LUẬN VĂN:
Văn hóa giải trí ở thành phố Hải Phòng trong thời kỳ đổi mới hiện nay
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày 5-8-2003 Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá IX) ra
Nghị quyết số 32-NQ/TW về xây dựng và phát triển thành phố Hải Phòng trong thời
kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đây là sự kiện có ý nghĩa lịch sử mở ra
giai đoạn phát triển mới của thành phố. Nghị quyết nhấn mạnh: Hải Phòng là thành
phố cảng công nghiệp hiện đại; đô thị trung tâm cấp quốc gia, đầu mối giao thông
quan trọng và cửa chính ra biển của các tỉnh phía Bắc, một cực tăng trưởng quan trọng
của vùng kinh tế động lực phía Bắc, một động lực phát triển kinh tế biển, một trong
những trung tâm công nghiệp, thương mại lớn của cả nước và trung tâm dịch vụ, du lịch,
thủy sản, giáo dục, y tế của vùng duyên hải Bắc Bộ...
Trong những năm đổi mới Hải Phòng đã có bước phát triển mạnh mẽ về chính
trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân thành phố được
nâng lên rõ rệt. Các hoạt động sản xuất - kinh doanh, thương mại, du lịch, dịch vụ,
giáo dục, thông tin, văn hóa thể thao... diễn ra sôi động, thu hút đông đảo các tầng
lớp dân cư thành phố.
Hải Phòng là vùng đất có truyền thống văn hóa lâu đời, có nhiều danh lam
thắng cảnh, di tích lịch sử, nhiều lễ hội dân gian đặc sắc, có khu du lịch biển, đảo
(Đồ Sơn, Cát Bà...) là những địa điểm rất thuận lợi cho việc khai thác, tổ chức các
hoạt động văn hóa giải trí cho nhân dân. Bên cạnh đó, sự phát triển các phương tiện
thông tin đại chúng, sự đa dạng của hệ thống thiết chế văn hóa: Bảo tàng, thư viện,
nhà văn hóa, cung văn hoá, nhà thi đấu TDTT, sự sôi động trong các hoạt động văn
hóa nghệ thuật... đã đáp ứng nhu cầu tinh thần ngày càng phong phú và đa dạng của
các tầng lớp nhân dân, góp phần giữ ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội. Tuy
nhiên, bên cạnh những thành tích đã đạt được trong phát triển văn hoá, thành phố Hải
Phòng cũng còn có những tồn tại, yếu kém trong hoạt động này:
- Một số cấp, ngành thành phố chưa có nhận thức đầy đủ về vị trí, vai trò của
văn hoá, văn hoá giải trí, còn quá coi trọng khía cạnh kinh tế trong lĩnh vực giải trí,
coi nhẹ yếu tố văn hóa, cảnh quan, môi trường.
- Quá trình đô thị hoá nhanh khiến diện tích đất dành cho các hoạt động giải trí
công cộng (nhất là dành cho trẻ em) ngày càng bị thu hẹp lại. Một số cấp, ngành, đơn
vị, đoàn thể chưa thực sự quan tâm đến việc đẩy mạnh hoạt động văn hóa vui chơi
giải trí cho người dân nên dẫn đến tình trạng thiếu điểm vui chơi giải trí và các nội
dung hoạt động phù hợp, hoặc xuất hiện các loại hình trò chơi, cách chơi gây tổn hại
tới sức khoẻ, tới kinh tế, tới việc hình thành nhân cách, ảnh hưởng tới trật tự an toàn
xã hội.
- Với sự phát triển mạnh mẽ của các thành phần kinh tế, nhiều doanh nghiệp
ngoài quốc doanh, công ty liên doanh, công ty có vốn đầu tư nước ngoài ra đời, số
lượng công nhân lao động tăng nhanh nhưng tại nhiều doanh nghiệp, công nhân lao
động phải làm việc trong những điều kiện hết sức khắc nghiệt, thời gian lao động và
cường độ lao động cao, thu nhập thấp, ít được quan tâm đáp ứng nhu cầu văn hoá
tinh thần, nhu cầu vui chơi giải trí nhằm tái sản xuất sức lao động. Có thể nói văn
hóa giải trí cho số công nhân lao động ở đây còn rất ít được quan tâm, chú ý.
- Thành phố chưa phát huy hết các tiềm năng hiện có để phát triển lĩnh vực vui
chơi giải trí như các tiềm năng trong du lịch, dịch vụ văn hoá công cộng, văn hoá
nghệ thuật, phương tiện thông tin đại chúng... Chưa huy động được tốt các nguồn lực
trong nước và nước ngoài đầu tư trong lĩnh vực vui chơi giải trí.
Những tồn tại nêu trên cần sớm được khắc phục nhằm thúc đẩy sự phát triển
văn hóa giải trí ở thành phố Hải Phòng trong thời gian tới. Việc lựa chọn và nghiên
cứu đề tài "Văn hóa giải trí ở thành phố Hải Phòng trong thời kỳ đổi mới hiện
nay" sẽ góp phần vào việc tìm hiểu, phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động văn hoá
giải trí ở thành phố Hải Phòng trong thời gian qua, từ đó đề xuất phương hướng và
giải pháp nhằm đưa văn hoá giải trí ở Hải Phòng trong thời gian tới tiếp tục phát triển
mạnh mẽ và đúng hướng, góp phần đáp ứng nhu cầu văn hoá ngày càng đa dạng, phong
phú của các tầng lớp nhân dân thành phố.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm gần đây, việc nghiên cứu văn hóa giải trí và các hoạt động
văn hoá vui chơi giải trí đã được một số nhà nghiên cứu, lý luận văn hóa, quản lý văn
hóa quan tâm, đã có một số đề tài, công trình của các tác giả đi trước đề cập đến
những vấn đề mà luận văn nghiên cứu.
- Đề tài "Nghiên cứu phát triển các hoạt động văn hóa vui chơi giải trí ở Hà
Nội - thực trạng và giải pháp" do PGS.TS Phạm Duy Đức làm chủ nhiệm, Sở Văn
hóa Thông tin Hà Nội là cơ quan chủ trì, thực hiện năm 2003 và công trình "Hoạt
động giải trí ở đô thị Việt Nam hiện nay những vấn đề lý luận và thực tiễn"do
PGS.TS Phạm Duy Đức (chủ biên) [22] đã phân tích một số vấn đề lý luận về văn
hoá giải trí, đánh giá thực trạng hoạt động văn hoá giải trí ở Hà Nội và đề xuất các
giải pháp phát triển các hoạt động văn hoá giải trí ở Hà Nội nói riêng, ở đô thị nước
ta nói chung.
- Luận án tiến sĩ xã hội học của Đinh Thị Vân Chi, "Nhu cầu giải trí của thanh
niên. Nghiên cứu khuôn mẫu giải trí của thanh niên và sự đáp ứng nhu cầu giải trí
tại Hà Nội" [9] hoàn thành năm 2001 đã xác định quan niệm về giải trí và nhu cầu
giải trí của thanh niên Hà Nội, các giải pháp đáp ứng nhu cầu giải trí trên địa bàn
thành phố Hà Nội.
- Công trình, Vai trò của văn hóa dân gian trong các sân chơi trên truyền hình của
PGS,TS. Trần Thị Trâm [49] đã khai thác các khía cạnh của văn hóa dân gian trong việc
tổ chức các trò chơi giải trí trên truyền hình.
Về xây dựng và phát triển văn hoá ở thành phố Hải Phòng trong thời kỳ công
nghiệp hoá, hiện đại hoá cũng đã có những kết quả nghiên cứu bước đầu. Luận văn
thạc sỹ Văn hoá học " Phương pháp và tổ chức hoạt động Cung văn hoá, Nhà văn
hoá lao động trong thời kỳ đổi mới hiện nay" [7] hoàn thành năm 1998 và Luận án
tiến sỹ Lịch sử " Giao tiếp và ứng xử với tư cách là thành tố văn hoá trong hoạt động
doanh nghiệp thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước" [8] của tác giả
Nguyễn Văn Bính, hoàn thành năm 2003 đã lấy Hải Phòng làm đối tượng khảo sát
chủ yếu. Luận văn tốt nghiệp Đại học chính trị - Học viện CTQG Hồ Chí Minh (khoá
2000 - 2004) của tác giả Hoàng Đình Thi đã nghiên cứu "Báo chí Hải Phòng với
nhiệm vụ xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc" [45]. Công trình "Lễ hội truyền thống văn hoá tiêu biểu Hải Phòng" do tác giả
Trịnh Minh Hiên (chủ biên) [24] đã đề cập đến một số lĩnh vực của văn hoá giải trí ở
Hải Phòng như: Lễ hội dân gian, các phương tiện thông tin đại chúng và các thiết chế
văn hoá...Tuy nhiên, đó cũng chỉ là một phần của bức tranh toàn cảnh về văn hóa và
văn hoá giải trí của thành phố Hải Phòng, đến lượt mình, chúng tôi sẽ đi sâu hơn
trong việc tái hiện bức tranh toàn cảnh về văn hoá giải trí ở thành phố Hải Phòng
trong thời kỳ đổi mới hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài
* Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở phân tích bản chất, chức năng của văn hóa giải trí và vai trò của văn
hoá giải trí, đề tài đi sâu tìm hiểu thực trạng hoạt động văn hóa giải trí ở Thành phố
Hải Phòng trong thời kỳ đổi mới hiện nay, trên cơ sở đó đề xuất phương hướng và
những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động văn hóa giải trí, góp phần đáp
ứng nhu cầu văn hóa tinh thần của các tầng lớp nhân dân, xây dựng và hoàn thiện
nhân cách con người, thúc đẩy sự phát triển KT - XH, văn hoá của thành phố Cảng
trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
* Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Phân tích bản chất của văn hóa giải trí, vai trò của văn hóa giải trí trong đời
sống xã hội và sự phát triển, hoàn thiện con người.
- Điều tra, khảo sát đánh giá thực trạng văn hóa giải trí ở thành phố Hải Phòng.
- Đề xuất phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả của
văn hóa giải trí hướng tới xây dựng con người Hải Phòng năng động, sáng tạo trong
thời kỳ đổi mới hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Đối tượng nghiên cứu: Văn hoá giải trí ở thành phố Hải Phòng
- Phạm vi nghiên cứu: Văn hóa giải trí là một vấn đề rộng lớn. Vì vậy đề tài chỉ
tập trung làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về văn hóa giải trí và phân tích, đánh giá
thực trạng hoạt động của văn hoá giải trí ở thành phố Hải Phòng trong khoảng thời gian từ
năm 2000 đến nay. Các phương hướng và giải pháp được đề xuất hướng tới năm 2010.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài được tiến hành trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử. Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng là: phương
pháp lịch sử và lôgíc, phương pháp so sánh, tổng hợp, thống kê và điều tra xã hội
học, phương pháp liên ngành (đô thị học, văn hoá học, xã hội học...).
6- Đóng góp mới về khoa học của đề tài
- Làm sáng tỏ hơn khái niệm, đặc trưng, bản chất của văn hóa giải trí và vai
trò của văn hoá giải trí đối với việc xây dựng, hoàn thiện con người và phát triển
kinh tế - xã hội.
- Phân tích thực trạng văn hóa giải trí ở thành phố Hải Phòng trong thời gian
qua.
- Đề xuất giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động văn hóa giải trí ở
Thành phố Hải Phòng trong những năm tới.
7. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
* Về phương diện lý luận:
- Nhận thức sâu sắc hơn quan điểm của Đảng ta về xây dựng nền văn hoá Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong thời kỳ đổi mới hiện nay.
- Phân tích và làm sáng tỏ vai trò của văn hóa giải trí trong việc nâng cao đời
sống văn hoá tinh thần của nhân dân, phát triển KT - XH, xây dựng và hoàn thiện
nhân cách con người trong thời kỳ đổi mới hiện nay.
* Về phương diện thực tiễn :
Kết quả mà luận văn đạt được có thể sử dụng để làm tài liệu tham khảo cho
việc tìm hiểu hoạt động văn hoá giải trí, và công tác lãnh đạo và quản lý văn hóa hiện
nay ở Thành phố Hải Phòng.
8. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn
gồm 3 chương, 9 tiết:
Chương 1: Vai trò của văn hoá giải trí trong đời sống xã hội hiện đại.
Chương 2: Thực trạng văn hoá giải trí ở thành phố Hải Phòng trong thời kỳ đổi
mới hiện nay.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp phát triển văn hoá giải trí ở Hải Phòng
thời kỳ 2006 - 2010.
Chương 1
vai trò của Văn hóa giải trí
trong đời sống xã hội hiện đại
1.1. Quan niệm về văn hoá giải trí
1.1.1. Quan niệm về giải trí
Giải trí là một từ Hán - Việt. "Từ điển Hán - Việt" của cụ Đào Duy Anh giải
thích: Giải trí là khi làm việc rỗi, làm cho trí não được khoan khoái, gần nghĩa với
giải trí là tiêu khiển, tiêu khiển là giải muộn, khuây sầu. Giải trí còn đồng nghĩa với
vui chơi cho nên người ta thường nói vui chơi, giải trí.
Hoạt động giải trí bắt nguồn từ nhu cầu (giải trí). Nhu cầu là đòi hỏi điều gì đó
cần thiết để đảm bảo hoạt động sống của cơ thể, của nhân cách con người, của nhóm
xã hội hoặc toàn XH nói chung; là nguồn thôi thúc nội tại của hành động. Nhu cầu
không chỉ mang tính sinh học, nhằm đáp ứng những đòi hỏi sinh học của con người,
nhu cầu còn mang tính xã hội, thể hiện ở chỗ: Thứ nhất, dù là của riêng mỗi cá nhân
nhưng nhu cầu chỉ có thể được đáp ứng nhờ nền sản xuất xã hội, bị nền sản xuất đó
quy định, và vì vậy chúng mang tính xã hội rõ nét. Các nền sản xuất khác nhau nên
nhu cầu được thoả mãn theo sự quy định của nền sản xuất đó cũng khác nhau. Thứ
hai, cũng những nhu cầu như nhau nhưng mỗi thời đại được đáp ứng theo những
cách khác nhau, phù hợp với điều kiện lịch sử và mức độ phát triển xã hội đó, C.Mác
đã từng nói: Cùng là cái đói, nhưng cái đói được thoả mãn bằng dĩa và dao khác với
cái đói ngốn ngấu thịt sống bằng bàn tay, móng tay và răng, và thứ ba, nhu cầu còn
được đáp ứng trong khuôn khổ phong tục tập quán (văn hoá) của cộng đồng và bị
quy định bởi văn hoá cộng đồng.
Khi nghiên cứu về nhu cầu các tác giả đều thống nhất rằng, nhu cầu là nguồn
gốc mọi hành động của con người. Khi một nhu cầu xuất hiện, sẽ hình thành trong
con người một động cơ, thôi thúc hành động để thoả mãn nhu cầu đó. Nhà phân tâm
học nổi tiếng Freud khẳng định rằng mọi hiện tượng tâm lý (trong đó có nhu cầu)
đều có nguồn năng lượng nuôi dưỡng, càng nhiều nhu cầu thì nguồn năng lượng
trong cơ thể càng lớn. Nguồn năng lượng này tuân theo quy luật bảo toàn và chuyển
hoá năng lượng cần được sử dụng hết. Nếu không được sử dụng hoặc bị dồn nén,
năng lượng đó sẽ tìm cách giải toả trong giấc mơ, trong các hành động lố lăng, phá
phách... Còn khi được sử dụng đúng cách, nó có thể thăng hoa và giúp các thiên tài
làm nên những kiệt tác nghệ thuật. Và con người chỉ có thể phát triển toàn diện khi
các nhu cầu của mình được đáp ứng đầy đủ. Trong trường hợp ngược lại sẽ bị kìm
hãm và không thể phát triển hoặc phát triển lệch lạc.
Nhu cầu giải trí, với tư cách là một nhu cầu của con người, thể hiện trên hai
khía cạnh:
- ở khía cạnh sinh học: Sự thoả mãn nhu cầu giải trí là điều kiện để cơ thể phục
hồi sức khoẻ sau quá trình lao động, lấy lại thăng bằng tâm - sinh lý để cơ thể tiếp
tục làm việc.
- ở khía cạnh xã hội: Con người giải trí không phải chỉ để giải trí. Mọi hoạt
động của con người đều có mục đích, và bởi vậy, giải trí cũng mang lại cho họ sự
phát triển về trí tuệ và nhân cách, sự thư thái, sảng khoái và những khoái cảm thẩm
mỹ.
Như vậy khi nhu cầu giải trí được đáp ứng thoả đáng thì trí não được thư giãn,
tinh thần được thanh thản, tâm hồn thêm trong sáng, đời sống cảm xúc thêm phong
phú với nhiều rung cảm thẩm mỹ, sự phát triển của con người trở nên toàn diện.
Ngược lại, khi nhu cầu giải trí không được đáp ứng đầy đủ, đúng đắn sẽ có nguy cơ
làm con người "tha hoá " trong hoạt động sống.
Hoạt động giải trí thường diễn ra trong thời gian rỗi. Thời gian rỗi - đó là
khoảng thời gian riêng - được dành cho các hoạt động cá nhân, trong đó có hoạt động
giải trí. Theo C. Mác, quỹ thời gian của xã hội và cá nhân được phân chia thành thời
gian lao động và thời gian tự do. Thời gian lao động là khoảng thời gian tất yếu mà
mỗi cá nhân buộc phải thực hiện công việc lao động để bảo đảm sự sinh tồn. Thời gian
tự do là khoảng thời gian còn lại ngoài thời gian lao động, dành cho những hoạt động
mà cá nhân có quyền tự quyết định. Với C. Mác, khái niệm "thời gian rỗi" chưa xuất
hiện, bởi khi đó các hoạt động giải trí chưa phong phú, công nghiệp giải trí chưa ra đời.
Tuy vậy C.Mác cũng đã từng coi thời gian tự do là khoảng thời gian dành cho sự thoải
mái, cho giải trí, và mở ra một khoảng không cho những hoạt động tự do của con người
[dẫn theo 9, tr 23].
Theo nhà nghiên cứu văn hoá Đoàn Văn Chúc [10, tr. 224 - 225] thì trong bất
kỳ xã hội nào cũng có 4 dạng hoạt động mà con người phải thực hiện:
- Những hoạt động lao động sản xuất để đảm bảo sự tồn tại và phát triển của
cá nhân và xã hội. Đó là nghĩa vụ xã hội của mỗi người.
- Những hoạt động thuộc các quan hệ cá nhân trong xã hội như nuôi dạy con
cái, chăm sóc gia đình, thăm viếng họ hàng, bạn bè... Đó là nghĩa vụ cá nhân của mỗi
người.
- Những hoạt động thuộc đời sống vật chất của con người như nấu nướng, ăn
uống, nghỉ ngơi, vệ sinh cá nhân... đó là hoạt động thoả mãn nhu cầu cá nhân của
mỗi người.
- Những hoạt động thuộc đời sống tinh thần của cá nhân như thưởng thức nghệ
thuật, chơi các trò chơi, sinh hoạt tôn giáo...Đó là hoạt động thoả mãn nhu cầu tinh
thần của mỗi người.
Dạng hoạt động thứ nhất được thực hiện theo quy tắc chung của xã hội không
thể tuỳ tiện theo ý thích hoặc hoàn cảnh cá nhân. Nó được xác định một cách nghiêm
ngặt và được diễn ra trong một khoảng thời gian dành riêng, với thời điểm và độ lớn
được quy định chặt chẽ, mà C.Mác gọi là thời gian tất yếu.
Ba dạng hoạt động còn lại cũng không thể thiếu, nhưng chúng được thực hiện
một cách linh hoạt tuỳ theo điều kiện cụ thể của mỗi cá nhân. Chúng được diễn ra
trong khoảng thời gian còn lại sau khi đã trừ đi thời gian tất yếu. Khoảng thời gian
dành cho những hoạt động đó được gọi là thời gian tự do, nghĩa là thời gian mà xã
hội dành cho cá nhân quyền tự do sử dụng.
Trong ba hoạt động trên thì hoạt động thứ tư mang tính tự do hơn cả. Nó
không gắn với sự thúc bách sinh học nào, cũng không hề mang tính cưỡng bức. Nó là
hoạt động hoàn toàn tự do mà cá nhân có toàn quyền lựa chọn theo sở thích, trong
khuôn khổ hệ chuẩn mực của xã hội. Nó là bước chuyển từ những hoạt động nghĩa
vụ, bổn phận sang những hoạt động tự nguyện. Nó đồng thời cũng là hoạt động
không vụ lợi, nhằm mục đích giải toả căng thẳng thể chất và tinh thần để đạt tới sự
thư giãn, thanh thản trong tâm hồn, và cao hơn nữa là đạt tới những rung cảm thẩm
mỹ. Với tính chất đặc biệt như vậy, để phân biệt với các hoạt động trên, người ta gọi
nó là hoạt động giải trí và thời gian dành cho hoạt động giải trí được gọi là thời gian
rỗi.
Thời gian rỗi được coi là khái niệm đồng nghĩa với thời gian tự do, nghĩa là
"phần thời gian ngoài lao động của cá nhân (nhóm xã hội) còn lại sau khi đã trừ đi
chi phí thời gian cho những hoạt động cần thiết không thể thiếu" và "Thời gian rỗi là
khoảng thời gian mà trong đó con người không bị thúc bách bởi các nhu cầu sinh tồn,
không bị chi phối bởi bất cứ nghĩa vụ khách quan nào. Nó được dành cho các hoạt động
tự nguyện, theo sở thích của chủ thể nhằm thoả mãn nhu cầu tinh thần của con ngườii
(hoạt động giải trí)" [dẫn theo 9, tr.23].
Như vậy có thể thấy giải trí là một dạng hoạt động cơ bản của con người, đáp
ứng những nhu cầu phát triển của con người về các mặt thể chất, trí tuệ và thẩm mỹ.
Giải trí không chỉ là nhu cầu của từng cá nhân, mà còn là nhu cầu của đời sống cộng
đồng, xã hội.
Giải trí - đó là sự giải toả những căng thẳng về thể chất và tinh thần, đạt tới sự
thư giãn trong tâm hồn, và cao hơn nữa là những rung cảm thẩm mỹ. Giải trí là dạng
hoạt động không vụ lợi, nó là hoạt động nhằm thoả mãn nhu cầu tinh thần của con
người:Thư giãn,giải thoát sầu muộn, tìm trạng thái hưng phấn, vui thích.
Trong xã hội nông nghiệp truyền thống, người nông dân lao động theo thời vụ
vì vậy các hoạt động giải trí thường diễn ra sau vụ thu hoạch hoặc trong lúc nông
nhàn.
Trong xã hội công nghiệp, giải trí thường gắn liền với các hoạt động trong thời
gian rỗi. Cho nên các từ như Leisure (tiếng Anh) hay Docur (tiếng Nga) lúc đầu có
nghĩa là thời gian rỗi, sau chuyển thành hoạt động trong thời gian rỗi (gọi tắt là hoạt
động rỗi), tức là sự giải trí hay hoạt động giải trí.
Đặc trưng nổi bật của xã hội công nghiệp là sự năng động xã hội, lao động
căng thẳng và diễn ra với tiết tấu nhanh, phân công lao động cụ thể, do vậy hoạt động
giải trí trong xã hội công nghiệp có nhiều nội dung mới. Nếu như hoạt động vui chơi
giải trí của xã hội nông nghiệp phần lớn thường nhẹ nhàng, tiết tấu chậm rãi và
thường không sôi động lắm (đánh đu, thả diều, chọi chim, chọi gà, chọi dế...) thì các
hoạt động vui chơi giải trí ở xã hội công nghiệp thường diễn ra hết sức sôi động với tiết
tấu nhanh, mạnh (Bóng đá, các cuộc thi thể thao như điền kinh, bơi lội, quần vợt...các
hoạt động giải trí tìm "cảm giác mạnh", phiêu lưu, mạo hiểm...). Những hoạt động
này hoàn toàn phù hợp với xã hội công nghiệp, góp phần giải toả những căng thẳng
tâm thần, lập lại thế cân bằng nội tại nhằm tái sản xuất sức lao động.
Chúng ta biết rằng, giải trí là hoạt động diễn ra trong thời gian rỗi, nhưng
không phải bất cứ hoạt động nào được thực hiện trong thời gian rỗi đều là giải trí.
Trong thời gian rỗi người ta có thể làm nhiều việc khác nhau: Có người tranh thủ làm
thêm để kiếm sống hoặc học thêm để nâng cao trình độ (khi đó thời gian rỗi đã bị
biến thành thời gian lao động); cũng có người dùng thời gian rỗi để thực hiện những
hoạt động không có tác dụng gì nhiều đối với sự phát triển toàn diện con người, thậm
chí là vô bổ hoặc có hại (la cà hàng quán, rong chơi không mục đích hoặc sa vào các
tệ nạn xã hội...) Những hoạt động lệch chuẩn như vậy không thuộc nội hàm khái
niệm giải trí. Hoạt động giải trí là những hoạt động của con người nhằm nâng cao đời
sống văn hoá tinh thần và phát triển toàn diện con người.
Giải trí hoàn toàn không phải sự nghỉ ngơi thụ động của con người mà là
những hoạt động mang tính chủ động. Nó là những hoạt động hoàn toàn tự do, do
mỗi cá nhân tự lựa chọn và tham gia một cách chủ động. Nhân tố quyết định mang
tính tiên quyết là sở thích cá nhân (với điều kiện phù hợp hệ chuẩn mực và hoàn cảnh
thực tế khách quan của xã hội) Bởi vậy, sự nghỉ ngơi thụ động không phải là giải trí.
" Nghỉ " là sự ngừng làm việc, ngừng hoạt động nhằm lấy lại sức lực vật chất, sự
thăng bằng tâm sinh lý để có thể tiếp tục làm việc sau đó. Tất nhiên, lúc nghỉ có thể
đọc báo, nghe nhạc... nhưng đó chỉ là phụ, điều chính yếu là để cơ thể không hoạt
động (nhưng nghỉ cũng khác với ngủ vào ban đêm). Nghỉ thuộc dạng hoạt động thứ
ba và mang tính thụ động, trong khi giải trí thuộc dạng thứ tư (nằm trong phạm vi
hoạt động tinh thần) mang tính chủ động và tích cực.
Vui chơi giải trí là nhu cầu văn hoá cơ bản của con người (cá nhân và cộng
đồng) nhằm giải toả những căng thẳng, mệt mỏi do lao động đưa lại, bù đắp những
thiếu hụt và mất mát về sức khoẻ và tinh thần, tạo điều kiện để con người phát triển
toàn diện về thể lực, trí lực, tình cảm thẩm mỹ, thoả mãn nhu cầu tinh thần ngày càng
cao của con người.
Trong vòng đời của con người, vui chơi giải trí gắn bó suốt đời người. Lịch sử
phát triển của loài người đã cho thấy các hoạt động vui chơi giải trí gắn liền với sự
xuất hiện của xã hội loài người và xã hội ngày càng phát triển, các hoạt động vui
chơi giải trí ngày càng đóng vai trò quan trọng trong đời sống xã hội. Không một dân
tộc nào, dù trình độ phát triển cao thấp đến đâu, lại không có các hoạt động vui chơi
giải trí. Sử sách đã nói nhiều về tính chất đam mê kỳ diệu của các lễ hội, dù đó là hội
Fiesta - đấu bò tót hàng năm tại thành phố Pamplona ở miền Bắc nước Tây Ban Nha,
là lễ hội Carnavan mê say, điên cuồng thâu đêm ở Italia hay Braxin, là lễ hội Thai
Pusam của người Đơ - ra - vi -điêng (Đravidiens) ở miền Nam ấn Độ, hoặc như lễ
hội nhảy múa của cư dân Châu Phi. Người da đen châu Phi thường đắm mình trong
những điệu múa rực lửa, ngây ngất như hoà điệu với tiết tấu của vũ trụ...Góp vào
tiếng nói đam mê của lễ hội, có thể kể đến những ngày hội đâm trâu ở vùng đất Tây
Nguyên hùng vĩ, ở hội "chọi trâu" Đồ Sơn (Hải Phòng), ở những đêm quan họ thâu
đêm ở làng Lim (Bắc Ninh), hay những cuộc "đua trải" sôi động vùng sông nước
Nam Bộ.
Bước sang xã hội công nghiệp, các hoạt động vui chơi giải trí không hề giảm
đi mà còn phát triển rầm rộ cùng với sự tăng trưởng mạnh mẽ về kinh tế. Đuy -ma -
dơ-đi-ê - nhà xã hội học người Pháp coi giải trí như là sự biến đổi về chất của xã hội
công nghiệp, từ chỗ bị bóc lột thô bạo bằng việc kéo dài thời gian lao động, người
công nhân đã có quyền nghỉ ngơi mà vẫn hưởng lương. Ông tiên đoán về triển vọng
của xã hội hậu công nghiệp sẽ là một " xã hội giải trí", trong đó thời gian lao động
được rút ngắn một cách tối thiểu, thời gian rỗi được tăng lên, mối quan tâm của xã
hội không phải là làm gì để sống, mà là làm thế nào để giải trí tốt hơn [dẫn theo 9,
tr.24].
Có thể hiểu được Đumagdier thông qua dự đoán của C Mác, rằng trong xã hội
tương lai, lao động không còn là cực nhọc, mà là lao động sáng tạo, lao động mang
lại niềm vui và trở thành một hình thức giải trí. Nhờ có những tiến bộ của khoa học
công nghệ mà năng suất, chất lượng và hiệu quả lao động ngày càng cao, tạo điều
kiện cho con người thoát khỏi sự nặng nhọc, vất vả của lao động, thời gian rỗi nhiều
hơn, con người có nhiều hơn các hoạt động giải trí nhằm phát triển nhân cách hài hoà
và toàn diện.
