vùng miền khác nhau, họ ít nhiều đều bị ảnh hưởng tới nhau

trong cách thức sinh hoạt, làm ăn, sinh sống, dễ đồng cảm và tiếp cận

những giá trị văn hóa mới của nhau. Đây cũng là một điều kiện thuận lợi để

gắn kết tình làng nghĩa xóm, cấu kết cộng đồng trong từng gia đình ở khu

dân cư góp phần xây dựng đời sống văn hóa bắt đầu từ chính văn hóa của

mỗi gia đình.

Trong kiến trúc nhà cửa cũng đã có sự đa dạng về tính chất vùng miền.

Tùy theo diện tích đất rộng hẹp để trang trí, thiết kế nhà cửa. Kiến trúc cổ

truyền Việt Nam, đa phần các gia đình sử dụng kết cấu khung gỗ gồm các vật

liệu bổ trợ như gạch, đá, ngói, bia rô xi măng, tre, nứa, cỏ tranh… trong loại

hình kiến trúc này thực sự không có sự phân biệt, chỉ riêng đối với đồng bào

dân tộc thiểu số thì phần lớn họ đều làm nhà sàn để cư ngụ.

Đối với các hộ gia đình ở vùng nông thôn gốc miền Bắc và miền Trung

đa số họ thiết kế nhà ở hướng tới duy trì sinh hoạt chung của gia đình, tôn

trọng không gian sinh hoạt chung của gia đình. Gian chính làm nhà thờ tiếp

khách, còn hai gian kia để ở, nhưng thường có bếp nấu ăn và công trình phụ

riêng. Còn đối với các hộ gia đình ở thành phố, thiết kế nhà cửa vừa có

không gian chung sinh hoạt của gia đình nhưng rất chú trọng vào không gian

sống riêng của mỗi thành viên trong gia đình. Trong nhà, ngoài những không

gian sinh hoạt chung của gia đình thì đa số bố mẹ, ông bà đều ở chung một

phòng, còn con cái mỗi người ở một phòng và được tôn trọng không gian

riêng của nhau. Việc trang trí nhà cửa bây giờ cũng khác trước.

44

Trước đây, có đến hơn 80% là nhà gỗ, nhà tranh, nhà cấp 4 lụp sụp. Đồ

dùng, phụ kiện dùng cho sinh hoạt hàng ngày còn đơn giản. Nhưng hiện nay

khoảng 90% là nhà xây, các gia đình có điều kiện thường trang trí nhà cửa

theo kiểu kiến trúc của Tây Âu, nhà cấp 4, cấp 3 hay cấp 2… đều thiết kế theo

kiểu kiến trúc nhà ống, bên trong sử dụng các trang thiết bị, các đồ dùng, sinh

hoạt chung trong gia đình hiện đại, tiện nghi. Còn ở vùng nông thôn, các gia

đình xây dựng nhà cửa có phần đơn giản hơn vì do điều kiện kinh tế nhưng đa

phần cũng ít nhiều có sự thay đổi về kiến trúc nhà cửa cũng như không gian

sống và sinh hoạt của gia đình.

2.2.2. Phương thức mưu sinh của các gia đình

Sự đa dạng hóa nhiều ngành nghề của các gia đình ở Bảo Lộc đã làm

cho phần lớn kinh tế hộ gia đình phát triển, bộ mặt của đô thị ngày càng được

chỉnh trang, đời sống của các tầng lớp nhân dân ngày càng được nâng lên rõ

dệt cả về đời sống vật chất và đời sống tinh thần.

Trước đây, phần lớn các gia đình trên địa bàn thành phố Bảo Lộc là làm

ăn, sinh sống và hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, chăn nuôi nhỏ lẻ,

trồng các cây công nghiệp chủ yếu là chè, cà phê và một số cây ăn trái như

bơ, sầu riêng… cho tới những năm thập niên 80, nhờ chính sách di dân của

Đảng và Nhà nước nên có nhiều gia đình là cư dân của đồng bằng sông Hồng

như Thái Bình, Nam Định, Hà Nội, Bắc Ninh và một số tỉnh Bắc Trung Bộ,

duyên hải Nam Trung Bộ vào sinh sống. Cũng do đặc điểm khí hậu ôn hòa,

thuận lợi cho phát triển một số ngành chủ lực trong lĩnh vực nông nghiệp và

kéo theo hoạt động công nghiệp như ngành dâu tằm, chế biến nông lâm thủy

sản, khai thác khoáng sản…làm cho đời sống kinh tế - xã hội của thành phố

ngày một đa dạng và phát triển dẫn đến sự biến đổi phương thức mưu sinh

của các gia đình ở thành phố Bảo Lộc.

Về lĩnh vực nông nghiệp, trước đây thành phố Bảo Lộc cơ bản vẫn là

vùng đất thuần nông nghiệp, có những vùng chuyên canh các cây công nghiệp

lâu năm như chè, cà phê, dâu tằm. Tuy nhiên, trong hoạt động sản xuất của lĩnh

vực nông nghiệp chưa có điều kiện để đầu tư trang thiết bị, máy móc công

45

nghiệp hiện đại đưa vào phục vụ sản xuất nên năng suất thấp và chất lượng sản

phẩm kém. Các hộ gia đình hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp đa số là làm

thủ công rất vất vả và tốn nhiều thời gian để có được sản phẩm.

Do điều kiện kinh tế xã hội của đất nước lúc đó còn khó khăn (thời kỳ

thực hiện cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp). Việc sản xuất trong lĩnh vực

nông nghiệp đa phần là thủ công chưa có nhiều máy móc, thiết bị hiện đại để

đưa vào sản xuất nhằm nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm cũng như

tìm đầu ra cho các sản phẩm nông nghiệp chủ lực của địa phương. Đặc biệt là

những vùng kinh tế mới như thành phố Bảo Lộc thì cuộc sống, phương thức

mưu sinh của nhân dân lại càng khó khăn hơn. Các gia đình chủ yếu là khai

thác mang tính tự nhiên, kể cả là trồng các loại cây công nghiệp, vật nuôi có

sao thì thu vậy, việc chăm sóc chỉ qua loa, chỉ theo kinh nghiệm, còn đầu tư và

áp dụng khoa học kỹ thuật, đưa máy móc hiện đại hóa vào những lĩnh vực này

thì rất hạn chế, thậm chí không biết nên ảnh hưởng đến năng suất, chất lượng

sản phẩm. Ngoài những vụ mùa thu hoạch thì người dân đi làm thuê cho các hộ

gia đình khác và đi làm ở một số nhà máy, doanh nghiệp tư nhân, hay trong các

nông trường. Trong lĩnh vực chăn nuôi cũng mang tính chất nhỏ lẻ. Ngoài một

bộ phận gia đình hoạt động trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ, kinh doanh…

có đời sống khá giả, còn lại phần đông nhiều hộ gia đình kể cả người Kinh và

đồng bào dân tộc thiểu số đều phải sống nhờ vào khai thác những sản vật từ

rừng để sinh sống… Nhìn chung, mọi hoạt động sản xuất trong các lĩnh vực

của đời sống ở nhiều gia đình chưa phát triển nên đời sống vật chất và tinh thần

còn nhiều thiếu thốn.

Hiện nay, hoạt động sản xuất của các gia đình ở Bảo Lộc đã có thay đổi

mạnh mẽ. Nhờ có chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước các gia đình có

rất nhiều cơ hội tìm kiếm việc làm, có thu nhập nâng cao chất lượng của cuộc

sống. Cùng với việc triển khai kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội phù hợp với

điều kiện của địa phương như quy hoạch các vùng cây công nghiệp, đưa máy

móc hiện đại, giống cây trồng, vật nuôi năng suất cao, tạo ra sản phẩm chất

lượng có tính cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước để tiêu thụ và xuất

46

khẩu nên đời sống vật chất - tinh thần của đại bộ phận các gia đình không

ngừng được nâng lên. Có nhiều doanh nghiệp trà và cà phê nổi tiếng từ trên

năm mươi năm trước như Đỗ Hữu, Quốc Thái, Ngọc Trang gắn bó với địa

danh B’Lao như một nhãn hiệu cầu chứng… gần đây có thêm Tâm Châu, Trâm

Anh, Thiên Thành… và rất nhiều các doanh nghiệp trà và cà phê khác nữa.

Trong những năm gần đây, cùng với quá trình đổi mới, mở cửa kinh tế,

trên địa bàn thành phố Bảo Lộc đã xuất hiện nhiều doanh nghiệp nước ngoài

đến họ thuê đất, lập nên những trang trại Trà có quy mô khá lớn cùng dây

chuyền sản xuất và chế biến hiện đại như một sự tái khẳng định về vị thế, danh

tiếng của vùng đất sản sinh ra sản phẩm và thương hiệu Trà Blao, Trà Olong

nổi tiếng trong và ngoài nước. Cũng chính vì nhờ các doanh nghiệp nước ngoài

đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp nên đã giải quyết một phần nào đó trong công

ăn, việc làm, tạo thu nhập cho không ít các hộ gia đình ở địa phương.

Đặc biệt là từ khi Tỉnh ủy Lâm Đồng ban hành Nghị quyết số 07-

NQ/TU, ngày 05/8/2011 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Lâm Đồng về phát triển

thành phố Bảo Lộc trở thành trung tâm dịch vụ công nghiệp của tỉnh giai đoạn

2011 - 2015 nhằm phát huy tiềm năng, lợi thế, đẩy mạnh phát triển các ngành

công nghiệp, dịch vụ và nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao… trong những

khu và cụm công nghiệp trên địa bàn của thành phố. Chú trọng phát triển

ngành công nghiệp có lợi thế cạnh tranh cao như: chế biến nông sản, khoáng

sản, gắn khai thác với chế biến, hạn chế vận chuyển nguyên liệu thô ra khỏi

tỉnh, nâng cao hiệu quả đầu tư giá trị thương phẩm; phát triển nông nghiệp

ứng dụng công nghệ cao, lấy công nghệ sinh học làm động lực, phát triển

vùng sản xuất hàng hóa trà, cà phê, dâu tằm, gắn với nâng cao chất lượng,

hiệu quả và tính cạnh tranh của sản phẩm; từng bước hình thành vùng chuyên

canh về nấm, rau, hoa và cây ăn quả, tạo giá trị mới, chất lượng cao trong cơ

cấu sản xuất nông nghiệp. Phấn đấu đến cuối năm 2015, giá trị sản xuất bình

quân trên một hét ta đất canh đạt trên 110 triệu đồng. Có thể nói, Nghị quyết

này đã tác động tích cực tới những hộ chuyên canh cây trà, cà phê, dâu tằm và

một số hộ gia đình làm nấm, rau, hoa và cây ăn trái. Vì vậy, các hộ gia đình

47

hoạt động trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp đã có đời sống ổn định về kinh

tế. Một bộ phận nhỏ gia đình sống trong những làng nghề của một số tỉnh

miền Bắc nên có điều kiện để phát triển ngành nghề thủ công, mỹ nghệ, đặc

biệt là đồ gỗ. Ở vùng nông thôn, nhiều gia đình vẫn còn lưu giữ nhiều loại

hình văn hóa truyền thống bao hàm nội dung văn hóa sâu sắc mà cho đến nay

những nề nếp đó vẫn được các gia đình gìn giữ như những bộ tủ thờ cổ, tranh

thờ, bộ ván ngựa, bộ trường kỷ với điêu khắc các họa tiết truyền thống…,

nghề tranh thêu tay với tranh XQ của Đà Lạt, trong đó thành phố Bảo Lộc

cũng là một trong những cơ sở chính của Tranh thêu XQ, cho tới nay vẫn còn

được nhiều hộ gia đình ở phường I, phường II, xã Đại Lào và xã ĐamBri duy

trì. Đây cũng là một trong những nét đẹp văn hóa truyền thống của làng nghề

Việt Nam mà cho tới nay vẫn được một số hộ gia đình trong địa bàn giữ gìn

và phát triển. Nhờ có chính sách kinh tế mở của Nhà nước nên đời sống nhân

dân ngày càng được nâng lên sẽ dẫn đến nhu cầu tiêu dùng các sản phẩm vật

chất của gia đình tăng lên. Thể hiện rõ nhất là về nhu cầu về ăn uống, sinh

hoạt, xây dựng, kiến thiết nhà cửa và mua sắm các phương tiện nhằm phục vụ

cuộc sống thường ngày của các gia đình.

Nhìn chung, đa số các gia đình đều có điều kiện để mở mang sản xuất,

phát triển kinh tế. Một số hộ gia đình buôn bán chuyên nghiệp, có quầy nhỏ

để bán hàng, một số hộ gia đình nông dân chạy chợ “đòn gánh đè vai” lấy

công làm lãi thường xuất hiện vào dịp nông nhàn. Và điều đặc biệt là ở thành

phố Bảo Lộc, do đặc trưng của một thành phố thuộc miền núi phía Nam (Tây

Nguyên) nên không giống như nhiều thành phố ở Việt Nam, vừa có thành thị

vừa có nông thôn, với 22.621 hộ gia đình sống ở thành thị và 13.692 hộ ở

nông dân. Như vậy, số hộ gia đình ở nông thôn chiếm gần 40%, nhưng số hộ

gia đình tham gia hoạt động sản xuất trong lĩnh vực nông nghiệp có khoảng

75 đến 80% [48]. Vì vậy, sự kết hợp giữa nông thôn và thành thị cũng là một

đặc điểm kinh tế xã hội của nông dân truyền thống ở đồng bằng sông Hồng và

các tỉnh ven biển miền Trung và một số tỉnh duyên hải Nam Trung bộ. Ngay

cả trong những vùng làng nghề, buôn bán, hay một bộ phận gia đình làm dịch

48

vụ, kinh doanh, thậm chí là cán bộ công chức nhà nước cũng tham gia làm

kinh tế nông nghiệp, chăn nuôi và trồng trọt. Họ có điều kiện kinh tế, thuê

những hộ chuyên làm nông nghiệp chăm nom nương rẫy cho mình mà không

bỏ rẫy. Đối với những hộ làm chuyên về lĩnh vực nông nghiệp, nhờ tiếp cận

được khoa học kỹ thuật trong lĩnh vực nông nghiệp, cũng trên một diện tích

đất, trồng nhiều thứ cây có sản lượng năng suất cao và đem lại giá trị kinh tế

như chè, cà phê, dâu tằm và cây ăn trái, kèm theo đó là chăn nuôi, trang trại

để ổn định trong cuộc sống và tăng thêm thu nhập chứ không theo tập quán cũ

“Trồng cây nào, rào cây đó”. Theo báo cáo của Ủy ban nhân dân thành phố,

chỉ tính riêng trong năm 2013, giá trị sản xuất ngành công nghiệp, nông

nghiệp, dịch vụ thương mại tiếp tục phát triển và chiếm tỷ trọng lớn trong cơ

cấu kinh tế, chiếm 39% trong cơ cấu GDP và thương mại - dịch vụ chiếm

45% trong cơ cấu GDP, ngành nông nghiệp chiếm 16% trong cơ cấu GDP.

Chỉ tính từ năm 2008 thì giá trị sản xuất nông nghiệp đạt 452,2 tỷ đồng (bao

gồm giá trị sản lượng của chè búp, cà phê, dâu tằm, chăn nuôi… thì đến năm

2013, giá trị sản xuất nông nghiệp đạt 586,5 tỷ đồng tăng gần 30 % so với

năm 2008 [76]. Nhiều gia đình hoạt động cả trong lĩnh vực nông nghiệp, công

nghiệp, sản xuất kinh doanh rất thành công, làm ăn có lãi, họ có điều kiện vốn

để đầu tư thêm vào các lĩnh vực khác. Đối với tầng lớp cán bộ, công nhân,

viên chức thì nhiều hộ gia đình họ cũng đầu tư vào một vài lĩnh vực, ngành

nghề mà họ có khả năng để kiếm thêm thu nhập như: dạy học thêm, kinh

doanh, mở mang các thương hiệu mua bán nhỏ, làm rãy, phát triển trang trại

chăn nuôi và trồng các cây công nghiệp… để có thu nhập, nâng cao chất

lượng cuộc sống. Kinh tế thị trường và quá trình đô thị hóa đã làm cho các hộ

gia đình trên địa bàn thành phố Bảo Lộc có phần năng động hơn nhiều trong

các hoạt động sản xuất kinh doanh.

Riêng đối với người dân tộc thiểu số KơHo và Châu Mạ trước kia chủ

yếu là khai thác đất và rừng để trồng trọt, chăn nuôi rất thô sơ. Kinh tế chủ

yếu là tự cung tự cấp. Ở Bảo Lộc là vùng cao nguyên nên khí hậu cũng phân

biệt thành 2 mùa rõ rệt (mùa khô và mùa mưa). Mùa mưa thì các gia đình tổ

49

chức phát rẫy làm nương, các công cụ để lao động thường ngày chủ yếu là xà

bách, rìu, sà gạc, (miền Bắc gọi là cái cuốc và cái dao có chuôi dài để phát

cây), gùi để đựng lương thực thực phẩm trong đời sống lao động hàng ngày.

Đa số các gia đình sử dụng những công cụ thô sơ cho hoạt động sản xuất

nông nghiệp. Với tập quán tra tỉa chỉ dùng cây gậy để trọt lỗ rồi thả hạt và

không cần chăm bón tới ngày thu hoạch, khi mà đất ở đó hết màu hết chất

dinh dưỡng lại di chuyển tới những khu rừng mới để phát rừng làm rẫy. Họ

chăn nuôi cũng rất đơn giản. Vật nuôi chủ yếu là trâu, heo, dê, gà… Riêng

con trâu được nuôi nhiều và không chỉ mang lại giá trị kinh tế mà còn có giá

trị thiêng liêng trong việc cúng bái thần linh, trong đổi chác các vật dụng

chiêng, ché, vải, khố. Hiện nay, phương thức mưu sinh của Người KơHo và

Châu Mạ đã có nhiều thay đổi, do ít nhiều ảnh hưởng của người Kinh về cách

thức sản xuất trong lĩnh vực nông nghiệp. Họ học tập lối canh tác, chăm sóc

cây trồng, vật nuôi giống như người Kinh, thậm chí là “bị Kinh hóa” trong

cách thức tổ chức sinh hoạt và sản xuất, nếp nghĩ, lối sống… chẳng hạn như

về làm rẫy, họ cũng canh tác xen canh nhiều loại cây trồng trên một diện tích

đất, ứng dụng khoa học kỹ thuật hiện đại vào để chuyển đổi cơ cấu, cây trồng

vật nuôi năng suất cao để tăng thêm thu nhập. Về chăn nuôi, một số hộ gia

đình có điều kiện cũng đầu tư bài bản như người Kinh, xây dựng trang trại

chăn nuôi, hệ thống hóa các thiết bị phục vụ chăn nuôi với quy mô lớn…

Chính vì thế, đời sống cả vật chất và tinh thần của nhiều gia đình thuộc hai

cộng đồng này đã thay đổi rõ rệt, dẫn đến là trình độ nhận thức được nâng lên.

Ngoài ra, tộc người này vẫn duy trì được làng nghề dệt thổ cẩm như thôn Đạ

Nghịch xã Lộc Châu. Đây cũng là nghề truyền thống khá lâu đời của họ được

truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Người phụ nữ trưởng thành là phải biết

dệt vải là tiêu chuẩn bắt buộc. Để có được những tấm chăn, khố, váy… người

làm trải qua nhiều công đoạn phức tạp, mất nhiều thời gian mới hoàn chỉnh

một sản phẩm với khung dệt đơn giản bằng tre, gỗ. Chẳng hạn, có được hoa

văn sắc màu trên vải đòi hỏi người dệt phải có những kinh nghiệm, tính sáng

tạo và kỹ năng của nghề dệt. Cùng với dệt thổ cẩm, các gia đình còn làm túi

50

xách tay, ví, vòng trang sức bằng thổ cẩm với nét hoa văn và nhiều màu sắc

thật bắt mắt với các hoa văn biểu trưng hình quả trám, mặt sàn, chim cu, lá rẻ

quạt, vẩy kỳ đà… thể hiện tính độc đáo, đậm đà bản sắc của tộc người. Chính

những yếu tố này đã đề cao tính sáng tạo, thẩm mỹ trong của các sản phẩm

của họ. Những sản phẩm này cũng đã được rất nhiều du khách trong và

ngoài nước biết tới khi đến với thành phố du lịch Đà Lạt và Bảo Lộc.

2.2.3. Hoạt động tiêu dùng sản phẩm vật chất của các gia đình

Trong công cuộc đổi mới đất nước, đời sống nhân dân của các vùng

miền trong cả nước nói chung và nhân dân Bảo Lộc nói riêng ngày càng được

nâng cao, trong đó đáng chú ý là hoạt động tiêu dùng các sản phẩm vật chất của

các gia đình trên địa bàn thành phố.

Trước đây, đa số các hộ gia đình chi tiêu cho đời sống thường ngày vẫn

phải thực hiện trao đổi hàng hóa, vật phẩm để bán và mua lương thực thực

phẩm, gạo và đồ ăn, thức uống… Chỉ có một số ít người bản địa có trồng lúa

nước ở những vùng thấp thì mới tự cung tự tự cấp về lương thực thực phẩm,

nhưng các mặt hàng thiết yếu họ phải ra chợ, đến những cửa hàng, hợp tác xã

mua bán để tiêu dùng. Đồ đạc sử dụng cho đời sống sinh hoạt rất đơn giản, được

làm bằng tre nứa, gỗ… vì đặc điểm của Bảo Lộc - Lâm Đồng trước đó vẫn là

vùng đất chưa được khai thác nên rất hạn chế trong việc tiêu dùng, mua sắm các

đồ đạc, tiện nghi. Chỉ có một bộ phận gia đình đã lập nghiệp ở đó từ lâu, gia đình

là cán bộ công chức nhà nước, gia đình kinh doanh, buôn bán nhỏ lẻ mới có đời

sống khá giả, có điều kiện để mua sắm, tiêu dùng các sản phẩm vật chất.

Có thể nói, mức sống của các gia đình trước kia rất thấp, nhiều gia đình

trung lưu thời đó chỉ mong có được ngày 3 bữa cơm là một niềm hạnh phúc, còn

đồ ăn thì rất đơn giản cá khô là chủ đạo. Đồ dùng tiện nghi trong gia đình, nếu

nhà nào có điều kiện thì cũng chỉ có ti vi, đài rađiô, xe máy Trung Quốc loại

bình thường. Còn tủ lạnh, ti vi màu, bàn ghế, gường tủ, bếp điện, điều hòa nhiệt

độ… thì rất hiếm.