Vào thời kỳ đầu của chủ nghĩa tư bản, xuất phát từ những tham vọng muốn đạt
lợi nhuận tối đa, các nhà tư bản đã thúc ép công nhân gia tăng cường độ làm việc,
khiến họ bị suy kiệt cả về thể chất lẫn tinh thần. Chính vì vậy, đã xuất hiện các phong
trào đấu tranh của công nhân đòi được giảm giờ làm và tăng thời gian giành cho hoạt
động nghỉ ngơi, giải trí. Năm 1883, Pôn La -phac-gơ - con rể của C.Mác viết cuốn
sách "Quyền được hưởng nhàn" (Le droit à la paresse) để ủng hộ cuộc đấu tranh của
những người lao động. ở Pháp, vào năm 1900 có Luật Min-lơ-răng (Millerand) thiết
lập chế độ ngày làm việc 10giờ. Năm 1906 mới đề ra chế độ nghỉ bắt buộc 1 ngày
trong tuần. Năm 1910 có luật hưu trí đối với công nhân. Cũng vào thời gian này, quốc
tế XHCN phát động cuộc đấu tranh với khẩu hiệu: 8 giờ lao động, 8 giờ nghỉ ngơi và 8
giờ giải trí. Cuộc đấu tranh giành thắng lợi, bắt đầu từ đây, người lao động mỗi ngày làm
việc 8 giờ [dẫn theo 22, tr.17].
Tuy nhiên, trong 8 giờ giải trí, người ta còn phải làm một số công việc tất yếu
như: nấu ăn, tắm rửa, săn sóc con cái... Các công việc trên đã tiêu tốn hết 4 - 5
giờ/ngày, còn lại 3 - 4 giờ/ngày gọi là thời gian tự do. Đây mới thực là thời gian dành
cho các hoạt động giải trí.
Đương thời, C.Mác rất quan tâm đến khái niệm "thời gian tự do" của người
lao động. Ông cho rằng:
Tiết kiệm thì giờ lao động là tăng thêm thì giờ tự do, tức là thì giờ
dành cho sự phát triển toàn diện cá nhân, sự phát triển tác dụng trở lại sức
lao động và làm tăng sức lao động, về phương diện sự sản xuất trực tiếp,
thì giờ tiết kiệm được có thể coi là dùng để sản xuất ra vốn cố định, một
vốn cố định làm nên con người [dẫn theo 22, tr.18].
Năm 1936 thoả ước Ma-ti-nhông (Matignon) ra đời, quy định mỗi tuần làm
việc 40 giờ, cuối tuần có hai ngày nghỉ. Trong xã hội xuất hiện từ ("Week end" -
Những ngày nghỉ cuối tuần, như một phong tục mới, ra đời và vận hành tại một số
nước công nghiệp phát triển). Từ đó, người ta bắt đầu ý thức về phương thức sử dụng
vốn thời gian tự do của mỗi con người. Các nhà xã hội học đã chia ra như sau:
- Thời gian tự do cấp ngày: 3 - 4 giờ.
- Thời gian tự do cấp tuần: 2 ngày nghỉ.
- Thời gian tự do cấp năm: những ngày nghỉ phép và những ngày nghỉ vào dịp
lễ, tết.
- Thời gian tự do cấp đời người: Số năm về hưu sau khi đã hết tuổi làm việc.
ở nước ta, tuy năng suất lao động chưa thật cao, ngân sách nhà nước cũng còn
nhiều khó khăn, nhưng từ năm 1999 Chính phủ đã có quyết định cán bộ, công chức,
viên chức mỗi tuần làm việc 5 ngày (40 giờ), nghỉ cả ngày thứ bẩy và chủ nhật. Cùng
với việc tăng lượng thời gian rỗi cuối tuần, Nhà nước đã giành những khoản ngân
sách lớn cho việc xây dựng các khu công viên, các khu du lịch, các trung tâm văn
hoá - thể thao và các thiết chế văn hoá giải trí khác. Nhà nước cũng đã gia tăng mức
lương tối thiểu của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức... Đến thời điểm tháng
10/2006 mức tăng đã là 450.000đ. Những việc này đã góp phần cải thiện và nâng cao
hơn về mức sống của nhân dân, tạo điều kiện thuận lợi để người dân tham gia ngày
càng nhiều hơn vào các hoạt động văn hoá vui chơi giải trí.
Có thể nói, vui chơi giải trí hiện nay đã trở thành một hoạt động xã hội khá
phổ biến, hơn thế, nó còn trở thành một hướng đi đầy triển vọng trong hoạt động
kinh tế của đất nước... Chính vì vậy, hoạt động vui chơi giải trí đã được Đảng và Nhà
nước ta quan tâm thích đáng. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã nêu rõ:
Phát huy tiềm năng, khuyến khích sáng tạo văn học nghệ thuật, tạo
ra những tác phẩm có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật. Xây dựng và
nâng cấp đồng bộ hệ thống thiết chế văn hoá, chú trọng công trình văn hoá
lớn, tiêu biểu. Nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống nhà văn hoá, bảo
tàng, nhà truyền thống, thư viện, phòng đọc, điểm bưu điện - văn hoá xã,
khu vui chơi, giải trí... [19, tr.106 - 107].
Như vậy, có thể nói rằng: Giải trí là một dạng hoạt động xã hội của con người,
diễn ra trong thời gian rỗi nhằm giải toả những căng thẳng về trí não, thể lực; đáp
ứng các nhu cầu về thể chất, trí tuệ, tình cảm thẩm mỹ..., tạo ra sự cân bằng tâm-sinh
lý, nâng cao năng lực tinh thần và thể chất cho con người.
1.1.2. Quan niệm văn hoá giải trí
Khái niệm văn hoá đã xuất hiện từ lâu trong lịch sử nhân loại và ngừng được
mở rộng cả về nội hàm cùng ngoại diên của nó. Theo người Trung Hoa cổ đại thì
“văn hoá" là sự kết hợp giữa "vẻ đẹp” và "giáo hoá " đựơc dùng để chỉ một triều đại
có sự thống trị "đẹp đẽ" dùng "văn trị” và "giáo hoá", tức là sự thống trị dựa trên sự
giáo dục, thuyết phục con người. Còn ở Hy Lạp cổ đại thì thuật ngữ "cultus " tức là
gieo trồng, ban đầu có nghĩa gieo trồng ngoài đồng ruộng, (cultus agree) sau được
dùng với nghĩa là gieo trồng tinh thần (cultus animi - tức là văn hoá) chỉ sự nâng niu,
nuôi dưỡng bản chất, phẩm giá của con người theo những cái hay, cái đẹp, cái tiến
bộ, cái văn minh...
Định nghĩa về văn hoá ngày càng trở nên hết sức phong phú. Năm 1952 A.L
Kroeber và C.L Kluckhohn đã trích lục được khoảng ba trăm định nghĩa văn hoá của
các tác giả ở nhiều nước khác nhau. Đến nay đã có thêm hàng trăm định nghĩa nữa
về văn hoá. Nhưng hầu như tất cả đều quan niệm văn hoá gắn liền với bản chất, năng
lực của con người, với con người, nói cách khác, hệ thống các giá trị tinh thần và giá
trị vật chất do con người sáng tạo ra - văn hoá, trở thành một bộ phận cấu thành của
đời sống xã hội.
"Từ điển triết học" của Rôdentan đã đưa ra định nghĩa: "Văn hoá - toàn bộ
những giá trị vật chất và tinh thần do con người tạo ra trong quá trrình thực tiễn xã hội
- lịch sử và tiêu biểu cho trình độ đạt được trong lịch sử phát triển xã hội. Theo nghĩa
hẹp hơn, người ta vẫn quen nói về văn hoá vật chất (kỹ thuật, kinh nghiệm sản xuất, giá
trị vật chất...) và văn hoá tinh thần (khoa học, nghệ thuật và văn hoá, triết học, đạo đức,
giáo dục...). Văn hoá là một hiện tượng lịch sử, phụ thuộc vào sự thay thế các hình thái
kinh tế - xã hội" [35, tr.656].
Tổ chức Văn hoá, Giáo dục và Khoa học của Liên hợp quốc (UNESCO) nhìn
nhận văn hoá với ý nghĩa rộng rãi nhất, như một phức thể, tổng thể các đặc trưng,
diện mạo về tinh thần, vật chất, tri thức và tình cảm... khắc hoạ nên bản sắc của một
cộng đồng: "Văn hoá là tổng thể những biểu trưng (ký hiệu) chi phối cách ứng xử và
sự giao tiếp trong một cộng đồng, khiến cộng đồng ấy có đặc thù riêng... Văn hoá bao
gồm hệ thống những giá trị để đánh giá một sự việc, một hiện tượng (đẹp hay xấu, đạo
đức hay vô luân, phải hay trái, đúng hay sai...) theo cộng đồng ấy" [dẫn theo 44, tr.14].
Đại Bách khoa thư Xô Viết [16] đã coi văn hoá là: Trình độ phát triển về mặt
lịch sử của xã hội và con người trong các dạng thức tổ chức đời sống và hoạt động
của con người, cũng như trong các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo
ra. Khái niệm văn hoá dùng để phân định trình độ phát triển vật chất và tinh thần của
các thời đại lịch sử nhất định, các hình thái kinh tế - xã hội hay một xã hội, dân tộc,
bộ tộc cụ thể (chẳng hạn văn hoá cổ đại, văn hoá xã hội chủ nghĩa, văn hoá Maya...)
cũng như chỉ một đặc thù hay lĩnh vực của đời sống (văn hoá lao động, văn hoá nghệ
thuật, văn hoá đời sống ...) Theo nghĩa hẹp hơn, thuật ngữ “văn hoá "chỉ liên quan tới
lĩnh vực đời sống tinh thần của con người.
ở Việt Nam, từ năm 1942 -1943, chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra quan niệm
về văn hoá như sau:
Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng
tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn
giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về ăn,
mặc, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh
đó tức là văn hoá. Văn hoá là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt
cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng
những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn [30, tr.431].
Chúng ta đã biết rằng: Giải trí là một nhu cầu, một hoạt động văn hoá của con
người. Giải trí mang ý nghĩa bao trùm là các hình thức vui chơi, thưởng thức. Hơn
thế nữa, cái đích cuối cùng của giải trí là giải toả những căng thẳng về thể chất và
tinh thần, đạt tới sự thư giãn trong tâm hồn, và cao hơn nữa là những rung cảm thẩm
mỹ. Giải trí là dạng hoạt động nhằm đáp ứng nhu cầu tinh thần lành mạnh và bổ ích
của con người. Có những hoạt động thoạt nhìn có vẻ là giải trí nhưng vì lý do nào đó
mà không đạt được tới mục đích trên, đều không phải (hoặc không còn là) giải trí. Ví
dụ, hoạt động chơi bài, nếu đó là hoạt động không vụ lợi, chỉ để tiêu khiển, giải toả
căng thẳng tinh thần hoặc thể chất thì là hoạt động giải trí. Nhưng nếu lại gắn với
mục đích kinh tế (ăn tiền) hoặc vụ lợi (cá cược) thì không còn là giải trí nữa. Như
vậy, hoạt động giải trí là những hoạt động tạo cho cá nhân một đời sống tinh thần
trong sáng, lành mạnh, phấn chấn... giúp họ phát triển toàn diện. Giải trí là những
hoạt động thuộc đời sống văn hoá - tinh thần. Như vậy có thể coi " Văn hoá giải trí"
(văn hoá vui chơi giải trí) là một trong những yếu tố của cấu trúc chỉnh thể của văn
hoá cộng đồng.
Nói "văn hoá giải trí" cũng tức là “văn hoá vui chơi", "văn hoá vui chơi giải
trí" cũng có thể hiểu là hoạt động vui chơi, giải trí có văn hoá, bằng các hoạt động và
sản phẩm văn hoá và thông qua hoạt động giải trí nhằm xây dựng, hoàn thiện nhân
cách con người.
ở đây, ta có thể phân loại các hoạt động văn hoá giải trí theo nhiều tiêu chí
khác nhau:
+ Theo chức năng của các hoạt động: Có hoạt động giải toả căng thẳng thể
chất (thể dục thể thao...) hoạt động giải toả căng thẳng tinh thần (nghe nhạc, dạo
chơi, giao tiếp...), hoạt động nhằm đạt khoái cảm thẩm mỹ (thưởng thức nghệ thuật).
+ Theo chủ thể tổ chức hoạt động: Có hoạt động cá nhân (nghe nhạc, làm thơ,
đọc sách báo...) hoạt động trong nhóm hạn chế (giao lưu với bạn bè, tham gia các
hoạt động cùng với họ ) hoạt động tập thể (hoạt động cùng các bạn đồng nghiệp hoặc
trong một tổ chức đoàn thể nào đó ), hoạt động công cộng ngoài xã hội.
+ Theo địa điểm hoạt động: Có hoạt động giải trí tại gia đình, hoạt động giải trí
tại nơi làm việc, hoạt động giải trí ngoài xã hội.
+ Theo hình thức hoạt động: Có những hoạt động chơi (chơi các trò chơi, dạo
chơi...) hoạt động TDTT, tham quan, du lịch, những hoạt động thoả mãn nhu cầu
thưởng thức nghệ thuật (xem phim, ca nhạc, sân khấu...) những hoạt động sáng tạo
nghệ thuật (tham gia các CLB năng khiếu hoặc các hoạt động nghệ thuật nghiệp dư );
những hoạt động thoả mãn nhu cầu giao tiếp (gặp gỡ bạn bè, trò chuyện, tâm sự...)
những hoạt động thoả mãn nhu cầu niềm tin (tham gia các sinh hoạt tôn giáo, tham
gia các lễ hội hoặc các hoạt động tôn giáo tín ngưỡng khác...).
Để thấy rõ hơn rõ khái niệm “văn hoá giải trí" hay “văn hoá vui chơi giải trí”
cần nhận thức hơn về nội dung bản chất của vui chơi giải trí.
Trò chơi - đó là hoạt động mang tính tự nguyện nhưng có ý nghĩa xã hội. Trong
các hoạt động giải trí của con người, hoạt động vui chơi chiếm một vị trí hết sức
quan trọng. Phân tích sự chơi theo lý thuyết hoạt động, nhận thấy có ít nhất 4 dạng
hoạt động chơi là:
Hoạt động chơi không đối tượng - là hoạt động ngẫu hứng, chơi một mình, đối
tượng của sự chơi là nhằm vào bản thân người chơi như "đi dạo”, "du xuân”, "câu cá
""đánh cờ một mình ", đối thoại với bản thân mình.
Hoạt động chơi với đối tượng là đồ vật hoặc động vật. Ví dụ: chơi đàn ghi ta,
trẻ em chơi búp bê, người già chơi cây cảnh, chơi chim...
Chơi với đối tượng là máy điện tử. Gọi là “trò chơi ảo”, nin-ten-đo, chơi trên
máy vi tính, chơi trên mạng... là thuộc dạng này.
Chơi với đối tượng là con người - một hay nhiều người: Ví dụ: Chơi cờ, chơi
bóng chuyền, bóng đá... đây là sự chơi bằng trò chơi - một hình thức phát triển đa
dạng nhất trong lĩnh vực giải trí của con người.
Nếu như ba dạng trên là chơi một mình, thì dạng thứ tư là chơi tập thể (giao
tiếp tập thể), cuộc chơi có nội dung thi đấu, nên phải xây dựng thể chế và có trọng tài
điều khiển.
Hoạt động chơi về bản chất là mang tính vô tư, đặc điểm của nó là ngẫu hứng,
bất ngờ và đôi khi nghịch lý, nó chống lại tính máy móc trong cuộc sống thường nhật
và sự áp đặt của tập quán xã hội.
Hoạt động chơi còn nhằm rèn luyện, tập dượt con người. Nó rất cần thiết để
con người vượt qua những trở ngại, khó khăn, nó còn là bài học về chữ "nhẫn ",
"thắng không kiêu, bại không nản", nó làm cho con người trầm tĩnh, thư thái hơn.
Khía cạnh quan trọng nhất của nhu cầu chơi là nhằm bù đắp những cái mà con người
không thể tìm thấy trong đời sống thực tiễn. Chẳng hạn như, khi con người có nhu
cầu sống với quá khứ tổ tiên thì không gì hơn là tham gia vào vai diễn của các nhân
vật lịch sử...
Các giá trị mà mỗi cuộc chơi mang lại là sự công bằng, bình đẳng và minh bạch
(công khai). Sự công bằng biểu thị ở chỗ mọi người tham gia cuộc thi đều có thể
thắng, hoặc có thể thua, không hề có sự ưu tiên cho bất cứ đối tượng nào. Sự bình
đẳng trong cuộc chơi biểu hiện ở chỗ mọi người tham gia cuộc chơi đều có điều kiện
ngang nhau trong cuộc tranh tài. Trong cuộc đua tranh quyết liệt này, người giỏi sẽ
thắng, người kém sẽ thua; đối với những trò chơi có sự may rủi thì: vận may sẽ
thắng, vận rủi sẽ thua, không có ngoại lệ. Đây là một chân lý hiển nhiên mà mọi
người trong cuộc chơi đều thừa nhận.
Sự minh bạch ở đây còn là sự giám sát xã hội. Những người được cử ra làm
"trọng tài” cho cuộc chơi phải thật “công tâm”, mọi xử lý phải trình ra công khai
trước sự chứng kiến của mọi người. Sự khuất tất sẽ làm cho cuộc chơi trở nên mất
hết ý nghĩa.
Tóm lại, trong cuộc chơi những người tham gia chơi hết mình theo đúng luật
chơi, những người trọng tài xử lý công tâm theo luật định, các “Fan” (khán giả)
cổ vũ “vô tư”, làm cho cuộc chơi đạt tới giá trị công bằng, bình đẳng và minh
bạch. Đó là cái đẹp vĩnh hằng, làm cho ấn tượng của cuộc chơi sống mãi trong
lòng mọi người. Có thể hình dung hoạt động của mỗi cuộc chơi giống như hoạt
động của một hội thu nhỏ, ở đó các nguyên tắc công bằng, bình đẳng và minh
bạch như những chân lý bình dị, đã được thực thi một cách nghiêm túc.
Chúng ta thấy rằng giải trí tự nó không phải là cái gì gắn liền với sự thấp kém,
kém cỏi. Giải trí là nhu cầu thực sự cần thiết cho con người sau những giờ lao động
cực nhọc, căng thẳng. Giải trí là một trong những hình thức sử dụng thời gian rỗi một
cách có lợi (ích), là cách mà con người nghỉ ngơi một cách tích cực. Giải trí là hoạt
động mang tính tự do cá nhân cao độ, tuỳ ý thích và không giống với hoạt động ở cơ
quan, đơn vị nơi mình đang làm. Trong số những hoạt động được sử dụng khi con
người rảnh rỗi thì nghệ thuật - bao gồm cả sáng tác và tiếp nhận là một trong những
loại được ưa chuộng rộng rãi nhất. Tuy nhiên, mặc dù có tính độc lập tương đối,
chức năng giải trí không bộc lộ như nhau ở mỗi loại hình văn hoá nghệ thuật. Nó phụ
thuộc vào động cơ sáng tác của tác giả và thị hiếu, nhu cầu của từng cá nhân người
tiếp nhận tác phẩm. Tuyệt đối hoá chức năng giải trí thường dẫn tới sự tước bỏ ý
nghĩa xã hội tích cực của văn nghệ. Giải trí trong ý nghĩa lành mạnh nhất, có tác
dụng phát triển trình độ và thị hiếu thẩm mỹ của công chúng bao giờ cũng gắn liền
với chức năng thẩm mỹ, chức năng nhận thức và chức năng giáo dục. Tách biệt chức
năng giải trí, đẩy nó lên như một chức năng cơ bản là hạ thấp vai trò tích cực của
nghệ thuật trong đời sống. Ngược lại, không quan tâm tới khía cạnh giải trí là bỏ sót
một khả năng tác động và tự giới hạn tầm ảnh hưởng của nghệ thuật trong đời sống
thực tiễn.
Chính vì nghệ thuật đem lại nhiều cái vui mắt. vui tai, nhiều cái hấp dẫn, lôi
cuốn. Một tiếng đàn, một điệu múa, những lời hát, những bộ quần áo biểu diễn đẹp
đẽ, những câu chuyện hồi hộp, cảm động, những bộ phim nhiều tình tiết căng thẳng,
gay cấn, hấp dẫn...tất cả những cái đó có sức hấp dẫn rất lớn và thường đem lại cho
con người những niềm vui, niềm say mê. Có người lúc rảnh đi chơi cờ, xem đá bóng,
dạo phố, có người lại thích đi nghe (xem) hát, đọc sách. Mỗi người có một sở thích
riêng và mỗi loại cũng có cái hay riêng. Nghệ thuật lôi cuốn ở chỗ nó vừa vui tai, đẹp
mắt, có sức thu hút, giúp con người có thêm những giá trị tinh thần bổ ích.
Đến đây có thể nêu lên một định nghĩa về văn hoá giải trí như sau: Văn hoá
giải trí là một bộ phận của đời sống văn hoá xã hội, bao gồm toàn bộ những hoạt
động giải trí của các cá nhân, các cộng đồng... diễn ra một cách tích cực, chủ động,
lành mạnh và tiến bộ. Thông qua những trò chơi và những hoạt động giải trí tạo nên
cho các cá nhân và cộng đồng một đời sống tinh thần phong phú và lành mạnh, hoàn
thiện và phát triển.
1.1.3. Các loại hình văn hoá giải trí
Ngày nay, các loại hình giải trí ngày càng phát triển rộng rãi, phong phú về
hình thức, đa dạng về nội dung (không chỉ giải trí bằng đọc sách, báo mà còn tham
gia vào quá trình sáng tạo, biểu diễn văn hoá, văn nghệ, thể thao...) Hoạt động giải trí
không dừng lại ở trạng thái thụ động tiếp nhận, mà phát triển đến trạng thái chủ động
tham gia hoạt động sáng tạo. Hoạt động giải trí không chỉ ở trong trạng thái tĩnh
(đọc, xem, nghe, nhìn) mà cả ở trạng thái vận động: Vận động cơ thể (thể dục thể
thao, biểu diễn nghệ thuật) hay du lịch, tham quan...Tuy nhiên, phân loại các loại
hình văn hoá giải trí không phải là điều đơn giản, bởi vì vui chơi giải trí là một dạng
hoạt động xã hội, nếu căn cứ vào hình thái của hoạt động thì rất khó thực hiện, vì
rằng, chỉ cần đổi phương tiện thành mục đích thì hoạt động nào cũng có thể trở thành
hoạt động vui chơi giải trí, ví du: Chèo thuyền là lao động của người thuỷ thủ, còn
chèo thuyền trong cuộc đua "trải” là tham gia cuộc vui của lễ hội. Bóng đá chuyên
nghiệp là dạng hoạt động nghề nghiệp, còn bóng đá phong trào mang tính nghiệp dư
là hoạt động vui chơi giải trí. Biểu diễn nghệ thuật không chỉ là hoạt động nghề
nghiệp của các nghệ sỹ chuyên nghiệp mà còn là hoạt động có tính chất vui chơi, giải
trí của đội ngũ văn nghệ nghiệp dư trong các hội diễn nghệ thuật quần chúng.
Chúng ta thấy có các loại hình văn hoá giải trí chủ yếu sau đây:
1.1.3.1. Loại hình văn hoá giải trí gắn với các trò chơi
Các loại trò chơi là những hoạt động vừa mang tính thể lực, vừa mang tính tinh
thần nhằm rèn luyện sức khoẻ, năng lực tinh thần cho những người tham gia chơi và
cả những người cổ vũ cuộc chơi, như:
+ Trò chơi thể lực: kéo co, đấu vật, bơi lội.
+ Trò chơi khéo léo - thể lực - trí tuệ: đánh đu, thi nấu cơm.
+ Trò chơi trí tuệ: Đánh cờ, đố chữ, câu đối.
+ Trò chơi rèn luyện ý thức, sự ứng xử: câu cá, thả diều, chọi gà, hát đối.
Các loại trò diễn là hoạt động vui chơi giải trí dựa vào đặc trưng thẩm mỹ và
kỹ thuật của tác phẩm văn hoá nghệ thuật, như:
+ Ngôn ngữ - động tác: chèo, tuồng, hát ả đào.
+ Động tác, âm thanh: Múa rối, võ thuật, xiếc.
+ Hỗn hợp - tích hợp: Lễ hội, hội thi.
1.1.3.2. Loại hình văn hoá giải trí gắn với sáng tạo và thưởng thức nghệ thuật
Trong nghệ thuật, với sự hư cấu tưởng tượng nghệ thuật, người nghệ sỹ cuốn
hút người đọc, người xem, người nghe vào trò chơi của các năng lực tinh thần. Trò
chơi là mô hình của sáng tạo, dự báo trước hoạt động sáng tạo. Nghệ thuật giúp con
người phát triển các năng lực cảm thụ, thể nghiệm chủ quan. Người đọc khi đọc các
tác phẩm thường giả định mình là nhân vật, và như vậy là đã tham gia vào trò chơi
rèn luyện tình cảm con người, phát huy năng lực trí tuệ. Các hoạt động nghệ thuật
giúp phát triển toàn diện các năng lực của con người. Nó làm cho đầu óc con người
nhạy bén, linh hoạt, sắc cạnh trước các biểu hiện sinh động và phức tạp của đời sống.
Trong các khoái cảm mà nghệ thuật đem lại có loại khoái cảm tiếp nhận,
thưởng thức một cách vô tư. Vì vậy có thể khẳng định tác dụng giải trí như một chức
năng độc lập của văn chương và nghệ thuật nói chung. Thật ra, giải trí là một nhu cầu
tự nhiên của con người trước nghệ thuật. Trong sự cảm thụ tác phẩm, cùng với sự
tiếp nhận nội dung tư tưởng của tác phẩm, công chúng còn tìm thấy sự khoái cảm
trong nếm trải các tình huống tâm lý, những trạng thái xúc cảm vốn có trong cuộc
sống con người.
1.1.3.3. Loại hình văn hoá giải trí gắn với thể dục thể thao
Hoạt động thể dục thể thao là hoạt động văn hoá thể chất, rèn luyện thể chất
làm con người trở nên khoẻ đẹp. Thể thao là thao diễn thân thể, phô bày vẻ đẹp của
con người và sức mạnh thể lực của con người.
+ Vui chơi giải trí bằng các hoạt động thể dục thể thao, như: Tập thể dục hàng
ngày, dưỡng sinh, võ vật, bóng bàn, bóng đá, bóng chuyền...và các loại thể thao khác
(thăng bằng trên dây, nhảy dù, leo núi, lướt ván...).
+ Vui chơi giải trí bằng biểu diễn, thi đấu TDTT: Xem biểu diễn thể dục dụng cụ,
thi đấu bóng các loại, đấm bốc, đấu vật, chọi trâu, chọi gà...
1.1.3.4. Loại hình văn hoá giải trí gắn với thông tin đại chúng
Thông tin đại chúng vừa là một loại hình văn hoá vừa là một phương thức
chuyển tải văn hoá. Vì vậy nó là một hoạt động giải trí cơ bản của con người và xã
hội.
+ Vui chơi giải trí bằng đọc (xem): Sách, báo, tranh, ảnh, triển lãm, intenet...
+ Vui chơi giải trí bằng nghe: Nghe radio, casseet...
+ Vui chơi giải trí bằng nghe - nhìn: xem truyền hình, thông tin, quảng cáo,
VCD, DVD...
1.1.3.5. Loại hìnhvăn hoá giải trí gắn với du lịch, dịch vụ
Du lịch dịch vụ là một hoạt động văn hoá mang tính tổng hợp, nguyên hợp nhưng
cũng mang tính chuyên biệt. Con người tham gia các hoạt động du lịch, dịch vụ vừa để
đáp ứng nhu cầu thực dụng, vừa đáp ứng nhu cầu vui chơi giải trí.
+ Vui chơi giải trí bằng du lịch: Du lịch văn hoá, du lịch sinh thái, thương mại
chữa bệnh, hội thảo, thám hiểm...
+ Vui chơi giải trí bằng dịch vụ: mua sắm. may mặc, ăn uống, thư giãn, trang
điểm...
1.1.3.6. Loại hình văn hoá giải trí gắn với lao động sản xuất
Có thể chia loại hình này thành các hoạt động chính là:
+ Giải trí trong khi lao động cần thiết: Đó là loại hình diễn ra đồng thời với quá
trình sản xuất như nghe nhạc, chuyện trò (kể chuyện tiếu lâm...)
+ Vui chơi giải trí sau lao động cần thiết: Đây là sự chuyển trạng thái từ lao
động sản xuất cần thiết sang một hình thức khác mang tính giải trí, như, lúc giải lao
người công nhân đọc sách hay làm một việc khác như nguội, điện, làm thơ, vẽ
tranh...
+ Vui chơi giải trí bằng lao động sản xuất trong thời gian rỗi: Đây là hình thức
vui chơi giải trí rất có ý nghĩa, khi người công nhân làm lao động chân tay tranh thủ
thời gian rỗi học thêm văn hóa, rèn luyện tay nghề, vi tính, ngoại ngữ, chăm sóc cây
cảnh...
1.1.3.7. Loại hình văn hoá giải trí gắn với ẩm thực
Ăn uống cũng là một hoạt động văn hoá. Ăn uống trở thành hoạt động văn hoá
ẩm thực khi ăn uống gắn với một nhu cầu tinh thần nào đó, khi món ăn, thức uống
(được chế biến, bày biện hết sức nghệ thuật, khẩu vị phù hợp, có nguồn gốc từ truyền
thống văn hoá dân tộc...) thể hiện một trình độ văn hoá thẩm mỹ của con người, Hoạt
động giải trí qua ẩm thực bao gồm:
+ Vui chơi giải trí qua thưởng ngoạn các món ăn, thức uống: Những món ăn
ngon miệng, quý hiếm, mới lạ, có thể bồi bổ sức khoẻ.
+ Vui chơi giải trí qua các món ăn, thức uống truyền thống văn hoá của dân tộc.
+ Vui chơi, giải trí gắn với các hoạt động tinh thần khác: Uống cà phê nghe ca
nhạc, xem bóng đá...
+ Vui chơi giải trí qua các món ăn, thức uống trong các dịp lễ tết: Mừng sinh
nhật, mừng thọ, liên hoan, giỗ, lễ cưới, tết...
Có thể nói, phân loại các loại hình vui chơi giải trí là một việc làm cần thiết
giúp cho việc tổ chức, điều hành và quản lý văn hoá giải trí cho phù hợp với chủ thể,
đối tượng và mục đích của chúng. Tuy nhiên, sự phân loại này chỉ có ý nghĩa tương
đối mà thôi.
1.2. Chức năng xã hội của văn hoá giải trí
Hoạt động văn hoá giải trí là một hoạt động thiết yếu của xã hội nhằm đáp ứng
nhu cầu phát triển về tư tưởng, tình cảm, thẩm mỹ và thể chất của con người. Là một
hiện tượng xã hội, hoạt động văn hoá giải trí phản ánh năng lực thực tiễn của con
người trong việc vượt qua giới hạn của lao động vì lợi ích vật chất trực tiếp, sử dụng các
sản phẩm văn hoá, thông qua các thiết chế văn hoá để sáng tạo tự do trong môi trường
dân chủ và bình đẳng ở khoảng thời gian rỗi.
Văn hoá giải trí của con người bắt nguồn từ lao động sản xuất và có tác động
trở lại thúc đẩy quá trình sản xuất của xã hội phát triển. Có có nhiều quan niệm khác
nhau về chức năng của văn hoá vui chơi giải trí trong xã hội. ở đây chúng tôi nhận
thấy văn hoá giải trí có một số chức năng cơ bản sau đây:
1.2.1. Chức năng nhận thức của các hoạt động văn hoá giải trí
Các hoạt động văn hoá giải trí cung cấp cho con người những hiểu biết nhất
định về thế giới xung quanh và bản thân mình. Thông qua các loại hình hoạt động
của văn hoá giải trí con người được phát triển trí tuệ, tình cảm nâng cao nhận thức
đúng đắn về tự nhiên, xã hội và chính bản thân mình.
1.2.2. Chức năng giáo dục
Hoạt động văn hoá giải trí chân chính bao giờ cũng mang ý nghĩa giáo dục, góp
phần xây dựng và phát triển toàn diện con người cả về thể chất và tinh thần, đánh
thức khát vọng vươn tới tự do, công bằng, dân chủ và khát vọng vươn tới cái đúng,
cái tốt và cái đẹp.
1.2.3. Chức năng điều chỉnh quan hệ xã hội
Các quan hệ xã hội không phải bao giờ cũng diễn ra chỉ trong các quan hệ kinh
tế, quan hệ công quyền mà còn diễn ra các quan hệ dân sự phức tạp. Nhu cầu được
thoả mãn khát vọng dân chủ, bình đẳng, công khai trên cơ sở bình đẳng trước "luật
chơi "chung luôn cuốn hút sự quan tâm của cộng đồng. Các hoạt động văn hoá giải
trí góp phần điều chỉnh và làm cân bằng tâm trạng xã hội, góp phần giải toả những
căng thẳng do lao động trí óc và lao động chân tay đưa lại, tạo điều kiện để con
người có thể tái sản xuất sức lao động, kích thích năng lực sáng tạo của con người.
1.2.4. Chức năng kinh tế của các hoạt động văn hoá giải trí
Trong thời kỳ phát triển kinh tế thị trường và đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện
đại hoá, nhu cầu văn hoá giải trí của xã hội ngày càng gia tăng và các ngành công
nghiệp, các ngành dịch vụ hướng vào sản xuất các sản phẩm văn hoá, đáp ứng nhu
cầu văn hoá giải trí ngày càng tăng. Như vậy, các hoạt động văn hoá giải trí không
chỉ hướng tới thoả mãn nhu cầu về tinh thần mà còn thực hiện chức năng kinh tế, góp
phần tích cực vào việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội.
Sự phân định các chức năng xã hội của hoạt động văn hoá giải trí chỉ là tương
đối. Sử dụng và khai thác tổng hợp các chức năng trên sẽ góp phần quan trọng để các
hoạt động văn hoá giải trí thực sự là mục tiêu và động lực thúc đẩy sự phát triển kinh
tế xã hội.
1.3. Văn hoá giải trí trong xã hội hiện đại
Nhu cầu vui chơi giải trí là một nhu cầu văn hoá cơ bản của con người, tạo điều
kiện để con người thoát khỏi những ràng buộc vật chất của lao động bắt buộc, để
vươn tới sự tự do bên trong về phương diện tinh thần. ở mỗi thời kỳ lịch sử, do điều kiện
kinh tế xã hội khác nhau mà văn hoá giải trí cũng khác nhau.
1.3.1. Văn hoá giải trí trong xã hội tiền công nghiệp và công nghiệp
ở các chế độ xã hội trước thời kỳ chủ nghĩa tư bản, nhu cầu vui chơi giải trí của
con người bị hạn chế bởi các quan hệ kinh tế nông nghiệp gia trưởng và tôn giáo chi
phối. Thời kỳ này, năng suất lao động và mức thu nhập lao động xã hội thấp nên thời
gian rỗi ít và tập trung vào những thời điểm “nông nhàn”, sau vụ thu hoạch hoặc chờ vụ
thu hoạch. Các hoạt động vui chơi giải trí tập trung xung quanh các sinh hoạt nghi lễ
mang tính chất tôn giáo tín ngưỡng là chủ yếu.
Nhìn chung, trong xã hội tiền công nghiệp, khái niệm “thời gian rỗi” chưa được
quan tâm đầy đủ như một khái niệm khoa học vì thời gian rỗi của con người rất ít và
phân tán. Các hoạt động vui chơi giải trí của cộng đồng cư dân trong xã hội nông
nghiệp tuỳ thuộc vào thời vụ, ít được chủ động để thực hiện giải trí một cách tự do
theo sở thích cá nhân. Các sở thích giải trí của mỗi người thường quy chiếu vào một
số dạng vui chơi giải trí lặp đi, lặp lại và có tính khép kín cục bộ.
Trong xã hội công nghiệp, thời gian nhàn rỗi của các tầng lớp dân cư xuất hiện
nhiều hơn do năng suất lao động công nghiệp tăng lên và những cuộc đấu tranh của
những người lao động công nghiệp với giới chủ tư bản đòi giảm giờ làm trong xí
nghiệp, công xưởng. Việc sử dụng thời gian nhàn rỗi đã kéo theo quá trình hình
thành một nền văn hoá đại chúng, phục vụ quần chúng được sử dụng sâu rộng trong
các vùng khác nhau trong quá trình phát triển công nghệ và sản xuất hàng loạt. Thời
gian nhàn rỗi lúc này đã trở thành một bộ phận trong cuộc sống của những người
dân.
Bản thân khái niệm “giải trí” xuất hiện trong xã hội công nghiệp mang một ý
nghĩa mới. Trong xã hội tiền công nghiệp, giải trí của quần chúng mang hình thức
những ngày nghỉ dành cho nghi lễ gia đình, hôn lễ, tôn giáo và những hội lẽ nông
nghiệp, cầu an... Quan niệm mới về giải trí được coi là sản phẩm của xã hội công nghiệp
hiện đại. Sản xuất cơ giới làm cho năng suất lao động được nâng lên, tạo điều kiện cho
họ có thể kiếm sống với một chế độ làm việc ít giờ, ít ngày hơn, thậm chí có tiền để chi
tiêu cho giải trí trong những giờ nhàn rỗi. Sự phân biệt ranh giới giữa “thời gian lao
động”và “thời gian nghỉ ngơi”rõ rệt hơn.
Tuy nhiên, những người lao động trong ngành công nghiệp giành được nhiều
ngày nghỉ không phải là không qua đấu tranh. Thời gian đầu, thông qua nghiệp đoàn,
những người làm công ăn lương đấu tranh đòi hỏi giảm bớt giờ làm vì lý do sức khoẻ
và gia đình. Đến đầu thế kỷ XX, khi ngày làm việc 10 giờ trở thành phổ biến thì
người ta tiếp tục đấu tranh đòi bớt giờ làm để nghỉ ngơi giải trí.
Vào những năm 1950, ngoài khu vực công nghiệp, khái niệm giờ lao động
ngắn, ngày nghỉ có lương được thừa nhận ở tất cả các nước công nghiệp hoá ở
phương Tây.
Nhu cầu giải trí, tiêu khiển, tìm kiếm cơ hội trong thông tin, thể thao, nghệ
thuật, giao tiếp cộng đồng của công chúng ngày càng cao. Ngành công nghiệp phục
vụ giải trí nhanh chóng nắm bắt, khai thác để sản xuất, đáp ứng nhu cầu đa dạng này,
tạo thành một thị trường mới, thị trường giải trí thông qua các hình thức khác nhau
như sách, báo, tạp chí, phim ảnh, truyền thanh và truyền hình, các thiết bị thể dục thể
thao...vv. Tuy nhiên, các quy tắc chỉ đạo việc sử dụng thì giờ nhàn rỗi không bao giờ
được giao phó cho sự biến động của thị trường hay các doanh nghiệp hoạt động vì
động cơ thương mại thuần tuý mà còn phụ thuộc vào Nhà nước, các tổ chức tôn giáo
hay từ thiện. ở đô thị xuất hiện nhiều công viên, sân chơi, bảo tàng, vườn thú, thư
viện... các hình thức giải trí xuất hiện cũng đa dạng, phong phú và không kém phần
phức tạp.
1.3.2. Văn hoá giải trí trong xã hội hiện đại
Trong xã hội tiền công nghiệp, hoạt động vui chơi giải trí thường mang ý nghĩa
hạn hẹp, khép kín, cục bộ. Hoạt động giải trí ở đây thường mang tính chất đáp ứng
yêu cầu cá nhân, nhóm xã hội nhất định và có ý nghĩa tự phục vụ cá nhân và tầng lớp
hữu sản ở bên trên là chủ yếu. Điều này phản ánh tính chất giai cấp của các hoạt
động vui chơi giải trí. Tính chất quần chúng của hoạt động vui chơi giải trí chỉ xuất
hiện nhiều ở các hoạt động văn hoá dân gian như lễ hội, nghi lễ tôn giáo hoặc gia
đình. Tính chất "hàng hoá "của các hoạt động vui chơi giải trí bị giới hạn ở sự trao
đổi bằng hiện vật thông qua sự ban thưởng của tầng lớp thống trị xã hội và tự ban
thưởng lẫn nhau, đáp ứng nhu cầu tinh thần giải trí, chưa nhấn mạnh đến việc khai
thác lợi ích vật chất của các hoạt động này.
Khi chuyển sang xã hội công nghiệp và thị trường, các quan hệ trong hoạt động
vui chơi giải trí chuyển đổi mạnh sang sản xuất hàng hoá, biến các hoạt động giải trí
có thể lưu thông trên thị trường và đem lại lợi nhuận cho các chủ thể của nó trong tổ
chức hoạt động giải trí. Sự sáng tạo ra các sản phẩm tinh thần được khẳng định như
một loại hình lao động, một loại hình sản xuất hàng hoá đặc biệt. Loại hình này như
C.Mác đã nhận xét, nó vừa có chức năng hàng hoá, được lưu thông trên thị trường,
hoạt động theo quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh, vừa có chức năng văn hoá xã
hội, đáp ứng nhu cầu phát triển tinh thần, trí tuệ và tình cảm của xã hội. Các hoạt
động văn hoá vui chơi giải trí là một bộ phận của hoạt động văn hoá cộng đồng. Nó
mang chức năng “kép”, vừa mang chức năng kinh tế vừa mang chức năng văn hoá.
Xã hội hiện đại ngày nay là xã hội thị trường hướng nền sản xuất vào mục tiêu lợi
nhuận. Điều này ở các nước mới phát triển kinh tế thị trường còn là điều mới lạ, tính
tự phát của nền kinh tế xuất hiện nhiều. Mặt khác, do công tác quản lý xã hội ở các
nước mới mở cửa thị trường gặp nhiều khó khăn nên đã dẫn đến tình trạng nhiễu
loạn trên thị trường giải trí.
Vì vậy, nhận thức rõ hơn về thị trường văn hoá giải trí là một vấn đề không chỉ
mang ý nghĩa lý luận mà còn mang ý nghĩa thực tiễn cấp bách hiện nay.
Trước hết cần xem xét mối quan hệ giữa kinh tế và văn hoá trong hoạt động vui
chơi giải trí:
Thứ nhất, cần khắc phục tư tưởng tách rời văn hoá ra khỏi kinh tế chỉ đề cao
những giá trị văn hoá tinh thần, coi thường những vấn đề thực tiễn xã hội, coi thường
những vấn đề kinh tế. Cực đoan hơn, có quan điểm coi kinh tế là những vấn đề thông
tục, thấp kém, coi thường lao động làm ra của cải vật chất, coi thường lao động chân
tay, tách kinh tế ra khỏi văn hoá.
Thứ hai, trong khi tiến hành phát triển kinh tế thị trường, đã xuất hiện quan
điểm khá phổ biến ở nhiều nước đang phát triển là tuyệt đối hoá nhân tố kinh tế, lấy
mô hình Phương Tây làm trung tâm; không chú trọng đến phát huy các nguồn lực
văn hoá dân tộc. Điều đó dẫn các quốc gia này đến suy thoái cả về kinh tế và văn
hoá, biến các nước này trở thành một xã hội tiêu thụ hơn là một xã hội sản xuất và
phụ thuộc vào các nền kinh tế bên ngoài.
Như vậy, tuyệt đối hoá nhân tố văn hoá hay tuyệt đối hoá nhân tố kinh tế đều là
sai lầm. Xu hướng chung hiện nay là đi tìm sự tương tác giữa nhân tố văn hoá và
nhân tố kinh tế trong quá trình phát triển. Đối với văn hoá giải trí hiện nay cũng như
vậy.
Trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường, hoạt động giải trí cần được
nhìn nhận như một hoạt động kinh tế có tính văn hoá cao. Quy luật kinh tế tác
động một cách trực tiếp, cụ thể và là động lực cơ bản (bên cạnh động lực văn hoá)
để phát triển các hoạt động giải trí và đáp ứng nhu cầu giải trí của xã hội.
Hoạt động giải trí phải hướng tới phục vụ công chúng một cách tốt nhất. Điều này
phản ánh bản chất chung của kinh tế thị trường. Thực chất của hoạt động kinh
doanh trong lĩnh vực giải trí là giải quyết mối quan hệ giữa ba nhân tố hợp thành
quan hệ thị trường. Đó là các doanh nghiệp - công chúng - và các đối tác cạnh
tranh. Đảng và Nhà nước ta đã xác định trong nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, các thành phần kinh tế khác nhau đều tự do, bình đẳng cạnh
tranh trong khuôn khổ tôn trọng luật pháp và đạo lý dân tộc. Điều này làm thay
đổi nhận thức cũ của thời kỳ bao cấp trước đây là Nhà nước làm văn hoá cho nhân
dân hưởng, Nhà nước đầu tư về cơ sở vật chất kỹ thuật, đầu tư về nội dung, chỉ
đạo nhất quán theo bộ máy của nhà nước lập ra và nhu cầu của nhân dân phụ
thuộc vào sự “mở” hay "đóng” của Nhà nước. Từ đó dẫn đến tâm lý chờ đợi, ỷ lại
và thụ động của nhân dân trong hoạt động văn hoá, trong đó có lĩnh vực giải trí.
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, tham gia vào hoạt động kinh doanh trong
lĩnh vực vui chơi giải trí có rất nhiều các thành phần kinh tế khác nhau, trong đó
có cả các nhà đầu tư nước ngoài. Các chủ thể này luôn tìm cách để khai thác nhu
cầu và đáp ứng nhu cầu giải trí của xã hội theo nguyên tắc của thị trường. Nguyên
tắc chung của thị truờng là bình đẳng, công khai. Bản chất chung của thị trường là
hoạt động hướng tới phục vụ khách hàng tốt nhất trên cơ sở cạnh tranh quyết liệt.
Đây được coi là triết lý sơ đẳng nhất, đơn giản nhất, cốt lõi nhất và cũng là cơ bản
nhất của kinh tế thị trường. Như vậy, các hoạt động vui chơi giải trí do Nhà nước
lập ra hay là do các thành phần kinh tế, các tổ chức chính trị tạo nên thì cũng phải
chuyển sang thực hiện theo quy luật chung này. Vấn đề xây dựng thị trường văn
hoá giải trí ở nước ta trước hết là phải làm cho các chủ thể, ở các thành phần khác
nhau hoạt động theo quy luật của kinh tế thị trường. Cưỡng lại quy luật này sẽ dẫn
đến sự nhiễu loạn của thị trường. Tất nhiên, ở đây cũng cần phân biệt có hai loại
phục vụ giải trí: Loại hoạt động mang tính lợi nhuận và loại hoạt động phi lợi
nhuận. Loaị hoạt động phi lợi nhuận thường do các cơ quan văn hoá của nhà
nước, các tổ chức kinh tế - xã hội đứng ra tổ chức nhằm phục vụ những mục tiêu
về chính trị, văn hoá, xã hội khác nhau. Vì vậy không nên đồng nhất hoá các loại
hoạt động này mà cần có sự phân biệt chính xác để có những chính sách phù hợp
thúc đẩy sự phát triển việc xây dựng môi trường văn hoá giải trí công cộng.
Kinh tế thị trường là một nền kinh tế mở, mọi chủ thể đều bình đẳng và chủ
động kinh doanh tất những gì mà Nhà nước và luật pháp không cấm. Nó khác nền
kinh tế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu trước đây ở chỗ không chờ đợi khách hàng
có nhu cầu mới sản xuất để đáp ứng mà ngược lại, nó chủ động kích thích, khai thác
các nhu cầu mới của khách hàng để bán hàng, tạo nên sự cạnh tranh gay gắt.
Vì vậy, các hoạt động vui chơi giải trí của xã hội trong nền kinh tế thị trường
thường luôn luôn năng động, đổi mới, tạo ra các hình thức vui chơi giải trí mới lạ,
hấp dẫn đối với công chúng. Tiến công là triết lý kinh doanh nói chung và là triết lý
kinh doanh trong lĩnh vực vui chơi giải trí nói riêng.
Như vậy, thừa nhận có thị trường văn hoá giải trí, chúng ta phải vận dụng sáng
tạo phương pháp quản lý kinh tế đối với lĩnh vực hoạt động giải trí, điều tiết các hoạt
động kinh tế theo đòn bẩy kinh tế, dựa trên cơ sở các hướng ưu tiên và các hướng
không khuyến khích thông qua chế độ thuế và các hàng rào kinh tế khác. Đồng thời,
chúng ta không thể để cho hoạt động kinh tế lôi kéo các hoạt động giải trí trượt ra
ngoài đường ray của pháp luật. Mặt khác, cũng không nên áp đặt mô hình quản lý
kinh tế một cách cứng nhắc vào lĩnh vực hoạt động vui chơi giải trí làm mất tính đặc
thù của các hoạt động giải trí. Kinh tế thị trường là nơi thử thách đối với các hoạt
động giải trí, có thể có cơ hội và điều kiện phát triển mạnh mẽ tích cực hơn, đóng
góp nhiều hơn vào phát triển vật chất và tinh thần của xã hội. Ngược lại có thể là nơi
bùng phát các mặt trái của xã hội, làm tha hoá nhân cách, đạo đức của xã hội. ở đây,
cần tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, sao cho có thể vừa
khai thác có hiệu quả các nguồn lực để phát triển các hoạt động vui chơi giải trí, vừa
góp phần đáp ứng nhu cầu tinh thần của nhân dân.
Chương 2
Thực trạng văn hóa giải trí ở thành phố Hải Phòng trong thời kỳ đổi mới hiện
nay
2.1. Khái quát về sự phát triển kinh tế - xã hội và văn hoá ở thành phố Hải
Phòng trong thời kỳ đổi mới
2.1.1. Sự phát triền kinh tế, văn hoá - xã hội của thành phố Hải Phòng
trong thời kỳ đổi mới
Thành phố Hải Phòng trong thời kỳ đổi mới đã và đang từng bước thay đổi
theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Hiện nay thành phố Hải Phòng có diện tích là 1.507,6km2, dân số 1.723.500 người; trong đó nam 855.700 người (49,6%0), nữ
867.800 người (50,4%), dân số thành thị 588.900 người (34,2%), dân số nông thôn
1.134.600 người (65,8%), số dân làm nông nghiệp 926.300 người (53,7%), số dân làm
các ngành nghề khác 797.200 người (46,3%).
Trong những năm qua, thành phố Hải Phòng đã phát huy tốt tiềm năng, lợi thế
và nội lực. Kinh tế thành phố tăng trưởng liên tục với tốc độ cao, năm sau cao hơn năm
trước và luôn tăng gấp 1,5 lần so với mức tăng chung của cả nước. Năm 2000 tốc độ
tăng GDP của thành phố là 9,1% (cả nước 6,79%), năm 2001 là 10,38% (cả nước
6,89%), năm 2002 là 10,65 (cả nước 7,08), năm 2003 là 10,71% (cả nước 7,34), năm
2004 là 11,39% (cả nước 7,69) và năm 2005 là 12,25%. Đây là năm GDP của thành phố
đạt mức cao nhất từ trước tới nay [36, tr.110].
Trong 5 năm (2001 - 2005) tốc độ tăng GDP hàng năm đạt bình quân chung
11,1%. Nhóm nông lâm thuỷ sản tăng 5,1% (mục tiêu kế hoạch tăng 5,0%). Nhóm
công nghiệp xây dựng tăng 13,5% (mục tiêu kế hoạch tăng 14,4%); Nhóm dịch vụ
tăng trên 11,0% (mục tiêu kế hoạch tăng 10,0%), góp phần quan trọng trong
việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế thành phố theo hướng công nghiệp - dịch vụ - nông
nghiệp.
Kết quả tăng trưởng kinh tế đã làm cho thu nhập bình quân đầu người tăng khá. Năm
2000 mới đạt 641,5 USD/người thì đến năm 2004 đã đạt 927,0 USD/người và năm 2005
đạt 1.070 USD/người - vượt chỉ tiêu kế hoạch 5 năm 2001 - 2005 do Đại hội Đảng bộ thành
phố XII đề ra (950 - 1.000 USD/người) [36, tr.110].
Trong những năm qua, thực hiện Nghị quyết TW 5 (khoá VIII). Kết luận Hội
nghị TW10 (khoá IX) về xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc, thực hiện Nghị quyết 9 của Thành uỷ (khoá XI) về phát triển văn
hoá, Hải Phòng đã đạt được nhiều kết quả về xây dựng văn hoá, con người. Đời sống
văn hoá được chăm lo xây dựng và đạt kết quả rõ rệt trong tổ chức thực hiện nếp
sống văn hoá, xây dựng các thiết chế văn hoá cơ sở như: Làng văn hoá, nhà văn hoá,
điểm bưu điện văn hoá xã, thư viện, khu dân cư văn hoá, cụm văn hoá thể thao
CNVC, LĐ, cơ quan văn hoá, gia đình văn hoá... Phong trào " Toàn dân đoàn kết xây
dựng đời sống văn hoá" ở Hải Phòng qua 5 năm thực hiện (2000 - 2005) đã ngày
càng được mở rộng và phát triển nhanh chóng, thực sự đi vào cuộc sống và trở thành
cuộc vận động quần chúng rộng lớn, góp phần xây dựng môi trường văn hoá lành
mạnh, nâng cao dân trí, làm cho đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân từng
bước được nâng cao. Đến năm 2005, toàn thành phố đã có 672/761 làng và 100%
khu dân cư tổ chức lễ phát động xây dựng làng, khu dân cư văn hoá, 71% cơ quan
doanh nghiệp đăng ký xây dựng cơ quan văn hoá và hàng trăm đơn vị, cơ quan,
doanh nghiệp, trường học đạt tiêu chuẩn cơ quan, đơn vị văn hoá từ cấp quận cho
đến cấp thành phố. Đã có 316.056/414.696 hộ đăng ký xây dựng gia đình văn hoá,
trong đó có 263.725 hộ được công nhận gia đình văn hoá cấp quận, huyện, thị xã,
225 gia đình được công nhận gia đình văn hoá cấp thành phố, 149 điểm bưu điện văn
hoá xã. Trên địa bàn thành phố có 197 đội văn nghệ cơ sở, 281 câu lạc bộ gia đình
văn hoá, 13 đội thông tin lưu động, 19 cụm văn hoá thể thao công nhân lao động với
sự tham gia của trên 300 đơn vị thành viên và hàng chục nghìn công nhân, viên chức,
lao động tham gia vào các hoạt động văn hoá văn nghệ, tập luyện thể dục thể thao,
100% xã có nhà văn hoá. Phong trào văn hoá văn nghệ cơ sở ngày càng phát triển.
Hàng năm, các cuộc liên hoan văn nghệ quần chúng được tổ chức ở cấp quận, huyện,
thị xã và cứ 2 năm một lần tổ chức liên hoan văn nghệ cấp thành phố, khơi dậy và
phát triển mạnh mẽ các hoạt động văn hoá, văn nghệ ở cơ sở. Một số lễ hội truyền
thống được tổ chức, quản lý đúng quy chế như: Hội làng, Hội chọi trâu, Hội hát đúm,
Hội đua thuyền, thả đèn trời, Múa Rồng, Múa Tứ linh, Múa Kỳ lân...có tác dụng tốt
trong việc giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc. 100% các làng, khu dân cư văn hoá đã
xây dựng các quy ước cụ thể nhằm ngăn chặn, đẩy lùi các tệ nạn xã hội, các văn hoá
phẩm đồi truỵ, đồng thởi đấu tranh ngăn chặn âm mưu " diễn biến hoà bình " của các
thế lực thù địch trên lĩnh vực văn hoá tư tưởng. Việc quan tâm xây dựng môi trường
văn hoá đã tạo điều kiện để đông đảo nhân dân hưởng thụ và tham gia sáng tạo văn
hoá - văn nghệ, là cơ sở để phát triển toàn diện con người. Mục tiêu cao nhất của
phát triển văn hoá là xây dựng con người Hải Phòng có đầy đủ những đức tính nêu
trong nghị quyết TW 5 (khoá VIII) và Nghị quyết 9 Thành uỷ (khoá XI); biết trân
trọng, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, phát huy cao độ truyền thống " trung dũng -
quyết thắng", năng động, sáng tạo, khắc phục khó khăn, tự tin trong lao động, công
tác, có tác phong công nghiệp, văn minh, lịch thiệp, có trình độ văn hoá và nghề
nghiệp cao, có lòng tự tôn, tự hào về truyền thống, vị thế thành phố, bản lĩnh, phẩm
chất của người Hải Phòng.
Văn học - nghệ thuật Hải Phòng những năm qua đã gặt hái được nhiều kết quả
mới. Nghị quyết TW 5 (khoá VIII) của Đảng vừa tạo môi trường tự do sáng tác, vừa
định hướng cho các hoạt động sáng tác của đội ngũ văn nghệ sỹ của thành phố. Văn
học - nghệ thuật Hải Phòng đã phản ánh được nhịp sống sôi động của thành phố, ca
ngợi, tôn vinh các giá trị tốt đẹp, phê phán những thói hư, tật xấu, đấu tranh chống
tiêu cực xã hội, góp phần làm phong phú thêm đời sống văn hoá tinh thần, vui chơi
giải trí của nhân dân.
Toàn thành phố hiện nay có 179 di tích lịch sử đã được xếp hạng, trong đó có
96 di tích xếp hạng cấp quốc gia, 83 di tích cấp thành phố, 137 di tích được tu bổ, tôn
tạo. Các di tích được nhân dân tự nguyện tham gia đóng góp kinh phí để tu bổ, tôn
tạo ngày càng khang trang hơn, nhiều di sản văn hoá vật thể của thành phố được lập
kế hoạch bảo vệ, giữ gìn và phát huy tác dụng như khu mộ cổ ở Thuỷ Nguyên, di tích
Cái Bèo ở Cát Bà, Cát Hải, di tích Việt Khê ở Thuỷ Nguyên, và nhiều ngôi đình,
chùa, nhà thờ.. ở các địa bàn khác.
Văn hoá phi vật thể ở thành phố cũng được giữ gìn và phát huy. Lễ hội chọi
trâu Đồ Sơn là một trong 15 lễ hội lớn cấp quốc gia của ngành du lịch; lễ hội đua
thuyền Rồng trên biển Cát Bà là lễ hội lớn của ngành Thuỷ sản; lễ hội hát Đúm ở Phả
Lễ (Thuỷ Nguyên); lễ hội chạy - vật cầu ở Tân Trào (Kiến Thuỵ); múa rối cạn, rối
nước ở Nhân Hoà, Đồng Minh (Vĩnh Bảo), Hội thi pháo đất, Hội múa tứ linh- rồng -
kỳ lân ở huyện Vĩnh Bảo...đã góp phần giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, bản sắc văn
hoá địa phương, tăng thêm tình cảm cộng đồng làng xóm, đồng thời tăng cường các
hoạt động quảng bá du lịch, thu hút khách du lịch đến tham quan, giải trí và thông
qua các hoạt động này tạo việc làm, phát triển nghề truyền thống, nâng cao hiệu quả
kinh tế cho nhân dân địa phương.
Trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo, Hải Phòng có gần 800 trường học từ mầm
non đến đại học với khoảng 20.000 giáo viên và trên 600.000 học sinh, có 62
trường đạt chuẩn quốc gia và đang phấn đấu có 2 trường đạt chuẩn quốc tế. Trong
tổng số 1 triệu 172 nghìn người trong độ tuổi lao động đang làm việc trên địa bàn
thành phố có 216 tiến sỹ, 817 thạc sỹ, trên 49 nghìn người có trình độ đại học, cao
đẳng, 38 nghìn người có trình độ trung cấp, trên 75 nghìn công nhân kỹ thuật.
Tính bình quân có 2,6 đại học, cao đẳng /1.000 dân; 22 trung học và 14 công nhân
kỹ thuật /1.000 dân. Trong 5 năm (2001 - 2005) hàng năm có khoảng 36 nghìn
lượt lao động được tạo việc làm mới [Xem Phụ lục 1, tr.100 Luận văn].
Sự phát triển kinh tế xã hội của thành phố đã góp phần nâng cao đời sống vật
chất và đời sống tinh thần của nhân dân thành phố. Khảo sát của Cục thống kê Hải
Phòng năm 2004 cho thấy mức độ trang bị đồ dùng gia đình trong các hộ dân cư
không ngừng tăng nhanh về số lượng cũng như chất lượng.
Số lượng các vật dụng sinh hoạt được người dân sử dụng đã minh chứng cho
mức sống vật chất, tiêu dùng ngày càng được nâng cao của nhân dân thành phố và
thích ứng với đời sống vật chất được cải thiện là nhu cầu văn hoá tinh thần, trong đó
có văn hoá giải trí của nhân dân thành phố ngày càng cao. [Xem Phụ lục 2, tr.101
luận văn].
2.2. Thực trạng hoạt động văn hoá giải trí ở Hải Phòng
Sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế - xã hội trong những năm đổi mới vừa qua đã
tác động mạnh mẽ tới nhu cầu văn hoá vui chơi giải trí của nhân dân thành phố Hải
Phòng. Để đáp ứng nhu cầu đó của nhân dân, các ngành hữu quan ở thành phố Hải
Phòng đã có nhiều cố gắng trong việc nâng cao chất lượng, hiệu quả các hoạt động
văn hoá vui chơi giải trí ở nhiều loại hình. Từ các loại hình vui chơi giải trí trong gia
đình, trong cộng đồng dân cư cho tới các trung tâm vui chơi giải trí công cộng, các
trung tâm văn hoá thể thao, các hoạt động biểu diễn nghệ thuật, các loại hình giải trí
trên sóng phát thanh, truyền hình, báo chí...
2.2.1. Hoạt động văn hoá giải trí qua các thiết chế văn hoá công cộng
2.2.1.1. Bảo tồn, bảo tàng
Bảo tàng Hải Phòng là bảo tàng khảo cứu địa phương ra đời sớm. Việc xây
dựng bảo tàng được chuẩn bị ngay sau ngày giải phóng Hải Phòng (13-5-1955) và
chính thức đi vào hoạt động ngày 20/12/1959.
Gần 50 năm qua, Bảo tàng Hải Phòng không ngừng phấn đấu vươn lên, đóng
góp quan trọng vào việc phục vụ nhiệm vụ chính trị, văn hoá - xã hội của thành phố,
giới thiệu với nhân dân Hải Phòng, nhân dân cả nước và bạn bè quốc tế về truyền
thống lịch sử - cách mạng, truyền thống và bản sắc văn hoá của vùng đất và con
người Hải Phòng. Đội ngũ những người làm công tác bảo tàng cũng như nhân dân
thành phố và nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước đã nghiên cứu - sưu tầm, kiểm
kê bảo quản, trưng bày tuyên truyền về vùng đất, khí hậu, đất đai, thổ nhưỡng, các di
tích khảo cổ, các di tích lịch sử văn hoá và cách mạng của thành phố Hải Phòng. Đến
nay, Bảo tàng lưu giữ hơn 19 nghìn hiện vật, trên 154.500 tư liệu, gần 30.000 phim ảnh
gồm nhiều giai đoạn lịch sử, chứa đựng nhiều nội dung phong phú, đa dạng phục vụ tốt
công tác trưng bày, nghiên cứu khoa học...
Hoạt động trưng bày, tuyên truyền được duy trì và bổ sung nhiều phương thức
mới. Với 17 phòng trưng bày cố định Bảo tàng giới thiệu một cách khái quát nhất về
thiên nhiên, lịch sử, văn hoá, xã hội của Hải Phòng. Bên cạnh đó, Bảo tàng Hải
Phòng còn trưng bày nhằm giới thiệu với nhân dân một số chuyên đề của Trung
ương và tỉnh bạn, giúp người xem hiểu rõ hơn về truyền thống lịch sử - văn hoá,
truyền thống cách mạng của dân tộc Việt Nam.
Trong những năm gần đây, Bảo tàng Hải Phòng phối hợp với các Bảo tàng ở
trung ương như: Bảo tàng Cách mạng Việt Nam, Bảo tàng Văn hoá các dân tộc Việt
Nam, Bảo tàng Quân đội, Bảo tàng lịch sử Việt Nam thành phố Hồ Chí Minh... trưng
bày nhiều chuyên đề với các bộ sưu tập hiện vật độc đáo, đặc sắc, thu hút nhiều nhà
khoa học, đông đảo quần chúng nhân dân và học sinh đến tham quan, nghiên cứu học
tập, đem lại cho người xem những kiến thức bổ ích.
Những năm qua, lĩnh vực bảo tồn - bảo tàng ở Hải Phòng đã được các cấp uỷ
Đảng, chính quyền và nhân dân quan tâm như: Tăng cường đầu tư, cải tạo, nâng cấp,
tái thiết, quyết định bảo vệ, xếp hạng các di tích - danh lam, thắng cảnh; khảo sát,
sưu tầm di sản văn hoá vật thể và phi vật thể; khai quật khảo cổ...để tìm lại và phát
huy sức sống của di sản văn hoá truyền thống, đồng thời duy trì tốt hoạt động của hệ
thống bảo tồn, bảo tàng góp phần làm phong phú thêm đời sống văn hoá tinh thần
của nhân dân thành phố.
Mặc dù số lượng nhà bảo tàng, nhà trưng bày hiện vật lịch sử, văn hoá và các
danh lam, thắng cảnh, di sản văn hoá vật thể và phi vật thể ở Hải Phòng không nhiều,
nhưng số liệu khách tham quan ở các địa điểm này hàng năm không nhỏ. Điều đó cho thấy
hệ thống bảo tồn, bảo tàng ở đây đã góp phần đáp ứng nhu cầu tinh thần, giải trí tích cực của
nhân dân thành phố [Xem Phụ lục 3, tr.102 luận văn].
2.2.1.2. Thư viện
Hệ thống thư viện trên địa bàn Hải Phòng bao gồm: 1 thư viện Khoa học Tổng
hợp thành phố (mới xây dựng với trị giá 23 tỷ đồng); 13 thư viện chuyên ngành, 13
thư viện quận, huyện, thị xã và trên 130 phòng đọc, tủ sách cơ sở ... Hệ thống này
hiện nay đang thu hút đông đảo cán bộ, công chức, học sinh, sinh viên và người dân
thành phố tới học tập, nghiên cứu.
Hệ thống thư viện Hải Phòng những năm qua đã góp phần quan trọng trong
việc nâng cao trình độ dân trí, phục vụ nhu cầu học tập, nghiên cứu của học sinh,
sinh viên và nhu cầu giải trí của các tầng lớp nhân dân, góp phần thúc đẩy quá trình
giao lưu, hội nhập và tiếp thu tinh hoa nền tri thức của nhân loại.
Mặc dù hàng năm số phòng đọc, tủ sách cơ sở tăng nhanh, sách được bổ sung
với số lượng lớn, cùng với số lượt bạn đọc đến thư viện ngày càng tăng, nhưng lĩnh
vực hoạt động thư viện còn có những hạn chế như điều kiện vật chất, cơ sở hạ tầng,
chất lượng phục vụ của các thư viện cơ sở còn thấp. Sách nghiên cứu, sách chuyên
môn còn ít. Việc tra cứu tại các thư viện vẫn còn theo cung cách cũ nên việc tiếp cận
với nguồn tư liệu còn khó khăn, tốn thời gian và hiệu quả thấp. Dự án xây dựng thư
viện điện tử, nối mạng các thư viện với nhau vẫn chưa thực hiện được. Mặt khác, các
phương tiện nghe, nhìn đang chiếm ưu thế nên việc đọc sách tại các thư viện vẫn
chưa là hoạt động phổ biến của người dân, kể cả đối tượng là học sinh, sinh viên
[Xem Phụ lục 4, tr.103 luận văn].
2.2.1.3. Các thiết chế văn hoá cơ sở
Những năm qua, hệ thống thiết chế văn hoá các cấp thuộc ngành văn hoá thông
tin Hải Phòng ngày càng ổn định và phát triển. Thành phố đã xây dựng một Trung
tâm văn hoá cấp thành phố, 13 Trung tâm văn hoá thông tin quận, huyện, thị xã, 169
nhà văn hoá xã, phường, thị trấn (đạt 78% tổng số xã phường trên địa bàn thành
phố), 669 trung tâm văn hoá làng, 1203 làng văn hoá, khu dân cư văn hoá cùng hàng
nghìn CLB, đội văn nghệ. Hệ thống thiết chế này đã đáp ứng cơ bản nhu cầu sinh
hoạt giải trí, sáng tạo và hưởng thụ văn hoá của nhân dân.
Hải Phòng là đơn vị đầu tiên trên toàn quốc có hệ thống nhà văn hoá ba cấp
(thành phố, quận, huyện, thị xã - thị trấn) và đang triển khai tích cực việc xây dựng
các trung tâm văn hoá xã, nhà văn hoá làng. Toàn thành phố hiện có 4 nhà văn hoá cấp
thành phố: Trung tâm Văn hoá thành phố, Cung Văn hoá lao động hữu nghị Việt Tiệp,
Cung Văn hoá Thanh niên, Nhà Văn hoá Thiếu nhi. Ngoài ra còn có các nhà văn hoá hoặc
trung tâm văn hoá - thể thao quận, huyện, thị xã.
Hải Phòng hiện có 128 câu lạc bộ văn nghệ quần chúng sinh hoạt trong các
nhà văn hoá từ thành phố đến quận, huyện thị xã. Đây là những hạt nhân nòng cốt
tích cực thúc đẩy phong trào văn hoá văn nghệ quần chúng. Không chỉ về mặt số
lượng mà chất lượng và bề sâu hoạt động của các câu lạc bộ văn nghệ quần chúng
cũng được nâng cao, góp phần thúc đẩy hoạt động văn hoá văn nghệ cơ sở ở Hải
Phòng. Hoạt động các câu lạc bộ sở thích tại các Cung văn hoá, nhà văn hoá, trung
tâm văn hoá từ thành phố đến các quận, huyện, thị xã, cho đến các xã, phường, thị
trấn đã lôi cuốn, thu hút sự tham gia đông đảo của các tầng lớp nhân dân tham gia
sinh hoạt vui chơi giải trí tại các câu lạc bộ này vào thời gian rỗi. Có thể thấy một số
đơn vị tiêu biểu như:
- Cung văn hoá Lao động hữu nghị Việt Tiệp do Liên đoàn Lao động thành phố
Hải Phòng quản lý là công trình được xây dựng và hoàn thành vào tháng 12/1979
theo ký kết hợp tác về văn hoá giữa Tổng Công đoàn Việt Nam (nay là Tổng LĐLĐ
Việt Nam) và Tổng Công hội nước Cộng hoà XHCN Tiệp Khắc (nay là Cộng hoà
Séc và Cộng hoà Xlôvakia). Sau 17 năm hoạt động, Cung Văn hoá LĐHN Việt Tiệp
đã thực sự trở thành Trung tâm văn hoá - thể thao của Công nhân viên chức, lao động
và nhân dân thành phố Hải Phòng.
Hiện nay, Cung Văn hoá LĐHN Việt Tiệp có 28 câu lạc bộ sở thích, trong đó có 14
câu lạc bộ loại hình văn hoá nghệ thuật với gần 1.200 hội viên, 14 câu lạc bộ thể dục thể
thao với trên 500 hội viên [Xem Phụ lục 5, tr.104 luận văn].
- Trung tâm Văn hoá thuộc Sở Văn hoá Thông tin, ngoài chức năng, nhiệm
vụ tổ chức, hướng dẫn nghiệp vụ thông tin cơ sở, tổ chức các hội diễn, liên hoan
văn hoá nghệ thuật trên địa bàn thành phố, còn là nơi quy tụ các câu lạc bộ sở
thích trong lĩnh vực văn hoá nghệ thuật. Câu lạc bộ thơ: có 79 hội viên, ngoài
việc duy trì chế độ sinh hoạt thường xuyên, định kỳ hàng tháng với nhiều nội
dung phong phú, như: bình thơ, ngâm thơ, giao lưu với các câu lạc bộ thơ khác và
tổ chức các chương trình ca nhạc dân tộc... Nhiều hội viên CLB thường xuyên có
bài cho tập san "Hướng dẫn nghiệp vụ văn hoá thông tin". Năm 2005 CLB đã cho
ra mắt tập thơ "Tình biển" chào xuân mới và chào mừng 60 năm ngày thành lập
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Câu lạc bộ Hán Nôm, trong năm 2005
đã viết gần 300 bức thư pháp các loại tham gia trưng bày tại Trung tâm triển lãm
thành phố, Đình An Biên và Trung tâm Dịch thuật thành phố. Nhân dịp kỷ niệm
50 năm giải phóng Hải Phòng (13/5/1955 - 13/5/2005) các Hội viên CLB đã phục
vụ trên 200 lượt khách xin chữ. Trong tháng 10/2005, CLB đã trưng bày 30 bức
thư pháp và viết trên 300 bức tặng và giao lưu với khách tại Trung tâm Hội chợ
và Triển lãm quốc tế Hải Phòng. Câu lạc bộ Du lịch sinh thái, năm 2005 đã khai
thác được nhiều tuyến du lịch sinh thái mới như: Cầu Bính, kho lương Thuỷ
Nguyên, Núi Thiên Văn Kiến An, ngoài ra CLB còn tổ chức 5 chuyến du lịch cho
122 hội viên tham quan những danh lam thắng cảnh của miền Bắc như: Nhà thờ
Đá - Phát Diệm, Chùa Yên Tử, thăm quan Lạng Sơn. Câu lạc bộ sân khấu, là một
CLB mới thành lập song hoạt động khá hiệu quả. Vừa qua, CLB đã dàn dựng vở
kịch nói "Hạt giống đỏ" chào mừng Đại hội Đảng bộ các cấp và Đại hội Đảng bộ
thành phố lần thứ XIII. Vở đã công diễn 14 buổi, thu hút trên 4000 lượt người xem
và để lại ấn tượng tốt trong lòng khán giả. Câu lạc bộ ca nhạc Biển nhớ, được thành
lập cách đây gần 10 năm, là nơi tập hợp nhiều giọng hát hay, từng nổi danh trong
phong trào ca hát chuyên nghiệp và không chuyên của thành phố. Hàng năm CLB
thường xuyên cho các hội viên duy trì đều đặn sinh hoạt mỗi tháng 4 kỳ với nhiều
nội dung phong phú, trau dồi nghiệp vụ, luyện tập thanh nhạc, gặp gỡ, giao lưu ca
hát với các CLB bạn và tham gia nhiều hoạt động văn nghệ thành phố hoặc Trung
tâm văn hoá tổ chức. Năm 2005 CLB ca nhạc Biển nhớ tham gia hầu hết các chương
trình văn nghệ kỷ niệm các ngày lễ lớn của thành phố, đồng thời dàn dựng và biểu
diễn chương trình ca nhạc " Người Hải Phòng hát về Hải Phòng" được công chúng
yêu thích đánh giá cao, CLB còn tổ chức 23 buổi biểu diễn tại Trung tâm Văn hoá và
các đơn vị trong, ngoài thành phố.
Có thể nói các thiết chế văn hoá cơ sở và các câu lạc bộ sở thích ở thành phố
Hải Phòng đã hoạt động năng động, sáng tạo với nhiều nội dung đa dạng, phong phú,
lôi cuốn đông đảo mọi tầng lớp nhân dân ở mọi lứa tuổi, mọi diện nghề nghiệp tham
gia sinh hoạt, sáng tạo và hưởng thụ văn hoá. Hải Phòng còn có 669 trung tâm văn
hoá làng. Các trung tâm này đã có nhiều hình thức hoạt động văn hoá khá sôi nổi
nhằm đáp ứng nhu cầu vui chơi giải trí của người dân.
Chúng ta biết rằng làng là một không gian địa lý, một hình thức tổ chức cộng
đồng đặc trưng của cộng đồng dân tộc Việt Nam. Văn hoá làng được sản sinh, phát
triển và được lưu giữ, bảo tồn qua thế hệ. Văn hoá lễ hội, văn hoá dân gian của làng
là nét văn hoá đặc trưng của cộng đồng dân cư vùng đồng bằng sông Hồng nói
chung, Hải Phòng nói riêng. Trong nhiều năm qua, nhân dân đã đóng góp công sức,
tiền của để xây dựng cơ sở vật chất cho các hoạt động văn hoá làng. Hiện nay các
huyện ngoại thành có 439 trung tâm văn hoá làng (nhà văn hoá làng) được tổ chức
hoạt động tốt. Các hoạt động của nhà văn hoá làng đã đáp ứng nhu cầu sinh hoạt và
hưởng thụ văn hoá của nhân dân, phù hợp với trình độ dân trí, tâm lý và khả năng
của người dân trong làng. Những hoạt động văn hoá ở thôn làng được thực hiện dưới
hình thức:
+ Tổ chức biểu diễn, giao lưu văn nghệ quần chúng.
+ Tổ chức hội họp và sinh hoạt các đoàn thể, câu lạc bộ, tuyên truyền chủ trương,
chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước, các quy định của địa phương.
+ Xây dựng làng văn hoá, gia đình văn hoá, những vấn đề liên quan tới thực
hiện hương ước, quản lý làng và sinh hoạt cộng đồng làng.
+ Các hoạt động văn hoá, TDTT, vui chơi giải trí...
Việc xây dựng và tổ chức thiết chế trung tâm văn hoá làng đã thúc đẩy công tác
xã hội hoá văn hoá ở cơ sở, huy động được khả năng đóng góp của cộng đồng dân cư
và các tổ chức xã hội. Tuy vậy, cơ sở vật chất của các trung tâm văn hoá làng vẫn
còn ở quy mô nhỏ, trang thiết bị chuyên dùng (trang âm, ánh sáng, phông màn...) còn lạc
hậu, thiếu thốn dẫn đến nội dung hoạt động còn nghèo nàn, sơ sài, chất lượng hạn chế,
do đó chưa thu hút được đông đảo người dân
Trước yêu cầu mới của sự phát triển ở nông thôn cần phải củng cố và hoàn
thiện tổ chức thiết chế văn hoá làng, thiết chế văn hoá xã, trong đó mở rộng, hoàn
thiện cơ sở vật chất, trang thiết bị chuyên dùng, khu vui chơi giải trí, phòng đọc sách
báo, hệ thống truyền thanh và cảnh quan môi trường, thu hút đông đảo hơn quần
chúng tham gia hoạt động văn hoá, văn nghệ trong phạm vi làng [Xem Phụ lục 6,
tr.105 luận văn].
2.2.1.4. Hoạt động thể dục thể thao
Hải Phòng là một trung tâm TDTT lớn của cả nước. Hải Phòng có nhiều tiềm năng
và lợi thế để phát triển TDTT và triển khai chủ trương xã hội hoá TDTT.
Hải Phòng hiện có 2155 Câu lạc bộ TDTT cơ sở tập luyện, thi đấu 35 môn thể
thao trong đó CLB thuộc hình thức công lập chiếm 24% (khoảng 1690 CLB). Việc
ban hành Nghị định 73/1999/NĐ - CP của Chính phủ đã góp phần quan trọng vào
việc hình thành các cơ sở TDTT ngoài công lập do người dân và các tổ chức xã hội
tự xây dựng, không những đáp ứng được nhu cầu tập luyện TDTT nâng cao sức khoẻ
mà còn góp phần đáp ứng nhu cầu văn hoá, giải trí lành mạnh của người dân thông
qua các hoạt động TDTT.
Với phương châm đa dạng hoá các loại hình hoạt động TDTT, hàng năm ngành
TDTT ký liên tịch với các ngành như Công an, Quân đội, Sở Giáo dục - Đào tạo, Sở
Văn hoá Thông tin, Sở Thương mại, Sở Tài chính, Cục Thuế, Sở Điện lực... với các
đoàn thể như như Mặt trận Tổ quốc, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội
Liện hiệp Phụ nữ, Hội Nông dân, Liên đoàn Lao động, Hội Cựu chiến binh...và các
cơ quan tuyên truyền như Đài Phát thanh và Truyền hình, Báo Hải Phòng, Báo An
ninh Hải Phòng nhằm đẩy mạnh các hoạt động TDTT đến mọi đối tượng bằng nhiều
hình thức phong phú, hấp dẫn nhằm thu hút ngày càng đông đảo các tầng lớp nhân
dân tham gia.
Bên cạnh việc tổ chức các hoạt động văn hoá, văn nghệ TDTT thường xuyên
cho CNVC, LĐ trong các đơn vị trên địa bàn thành phố, Liên đoàn Lao động Hải
Phòng còn xây dựng, tổ chức và duy trì hoạt động của 19 cụm Văn hoá Thể thao
CNLĐ, thu hút trên 350 cơ quan, đơn vị, lực lượng vũ trang, phường, xã, trường
học...với hàng chục nghìn công nhân, viên chức, lao động tham gia tập luyện môn
thể thao mà mình yêu thích. Trung bình hàng năm mỗi cụm tổ chức từ 10 - 15 đợt thi
đấu thể thao. Hàng năm đã huy động được hàng nghìn ngày công lao động để xây
dựng sân bãi, cơ sở vật chất cho hoạt động thể thao và hàng tỷ đồng ngoài nguồn
ngân sách của nhà nước để tổ chức các hoạt động giao lưu, thi đấu TDTT, nhất là
Ngày hội các Cụm Văn hoá Thể thao CNVC, LĐ thành phố được tổ chức định kỳ
vào dịp kỷ niệm ngày giải phóng miền Nam 30/4 và ngày Quốc tế Lao động 1/5. Mô
hình này ở Hải Phòng đã được Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Bộ Văn hoá
Thông tin, Uỷ ban TDTT đánh giá cao. Do có sự đa dạng hoá các loại hình tổ chức
TDTT với nhiều hình thức vận động nên những năm qua số người tập luyện TDTT ở
Hải Phòng ngày một tăng lên, số môn TDTT ngày càng nhiều hơn.
Có thể khẳng định rằng thành phố Hải Phòng là một trong những trung tâm thể
thao lớn nhất của cả nước. Sự nghiệp TDTT của thành phố phát triển ổn định, vững
chắc, sâu, rộng, thu hút đông đảo mọi tầng lớp nhân dân vào các hoạt động thể thao
quần chúng. Các hoạt động TDTT đa dạng, phong phú đã đáp ứng nhu cầu nâng cao
sức khoẻ, và hưởng thụ thể thao, nhu cầu văn hoá giải trí của nhân dân thành phố
[Xem Phụ lục 7, tr.106 luận văn].
2.2.2. Hoạt động văn hoá giải trí qua các phương tiện thông tin đại chúng
Hoạt động của các phương tiện thông tin đại chúng là một phần của đời sống
văn hoá xã hội hiện đại. Ngoài các chức năng cơ bản như: Chức năng tư tưởng, chức
năng giám sát, quản lý xã hội và chức năng văn hoá, các phương tiện thông tin đại
chúng còn có một chức năng quan trọng là chức năng giải trí.
Các phương tiện thông tin đại chúng thực hiện chức năng giải trí bằng nhiều
hình thức và mức độ khác nhau, tuỳ theo từng đặc điểm của từng loại hình phương
tiện. Sự đa dạng về loại hình phương tiện cho phép người dân ngày càng có nhiều
điều kiện để lựa chọn cách giải trí. Trong điều kiện sống hiện nay, và trước sự bùng
nổ của các phương tiện thông tin đại chúng, người ta có thể thoả mãn nhu cầu giải trí
của mình qua các phương tịên thông tin đại chúng như đọc sách báo, xem truyền
hình, nghe đài phát thanh, nghe các loại băng đĩa âm thanh...Hoạt động giải trí của
người dân thành phố Hải Phòng trong những năm qua đã được đáp ứng bởi các
phương tiện thông tin đại chúng của thành phố.
2.2.2.1. Về báo in
Thành phố Hải phòng có 5 cơ quan báo in do địa phương quản lý, gồm: Báo
Hải Phòng, Báo An ninh Hải Phòng, Tạp chí Sinh hoạt Chi bộ, Tạp chí Cửa Biển,
Tạp chí Khoa học và Kinh tế. Trên địa bàn thành phố Hải Phòng còn có cơ quan
thường trú của các báo chí trung ương như: Báo Nhân dân, Phân xã TTXVN, Báo
Lao động, Thanh niên, Tiền Phong, Thời báo Kinh tế...; có các văn phòng đại diện
hoặc địa chỉ liên lạc của báo: Công an nhân dân, Diễn đàn Doanh nghiệp, Nhà báo và
Công luận, Lao động - xã hội, Đại đoàn kết...Hải Phòng còn có các tờ báo của lực
lượng vũ trang, như: Báo Hải quân Việt Nam, Tạp chí Hải quân, Báo Quân khu Ba...
Ngoài ra còn có nhiều tờ Đặc san, Bản tin nội bộ, Thông tin chuyên ngành... của các
cơ quan, đơn vị như Uỷ ban Dân số Gia đình và Trẻ em, Sở Y tế, Sở Văn hoá Thông
tin, Sở Khoa học Công nghệ... xuất bản theo giấy phép định kỳ hoặc nhất thời do Bộ
Văn hoá Thông tin hoặc Sở Văn hoá Thông tin cấp. Như vậy, lực lượng báo in trên
địa bàn thành phố khá đông đảo, hùng hậu, đủ mọi loại hình. Trong quá trình xây
dựng và trưởng thành, báo chí Hải Phòng đã từng bước nâng cao chất lượng, không
ngừng cải tiến cả về nội dung và hình thức, góp phần đắc lực vào sự nghiệp xây
dựng, phát triển thành phố, trở thành người bạn tin cậy và thân thiết của các tầng lớp
nhân dân. Hàng ngày, nhân dân thành phố được tiếp cận với hơn 400 loại báo, tạp chí
(gồm các tờ báo, tạp chí Trung ương, thành phố Hải Phòng và một số địa phương
trong nước) với lượng phát hành khoảng 10 triệu bản/năm.
Những năm qua, hoạt động báo chí của Hải Phòng đã tập trung tuyên truyền
đường lối, chủ trương, chính sách pháp luật của Đảng, Nhà nước và thành phố, tuyên
truyền giáo dục truyền thống lịch sử, truyền thống cách mạng và phổ biến kiến thức
cho quảng đại nhân dân. Báo chí Hải Phòng đã góp phần tích cực vào việc thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế nâng cao đời sống tinh thần cho nhân dân. Để đáp ứng yêu cầu
giải trí của người dân thành phố Báo Hải Phòng đã tổ chức các chuyên trang, chuyên
mục về văn hoá - văn nghệ, văn học - nghệ thuật, tình hình chính trị, kinh tế, văn hoá
- xã hội trong và ngoài nước, về TDTT, vui chơi giải trí. Đặc biệt, Báo Hải Phòng đã
phát hành ấn phẩm Hải Phòng cuối tuần được in ấn với hình thức đẹp, trong đó luôn
dành từ 60 - 80% nội dung cho các thông tin giải trí đa dạng, phong phú và hấp dẫn
[Xem Phụ lục 8, tr.107 luận văn].
2.2.2.2. Về phát thanh - truyền hình
Hệ thống Phát thanh và Truyền hình Hải Phòng gồm Đài Phát thanh - Truyền
hình thành phố và 07 trạm chuyển tiếp truyền hình, hệ thống truyền hình cáp, 11 đài
phát thanh huyện và 216 đài truyền thanh xã, phường. Hệ thống này đã phát và
chuyển tiếp các chương trình phát thanh - truyền hình của trung ương, của thành phố
Hải Phòng và một số địa phương khác, góp phần tích cực trong việc tuyên truyền các
chủ trương, chính sách, nâng cao dân trí và đáp ứng các nhu cầu giải trí cho mọi
người dân. Đài Phát thanh và Truyền hình thành phố đã tăng thời lượng phát thanh
đạt 13h/ngày, thời lượng phát sóng truyền hình 13h/ngày, riêng thứ 7 và chủ nhật là
18h/ngày và tiếp sóng các chương trình của Đài tiếng nói Việt Nam, Đài Truyền hình
Việt Nam (VTV1, VTV2, VTV3) trên kênh 10 VHF và UHF.
Hệ thống thiết bị thu tín hiệu truyền hình bằng vệ tinh TVRO thu chương trình
trong nước phục vụ nhân dân vùng sâu, vừng xa, hải đảo. Các đài phát thanh quận,
huyện, thị xã được trang bị máy phát sóng FM, phòng cách âm và thiết bị sản xuất
chương trình. Đài truyền thanh các xã, phường, thị trấn được nâng cấp, một số được
đầu tư hệ thống truyền thanh không dây, bảo đảm cho việc chuyển tải tín hiệu và bảo
vệ an toàn hệ thống truyền thanh của địa phương. Đài Phát thanh và Truyền hình Hải
Phòng trong những năm qua đã bám sát các định hướng tuyên truyền theo trọng tâm,
trọng điểm của nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hoá xã hội của thành phố tập trung
tuyên truyền đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước.