Hiện nay, nhờ công cuộc đổi mới đất nước cùng với quá trình CNH, HĐH

đất nước, sự giao lưu, hợp tác kinh tế của đất nước và quá trình hội nhập quốc tế

51

đã làm cho mức sống của các tầng lớp nhân dân được nâng lên. Các gia đình ở

Bảo Lộc không phải bận tâm nhiều với các bữa ăn hàng ngày, thay vào đó là chất

lượng của đời sống vật chất được cải thiện, thể hiện ngay trong các bữa ăn, sinh

hoạt thường ngày. Bữa ăn ngoài việc cung cấp giá trị dinh dưỡng, duy trì sức khỏe

cho các thành viên trong gia đình mà còn đòi hỏi là phải ngon, thậm chí là phải có

thẩm mỹ trong vấn đề ẩm thực bằng cách trưng bày món ăn, kèm theo thức uống

và hoa quả tráng miệng… Nhiều gia đình cuối tuần thường đến các nhà hàng dùng

bữa, sinh hoạt vui chơi giải trí ngày càng đòi hỏi cao.

Đồ đạc, tiện nghi trong gia đình bây giờ cũng đã khác xưa rất nhiều, do

thu nhập của người dân ngày một nâng cao, các gia đình có điều kiện để sắm sửa

nhà cửa, mua sắm tiêu dùng ngày một lớn.

159

113

85

54

200 150 100 50 0

Ăn uống Xây dựng nhà cửa

Phương tiện đi lại

Sinh hoạt văn hóa

a

b

c

d

Biểu đồ 2.3: Khảo sát mức chi phí của gia đình cho các nhu cầu

Nguồn: Kết quả điều tra của tác giả tháng 12/2013 [Phụ lục 1]

Qua đó cho thấy, phần lớn các gia đình sử dụng chi tiêu vào việc ăn

uống, xây dựng, kiến thiết nhà cửa nhiều hơn so với việc mua sắm phương

tiện đi lại và sinh hoạt văn hóa.

Ở trong các thôn, buôn của đồng bào dân tộc thiểu số, ngoài việc thu

hoạch các phẩm vật trong nông nghiệp như chè, cà phê và một số cây ăn trái,

rau quả thì họ chủ yếu vẫn dựa vào rừng để sống, họ lấy tre, nứa, mây, song

để đan gùi, rổ, rá…những vật dụng cần thiết cho cuộc sống. Sau đó đem sản

phẩm của mình làm được ra chợ bán để lấy tiền mua lương thực, thực phẩm.

52

Do địa bàn cư trú tập quán sống trên rừng, bên sông, ven suối nên thức ăn phổ

biến là cá, thi thoảng có thêm thịt thú rừng săn bắt được.

Bên cạnh đó thì một số gia đình đồng bào thiểu số cả KơHo và Châu

mạ đều làm ché rượu cần, một thức uống khá phổ biến ở trong các gia đình

của hai tộc người này. Họ sử dụng rượu cần để uống vào những dịp lễ, tết,

cúng tế các thần hòa với tiếng cồng chiêng rộn rã cả buôn làng …và một

phần họ cũng đem bán để tiêu dùng vào những vật phẩm khác phục vụ cho

cuộc sống của họ. Trong trang phục thường ngày, chỉ có người lớn tuổi và

người già mới mặc váy đóng khố, còn giới trẻ đa số họ cũng mặc quần

jean, áo thun, sơ mi giống người Kinh, và ẩm thực hàng ngày cũng vậy,

nhiều gia đình họ có điều kiện cũng thích ăn và chế biến những món ăn dân

dã của người Kinh…

Cùng với việc thực hiện chức năng sản xuất vật chất, chức năng tiêu

dùng của gia đình ngày càng gia tăng. Có một thực tế cho thấy, nhu cầu tiêu

dùng của các gia đình ở cả khu vực nông thôn và thành thị cho cuộc sống sinh

hoạt hàng ngày đều là ra chợ, hoặc siêu thị buôn bán trao đổi các phẩm vật

thiết yếu cho cuộc sống không phải tự cung tự cấp như trước kia. Nhu cầu con

người không chỉ dừng lại ở việc sinh hoạt mà đa dạng hơn được vui chơi giải

trí, xã hội càng phát triển nhu cầu cuộc sống vật chất của gia đình ngày càng

cao. Việc tiếp cận các dịch vụ cơ bản cũng được chú trọng như dịch vụ y tế,

chăm sóc sức khỏe người dân, chăm sóc sức khỏe sinh sản, kế hoạch hóa gia

đình. Theo số liệu thống kê, hiện nay các hộ gia đình trên địa bàn thành phố

Bảo Lộc, đa số đều có ti vi, điện thoại, mạng internet đã được dùng phổ biến

ở nhiều xã, phường, kể cả đồng bào dân tộc thiểu số….( số liệu thống kê của

thành phố cho thấy, hiện nay có đến 96% hộ gia đình có phương tiện nghe,

nhìn ti vi) và hệ thống điện thoại bàn và di động có đến hơn 70% hộ gia đình

ở Bảo Lộc sử dụng [47].

Con số trên đã cho thấy, đời sống vật chất của các hộ gia đình trên địa

bàn thành phố đã được nâng lên, rút ngắn khoảng cách giàu nghèo giữa nông

thôn và thành thị.

53

Do chính sách đổi mới về kinh tế của đất nước nên đã có rất nhiều các

thành phần kinh tế ở trên địa bàn, kinh tế tư nhân, tập thể (hợp tác xã), doanh

nghiệp, có kinh tế ngoài quốc doanh. Chính sự đa dạng các thành phần kinh tế

trên địa bàn thành phố đã làm cho đời sống kinh tế vật chất của các gia đình

phát triển, có cơ hội học hỏi, ứng dụng khoa học công nghệ cao trong lĩnh

vực nông nghiệp, có nhiều cơ hội tìm kiếm việc làm, mở mang thêm hoạt

động kinh doanh, sản xuất. Đặc biệt là đa phần họ đều có nhiều thay đổi về tư

duy. Các gia đình biết chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi theo hướng tăng

năng suất, chất lượng của sản phẩm để đáp ứng nhu cầu của thị trường trong

nước và quốc tế, đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế thị trường. Phần lớn nhà ở

của các hộ gia đình cơ bản là ổn định và kiên cố, cho dù một bộ phận các gia

đình không quá chú trọng tới sự hoành tráng về hình thức bên ngoài của căn

nhà. Nhưng vào trong nhà thì đa số các đồ dùng, tiện nghi như: ti vi, tủ lạnh,

máy giặt, xe máy, thậm chí nhiều hộ gia đình đã có xe hơi, hệ thống nước

nóng lạnh bằng năng lượng mặt trời khá phổ biến đáp ứng cho những nhu cầu

sinh hoạt thiết thực hàng ngày khá phổ biến.

Bên cạnh đó, vẫn còn một bộ phận không nhỏ các hộ gia đình, nhất là ở

vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số vẫn còn quá khó khăn về

kinh tế nên mọi sinh hoạt trong cuộc sống còn nhiều thiếu thốn. Một phần do

yếu tố khách quan và cũng một phần do yếu tố chủ quan đưa lại nên các gia

đình này còn chật vật kiếm kế sinh nhai trong cuộc sống.

Về yếu tố khách quan, do gia đình đông con và có hoàn cảnh khó khăn

thường xuyên ốm, đau bệnh tật mà họ lại là lao động chính trong gia đình,

mặc dù vẫn được sự giúp đỡ của các tổ chức xã hội nhưng kinh tế khó khăn

vẫn là điều không tránh khỏi.

Riêng các hộ gia đình vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn có tư tưởng

trông chờ, ỷ lại vào nhà nước nên việc phát triển kinh tế ở những vùng đặc thù

này còn khó khăn. Trong gia đình của họ, nhiều hộ còn chưa có một trong các

phương tiện vật chất phục vụ cho sinh hoạt hàng ngày như xe máy, ti vi, đài

phát thanh, điện thoại… mặc dù có những nơi sống xen kẽ với người Kinh

54

nhưng họ vẫn tiếp thu về cách thức làm ăn cũng như những phương tiện sinh

hoạt hàng ngày rất hạn chế.

2.3. THỰC TRẠNG VĂN HÓA TINH THẦN VÀ TIÊU DÙNG CÁC SẢN

PHẨM TINH THẦN CỦA CÁC GIA ĐÌNH Ở THÀNH PHỐ BẢO LỘC

2.3.1. Giá trị đạo đức trong gia đình: thông qua các mối quan hệ

gia đình (vợ chồng, bố mẹ - con cái...)

Giá trị đạo đức là nhóm giá trị văn hóa thuộc về bản chất trong gia đình đã

được thể hiện sâu sắc, tinh tế trong gia đình truyền thống được biểu hiện qua các

quan hệ giữa vợ và chồng, cha mẹ và con cái và các mối quan hệ khác.

Trước hết là quan hệ vợ chồng trong gia đình ở thành phố Bảo Lộc.

Quan hệ vợ chồng là mối quan hệ nền tảng cho sự ổn định và phát triển

đời sống gia đình ở thành phố Bảo Lộc. Việc giữ thế cân bằng và hòa hợp

giữa các vai trong gia đình, giữa chức năng gia đình và chức năng xã hội của

hai vợ chồng thể hiện trong mối quan hệ tương tác giữa họ với nhau. Đây là

điều kiện quan trọng nhất cho sự bền vững của hạnh phúc gia đình. Ở thành

phố Bảo Lộc, trong gia đình truyền thống người chồng là chủ gia đình. Khi đã

lấy chồng, người phụ nữ trước tiên là phải phục vụ chồng, phải đảm đang

gánh vác, quán xuyến công việc nhà chồng. Đặc biệt là phải biết cách cư xử

trong các mối quan hệ gia đình, anh em, dòng tộc và cộng đồng khu dân cư.

Trong gia đình truyền thống, tình nghĩa là phẩm chất và cũng là yêu cầu đạo

đức nổi bật giữa vợ và chồng. Từ những đúc kết thực tiễn của cuộc sống mà

ca dao có câu:

“Vợ chồng là nghĩa tao khang

Xuống khe bắt ốc lên ngàn hái rau”.

Tình nghĩa đòi hỏi và biểu hiện ở sự thủy chung, hòa thuận: “Thuận vợ

thuận chồng tát biển Đông cũng cạn”. Tình nghĩa vợ chồng nẩy sinh từ cuộc

sống, từ sự chung sức làm ăn, chung lưng, đấu cật cùng gánh trách nhiệm xây

dựng gia đình. Tình nghĩa ấy đòi hỏi phải trân trọng bằng tình yêu thủy chung,

bằng sự tôn trọng lẫn nhau, phải sống vì cái nghĩa, vì gia đình dòng họ của nhau.

Hiện nay, cùng với sự biến đổi của cuộc sống thì trong quan hệ hôn

nhân và gia đình, tình nghĩa vợ chồng cũng có sự thay đổi. Đạo vợ chồng vẫn

55

được đề cao nhưng tính chất bình đẳng cùng quan tâm tới nhau, cùng chia sẻ

công việc cho nhau, chăm sóc và nuôi dạy con cái, cùng nhau bàn bạc, thảo

luận trong việc phát triển kinh tế. Đặc biệt, trong việc hôn nhân của con cái

thì các gia đình ở thành phố Bảo Lộc, đa số do con cái tự tìm hiểu nhau và

quyết định đi tới hôn nhân chứ không bị chi phối hay sự áp đạt của cha mẹ

như trước đây. Quan hệ vợ chồng được xây dựng trên cơ sở tự nguyện, bình

đẳng và tôn trọng lẫn nhau.

Yêu nhau

18, 9%

30, 15%

Gia đình, bạn bè tác thành

152, 76%

Tìm chỗ dựa về kinh tế

Biểu đồ 2.4: Khảo sát về hôn nhân trong gia đình

Nguồn: Kết quả điều tra của tác giả tháng 12/2013 [Phụ lục 1]

Như vậy, kết quả cho thấy, có 200 gia đình được hỏi, có 152 người họ

lựa chọn yếu tố yêu nhau. Đa số cuộc hôn nhân của họ xuất phát từ tình yêu

chứ không phải vì động cơ kém lành mạnh nào đó. Họ có sự tìm hiểu, chủ

động lựa chọn người bạn đời cho mình và họ rất hài lòng về cuộc hôn nhân

của họ. Có 85% số gia đình được hỏi về sự quan tâm chia sẻ công việc

trong gia đình đều do cả nam và nữ đảm nhiệm, kể cả việc nội trợ thì giờ

đây không chỉ là công việc của phụ nữ mà đàn ông cũng tham gia. Vợ

chồng đều bàn bạc thảo luận quyết định trong việc tổ chức đời sống sinh

hoạt của gia đình mình như làm nhà cửa, mua sắm các đồ dùng tiện nghi

cho sinh hoạt thường ngày… Hiện nay, theo xu hướng phát triển của xã hội

hiện đại, nhiều nét văn hóa mới được hình thành và phát triển trong các gia

56

đình, đặc biệt là gia đình ở khu vực thành phố. Các gia đình vẫn thường

xuyên tổ chức sinh nhật cho các thành viên trong gia đình và tổ chức kỷ

niệm ngày cưới, bữa cơm thân mật mời anh em họ hàng và bạn bè thân

thiết đến chia vui…, họ biết quan tâm, chia sẻ, cùng gánh vác trách nhiệm

chung trong gia đình và công tác xã hội.

Tuy nhiên, bên cạnh những thay đổi đó thì quan hệ hôn nhân vợ chồng

trong các gia đình ở thành phố Bảo Lộc cũng có những vấn đề đáng phải quan

tâm. Trước hết là vấn đề đăng ký kết hôn. Một bộ phận các cặp vợ chồng

chưa đăng ký kết hôn thậm chí là không cần đăng ký kết hôn, có thái độ chấp

nhận đối với việc chung sống không đăng ký kết hôn. Đặc biệt ở một số xã,

phường và vùng ĐBDTTS còn có tình trạng tảo hôn. Một số người kết hôn

quá sớm trong điều kiện thiếu hiểu biết về cuộc sống vợ chồng được coi là

một trong các yếu tố tác động tiêu cực đến việc duy trì quan hệ vợ chồng chất

lượng và bền vững. Theo số liệu báo cáo của Tòa án nhân dân thành phố Bảo

Lộc, trong vòng 5 năm trở lại đây tính từ năm 2009 đến 2013 có 1.098 vụ ly

hôn, trong đó phụ nữ đứng đơn chiếm tỷ lệ 60% và cũng là đối tượng xin ly

hôn nhiều. Tình trạng trên là do mâu thuẫn, không hợp tính tình, lối sống, văn

hóa, làm ăn kinh tế, ngoại tình, đánh đập ngược đãi [66]. Trên địa bàn thành

phố, xuất hiện nhiều trường hợp gia đình vợ chồng đã ly dị nhau nhưng bổn

phận nuôi và chăm sóc con cái thì không đến nơi đến chốn, dẫn đến tình trạng

trẻ vị thành niên chán đời lang thang, bụi đời, vi phạm pháp luật là điều không

trách khỏi, quan hệ tình dục trước hôn nhân; tỷ lệ nạo thai ở nhóm tuổi vị

thành niên ngày càng gia tăng. Cá biệt, có những trường hợp vì những lý do

kinh doanh, buôn bán thua lỗ, để không ảnh hưởng tới nhau, vợ chồng ra tòa

ly hôn, nhưng thực tế thì họ không phải ly hôn (tình ngay, ý gian) để ai làm

người đó chịu không bị ràng buộc bởi pháp lý, danh dự cũng như vi phạm

pháp luật…

Điều này chứng tỏ nhận thức về hôn nhân và đời sống gia đình chưa

thực sự đúng với ý nghĩa nhân văn của nó. Nguyên nhân của tình trạng này có

thể xuất phát từ sự thiếu hiểu biết những kiến thức về hôn nhân và gia đình,

57

cùng với đó là những bất hòa về ứng xử kèm theo đó lại khó khăn về kinh tế

là những nguyên nhân chủ yếu khiến cho các cặp vợ chồng không hài lòng về

cuộc hôn nhân của mình. Chính điều này dẫn tới xung đột và bạo lực trong

gia đình, gắn với các mẫu thuẫn dẫn đến ly hôn.

Thứ hai, mối quan hệ giữa bố mẹ - con cái

Mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái là mối quan hệ tình cảm yêu

thương, chăm sóc như một lẽ tự nhiên. Xã hội truyền thống ghi nhận mẫu hình gia

đình nền nếp, gia phong. Với người cha là hiện thân của tính cứng rắn, nguyên tắc,

là người định hướng cho sự trưởng thành của con cái thì người mẹ mang nhiệm vụ

giáo dục con cái tính dịu dàng, tế nhị, khoan dung, độ lượng, tình thương, trách

nhiệm. Điều này đã được thể hiện trong Luật Hôn nhân và gia đình:

Cha mẹ có nghĩa vụ và quyền thương yêu, trông nom, nuôi dưỡng,

chăm sóc, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của con; tôn trọng ý kiến của

con; chăm lo việc học tập và giáo dục để con phát triển lành mạnh về

thể chất, trí tuệ và đạo đức, trở thành người con hiếu thảo của gia đình,

công dân có ích cho xã hội” và “ Con có bổn phận yêu quý, kính trọng,

biết ơn, hiếu thảo với cha mẹ, lắng nghe những lời khuyên bảo đúng

đắn của cha mẹ, giữ gìn danh dự, truyền thống tốt đẹp của gia đình.

Con có nghĩa vụ và quyền chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ. Nghiêm cấm

con có hành vi ngược đãi, hành hạ, xúc phạm cha mẹ” [49].

Ðối với văn hóa truyền thống của dân tộc, vấn đề tình cảm trong gia đình

được đặt lên hàng đầu. Mối quan hệ trong gia đình luôn được xem trọng. Bởi

vậy, sẽ khó chấp nhận cho con cái sống thiếu tình cảm, thiếu lễ, thiếu nghĩa,

thiếu hiếu, và thiếu kính. Nhiều khi điều này trở thành gánh nặng và áp lực rất

lớn cho con trẻ, và có thể làm cho các em dần dần xa cách với gia đình và

người thân.

Ngày nay, dưới sức ép của quá trình đô thị hóa mà vai trò của bậc cha

mẹ trong các gia đình ở thành phố Bảo Lộc đối với con cái ít nhiều bị ảnh

hưởng do quỹ thời gian rành cho con cái ít. Ngoài ra, cũng không có ít con cái

có xu hướng tách khỏi sự kiểm soát của cha mẹ dù vẫn đang trong tuổi đi học

hoặc chưa trưởng thành.

58

Trong mối quan hệ bố mẹ - con cái, trước kia, việc con cái đến tuổi

trưởng thành thì bố mẹ đều định hướng, thậm chí là ép cho con cái phải theo

nếp nghĩ của mình trong sự lựa chọn công việc và hôn nhân… Con cái phải

tuyệt đối phục tùng cha mẹ, không có ý kiến riêng, không được quyền tham

dự vào những công việc của gia đình, kể cả những công việc có liên quan đến

bản thân. Nhưng hiện nay, quan niệm này hoàn toàn đã thay đổi, con cái đến

tuổi trưởng thành có thể tham khảo ý kiến của bố mẹ về những vấn đề quan

trọng liên quan đến cuộc sống của cá nhân thì hoàn toàn do con cái tự quyết

định, cha mẹ sẽ tạo điều kiện một cách tối ưu nhất để con cái thành đạt và cha

mẹ còn là những người bạn sẵn sàng chia sẻ những tâm tư, tình cảm đối với

con cái, điều này phổ biến ở các gia đình tri thức, cán bộ, công nhân, viên

chức và một số bộ phận gia đình nông dân. Đây cũng là một trong những nét

đẹp văn hóa gia đình ở thành phố Bảo Lộc. Nhưng vẫn có những trường hợp

gia đình bố mẹ quá nuông chiều con cái, sẵn sàng đáp ứng những nhu cầu

không cần thiết để con cái thả sức đòi hỏi cho tới khi không đáp ứng được

nhu cầu thì trở thành người con bất hiếu. Đã có không ít gia đình, cha mẹ lo

mải làm ăn kinh tế nên ít có thời gian gần gũi, quan tâm đến con cái. Do ảnh

hưởng của một số loại hình giải trí trên internet, game bạo lực, sách báo,

phim ảnh có nội dung không lành mạnh… Đây cũng chính là nguyên nhân

của những tệ nạn xã hội ở trẻ vị thành niên gia tăng. Thực tế đã xảy ra nhiều

trường hợp trở thành nỗi đau, nỗi ám ảnh của gia đình, cộng đồng khi tình

trạng đạo đức của con cái đối với bố mẹ xuống cấp trầm trọng. Chẳng hạn, vụ

con giết mẹ (Phường 2); vợ giết chồng (Phường 1), con cái ngược đãi với bố

mẹ (Xã Đambri) … Tình trạng bạo lực gia đình còn xảy ra ở hầu hết tất cả các

phường, xã. Chỉ tính riêng trong năm 2013 đã có tới 75 hộ gia đình trên địa

bàn thành phố có yếu tố của bạo lực gia đình [48]. Ngoài ra, còn nhiều trường

hợp các nạn nhân che dấu, không có sự can thiệp của đoàn thể và chính quyền

địa phương.

Sự thiếu trách nhiệm gương mẫu trong quan hệ vợ chồng, giữa cha mẹ

và con cái, giữa anh chị em trong một gia đình, tình trạng cô đơn và thiếu

thốn tình cảm của những người già, những người có hoàn cảnh khó khăn, trẻ

59

em bỏ rơi thiếu điều kiện chăm sóc và bảo vệ tăng lên. Tình trạng bất hiếu

ngược đãi của con cái đối với cha mẹ cũng là điều báo động trong những năm

gần đây của một số gia đình trên địa bàn thành phố Bảo Lộc. Lối sống tự do,

cá nhân, vị kỷ đang đặt ra thách thức mới trong quan hệ giữa các thành viên

trong gia đình, khiến cho sự gắn bó giữa các thành viên trong gia đình trở nên

lỏng lẻo hơn. Trong quan niệm sống của họ đề cao giá trị vật chất, coi nhẹ giá

trị tinh thần, chỉ thấy lợi trước mắt, không thấy cái lợi lâu dài dẫn tới hiện

tượng trong mỗi gia đình, tập thể, xóm làng xuất hiện sự xung đột tâm lý mà

nguyên nhân chủ yếu vẫn là lợi ích cá nhân. Đáng quan tâm hơn là trách

nhiệm của người cao tuổi trong một bộ phận không nhỏ các gia đình rất mờ

nhạt. Khi hỏi chuyện, cụ Hồ Tấn Thế - một cụ cao tuổi ở thành phố cho biết:

Vai trò của người cao tuổi trong một bộ phận không nhỏ các gia

đình rất mờ nhạt, nhất là ở khu vực thành phố vì họ không làm ra

tiền, không có lương hưu, phải phụ thuộc vào con cái nhiều nên họ

không có tiếng nói, ảnh hưởng rất ít. Còn những cụ có lương hưu thì

dù sao ít nhiều nói con cái vẫn phải nghe và làm theo [Phụ lục 2].

Điều đó cho thấy phần nào lối sống văn hóa gia đình truyền thống tốt

đẹp bị lấn áp bởi những quan hệ hàng hóa, thị trường, lợi nhuận, bởi những

lối sống lai căng, kệch cỡm, xa lạ và thiếu văn hóa…

Vì vậy, việc xây dựng gia đình “No ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc”

là yêu cầu cần thiết và khách quan trong quá trình CNH, HĐH đất nước, địa

phương. Ngăn chặn có hiệu quả tình trạng bất bình đẳng giới trong gia đình,

xã hội, đấu tranh xóa bỏ tập tục lạc hậu, thực hiện tốt công tác dân số, gia

đình và trẻ em, hạn chế tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên. Hội Phụ nữ thành phố

cũng đã tăng cường phối hợp với các cơ quan liên quan, triển khai chiến dịch

tuyên truyền, vận động lồng ghép dịch vụ SKSS/KHHGÐ đến vùng đông dân,

vùng có mức sinh cao và vùng khó khăn. tổ chức tuyên truyền phòng chống

suy dinh dưỡng cho bà mẹ mang thai và nuôi con nhỏ với 20.477 lượt chị;

thực hành bữa ăn dinh dưỡng 110 buổi có 3.460 chị. Ngoài ra,việc phối hợp thực

hiện NQ Liên tịch số 01 giữa Công an và Phụ nữ về việc quản lý, giáo dục con

60

em trong gia đình không phạm tội và tệ nạn xã hội cũng được chị em trong các

gia đình tích cực tham gia với các ngành chức năng quản lý 96 đối tượng nghiện

ma túy, cảm hóa 45 đối tượng thanh niên hư hỏng có tiến bộ, giáo dục 44 thanh

niên quậy phá; 3 thanh niên vi phạm tệ nạn xã hội, vận động 29 đối tượng tự cai

nghiện, theo dõi giúp đỡ 2 gái mại dâm hoàn lương [31].

2.3.2. Giá trị tâm linh trong gia đình

Các gia đình trên địa bàn thành phố Bảo Lộc trọng tự do tín ngưỡng và

không tín ngưỡng. Người thiểu số trước đây phần lớn thờ cúng Yàng, thần

linh. Đồng bào theo các tôn giáo: Phật giáo, Thiên chúa giáo, Tin Lành, một

số ít theo đạo Cao Đài, còn lại, số gia đình phần đông thờ ông bà, tổ tiên.

Giá trị tâm linh trong gia đình cũng là giá trị văn hóa, bao gồm những

yếu tố truyền thống tốt đẹp: thờ cúng tổ tiên, chăm sóc mồ mả ông bà, cha mẹ và

những người trong gia đình thuộc thế hệ trước đã mất. Đây cũng là lĩnh vực

được quan tâm hơn cả trong các dạng sinh hoạt văn hóa tinh thần của gia đình. Ở

địa bàn thành phố Bảo Lộc, hầu hết các gia đình xây nhà theo kiểu nào, cũng vẫn

giữ nét bố trí sắp xếp truyền thống, khoảng trang trọng và chính diện vẫn là bàn

thờ tổ tiên ông bà. Việc thờ cúng tổ tiên là việc thiêng liêng. Điều này cũng thể

hiện nét văn hóa truyền thống đặc sắc của dân tộc Việt Nam. Việc thờ cúng tổ

tiên chính là thể hiện lòng biết ơn sâu sắc của con cháu đối với tổ tiên, những

người đã có công sinh thành dưỡng dục, duy trì, kế tiếp sự tồn tại của dòng tộc

trong cuộc sống. Biết ơn người sinh thành và sống có đạo đức, nuôi dạy con cái

nên người, trở thành người giúp ích cho gia đình, dòng tộc và xã hội là trách

nhiệm của các thế hệ kế tiếp. Trong các gia đình ở thành phố Bảo Lộc, ngoài

những dịp lễ tết, giỗ chạp thì các gia đình cũng thường thắp hương khấn vái tổ

tiên những khi con cháu đỗ đạt trong việc học hành, thi cử, công ăn việc làm ổn

định, khi có tin vui, đầy tháng, đầy năm của con trẻ mới sinh ra hoặc có khi gặp

cơn hoạn nạn... Họ tin rằng tổ tiên linh thiêng phù hộ cho họ có được cuộc sống

khỏe mạnh, an lành, may mắn và thành công trong mọi lĩnh vực của cuộc sống.

Chính vì vậy, trong mỗi gia đình ở thành phố Bảo Lộc đều có bàn thờ tổ tiên

được đặt ở nơi trang trọng nhất trong nhà. Tùy theo điều kiện hoàn cảnh kinh tế

61

mà các gia đình bố trí những đồ thờ thông dụng nhất gồm: lư hương, chỗ để

châm nến, bình đựng hương, bình hoa, hộp trầu, đài rượu…mọi sự bày trí đều

bảo đảm sự trang trọng và nhất mực thành kính đối với tổ tiên. Hàng tháng, các

gia đình thường thắp hương ban thờ vào các ngày đầu tháng, giữa tháng và cuối

tháng với những lễ vật để dâng lên là hoa quả, kẹo bánh nếu trùng sự việc quan

trọng thì thường hay có hoa quả, xôi, rượu, thịt…

Việc thờ phụng tổ tiên là để thể hiện lòng tri ân đối với công ơn của tổ

tiên, ông bà cha mẹ đã khuất. Con cháu bày tỏ lòng thành kính và biết ơn đối

với các thế hệ đã có công sinh thành và nuôi dưỡng con cháu nên người như

ngày nay. Chính việc thờ cúng Tổ tiên đã gắn bó không chỉ các thành viên của

gia đình nhỏ (cha mẹ, con cái) mà còn củng cố mối quan hệ họ hàng, dòng họ,

cùng chung một ông Tổ. Từ đó đã gắn bó thêm các mối quan hệ chú bác, cô

dì, con cháu bên nội, bên ngoại… Những ngày giỗ, ngày tết là những dịp để

tập hợp đầy đủ họ hàng, thân thích gần xa. Họ gặp mặt nhau, trước là để cúng

bái tổ tiên, sau là để chuyện trò, thăm hỏi, chia sẻ vui buồn, khó khăn, tìm

cách giúp đỡ nhau.

Hiện nay, trên địa bàn thành phố Bảo Lộc, các gia đình vẫn có phong

tục hàng năm cứ ngày Tết Nguyên Đán, anh em cùng dòng họ ở xa, lại tập

hợp nhau về quê hương, thắp hương và đi tảo mộ… Con cháu họp mặt nhắc

đến công ơn tổ tiên và từ đó đã nảy sinh nhu cầu tìm hiểu về dòng dõi nhiều

đời đã qua để biên soạn thành gia phả dòng họ. Việc thờ cúng Tổ tiên, ông bà

cha mẹ đã khuất, con cháu không chỉ cảm phục công lao sinh thành, dưỡng

dục của họ và lo báo hiếu. Điều quan trọng là cần làm rạng danh hơn nữa

trong thời đại ngày nay. Chúng ta từ những việc làm hữu ích cho xã hội, cách

ăn ở có nghĩa, có tình với mọi người, làm tốt công việc chuyên môn hàng

ngày, đóng góp cho sự phát triển và củng cố nền độc lập, tự do, thống nhất,

toàn vẹn lãnh thổ của đất nước Việt Nam, góp phần làm rạng rỡ thêm dòng họ

ông cha ta. Như vậy, phong tục thờ cúng tổ tiên là dịp để nhắc nhở con cháu

noi gương những thế hệ đã khuất và làm tốt hơn nữa công việc họ đã làm, như

câu ca dao đã ví rằng: “Con hơn cha là nhà có phúc”.

62

Con hơn cha không phải là có tài sản, tiền bạc giàu có hơn mà ở đạo

đức, nhân cách con người, cư xử nhân nghĩa, làm ăn chính đáng, quan tâm

giúp đỡ anh em họ hàng, người nghèo trong xã hội.

Ý nghĩa tích cực, lâu dài của phong tục thờ cúng tổ tiên chính là chúng

ta cần hướng về tương lai, mà không phải chỉ là quay về quá khứ để luyến

tiếc, ca ngợi công lao ông bà, cha mẹ đã khuất. Điều quan trọng của việc cúng

bái tổ tiên là chúng ta cần suy nghĩ về cuộc sống của bản thân: có tư cách đạo

đức tốt hơn, cố gắng làm tròn trách nhiệm được giao phó. Đây cũng là dịp để

giáo dục con cái biết phát huy và làm rạng rỡ thêm công đức, việc làm tốt đẹp

của tổ tiên, ông cha các thế hệ đã qua. Đó chính là ý nghĩa tốt đẹp, tích cực, lâu

dài của phong tục thờ cúng tổ tiên, một nét đẹp của văn hóa Việt Nam nói chung

và các gia đình ở thành phố Bảo Lộc nói riêng cần phải giữ gìn phát huy.

Thành phố Bảo Lộc cũng là vùng đất của nhiều tộc người và nhiều cư

dân của các tỉnh thành về sinh sống và lập nghiệp tại đây. Chính vì vậy, ngoài

nét văn hóa tâm linh chủ đạo thờ cúng tổ tiên, ông bà, cha mẹ… có nhiều hộ

gia đình thờ Phật, thờ Chúa…Ngoài ra, còn có phong tục thờ cúng thần rừng,

thần núi, thần sông cùng với một số ghi lễ khác của tộc người KơHo và Châu

Mạ. Họ tin rằng, họ cúng vái Yàng, thần linh sẽ phù hộ cho gia đình họ khỏe

mạnh, mùa màng bội thu…

Đặc biệt hơn, trong mâm cỗ cúng tổ tiên nhiều hộ gia đình còn cúng cả

đồ ăn mặn (gồm thịt xôi, rượu chè, hoa quả)…và đồ ăn chay (những món ăn

làm tư nguyên liệu đỗ tương ăn kèm với xì dầu và rau quả). Bởi vì, trong

nhiều hộ gia đình trên địa bàn thành phố Bảo Lộc, họ vừa có bàn thờ Phật và

bàn thờ tổ tiên. Họ cho rằng đạo Phật cũng phù hợp với nét văn hóa truyền

thống của gia đình Việt Nam, trong đó có ghi nhớ công ơn của những người

sinh thành, dưỡng dục. Hơn nữa đạo đức của nhà phật là hỷ xả, từ bi, không

tham sân xi đó cũng là giá trị văn hóa lớn ảnh hưởng tới đạo đức văn hóa gia

đình truyền thống của Việt Nam.

Các gia đình theo đạo Thiên chúa giáo cũng vừa lập bàn thờ Chúa và

bàn thờ tổ tiên. Theo số liệu thống kê trên địa bàn thành phố Bảo Lộc, có tới

63

hơn 50% hộ gia đình theo đạo Thiên chúa giáo, đa số là cư dân của các tỉnh đồng

bằng sông Hồng và một số tỉnh thành khác vào đây từ những thập niên 50. Các

gia đình đồng bào công giáo ở khá tập trung, có từ 85 đến 97% dân số, đan xen

trong thôn, xóm, tổ dân phố cùng sinh hoạt với cộng đồng dân cư ở nơi cư trú.

Thường thì một tuần họ đi lễ hai lần vào tối thứ 6 và ngày thứ 7, nhiều khi cả

vào ngày chủ nhật. Họ đến nhà thờ làm lễ cầu mong bề trên ban ơn cho có được

một cuộc sống thánh thiện và tràn đầy hồng ân của Thiên chúa [46].

Những hộ gia đình nhờ nơi cửa Phật, nhà thờ để cảm thấy sự an tâm

trong đời sống tâm linh của mình. Đây có lẽ cũng là nét văn hóa mà các tôn

giáo ảnh hưởng trong tinh thần con người, có tác dụng khuyến khích con

người làm việc thiện, ngăn chặn cái tiêu cực, phát huy những mặt tích cực của

văn hóa tôn giáo đối với các gia đình. Bản thân điều thiện đã hàm chứa nội dung

văn hóa bên trong tâm hồn con người, tạo cho họ một niềm tin vui vì mình đã

sống đúng với lẽ thường của đạo lý làm người, đạo lý của văn hóa gia đình

truyền thống thể hiện lòng thành kính của gia đình đối với tổ tiên, ông bà, những

thế hệ người đi trước có công sinh thành và gây dựng gia đình, dòng tộc…

Những năm gần đây, cùng với sự phát triển chung của thành phố Bảo

Lộc các gia đình giáo dân đã tích cực tham gia các chương trình kinh tế,

chuyển đổi cơ cấu nền kinh tế, phát triển thương mại, dịch vụ, chuyển đổi

giống cây trồng, vật nuôi, phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao theo

hướng nông nghiệp đô thị nên đời sống tinh thần và vật chất của các gia đình

ngày một nâng cao. Điều này được thể hiện khá rõ nét về những dịp lễ, tết…

Điều quan trọng là các gia đình vẫn giữ được nét văn hóa truyền thống của dân

tộc qua nếp nghĩ, thói quen và sinh hoạt. Chẳng hạn như, ngày tết cũng phải gói

bánh trưng hoặc bánh tét, có dưa hành, giò chả, hoa và dưa hấu thì không thể

thiếu trên ban thờ. Đối với những hộ gia đình theo đạo Thiên chúa giáo, nhà nào

cũng có ban thờ Chúa nơi cao, thịnh soạn có hình hoặc tượng chúa Giêsu hay

đức mẹ Maria; cạnh đó là bàn thờ tổ tiên, có ảnh trưng bày, trên có dòng chữ

“Kính nhớ tổ tiên” in đậm, dán ngay ngắn. Nhưng có điều đặc biệt là các gia

đình công giáo trên địa bàn thành phố Bảo Lộc, việc trọng thị nhất là dịp tết chứ

64

không phải là dịp lễ Giáng sinh (Noel). Bởi tết là dịp con cháu trong gia đình có

thời gian sum họp, gặp lại nhau trao đổi, hỏi han và mừng nhau sức khỏe, chúc

may mắn trong công việc làm ăn, học hành, gia đình đầm ấm, yên vui… và cũng

vào dịp trước tết ít ngày, để tưởng nhớ tới những người có công trong dòng tộc,

tổ tiên được chúa gọi về, họ ra nghĩa địa, vệ sinh, làm đẹp các phần mộ, cầu cho

các linh hồn an nghỉ trong chúa và được chúa che chở, phù hộ và ban cho họ

những điều tốt lành trong năm mới. Có thể nói, dù tín ngưỡng hay không tín

ngưỡng theo một tôn giáo nào thì nét văn hóa chủ đạo truyền thống của dân tộc

vẫn in đậm trong tư tưởng, trong đời sống tâm linh của các gia đình trên địa

bàn thành phố Bảo Lộc.

Người Cơ Ho và Châu Mạ có niềm tin rằng, mọi mặt của đời sống đều

có các thế lực siêu nhiên quyết định. Tín ngưỡng về siêu nhiên trong quan

niệm của hai tộc người này tập trung vào ý niệm đa thần... Thần Mặt Trời,

thần Mặt Trăng, thần Núi, thần Sông, thần Lúa… Người Cơ Ho và Châu Mạ

có tết riêng vào tháng 12 dương lịch, kéo dài từ 7 đến 10 ngày. Ngoài ra còn

có lễ hội mừng lúa mới, lễ cầu mùa, lễ làm nhà, lễ chuyển làng và trong các nghi

lễ thường có đâm trâu để cả làng tổ chức ăn tiệc vui chơi, nhẩy múa trong tiếng

Cồng chiêng và ngọn lửa dập dìu thâu đêm.

Hàng năm người KơHo và Châu Mạ tổ chức ăn tết khi mùa màng đã

thu hoạch xong (theo thời vụ hiện nay), thường vào tháng 12 dương lịch. Đây

cũng là tết đón lúa về nhà. Theo tập quán, các gia đình phải thay phiên nhau

cúng một con trâu mỗi năm để cả làng (Bon) tổ chức lễ đâm trâu. Lễ được tổ

chức ngoài trời, trước nhà có chủ, có lễ vật tế hiến, nhà già làng hay trên

mảnh đất rộng, bằng phẳng, cao ráo trong làng, với cây nêu trang trí sặc sỡ.

Mọi người nhẩy múa theo tiếng cồng chiêng. Thịt trâu được chia cho từng gia

đình, còn máu trâu bôi vào trán những người dự lễ như một sự cầu phúc.

Trong các ngày tết dân làng đến chung vui với từng gia đình. Trong từng gia đình người ta cũng tổ chức hiến tế gà. Sau tết họ mới được ăn lúa mới và thực

hiện các công việc lớn như làm nhà, chuyển làng…

Đến nay các lễ nghi phong tục cổ truyền của người KơHo và Châu Mạ

vẫn còn được bảo lưu. Nhưng bên cạnh đó, trong nhiều năm lại đây khá nhiều

65

gia đình người KơHo và người Châu Mạ đã theo những tôn giáo khác nhau

như Thiên chúa giáo, Phật giáo và Tin lành. Họ cũng đi nhà thờ, chùa chiền

giống như người Kinh. Kinh thánh và các tài liệu truyền giáo khác được dịch

ra tiếng Cơ Ho và các mục sư, thầy giảng đã sử dụng ngôn ngữ đó trong việc

truyền giảng đạo cũng đã làm cho nhận thức của họ về văn hóa gia đình với ý

nghĩa của cuộc sống hướng thiện mang tính tích cực góp phần ổn định an ninh

chính trị, trật tự an toàn xã hội cho địa phương.

Như vậy, giá trị tâm linh trong các gia đình ở thành phố Bảo Lộc vẫn

được giữ gìn. Tuy nhiên, cũng có những yếu tố biến đổi do sự phát triển và

giao lưu về kinh tế, văn hóa xã hội. Đáng chú ý là ở vùng đồng bào dân tộc

thiểu số, trước đây họ tín ngưỡng đa thần nhưng bây giờ thì họ cũng theo các

tôn giáo như Phật giáo, Thiên Chúa giáo, Tin Lành… lý do là do sự giao lưu,

tiếp biến văn hóa của người Kinh, họ cũng nhận thấy được những cái hay, cái

tốt của các tôn giáo. Ngoài ra, một yếu tố vô cùng quan trọng mang màu sắc

của chính trị bởi đối với các vùng sâu, xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số

thường có trình độ dân trí thấp nên cũng là mảnh đất màu mỡ để các tôn giáo

tranh giành ảnh hưởng của nhau nhằm thu hút tín đồ, phật tử. Đây cũng từng là

vấn đề nhạy cảm mà chính quyền địa phương của thành phố Bảo Lộc quan tâm

và tập trung giải quyết.

2.3.3. Hoạt động tinh thần và tiêu dùng sản phẩm tinh thần của các

gia đình

Trong bối cảnh phát triển của đất nước nói chung và thành phố Bảo

Lộc nói riêng, khi phần lớn các hộ gia đình ít còn tình trạng “ăn no, mặc bền”

mà thay vào đó là “ăn ngon mặc đẹp” thì yếu tố tinh thần, tâm lý, đạo đức là

nhóm chi phối đời sống sinh hoạt đời thường của gia đình. Đặc biệt quá trình

đô thị hóa của thành phố cũng đã làm cho chất lượng cuộc sống của các hộ

gia đình ngày càng phát triển, các gia đình biết cân bằng quá trình lao động và

nghỉ ngơi một cách hợp lý, sinh hoạt văn hóa gia đình đang mở rộng, tạo điều

kiện cho người dân có nhiều phương tiện, loại hình vui chơi, giải trí để hưởng

thụ. Do đó, nhu cầu văn hóa tinh thần của gia đình ngày càng tăng lên. Số

lượng và thời gian sử dụng các phương tiện thông tin giải trí đều tăng lên.

66

Sinh hoạt văn hóa truyền thống đang được phục hồi ở các xã, phường. Các hoạt

động văn hóa, thể dục thể thao phát triển mạnh như: Câu lạc bộ bóng bàn, bóng

chuyền, bóng rổ, quần vợt, câu lạc bộ dưỡng sinh, câu lạc bộ văn học nghệ thuật,

văn nghệ của người cao tuổi ngày càng có nhiều hội viên tham gia hoạt động

thường xuyên ở Trung tâm văn hóa thể thao thành phố Bảo Lộc. Tiêu biểu như:

Hội Phụ nữ, Hội Người cao tuổi với những câu lạc bộ hát chèo, hát múa những

làn điệu của dân ca quan họ Bắc Ninh, cải lương, hát ru, dân ca, ví dặm… vào

mỗi dịp lễ, tết của đất nước và vào những dịp quan trọng trong các phong trào thi

đua tổng kết về tình hình kinh tế xã hội địa phương và của các Hội quần chúng.

Thực tế cho thấy, các hộ gia đình trên địa bàn thành phố rất yêu thích văn hóa

văn nghệ, thể dục thể thao… Cứ mỗi dịp lễ tết, hay tổng kết hội, đoàn thể mình

thì phần lớn mọi người rất háo hức tham gia. Đáng chú ý là ở những vùng nông

thôn, một số nơi vẫn coi trọng phục cổ, họ cũng trang điểm, mặc áo dài truyền

thống đủ màu sắc, đấy là đối với các chị em thôn nữ, còn với các cụ cao tuổi vẫn

duy trì được áo tứ thân, khăn mỏ quạ, quần nái đen thông qua trình diễn những

làn điệu chèo, hay quan họ… Trong mỗi dịp được trình diễn, họ cũng nhờ người

quay phim, chụp hình, thậm chí nhiều người dung điện thoại để tự quay cho đội

và chuyển sang đĩa để cùng nhau xem lại, và bổ sung thêm về cách thức trình

diễn hay sắc thái biểu cảm khi thể hiện những làn điệu dân ca truyền thống. Có

thể nói, dù gì thì nét sinh hoạt văn hóa dân gian phong phú luôn có sự gợi cảm,

sống động và là nguồn cảm hứng cho quần chúng tham gia yêu văn hóa, văn

nghệ. Đó cũng trở thành một nét đẹp trong vấn đề giáo dục và truyền thụ cho thế

hệ trẻ những cái hay, cái đẹp của văn hóa miền Kinh Bắc và mỗi vùng quê.