Chương trình thời sự với thời lượng 40 phút/ngày những năm 2000 trở về trước nay
đã tăng lên 90 phút/ngày với những tin tức cập nhật, phong phú, kịp thời, bám sát
những vấn đề thời sự nóng hổi của cuộc sống [Xem Phụ lục 9, tr.108 luận văn].
Trong việc đáp ứng yêu cầu giải trí của người dân thì sự xuất hiện của những
kênh truyền hình, chương trình phát thanh, truyền hình có tính chất giải trí là một
điểm mới trong hoạt động của hệ thống thông tin đại chúng ở thành phố Hải Phòng
nói riêng, ở nước ta nói chung.
Những năm 1990 của thế kỷ XX các kênh truyền hình HTV 7 (Đài truyền hình
thành phố Hồ Chí Minh), kênh VTV3 (Đài Truyền hình Việt Nam) đã ra đời, đó là
những kênh thường được coi là các kênh giải trí. Thực ra đó mới chỉ là lấy giải trí
làm "điểm nhấn" chứ chưa phải là những kênh chuyên biệt giải trí. Chỉ tới gần đây
mới xuất hiện những kênh chuyên biệt giải trí thật sự. Đầu tiên với Truyền hình cáp
Việt Nam (VCTV), sau đó là Truyền hình cáp Sài Gòn (SCTV), Truyền hình cáp Hà
Nội (HCTV). Các kênh truyền hình loại này phát sóng từ 10 - 24/h/ngày, chiếu phim
truyện Việt Nam và nước ngoài, phim hiện đại và cổ điển, phim lẻ và phim nhiều tập,
ngoài ra còn có các chương trình ca nhạc, tạp kỹ, thể thao và giải trí cho khán giả...
Các sân chơi trên truyền hình cũng ngày càng trở thành một hoạt động giải trí
hấp dẫn của công chúng. Để đáp ứng nhu cầu giải trí của công chúng, trên truyền
hình đã xuất hiện xu hướng "trò chơi hoá". Nhiều chương trình truyền hình trên Đài
Truyền hình Việt Nam, Đài Truyền hình Hải Phòng... có xu hướng " Showgame"
hoá, tức là biến thành các trò chơi. Đây là một xu hướng hiện đại của truyền hình thế
giới, bởi lẽ trong thời đại công nghệ thông tin ngày nay, khán giả ngày càng ít thời
gian, và chỉ có cái gì thật hấp dẫn thì mới lôi cuốn được họ. Những năm trước đây,
khi "Trò chơi liên tỉnh" và "SV 96" xuất hiện trên màn ảnh VTV3 thì sức lôi cuốn
của truyền hình cũng trở nên sống động, hấp dẫn hơn. Cho đến thời điểm này cũng
đã có tới hàng chục trò chơi trên VTV. Lĩnh vực Âm nhạc có "Thế kỷ âm nhạc","
Trò chơi âm nhạc", "Làng vui chơi, Làng ca hát", lĩnh vực Điện ảnh có "Trò chơi
điện ảnh"... rồi "ở nhà chủ nhật", "Câu lạc bộ người yêu thơ", "Đường lên đỉnh
Olympia", "Gặp nhau cuối tuần", "Chiếc nón kỳ diệu", "Ai là Ai", "Ai là triệu
phú"..Riêng thiếu nhi có "Vườn cổ tích", "Những đứa trẻ tinh nghịch", "Ông mặt trời
thông thái"... Với các trò chơi này, việc phổ biến kiến thức lịch sử, văn hoá, nghệ
thuật trở nên khéo léo hơn, dễ vào lòng khán giả hơn. Từ Hành trình văn hoá với tri
thức văn hoá các nước, cho đến "Đường lên đỉnh Olympia" là kiến thức tổng hợp về
tự nhiên, xã hội...Hoặc như chương trình "Thế kỷ âm nhạc"," Trò chơi âm nhạc"
đang thu hút một số lượng lớn khán giả ngồi ở trường quay và trước máy thu hình.
Kiến thức âm nhạc được bổ túc cho khá nhiều người từ các dòng nhạc, tác giả, tác
phẩm ở nhiều thời kỳ khác nhau, nhiều dân tộc, quốc gia khác nhau...cho đến thuộc
và hát tương đối đúng nhạc một số bài hát quen thuộc... Hiện nay có một số chương
trình trò chơi giải trí như: "Ai là triệu phú" và " Hãy chọn giá đúng" đang thu hút sự
tham gia của đông đảo công chúng trong và ngoài trường quay...Trong thời gian qua,
truyền hình Hải Phòng đã xây dựng một số chương trình trò chơi giải trí như "Sắc màu
Hoa phượng", "Con tàu may mắn", "Siêu thị Sao"...đã tạo được những tiếng vang nhất
định. Đặc biệt, trong dịp Tết Bính Tuất vừa qua, khán giả thành phố Cảng đã được xem
một chương trình trò chơi mới của Đài Truyền hình Hải Phòng- đó là trò chơi "Con
đường chinh phục". Đây là trò chơi mới rất hấp dẫn về phần sân khấu, ánh sáng, âm
thanh, đạo cụ...Tổng số tiền đầu tư lên tới 5 tỷ đồng, với ý tưởng lớn là người xem
Truyền hình Hải Phòng không phải là 1,9 triệu dân mà có thể là 19 triệu dân. Nhắm tới
mục đích mở rộng trò chơi tới nhiều tỉnh trong cả nước, Đài truyền hình Hải Phòng bắt
tay với 10 đài truyền hình của các địa phương kết nối phát sóng "Con đường chinh
phục" trong cùng một thời điểm, đồng thời các đội chơi cũng sẽ được tuyển lựa xa hơn:
có các thành viên của Quảng Ninh, Hải Dương, Bắc Giang, Bắc Ninh, Thái Bình...Theo
kế hoạch, "Con đường chinh phục" sẽ là một sân chơi di động ra các tỉnh lân cận để
người xem cảm thấy đây là một sân chơi dành cho nhiều người chứ không riêng gì Hải
Phòng.
Luật chơi như sau: Mỗi cuộc thi có 2 đội chơi. Phần thi thử sức bằng cơ bắp để
lựa chọn nước đi trước. Phần thi khám phá là những câu hỏi tổng hợp. Mỗi đội sẽ
chơi trò xúc sắc để tiến nhanh về đích. Trên dọc hành trình, có nhiều điều bất ngờ
nằm trong các nước đi: Cướp biển, cứu nạn, kho báu...Có 2 cơ hội để giành được số
điểm cao: Chinh phục Đảo giấu vàng và Đảo Kim Cương, Giải thưởng cho mỗi đội
tuỳ theo số điểm mà mỗi đội giành được.
Có thể nói, một mục tiêu quan trọng của các "trò chơi truyền hình" là tính giải
trí - thư giãn. Mục đích này được thể hiện rất cao. Nó làm người ta quên đi những
mệt nhọc của công việc vất vả hàng ngày, góp phần tái tạo sức lao động.
2.2.3. Hoạt động văn hoá giải trí qua các dịch vụ văn hoá nghệ thuật (Biểu
diễn nghệ thuật, Điện ảnh, Băng, đĩa hình, Karaoke...)
2.2.3.1. Hoạt động biểu diễn nghệ thuật
Hải Phòng hiện có 5 đoàn nghệ thuật chuyên nghiệp thụ hưởng ngân sách nhà
nước gồm: đoàn Ca múa, đoàn Kịch nói, đoàn Cải lương, đoàn Chèo và đoàn Múa
rối. Thực hiện Nghị định 73/NĐ - CP của chính phủ về xã hội hoá văn hoá và Quyết
định số 47/2004/BVHTT của Bộ trưởng Bộ VHTT ban hành kèm theo Quy chế hoạt
động biểu diễn và tổ chức biểu diễn nghệ thuật chuyên nghiệp đã có thêm 2 đơn vị
nghệ thuật tự trang trải thuộc Trung tâm biểu diễn nghệ thuật, 03 công ty TNHH có
chức năng hoạt động tổ chức biểu diễn nghệ thuật theo Luật Doanh nghiệp.
Mặc dù với kinh phí hạn hẹp, cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật chưa đáp
ứng yêu cầu, lực lượng diễn viên trẻ còn hạn chế về chuyên môn, nhưng nhìn chung
các đoàn nghệ thuật ở Hải Phòng đã đảm bảo kế hoạch biểu diễn được giao. Các
đoàn đã có những chương trình biểu diễn nghệ thuật có chất lượng chuyên môn cao,
những tiết mục, vở diễn để lại nhiều dư âm trong lòng công chúng Hải Phòng. Đoàn
Kịch nói Hải Phòng có một số vở diễn tiêu biểu như: "Con cáo và chùm nho", "Âm
mưu và tình yêu", "Dòng sông ám ảnh", "Lịch sử và nhân chứng", "Sống trong im
lặng" hay "Vụ án 2000 ngày"... đã có dư âm tốt trong lòng công chúng yêu nghệ
thuật kịch nói. Đoàn Ca múa Hải Phòng có những tiết mục, vở diễn tiêu biểu, như:
Vở ca kịch "Tình yêu và danh dự ", Vở ca kịch "Yêu trước Phật đài", Chương trình
ca múa nhạc dân tộc " Sân đình làng biển", Chương trình ca múa nhạc "Thương lắm
Miền Trung ơi" ...để lại những tiếng vang lớn. Đoàn múa Rối Hải Phòng có: Vở
"Vua Hùng kén rể", Vở "Huyền thoại hoạ my", Tiết mục "Ngày hội tuổi thơ",
Chương trình "Bàn tay - Con Rối - Cuộc đời"... Đoàn Cải lương Hải Phòng có
một số vở diễn tiêu biểu, như Vở "Kêu cứu"; Vở " Hòn Đất", Vở "Tiếng gọi"; Vở
"Sau bức màn nhung"; ' Đôi dòng sữa mẹ"; " Người mẹ lưu đày"; " Lôi Vũ"; " Loài
hoa không tên",; " Người khơi nguồn xuân"; " Nữ tướng Lê Chân"... Đoàn Chèo Hải
Phòng có các vở diễn tiêu biểu như: "Suý Vân giả dại", "Quan Âm Thị Kính", "Tấm
Cám"; "Chiếc nón Bài Thơ"; "Người con gái sông Cấm"; "Lam Sơn tụ nghĩa"; "Tấm
vóc đại hồng"; "Ni cô Đàm Vân"; "Cây tre trăm đốt"; "Công chúa Tô Lan"; "Ông
vua hoá hổ"; "Nỗi đau tình Mẹ"; " Biển khổ"; " Lời sấm truyền từ quán Trung Tân";
"Lưu Bình - Dương Lễ".
Các đoàn nghệ thuật của Hải Phòng còn tham gia nhiều chương trình lớn phục
vụ nhiệm vụ chính trị, đặc biệt là các chương trình: "Hải Phòng rực sáng biển Đông
", " Hải Phòng 50 mùa phượng đỏ " có tính sử thi nhân dịp kỷ niệm 50 năm ngày giải
phóng Hải Phòng (13/5/1955 - 13/5/2005).
Nhìn chung, các đoàn nghệ thuật thành phố Hải Phòng đã vượt lên khó khăn thử
thách, tích cực tổ chức biểu diễn từ trung tâm thành phố đến các vùng nông thôn, từ nơi tập
trung đông dân cư đến các vùng sâu, vùng xa góp phần đáp ứng nhu cầu văn hoá giải trí của
công chúng Hải Phòng [Xem Phụ lục10, tr.109 luận văn].
2.2.3.2. Hoạt động điện ảnh
Điện ảnh ra đời, tồn tại và phát triển gắn liền với những tiến bộ của khoa học,
kỹ thuật và công nghệ. Đứng ở góc nhìn hoạt động văn hoá thì điện ảnh là một phần
của diện mạo văn hoá đương đại. Điện ảnh Việt Nam nói chung và điện ảnh Hải
Phòng nói riêng luôn được coi là một loại hình nghệ thuật quan trọng trong văn hoá
giải trí.
Những năm gần đây, hoạt động điện ảnh ở Hải Phòng có bước phát triển mới
trên cả ba mặt: buổi chiếu, lượt người xem và doanh thu. Điện ảnh Hải Phòng đứng
thứ 3 cả nước, sau Điện ảnh Hà Nội và điện ảnh thành phố Hồ Chí Minh. Tuy nhiên,
điện ảnh Hải Phòng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của các tầng lớp nhân dân và
tương xứng với tầm vóc một đô thị lớn của quốc gia.
Hoạt động chiếu phim của Hải Phòng chủ yếu chỉ có hệ thống các rạp chiếu
phim trong khu vực nội thành và 2 đội chiếu bóng lưu động. Hiện nay, tại khu vực
nội thành, các rạp chiếu phim có số buổi chiếu từ 350 đến 400 buổi/tháng với lượt
người xem từ 15.000 - 25.000 lượt/người/tháng (chưa đạt được con số 01 người xem
phim 01 lần/năm). ở ngoại thành 2 đội chiếu bóng lưu động hoạt động 12 buổi/tháng
(124 buổi/năm) - một con số quá thấp so với số dân của thành phố Hải Phòng có tới
55% dân cư sống ở vùng nông thôn và hải đảo). Nếu Hải Phòng có 800 thôn và lấy
thôn làm đơn vị tổ chức buổi chiếu thì hoạt động của 2 đội liên tục trong 1 năm (mỗi
ngày 1 buổi x 02 đội x 365 ngày = 730 buổi) thì phải hơn 1 năm người dân của 1
thôn mới được xem 2 bộ phim. Trong những năm qua, Trung tâm phát hành phim và
chiếu bóng thành phố đã có nhiều cố gắng duy trì, tổ chức các hoạt động chiếu phim
cho nhân dân ở khu vực ngoại thành, vùng nông thôn và hải đảo.
Hoạt động chiếu phim ở Hải Phòng dù còn nhiều hạn chế nhưng đã góp phần
tích cực vào việc nâng cao dân trí, đáp ứng nhu cầu giải trí của nhân dân thành phố
[Xem Phụ lục 11, tr.110 luận văn].
2.2.3.1. Hoạt động dịch vụ băng đĩa hình
Dịch vụ văn hoá góp phần làm phong phú đời sống văn hoá của mỗi cá nhân và
cộng đồng. Nó vừa đóng vai trò xã hội hoá các sáng tạo văn hoá của cá nhân, cung
ứng các sản phẩm văn hoá nhằm thoả mãn các nhu cầu văn hoá giải trí và hưởng thụ
văn hoá, bồi dưỡng và nâng cao thị hiếu thẩm mỹ của công chúng. Nói tóm lại, hoạt
động dịch vụ văn hoá nhằm thoả mãn những nhu cầu tinh thần của nhân dân.
Từ khi Đảng và Nhà nước ta tiến hành công cuộc đổi mới đến nay, đời sống
kinh tế, văn hoá, xã hội có nhiều biến chuyển. Mức sống của nhân dân được cải thiện
và nâng cao hơn. Nhu cầu hưởng thụ văn hoá của người dân gia tăng, nhiều loại hình
hoạt động văn hoá và dịch vụ văn hoá mới xuất hiện và được nhân rộng trên cả nước
như hoạt động kinh doanh phim, kinh doanh băng đĩa nhạc, băng đĩa hình, hoạt động
karaoke... Các cửa hàng cho thuê băng đĩa, quán karaoke ... đua nhau mọc lên cả ở
khu vực thành thị và nông thôn Hải Phòng. Có thể nói, chưa bao giờ đời sống văn
hoá, đặc biệt là các hoạt động dịch vụ văn hoá lại diễn ra sôi động như hiện nay.
Băng đĩa hình, băng đĩa nhạc nói riêng và các loại văn hoá phẩm nói chung là
một loại hàng hoá đặc biệt, bởi giá trị sử dụng của nó tác động sâu sắc đến tư tưởng,
đạo đức, tình cảm, lối sống của con người trong cộng động xã hội và thuần phong mỹ
tục của dân tộc. Thời gian trước đây, nếu như băng cassette, đĩa nhạc chiếm đa phần
trong thị trường băng đĩa thì ngày nay thị trường đó được bổ sung thêm nhiều loại
băng đĩa: Băng video, đĩa CD, đĩa VCD, đĩa DVD... và các loại băng đĩa đó đã trở
thành một thứ hàng hoá thông dụng trong đời sống sinh hoạt của các tầng lớp nhân
dân.
Đáp ứng nhu cầu thưởng thức văn hoá tại gia đình của công chúng, các hãng,
trung tâm sản xuất, các công ty, các nhà xuất bản âm nhạc đã cung cấp cho thị trường
nhiều chương trình băng đĩa mới. Những cửa hàng kinh doanh mua bán và cho thuê
băng đĩa hình cũng không ngừng gia tăng đóng vai trò cầu nối trung gian giữa các
hãng và người tiêu dùng.
Theo khảo sát của Cục Thống kê Hải Phòng năm 2004 thì cứ 100 hộ dân thì
có 49,14 % số hộ có đầu video. Như vậy số hộ dân Hải Phòng sở hữu và sử dụng đầu
video, đầu đĩa hình với số lượng không nhỏ, Theo số liệu của Sở Văn hoá Thông tin
Hải Phòng, hiện nay trên địa bàn thành phố có khoảng gần 110 cửa hàng, điểm bán
và cho thuê băng hình, buôn bán đĩa CD, VCD và DVD đã được Sở VHTT cấp giấy
phép. Hệ thống các của hàng nói trên đã đáp ứng nhu cầu giải trí rất lớn của người
dân thành phố.
Tuy nhiên, ở thành phố Hải Phòng, tình trạng vi phạm về kinh doanh băng, đĩa
khá nghiêm trọng, tuy chưa hình thành những " chợ " kinh doanh băng đĩa bất hợp
pháp, nhưng nhiều nơi, việc vi phạm bản quyền trong in sao băng, đĩa, chứa chấp,
tiêu thụ băng đĩa có nội dung không lành mạnh còn diễn ra khá phổ biến. Hầu như
bất cứ nhu cầu nào của khách về các loại băng, đĩa đều được đáp ứng khá dễ dàng, từ
những chương trình ca nhạc trong nước và hải ngoại tới các phim ảnh, kể cả phim
sex, phim bạo lực...
Với số lượng các cửa hàng băng hình khá nhiều như hiện nay, việc kinh doanh
băng, đĩa gặp nhiều khó khăn về doanh thu. Vì thế, để hấp dẫn khách hàng và kiếm
lời, ngoài việc kinh doanh những băng đĩa được cấp phép "dán tem", nhiều cửa hàng
còn kinh doanh băng đĩa bất hợp pháp. Sở dĩ khách hàng thường tìm đến loại sản
phẩm này bởi vì giá cả của chúng rất rẻ, 01 đĩa CD, VCD của Trung Quốc giá chỉ
6.000- 7.000đ. Trong khi đó, giá băng,đĩa hợp pháp luôn cao gấp 3 - 5 lần.
Có thể nói, tình hình kinh doanh băng đĩa hiện nay đang diễn biến phức tạp,
đòi hỏi các nhà quản lý văn hoá phải có đối sách thích hợp để có thể giải quyết một
cách có hiệu quả những vấn đề mà thực tế đặt ra.
2.2.3.2. Các hoạt động dịch vụ văn hoá khác
Các hoạt động dịch vụ văn hoá công cộng được hình thành và phát triển như
một đòi hỏi tất yếu của xã hội. Đặc biệt ở các đô thị, hoạt động văn hoá nơi công
cộng được coi như một bộ phận cấu thành của đời sống đô thị.
Bản thân các hoạt động văn hoá nơi công cộng rất phong phú, đa dạng về hình
thức: Từ biểu diễn nghệ thuật, chiếu phim, băng hình, khiêu vũ, hát karaoke đến các
hình thức vui chơi giải trí khác.
Việc đẩy mạnh phát triển các hoạt động dịch vụ giải trí nơi công cộng vừa đáp
ứng nhu cầu tinh thần của nhân dân, vừa đem lại lợi nhuận cho các nhà kinh doanh.
Tuy nhiên, trong vài năm trở lại đây, bên cạnh những thành tựu về mọi mặt của đời
sống kinh tế - xã hội, thành phố Hải Phòng phải đối mặt với mặt trái của nền kinh tế
thị trường. Một số tiêu cực nảy sinh tại các điểm dịch vụ văn hoá khiến nhiều người
lo ngại, đặc biệt là tại các vũ trường, quán karaoke và điểm massage. Các tụ điểm
sinh hoạt văn hoá này có lúc, có nơi bị biến dạng, trở thành nơi chứa chấp những
hành vi phản văn hoá và tệ nạn xã hội: mại dâm, ma tuý và các chất gây nghiện
khác...
Cần khẳng định rằng các hoạt động văn hoá công cộng vốn dĩ lành mạnh.
Chúng ra đời nhằm thoả mãn nhu cầu văn hoá tinh thần của con người, giúp con
người cân bằng tâm lý, sức khoẻ. Chẳng hạn, hoạt động khiêu vũ được xem như
những hoạt động văn hoá hết sức phổ biến ở các nước, nhất là các nước khu vực
Châu Âu, châu Mỹ, châu Phi...Còn ở Việt Nam, do điều kiện lịch sử, văn hoá... các
vũ điệu chủ yếu được du nhập ở nước ngoài và được một bộ phận công chúng hưởng
ứng nhiệt tình. Vì vậy, vũ trường là địa điểm chủ yếu để người ta có thể tham gia
một loại hình nghệ thuật mà họ ưa thích, mặc dù tại những buổi sinh hoạt có tính
chất tập thể, cộng đồng, hoạt động khiêu vũ còn tương đối xa lạ đối với mọi người
dân.
Tương tự như vậy, karaoke ra đời từ Nhật Bản (với nghĩa là hát theo nhạc), Hát
karaoke được xem như là một phát minh trong lĩnh vực giải trí bằng âm thanh, vừa
có tính chất thư giãn, vừa nâng cao khả năng âm nhạc của những người tham dự.
Karaoke được du nhập và phổ biến ở Việt Nam vào những năm 90 thế kỷ trước và
được duy trì khá mạnh mẽ cho đến ngày nay...Gần đây, các quán caphê Internet, của
hàng kinh doanh Internet mọc lên cũng nhằm đáp ứng nhu cầu sử dụng thành tựu kỹ
thuật hiện đại để tiếp cận thông tin toàn cầu một cách nhanh chóng.
Tuy nhiên, những tiêu cực nảy sinh từ các vũ trường, quán karaoke hay quán
caphê Intenet..., có một phần do trình độ quản lý yếu kém của các cơ quan chức năng
trong việc quản lý hoạt động kinh doanh các loại hình này. Để giảm thiểu những tiêu
cực nảy sinh trong hoạt động của các dịch vụ văn hoá nói trên, Nhà nước và ngành
Văn hoá thông tin đã ban hành nhiều văn bản pháp lý. Nghị định 87CP của Chính
phủ năm 1995 đã yêu cầu các đơn vị, tổ chức, cá nhân khi kinh doanh dịch vụ văn
hoá nơi công cộng (vũ trường, karaoke) phải tuân thủ. Gần đây, ngày 25/5/2005, Thủ
tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị số 17/2005/CT - TTg nhằm chấn chỉnh các hoạt
động tiêu cực trong quán bar, nhà hàng karaoke, vũ trường. Chỉ thị yêu cầu tạm
ngừng việc cấp mới Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh quán bar, nhà hàng
karaoke, vũ trường trên phạm vi cả nước để các cấp, các ngành tiến hành rà soát,
đánh giá tình hình hoạt động của các cơ sở hiện có, từ đó xây dựng quy hoạch và
tăng cường các biện pháp quản lý các loại hình dịch vụ này...
Để thực hiện Chỉ thị 17/2005/CT - TTg các ban ngành chức năng của thành
phố đã tăng cường kiểm tra các hoạt động dịch vụ giải trí công cộng, kiên quyết xử
lý vi phạm của các quán bar, vũ trường, phòng hát karaoke.... [Xem Phụ lục 12,
tr.111 luận văn].
Nhìn chung, xu hướng "thương mại hoá" các dịch vụ văn hoá đã gây ra những
tác động tiêu cực, ảnh hưởng không nhỏ tới các hoạt động văn hoá vui chơi giải trí ở
thành phố Hải Phòng. Cần thấy rằng, dịch vụ văn hoá vui chơi giải trí phải thực hiện
một chức năng kép, vừa mang lại hiệu ích kinh tế, vừa mang lại hiệu ích xã hội.
Nhưng trong bối cảnh kinh tế thị trường, những chủ thể tham gia kinh doanh trong
lĩnh vực này thường quá xem trọng hiệu ích kinh tế, ít quan tâm đến hiệu ích xã hội.
Bởi vậy, các tiêu cực xã hội len lỏi trong các dịch vụ văn hoá. Đây là một vấn đề cần
được sớm xử lý thoả đáng.
2.2.4. Hoạt động sinh hoạt văn hoá truyền thống
Lễ hội là một dạng hoạt động văn hoá tổng hợp của cộng đồng, dân tộc, là nhu
cầu văn hoá của một cộng đồng người. Lễ hội là một hình thức hữu hiệu để phổ cập
những giá trị văn hoá dân tộc, lưu truyền những phong tục, tập quán tốt đẹp của dân
tộc hay địa phương. Chỉ trong tâm thế hội, mỗi người mới có dịp thăng hoa bay bổng
những phẩm chất, tài năng tốt đẹp của mình, mới có dịp hoà nhập vào cái chung
trong ngày hội để tạo thành niềm vui chung, sức mạnh chung và thuần phong mỹ tục
chung của một làng quê, một phố phường trong ngày hội.
Các hội làng, các ngày hội cổ truyền ở các di tích lịch sử và văn hoá nước ta
còn là nơi giáo dục một cách nhẹ nhàng, tế nhị truyền thống yêu nước, yêu quê
hương, yêu nghề, nơi phổ cập, gìn giữ những giá trị văn hoá rèn đúc, ươm mầm
những tài năng và khát vọng cao đẹp cho thế hệ trẻ.
Hải Phòng là một vùng đất “mới” so với các vùng dân cư khác thuộc châu thổ
sông Hồng như Hà Nội, Bắc Ninh, Hà Tây, Hải Dương, Thái Bình. Khi xưa, các
vùng đất trên đã tập hợp thành làng thì Hải Phòng, nơi cuối sông, giáp biển còn là
vùng đất hoang đầy sú vẹt. Bà Lê Chân, một nữ tướng của Hai Bà Trưng đã chiêu mộ
trai tráng trong vùng Đông Triều quê mình vào những năm 40 đầu thế kỷ thứ nhất đến
khai hoang, lập ấp xây dựng căn cứ chống giặc. Sau khi cuộc khởi nghĩa thất bại, trên cơ
sở làng ấp ban đầu cư dân các vùng khác nhau ở Hải Dương, Thái Bình... đã lần lượt di
dân đến đây khai hoang, lập ấp, mở rộng đất đai xây dựng nên làng ngày một trù phú,
đông vui. Hương ước của làng Nhân Mục, xã Nhân Hoà, huyện Vĩnh Bảo có ghi “Làng
ta là một trong số ít làng cổ nhất của phủ Hạ Hồng. Tương truyền cách đây trên 2000
năm, từ một vùng hoang sơ, mênh mông sông nước, người họ Nguyễn, họ Trần, họ
Đoàn sau là họ Vũ từ các nơi xa chọn đất này lần lượt về đây khai sơn lập địa” [41, tr.2].
Dân cư các vùng quê khác nhau di cư đến vùng đất Hải Phòng đồng thời cũng
mang cả nền văn hoá của làng xưa đến nơi cư trú mới và chính bởi vậy tính đa dạng văn
hoá của Hải Phòng là sự tổng hợp của nền văn hoá nhiều vùng quê trong châu thổ sông
Hồng và được phát triển lên, tạo nên những sắc thái văn hoá rất riêng của vùng đất có
điều kiện thiên nhiên, môi trường sống vùng cửa sóng, cửa gió, nơi ngăn sóng biển, nơi
giao lưu đầu tiên với nước ngoài và cũng là nơi chịu sự xâm lăng đầu tiên của giặc ngoại
xâm, để từ đó tạo nên “tính cách” của người Hải Phòng nói chung, nét văn hoá làng của
người Hải Phòng nói riêng.
Bên cạnh cái chung của văn hoá làng truyền thống trong đó bao hàm cả văn hoá
lễ hội và văn hoá dân gian của vùng đồng bằng sông Hồng, lễ hội ở Hải Phòng có
những nét đặc sắc:
Thứ nhất, lễ hội ở Hải Phòng, về cơ bản là các lễ hội của cư dân nông nghiệp
với ước muốn mưa thuận gió hoà, mùa màng tươi tốt, dân khang vật thịnh, còn có lễ
hội của ngư dân- những người đánh cá. Hội chọi trâu Đồ Sơn, chủ yếu là của ngư
dân chứ không phải của những người làm ruộng, hay Hội làng Quần Mục (nay thuộc
xã Đại Hợp, huyện Kiến Thuỵ, Hải Phòng) với hai trò chính là bơi thuyền và đi kheo
là của những người đánh cá. Hội làng Quần Mục thường được tổ chức vào ngày 7
tháng Giêng âm lịch hàng năm.
Thứ hai, lễ hội là do dân, người dân đây chủ yếu là nông dân tổ chức nên.
Thông thường hàng năm, từ nhu cầu cuộc sống, nhu cầu tâm linh và phong tục, tập
quán mà người dân (nông dân, ngư dân) tổ chức lễ hội. Tuy nhiên, lễ hội có thể được
tổ chức với quy mô khác nhau ở từng năm, tuỳ thuộc vào việc làm ăn của người dân
trong vùng.
Thứ ba, lễ hội của Hải Phòng còn mang sắc thái riêng, độc đáo, ít nơi hoặc
thậm chí không nơi nào có, như Hội chọi trâu Đồ Sơn. Theo truyền thuyết dân gian
lễ hội chọi trâu Đồ Sơn là để làm vui lòng thần - Thành hoàng làng - là Thuỷ thần,
nhưng thần hiện tại là thần Điểm tước (vết chân chim). Người Đồ Sơn tổ chức hội
chọi trâu vào tháng Tám âm lịch, là lúc vụ cá Nam vừa kết thúc và chuẩn bị vụ cá
Bắc.
Thứ tư, lễ hội của Hải Phòng còn mang tính chất biểu tượng. Có thể coi trò diễn
" Thuỷ chiến cửa đình", Ngô Quyền đánh quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng, nhằm
diễn lại chiến công đánh giặc của ông cha ta trên vùng sông nước, là một ví dụ. Người ta
làm thuyền chiến bằng cách ghép những thân cây chuối thành từng bè. Trên các bè có
treo rèm, kết.
ở Hải Phòng, có 3 loại lễ hội truyền thống: Lễ hội mang tính tưởng nhớ; Lễ hội
nghề nghiệp phong tục; Lễ hội du xuân ngoạn cảnh.
- Lễ hội mang tính tưởng nhớ, lễ hội Đền Phú Xá, phường Đông Hải, quận Hải
An thờ Đức thánh Trần Hưng Đạo một danh tướng nổi tiếng thời Trần, người góp
phần quan trọng trong 3 lần đánh thắng quân Nguyên- Mông và Bà Bùi Thị Từ
Nhiên, một người đàn bà của làng đã có công giúp Trần Hưng Đạo trong việc quyên
góp, xây dựng kho quân lương, góp phần không nhỏ làm nên những chiến thắng đó.
Lễ hội Đền Trần Quốc Tảng - một danh tướng thời Trần ở thị trấn Minh Đức, huyện
Thuỷ Nguyên...
- Lễ hội nghề nghiệp, phong tục như Lễ hội chọi trâu tổ chức vào ngày 9/8 âm
lịch hàng năm với câu ca đã ghi đậm trong ký ức mỗi người:
"Dù ai buôn đâu bán đâu
Mồng tám tháng sáu chọi trâu thì về
Dù ai buôn bán trăm nghề
Mồng chín tháng tám nhớ về chọi trâu" [41, tr.3]
- Lễ hội du xuân ngoạn cảnh, là lễ hội gắn liền với ngày xuân, mọi người đi lễ
Đền, lễ Chùa và sau đó là du xuân, ngoạn cảnh, thả tâm hồn trong vẻ đẹp của núi
sông như lễ hội chùa Mỹ Cụ, xã Chính Mỹ, huyện Thuỷ Nguyên, lễ hội Núi Voi,
huyện An Lão.
Thành phố Hải Phòng hiện nay có 123 nơi tổ chức lễ hội truyền thống. Trong
đó: có 109 lễ hội mang tính tưởng nhớ; 12 lễ hội nghề nghiệp phong tục; 2 lễ hội du
xuân ngoạn cảnh.
ở Hải Phòng, hầu hết các tháng trong năm đều có các ngày hội, lễ hội được tổ
chức trên nhiều địa bàn thành phố. Tháng Giêng có tới 25 hội và lễ hội; Tháng Hai
có 21 hội và lễ hội; Tháng Ba có 17 hội và lễ hội; Tháng Tư có 05 lễ hội (đặc biệt là
Lễ hội đua thuyền Rồng trên biển - Lễ hội làng cá); Tháng Sáu có 02 hội; Tháng
Tám có 07 hội (đặc biệt là có Hội Chọi trâu Đồ Sơn - và hội hát Đúm trên sông ở
Thuỷ Nguyên); Tháng Chín có 05 hội và lễ hội; Tháng Mười Một có 02 hội và lễ hội;
Tháng Mười Hai có 01 lễ hội.
Nhìn chung các lễ hội trên địa bàn thành phố đã diễn ra lành mạnh và thu hút
được động đảo người dân tham gia. Các giá trị đích thực của lễ hội được phát huy,
tạo không khí phấn khởi trong nhân dân, bảo đảm cho nhân dân quyền tự do tín
ngưỡng, quyền được hưởng thụ các giá trị văn hoá. Những di sản văn hoá vật thể và
văn hoá phi vật thể cũng được quan tâm bảo tồn thông qua các lễ hội truyền thống.
Trong thời gian mở hội, công tác xã hội hoá việc trùng tu, tôn tạo di tích được nhân
dân nhiệt tình hưởng ứng.
2.2.5. Hoạt động du lịch
Nói đến Hải Phòng, người ta nghĩ ngay đến 2 địa danh nổi tiếng là Đồ Sơn và
Cát Bà. Trong đó Đồ Sơn là một quần thể du lịch với các điểm du lịch đẹp với bãi
tắm I, II, III, đảo Hòn Dáu, biệt thự Bảo Đại, đền Bà Đế, tháp Tường Long, suối
Rồng; các di tích lịch sử như Bến Nghiêng, Bến tàu không số, các lễ hội nổi tiếng
như: Hội xuống nước đầu năm, Lễ hội chọi Trâu...Bên cạnh Đồ Sơn, Cát Bà cũng là
quần thể với nhiều điểm du lịch nổi tiếng, trong đó Vườn Quốc gia Cát Bà đang được
Tổng cục Du lịch đề nghị công nhận là Khu bảo tồn sinh quyển thế giới. Cát Bà
nguyên sơ thuở nào giờ đây đang được đầu tư phát triển, song vẫn không làm mất đi
vẻ đẹp thuần khiết. Cát Bà đang định hình với dáng vóc của khu du lịch đan xen hài
hoà giữa vẻ đẹp thiên tạo và nhân tạo, truyền thống và hiện đại. Đặc biệt, từ ngày 01-
4 - 2002, tuyến đường xuyên đảo Đình Vũ - Cát Hải - Cát Bà khánh thành, cùng
những chuyến phà tự hành nối Cát Bà với đất liền đã mở ra một tương lai đầy triển
vọng cho phát triển du lịch ở hòn đảo này.
Hải Phòng còn là mảnh đất “thiêng" với nhiều di tích văn hoá, lịch sử. Trong
đó, thuộc huyện Vĩnh Bảo là quần thể di tích tưởng niệm Trạng Trình Nguyễn Bỉnh
Khiêm, Đình Nhân Mục, Miếu Cựu Điện, Đền chùa Thái Bình, làng nghề chạm khắc
gỗ thôn Bảo Hà, múa rối nước, múa rồng, múa rối cạn, múa tứ linh... ở huyện Tiên
Lãng là 4000 ha rừng ngập mặn Vinh Quang... Trở về nội thành, chúng ta sẽ bắt gặp
Núi Thiên Văn tại quận Kiến An; các dấu di tích lịch sử từ thời Bạch Đằng dậy sóng
ghi dấu chiến công của Ngô Quyền đánh quân Nam Hán, Trần Quốc Tuấn đại phá
quân Nguyên - Mông, đến những năm tháng hào hùng chống thực dân Pháp và đế
quốc Mỹ xâm lược ở đia bàn quận Ngô Quyền.
Trong những năm qua, ngành du lịch Hải Phòng đã lập nhiều dự án đầu tư cải
tạo, nâng cấp và xây dựng hệ thống cơ sở vật chất cho hoạt động du lịch. Từ năm 2001
đến năm 2005 tổng số vốn đầu tư vào du lịch là 1680,43 tỷ đồng.
Thành phố cũng khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư vào các hoạt
động kinh doanh du lịch. Hiện nay, toàn thành phố có trên 200 đơn vị kinh doanh du
lịch, khoảng 150 khách sạn (trong đó có trên 50 khách sạn từ 1 đến 4 sao) với 5117
phòng. Ngành Du lịch Hải Phòng đã tổ chức những "Mùa Du lịch" tại các điểm du
lịch lớn, như: Mùa du lịch trên đảo Cát Bà với chương trình Lễ hội tuổi trẻ Cát Bà,
biểu diễn lướt ván, thi thuyền nan, thi thuyền thúng và các trò chơi dân gian, đua
thuyền rồng...Tại Đồ Sơn, việc khôi phục Lễ hội chọi trâu vào ngày 9/8 âm lịch hàng
năm (hiện Lễ hội này đã được Tổng cục Du lịch Việt Nam chọn là một trong 15 lễ
hội quốc gia) đã thu hút hàng vạn du khách trong mỗi mùa Lễ hội, vào ngày 1/5 hàng
năm UBND thành phố tổ chức Khai mạc hè Đồ Sơn với các hình thức tổ chức đa
dạng, phong phú nhằm thu hút khách du lịch về vui chơi, giải trí, nghỉ dưỡng...tại bãi
biển Đồ Sơn. Có thể nói, thời gian qua du lịch Hải Phòng đã có bước phát triển
nhanh chóng. Chỉ tính từ năm 2001 - 2005 tổng số lượt khách tăng bình quân hàng
năm là 18,15%, trong đó khách quốc tế tăng 18,75%. Năm 2005 lượng khách du lịch
đạt 2 triệu 429 nghìn, trong đó khách quốc tế đạt 512 nghìn lượt người. Tổng doanh
thu hàng năm tăng 17,15% trong đó năm 2004 đạt 464 tỷ đồng, năm 2005 đạt 552 tỷ
đồng. Tổng GDP của ngành đạt 3,5% tổng GDP của thành phố và giải quyết việc làm
cho khoảng 27.000 lao động [20, tr 124].
Du lịch Hải Phòng hiện nay đã thu hút khách du lịch tham quan, giải trí theo
nhiều điểm và tuyến du lịch như:
* Các khu du lịch trọng điểm, gồm có:
- Khu du lịch nội thành Hải Phòng, Khu Du lịch Đồ Sơn, Khu du lịch Cát Bà -
Cát Hải.
* Các tuyến du lịch trọng điểm:
- Tuyến du lịch Hải Phòng - Đồ Sơn - Cát Bà - Hạ Long - Hà Nội
- Tuyến du lịch Hải Phòng - Huế - Đà Nẵng - Miền Đông Nam Bộ
- Tuyến du lịch Hà Nội - Hải Phòng - Điện Biên
- Tuyến du lịch Hải Phòng - Thành phố HCM và các tỉnh Miền Tây
- Tuyến du lịch Hải Phòng - Kiến An - An Lão - Tiên Lãng - Vĩnh Bảo (du
khảo đồng quê).
- Tuyến du lịch Hải Phòng - Thuỷ Nguyên.
Có thể nhận thấy trong thời gian qua hoạt động của ngành du lịch Hải Phòng đã
có bước tăng trưởng khá, góp phần tích cực trong sự phát triển chung của thành phố
[Xem Phụ lục 13, tr.112 luận văn].
2.2.6. Hoạt động văn hoá giải trí ở cơ sở có vốn đầu tư nước ngoài
Trong những năm qua thành phố Hải Phòng đã có nhiều chính sách, biện pháp
phù hợp và đã thu được những kết quả rất đáng khích lệ trong việc thu hút đầu tư
nước ngoài trên nhiều lĩnh vực sản xuất, kinh doanh...Tính đến 31/12/2004, số dự án
đầu tư trực tiếp nước ngoài có hiệu lực tại Hải Phòng là 166 dự án của 19 nước với
tổng số vốn đăng ký là 1 tỷ 819 triệu USD, trong đó Nhật Bản là nước có số dự án
nhiều nhất với 42 dự án và tổng số vốn đăng ký là 421 triệu USD; Tiếp đến là Đài
Loan 16 dự án nhưng lại có tổng số vốn đăng ký là 544 triệu USD...Các lĩnh vực mà
các nhà đầu tư nước ngoài quan tâm đầu tư là: công nghiệp chế biến, công nghiệp
điện nước, thương nghiệp, vận tải kho bãi, kinh doanh tài sản, dịch vụ tư vấn, giáo
dục đào tạo (01 dự án)... về khách sạn, nhà hàng (02 dự án), văn hoá thể thao, giải trí
(03 dự án). Các dự án đầu tư vào lĩnh vực vui chơi giải trí là:
- Casino Đồ Sơn (Công ty Liên doanh Du lịch Quốc tế Hải Phòng) hoạt động
theo giấy phép số 40/GP ngày 6/8/1992 của Uỷ ban Nhà nước về Hợp tác và Đầu tư
(Nay là Bộ Kế hoạch và Đầu tư). Dự án gồm một khu vui chơi giải trí được xây dựng
trên diện tích 44 ha tại khu III Đồ Sơn, có một khách sạn 4 sao, Casino phục vụ
người nước ngoài và một số công trình phụ trợ khác. Thời hạn hoạt động là 30 năm.
Vốn pháp định 25 triệu Đôla Mỹ, trong đó bên nước ngoài là Tập đoàn STDM của
Macau góp 80%, bên Việt Nam góp 20% bằng quyền sử dụng đất.
Sau khi hoàn thành xây dựng giai đoạn 1, năm 1995 Công ty bắt đầu đi vào
hoạt động, giải quyết việc làm cho hơn 500 lao động với thu nhập trung bình mỗi
người trên 1.000.000 đ/tháng.
Trong quá trình hoạt động, Công ty gặp không ít khó khăn, nhưng từ tháng 5/1997
Công ty dần đi vào ổn định, kinh doanh phát triển. Hiện nay, Công ty là một trong
những doanh nghiệp có mức nộp ngân sách cao của thành phố Hải Phòng thời kỳ từ
năm 2001 đến năm 2005 [Xem Phụ lục 14, tr.113 luận văn].
Từ đầu năm 2004, Công ty bắt đầu triển khai giai đoạn II của Dự án, theo đó sẽ
hoàn thiện và đưa vào hoạt động khách sạn 4 sao, 100 phòng có Casino bên trong,
giải quyết việc làm từ 600 - 700 lao động.
"Quy chế hoạt động CASINO" được xây dựng trên cơ sở những điều khoản quy
định trong các văn bản pháp lý về đầu tư nước ngoài tại Việt Nam; những quy định
của Hiệp hội CASINO quốc tế; những điều khoản ghi trong Điều lệ Công ty Liên
doanh, trong giấy phép đầu tư do Uỷ ban Nhà nước về Hợp tác và Đầu tư cấp và
tham khảo quy chế hoạt động CASINO của STMD (Macau) nhằm phù hợp với yêu
cầu thực tế của hoạt động này ở Việt Nam.
CASINO trực tiếp do các nhân viên chuyên nghiệp được uỷ nhiệm của Công
ty Liên doanh Du lịch Quốc tế Hải Phòng quản lý. Là một ngành hoạt động của Công
ty Liên doanh nên CASINO chịu sự quản lý, giám sát của Uỷ ban Nhà nước về Hợp
tác và Đầu tư (Nay là Bộ Kế hoạch và Đầu tư) và Uỷ ban nhân dân thành phố Hải
Phòng.
Hoạt động CASINO được bố trí, tổ chức trong khách sạn Quốc tế đặt trên đồi
72 của khu III Đồ Sơn, Hải Phòng. Giai đoạn thử nghiệm theo như nội dung luận
chứng kinh tế kỹ thuật đã duyệt sẽ được tiến hành tại Câu lạc bộ Quốc tế tại khu III
(Đồ Sơn).
Các thể loại bài và hình thức chơi áp dụng trong khu vực CASINO bao gồm:
Slot Machines ; Sever card Poker; Rou Lette; Cussec; Boule; Fantan; Baccarat;
Paikau; Black Jack; Ma Juang paikau; Các bàn chơi và trò chơi điện tử; Keno; 3
King; Bingo; Hold em
Hoạt động của CASINO có thể được tổ chức và điều khiển 24 giờ trong ngày
(kể cả ban ngày và ban đêm).
Đối tượng chơi: là người nước ngoài chỉ cần có hộ chiếu hoặc giấy chứng minh
hợp pháp họ đều được vào CASINO để chơi.
Các hình thức chơi trong CASINO sử dụng thống nhất các loại đồng "chíp",
"xèng "do Công ty Du lịch Liên doanh Quốc tế Hải Phòng đặt làm tại nước ngoài để
thay vào tiền mặt. Giá trị đơn vị của các đồng: chíp:, "xèng "tính theo Đôla Mỹ.
Đồng "chíp", "xèng" chỉ được sử dụng trong CASINO mà không có giá trị trao đổi
ngoài CASINO. Khách vào CASINO đổi tiền của mình ra các đồng "chíp", "xèng"
tại các bàn đổi trong CASINO. Khi kết thúc, khách có thể đổi lại các đồng "chíp",
hoặc đồng "xèng" ra tiền mặt. Khách được phép mang ngoại hối vào Việt Nam dưới
dạng tiền mặt, séc, ngân phiếu, credít card và sử dụng tại CASINO và khi xuất cảnh
khách được phép mang số ngoại tệ chưa sử dụng hoặc số tiền thu được do thắng cuộc
tại CASINO ra khỏi Việt Nam khi có giấy xác nhận của CASINO và đại diện
được ngân hàng Nhà nước Việt Nam uỷ quyền.
- Khu đô thị OLIMPIA. Dự án xây dựng Khu đô thị Olympia được Bộ Kế hoạch
và Đầu tư cấp Giấy phép đầu tư số 2484/GP ngày 31/5/2005. Chủ đầu tư của Dự án
là Công ty TNHH Qia Feng (Hồng Công).Đây là Công ty có đủ năng lực tài chính và
đội ngũ các nhà quản lý giàu kinh nghiệm, điều này đã được khẳng định trên cơ sở
thành công của những Dự án cùng loại tại Trung Quốc và một số nước trong khối
ASEAN. Mục tiêu hoạt động của Dự án là xây dựng khu đô thị hiện đại bao gồm các
hạng mục hạ tầng cơ sở đô thị, trung tâm thương mại tổng hợp, các công trình nghỉ
dưỡng, vui chơi giải trí, TDTT.....
Vốn đầu tư của Dự án là 85 triệu USD, trong đó vốn pháp định là 25,5 triệu
USD, vốn vay là 59,5 triệu USD, thời gian hoạt động: 50 năm. Số vốn đầu tư sẽ được
thực hiện trong 10 năm. Đối với nguồn vốn vay. Công ty Qia Feng (Hồng Công) đã
có biên bản ghi nhớ với các Ngân hàng Thượng Hải, Hồng Công, VID Public Bank
về việc vay vốn thực hiện Dự án. Diện tích đất sử dụng của Khu đô thị OLYPIA là
64,84 ha tại xã Hải Thành, huyện Kiến Thụy.
Khi Dự án đi vào khai thác, Công ty sẽ thu hút khoảng 200 lao động người Việt
Nam. Dự án được hoàn thiện sẽ tạo ra một mô hình khu đô thị với các dịch vụ giải trí
hoàn chỉnh đầu tiên tại Hải Phòng sẽ cung cấp cho người dân những sản phẩm hoàn
thiện và được hưởng những dịch vụ vui chơi giải trí tốt nhất, phục vụ nhu cầu phát
triển kinh tế xã hội của thành phố.
Nhìn chung, hoạt động đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài ở thành phố Hải
Phòng trong lĩnh vực giải trí còn ở mức khiêm tốn, song cũng đã có những bước đi
đúng hướng đầy tiềm năng, nhằm khai thác các lợi thế của thành phố Cảng biển lớn
nhất phía Bắc, lại có các khu du lịch nổi tiếng nằm không xa thủ đô Hà Nội - trung
tâm chính trị, kinh tế, văn hoá của cả nước. Chắc chắn trong một tương lai gần, cùng
với những chính sách thông thoáng thu hút đầu tư cả trong và ngoài nước thành phố
sẽ hấp dẫn nhiều hơn nữa các nhà đầu tư nước ngoài tham gia đầu tư kinh doanh
trong nhiều lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực vui chơi giải trí...
2.3. Đánh giá chung về văn hoá giải trí và công tác quản lý văn hóa giải trí
ở thành phố Hải Phòng
2.3.1. Những ưu điểm và yếu kém trong hoạt động văn hoá giải trí ở thành
phố Hải Phòng
Hải Phòng là địa phương có tốc độ phát triển kinh tế xã hội cao so với các tỉnh,
thành phố trong cả nước. Do vậy các hoạt động văn hoá giải trí cũng được quan tâm
phát triển nhằm đáp ứng nhu cầu văn hoá tinh thần của nhân dân. Cùng với quá trình mở
cửa, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, Hải Phòng đang từng bước khẳng định vị thế là "...thành phố Cảng
công nghiệp hiện đại; đô thị trung tâm cấp quốc gia...một trong những trung tâm công
nghiệp, thương mại lớn của cả nước...".
Điều kiện phát triển kinh tế và đặc điểm dân cư ở thành phố Hải Phòng gắn liền
với truyền thống văn hoá lâu đời là cơ sở để phát triển văn hoá vui chơi giải trí. Các
loại hình văn hoá vui chơi giải trí trong gia đình, trong cộng đồng dân cư, ở các trung
tâm vui chơi giải trí công cộng, ở các trung tâm văn hoá thể thao, các hoạt động biểu
diễn nghệ thuật và các loại hình vui chơi giải trí trên sóng phát thanh, truyền hình,
báo chí... đã đáp ứng tốt hơn nhu cầu văn hoá tinh thần của các tầng lớp nhân dân
thành phố.
Tuy nhiên, việc tổ chức, triển khai các hoạt động văn hoá giải trí trên địa bàn
thành phố trong nhiều năm qua cũng còn không ít những yếu kém, bất cập:
- Việc quy hoạch và đầu tư xây dựng các điểm vui chơi, giải trí cho các tầng
lớp nhân dân ở các địa bàn thành phố nói chung còn ở mức thấp, chưa đáp ứng được
yêu cầu của nhân dân. Một số điểm vui chơi có quy mô quá nhỏ, cơ sở vật chất
nghèo nàn, xuống cấp, không thu hút được đông đảo người dân tham gia, còn thiếu
sự phối kết hợp giữa các ban, ngành, đoàn thể trong việc đầu tư và tổ chức các hoạt
động vui chơi, giải trí.
- Nhu cầu vui chơi, giải trí của người dân ở các lứa tuổi rất lớn và đa dạng,
nhưng điều kiện phục vụ như sân bãi, cơ sở vật chất, trang thiết bị…tại các khu dân
cư ở nội thành gặp rất nhiều khó khăn. Thiếu điểm vui chơi, thiếu các loại hình trò
chơi, một bộ phận người dân tự tìm đến các loại hình trò chơi không lành mạnh gây
tổn hại tới sức khoẻ, tới kinh tế, tới việc hoàn thiện nhân cách. Nhiều trẻ em ở vùng
sâu, vùng xa, hải đảo không có điều kiện vui chơi vì phải tham gia lao động cùng gia
đình để tăng nguồn lao động và thu nhập. Một số trò chơi như: trò chơi điện tử,
Internet… và các điểm tổ chức hoạt động vui chơi giải trí có thu tiền đã lôi cuốn một
bộ phận người dân, nhất là trẻ em tham gia làm ảnh hưởng không nhỏ tới việc học
tập, sinh hoạt của các em, ảnh hưởng tới trật tự an toàn xã hội.
- Thành phố còn chậm trong việc quy hoạch và đầu tư xây dựng những công
trình vui chơi giải trí công cộng lớn, trọng điểm nhằm đáp ứng nhu cầu văn hoá tinh
thần ngày càng tăng của nhân dân thành phố trong lĩnh vực vui chơi giải trí; chưa tạo
được nhiều điểm hấp dẫn du khách trong nước và quốc tế đến thăm thành phố.
- Thành phố chưa thu hút được các nhà đầu tư có khả năng đầu tư, xây dựng và
khai thác hiệu quả kinh tế từ những khu vui chơi giải trí lớn mang tầm cỡ vùng,
miền, như khu vui chơi giải trí Tuần Châu (Quảng Ninh), Khu vui chơi giải trí Đầm
Sen, Suối Tiên (thành phố Hồ Chí Minh)...
Hải Phòng có 2 khu du lịch biển, đảo nổi tiếng là Đồ Sơn và Cát Bà có thể lôi
cuốn du khách trong và ngoài nước đến tham quan, du lịch, nghỉ dưỡng, thư giãn,
giải trí. Tuy nhiên, việc thu hút khách du lịch đến nghỉ ngơi, vui chơi giải trí dài ngày
cũng còn nhiều hạn chế. Công tác quy hoạch, tổ chức, điều hành các hoạt động văn
hoá du lịch, sự phối hợp giữa các ngành du lịch, văn hoá còn nhiều hạn chế. Vì vậy
chưa thu hút, hấp dẫn được nhiều nhà đầu tư nước ngoài trong việc tổ chức các hoạt
động văn hoá vui chơi giải trí, tham gia đầu tư xây dựng các tổ hợp văn hoá, thể thao
du lịch, khai thác có hiệu quả khía cạnh kinh tế trong các hoạt động văn hoá giải
trí...Đây cũng là những vấn đề thành phố cần hết sức quan tâm trong chiến lược xây
dựng và phát triển kinh tế, xã hội, văn hoá trong thời gian tới.
- Việc sử dụng đất cho hoạt động TDTT còn thấp. Hải Phòng là một đô thị đất
chật người đông với diện tích 1.519 km2, dân số gần 1,8 triệu người. Do những năm
trước đây không được quan tâm quy hoạch nên đất giành cho TDTT ở Hải Phòng rất
thấp. Theo điều tra quy hoạch của ngành TDTT năm 1997 đất bình quân cho TDTT
ở Hải Phòng có 0,8m2/người. Khu vực nội thành chỉ đạt 0,34 m2/người. Sau 5 năm
thực hiện chủ trương xã hội hoá tỉ lệ đất giành cho hoạt động TDTT đã được nâng
lên, đến cuối năm 2003 đạt 1,6 m2/ người. Tuy nhiên, đây vẫn là con số rất thấp so
với yêu cầu của Chỉ thị 274/TTg của Thủ tướng Chính phủ phải đạt từ 1- 4m2/người.
- Kinh phí dành cho hoạt động của ngành Văn hoá - Thông tin thành phố còn ở
mức thấp do vậy hoạt động văn hoá giải trí ở thành phố gặp nhiều khó khăn [Xem
Phụ lục 15, Phụ lục 16. tr.114, 115 luận văn].
2.3.2. Công tác quản lý văn hoá vui chơi giải trí ở Hải Phòng thời gian qua
2.3.2.1. Các chủ thể quản lý hoạt động văn hoá giải trí ở thành phố Hải Phòng
Hiện nay trên địa bàn thành phố Hải Phòng có các chủ thể quản lý các hoạt
động văn hóa giải trí với các nội dung cụ thể là:
TT Nội dung Cơ quan quản lý
1 Các hoạt động vui chơi, giải trí tại - Sở văn hoá thông tin, Sở Thể dục
nhà văn hoá, các trung tâm văn hoá - Thể thao và một số tổ chức Chính
thể thao, Cung văn hoá trị- XH
- Sở du lịch, Sở Văn hoá Thông tin 2 Các hoạt động giải trí trong các khu
vui chơi giải trí công cộng - Sở Thương mại
- Công đoàn 3 Các hoạt động vui chơi, giải trí trong
cơ quan, xí nghiệp - Đoàn thanh niên
- Mặt trận tổ quốc, Hội Phụ nữ. 4 Các hoạt động vui chơi giải trí trong
các câu lạc bộ - Sở Văn hoá TT, Công đoàn
Đài Phát thanh và Truyền hình 5 Các hoạt động vui chơi, giải trí trên
truyền hình
- Sở Văn hoá Thông tin, Sở Du lịch 6 Các hoạt động vui chơi, giải trí trong
các lễ hội
7 Các hoạt động giải trí trong các dịch - Doanh nghiệp nhà nước, tập thể, tư
vụ giải trí (Cửa hàng băng hình, nhân
karaoke, quán bar, vũ trường, của - Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở thương
hàng Intenet...)
mại, Sở Văn hoá Thông tin
8 Các hoạt động vui chơi giải trí ở vườn - Sở Giao thông công chính, Sở Văn
hoa, công viên hoá Thông tin
Như vậy, chủ thể quản lý hoạt động văn hóa giải trí ở thành phố Hải Phòng rất
đa dạng. Đây là điều kiện thuận lợi để tăng cường quản lý nhà nước về văn hóa giải trí,
không "bỏ sót", "bỏ lọt" các hoạt động văn hóa giải trí trên địa bàn. Nhưng điều đó cũng
dẫn đến tình trạng "lấn sân" hoặc buông lỏng, ỷ lại, dựa dẫm trong các hoạt động quản
lý văn hóa giải trí trên địa bàn thành phố thời gian qua. Điều này đòi hỏi phải có sự sắp
xếp, phân công, phân cấp cụ thể và rõ ràng cho các chủ thể quản lý về văn hóa giải trí
của thành phố trong thời gian tới.