Đối với lớp người trẻ hiện nay, họ đã và đang tiếp cận với những thành

tựu của khoa học công nghệ, họ năng động, tìm hiểu và dễ bắt nhịp với những

sinh hoạt vui chơi giải trí hiện đại đang thịnh hành trong nước, khu vực và trên

thế giới. Các phương tiện giải trí gia đình như ti vi, sách báo, internet, sự đa dạng

của các phương tiện truyền thông đại chúng, giúp nhu cầu giải trí của gia đình

đang phổ cập cũng góp phần đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa tinh thần của

người dân nông thôn … làm cho họ thích thú về nhu cầu tiêu dùng văn hóa. Đây

67

cũng là nhân tố làm cho đời sống tinh thần của người dân thành phố Bảo Lộc

được phong phú thêm. Gia đình trở thành nơi nghỉ ngơi cho các thành viên sau

một ngày học tập, làm việc, lao động, bởi nó đem lại tâm lý cân bằng.

a đọc báo

45, 13%

63, 18%

b xem ti vi

70, 20%

c dùng Internet

173, 49%

d Các loại hình khác

Biểu đồ 2.5: Khảo sát việc sử dụng thời gian rỗi của các gia đình.

Nguồn: Kết quả điều tra của tác giả tháng 12/2013[Phụ lục 1].

Theo kết quả của phiếu điều tra thăm dò tại 200 gia đình ở thành phố

Bảo Lộc cả khu vực nông thôn và thành thị thì có tới 49% các gia đình chọn

hình thức giải trí là xem ti vi, 20% là chọn giải trí bằng nhiều hình thức dùng

Internet, 18% là chọn hình thức giải trí là đọc báo, còn lại 13% là lựa chọn

giải trí bằng các loại hình khác. Điều đó cho thấy sử dụng thời gian rảnh của

mình có gần 50 % là xem ti vi, còn lại chia đều cho tất cả các loại hình.

Các phong tục, tập quán về cưới xin, ma chay, xây cất nhà cửa… vẫn giữ

được những nét truyền thống, song cũng đã có sự thay đổi để phù hợp với cuộc

sống hiện đại. Có đến 70% gia đình sống ở khu vực thành phố Bảo Lộc rất tán

thành việc tổ chức đám cưới nên gọn nhẹ, không nên kéo dài thời gian và gia đình

lựa chọn tổ chức lễ cưới cho con diễn ra ở nhà hàng hoặc khách sạn. Vì quỹ thời

gian không nhiều nên sự lựa chọn như thế là rất phù hợp. Mặc dù thế, nhưng các

nghi lễ thực hiện thì vẫn theo văn hóa truyền thống của gia đình Việt Nam:

“Miếng trầu là đầu câu chuyện”, dạm ngõ, lễ đính hôn, ăn hỏi và lễ cưới.

Khác với sự lựa chọn của các hộ gia đình sống ở thành phố thì những

hộ gia đình ở nông thôn như: Xã ĐamBri, xã Đại Lào, xã Lộc Thanh… đa số

68

tổ chức đám cưới cho con cái ở chính tại nhà của mình để đãi tiệc, thực hiện

theo phong tục cổ truyền. Gia đình có đám cưới sẽ tổ chức ít nhất là 2 ngày,

ngày hôm trước có mời anh em họ hàng và bà con hàng xóm, láng giềng thân

thiết đến dựng rạp, mổ lợn, gà… để đãi trước khi tiệc chính, tối đến thì cả

xóm kéo đến uống nước, ăn kẹo, nhai trầu…có ban nhạc phục vụ hò hát nhẩy

múa cho tới đêm khuya… Có thể nói đó, đó cũng là nét đẹp văn hóa được duy

trì những vùng nông thôn. Qua trao đổi phỏng vấn sâu đối với cô Nguyễn Thị

Ngoãn - hiện cư trú tại xóm 2 thôn 10 xã ĐamBri thành phố Bảo Lộc về tục

lệ cưới hỏi và sự lựa chọn nơi tổ chức đám cưới cho con cái, có ý kiến:

Cho dù là có điều kiện để tổ chức đám cưới cho các cháu ở nhà hàng

nhưng vợ chồng tôi không thích. Nhà tôi, cưới cho ba đứa con, vợ

chồng tôi luôn tổ chức cho các cháu ở tại nhà cho ấm cúng vui tươi. Vì

ở đây, anh em họ hàng, hàng xóm láng giềng đông, hễ cứ có công việc

to nhỏ gì thì họ sang, mỗi người giúp một chân một tay là việc nào

cũng xong hết mà lại có ý nghĩa gia đình và tình làng nghĩa xóm. Song

đến lượt nhà họ có công việc gì thì mình cũng lại giúp như thế. Vì

chúng tôi làm nông nghiệp, chỉ trừ những ngày mùa ra là bận bịu còn

lại thời gian thoải mái [Phụ lục 2].

Có thể nói, yếu tố giữa nông thôn và thành thị của các gia đình, do điều

kiện, hoàn cảnh, môi trường sống nên các hộ gia đình có những cách suy nghĩ và

sự lựa chọn khác nhau. Song nét đẹp văn hóa gia đình truyền thống trong việc

cưới hỏi đều là điểm tương đồng giữa các hộ gia đình. Trong tang lễ ma chay, đa số

các gia đình đều thực hiện theo hương ước, quy ước chung của xã hội và địa

phương. Cũng phải nói thêm về tang ma trên địa bàn thành phố, ở mỗi vùng có

những tập tục khác nhau, có nơi, người chết không được thổi kèn đánh trống, có nơi

dùng kèn tây và giai điệu tiết tấu cũng thể hiện khác lạ, thậm chí là những nhạc điệu

trong các ca khúc của nhạc sỹ Trịnh Công Sơn và một số nhạc sến…điều đó cũng

thể hiện một phần nào của sự đa dạng trong đời sống tinh thần.

Tuy nhiên, việc thỏa mãn nhu cầu tinh thần của con người ngày nay

bằng những phương tiện, kỹ thuật hiện đại tại các gia đình, nhất là những hộ

gia đình ở thành phố (phường) thì cũng một phần nào đó làm giảm hình thức

69

sinh hoạt tập thể, giao tiếp xã hội trong việc sử dụng thời gia nhàn rỗi. Bởi vì

các gia đình ở thành phố phần lớn sống khép kín, họ chỉ quan hệ láng giềng

trong ngôi nhà của mình, theo kiểu “nhà nào biết nhà ấy - đèn nhà nào rạng

nhà ấy”, từ đó nẩy sinh sự sống vị kỷ, chủ nghĩa cá nhân, thờ ơ với những gì

xung quanh mình và những gì đang xảy ra với mọi người. Trái lại, không

giống như các gia đình ở vùng nông thôn nơi sản sinh ra tình làng nghĩa xóm

thủy chung, “tối lửa tắt đèn có nhau”, duy trì kết cấu bền chặt của cộng đồng.

Ngoài ra các phong trào hoạt động trong lĩnh vực văn hóa, văn nghệ -

thể dục thể thao cũng được các tầng lớp nhân dân trên địa bàn thành phố Bảo

Lộc tích cực hưởng ứng. Đặc biệt là những dịp chào mừng, kỷ niệm các ngày

lễ lớn của dân tộc và địa phương, đã tạo ra không khí vui tươi, sôi nổi và tinh

thần cấu kết cộng đồng cũng được nhân lên.

Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ”, xây dựng

“Phường văn hóa”, “Thôn văn hóa”, “Gia đình văn hóa” ngày càng phát triển

sâu rộng và được nhân dân đồng thuận, hưởng ứng thực hiện. Hầu hết các

thôn, buôn, tổ dân phố đều được tổ chức, xây dựng theo các tiêu chí cụ thể:

đời sống kinh tế ổn định và từng bước phát triển; đời sống văn hóa tinh thần

lành mạnh, phong phú, môi trường cảnh quan sạch đẹp, diện mạo của bộ mặt

đô thị và nông thôn đang ngày một khởi sắc, phát triển trong sự hài hòa giữa

nông thôn và thành thị. Hiện nay, thành phố Bảo Lộc cũng đang chung tay,

góp sức xây dựng nông thôn mới. Đây là một phong trào thiết thực và đầy ý

nghĩa nên được sự đồng thuận và hưởng ứng nhiệt tình của các gia đình ở 05 xã

Lộc Châu, xã Đại Lào, xã Lộc Nga, xã Lộc Thanh và xã Đambri, phong trào này

đã tạo đà cho các gia đình ở khu vực nông thôn mở mang, phát triển kinh tế và

nâng cao đời sống văn hóa tinh thần của các gia đình, thu hẹp khoảng cách giàu

nghèo giữa đô thị và nông thôn không quá chênh lệch. Chỉ trong vòng 3 năm trở

lại đây, từ năm 2011 đến năm 2013, tổng số nguồn vốn mà các gia đình trong

khu vực nông thôn đóng góp là 215,884 tỷ đồng [77]. Ngoài ra, các gia đình tự

nguyện tham gia đóng góp đất đai, công lao động làm đối ứng để xây dựng các

công trình công cộng tại địa phương và họ mạnh dạn đầu tư để phát triển sản

70

xuất, tạo sự chuyển biến tích cực cũng như thực hiện vai trò chủ thể của người

dân trong việc đóng góp xây dựng nông thôn mới, nhờ đó đã tạo được diện mạo

mới ở nông thôn, hạ tầng cơ sở như đường, điện, trường, trạm từng bước được

hoàn thiện, phục vụ tích cực cho đời sống của cư dân nông thôn; tạo ra sự

chuyển biến về năng suất, chất lượng sản phẩm, tạo điều kiện nâng cao thu nhập,

cải thiện đời sống cho các hộ gia đình ở nông thôn. Có thể nói, những yếu tố trên

đã có những tác động, ảnh hưởng tích tới đời sống của nhân dân trên địa bàn

thành phố Bảo Lộc, là cơ sở để người dân thực hiện tốt các chủ trương của

Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và tinh thần đoàn kết tương trợ giúp

đỡ lẫn nhau trong cộng đồng xã hội. Tính tới thời điểm hết năm 2013 toàn thành

phố có 164/174 thôn, tổ dân phố đạt khu dân cư văn hóa chiếm tỷ lệ 94,3 %; và

32.156/36.542 hộ gia đình đạt gia đình văn hóa, chiếm tỷ lệ 88%, có 4/11 xã,

phường được công nhận đạt chuẩn văn hóa, chiếm tỷ lệ 36,4% [73].

Trên địa bàn thành phố, trong mỗi gia đình đều có các phương tiện,

truyền thông giải trí như: ti vi, đầu đĩa CD, điện thoại, sách báo, internet…đã

và đang phổ cập cũng góp phần nâng cao trình độ nhận thức, đáp ứng nhu cầu

hưởng thụ văn hóa tinh thần của đại bộ phận gia đình và các tầng lớp nhân

dân. Theo số liệu thống kê đến năm 2011, thành phố Bảo Lộc có gần

30.000/36.542 hộ gia đình có một trong số các phương tiện, truyền thông nêu

trên, chiếm tỷ lệ gần 82% hộ gia đình của thành phố Bảo Lộc [47]. Không chỉ

dừng lại ở đó mà số hộ gia đình sử dụng các phương tiện này sẽ gia tăng. Nhờ

có sự phát triển của các phương tiện truyền thông đại chúng, các gia đình

được cập nhập nhiều tin tức, kiến thức trong đời sống, chất lượng và mức

sống được nâng lên đáng kể. Điều đó chứng tỏ rằng, trong lĩnh vực hoạt động,

tiêu dùng các sản phẩm tinh thần của gia đình rất phong phú và đa dạng, là

điều kiện cơ sở để thành phố Bảo Lộc phát triển kinh tế - xã hội bền vững,

hướng tới tiếp cận các tiêu chí của đô thị loại II.

TIỂU KẾT CHƯƠNG 2

Thực trạng văn hóa gia đình ở thành phố Bảo Lộc - Lâm Đồng hiện nay

đang trong quá trình biến đổi mới, nhiều lĩnh vực trong đời sống xã hội phát

71

triển nhanh và xa hơn trước, diện mạo đời sống vật chất và tinh thần của xã

hội nói chung và từng gia đình trên địa bàn thành phố nói riêng đã có sự thay

đổi. Gia đình và văn hóa gia đình cũng không nằm ngoài quy luật đó. Một mặt

nó tạo ra những yếu tố tích cực như sự tăng trưởng kinh tế, sự gia tăng mức

sống, sự phát triển của hệ thống các dịch vụ, giao lưu văn hóa giữa các vùng

miền, giữa tộc người thiểu số bản địa với người Kinh, tạo nên nét đặc thù, sự

đa dạng trong văn hóa của địa phương. Cùng với sự giao lưu mở rộng tăng

cường hội nhập quốc tế của đất nước, đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt,

tạo nên những yếu tố tích cực để xây dựng gia đình ấm no, bình đẳng, tiến bộ

và hạnh phúc.

Tuy nhiên, bên cạnh những giá trị văn hóa truyền thống của gia đình

Việt Nam luôn được phát huy trong đại bộ phận các gia đình ở thành phố Bảo

Lộc. Các giá trị mới xuất hiện gắn liền với sự phát triển của xã hội hiện đại.

Gia đình, văn hóa gia đình đã có những biểu hiện khủng hoảng. các mối quan

hệ gia đình ngày càng trở nên lỏng lẻo, là dấu hiệu bị lấn át bởi quan hệ thị

trường. Có sự thay đổi trong thái độ, hành vi và cung cách ứng xử của mỗi cá

nhân trong gia đình và xã hội.

Chính vì thế mà việc phát huy các giá trị văn hóa tốt đẹp truyền thống

của gia đình Việt Nam trong bối cảnh hiện nay đang là vấn đề cấp bách mà

đòi hỏi các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương thành phố Bảo Lộc cần có

cách thức tổ chức quản lý về gia đình, nhằm đưa ra những giải pháp hữu hiệu

để xây dựng văn hóa gia đình. Đồng thời ngăn chặn hiệu quả các vấn đề mang

yếu tố tiêu cực nêu trên. Coi xây dựng văn hóa gia đình hiện nay và trong

tương lai là một trong những nhiệm vụ quan trọng, cấp thiết trong chiến lược

phát triển kinh tế xã hội của địa phương ở từng thời kỳ. Để có những quyết

sách phù hợp, phát huy được tính hiệu quả của văn hóa gia đình trong sự phát

triển kinh tế - văn hóa xã hội của thành phố.

72

Chương 3

ĐÁNH GIÁ VỀ VĂN HÓA GIA ĐÌNH Ở THÀNH PHỐ BẢO LỘC,

TỈNH LÂM ĐỒNG HIỆN NAY VÀ CÁC GIẢI PHÁP,

KIẾN NGHỊ ĐỀ XUẤT

3.1. ĐÁNH GIÁ VỀ VĂN HÓA GIA ĐÌNH Ở THÀNH PHỐ BẢO LỘC,

TỈNH LÂM ĐỒNG

3.1.1. Những mặt tích cực

Trải qua nhiều thời kỳ phát triển, văn hóa gia đình ở thành phố Bảo Lộc

đã xuất hiện nhiều yếu tố. Với quy mô gia đình nhỏ có nhiều ưu điểm như

gọn nhẹ, có khả năng thích ứng nhanh với sự biến đổi của xã hội. Việc sinh

con ít trở nên phổ biến trong các gia đình đã giúp phụ nữ có cơ hội tham gia

vào công việc xã hội, sống bình đẳng hơn với nam giới, có điều kiện học hỏi,

nâng cao trình độ. Vai trò, vị trí người phụ nữ trong gia đình được đề cao hơn.

Nhiều phụ nữ là lao động chính, nhiều người nắm quyền kinh tế trong gia

đình. Những giá trị truyền thống quý báu của văn hóa gia đình luôn được trao

truyền cho các thế hệ kế tiếp, đặc biệt là văn hóa truyền thống của dân tộc như

lòng yêu nước, yêu quê hương, yêu thương đùm bọc lẫn nhau, thủy chung,

hiếu nghĩa, hiếu học, cần cù và sáng tạo trong lao động sản xuất, vượt qua

mọi khó khăn thử thách, ngày càng được gìn giữ và phát huy.

Trong sự nghiệp đổi mới, Đảng và Nhà nước tiếp tục khẳng định kinh

tế hộ gia đình thực sự đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế - xã

hội. Trong thời gian qua, ở thành phố Bảo Lộc, việc thực hiện các chủ trương,

chính sách của Đảng và Nhà nước nhằm hỗ trợ gia đình phát triển kinh tế-xã

hội ngày càng hiệu quả hơn. Công tác xoá đói giảm nghèo, giao đất sản xuất,

giao rừng, hỗ trợ nhà ở, dạy nghề và tạo việc làm đã giúp nhiều gia đình thoát

nghèo nâng cao mức sống, số hộ gia đình giàu và khá tăng nhanh, giảm mạnh

tỉ lệ hộ đói nghèo. Hiện nay, thành phố đã nỗ lực trong thực hiện các chính

sách an sinh xã hội, xóa đói giảm nghèo. Tỉ lệ hộ nghèo giảm còn 1,83%, giải

quyết việc làm hàng năm cho 4.200 lao động, tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt

73

46%. Công tác chăm sóc các đối tượng chính sách luôn được thành phố quan

tâm, thực hiện tốt chính sách đền ơn đáp nghĩa [76].

Việc dân số kế hoạch hóa gia đình, bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ

em, chăm sóc người già cô đơn đã đạt được những thành tích đáng kể, góp

phần xây dựng gia đình hạnh phúc, xã hội ngày càng ổn định và phát triển.

Phong trào xây dựng gia đình văn hóa, Câu lạc bộ gia đình văn hóa, khu phố,

thôn buôn văn hóa ở cơ sở phát triển mạnh đã tác động đến từng gia đình góp

phần gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Tính từ năm 2011 cho tới

thời điểm hiện nay, thành phố đã bình xét và công nhận 32.156 hộ gia đình

văn hóa/ 36.542 hộ, đạt tỷ lệ 88%, trong đó có các xã, phường tỷ lệ cao như

phường 2 trên 92%, phường Blao trên 90%, phường I là 90% và xã Lộc

Thanh trên 95%, có 164/174 thôn, tổ dân phố đạt khu dân cư văn hóa [74].

Những năm gần đây, thông qua mô hình Câu lạc bộ Gia đình văn hóa

phong trào văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao của các hộ gia đình ở khu dân

cư phát triển mạnh mẽ. Thành phố đã tổ chức 4 cuộc Liên hoan các Câu lạc

bộ gia đình văn hóa, 22 cuộc liên hoan cấp xã phường, qua đó đã có hàng

chục nghìn lượt hộ gia đình hưởng ứng các hoạt động văn hóa, thể thao, tuyên

truyền về xây dựng gia đình Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa - hiện

đại hóa theo tinh thần Chỉ thị 49/CT-TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng.

Đặc biệt là các phong trào thi đua hộ gia đình làm kinh tế giỏi, các gia

đình đều ý thức được ổn định đời sống, phát triển kinh tế và chung sức xây

dựng quê hương đất nước ngày càng giàu mạnh văn minh tiến bộ bằng những

hành động thiết thực cụ thể như: động viên nhau hăng hái thi đua lao động,

phát triển sản xuất, chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi, phát triển kinh

doanh dịch vụ, mở mang ngành nghề, giúp nhau xóa đói giảm nghèo và ý

thức trách nhiệm cao với cộng đồng xã hội. Chỉ tính riêng trong năm 2012,

các hộ gia đình đã đóng góp cho thành phố 15 tỷ đồng, tham gia trên 1000 ngày công lao động, hiến trên 3000 m2 đất để xây dựng các công trình phúc lợi, công trình dân sinh như: đường giao thông, trụ sở thôn, tổ dân phố, các

thiết chế văn hóa. Các gia đình còn đóng góp 1,6 tỷ đồng cùng với các chính

74

sách hỗ trợ những gia đình đặc biệt khó khăn, gia đình có công với cách

mạng, các gia đình ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số… đã

tạo điều kiện thuận lợi để họ vươn lên. Đây cũng chính là cơ sở để nhấn mạnh

và khẳng định rằng yếu tố văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam đã

thẩm thấu vào trong từng gia đình trên địa bàn thành phố, “tương thân, tương

ái, lá lành đùm lá rách, thương người như thể thương thân” đã được phát huy

mạnh mẽ trong các gia đình trên địa bàn thành phố.

Ngoài việc truyền đạt những giá trị văn hóa truyền thống, gia đình còn

có vị trí quan trọng cung cấp và tạo điều kiện bồi dưỡng kiến thức về nghệ

thuật và khoa học hiện đại như kỹ năng ngoại ngữ, vi tính, về thể dục thẩm

mỹ cho con cái… điều này phụ thuộc rất nhiều vào khả năng kinh tế, trình độ

nhận thức, trình độ văn hóa, quan niệm về giá trị, đạo đức tinh thần trong thời

đại mới của các bậc làm cha, làm mẹ. Đặc biệt, với các chính sách hỗ trợ các

gia đình đặc biệt khó khăn, gia đình có công với cách mạng, các gia đình ở

vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số… đã tạo điều kiện thuận

lợi để họ vươn lên, là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội của địa phương

và là nơi bảo lưu, gìn giữ và phát triển các giá trị của văn hóa gia đình nhằm xây

dựng một xã hội lành mạnh, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa

đất nước nói chung và thành phố nói riêng trong giai đoạn hiện nay.