2.3.2.2. Hoạt động thanh tra, kiểm tra các hoạt động văn hóa giải trí trên địa
bàn thành phố Hải Phòng
Hải Phòng là địa phương có tốc độ phát triển kinh tế cao so với các tỉnh, thành
phố trong cả nước. Các hoạt động văn hoá, thông tin, giải trí ở Hải Phòng đã đáp ứng
tích cực nhu cầu sáng tạo và hưởng thụ văn hoá của các tầng lớp nhân dân. Thành uỷ,
Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân và các ban, ngành, đoàn thể của thành phố đã
thường xuyên quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, tăng cường các biện pháp quản lý nhằm thực
hiện nghiêm túc các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về lĩnh
vực văn hoá, thông tin, giải trí...Tích cực, kiên trì đấu tranh đẩy lùi các hiện tượng tiêu
cực trong hoạt động văn hoá như nhập lậu, tàng trữ, lưu hành văn hoá phẩm có nội dung
phản động, độc hại, các hiện tượng mê tín dị đoan, các tệ nạn xã hội, tạo môi trường văn
hoá lành mạnh. Tuy nhiên, trong đời sống văn hoá xã hội, thành phố cũng còn nhiều tồn
tại, yếu kém. Các tệ nạn xã hội như ma tuý, mại dâm, HIV/AIDS chưa được ngăn chặn
mà có nguy cơ mở rộng từ các quận nội thành ra ngoại thành, khu vực ven đô, khu công
nghiệp, khu chế xuất, khu du lịch. Một số cơ sở kinh doanh karaoke, vũ trường,
massage, nhà nghỉ, khách sạn đã lợi dụng loại hình kinh doanh này, tìm cách hoạt động
biến tướng, trá hình gây hậu quả xấu. Nguyên nhân của tình trạng này là do các chủ kinh
doanh đã chạy theo lợi nhuận, coi thường kỷ cương pháp luật, đạo lý và trách nhiệm
công dân; sự buông lỏng quản lý, nhất là của cấp cơ sở, sự phối hợp thiếu đồng bộ của
các cấp, các ngành trong việc lãnh đạo, chỉ đạo đấu tranh ngăn chặn tệ nạn xã hội, chưa
thấy hết tác hại to lớn về mặt xã hội, đạo đức của các tệ nạn này gây ra cho đất nước,
cho thế hệ trẻ; Một số quy định của pháp luật chưa đồng bộ và phù hợp. Các tội phạm
ngày càng tinh vi, xảo quyệt.
Thực hiện Chỉ thị số 17/2005/CT - TTg, ngày 25/5/2005 của Thủ tướng chính
phủ về việc chấn chỉnh các hoạt động tiêu cực trong các quán bar, nhà hàng karaoke,
vũ trường... Uỷ ban nhân dân thành phố Hải Phòng đã có kế hoạch chỉ đạo Ban
phòng chống các tệ nạn ma tuý, mại dâm, HIV/AIDS thành phố, Uỷ ban nhân dân
các quận, huyện, thị xã xây dựng kế hoạch, kiện toàn đoàn, đội kiểm tra liên ngành
các cấp, bàn biện pháp tổ chức thực hiện tốt Chỉ thị của Thủ tướng chính phủ. Các
sở, ban ngành như: Văn hoá Thông tin, Công an, Thương mại, Du lịch, Lao động
Thương binh xã hội, Kế hoạch đầu tư đã tăng cường phối kết hợp ban hành các văn
bản chỉ đạo các đơn vị trực thuộc mở đợt cao điểm tuyên truyền thực hiện Chỉ thị
gắn với việc triển khai thực hiện các Luật Du lịch, Luật phòng chống ma tuý, Pháp
lệnh Phòng chống mại dâm.
Chỉ tính từ 25/5/2005 (thời điểm ban hành Chỉ thị 17/2005/CT - TTg của Thủ
tướng chính phủ) đến 31/5/2006, Sở Văn hoá Thông tin đã phối hợp với các ngành chức
năng như: Công an, Du lịch, Y tế, Thương mại, Kế hoạch và Đầu tư, Quản lý Thị
trường, Lao động Thương binh và Xã hội, Chi cục Phòng chống tệ nạn xã hội, Phòng
Văn hoá Thông tin và Thể thao các quận, huyện, thị xã...tập trung rà soát, kiểm tra điều
kiện, phân loại các loại hình nhà nghỉ, quán bar, vũ trường và quán karaoke. Các cơ
quan chức năng này đã tiến hành tổng kiểm tra rà soát trên địa bàn thành phố: 11/11 vũ
trường, 437/437 điểm kinh doanh karaoke, 2661 cơ sở lưu trú (trong đó có: 541 nhà
nghỉ, khách sạn, 2076 cơ sở lưu trú bình dân, 44 cơ sở cho người nước ngoài thuê), 10
điểm ca nhạc phòng trà, 33 cơ sở massage.
Uỷ ban nhân dân thành phố Hải phòng đã giao cho Sở Văn hoá Thông tin thành
phố - thường trực Ban chỉ đạo phòng chống các hoạt động tiêu cực tại các quán bar,
nhà hàng karaoke, vũ trường, xây dựng kế hoạch triển khai Chỉ thị 17 của Thủ tướng
Chính phủ đến cơ sở, đồng thời đề ra nhiều biện pháp phối hợp với các các sở, ban,
ngành chức năng tổ chức kiểm tra, rà soát, đánh giá hoạt động của các quán bar, nhà
hàng karaoke, vũ trường theo đúng tinh thần Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ. Chỉ
trong 1 năm thực hiện (từ 6/2005 đến 20/4/2006) các đoàn kiểm tra liên ngành 814
và các đội kiểm tra liên ngành 814 từ thành phố đến các quận, huyện, thị xã, xã,
phường, thị trấn đã tiến hành kiểm tra 1.056 buổi với 5.229 lượt điểm, trong đó:
Karaokee 745 lượt điểm, nhà nghỉ khách sạn1.568 lượt điểm, cửa hàng kinh doanh
băng, đĩa các loại 433 lượt điểm, vũ trường 20 lượt điểm, ca nhạc, phòng trà 53 lượt
điểm, dịch vụ Intenet 686 lượt điểm, các loại khác (in, massage) 251 lượt điểm.
Kết quả xử lý vi phạm: Phạt hành chính bằng tiền 401.400.000đ; thu giữ và tiêu
huỷ 51.043 băng đĩa các loại (trong đó có hơn 1.000 đĩa nội dung khiêu dâm, ca nhạc
hải ngoại), 379 sách, ấn phẩm mê tín, bói toán, 52 bộ máy vi tính và 06 đầu máy các
loại, 13 máy đánh xèng...
Nhìn chung, vấn đề phát triển văn hoá nói chung và văn hoá giải trí nói riêng ở
thành phố Hải Phòng đã được các cấp uỷ Đảng, chính quyền, các đoàn thể và các
tầng lớp nhân dân thành phố quan tâm đầu tư phát triển. Văn hoá giải trí ở thành phố
Hải Phòng đã có bước phát triển quan trọng, góp phần vào việc "xây dựng và phát
triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc" theo tinh thần Nghị
quyết TW 5 (khoá VIII) của Đảng. Hoạt động của các loại hình văn hoá giải trí ở Hải
Phòng đã góp phần nâng cao đời sống văn hoá tinh thần, thẩm mỹ, đáp ứng nhu cầu
giải trí lành mạnh của các tầng lớp nhân dân, đồng thời đem lại những hiệu quả kinh
tế rõ rệt, góp phần tích cực vào sự phát triển chung của thành phố.
Chương 3
phương hướng và giải pháp phát triển văn hóa giải trí ở Thành phố Hải Phòng
thời kỳ 2006 - 2010, 2020
3.1. Dự báo chung về tình hình phát triển kinh tế - xã hội - văn hoá và nhu
cầu văn hoá giải trí ở Thành phố Hải Phòng trong thời gian tới.
3.1.1. Về sự phát triển kinh tế xã hội của thành phố Hải Phòng thời kỳ
2005 - 2010
Định hướng phát triển thành phố Hải Phòng từ nay đến năm 2020 đã được Đại
hội Đảng bộ thành phố lần thứ XIII xác định rõ:
Chủ động và sáng tạo phát huy tiềm năng, lợi thế của thành phố
Cảng, huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực, đẩy nhanh quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế, phát triển toàn
diện; cơ bản hoàn thành hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật và xã hội theo
tiêu chí của thành phố cảng, công nghiệp hiện đại, đô thị trung tâm cấp
quốc gia...văn hoá phát triển tương xứng với vai trò nền tảng tinh thần của
xã hội... đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân được nâng lên một
bước, tạo nền tảng vững chắc để Hải Phòng cơ bản trở thành phố công
nghiệp văn minh, hiện đại trước năm 2020 từ 3 đến 5 năm [20, tr.147 -
148].
Đến đầu năm 2005 dân số của Hải Phòng có trên 1,7 triệu người, trong đó dân
đô thị chiếm 37%, dân nông nghiệp chiếm 67%; Về giới tính, Nam chiếm khoảng
49,3%, nữ khoảng 50,7%. Dân số của thành phố khá trẻ, có tới 29,4% dân số trong
độ tuổi từ 0-14 tuổi, chỉ có khoảng 7% số dân từ 65 tuổi trở lên. Trung bình hàng
năm có khoảng 1,75 vạn lao động được đào tạo.
Với mức tăng dân số xấp xỉ 1%/năm, dự báo đến năm 2010 dân số Hải Phòng
sẽ là 1,96 triệu người và đến năm 2020 sẽ là 2,1 triệu người, dân số trong độ tuổi lao
động sẽ tăng 1,8% thời kỳ 2006 - 2010 sẽ tạo ra nguồn lao động khá phong phú cho
thành phố.
Hải Phòng là thành phố có trên 100 năm phát triển cảng biển và công nghiệp
nên đã hình thành một đội ngũ công nhân đông đảo giàu truyền thống cách mạng.
Hiện nay có trên 14,5 vạn lao động làm việc trong các ngành công nghiệp - xây
dựng, trên 26 vạn lao động làm việc trong các ngành dịch vụ (giao thông, thương
mại, bưu điện...), trên 49.050 cán bộ có trình độ cao đẳng, đại học và trên đại học,
trong đó có trên 216 tiến sỹ, giáo sư, phó giáo sư, 817 thạc sỹ Người dân Hải Phòng
có trình độ học vấn và dân trí tương đối cao. Tỷ lệ số dân trong độ tuổi lao động
đang làm việc đã qua đào tạo khá cao, lao động kỹ thuật chiếm 23,3%, cán bộ có
trình độ đại học và cao đẳng chiếm 5,23% tổng số lao động [45, tr.29]. Tại Hải
Phòng có 4 trường đại học: Đại học Hàng Hải, Đại học Y, Đại học Hải Phòng và Đại
học Dân lập Hải Phòng, hai Viện nghiên cứu về Biển, Viện Y học Biển và 04 trường
Cao đẳng, ngoài ra còn có các trường trung cấp, trường đào tạo nghề. Nhờ vậy, Hải
Phòng được xếp thứ hai sau Hà Nội về tiềm lực khoa học kỹ thụât ở vùng đồng bằng
sông Hồng và đứng thứ ba trong cả nước... Mặt khác, nằm cách thủ đô Hà Nội không
xa, Hải Phòng có lợi thế sử dụng đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật của các Viện
nghiên cứu, các trường Đại học của trung ương cho việc phát triển thành phố thông
qua con đường hợp tác, nghiên cứu hoặc ứng dụng kết quả nghiên cứu phục vụ cho
sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển thành phố
Mô hình thành phố Cảng tương lai đã được thiết kế với định hướng là thành
phố cảng biển quốc tế văn minh, hiện đại và phát triển, đứng vững bên bờ biển Đông
của Tổ quốc; là đô thị trung tâm cấp quốc gia, cửa chính ra biển, có cảng nước sâu
(cảng đầu mối, cảng cửa ngõ, cầu cảng nước sâu); là đầu mối giao thông quan trọng
cả về đường biển, đường sông, đường sắt, đường bộ, đường sông (quốc tế) của vùng
Duyên hải Bắc Bộ; là trung tâm công nghiệp, thương mại, du lịch, dịch vụ, thuỷ sản,
y tế, văn hoá, giấo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ, tài chính - tín dụng, một
trọng điểm phát triển kinh tế biển, một cực tăng trưởng mạnh của khu vực kinh tế
động lực các tỉnh phía Bắc, có vị trí trọng yếu về an ninh - quốc phòng.
Trước những yêu cầu đặt ra cho một thành phố có vai trò quan trọng trong vùng
kinh tế động lực Bắc Bộ, đầu mối giao thông quan trọng, có mối quan hệ chặt chẽ,
hữu cơ với các tỉnh, thành phố trong vùng, có vị trí chiến lược cả về kinh tế, quốc
phòng, an ninh đối với cả nước. Đại hội XIII Đảng bộ thành phố Hải Phòng xác định
một số chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội Hải Phòng từ nay đến năm 2010 là:
- Phấn đấu đưa tỷ trọng GDP Hải Phòng đạt khoảng 4 - 4,5% trong GDP cả
nước vào năm 2010; tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đạt 12 - 13%/năm, gấp 1,5
lần mức tăng bình quân chung của cả nước, trong đó, tốc độ tăng bình quân GDP
ngành dịch vụ đạt 13 - 14%, công nghiệp - xây dựng 13,5 - 14%/năm, nông - lâm -
thuỷ sản 4,5 - 5%/năm. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá,
hiện đại hoá với tỷ trọng dịch vụ trong GDP đến năm 2010 đạt 52 - 53%; công
nghiệp - xây dựng 38 - 39%, nông - lâm - thuỷ sản 8 - 9%. Đến năm 2010 GDP bình
quân /người đạt 1.800 USD/năm.
- Giá trị sản xuất công nghiệp tăng 18 - 19%/năm; giá trị sản xuất nông - lâm -
thuỷ sản tăng 6 - 6,5%/năm trong đó nông nghiệp tăng 3,5 - 4%/năm, thuỷ sản tăng
14 - 15%.
-Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội giai đoạn 2005 - 2010 đạt trên 90.000 tỷ
đồng, bình quân trên 18.000 tỷ đồng/năm, tăng 14%/năm, trong đó vốn đầu tư nước
ngoài (FDI và ODA) chiếm 30%.
- Thu hút trên 5,6 triệu lượt khách du lịch vào năm 2010.
- Cơ bản hoàn thành phổ cập giáo dục bậc trung học và nghề trên địa bàn thành
phố vào năm 2008.
- Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên bình quân 1%/năm
- Tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn mới đến năm 2010 giảm còn 5 - 6%
- Giải quyết việc làm cho 225.000 lao động, bình quân đạt 45.000 lao
động/năm.
- Tỷ lệ dân số đô thị đạt 55 - 60% vào năm 2010 [20, tr.150 - 151]
3.1.2. Dự báo về xu thế phát triển nhu cầu văn hoá giải trí trong thời gian
tới
Trong xu thế toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế các hoạt động văn hoá
nói chung và văn hoá giải trí nói riêng ở thành phố Hải Phòng cũng chịu những ảnh
hưởng và tác động của sự biến đổi văn hoá trong nước và thế giới đương đại. Nhiều
nhà nghiên cứu cho rằng, trong thập niên đầu thế kỷ XXI, văn hoá giải trí sẽ có nhiều
biến đổi, theo một số xu hướng chính là:
Thứ nhất, văn hoá giải trí sẽ gắn bó chặt chẽ hơn với sự phát trriển mạnh mẽ
của du lịch toàn cầu. Giờ đây, các hoạt động du lịch sẽ đi sâu khám phá các nền văn
minh thế giới và các giá trị độc đáo trong văn hoá, phong tục tập quán của các dân
tộc. Như vậy, xu hướng tìm về bản sắc dân tộc trong các hoạt động vui chơi giải trí
trong bối cảnh đa dạng văn hoá sẽ kích thích các quốc gia, các dân tộc khai thác các
loại hình vui chơi độc đáo, đặc sắc của dân tộc mình để vừa bảo vệ bản sắc dân tộc,
vừa qua đó tạo ra sự hấp dẫn quốc tế sâu rộng thúc đẩy du lịch, dịch vụ phát triển.
Thứ hai, văn hoá giải trí sẽ gắn liền với việc giữ gìn và nâng cao sức khoẻ. Nhu
cầu rèn luyện nâng cao sức khoẻ để kéo dài tuổi thọ là nhu cầu thiết yếu của con người
trong xã hội hiện đại. Cùng với sự phát triển về kinh tế, các hoạt động văn hoá vui chơi
giải trí gắn với các hoạt động thể dục thể thao sẽ trở thành trào lưu chung của xã hội
ngày nay.
Thứ ba, các loại hình văn hoá vui chơi giải trí gắn liền với sự bùng nổ các
phương tiện thông tin đại chúng (báo chí, xuất bản, phát thanh và truyền hình, mạng
Internet...). Các phương tiện thông tin đại chúng sẽ là một hình thức chủ yếu đáp ứng
nhu cầu vui chơi giải trí cho con người trong thời gian rỗi.
Các loại hình nghệ thuật và các chương trình vui chơi giải trí được phát đi với
thời lượng lớn trên sóng phát thanh truyền hình, báo chí sẽ đáp ứng nhu cầu giải trí
và cuốn hút đông đảo công chúng tham gia.
Thứ tư, các hoạt động văn hoá giải trí gắn với sinh hoạt cộng đồng ở các khu
vực tập trung đông dân cư như: công viên, khu vui chơi giải trí, tụ điểm giải trí, thư
viện, bảo tàng, nhà văn hoá, sân thể thao...sẽ ngày càng gia tăng.
Thứ năm, văn hoá giải trí gắn với các thành tựu khoa học công nghệ hiện đại. Sự
bùng nổ của cuộc cách mạng khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ điện tử,
công nghệ thông tin và viễn thông đã tác động mạnh mẽ đến đời sống của xã hội hiện
đại. Những tiến bộ mới trong khoa học công nghệ đã thâm nhập rất mạnh vào lĩnh
vực vui chơi giải trí nhằm đáp ứng nhu cầu của công chúng, nhất là công chúng trẻ.
Các trò chơi điện tử, các trò chơi trên mạng Internet, trên điện thoại, trên vô tuyến
truyền hình, trên đài phát thanh...cũng đang đổi mới mạnh mẽ để thu hút công chúng
Thứ sáu, văn hoá giải trí gắn với môi trường tự nhiên và cảnh quan văn hoá gia
tăng. Xu thế đô thị hoá và phát triển đô thị nước ta sẽ phát triển mạnh trong thời kỳ
từ nay cho đến năm 2010 và 2020. Các khu công nghiệp, khu công nghệ cao xuất
hiện ngày càng nhiều, các khu dân cư mới, khu đô thị mới với những dãy nhà nhiều
tầng được quy hoạch sẽ mọc lên nhanh chóng. áp lực của cuộc sống đô thị hoá dồn
nén con người vào những ngôi nhà nhiều tầng tạo ra tâm lý chung của cộng đồng là
trở về với thiên nhiên, trở về với cội nguồn. Vì vậy các khu vui chơi giải trí sẽ phải
gắn nhiều hơn với môi trường thiên nhiên. Các khu du lịch như Đồ Sơn, Cát Bà ...với
cảnh quan môi trường và thiên nhiên tuyệt đẹp sẽ là nơi cuốn hút khách du lịch trong
và ngoài nước về đây tham quan, nghỉ dưỡng, vui chơi...
Thứ bẩy, văn hoá giải trí gắn liền với bảo vệ, giữ gìn và phát huy những giá trị
văn hoá truyền thống. Vấn đề giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc là vấn đề
sống còn liên quan đến vận mệnh mỗi quốc gia, dân tộc trong xu thế toàn cầu hoá
hiện nay. Vì vậy các hoạt động văn hoá giải trí phải góp phần bảo tồn và phát triển
các giá trị di sản văn hóa, thuần phong mỹ tục tốt đẹp của dân tộc.
Thứ tám, xu hướng đa dạng hoá các nhu cầu văn hoá vui chơi giải trí của các
nhóm xã hội, các tổ chức nghề nghiệp, các lứa tuổi và giới tính. Quá trình phát triển
kinh tế xã hội trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập
kinh tế thế giới sẽ tạo ra sự phân hoá xã hội mạnh mẽ cả về thu nhập kinh tế, trình độ
học vấn, thị hiếu thẩm mỹ, sở thích giải trí... Nhu cầu văn hoá giải trí sẽ rất đa dạng,
có nhu cầu đại chúng, nhu cầu nhóm, nhu cầu của các cá nhân. Các chủ thể tham gia
vào tổ chức các hoạt động vui chơi giải trí sẽ từng bước quan tâm tới nhu cầu chính
đáng này. Sự đa dạng hoá về nhu cầu vui chơi giải trí trong thời gian tới không chỉ
xuất hiện trên bình diện rộng nhiều loại hình và hình thức vui chơi giải trí mà còn thể
hiện ở sự biến đổi thường xuyên của những nhóm xã hội, gây sức ép thường xuyên
buộc các nhà dịch vụ phải đổi mới liên tục và tìm kiếm, sáng tạo các hình thức vui
chơi giải trí mới, tạo nên môi trường "động" cho hoạt động này.
3.2. Phương hướng phát triển văn hoá và văn hoá giải trí ở thành phố Hải
Phòng thời kỳ 2006 - 2010
Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ XIII xác định: Mở rộng dân số
toàn thành phố trên 2 triệu người vào năm 2020 với cư dân đô thị hơn 50%; Quan
tâm nâng cao chất lượng dân số, nguồn nhân lực là nhân tố hàng đầu trong việc khai
thác các thế mạnh phát triển kinh tế của thành phố. Đẩy mạnh xã hội hoá giáo dục,
mở rộng các loại hình giáo dục công lập, dân lập, tư thục. Hoàn thành phổ cập trung
học phổ thông và phổ cập nghề vào năm 2010; Phát triển các trường đại học, cao
đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề tại Hải Phòng theo hướng đào tạo đa
ngành, đa hệ, tiếp cận tiêu chuẩn quốc tế, tăng nhanh số lượng và chất lượng lao
động xuất khẩu...là hướng chủ yếu để Hải Phòng trở thành một trung tâm giáo dục,
đào tạo của vùng duyên hải Bắc Bộ và miền Bắc, đặc biệt là trên lĩnh vực đào tạo
phục vụ các ngành kinh tế biển và các ngành khoa học ứng dụng công nghệ kỹ thuật
cao.
Bám sát mục tiêu xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc, định hướng cho thành phố trong thời gian tới là tiếp tục mở rộng
và nâng cao hiệu quả cuộc vận động "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn
hoá", xây dựng nếp sống văn minh, gia đình văn hoá, tổ chức thường xuyên các hoạt
động văn hoá văn nghệ, TDTT và các loại hình văn hoá giải trí, không ngừng nâng
cao đời sống văn hoá tinh thần của nhân dân thành phố, đẩy lùi các tệ nạn xã hội,
chống văn hoá phẩm đồi truỵ. Phấn đấu xây dựng con người Hải Phòng thời kỳ đổi
mới phát triển toàn diện cả thể lực, trí lực, phát huy truyền thống "Trung dũng quyết
thắng", năng động, sáng tạo, đoàn kết, vững vàng vượt qua khó khăn, thử thách để
vươn lên, có tác phong công nghiệp văn minh, lịch thiệp, có trình độ văn hoá và tay
nghề cao để tiếp thu nhanh các tiến bộ khoa học công nghệ, quản lý, thích ứng nhanh
với nền kinh tế thị trường định hướng XHCN trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế.
Các chỉ tiêu cụ thể đến năm 2010:
- Phấn đấu đến năm 2010 có 80-85 % số làng, khu dân cư đạt tiêu chuẩn làng
văn hoá cấp quận, huyện, trong đó 30% đạt tiêu chuẩn văn hoá cấp thành phố, 85-90
% số hộ gia đình đạt tiêu chuẩn gia đình văn hoá.
- Số lượt người đến đọc sách báo tại thư viện tăng bình quân 10-15%.Tăng số
sách báo phát hành đạt bình quân 8 bản người vào năm 2010, tăng gấp 2 lần so năm
2000.
- 100% số hộ gia đình được nghe đài phát thanh và xem vô tuyến truyền hình
có chất lượng cao.
- Phấn đấu thực hiện chỉ tiêu đến năm 2010 nâng mức hưởng thụ và tham gia
sáng tạo văn hoá của người dân Hải Phòng lên gấp 2,7 lần - 2,8 lần so với năm 2000.
- Hoàn thiện hệ thống thiết chế văn hoá-thông tin từ thành phố đến cơ sở:
100% các quận, huyện, xã có trung tâm văn hoá-thể thao; 100% xây dựng trung tâm
văn hoá làng [20, tr.168 - 169].
3.3. Một số giải pháp phát triển văn hóa giải trí Hải Phòng thời kỳ 2006 -
2010
3.3.1. Xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội, văn hoá
Hải Phòng đang trong quá trình đô thị hoá nhanh nhằm phát triển đô thị trung
tâm và các đô thị vệ tinh. Diện tích đô thị hiện nay khoảng 7 nghìn ha, dân số gần
600 nghìn người, dự kiến sẽ diện tích tăng lên 16 nghìn ha và dân số sẽ tăng lên 970
nghìn dân vào năm 2010.
Quan tâm xây dựng, phát triển mạng lưới đô thị, cơ sở hạ tầng đồng bộ. Hướng
phát triển là chỉnh trang đô thị cũ, trước hết là khu trung tâm, hình thành và mở rộng
đô thị vùng ven, đặc biệt là hướng Đông (quận Hải An, khu công nghiệp Đình Vũ),
Đông Nam (Thị xã Đồ Sơn, quận Kiến An) và Tây bắc thành phố (2 huyện An
Dương, Thuỷ Nguyên). Phấn đấu đến năm 2020 thành phố sẽ có 10 quận. Phát triển
các khu đô thị mới như các khu đô thị đường Hải Phòng - Đồ Sơn, phía Bắc Sông
Cấm, Quán Toan... Hoàn chỉnh nghiên cứu và triển khai xây dựng trung tâm chính trị
- hành chính mới của thành phố. Hoàn chỉnh hạ tầng kỹ thuật đô thị.
Tỷ lệ đô thị hoá chuyển dịch từ 35% năm 2002 lên khoảng 50% năm 2010, tỷ lệ
dân phi nông nghiệp ở mức 46,3% hiện nay tăng lên 60,6% năm 2010. Đây là những
thách thức và là nhu cầu lớn để phát triển toàn diện các lĩnh vực y tế, giáo dục và văn
hoá-xã hội. Một số khu công nghiệp, khu đô thị mới sẽ được xây dựng, mở rộng,
trong đó có các công trình phục vụ nhu cầu vui chơi giải trí của người dân thành phố
[Xem Phụ lục 17, tr.116 luận văn].
3.3.2. Phát triển đi đôi với quản lý tốt hệ thống thông tin đại chúng
Nghị quyết Đại hội XIII Đảng bộ thành phố đã xác định:
...Phấn đấu thực hiện chỉ tiêu đến năm 2010 nâng mức hưởng thụ và
tham gia sáng tạo văn hoá của người dân Hải Phòng lên mức 2,7 đến 2,8
lần so với năm 2000. Đầu tư phát triển, hiện đại hoá về thiết bị kỹ thuật,
nâng cao chất lượng hoạt động của các phương tiện thông tin đại chúng...
Duy trì và nâng cao chất lượng hệ thống truyền thanh các xã, phường, thị
trấn. Nâng cao chất lượng các chương trình phát thanh, truyền hình. Đầu
tư ứng dụng công nghệ kỹ thuật số trong truyền dẫn phát sóng, công nghệ
sản xuất chương trình phát thanh truyền hình. Đến năm 2010, phấn đấu
100% hộ được nghe đài phát thanh và xem truyền hình [20, tr168 - 169].
Mục tiêu đó đã đặt ra cho các cơ quan báo chí, phát thanh truyền hình Hải
Phòng yêu cầu phải nâng cao chất lượng cả về nội dung và hình thức nhất là trong
lĩnh vực văn hoá giải trí cần có những thông tin cập nhật, mới mẻ, hấp dẫn, lôi cuốn
công chúng. Trên hệ thống truyền hình, Trung tâm phát hành phim và chiếu bóng
thành phố bên cạnh việc tích cực khai thác các chương trình phim truyện đặc sắc của
nước ngoài như: Mỹ, Trung Quốc, Hàn Quốc, Canada, Hồng Công, Singapo...cần tổ
chức trình chiếu tốt các phim truyện trong nước. Phối hợp với các Hãng sản xuất các
phim truyện nhằm phản ánh cuộc sống và con người Việt Nam nói chung, Hải Phòng
nói riêng trong thời kỳ đổi mới. Tiếp tục sản xuất, phối hợp sản xuất các chương
trình vui chơi giải trí trên truyền hình. Thời gian qua, một số chương trình như: "Sắc
màu Hoa Phượng", " Con tàu may mắn", "Siêu thị Sao"...đã tạo được những tiếng
vang nhất định, và hiện nay, chương trình trò chơi "Con đường chinh phục" đã liên
kết phát sóng cùng 10 Đài truyền hình địa phương hứa hẹn là một sân chơi bổ ích,
hấp dẫn, vừa tạo được nguồn thu từ việc quảng cáo sản phẩm của các doanh nghiệp
vừa đáp ứng yêu cầu giải trí của nhân dân thành phố.
3.3.3. Phát triển hệ thống các thiết chế văn hoá-nghệ thuật
- Trước mắt, cần sắp xếp lại các tổ chức, thiết chế hoạt động văn hoá-nghệ
thuật, như các Đoàn nghệ thuật, các rạp chiếu phim, biểu diễn nghệ thuật:
Tập trung đầu tư phát triển các loại hình nghệ thuật mà thành phố có thế mạnh
(cải lương, chèo, múa rối, kịch nói, ca múa nhạc), nâng cao hiệu quả hoạt động các
đoàn nghệ thuật chuyên nghiệp theo hướng nghệ thuật đỉnh cao.
Xây dựng mô hình tổ chức các đoàn biểu diễn nghệ thuật ở thành phố theo
hướng xã hội hoá, như: Nhà hát ca múa nhạc (có Đoàn ca múa nhạc nhẹ và Đoàn ca
múa nhạc dân tộc), Nhà hát kịch, Nhà hát sân khấu dân tộc, bao gồm: Đoàn chèo,
Đoàn Cải lương và Đoàn nghệ thuật múa rối.