3.1.2. Những mặt hạn chế

Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác xây dựng văn hóa gia đình

ở thành phố Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng hiện nay còn nhiều yếu kém và đang

đối mặt với nhiều thách thức. Quy mô gia đình thu hẹp, sẽ không còn nhiều

thế hệ ông bà truyền dạy con cháu những truyền thống văn hóa, tập tục, các

gia phong, gia lễ, gia đạo. Chức năng giáo dục gia đình suy giảm, bởi lẽ cha

mẹ ít có thời gian rành cho việc chăm sóc, dạy bảo con cái, mặc dù đầu tư cho

con cái ăn học nhưng việc quan tâm dạy bảo lại dồn hết cho nhà trường làm

cho các thành viên gia đình thiếu đi những tình cảm tốt đẹp như: thương yêu,

quý trọng, chăm sóc lẫn nhau. Chính chức năng này đã giảm sút kéo theo

chức năng tình cảm trong gia đình cũng thiếu bền vững, bởi một khi mọi

75

thành viên trong gia đình đều đề cao vai trò cá nhân, lối sống ích kỷ chỉ biết

bản thân thì đâu còn tình cảm giành cho nhau… tất cả những điều đó dẫn đến

việc nhiều trẻ em lang thang, tội phạm hay rơi vào các tệ nạn xã hội. Một bộ

phận gia đình, nhất là gia đình trẻ đã không chú ý đúng mức đến việc giáo dục

giá trị truyền thống dân tộc mà chỉ chú trọng giáo dục cho con cái những cái

mới , hiện đại, theo học những ngành nghề mang tính thực tiễn, cốt sao kiếm

được nhiều tiền… Nhiều gia đình cho con học các trường quốc tế để ngoại

ngữ được thành thạo song khả năng nói tiếng Việt và cách ứng xử văn hóa

truyền thống lại bị thiếu hụt. Những bữa cơm gia đình đầm ấm ngày càng

hiếm hoi và thay vào đó là các loại thức ăn nhanh. Chữ “ Công” - một trong

tứ đức của người phụ nữ truyền thống dường như bị xem nhẹ trong một số gia

đình. Sự tìm hiểu, tiếp thu các giá trị văn hóa nước ngoài , nhất là thế hệ trẻ

còn thiếu cân nhắc và chọn lọc sáng suốt, dẫn đến hiện tượng sùng bái các giá

trị văn hóa nước ngoài mà “ quên đi” bản sắc văn hóa dân tộc. Sự lệch lạc

trong nhận thức, suy thoái trong tư tưởng đạo đức, lối sống cũng làm cho giá

trị truyền thống dân tộc nhiều khi không được xem trọng, đề cao.

Việc chăm sóc giáo dục trong gia đình cũng còn nhiều khía cạnh phải

quan tâm. Không ít những gia đình chăm chút, đầu tư cho con cái học hành,

nhưng mới chỉ nhằm mục đích thực dụng là kiếm nghề có thu nhập cao cho

con cái sau này chứ chưa xuất phát từ mục tiêu đào tạo con người toàn diện có

đức, có tài, phù hợp với yêu cầu của xã hội công nghiệp văn minh, hiện đại.

Cũng không ít gia đình mải mê kiếm sống, quá khao khát làm giàu mà phó

thác việc giáo dục, dạy dỗ con cái cho nhà trường và xã hội. Thậm chí, có gia

đình còn khuyến khích con cái không nên học ở bậc Cao đẳng, Đại học để

cùng bố mẹ tham gia vào các hoạt động kinh tế của gia đình. Chính vì thế, mà

số lượng trẻ em hư hỏng, biết tiêu tiền sớm, nghiện ngập, hút chích, phạm

pháp ngày càng tăng. Theo số liệu thống kê mà Tòa án nhân dân thành phố

Bảo Lộc cung cấp, trong 5 năm trở lại đây từ năm 2008 đến năm 2013 đã có

111 vụ án trẻ vị thành niên vi phạm pháp luật. Đối lập với những gia đình xao

nhãng việc giáo dục con cái, lại là những gia đình quá nuông chiều, sẵn sàng

76

đáp ứng những nhu cầu mà chúng muốn (kể cả những nhu cầu không chính

đáng). Đa phần những đứa trẻ này thường có tính ỷ lại, hiếu thắng, thích khoe

khoang, lười lao động, thích hưởng thụ…, đây cũng là nguyên nhân góp phần

làm tăng tỷ lệ số vị thành niên phạm pháp vào các tệ nạn xã hội.

Tình trạng bạo lực, đánh đập ngược đãi dẫn tới ly hôn, ly thân, chung

sống không kết hôn, quan hệ tình dục và nạo phá thai trước hôn nhân có xu

hướng tăng cao, để lại những hậu quả xấu đối với gia đình và xã hội.

Nhiều giá trị đạo đức truyền thống của gia đình như hiếu nghĩa, thủy

chung, kính trên nhường dưới đang có biểu hiện xuống cấp. Các tệ nạn xã hội

như ma tuý, cờ bạc, rượu chè, mại dâm và nạn dịch HIV/AIDS đang thâm

nhập vào các gia đình. Bạo hành trong gia đình, trẻ em bị xâm hại, trẻ em lang

thang kiếm sống, trẻ em vi phạm pháp luật có chiều hướng gia tăng.

Theo kết quả thống kê của Tòa án nhân dân thành phố Bảo Lộc thì từ

năm từ năm 2009 đến năm 2013 đã có 1.267 vụ về giải quyết, xét xử hôn

nhân gia đình, trong đó có 113 vụ là bạo lực gia đình đánh đập ngược đãi

[66]. Tuy nhiên, đây cũng chỉ là những vụ được khai báo và pháp luật can

thiệp, còn trong thực tế cuộc sống ở các gia đình, tình trạng đánh đập, ngược

đãi còn xảy ra nhiều hơn nhưng nạn nhân của các cuộc bạo lực gia đình không

muốn khai báo. Cùng với đó là công tác xoá đói giảm nghèo ở một số địa

phương còn gặp nhiều khó khăn, kết quả chưa vững chắc, việc chuyển đổi

giống cây trồng vật nuôi vẫn còn nhiều bất cập, mang tính dàn trải chưa có trọng

tâm, trọng điểm; việc tiêu thụ sản phẩm còn gặp nhiều khó khăn, chưa đáp ứng

được hết các yêu cầu, nhiệm vụ đề ra. Từ đó, dẫn đến đời sống vật chất tinh thần

của một bộ phận dân cư còn gặp nhiều khó khăn, thiếu thốn, không đủ năng lực

thực hiện tiêu chí “gia đình ít con, no ấm bình đẳng, tiến bộ và hạnh phúc”.

Các mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình trở nên lỏng lẻo vì

nhiều lý do: cha mẹ túng bần thì lo kiếm sống, gia đình khá giả lại lo cho con

cái nhà cửa để ăn học xa gia đình… đã làm cho con cái ít nhận được sự quan

tâm của cha mẹ, cha mẹ không biết con cái làm gì, sinh hoạt ra sao. Còn ông

bà thì ít nhận được sự chăm sóc từ con cháu, luôn cảm thấy cô đơn trống

77

vắng. Quy mô gia đình thu nhỏ gây nhiều khó khăn trong việc chăm sóc cha

mẹ, khiến cha mẹ rơi vào hoàn cảnh cô đơn, thiếu kinh tế, sự thu nhỏ trong

gia đình còn làm cho bố mẹ không có thời gian hoặc rất ít thời gian để chăm

sóc con cái . Ngược lại con cái cũng có ít thời gian chăm sóc cha mẹ, bữa cơm

thân mật gia đình cũng ít đi.

Nguyên nhân của tình trạng trên là do nhận thức của xã hội về vị trí, vai

trò, tầm quan trọng của gia đình, công tác quản lý Nhà nước về gia đình còn

nhiều lúng túng, chưa theo kịp sự phát triển của đất nước. Những mặt tích cực

của gia đình trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa chưa được phát

huy mạnh mẽ; kinh tế, tri thức phát triển nhưng công tác quản lý còn nhiều

bất cập, lối sống thực dụng đã tác động mạnh tới các giá trị truyền thống, lối

sống lành mạnh trong mỗi gia đình. Nhiều vấn đề bức xúc về gia đình chưa

được xử lý kịp thời. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng, chính

quyền, mặt trận và các đoàn thể trong thời gian qua chưa quan tâm đúng mức

việc thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về xây dựng

gia đình trong thời kỳ mới. Một số nơi do điều kiện dân trí thấp, cuộc sống

còn nhiều khó khăn nên không thể tiếp cận với tiến bộ của khoa học kỹ thuật.

Công tác giáo dục trước, trong và sau hôn nhân, việc phổ kiến các kiến thức

làm cha mẹ, các kỹ năng ứng xử của các thành viên trong gia đình chưa được

coi trọng phần lớn mang tính hình thức. Nhiều gia đình do quá tập trung làm

kinh tế đã xem nhẹ việc chăm sóc, quản lý, giáo dục, bảo vệ các thành viên

trong gia đình. Đặc biệt là biểu hiện suy thoái về đạo đức gia đình đang là hồi

chuông cảnh báo ở một bộ phận không nhỏ các gia đình trên địa bàn thành

phố Bảo Lộc.

3.1.3. Những vấn đề đặt ra

Thứ nhất: Chất lượng giáo dục trong gia đình sẽ hướng tới các giá trị

hiện đại mà trong đó có cả tính phi truyền thống, đạo đức gia đình bị coi nhẹ,

nạn bạo hành gia đình gia tăng đối với phụ nữ và trẻ em; nguy cơ gia tăng các

tệ nạn xã hội và tệ nạn trẻ em có nguyên nhân từ gia đình tăng lên. Cuộc sống

thời mở cửa và cơ chế thị trường cuốn hút mọi người vào công việc, thời gian

78

chăm sóc gia đình giảm dần và thiếu hụt nghiêm trọng. Trẻ em, người già ít

được quan tâm dẫn tới tỷ lệ trẻ em hư hỏng, mắc các tệ nạn xã hội gia tăng. Theo

báo cáo của cơ quan công an thành phố Bảo Lộc, khoảng 60% số trẻ em hư phải

vào trại cải tạo là nạn nhân của các gia đình ly hôn). Điều này đang trở thành

gánh nặng cho xã hội và ảnh hưởng tới chất lượng dân số của địa phương.

Thứ hai: Hoạt động kinh tế gia đình ngày một phát triển và đa dạng các

loại hình sản xuất kinh doanh, dịch vụ, thương mại. Trong lĩnh vực nông

nghiệp, các hộ gia đình sẽ ứng dụng công nghệ cao, lấy công nghệ sinh học

làm động lực phát triển, hình thành nên những vùng sản xuất như trà, cà phê,

dâu tằm gắn với nâng cao, chất lượng hiệu quả, tính cạnh tranh của sản phẩm,

tạo ra giá trị thu nhập cao. Từ đó sẽ kéo theo các dịch vụ chăm sóc cho gia

đình như, các nhu cầu sinh hoạt, dịch vụ y tế, giáo dục, mua sắm tiêu dùng,

vui chơi giải trí… là điều kiện để gia đình thích ứng nhanh và hòa nhập với

cuộc sống hiện đại.

Thứ ba: Hôn nhân không đăng ký, bạo lực gia đình và tỷ lệ ly hôn đang

gia tăng. Đây là hiện tượng nam nữ chung sống như vợ chồng nhưng không

đăng ký kết hôn nên không được pháp luật công nhận là vợ chồng. Nếu xu

hướng này gia tăng sẽ ảnh hưởng tới chức năng sinh sản con người của các

gia đình, đồng thời ảnh hưởng tới sự phát triển cơ cấu dân số của địa phương

Bảo Lộc. Tỷ lệ ly hôn tăng cao kể cả ở nông thôn và thành thị và rơi vào các

độ tuổi khác nhau, thậm chí 50 đến 60 tuổi vẫn đưa nhau ra tòa xin ly hôn.

Điều này ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của thế hệ trẻ, thậm chí không

có nơi nương tựa, rơi vào tệ nạn xã hội. Tình trạng ly hôn tỷ lệ phụ nữ đơn

thân gia tăng, phần lớn trong số họ chấp nhận nuôi con một mình hoặc có tái

hôn thì cũng chịu rất nhiều áp lực từ phía xã hội. Bạo lực gia đình cũng đang

trở thành một vấn nạn đối với xã hội đương thời.

Thứ tư: Mâu thuẫn giữa các thế hệ gia đình. Trong cuộc sống truyền

thống của gia đình Việt Nam thường có câu: “ Trẻ cậy cha, già cậy con”,.

Điều này đã trở thành triết lý sống của không ít thế hệ Việt Nam. Tuy nhiên,

trong cuộc sống hiện đại như ngày nay thì không ít gia đình cũng như các mối

79

quan hệ đã có chuyển biến khác biệt so với trước đây dẫn đến mâu thuẫn

không chỉ các thế hệ mà ngay chính ở trong các thành viên gia đình cũng như

các mối quan hệ đã có những chuyển biến khác biệt so với trước đây dẫn đến

mâu thuẫn gia đình ngày càng lớn. Mâu thuẫn thường xảy ra trong các gia

đình ba thế hệ và chủ yếu diễn ra ở hai thế hệ: người cao tuổi - con cái đã

trưởng thành và cha mẹ, con cái chưa trưởng thành. Mâu thuẫn thường hay

xảy ra nhất giữa người cao tuổi và con cái đã trưởng thành là mâu thuẫn về

kinh tế, lối sống và phương thức ứng xử. Mâu thuẫn giữa vợ chồng, cha mẹ

và con cái chưa trưởng thành chủ yếu tập trung vào vấn đề giáo dục, vui chơi

giải trí và lối sống. Các mâu thuẫn chủ yếu giữa thế hệ cha mẹ và con cái đã

trưởng thành trong gia đình là phân chia tài sản, quan niệm vai trò và giá trị

của người đàn ông trong gia đình, quan niệm sinh con trai, con gái. Mâu

thuẫn giữa thế hệ người cao tuổi, cha mẹ và con cái tập trung chủ yếu về lối

sống và tác phong sinh hoạt và phương thức ứng xử trong gia đình.

Thứ năm: Nguy cơ mai một bản sắc văn hóa của tộc người KơHo và

Châu Mạ cùng với một số đồng bào DTTS ngày càng cao. Trong những năm

tới, thành phố Bảo Lộc sẽ trở nên sôi động trong các hoạt động phát triển kinh

tế, văn hóa - xã hội. Cùng với đó nguy cơ mai một bản sắc dân tộc sẽ ngày

càng cao. Một bộ phận không nhỏ ở các gia đình tộc người thiểu số không sử

dụng ngôn ngữ tiếng mẹ đẻ để giao tiếp hàng ngày, hoặc có sử dụng ngôn ngữ

nhưng chữ viết của chính tộc người mình thì không biết viết. Kèm theo đó là sự

thay đổi về mọi lĩnh vực sinh hoạt đời thường sẽ theo hết người Kinh, ảnh

hưởng tới sự đa dạng văn hóa của các dân tộc trên địa bàn thành phố.

Từ thực trạng trên cho thấy, gia đình đang chuyển đổi mạnh mẽ từ kiểu

gia đình truyền thống sang gia đình hiện đại. Trong quá trình đó, nó mang

trong mình cả những yếu tố cũ và mới, cả những nét tích cực và tiêu cực. Cơ

bản, những nét đẹp về văn hóa gia đình truyền thống vẫn được bảo lưu, gìn

giữ. Nhưng bên cạnh đó, gia đình đang phải chịu nhiều hạn chế, một số giá trị

đang bị mai một và có nguy cơ mất đi, ảnh hưởng nghiêm trọng tới giáo dục

thế hệ trẻ.

80

Xây dựng và phát triển văn hóa gia đình không chỉ là trách nhiệm của

mỗi cá nhân, gia đình mà còn là trách nhiệm của toàn xã hội để gia đình thực

sự là tổ ấm của mỗi người, đồng thời là tế bào lành mạnh của xã hội.

3.2. NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG VĂN HÓA GIA ĐÌNH Ở THÀNH PHỐ

BẢO LỘC, TỈNH LÂM ĐỒNG TRONG THỜI GIAN TỚI

3.2.1. Chính sách của Đảng, Nhà nước và tỉnh Lâm Đông đối với

văn hóa gia đình

Trong thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm củng cố, xây

dựng gia đình thành tế bào lành mạnh của xã hội. Hàng loạt các văn bản của

Đảng, Nhà nước từ Trung ương đến các địa phương được ban hành nhằm tạo

điều kiện mỗi gia đình Việt Nam thực sự là tổ ấm của mỗi người và là tế bào

lành mạnh của xã hội. Đường lối, chủ trương của Đảng và các chính sách của

Nhà nước về gia đình tiếp tục là những định hướng quan trọng tác động đến

xây dựng văn hóa gia đình Việt Nam nói chung, văn hóa gia đình ở thành phố

Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng nói riêng.

Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII về xây dựng và phát

triển văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, trong đó xác định

việc giữ gìn và phát huy những đạo lý tốt đẹp của gia đình Việt Nam, coi

trọng xây dựng gia đình văn hóa; xây dựng mối quan hệ khăng khít giữa gia

đình - nhà trường - xã hội. Chỉ thị số 49 -CT/TW, ngày 21/02/2005, của Ban

Bí thư Trung ương Đảng khóa IX đề cao vai trò của gia đình: “Gia đình là tế

bào xã hội, là nơi duy trì giống nòi, là môi trường quan trọng hình thành và

nuôi dưỡng, giáo dục nhân cách con người, bảo tồn và phát huy văn hóa

truyền thống tốt đẹp, chống lại các tệ nạn xã hội, tạo nguồn nhân lực phục vụ

sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.

Đại hội XI của Đảng tiếp tục có những bổ sung cũng như cụ thể hóa

các quan điểm, chủ trương của Đảng về vai trò của gia đình đối với việc xây

dựng nếp sống, lối sống cho thế hệ trẻ. Văn kiện Đại hội viết:

Con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ

thể phát triển. Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, gắn quyền con

81

người với quyền và lợi ích của dân tộc, đất nước và quyền làm chủ

của nhân dân, kết hợp phát huy đầy đủ vai trò của xã hội, gia đình,

nhà trường, từng tập thể lao động, các đoàn thể và cộng đồng dân cư

trong việc chăm lo, xây dựng con người Việt Nam giàu lòng yêu

nước, có ý thức làm chủ, trách nhiệm công dân, có tri thức, sức

khỏe, lao động giỏi; sống có văn hóa, nghĩa tình; có tinh thần quốc

tế chân chính. Xây dựng gia đình ấm no, tiến bộ, hạnh phúc, thật sự

là tết bào lành mạnh của xã hội, là môi trường quan trọng, trực tiếp

giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách [17, tr.76 - 77].

Thể chế hóa đường lối của Đảng, trong thời gian qua, Chính phủ đã xây

dựng nhiều chính sách liên quan đến xây dựng gia đình Việt Nam. Thủ tướng

Chính phủ đã ban hành Quyết định số 72/TTg ngày 04 tháng 5 năm 2001

chọn ngày 28/6 hàng năm là Ngày Gia đình Việt Nam, nhằm đề cao trách

nhiệm của lãnh đạo các ngành, các cấp, các đoàn thể, các tổ chức xã hội cùng

các gia đình để góp phần từng bước ổn định, củng cố, xây dựng gia đình theo

tiêu chí ít con (mỗi cặp vợ chồng có một hoặc hai con), no ấm, tiến bộ, bình

đẳng, hạnh phúc.

Một bộ luật đề cập đến một lĩnh vực quan trọng của gia đình, đó là vấn

đề bình đẳng giới. Luật Bình đẳng giới ban hành năm 2006, trong đó quy định

nguyên tắc bình đẳng giới trong các lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình ,

nhằm xóa bỏ phân biệt đối xử về giới, tạo cơ hội như nhau cho nam và nữ trong

phát triển kinh tế xã hội, tiến tới bình đẳng giới thực chất giữa nam và nữ.

Năm 2007, Quốc hội Việt Nam đã chính thức thông qua Luật Phòng

chống bạo lực gia đình, trong đó quy định rõ về việc phòng ngừa bạo lực gia

đình, bảo vệ, hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình, trách nhiệm của cá nhân, gia

đình, cơ quan, tổ chức trong việc phòng chống bạo lực gia đình và xử lý vi

phạm pháp luật về phòng chống bạo lực gia đình.

Ngày 29/5/2012, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 629/QĐ-

TTg, phê duyệt chiến lược xây dựng gia đình Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn

2030 đã đề ra mục tiêu chung: Xây dựng gia đình Việt Nam no ấm, tiến bộ, hạnh

82

phúc, thực sự là tổ ấm của mỗi người, là tế bào lành mạnh của xã hội. Những

mục tiêu cụ thể được xác định là:

Thứ nhất: Nâng cao nhận thức về vai trò, vị trí, trách nhiệm của gia

đình và cộng đồng trong việc thực hiện tốt chủ trương, đường lối, chính sách,

pháp luật về hôn nhân và gia đình, bình đẳng giới, phòng, chống bạo lực gia

đình, ngăn chặn các tệ nạn xã hội xâm nhập vào gia đình.

- Chỉ tiêu 1: Phấn đấu đến năm 2015 đạt 90% và đến năm 2020 đạt

95% trở lên hộ gia đình được phổ biến, tuyên truyền và cam kết thực hiện tốt

các chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật về hôn nhân và gia đình, bình

đẳng giới, phòng, chống bạo lực gia đình, ngăn chặn các tệ nạn xã hội xâm

nhập vào gia đình.

- Chỉ tiêu 2: Phấn đấu đến năm 2015 đạt 90% và đến năm 2020 đạt

95% nam, nữ thanh niên trước khi kết hôn được trang bị kiến thức cơ bản về

gia đình, phòng, chống bạo lực gia đình.

- Chỉ tiêu 3: Hằng năm, trung bình giảm từ 10 - 15% hộ gia đình có bạo

lực gia đình.

- Chỉ tiêu 4: Hằng năm, trung bình giảm từ 10 - 15% hộ gia đình có

người mắc tệ nạn xã hội.

- Chỉ tiêu 5: Hằng năm, trung bình giảm 15% (khu vực khó khăn và đặc

biệt khó khăn giảm 10%) hộ gia đình có người kết hôn dưới tuổi pháp luật

quy định [64].

Thứ hai: Kế thừa, phát huy các giá trị truyền thống tốt đẹp của gia đình

Việt Nam; tiếp thu có chọn lọc các giá trị tiên tiến của gia đình trong xã hội

phát triển; thực hiện đầy đủ các quyền và trách nhiệm của các thành viên

trong gia đình, đặc biệt đối với trẻ em, người cao tuổi, phụ nữ có thai, nuôi

con nhỏ.

- Chỉ tiêu 1: Phấn đấu đến năm 2015 đạt 80% trở lên (khu vực khó

khăn và đặc biệt khó khăn đạt 70% trở lên) và đến năm 2020 đạt 85% trở lên

(khu vực khó khăn và đặc biệt khó khăn đạt 75% trở lên) hộ gia đình đạt tiêu

chuẩn gia đình văn hóa.

83

- Chỉ tiêu 2: Phấn đấu đến năm 2015 đạt 85% và năm 2020 đạt 95% hộ

gia đình dành thời gian chăm sóc, dạy bảo con, cháu, tạo điều kiện cho con,

cháu phát triển toàn diện về thể chất, trí tuệ, đạo đức và tinh thần, không phân

biệt con, cháu là trai hay gái.

- Chỉ tiêu 3: Phấn đấu đến năm 2015 đạt 85% và năm 2020 đạt 95% hộ

gia đình thực hiện chăm sóc, phụng dưỡng chu đáo ông, bà, chăm sóc cha,

mẹ, phụ nữ có thai, nuôi con nhỏ.

- Chỉ tiêu 4: Phấn đấu đến năm 2015 đạt 95% và năm 2020 đạt từ 98%

trở lên hộ gia đình có người trong độ tuổi sinh đẻ được tuyên truyền và thực

hiện đúng chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình, không phá thai vì giới

tính của thai nhi [64].

Thứ ba: Nâng cao năng lực của gia đình trong phát triển kinh tế, ứng

phó với thiên tai và khủng hoảng kinh tế; tạo việc làm, tăng thu nhập và phúc

lợi, đặc biệt đối với các hộ gia đình chính sách, hộ nghèo và cận nghèo theo

quy định.

- Chỉ tiêu 1: Phấn đấu đến năm 2015 đạt 90% và đến năm 2020 đạt

95% trở lên hộ gia đình được cung cấp thông tin về chính sách, pháp luật

phúc lợi xã hội dành cho các gia đình chính sách, gia đình nghèo.

- Chỉ tiêu 2: Phấn đấu đến năm 2015 đạt 90% và đến năm 2020 đạt 95%

trở lên hộ gia đình nghèo, hộ cận nghèo được cung cấp kiến thức, kỹ năng để

phát triển kinh tế gia đình, ứng phó với thiên tai, khủng hoảng kinh tế.

- Chỉ tiêu 3: Hằng năm, tăng 10% hộ gia đình, thành viên trong gia đình

được thụ hưởng các dịch vụ y tế, văn hóa, giáo dục và dịch vụ hỗ trợ gia đình,

hỗ trợ thành viên gia đình [64].

Để thực hiện Chiến lược xây dựng gia đình Việt Nam đến năm 2020, tầm

nhìn 2030, Chính phủ xây dựng và đang triển khai thực hiện 7 đề án lớn, bao gồm:

Đề án kiện toàn, đào tạo, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ thực hiện

công tác gia đình các cấp đến năm 2020.

Đề án tuyên truyền về xây dựng gia đình và phòng, chống bạo lực gia

đình trên các phương tiện thông tin đại chúng đến năm 2020.

84

Đề án giáo dục chuyển đổi hành vi về xây dựng gia đình và phòng,

chống bạo lực gia đình đến năm 2020.

Đề án nâng cao chất lượng các mối quan hệ trong gia đình và hỗ trợ

xây dựng gia đình hạnh phúc, bền vững đến năm 2020.

Đề án về công tác an sinh xã hội giai đoạn 2012 - 2020.

Đề án xây dựng mạng lưới dịch vụ hỗ trợ gia đình, hỗ trợ thành viên

gia đình đến năm 2020.

Đề án xây dựng cơ sở dữ liệu về gia đình và phòng, chống bạo lực gia

đình đến năm 2020.

Có thể nói, việc ra đời Chiến lược xây dựng gia đình Việt Nam đến

năm 2020, tầm nhìn 2030 và tổ chức thực hiện các đề án lớn liên quan đến gia

đình là một điều kiện thuận lợi trên cả phương diện pháp lý, chính sách, đặc

biệt là sự quan tâm, đầu tư các nguồn lực chăm lo cho công tác gia đình trên

phạm vi cả nước, trong đó có thành phố Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng.

Để tiếp tục thực hiện mục tiêu phát triển an sinh xã hội, xây dựng gia

đình Việt Nam no ấm, tiến bộ, hạnh phúc và hưởng ứng Ngày Quốc tế Hạnh

phúc 20/3 do Liên Hiệp Quốc phát động, ngày 26/12/2013, Thủ tướng đã ban

hành Quyết định số 2589/QĐ-TTg phê duyệt Đề án “Tổ chức các hoạt động

nhân Ngày Quốc tế Hạnh phúc 20 tháng 3 hằng năm”.

Đề án nhằm nâng cao nhận thức của các cấp, ngành, tổ chức, cá nhân,

gia đình, toàn xã hội về Ngày Quốc tế Hạnh phúc, từ đó có hành động cụ thể,

thiết thực xây dựng gia đình hạnh phúc, cộng đồng hạnh phúc của người Việt

Nam; tăng cường sự tham gia, phối hợp giữa các cấp, ngành, các tầng lớp

nhân dân và sự hợp tác, giúp đỡ của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước

đối với các hoạt động nhân Ngày Quốc tế Hạnh phúc. Năm 2014 là năm đầu

tiên Việt Nam chính thức tổ chức các hoạt động nhân Ngày Quốc tế Hạnh

phúc. Chủ đề Ngày Hạnh phúc năm 2014 của Việt Nam: “Yêu thương và chia

sẻ” được tiếp nối từ chủ đề “Kết nối yêu thương” của Năm Gia đình Việt

Nam 2013. Sự kiện được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tổ chức trọng thể

tại Nhà hát Lớn Hà Nội với chủ đề “Yêu thương và chia sẻ” ngày 20 tháng 3

85

năm 2014 vừa qua mở ra những điều kiện mới cho công tác xây dựng gia đình

ở nước ta thời gian tới.

Đối với Tỉnh ủy Lâm Đồng cũng đã ban hành Chỉ thị 42-CT/TU ngày

27 tháng 6 năm 2005 của Thường vụ Tỉnh ủy Lâm Đồng về việc thực hiện

Chỉ thị 49-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng về “Xây dựng gia đình

thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”.

Thực hiện Quyết định 1074/QĐ-UBND ngày 24/3/2006 của UBND

tỉnh Lâm Đồng V/v Ban hành kế hoạch triển khai chiến lược xây dựng gia

đình Việt Nam giai đoạn 2006 - 2010 tỉnh Lâm Đồng, Ban Thường vụ Thị ủy

Bảo Lộc (nay là Thành ủy Bảo Lộc) ban hành Nghị quyết số 06-NQ/TU ngày

9/3/2006 về chương trình hành động thực hiện Chỉ thị 49-CT-TW của Ban bí

thư Trung ương Đảng và chỉ thị số 42- CT/TW của Ban thường vụ Tỉnh ủy

Lâm Đồng về xây dựng gia đình thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Thực hiện thông báo Kết luận số 26-TB/TW của Ban Bí thư và Quyết

định 2010/QĐ-UBND ngày 09/10/2012 của Ủy ban nhân dân Tỉnh Lâm Đồng

ban hành “Kế hoạch triển khai chiến lược phát triển Gia đình Việt Nam đến

năm 2020, tầm nhìn 2030 trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng”.

Những chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và tỉnh Lâm Đồng

trên đây tiếp tục là định hướng quan trọng cho công tác xây dựng gia đình nói

chung, xây dựng văn hóa gia đình trên địa bàn thành phố Bảo Lộc nói riêng

trong giai đoạn tới.

3.2.2. Sự phát triển kinh tế và quá trình đô thị hóa ở thành phố

Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng

Trong công cuộc đổi mới, chính sách của Đảng và Nhà nước, CNH,

HĐH cùng với quá trình đô thị hóa của đất nước nói chung và thành phố Bảo

Lộc nói riêng sẽ có tác động không nhỏ tới gia đình, văn hóa gia đình. Sự

chuyển đổi của nền kinh tế Việt Nam từ sản xuất nông nghiệp sang sản xuất

công nghiệp và kinh tế thị trường, ảnh hưởng của nó cả mặt tích cực và mặt

hạn chế tới gia đình làm cho đời sống kinh tế của các gia đình trên địa bàn

thành phố có những sự thay đổi cả về đời sống vật chất lẫn tinh thần. Từ một

86

thị xã với cơ sở vật chất kỹ thuật chưa được khang trang hiện đại. Chuyển

dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp, thương mại dịch vụ

trong GDP còn rất thấp từ chưa đầy 12,55 triệu đồng /người/ năm đến năm

2013 là gần 40 triệu/người/năm [76]. Thành phố Bảo Lộc đã và đang trong

quá trình đô thị hóa khá nhanh với tiêu chí của một thành phố vùng núi

nằm trong khu vực Tây Nguyên. Kết cấu hạ tầng cơ sở và cảnh quan đô thị,

môi trường sinh thái đang ngày được chỉnh trang, mở rộng đô thị. Cùng với

các chính sính sách của Đảng, Nhà nước, chính quyền địa phương thành

phố Bảo Lộc tích cực huy động các thành phần kinh tế, đầu tư, phát triển

cơ sở hạ tầng, nâng cao chất lượng sống cho các tầng lớp nhân dân. Các cơ

sở sinh hoạt văn hóa, sân chơi, câu lạc bộ, các phương tiện truyền thông đại

chúng… đã tạo điều kiện cho đời sống cả về vật chất lẫn tinh thần cho các

gia đình. Sự tác động của quá trình đô thị hóa thúc đẩy đời sống văn hóa,

tạo điều kiện để phát triển kinh tế dẫn tới đời sống vật chất, văn hóa khá

hơn rất nhiều so với những năm trước đây. Mức độ hưởng thụ văn hóa của

các gia đình trên địa bàn thành phố cũng tăng lên rõ rệt. Bên cạnh đó, chính

quyền thành phố cũng tập trung nâng cao chất lượng dịch vụ, sản phẩm du

lịch hiện có, phát triển mạnh các điểm du lịch và hình thức du lịch mới như

đã mở rộng khu du lịch thác ĐamBri, đưa vào khai thác du lịch thác bẩy

tầng, quy hoạch mở rộng hồ sinh thái Nam Phương I, II, gắn với mở rộng

khu đô thị Hà Giang.

Sự phát triển kinh tế và quá trình đô thị hóa sẽ tác động đến văn hóa

gia đình ở thành phố Bảo Lộc theo các hướng sau:

Tiếp tục biến đổi quy mô, cấu trúc gia đình, gia đình ít thế hệ - gia đình

hạt nhân thay thế gia đình nhiều thế hệ. Nguyên nhân của sự gia tăng này là

do hình thái gia đình hạt nhân có nhiều ưu điểm hơn các loại hình thái gia

đình khác. Nó là một đơn vị xã hội độc lập, gọn nhẹ và có khả năng thích ứng

nhanh với các biến đổi của xã hội. Đây cũng chính là điều kiện thuận lợi cho

các đôi vợ chồng trẻ có nhiều cơ hội để thể hiện tình yêu và sự chăm sóc, dậy

dỗ con cái. Họ có sự chủ động độc lập về quan hệ kinh tế, tạo điều kiện cho

87

mỗi thành viên trong gia đình có khoảng không gian tự do tương đối để phát

triển năng lực cá nhân. Họ có thể tự do di chuyển nơi ở mà không bị áp lực từ

những hệ lụy của xã hội truyền thống. Có thể nói mô hình gia đình hạt nhân

sẽ được các cặp vợ chồng trẻ sau khi kết hôn yêu thích và lựa chọn, bởi họ

thường muốn sống tự do, tự quyết định công việc của mình, không muốn có

sự kiểm soát của cha mẹ, điều này thúc đẩy họ phải vươn lên về mọi mặt, thu

xếp nhà ở, lo lắng việc chi tiêu, chăm sóc con cái. Với mô hình này, tính tích

cực, năng động, tinh thần dân chủ của các gia đình được phát huy mạnh mẽ,

góp phần phát triển kinh tế, nâng cao mức sống của các gia đình, nhu cầu

hưởng thụ các sản phẩm tinh thần tăng lên. Bên cạnh đó, cũng sẽ xuất hiện

những tiêu cực. Trong gia đình truyền thống, các thành viên đặt lợi ích gia

đình lên trên lợi ích cá nhân, sự phục tùng của con cái với cha mẹ, đề cao lòng

hiếu thảo, sự biết ơn tổ tiên, tôn trọng quá khứ... Trong gia đình hạt nhân, việc

đề cao tính tự do cá nhân, đề cao mối quan hệ chiều ngang, đề cao mặt pháp

luật... dễ dẫn tới sự xung khắc giữa các thế hệ, các thành viên. Cha mẹ và

người lớn tuổi khó kiểm soát được những hành vi không lành mạnh của trẻ

em. Biến đổi về chất lượng cuộc sống của các gia đình: sự phát triển kinh tế

và đô thị hóa sẽ dẫn đến quá trình cơ cấu lại các ngành kinh tế của thành phố

Bảo Lộc. Tỷ trọng các ngành công nghiệp, dịch vụ tăng lên, tỷ trọng ngành

nông nghiệp giảm, làm thay đổi sự phát triển chung của địa phương, tác động

đến mọi mặt trong đời sống của các hộ gia đình về điều kiện nhà ở, điều kiện

sống, thu nhập, chi tiêu, mức sống...

Biến đổi về mối quan hệ gia đình: có thể nói, quá trình đô thị hóa

không chỉ cải thiện đời sống kinh tế của các hộ gia đình mà còn làm biến đổi

mối quan hệ giữa các gia đình và ngay cả chính bản thân các thành viên sống

trong gia đình. Điều này được thể hiện qua mối quan hệ, giao tiếp hàng ngày

của các thành viên trong gia đình trên địa bàn thành phố Bảo Lộc, không chỉ

bó buộc trong mối quan hệ gia đình, họ hàng mà mối quan tâm của họ đã mở

rộng hơn. Đó là các quan hệ xã hội đa chiều, phức tạp do sự pha trộn nhiều

tầng lớp dân cư và sự chuyển đổi các mô hình cư trú.

88

Xây dựng, phát triển đô thị bao gồm cả xây dựng nếp sống văn minh đô thị

nhằm tạo ra sự phát triển tự giác của quá trình đô thị hóa thông qua cách sống,

cách ứng xử của con người đô thị trong mọi điều kiện, hoàn cảnh sống vừa phù

hợp với cuộc sống hiện đại. Xây dựng văn hóa gia đình gắn với cuộc vận động

xây dựng nếp sống văn minh đô thị là việc làm rất thiết thực. Gia đình và thành

viên gia đình thể hiện trách nhiệm, góp công sức vào việc gìn giữ sinh thái, xây

dựng cuộc sống văn minh, ứng xử văn hóa vì đô thị phát triển bền vững, cho cuộc

sống bản thân, gia đình và thế hệ tương lai được thụ hưởng. Khác với cuộc sống

nông thôn, cư dân đô thị thích ứng với nhịp sống công nghiệp, hiện đại. Do vậy,

các mối quan hệ giữa người với người, giữa người với luật lệ, giữa người với thiên

nhiên, giữa sự an toàn và mất an toàn đều đòi hỏi tốc độ nhanh, có hiệu quả, theo

trật tự, đúng quy tắc và đảm bảo sự phát triển bền vững.

Biến đổi về chức năng của gia đình: chức năng giáo dục sẽ được tăng cường

do sức ép ngày càng lớn đối với nguồn nhân lực, tiêu chuẩn của việc dưỡng dục

con cái cũng tăng theo. Nền kinh tế thị trường đòi hỏi các gia đình Việt Nam nói

chung, các gia đình ở thành phố Bảo Lộc nói riêng sẽ phải cung cấp cho xã hội

những người lao động có đạo đức, có trình độ học vấn và chuyên môn, có năng

lực kinh doanh và tính năng động xã hội cao... Đồng thời, gia đình hạt nhân ngày

nay đang làm mất đi cơ hội truyền thụ những hiểu biết, kinh nghiệm về nhiều

lĩnh vực mà rõ nhất là việc nuôi dạy con cái từ thế hệ ông bà. Thông thường,

giới trẻ ngày nay trông cậy vào kiến thức khoa học và chuyên môn hơn là dựa

vào sự hiểu biết thực tiễn của thế hệ cha mẹ. Đối với chức năng kinh tế, gia

đình ở thành phố Bảo Lộc sẽ chuyển mạnh từ đơn vị sản xuất nhỏ lẻ, tự cung tự

cấp sang những gia đình đa dạng về ngành nghề.

3.2.3. Giao lưu văn hóa và sự phát triển của các phương tiện thông

tin đại chúng

Ngày nay, chúng ta đang sống trong một thế giới mở, sự phát triển

mạnh mẽ của Khoa học và công nghệ, đặc biệt là các phương tiện truyền

thông đại chúng hiện đại làm cho các quốc gia xích lại gần nhau và hiểu nhau

hơn để hợp tác, phát triển cùng có lợi giữa các quốc gia. Đặc biệt là sự giao

89

thoa của các nền văn hóa. Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và

hội nhập quốc tế, nền văn hóa Việt Nam nói chung, trong đó là văn hóa của

gia đình Việt Nam và văn hóa gia đình ở thành phố Bảo Lộc nói riêng đã có

nhiều sự tác động, thay đổi theo hướng phát triển và hòa hợp. Công cuộc đổi

mới thực sự là một cuộc cách mạng có ý nghĩa về chất, về tầm nhìn, về khả

năng tích lũy những giá trị văn hóa mới, tri thức mới của thời đại. Nó làm cho

con người được mở mang kiến thức, tiếp nhận thông tin từ nhiều phía, có

đánh giá và sàng lọc để lựa chọn hướng phát triển phù hợp cho cá nhân, gia

đình và dân tộc mình. Dựa trên nền tảng của kiến thức, của trình độ văn hóa

đang ngày một nâng cao làm cho chất lượng của cuộc sống của con người -

các gia đình có điều kiện tham gia phát triển tột bậc. Giờ đây, đa phần các gia

đình không phải lo nghĩ kiếm kế mưu sinh vì miếng cơm, manh áo hàng ngày

mà họ phấn đấu quan tâm đến chất lượng sống. Họ có điều kiện để học tập,

tiếp cận kiến thức của thời đại một cách mau chóng, có điều kiện để phấn đấu và

thể hiện khả năng của mình hướng tới cuộc sống gia đình ấm no, bình đẳng, tiến

bộ, hạnh phúc cũng chính là giá trị văn hóa của gia đình thời hiện đại.

Giao lưu văn hóa và phát triển các phương tiện thông tin đại chúng làm

cho các gia đình ở thành phố Bảo Lộc sẽ có nhiều điều kiện thuận lợi trong sản

xuất, kinh doanh, sinh hoạt giải trí và hưởng thụ các giá trị vật chất tinh thần.

Các mối quan hệ sẽ dần được mở ra và có nhiều cơ hội để duy trì phát triển. Mỗi

cá nhân, cộng đồng có điều kiện giao lưu, tiếp nhận và chọn lọc các giá trị văn hóa

của các cộng đồng khác và nhân loại. Tuy nhiên, sự phát triển của truyền thông với

các phương thức, công cụ giải trí công nghệ cao, các game hấp dẫn... cũng là nguy

cơ làm ảnh hưởng đến mối quan hệ của các thành viên trong gia đình.

3.3. NHỮNG GIẢI PHÁP VÀ Ý KIẾN ĐỀ XUẤT

3.3.1. Những giải pháp nâng cao hiệu quả xây dựng văn hóa gia

đình ở thành phố Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng

3.3.1.1. Giải pháp về lãnh đạo, tổ chức, quản lý

Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng và chính quyền

của thành phố Bảo Lộc đối với công tác gia đình. Công tác gia đình là một nội

90

dung quan trọng trong các kế hoạch, chương trình công tác thường xuyên của

các cấp ủy Đảng, chính quyền. Các chỉ tiêu xây dựng, phát triển gia đình

thuộc các chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội của thành phố Bảo Lộc.

Nâng cao trách nhiệm quản lý, điều hành công tác gia đình, thực hiện

Chiến lược phát triển gia đình Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn năm 2030.

Lãnh đạo chủ chốt của cơ quan thực hiện chức năng quản lý nhà nước về

công tác gia đình của thành phố Bảo Lộc phải đề cao trách nhiệm trong việc

chỉ đạo, quản lý và tổ chức thực hiện tốt công tác gia đình. Kết quả, hiệu quả

thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ về gia đình là một tiêu chuẩn quan trọng để

đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ của người đứng đầu cơ quan và của cơ

quan chịu trách nhiệm quản lý nhà nước về công tác gia đình các cấp.

Kiện toàn, đào tạo nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ làm công tác gia

đình của thành phố Bảo Lộc, các xã, phường trên địa bàn thành phố đủ mạnh để

bảo đảm thực hiện nhiệm vụ quản lý, tổ chức thực hiện công tác gia đình.

Huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực tài chính cho công tác

gia đình; chi ngân sách nhà nước cho công tác gia đình theo phân cấp ngân

sách nhà nước hiện hành; ưu tiên nguồn lực cho các xã còn nhiều khó khăn.

Tăng cường kiểm tra việc thi hành luật pháp, chính sách, thực hiện các

nhiệm vụ công tác liên quan đến gia đình nhằm bảo vệ các quyền, lợi ích hợp

pháp của các gia đình, thúc đẩy việc thực hiện nghĩa vụ của các gia đình, xử

lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực gia đình.

3.3.1.2. Giải pháp về truyền thông vận động

Tăng cường công tác truyền thông nhằm nâng cao nhận thức của các

cấp, các ngành, gia đình và cộng đồng về vị trí, vai trò của gia đình trong sự

phát triển kinh tế - xã hội của thành phố Bảo Lộc; về chủ trương, luật pháp,

chính sách của Đảng, Nhà nước liên quan đến gia đình; về quyền, trách

nhiệm, nghĩa vụ của các gia đình, các cơ quan, những người thi hành công vụ

liên quan đến gia đình để bảo đảm, thúc đẩy việc thực hiện chủ trương, luật

pháp, chính sách của Đảng, Nhà nước liên quan đến gia đình.

Đổi mới nội dung, đa dạng hóa hình thức truyền thông về xây dựng gia

đình, phòng, chống bạo lực gia đình. Chú trọng hình thức tuyên truyền bằng

91

các thông điệp trên các phương tiện thông tin đại chúng; chú trọng đối tượng

tuyên truyền là nam giới.

Các cơ quan truyền thanh, truyền hình và báo chí của thành phố Bảo

Lộc tích cực đẩy mạnh tuyên truyền nêu gương người tốt, việc tốt, phê phán

những biểu hiện không đúng trong việc xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh

phúc, phê phán những biểu hiện không lành mạnh ảnh hưởng đến cuộc sống gia

đình, cảnh báo các nguy cơ và hậu quả về mất cân bằng giới tính khi sinh.

Chú trọng ngăn ngừa thông tin và sản phẩm văn hóa xấu tác động vào

gia đình.

3.3.1.3. Giải pháp về giáo dục, cung cấp kiến thức về xây dựng gia đình

Đẩy mạnh giáo dục, cung cấp cho các thành viên gia đình về chủ

trương, chính sách, luật pháp liên quan đến gia đình; kỹ năng sống (kỹ năng

làm cha, mẹ, nâng cao chất lượng mối quan hệ giữa các thành viên trong gia

đình với nhau và với cộng đồng, xây dựng gia đình là một môi trường an toàn

cho trẻ em); trách nhiệm của nam giới đối với công việc trong gia đình, đối

với việc bảo đảm quyền của phụ nữ trong gia đình; trách nhiệm thực hiện nếp

sống văn mình, thực hiện quy chế dân chủ cơ sở; xây dựng tình làng nghĩa

xóm, đoàn kết, giúp đỡ, nhắc nhở, động viên nhau thực hiện tốt chủ trương,

chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước; kế thừa và phát huy các giá trị

truyền thống tốt đẹp của gia đình, của dòng họ; tiếp thu các giá trị tiên tiến

của gia đình trong xã hội phát triển; cảnh báo các nguy cơ và hậu quả về mất

cân bằng giới tính khi sinh.

Lồng ghép kiến thức xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, phòng,

chống bạo lực gia đình vào các chương trình hoạt động của các đoàn thể của

thành phố Bảo Lộc như Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên, Hội Nông dân...

3.3.1.4. Giải pháp về thực hiện các chính sách, chương trình về an

sinh xã hội

Tăng cường trách nhiệm của các cấp ủy Đảng, chính quyền, đoàn thể

của thành phố Bảo Lộc trong việc tạo điều kiện, hỗ trợ các gia đình, đặc biệt

92

là các gia đình đồng bào dân tộc thiểu số, gia đình gặp nhiều khó khăn để phát

triển kinh tế, cải thiện đời sống.

Thực hiện có hiệu quả Chương trình mục tiêu quốc gia Giảm nghèo

bền vững và Chương trình mục tiêu quốc gia Việc làm và dạy nghề giai đoạn

2012 - 2015 và các năm tiếp theo; đẩy mạnh việc triển khai thực hiện Nghị

quyết số 80/NQ-CP ngày 19 tháng 5 năm 2011 của Chính phủ về định hướng

giảm nghèo bền vững thời kỳ từ năm 2011 đến năm 2020; Thực hiện thông

báo Kết luận số 26-TB/TW của Ban Bí thư và Quyết định 2010/QĐ-UBND

ngày 09/10/2012 của Ủy ban nhân dân Tỉnh Lâm Đồng ban hành “Kế hoạch

triển khai chiến lược phát triển Gia đình VN đến năm 2020, tầm nhìn 2030

trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng”.

Trợ giúp xã hội cho những người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, ưu

tiên hỗ trợ trẻ em hộ nghèo.

Bảo đảm cho các hộ gia đình tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản ở mức tối

thiểu về giáo dục, y tế, nhà ở, nước sạch, thông tin. Ưu tiên cho gia đình đồng

bào dân tộc thiểu số, gia đình ở xã nghèo.

Thực hiện việc ưu tiên cho các doanh nghiệp, nhà đầu tư trực tiếp thực

hiện các chương trình, dự án tạo việc làm ưu tiên cho các hộ gia đình nghèo,

hộ cận nghèo, các hộ thực hiện chính sách chuyển đổi đất nông nghiệp phục

vụ đô thị hóa, công nghiệp hóa.

3.3.1.5. Giải pháp về xã hội hóa công tác gia đình

Chú trọng xây dựng, nâng cao chất lượng các dịch vụ tạo điều kiện,

giúp cho các gia đình tiếp cận, tham gia vào các hoạt động lao động, sản xuất,

phát triển kinh tế, nâng cao chất lượng cuộc sống, thực hiện bình đẳng giới

trong gia đình, hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình, góp phần nâng cao hiệu quả

lao động, sản xuất, xây dựng gia đình ngày càng no ấm, tiến bộ, hạnh phúc.

Đề cao tính chủ động và trách nhiệm tham gia của từng ngành, lĩnh vực

đối với việc thực hiện các nhiệm vụ công tác, việc hỗ trợ, xây dựng, phát triển

gia đình, việc thực hiện các chỉ tiêu liên quan đến lĩnh vực gia đình thuộc

phạm vi trách nhiệm của ngành, đoàn thể.

93

Huy động sự tham gia của cộng đồng dân cư, các tổ chức xã hội, các

dòng họ, cá nhân vào việc hỗ trợ hoặc tạo các điều kiện giúp cho các gia đình

nâng cao nhận thức và có thêm cơ hội, điều kiện tham gia vào các hoạt động

xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc.

3.3.2. Các kiến nghị đề xuất

3.3.2.1. Đối với Đảng và Nhà nước

Tiếp tục hoàn thiện việc xây dựng và thực hiện chủ trương, chính sách

của Đảng, pháp luật của Nhà nước về gia đình, công tác gia đình, văn hóa gia

đình, đặc biệt theo tinh thần Hội nghị Trung ương lần thứ 9, khóa XI:

Đẩy mạnh việc tổ chức, chỉ đạo, quản lý, triển khai thực hiện các chủ

trương, chính sách liên quan đến gia đình, bảo đảm cho các gia đình được tiếp

cận, được thụ hưởng đầy đủ các chính sách, quy định của Đảng, Nhà nước và

thực hiện trách nhiệm đối với việc xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh

phúc, tích cực đóng góp cho sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước.

Rà soát thực trạng, kết quả thực hiện các văn bản hiện hành của Đảng,

Nhà nước liên quan đến gia đình và công tác gia đình để trên cơ sở đó tiếp tục

hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về gia đình và công tác gia đình, tạo

cơ sở cho việc bảo đảm, tác động, hỗ trợ, thúc đẩy việc xây dựng gia đình

Việt Nam no ấm, tiến bộ, hạnh phúc.

Tổng kết thực tiễn việc thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng về gia

đình và công tác gia đình; trên cơ sở đó, đề xuất với Trung ương Đảng kịp thời

bổ sung, hoàn thiện các chủ trương, chính sách về gia đình và công tác gia đình.

Tổng kết thực tiễn việc thi hành các văn bản pháp luật liên quan đến gia

đình và công tác gia đình, đặc biệt là thực tiễn thi hành Luật hôn nhân và gia

đình, Luật phòng, chống bạo lực gia đình, Luật bình đẳng giới; trên cơ sở đó,

nghiên cứu đề xuất việc sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật còn nhiều

vướng mắc, bất cập trong thực tiễn áp dụng.

Đẩy mạnh các hoạt động hợp tác song phương, đa phương với các

nước, các tổ chức quốc tế, trong đó ưu tiên các hoạt động nghiên cứu, trao đổi

kinh nghiệm, đào tạo về hoạch định chính sách, quản lý, kỹ thuật, chuyển giao

94

công nghệ; tuyên truyền, giáo dục và cung cấp dịch vụ có chất lượng; hỗ trợ

nâng cao năng lực tổ chức quản lý, triển khai thực hiện các hoạt động của các

cơ quan; hỗ trợ các gia đình phát triển kinh tế, nâng cao chất lượng cuộc sống.

Tổ chức thực hiện Chương trình hành động quốc gia về phòng, chống

bạo lực gia đình đến năm 2020 sau khi được phê duyệt nhằm hỗ trợ các Bộ,

ngành, địa phương giải quyết những vấn đề trọng tâm của công tác gia đình.

Xây dựng cơ sở dữ liệu về gia đình, phòng, chống bạo lực gia đình:

Rà soát, đánh giá thực trạng các chỉ số, chỉ báo về gia đình. Nâng cao

chất lượng thu thập, xử lý thông tin số liệu về gia đình trên cơ sở áp dụng

công nghệ thông tin và hoàn thiện hệ thống các chỉ số, chỉ báo.

Xây dựng cơ sở dữ liệu về gia đình, phòng, chống bạo lực gia đình

phục vụ công tác nghiên cứu và hoạch định chính sách về gia đình, phòng,

chống bạo lực gia đình. Xây dựng bộ chỉ số về gia đình; bộ chỉ số giám sát,

đánh giá tình hình thực hiện Luật hôn nhân và gia đình, Luật phòng, chống

bạo lực gia đình.

3.3.2.2. Đối với lãnh đạo, chính quyền các cấp của thành phố Bảo

Lộc, tỉnh Lâm Đồng

Đối với Thành ủy Bảo Lộc: Tăng cương thực hiện Chỉ thị 49 của Ban

Bí thư Trung ương (Khóa IX) và Chỉ thị số 42 của Ban Thường vụ tỉnh ủy

Lâm Đồng về “ Xây dựng gia đình thời kỳ CNH - HĐH”. Tiếp tục Thực hiện

thông báo Kết luận số 26-TB/TW của Ban Bí thư và Quyết định 2010/QĐ-

UBND ngày 09/10/2012 của Ủy ban nhân dân Tỉnh Lâm Đồng ban hành “Kế

hoạch triển khai chiến lược phát triển Gia đình VN đến năm 2020, tầm nhìn

2030 trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng”.

Nghiên cứu để ban hành nghị quyết chuyên đề về công tác gia đình, xây

dựng văn hóa gia đình ở giai đoạn 2016 - 2020, tầm nhìn đến năm 2030. Trên

cơ sở đó chỉ đạo các cấp ủy đảng, chính quyền các cấp, các cơ quan, ban ngành,

UBMTTQ và các tổ chức chính trị xã hội đối với công tác gia đình. Coi công tác

gia đình, xây dựng văn hóa gia đình là một nội dung quan trọng trong các kế

hoạch, chương trình công tác thường xuyên của các cấp ủy Đảng, chính quyền.

95

Đối với UBND thành phố: Cần đưa các mục tiêu về gia đình vào kế

hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Xây dựng Đề án, kế hoạch dài hạn 5 năm từ

2016 - 2020 và hàng năm để triển khai thực hiện công tác gia đình, trong toàn

thành phố trong đó có nội dung trọng tâm là xây dựng văn hóa gia đình. Triển

khai thực hiện có hiệu quả các giải pháp về phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội

trên địa bàn, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân. Chỉ đạo

thực hiện tốt công tác quản lý nhà nước về gia đình và xây dựng văn hóa giá

đình. Đưa các chỉ tiêu xây dựng, phát triển gia đình mà trọng tâm là văn hóa gia

đình là tiêu chí để đánh giá các chỉ tiêu phát triển kinh tế của địa phương.

Tăng cường đầu tư nguồn lực vật chất và kỹ thuật, nhằm nâng cao đời

sống vật chất, tinh thần cho các gia đình, tạo điều kiện cho gia đình có cơ sở

để thực hiện chức năng bảo lưu, trao truyền giá trị văn hóa truyền thống cho

các thế hệ. Có những biện pháp quyết liệt thực hiện tốt hệ thống an sinh xã

hội; đồng thời, xây dựng và phát triển hệ thống dịch vụ xã hội hướng vào

phục vụ gia đình. Đó vừa là những dịch vụ hỗ trợ, tạo điều kiện để gia đình

chủ động phát triển sản xuất, kinh doanh, vừa là những dịch vụ tập trung vào

hoạt động tiêu dùng của gia đình, góp phần giảm bớt gánh nặng trong hoạt

động kinh tế của gia đình.

Phòng Văn hóa và Thông tin: Phối hợp với phòng Tư pháp và các đơn

vị liên quan tăng cường đổi mới các hoạt động phổ biến tuyên truyền về chủ

trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về gia đình cùng với chức

năng quản lý nhà nước về gia đình; tổ chức tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp

luật về hôn nhân gia đình, về phong tục, tập quán, truyền thống đạo đức tốt đẹp

của dân tộc Việt Nam trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình, về phòng chống bạo

lực gia đình trên các phương tiện truyền thông đại chúng. Làm cơ sở xây dựng

gia đình văn hóa và văn hóa gai đình trên địa bàn thành phố Bảo Lộc. Xây dựng

kế hoạch khảo sát, điều tra thực trạng tình hình gia đình, văn hóa gia đình trên

địa bàn để tham mưu cho UBND thành phố ban hành Đề án, kế hoạch đến năm

2020, tầm nhìn đến năm 2030 và kế hoạch hàng năm về công tác gia đình và

xây dựng văn hóa gia đình trong toàn thành phố Bảo Lộc.

96

Khuyến khích và thúc đẩy các hình thức tổ chức hoạt động giáo dục,

văn hóa, thể thao mà thành phố Bảo Lộc đã có như: Đẩy mạnh cuộc vận động

“Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”, trong đó trọng

tâm là xây dựng gia đình văn hóa, khu dân cư văn hóa, tiến tới xây dựng xã,

phường đạt chuẩn văn văn hóa; Tổ chức tốt các hình thức hoạt động câu lạc

bộ gia đình văn hóa, các sân chơi, tổ chức các hoạt động văn hóa truyền thống

dân tộc theo từng vùng miền mang đặc trưng bản sắc của từng dân tộc như

văn hóa Cồng chiêng của đồng bào dân tộc thiểu số, câu lạc bộ hát chèo, hát

quan họ, hát ví, hát dặm…; tạo điều kiện để đồng bào dân tộc thiểu số gốc

Tây Nguyên và các cộng đồng dân tộc thiểu số trên địa bàn thành phố giữ gìn

và phát huy truyền thống văn hóa tốt đẹp của mình. Nhất là việc bảo lưu và

phát triển không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên - di sản văn hóa phi

vật thể của nhân loại. Tăng cường, giao lưu mở rộng các chương trình vui

chơi giải trí phù hợp cho từng đối tượng, lứa tuổi … nhằm củng cố những giá

trị văn hóa, đạo đức truyền thống và xây dựng chuẩn mực văn hóa đạo đức

mới của gia đình trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa

Tăng cường bồi dưỡng và tập huấn ngắn hạn về kiến thức gia đình cho

cán bộ văn hóa từ thành phố đến cơ sở. Tuy nhiên, với từng đối tượng cụ thể

làm công tác cơ sở thì ưu tiên về các khóa tập huấn cho họ khác nhau.

Đối với nhóm cán bộ chính quyền và đoàn thể, cần tập huấn kiến thức

về các kỹ năng như: Kỹ năng thâm nhập quần chúng để kịp thời phát hiện những

khó khăn và mẫu thuẫn gia đình, kỹ năng nhận biết bản chất vấn đề, kỹ năng can

thiệp và tư vấn tâm lý, kỹ năng thuyết phục, hòa giải, ra quyết định…

Đối với cán bộ văn hóa cơ sở, cần tập huấn kiến thức về các giá trị văn

hóa gia đình truyền thống về ứng xử, về thực hiện nghi lễ trong tang ma, cưới

xin, lễ hội; kỹ năng vận động quần chúng; kỹ năng tổ chức các hoạt động sinh

hoạt cộng đồng.

Phòng Giáo dục và Đào tạo: Chỉ đạo các đơn vị, trường học các cấp bổ

sung nội dung giáo dục về gia đình, trong đó coi trọng vai trò, trách nhiệm và

kỹ năng làm cha., làm mẹ, ý nghĩa và tầm quan trọng của gia đình trong các

97

cấp học, bậc học cho phù hợp với từng giai đoạn phát triển; chú trọng công

tác phổ biến kiến thức nuôi dạy trẻ cho các bậc cha mẹ, cộng đồng và tuyên

truyền về giáo dục mầm non. Công tác phổ biến kiến thức nuôi dạy trẻ cho

các bậc cha mẹ, cộng đồng và tuyên truyền về giáo dục mầm non được thực

hiện thường xuyên ở các trường, lớp theo từng chủ đề, sưu tầm các tranh ảnh

thông qua các buổi họp phụ huynh, các Hội thi của Bé, qua tiếp xúc trao đổi

với phụ huynh lúc đón, trả trẻ… tạo sự thân thiện, gần gũi giữa phụ huynh và

tập thể sư phạm nhà trường. Chỉ đạo việc giảng dạy, đưa kiến thức xây dựng

gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc vào các chương trình giáo dục đào tạo phù

hợp với yêu cầu của từng ngành học, cấp học tiến tới thực hiện xã hội hóa về

công tác gia đình.

Phòng Lao động Thương binh và Xã hội: Tuyên truyền, tư vấn, phổ

biến các chủ trương, chính sách liên quan đến đào tạo nghề để nâng cao nhận

thức của toàn xã hội về vai trò đào tạo nghề; tổ chức thông tin rộng rãi các

chính sách hỗ trợ dạy nghề của nhà nước, nhu cầu tuyển sinh của các đơn vị dạy

nghề cho con em trong các gia đình trên địa bàn thành phố; tập trung nhập dữ

liệu hộ nghèo, hộ cận nghèo vào phần mền quản lý hộ nghèo, hộ cận nghèo giai

đoạn 2011-2015 và những năm tiếp theo. Thực hiện các chính sách cho các gia

đình có công với cách mạng, gia đình neo đơn, gia đình chính sách…

Trung tâm Y tế thành phố và các cơ sở y tế ở các xã, phường: Tăng

cường công tác truyền thông giáo dục sức khỏe cho nhân dân như phòng

chống suy dinh dưỡng ở trẻ em, bà mẹ mang thai…, phòng chống các dịch

bệnh dễ lây lan ở người, gia xúc… chương trình vệ sinh an toàn thực phẩm

cho các gia đình trên địa bàn thành phố để thực hiện và bảo đảm tốt cho sức

khỏe của cộng đồng.

Phòng Nông nghiệp và phát triển nông thôn: Hướng dẫn và phổ biến

kiến thức, áp dụng khoa học công nghệ chất lượng cao tới các hộ gia đình

nông dân. Tham mưu cho UBND thành phố thực hiện tốt nhiệm vụ phát triển

kinh tế hộ gia đình, kinh tế trang trại nông thôn, kinh tế hợp tác xã nông

nghiệp gắn với ngành nghề nông thôn trên địa bàn các xã. Đẩy mạnh việc

98

phát triển kinh tế hộ gia đình, nhân rộng các mô hình kinh tế hộ tiên tiến, thực

hiện tốt chủ trương công nghiệp hóa, hiện đại hoá. Thực hiện có hiệu quả các

dự án đầu tư, các chương trình xoá đói giảm nghèo và tạo việc làm, tạo ra

nhiều cơ hội để kinh tế hộ gia đình ở vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa,

vùng đồng bào dân tộc thiểu số chuyển đổi cơ cấu kinh tế, phát triển sản xuất,

nâng cao chất lượng đời sống vật chất và tinh thần.

3.3.2.3. Đối với các tổ chức chính trị - xã hội của thành phố Bảo Lộc,

tỉnh Lâm Đồng

Ủy ban Mặt trận Tổ quốc: Tiếp tục đẩy mạnh cuộc vận động “Toàn dân

đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”; phát triển và nhân rộng

các mô hình gia đình điển hình trong phong trào “Ông bà, cha mẹ mẫu mực,

con cháu thảo hiền”. Phối hợp với các cấp, các ngành, các tổ chức thành viên

vận động hội viên, đoàn viên và các tầng lớp nhân dân tích cực phát triển kinh

tế, xóa đói, giảm nghèo, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh trong cộng

đồng khu dân cư và trong từng gia đình. Góp phần nâng cao chất lượng gia

đình văn hóa, thôn, bản, tổ dân phố văn hóa trong toàn thành phố.

Hội Liên hiệp phụ nữ thành phố: Cần chỉ đạo các cấp hội làm tốt tuyên

truyền, phổ biến tới hội viên phụ nữ các chủ trương của Đảng, chính sách

pháp luật của Nhà nước về công tác gia đình…Đẩy mạnh thực hiện các nội

dung, chương trình hành động, nâng cao nhận thức về công tác phụ nữ và

bình đẳng giới, phòng chống bạo lực gia đình, Luật Hôn nhân và gia đình

cùng với bồi dưỡng các kiến thức về phòng chống HIV/AIDS, phòng chống

ma túy, mại dâm, phòng chống buôn bán phụ nữ và trẻ em. Duy trì, mở rộng

và nâng cao chất lượng hoạt động của các câu lạc bộ “Phụ nữ với pháp luật”,

“Phụ nữ nuôi con khỏe”, “Các CLB Gia đình văn hóa”,và “CLB Gia đình

không sinh con thứ 3”, “CLB trợ giúp pháp lý và phòng chống bạo lực gia

đình”… góp phần nâng cao kiến thức về chăm sóc, nuôi dạy con cái; kỹ năng

tổ chức cuộc sống gia đình, kiến thức về pháp luật cho phụ nữ, kỹ năng làm

cha, làm mẹ cho những người sắp được làm thiên chức đó. Chủ động phối

hợp với chính quyên các cấp, các ngành trong công tác tuyên truyền vận

99

động, nắm tình hình và tham gia giải quyết các vụ bạo lực gia đình có liên

quan đến phụ nữ trên địa bàn. Chú trọng xây dựng, nhân rộng các mô hình

xây dựng gia đình ấm no, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc. Làm cho hội viên

nhận thấy vai trò và trách nhiệm của mình trong việc việc xây dựng văn hóa

gia đình, gia đình văn hóa; thôn, buôn, tổ phố văn hóa. Từ đó có ý thức tự

giác trong việc tích cực học hỏi các kiến thức về gia đình.

Chủ động, tích cực, thường xuyên tuyên truyền, phổ biến và thực hiện

pháp luật liên quan tới gia đình, nhất là các bộ luật: Luật Hôn nhân và gia

đình, Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, Luật Bình đẳng giới và Luật

Phòng, chống bạo lực trong gia đình. Chính việc thực hiện nghiêm các bộ luật

này cũng góp phần tích cực trong việc giữa gìn và phát triển văn hóa gia đình,

phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của thế hệ các gia đình trên địa

bàn thành phố Bảo Lộc.

Đối với Thành đoàn: Tăng cường công tác giáo dục lý tưởng, đạo đức,

lối sống văn hóa cho đội ngũ đoàn viên thanh niên, biết giữ gìn và phát huy

những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc và tiên phong trong việc tiếp

thu có chọn lọc những tinh hoa của văn hóa của các nước tiên tiến trong khu

vực và thế giới. Đặc biệt, chú trọng việc tổ chức các hoạt động tuyên truyền,

giáo dục nâng cao nhận thức cho nam nữ thanh niên về trách nhiệm xây dựng

gia đình ấm no, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc đáp ứng nhu cầu của thời kỳ

CNH, HĐH đất nước.

Đối với Hội Nông dân thành phố: Ngoài việc vận động cán bộ, hội viên

nông dân phát huy vai trò nòng cốt thực hiện tốt chương trình mục tiêu quốc

gia “xây dựng nông thôn mới” bằng các hoạt động thiết thực: Tích cực

chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu cây trồng vật nuôi, đẩy mạnh việc áp dụng

tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, tạo ra nhiều sản phẩm nông sản có

chất lượng đem lại hiệu quả kinh tế cao, bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm,

góp phần thực hiện có hiệu quả các mục tiêu, chương trình phát triển kinh tế

nông nghiệp, nông thôn, nông dân và chương trình giảm nghèo bền vững của

thành phố. Cần tuyên truyền vận động hội viên nông dân, đặc biệt là nam giới

100

tích cực thực hiện tốt các nhiệm vụ về công tác gia đình, có ý thức nâng cao

chất lượng văn hóa gia đình mình; xây dựng và nhân rộng mô hình nông dân

tiến bộ, hạnh phúc, không có bạo lực gia đình và tệ nạn xã hội.

Hội Cựu chiến binh thành phố: Tăng cường giáo dục lý tưởng sống tốt

đẹp truyền thống lịch sử hào hùng của dân tộc. gương mẫu vận động các thành

viên trong gia đình xây dựng văn hóa gia đình, xây dựng gia đình, thôn, buôn, tổ

dân phố văn hóa. Giáo dục văn hóa gia đình, truyền thống của dân tộc, lý tưởng

sống cao đẹp cũng như bản lĩnh kiên trung cho thế hệ trẻ về truyền thống cách

mạng, về đạo đức và lối sống có nghĩa có tình, tích cực tham gia phát triển kinh

tế của gia đình góp phần vào sự phát triển địa phương.

Liên đoàn Lao động thành phố: Cần tăng cường phổ biến pháp luật lao

người lao động trong các cơ quan, đơn vị, các loại hình doanh nghiệp. Hình

thành nên lớp người lao động có tri thức, nghề nghiệp vững vàng, có tinh

thần trách nhiệm cao trong việc thực hiện các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng,

chính sách pháp luật của nhà nước, trong đó chú trọng về công tác gia đình,

tăng cường tổ chức các kỹ năng, hoạt động hướng về gia đình góp phần nâng

cao chất lượng văn hóa gia đình mình. Để gia đình của mỗi CB, CNVC,

người lao động thực sự là tổ ấm của mỗi người.

Đối với Hội người cao tuổi thành phố: Tiếp tục thể hiện vai trò nòng

cốt trong việc giáo dục con cháu lòng tự hào về nét đẹp của văn hóa trong gia

đình, có ý thức giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp

của dân tộc trong cuộc sống hiện đại. Tiếp tục đẩy mạnh và nâng cao chất

lượng trong phong trào thi đua “Tuổi cao gương sáng” trên địa bàn thành phố,

phát huy vai trò, vị thế của mình, tham gia phong trào thi đua yêu nước, các

cuộc vận động tuyên truyền, nuôi dạy con cháu, giáo dục thế hệ trẻ, xây dựng

văn hóa gia đình, yêu quê hương đất nước góp phần thực hiện các nhiệm vụ

phát triển kinh tế xã hội của địa phương.

Như vậy, việc xây dựng và thực hiện văn hóa gia đình không chỉ là của

một cá nhân, gia đình hay một tổ chức nào đó mà cần có sự vào cuộc của cả

hệ thống chính trị nhằm hướng tới xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến

bộ, hạnh phúc.

101

TIỂU KẾT CHƯƠNG 3

Qua đánh giá thực trạng văn hóa gia đình ở thành phố Bảo Lộc - Lâm

Đồng hiện nay. Với những mặt tích cực cũng như những hạn chế và những

vấn đề đặt ra. Trên cơ sở đó, luận văn cũng mạnh đưa ra các giải pháp, các ý

kiến đề xuất với Đảng, Nhà nước và các cấp ủy Đảng, chính quyền, đoàn thể,

các phòng ban chức năng của thành phố Bảo Lộc nhằm thực hiện tốt công tác gia

đình và xây dựng văn hóa gia đình ở địa bàn thành phố. Điều đó có ý nghĩa đặc

biệt quan trọng trong việc hoạch định chính sách phát triển kinh tế, chính trị, văn

hóa xã hội của thành phố trong thời gian tới và những năm tiếp theo.

102

KẾT LUẬN

Qua việc nghiên cứu từ lý luận và thực tiễn văn hóa gia đình hiện nay

ở thành phố Bảo Lộc - Lâm Đồng, có thể khẳng định rằng: Gia đình là nền

tảng của xã hội. Sự ổn định và phát triển của xã hội phụ thuộc rất lớn vào gia

đình. Một xã hội phát triển phồn vinh chỉ có thể được xây dựng trên nền tảng

gia đình ấm no, hạnh phúc. Là một thiết chế xã hội cơ bản, gia đình không chỉ

là môi trường quan trọng để hình thành, nuôi dưỡng và giáo dục nhân cách

con người mà gia đình còn là nơi bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa dân

tộc. Trong giai đoạn hiện nay, gia đình Việt Nam nói chung và gia đình ở địa

bàn thành phố Bảo Lộc tỉnh Lâm Đồng nói riêng đã và đang có sự chuyển tiếp

từ xã hội truyền thống sang xã hội hiện đại. Tuy nhiên, những giá trị đạo đức

truyền thống về cơ bản được phát huy và vẫn được coi là chuẩn mực xã hội, là

đạo lý; đồng thời gia đình đang tiếp thu những giá trị mới của thời đại, làm giàu

cho nên văn hóa của dân tộc và địa phương. Cùng với sự phát triển của khoa học

công nghệ, quá trình giao lưu, hội nhập quốc tế, kinh tế gia đình phát triển

nhanh, thu nhập và đời sống vật chất của đại đa số gia đình được nâng lên, quan

hệ dân chủ trong gia đình được mở rộng, tính năng động của gia đình được phát

huy. Các thành viên có quyền bình đẳng, dân chủ trong bàn bạc và có quyền

tham gia vào các hoạt động xã hội, được Nhà nước bảo vệ thông qua hệ thống

pháp luật. Thói gia trưởng, quyền quyết định tuyệt đối của nam giới đã bị hạn

chế. Vị trí người phụ nữ được cải thiện rõ rệt, giúp họ có vai trò nhất định trong

gia đình và ngoài xã hội đóng góp cho đất nước… cùng với sự biến đổi không

ngừng của các yếu tố kinh tế, chính trị, xã hội và văn hóa, sự phát triển vượt bậc

của khoa học công nghệ, gia đình Việt Nam nói chung và gia đình ở thành phố

Bảo Lộc tỉnh Lâm Đồng nói riêng, đang có những biến đổi sâu sắc và đứng

trước những khó khăn, thách thức cần giải quyết.

Việc xây dựng và phát huy văn hóa gia đình ở thành phố Bảo Lộc

trong những năm qua đã có những đóng góp to lớn, làm phong phú hơn, sinh

động hơn về một vùng đất mới của khu vực Nam Tây Nguyên. Các giá trị văn

hóa truyền thống của gia đình Việt Nam tiếp tục được gìn giữ và phát huy,

103

ngày càng xuất hiện nhiều những gia đình văn hóa tiêu biểu. Kinh tế gia đình

ngày càng phát triển, công tác bảo vệ và chăm sóc giáo dục trẻ em ngày càng

được quan tâm, trẻ em được đến trường đầy đủ, được đảm bảo quyền lợi về

chăm sóc sức khỏe, vui chơi giải trí. Tình trạng bạo lực gia đình có phần được

hạn chế, tính dân chủ trong mỗi gia đình ngày càng được nâng cao. Việc chăm

sóc, phụ dưỡng người già được các gia đình quan tâm hơn. Các giá trị, tình yêu

thương, sự thủy chung, nghĩa tình của mối quan hệ vợ chồng, tình cảm gắn bó

anh em, ông bà, con cháu… trách nhiệm giữa các thành viên trong gia đình được

thắt chặt. Ông bà, cha mẹ mẫu mực, con cái thảo hiền, kính trên nhường dưới…

là những nét đẹp truyền thống, là giá trị cao quý mà tất cả thành viên trong gia

đình phải nâng niu, gìn giữ, củng cố thông qua thái độ, hành vi ứng xử, thực hiện

các chuẩn mực trong đời sống gia đình. Xây dựng phát triển văn hóa gia đình là

động lực để phát triển gia đình Việt Nam hiện đại. Các giá trị văn hóa sẽ chi phối

nhận thức, thái độ và hành vi các thành viên gia đình theo các giá trị văn hóa,

chuẩn mực của đạo đức xã hội một cách tích cực, góp phần hóa giải các mâu

thuẫn, xung đột, giúp các nhân thay đổi nhận thức và hành vi trong các mối quan

hệ của gia đình và cộng đồng xã hội.

Bên cạnh đó, dưới sự tác động của kinh tế - xã hội, đặc biệt trong gia

đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa như hiện nay, gia đình Việt Nam nói

chung và gia đình ở thành phố Bảo Lộc nói riêng đang có những biến đổi nhất

định. Những biến đổi ấy được thể hiện ở nhiều khía cạnh sau: biến đối về cơ

cấu và quy mô gia đình, biến đổi về chức năng gia đình và biến đổi về mối

quan hệ và vai trò của các thành viên trong gia đình...Chúng ta không đề cập

tới những biến đổi đó là tích cực hay tiêu cực. Song có thể nhận thấy, chính

sự biến đổi văn hóa gia đình đã tác động đến các thành viên trong gia đình và

từ đó tác động ngược trở lại đối với xã hội nói chung và các ngành nghề làm

việc trực tiếp với con người, với gia đình, trong đó có công tác xã hội. Vì vậy,

để phát huy hơn nữa vai trò của gia đình trong giai đoạn hiện nay, đòi hỏi sự

quan tâm, đầu tư, hỗ trợ có hiệu quả của các cấp ủy Đảng, chính quyền và sự

vào cuộc của toàn xã hội.

104

Luận văn đã đánh giá thực trạng văn hóa gia đình hiện nay ở thành phố

Bảo Lộc, luận văn cũng đã mạnh dạn đưa ra những ý kiến đề xuất và giải

pháp trong việc xây dựng và củng cố văn hóa gia đình ở địa phương trong

thời gian tới. Nhất là trong giai đoạn hiện nay khi mà đạo đức gia đình đang

dần xuống cấp, tệ nạn xã hội gia tăng, quan hệ tình cảm ở một số gia đình bị

coi nhẹ, mâu thuẫn gia đình nẩy sinh, trẻ em hư hỏng, sa đà vào các tệ nạn xã

hội… thì việc phát huy những giá trị của văn hóa gia đình truyền thống và hiện

đại để giáo dục thế hệ trẻ trở thành chủ nhân tương lai của đất nước là một việc

làm có ý nghĩa vô cùng quan trọng, góp phần thực thắng lợi nhiệm vụ chính trị,

phát triển kinh tế - xã hội của thành phố Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng.

105

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ph.Ăngghen (1984), Nguồn gốc của gia đình, của sở hữu tư nhân và sở

hữu của nhà nước, Nxb Sự thật, Hà Nội.

2. Toan Ánh (2012), Nếp cũ - Tìm hiểu phong tục Việt Nam qua nếp cũ gia

đình và Lễ - Tết - Hội hè, Nxb Trẻ, TP. Hồ Chí Minh.

3. Ban Bí thư Trung ương Đảng (2005), Chỉ thị 49 - CT/TW, ngày

21/2/2005 về xây dựng gia đình thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại

hóa đất nước.

4. Ban Chấp hành Đảng bộ thị xã Bảo Lộc (2007), Lịch sử Đảng bộ thị xã

Bảo Lộc.

5. Ban Thường vụ Thị ủy Bảo Lộc (2006), Nghị quyết số 06-NQ/TU ngày

9/3/2006 về chương trình hành động thực hiện Chỉ thị 49-CT-TW

của Ban bí thư Trung ương Đảng và chỉ thị số 42- CT/TW của Ban

thường vụ Tỉnh ủy Lâm Đồng về xây dựng gia đình thời kỳ công

nghiệp hóa, hiện đại hóa.

6. Ban Thường vụ Tỉnh ủy Lâm Đồng (2011), Kế hoạch số 22-KH/TU

ngày 01/8/2011 về xây dựng gia đình thời kỳ công nghiệp hóa, hiện

đại hóa đất nước.

7. Mai Huy Bích (2009), Xã hội học gia đình, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.

8. Trần Văn Bính (1999), Toàn cầu và vấn đề gia đình, Tham luận tại Hội

thảo: Tác động của toàn cầu hóa tới cơ cấu gia đình, Hà Nội.

9. Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch - Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam (2012),

Chương trình phối hợp số 4646/CTPH - BVHTTVDL - HLHPNVN,

ngày 27/12/2012 về việc đẩy mạnh công tác vận động, hỗ trợ phụ nữ

tham gia xây dựng gia đình hạnh phúc bền vững 2012 - 2015.

10. Bùi Đình Châu (2002), Văn hóa gia đình, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.

11. Phan Đại Doãn (2010), Làng xã Việt Nam một số vấn đề kinh tế, văn hóa

- xã hội, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

12. Khắc Dũng (2005), Nam Tây Nguyên những điều kỳ thú, Nxb Văn nghệ,

Hà Nội.

106

13. Thùy Dương (1995), Hạnh phúc gia đình, Nxb Đồng Nai.

14. Dương Tự Đam (1999), Gia đình và việc hình thành nhân cách thanh

niên, Nxb Thanh niên, Hà Nội.

15. Đảng bộ thành phố Bảo Lộc (2010), Văn kiện trình đại hội đại biểu

Đảng bộ thành phố Bảo Lộc lần thứ IV, nhiệm kỳ 2010 - 2015.

16. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban

Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

17. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

18. Ngô Quốc Đông (2009), “Văn hóa gia đình bảo lưu và thách đố”, Diễn

đàn Văn hóa nghệ thuật, (296).

19. Đỗ Thái Đồng (1991), Gia đình truyền thống và những biến thái ở Nam

bộ Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

20. Phạm Duy Đức (Chủ biên) (2004), Hoạt động giải trí ở đô thị Việt Nam

hiện nay - Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Viện Văn hóa & Nxb

Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.

21. Phạm Duy Đức (Chủ biên) (2010), Phát triển văn hóa Việt Nam giai

đoạn 2011 - 2020 xu hướng và giải pháp, Nxb Chính trị quốc gia,

Hà Nội.

22. Lê Quý Đức (1995), “Những giải pháp phát huy vai trò của văn hóa gia

đình đối với quá trình nhập thân văn hóa của trẻ em”, Tạp chí Khoa

giáo, (6).

23. Lê Quý Đức (2000), Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh trong sụ nghiệp

xây dựng nền văn hóa Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

24. Lê Quý Đức và Vũ Thị Huệ (2003), Người phụ nữ trong văn hóa gia

đình đô thị, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

25. Phạm Thanh Hà (2011), Giữ gìn bản sắc dân tộc Việt Nam trong bối

cảnh toàn cầu hóa hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

26. Dương Phú Hiệp (2012), Cơ sở lý luận và phương pháp luận nghiên cứu

văn hóa và con người Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

107

27. Lê Như Hoa (2002), Lối sống trong xã hội hiện đại, Nxb Văn hóa Thông

tin, Hà Nội.

28. Ngô Công Hoàn (1995), Tâm lý học gia đình, Nxb Trường Đại học sư

phạm, Hà Nội.

29. Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh (2013), Giáo

trình Lý luận văn hóa và đường lối văn hóa của Đảng cộng sản Việt

Nam, Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội.

30. Hội Khuyến học thành phố Bảo Lộc (2013), Báo cáo tổng kết công tác

khuyến học, Bảo Lộc.

31. Hội Liên hiệp phụ nữ thành phố Bảo Lộc (2010), Báo cáo 10 năm đề án

phòng chống tội phạm trong lứa tuổi vị thành niên (2000 -2010),

Bảo Lộc.

32. Lê Thị Thanh Hương (Chủ biển) (2009), Ứng xử của người dân vùng đồng

bằng sông Hồng trong gia đình, Nxb Từ điển bách khoa, Hà Nội.

33. Nguyễn Đắc Hưng (2010), Văn hóa Việt Nam giàu bản sắc, Nxb Chính

trị quốc gia, Hà Nội.

34. A.X.Ka - rơ - min (2010), Văn hóa học, Nxb S.t Peterburg, Người dịch:

GS, TS Hoàng Vinh.

35. Vũ Khiêu, Phạm Xuân Nam, Hoàng Trinh (1993), Phương pháp luận về

vai trò của văn hóa trong phát triển, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

36. Nguyễn Linh Khiếu (2001), Gia đình và phụ nữ trong biến đổi văn hóa -

xã hội nông thôn, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

37. Tương Lai (1996), Những nghiên cứu xã hội học về gia đình Việt Nam,

Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

38. Văn Linh (2004), Văn hóa gia đình, Nxb Thanh niên, Hà Nội.

39. Nguyễn Thế Long (2012), Gia đình những giá trị truyền thống, Nxb

Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.

40. C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, Tập 21, Nxb Chính trị quốc gia,

Hà Nội.

41. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, Tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

42. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, Tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

108

43. Lê Minh (1994), Văn hóa gia đình Việt Nam và sự phát triển xã hội,

Nxb Lao động, Hà Nội.

44. Dương Thị Minh (2004), Gia đình Việt Nam và vai trò người phụ nữ

trong giai đoạn hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

45. Nhiều tác giả (2002), Văn hóa gia đình và sự phát triển của xã hội, Nxb

Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

46. Phòng Nội vụ thành phố Bảo Lộc (2013), Báo cáo tình hình tôn giáo -

dân tộc trên địa bàn thành phố, Bảo Lộc.

47. Chi cục Thống kê thành phố Bảo Lộc (2013), Báo cáo số liệu thống kê

về kinh tế xã hội thành phố, Bảo Lộc.

48. Phòng Văn hóa Thông tin thành phố Bảo Lộc (2013), Báo cáo công tác

gia đình và phòng chống bạo lực gia đình trên địa bàn thành phố

Bảo Lộc, Bảo Lộc.

49. Quốc hội (2000), Luật Hôn nhân và gia đình, Nxb Chính trị quốc gia,

Hà Nội.

50. Quốc hội (2006), Luật Bình đẳng giới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

51. Quốc hội (2007), Luật Phòng, chống bạo lực gia đình, Nxb Chính trị

quốc gia, Hà Nội.

52. Nguyễn Ngọc Phan ( 2010), Tục ngữ ca dao Việt Nam, Nxb Văn hóa Sài

Gòn.

53. Tạ Ngọc Tấn (2001), Truyền thông đại chúng, Nxb Chính trị quốc gia,

Hà Nội.

54. Thành uỷ Bảo Lộc (2012), Báo cáo tổng kết 15 năm thực hiện Nghị

quyết Trung ương năm khoá VIII về xây dựng và phát triển nền văn

hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.

55. Nguyễn Xuân Thắng, Vũ Văn Phúc, Phạm Văn Đức, Nguyễn Linh

Khiếu (2013), Văn kiện Đại hội XI của Đảng - Một số vấn đề lý luận

và thực tiễn, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

56. Hồ Bá Thâm (2007), Sự phát triển văn hóa đồng bộ và tương xứng với

phát triển kinh tế tạo ra sự phát triển bền vững, Nxb Phương Đông,

Hà Nội.

109

57. Lê Thi (1997), Vai trò của gia đình trong việc xây dựng nhân cách con

người Việt Nam, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.

58. Lê Thi (2002), Vai trò gia đình trong việc xây dựng nhân cách con

người Việt Nam, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.

59. Lê Thi (2003), Gia đình Việt Nam trong bối cảnh đất nước đổi mới, Nxb

Khoa học xã hội, Hà Nội.

60. Lê Thi (2006), Cuộc sống và biến đổi hôn nhân gia đình Việt Nam hiện

nay, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

61. Bùi Đăng Thiên (Biên soạn) (2011), Gia đình môi trường giáo dục đầu

tiên của con người, Nxb Dân trí, Hà Nội.

62. Ngô Đức Thịnh (2010), Bảo tồn, làm giàu và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống Việt Nam trong đổi mới và hội nhập, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

63. Nguyễn Thị Thọ (2011), Xây dựng đạo đức gia đình hiện nay ở nước ta,

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

64. Thủ tướng Chính phủ (2010), Chiến lược phát triển gia đình Việt Nam

đến năm 2020, tầm nhìn 2030, Hà Nội.

65. Võ Thị Thanh Thủy (2012), Văn hóa gia đình ở hiện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình hiện nay, Luận văn thạc sĩ Văn hóa học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.

66. Tòa án nhân dân thành phố Bảo Lộc (2013), Báo cáo tổng kết từ năm

2009 đến năm 2013.

67. Phạm Ngọc Trung (2010), Văn hóa thời đại toàn cầu, Nxb Chính trị

quốc gia, Hà Nội.

68. Trung tâm Dân số - kế hoạch hóa gia đình thành phố Bảo Lộc (2013),

Báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện pháp lệnh dân số, Bảo Lộc.

69. Đăng Trường (2008), Nghi lễ và tập tục của người Việt với phụ nữ, Nxb

Văn hóa - Thông tin, Tp. Hồ Chí Minh.

70. Hà Xuân Trường (1994), Văn hóa, khái niệm và thực tiễn, Nxb Chính trị

quốc gia, Hà Nội.

71. Trường Đại học văn hóa Hà Nội (2012), Thực tại và tương lai của gia

đình trong thế giới hội nhập, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.

110

72. Ủy ban nhân dân tỉnh Lâm Đồng (2011), Chỉ thị số 06/2011/CT-UBND

ngày 03/6/2011 về đẩy mạnh công tác gia đình và phòng, chống bạo

lực gia đình trên địa bàn.

73. Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thành phố Bảo Lộc (2010), Báo cáo

tổng kết 15 năm thực hiện cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây

dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”.

74. Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thành phố Bảo Lộc (2012), Báo cáo

kết quả cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn

hóa ở khu dân cư” từ năm 2012 đến nay.

75. Uỷ ban nhân dân thành phố Bảo Lộc (2010), Kế hoạch phát triển kinh tế

- xã hội của thành phố Bảo Lộc giai đoạn 2011-2015.

76. Ủy ban nhân dân thành phố Bảo Lộc (2013), Báo cáo tình hình kinh tế -

xã hội từ năm 2008 đến năm 2013, Bảo Lộc.

77. Ủy ban nhân dân thành phố Bảo Lộc (2014), Báo cáo kết quả triển khai

thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2011 -

2013 trên địa bàn thành phố, Bảo Lộc.

78. Ủy ban quốc gia về thập kỷ thế giới phát triển văn hóa (1992), Nxb Văn

hóa - Thông tin, Hà Nội.

79. Lê Ngọc Văn (1998), Gia đình Việt Nam với chức năng xã hội hóa, Nxb

Giáo dục, Hà Nội.

80. Lê Ngọc Văn (2012), Gia đình và biến đổi gia đình ở Việt Nam, Nxb

Khoa học xã hội, Hà Nội.

81. Hoàng Vinh (1997) Một số vấn đề về bảo tồn và phát triển di sản văn

hoá dân tộc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

82. Nguyễn Đình Xuân (1997), Giáo dục đời sống gia đình, Nxb Đại học

quốc gia, Hà Nội.