Xây dựng các đoàn nghệ thuật theo hướng gọn nhẹ về bộ máy, trang thiết bị
đồng bộ hiện đại, phát huy tính chủ động, sáng tạo của các đoàn nghệ thuật, tài năng
của đội ngũ văn nghệ sĩ phấn đấu đạt trình độ của quốc gia. Thực hiện cơ chế tài
chính mới đối với các đoàn nghệ thuật. Đảm bảo cơ chế tài trợ cần thiết hoặc hợp
đồng đặt hàng nhằm tạo điều kiện cho các đoàn nghệ thuật, các nghệ sỹ năng động
hơn trong hoạt động, gắn họ với các sản phẩm nghệ thuật và chịu trách nhiệm về kết
quả của từng vở diễn. Thực hiện đa dạng hoá phương thức và quy mô biểu diễn, đáp
ứng nhu cầu xã hội hoá hoạt động nghệ thuật.
Đầu tư cải tạo, nâng cấp rạp hát, rạp chiếu phim hiện có (quy mô vừa và nhỏ)
bằng nhiều nguồn lực để nâng cao chất lượng tổ chức biểu diễn nghệ thuật: Nhà hát
Sông Cấm (nhà hát múa rối) quận Ngô Quyền; Nhà hát Phương Đông (nhà hát cải
lương) quận Hồng Bàng, Rạp Long Châu (nhà hát ca múa nhạc) quận Hồng Bàng;
Rạp Tân Việt (Nhà hát chèo) quận Lê Chân và dự kiến xây dựng mới Nhà hát kịch ở
quận Hải An.
Xây dựng trung tâm biểu diễn nghệ thuật tổng hợp phục vụ biểu diễn ca múa nhạc ở
khu đô thị mới trong Trung tâm Hội chợ-triển lãm-Văn hoá Hải Phòng.
Đầu tư xây dựng rạp hát, rạp chiếu phim ở các khu đô thị mới như: Bắc sông
Cấm, đường 353, ngã 5 - sân bay Cát Bi…
Cải tạo cơ sở vật chất, nâng cấp và hiện đại hoá trang thiết bị cho một số rạp
chiếu bóng hiện có như: Rạp chiếu bóng Công Nhân, quận Ngô Quyền; Rạp chiếu
bóng 1-5, quận Hồng Bàng; Rạp Lê Văn Tám, quận Lê Chân; Rạp Lạc Viên, quận
Ngô Quyền; Rạp 19/5, quận Kiến An...
Đầu tư xây dựng các cụm rạp đa năng nhỏ (2-3 rạp nhỏ quy mô khoảng 100-
150 chỗ /rạp) chiếu phim nhựa, phim video..., với trang thiết bị hiện đại, tiện nghi
hoặc kết hợp trong các quần thể dịch vụ-thương mại, siêu thị, khu giải trí liên hợp,
thể thao...
Khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia xây dựng, cải tạo cơ sở vật chất
kỹ thuật hệ thống các cơ sở biểu diễn nghệ thuật và các chương trình biểu diễn văn
nghệ-nghệ thuật.
Ngành văn hoá phối hợp với các ngành du lịch - dịch vụ, TDTT và các tổ chức
xã hội sử dụng cơ sở vật chất-kỹ thuật để tổ chức biểu diễn nghệ thuật và các hoạt
động văn hoá giải trí khác. Kết hợp giữa ngành điện ảnh, chiếu phim và phát thanh,
truyền hình để hoạt động có hiệu quả trong việc đáp ứng nhu cầu giải trí của công
chúng.
- Phát triển thị trường dịch vụ văn hoá - văn nghệ với tăng cường quản lý
- Tiếp tục phát triển các trung tâm văn hoá-nghệ thuật quần chúng: Mở rộng,
cải tạo nâng cấp các thiết chế văn hoá-thông tin cấp quận, huyện, vận động nhân dân
đóng góp xây dựng và hoàn thiện trung tâm văn hoá xã, làng. Tổ chức các CLB văn
nghệ-nghệ thuật ở cơ sở (xã, làng, các cơ quan, công ty, trường học...) Kết hợp với
các cấp, ngành thường xuyên tổ chức các hội diễn, liên hoan văn nghệ quần chúng
trên địa bàn thành phố.
- Phát triển mạng lưới thiết chế văn hoá-thông tin cơ sở:
Xây dựng và hoàn thiện hệ thống thiết chế văn hoá-thông tin các cấp từ thành
phố đến cơ sở theo hướng đa năng tổng hợp, đa dạng về loại hình với nội dung thiết
thực gắn kết với nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội, bao gồm xây dựng và mở rộng,
nâng cấp cơ sở vật chất và trang thiết bị hiện đại, đồng bộ của hệ thống thiết chế văn
hoá thông tin các cấp: Trung tâm văn hoá thành phố và các Trung tâm văn hoá-thông
tin cấp quận, huyện, thị xã và trung tâm văn hoá-thông tin cấp xã, phường.
Xây dựng Trung tâm văn hoá thành phố trở thành một thiết chế văn hoá đa
năng, tổng hợp nghiên cứu, hướng dẫn nghiệp vụ các trung tâm văn hoá quận, huyện,
liên kết giúp đỡ nghiệp vụ các thiết chế văn hoá cấp thành phố và tương đương, tổ
chức các hoạt động văn hoá-thông tin, vui chơi giải trí văn hoá-nghệ thuật của quần
chúng.
3.3.4. Đẩy mạnh phát triển các hoạt động du lịch
Để thu hút trên 5,6 triệu lượt khách du lịch vào năm 2010 (tăng bình quân
15%/năm), cần xây dựng Hải Phòng thành Trung tâm đón nhận và phân phối khách
quốc tế, đào tạo nhân lực du lịch, quảng bá xúc tiến du lịch. Ưu tiên đầu tư cho khu
du lịch trọng điểm Cát Bà và Đồ Sơn; nâng cao chất lượng các tuyến du lịch hiện có,
mở thêm tuyến du lịch sinh thái biển Hải Phòng - Bạch Long Vỹ, sớm hoàn thành
các dự án du lịch, khu vui chơi giải trí. Đẩy mạnh công tác thông tin quảng bá, xúc
tiến du lịch. Phát triển, đào tạo nguồn nhân lực du lịch. Phấn đấu đến năm 2010 tỷ
trọng GDP du lịch, khách sạn nhà hàng trong GDP toàn thành phố đạt 4,5%, doanh
thu du lịch Hải Phòng chiếm khoảng 10% doanh thu du lịch cả nước (hiện ở mức 5 -
6%), tăng trên 16%/năm.
Phát triển các loại hình du lịch ở Hải Phòng gắn với các tour du lịch của cả nước
và đa dạng hoá các hình thức du lịch. Kết hợp với quần thể Hạ Long - Quảng Ninh
(vịnh Hạ Long và Bái Tử Long), tạo thành tour du lịch biển, sinh thái, du lịch văn
hoá, tham quan-nghỉ dưỡng, thể thao...
Đa dạng hoá sản phẩm dịch vụ-du lịch gắn với nội dung văn hoá giải trí, phát
triển cân đối các loại hình du lịch với cơ sở hạ tầng kinh tế - văn hoá.
Đối với thị xã Đồ Sơn và huyện Cát Hải có cơ chế liên kết với các thành phần
kinh tế đầu tư xây dựng các khu dịch vụ vui chơi giải trí (vui chơi cảm giác mạnh gắn
với biển), thể dục thể thao, rèn luyện thể chất, tổ chức biểu diễn các loại hình văn hoá
nghệ thuật dân gian phục vụ du lịch... (các cụm văn hoá gắn với Hội chọi trâu Đồ
Sơn).
+ Phát triển khu vui chơi giải trí ở các công viên văn hoá. Việc phát triển các
khu vui chơi giải trí, nghỉ dưỡng là nhu cầu cấp thiết khi đời sống của nhân dân
thành phố ngày càng được cải thiện.
3.3.5. Gìn giữ, bảo tồn và phát huy các di sản văn hoá của thành phố
Thành phố Hải Phòng hiện nay có 179 di tích lịch sử đã được xếp hạng, trong
đó có 96 di tích xếp hạng cấp quốc gia, 83 di tích cấp thành phố, 137 di tích được tu
bổ, tôn tạo. Các di tích được nhân dân tham gia đóng góp kinh phí để tu bổ, tôn tạo
ngày càng khang trang hơn. Nhiều di sản văn hoá của thành phố được lập kế hoạch
bảo vệ, giữ gìn và phát huy tác dụng như khu mộ cổ ở Thuỷ Nguyên, di tích Cái Bèo
ở Cát Bà, Cát Hải, di tích Việt Khê ở Thuỷ Nguyên và nhiều ngôi đình, chùa, nhà
thờ.
Lễ hội chọi trâu Đồ Sơn là một trong 15 lễ hội lớn cấp quốc gia của ngành Du
lịch, lễ hội đua thuyền Rồng trên biển Cát Bà là Lễ hội lớn của ngành Thuỷ sản; lễ
hội hát Đúm ở Phả lễ (Thuỷ Nguyên); lễ hội chạy - vật cầu ở Tân Trào (Kiến Thuỵ);
múa Rối cạn, rối nước ở Nhân Hoà, Đồng Minh (Vĩnh Bảo), hội thi pháo đất, hội
Múa Tứ linh- rồng - kỳ lân ở huyện Vĩnh Bảo...góp phần giữ gìn bản sắc văn hoá dân
tộc, bản sắc văn hoá địa phương, gắn bó tình cảm cộng đồng, quảng bá du lịch, thu
hút khách du lịch đến tham quan, giải trí và thông qua các hoạt động này tạo thêm
việc làm, phát triển ngành, nghề truyền thống.
Để phát huy hiệu quả giá trị các di sản văn hoá và gắn liền với nhu cầu sáng
tạo, hưởng thụ và nhu cầu tâm linh, nhu cầu văn hoá giải trí của người dân cần tạo ra
những sản phẩm văn hoá đặc thù có chất lượng hấp dẫn du khách tham quan, phát
triển mạnh các loại hình dịch vụ văn hoá, tạo nguồn thu từ dịch vụ tham quan và các
hoạt động văn hoá khác để tái đầu tư trở lại cho việc bảo vệ và phát huy giá trị của di
tích.
3.3.6. Đẩy mạnh xã hội hoá các hoạt động văn hoá vui chơi giải trí
Trong thời kỳ phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và tăng cường hợp tác, giao lưu văn hoá với nước
ngoài gia tăng, đòi hỏi phải đẩy mạnh hơn nữa xã hội hoá văn hoá. Trong lĩnh vực
văn hoá vui chơi giải trí trên địa bàn thành phố Hải Phòng, việc xã hội hoá và mở
rộng quá trình dân chủ hoá các hoạt động vui chơi giải trí là một đòi hỏi thiết yếu
nhằm khắc phục tư tưởng bao cấp, trông chờ, ỷ lại vào Nhà nước, Xã hội hoá các
hoạt động văn hoá vui chơi giải trí là nhằm khai thác các tiềm năng về vật chất và
tinh thần của toàn xã hội vào xây dựng môi trường văn hoá giải trí lành mạnh ở Hải
Phòng.
Đẩy mạnh xã hội hoá các hoạt động văn hoá vui chơi giải trí sẽ tạo điều kiện
thuận lợi để các tổ chức kinh tế, xã hội, các đoàn thể chính trị xã hội, các cấp, các
ngành, các cộng đồng dân cư, các cơ quan, xí nghiệp, trường học, đơn vị quân đội,
công an...của thành phố tham gia bằng nhiều phương pháp và hình thức khác nhau
vào các hoạt động vui chơi giải trí. Tổ chức tốt việc xây dựng môi trường văn hoá
giải trí ở cơ sở gắn với cộng đồng gia đình, cộng đồng dân cư ở khu phố, khối phố,
khu vực làng xã văn hoá ở ngoại thành...góp phần làm phong phú đời sống văn hoá
tinh thần của các tầng lớp nhân dân thành phố.
Thực hiện chính sách xã hội hoá các hoạt động vui chơi giải trí cần chú ý tới
đặc điểm của các loại hình văn hoá giải trí khác nhau như đài phát thanh, truyền
hình, các câu lạc bộ, các cung văn hoá, nhà văn hoá; thư viện, các hoạt động vui chơi
giải trí ở khu công viên, các khu vui chơi giải trí cộng đồng; các hoạt động du lịch,
tham quan danh lam thắng cảnh, lễ hội và di sản văn hoá dân tộc đa dạng, phong phú
khác.
Các cơ quan quản lý nhà nước ở thành phố cần xây dựng chính sách xã hội hoá
và tổ chức điều hành chính sách xã hội hoá theo hệ thống quy định nhất định để tránh
tình trạng buông lỏng quản lý hoặc rập khuôn máy móc, không khai thác được sự
sáng tạo của cộng đồng dân cư thành phố.
3.3.7. Tăng cường đầu tư cho phát triển văn hoá giải trí
Việc phát triển văn hoá giải trí ở thành phố Hải Phòng trong thời gian tới đòi
hỏi phải gia tăng các nguồn lực đầu tư của nhà nước và xã hội, coi đó là những giải
pháp cơ bản để kích thích các hoạt động văn hoá giải trí phát triển mạnh mẽ và đúng
hướng.
Hải Phòng là thành phố công nghiệp, có cảng biển lớn... lại có cả các khu du
lịch nổi tiếng Đồ Sơn và Cát Bà, việc kêu gọi đầu tư, nhất là đầu tư nước ngoài nhằm
biến 2 khu vực này thành 2 khu du lịch trọng điểm cần có những cơ chế, chính sách
thông thoáng, hấp dẫn nhằm thu hút các nhà đầu tư nước ngoài đẩy mạnh hoạt động
đầu tư vào các lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực vui chơi, giải trí.
Việc đầu tư vào các hoạt động vui chơi giải trí ở Hải Phòng cần phải chú ý tới
sự phát triển của thành phố Hải Phòng trong tương lai để có cái nhìn toàn diện và
phát triển trong quá trình đầu tư. Trong vòng 10 năm và 20 năm tới Hải Phòng phát
triển tới vòng bán kính đến 20 - 30 km, các khu đô thị, khu dân cư mới với những
dãy nhà cao tầng sẽ mọc lên ở những vùng, miền mà hôm nay còn là vùng nông
thôn...Vì vậy, chính sách đầu tư trong lĩnh vực vui chơi giải trí cần có tầm nhìn mang
tính chiến lược phát triển tổng thể của Hải Phòng, tránh tình trạng manh mún, cát cứ.
Công tác đầu tư cần gọn, dứt điểm và phải đánh giá kiểm tra kết quả đầu tư từng
hạng mục, từng công trình. Kiên quyết chống đầu tư tràn lan, không chú ý tới hiệu
quả kinh tế - xã hội của các công trình này.
Trong đầu tư xây dựng cần chú ý tới các công trình vui chơi giải trí trọng điểm
của thành phố. Các công trình này phải được đặc biệt quan tâm cả về quy mô, chất
lượng đầu tư cũng như năng lực quản lý, điều hành. Các công trình trọng điểm này
phải được xây dựng ở cả khu vực nội thành và ngoại thành, cả ở trung tâm thành phố
và địa bàn các quận, huyện, thị xã.
3.3.8. Tăng cường quản lý các hoạt động văn hoá giải trí
Trong thời kỳ đổi mới hiện nay, các hoạt động vui chơi giải trí cũng đang vận
hành theo cơ chế thị trường. Các thành phần kinh tế đều có thể tham gia đầu tư vào
lĩnh vực này để vừa khai thác lợi nhuận, vừa đáp ứng nhu cầu văn hoá của nhân dân.
Khi hiện nay, mức sống của nhân dân ngày càng được nâng cao thì khu vực vui chơi
giải trí ngày càng được các nhà đầu tư trong nước và quốc tế quan tâm. Các chương
trình vui chơi giải trí trên hệ thống Phát thanh và Truyền hình trung ương và Hải
Phòng cũng đang bằng mọi cách đáp ứng nhu cầu giải trí rất đa dạng, phong phú của
công chúng. Thị trường mỹ thuật, âm nhạc, điện ảnh cũng đang diễn ra hết sức sôi
động nhằm đáp ứng nhu cầu giải trí của người dân. Công tác quản lý các hoạt động
vui chơi giải trí cần tập trung vào các nội dung chủ yếu là:
Nâng cao nhận thức của các cấp uỷ Đảng, chính quyền, các đoàn thể và toàn xã
hội về vai trò của văn hoá nói chung và vai trò của văn hoá giải trí trong việc nâng
cao đời sống văn hoá tinh thần, xây dựng nhân cách, phẩm chất của con người Hải
Phòng đáp ứng yêu cầu sự nghiệp CNH, HĐH.
Hiện nay, nhận thức chung của toàn xã hội cũng như nhận thức chung của các
cấp lãnh đạo Đảng, chính quyền, các đoàn thể chính trị xã hội về vai trò của vui chơi
giải trí còn chưa được quan tâm đúng mức. Điều này dẫn đến tình trạng là vai trò
lãnh đạo của các cấp uỷ và chính quyền các cấp đối với lĩnh vực này thường ít quan
tâm, thậm chí có nơi còn buông lỏng. Vì vậy, những hiện tượng tiêu cực xuất hiện
trong lĩnh vực vui chơi giải trí có xu hướng ngày càng nghiêm trọng. Những tình
trạng cá cược bất hợp pháp trong bóng đá, trong các trò chơi dân gian như đấu vật,
chọi gà, các tệ nạn xã hội trong các phòng hát karaoke, vũ trường, quán bar; tình
trạng quản lý một cách hình thức các quán dịch vụ Internet; tình trạng tội phạm và tệ
nạn xã hội gia tăng tại các công viên, các vườn hoa công cộng... Một trong những
nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là do nhận thức chung của toàn xã hội, trước hết
là của cán bộ, đảng viên trong cấp uỷ, chính quyền và đoàn thể các cấp còn hạn chế,
chưa thấy rõ vai trò của hoạt động này trong quá trình xây dựng và phát triển văn hoá
ở thành phố hiện nay. Bởi vậy, cần nâng cao hơn ý thức trách nhiệm của các cấp uỷ
Đảng, chính quyền và đoàn thể nhân dân về lãnh đạo và quản lý hoạt động này.
Phân cấp quản lý tổ chức các hoạt động vui chơi giải trí, đảm bảo hiệu lực và
hiệu quả. Uỷ ban nhân dân thành phố Hải Phòng cần phân cấp quản lý các hoạt động
vui chơi giải trí trên địa bàn Hải Phòng. Hiện nay, việc phân cấp và phối hợp quản lý
các hoạt động vui chơi giải trí ở địa điểm công cộng hiện nay còn nhiều yếu kém và
chưa hợp lý. Nhiều đơn vị, nhiều cơ quan cùng tham gia quản lý một địa điểm hoặc
làm nhiều chức năng khác nhau, nên vừa thiếu tập trung, vừa khó kiểm soát. Công
tác quản lý các hoạt động vui chơi, giải trí trên địa bàn thành phố Hải Phòng có 3 loại
là:
Loại 1: Do Nhà nước trực tiếp quản lý thông qua các doanh nghiệp nhà nước
hoạt động công ích - phúc lợi.
Loại 2: Do các cơ quan, đoàn thể quản lý, điều hành.
Loại 3: Do các công ty nhà nước, tập thể, tư nhân trong nước và nước ngoài đầu
tư.
Vì vậy công tác quản lý nhà nước ở đây cần chú trọng phân cấp quản lý cho cả
3 loại chủ thể nói trên. Sự phân cấp này phải được xác định rõ ràng, cụ thể và công
khai trên cơ sở những văn bản pháp lý nhất định do Uỷ ban nhân dân thành phố quy
định. Đồng thời trong quá trình phân cấp quản lý các hoạt động vui chơi giải trí trên
địa bàn thành phố, cần bảo đảm tính thống nhất chung trong quản lý nhà nước, tránh
tình trạng cát cứ, manh mún.
Xây dựng và hoàn chỉnh quy hoạch, kế hoạch phát triển các hoạt động vui chơi
giải trí trên địa bàn thành phố.
Hiện nay, công tác xây dựng quy hoạch phát triển các hoạt động vui chơi giải trí,
các khu vui chơi giải trí ở Hải Phòng mới bước đầu được quan tâm ở một số khu đô thị
mới được xây dựng và trong quy hoạch phát triển chung của thành phố, còn khu vực nội
đô và hầu hết các địa bàn ngoại thành chưa được quan tâm đúng mức. Vì vậy, vấn đề
cấp bách là cần có quy hoạch dài hạn và ngắn hạn cho sự phát triển các hoạt động vui
chơi giải trí trên địa bàn thành phố Hải Phòng.
Việc xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển các hoạt động vui chơi giải trí ở Hải
Phòng đòi hỏi phải chú ý đến các ngành, các cấp quản lý từ thành phố, quận, huyện
đến phường, xã, chú ý các nhân tố dân tộc và hiện đại trong quy hoạch, chú ý cả khía
cạnh văn hoá trong kinh tế và khía cạnh kinh tế trong các hoạt động văn hoá vui chơi
giải trí, chú ý cả nhu cầu trước mắt, nhu cầu lâu dài và bền vững của thành phố.
Việc gìn giữ và phát huy bản sắc, truyền thống văn hoá tốt đẹp thông qua các
hoạt động vui chơi, giải trí ở Hải Phòng cần phải được coi trọng, song không rơi vào bảo
thủ, trì trệ mà cần đổi mới tư duy, cách nghĩ, cách làm đối với lĩnh vực này để phục vụ
nhu cầu phát triển thành phố ngày càng văn minh giàu đẹp.
Cần chú ý đảm bảo tính dân chủ, công khai của hệ thống quy hoạch và tính
chuyên môn cao của hệ thống quy hoạch phát triển các hoạt động vui chơi giải trí
trên địa bàn thành phố. Trong công tác quy hoạch này cần có sự tham gia của các nhà
hoạch định chính sách, các nhà quản lý, các nhà khoa học, các doanh nghiệp, đại
diện các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội
Cần chú ý tới tính pháp lý và tính thực tiễn của quy hoạch. Tính pháp lý của
quy hoạch này cần được thể hiện bằng các văn bản pháp lý và phải được các cấp có
thẩm quyền phê duyệt và kịp thời xử lý những chủ thể vi phạm. Phải chú ý đến tính
khả thi, tính thực tế của quy hoạch, tránh tình trạng quy hoạch treo hiện nay.
3.3.9. Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ những người hoạt động chuyên sâu trong
lĩnh vực văn hoá giải trí
Các hoạt động vui chơi giải trí trong thời kỳ phát triển phát triển kinh tế thị
trường và mở rộng giao lưu hợp tác quốc tế liên quan đến lĩnh vực công nghiệp giải
trí, dịch vụ giải trí và văn hoá giải trí. Điều đó đã đặt ra yêu cầu phải đào tạo liên
ngành, chuyên sâu về lĩnh vực này cho những người tham gia vào hoạt động này.
Khi được đào tạo cơ bản và chuyên sâu, họ sẽ có điều kiện đưa các hoạt động giải trí,
văn hoá giải trí phát triển lành mạnh đúng hướng, đem lại hiệu quả kinh tế. Hiện nay,
ở thành phố Hải Phòng chưa có cơ sở đào tạo tập trung chuyên sâu về lĩnh vực này
mà phụ thuộc vào từng doanh nghiệp vì vậy các ngành Văn hoá Thông tin, Du lịch,
Kế hoạch và Đầu tư...cần sớm lựa chọn những người có năng lực, tâm huyết, yêu
nghề đi đào tạo chuyên sâu về lĩnh vực vui chơi giải trí trong nước và quốc tế. Đặc
biệt là năng lực quản lý các hoạt động văn hóa vui chơi giải trí.
3.4. những kiến nghị
Chúng tôi xin đề xuất với Thành uỷ và Uỷ ban nhân dân cùng các cơ quan hữu
quan của thành phố một số kiến nghị sau:
1. Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân thành phố cần xây dựng và hoàn
chỉnh Quy hoạch tổng thể phát triển các hoạt động văn hoá vui chơi giải trí trên địa
bàn thành phố từ nay đến năm 2010 - 2020 ở các địa bàn khác nhau, các loại hình
hoạt động khác nhau. Hệ thống quy hoạch này phải đảm bảo đáp ứng tốt nhu cầu giải
trí của cộng đồng dân cư trên địa bàn thành phố.
2. Thành uỷ, Uỷ ban nhân dân thành phố xây dựng các chính sách khuyến khích
phát triển văn hoá giải trí và các loại hình văn hoá vui chơi giải trí lành mạnh ở thành
phố. Đó là các chính sách về xã hội hoá, chính sách về đầu tư và thu hút đầu tư vào
các lĩnh vực vui chơi giải trí, chính sách mở rộng giao lưu, trao đổi, học tập kinh
nghiệm trong lĩnh vực tổ chức các hoạt động vui chơi giải trí. Đề nghị thành phố xác
định rõ chức năng, nhiệm vụ của một số ngành, một số cơ quan của thành phố trong
việc quản lý và tổ chức hoạt động các loại hình văn hoá giải trí. Việc phân công,
phân cấp quản lý phải rõ ràng, tránh chồng chéo và phải tạo ra được sự thống nhất
trong quản lý của thành phố, tránh tình trạng cục bộ, khép kín.
3. Hải Phòng là thành phố công nghiệp lớn có đội ngũ công nhân lao động đông
đảo. Trong nhiều năm qua, Hải Phòng đã xây dựng nhiều khu công nghiệp tập trung,
thu hút nhiều doanh nghiệp đầu tư sản xuất và một số lượng công nhân lao động
không nhỏ đến đây làm việc. Nhiều doanh nghiệp Nhà nước và doanh nghiệp thuộc
các thành phần kinh tế có số lượng công nhân lớn. Một số doanh nghiệp ngoài quốc
doanh vì lợi nhuận đã gia tăng cường độ lao động, ít quan tâm đến điều kiện vật chất,
tinh thần cho người lao động, bên cạnh đó là điều kiện ăn, ở của CNLĐ tại các khu công
nghiệp tập trung gặp rất nhiều khó khăn, đó là chưa kể đến đời sống văn hoá tinh thần
của họ rất thiếu thốn, ít có điều kiện để giải trí, hồi phục sức khoẻ, trong khi xung quanh
những nơi ở của họ có không ít những tệ nạn xã hội, những hoạt động giải trí phản văn
hoá, tiêu cực. Vì vậy, đề nghị Thành uỷ, Uỷ ban nhân dân thành phố và các ban
ngành chức năng thành phố cần quan tâm:
+ Trong quy hoạch về chiến lược phát triển thành phố những năm 2010 - 2020,
ngoài việc cấp đất cho các doanh nghiệp đầu tư cơ sở sản xuất, cần tạo điều kiện về quỹ
đất để doanh nghiệp xây dựng các khu nhà ở, khu vui chơi giải trí, công viên, cây xanh
dành cho công nhân lao động của các doanh nghiệp này.
+ Thành phố có cơ chế, chính sách, quy định cụ thể yêu cầu các doanh nghiệp
cần tuân thủ nghiêm túc Bộ luật lao động và các quy định của thành phố về thời gian
lao động, thời gian nghỉ ngơi và những điều kiện về đời sống vật chất, văn hoá tinh
thần cho người lao động.
4. Uỷ ban nhân dân thành phố cần quan tâm đầu tư nhiều hơn trong lĩnh vực
văn hoá để tạo ra động lực mới cho quá trình phát triển các hoạt động văn hoá vui
chơi giải trí ở Hải Phòng. Các lĩnh vực trọng điểm đó là:
+ Đầu tư vào các hoạt động vui chơi giải trí gắn liền với việc giữ gìn và phát
huy các giá trị văn hoá truyền thống của thành phố Hải Phòng (như hoạt động giải trí
trong sinh hoạt lễ hội truyền thống, du lịch sinh thái nhân văn...)
+ Đầu tư vào các khu vực sáng tạo các hoạt động vui chơi giải trí theo hướng
dân tộc, hiện đại, nhân văn, đặc biệt là trong lĩnh vực văn hoá nghệ thuật, sáng tạo
các loại hình vui chơi giải trí độc đáo của Hải Phòng.
+ Đầu tư vào ngành công nghiệp giải trí như sản xuất các chương trình giải trí
trên phát thanh, truyền hình, điện ảnh, Video... đặc biệt là khai thác lợi thế của các
phương tiện thông tin đại chúng để giáo dục, định hướng các hoạt động vui chơi giải
trí lành mạnh ở thành phố Hải Phòng.
5. Sở Văn hoá Thông tin, Sở Du lịch, Báo Hải Phòng, Đài Phát thanh -Truyền
hình Hải Phòng và các cơ quan thông tin đại chúng khác cần đẩy mạnh tuyên truyền
về văn hoá vui chơi giải trí lành mạnh cho nhân dân thành phố, đồng thời phê phán
xu hướng giải trí tiêu cực, chống các phản giá trị trong lĩnh vực văn hoá vui chơi giải
trí.
Kết luận
1. Từ việc nhận thức toàn diện và sâu sắc hơn về vai trò, vị trí, chức năng xã
hội của các hoạt động vui chơi giải trí, coi các hoạt động vui chơi giải trí như một bộ
phận trọng yếu của văn hoá, có tác động to lớn đến việc xây dựng môi trường văn
hoá, xây dựng tư tưởng, đạo đức, lối sống xã hội, nhất là trong tình hình hiện nay,
luận văn " Văn hoá giải trí ở thành phố Hải Phòng trong thời kỳ đổi mới hiện nay"
đã đánh giá thực trạng và đề xuất các phương hướng và giải pháp phát triển văn hoá
giải trí ở thanh phố Hải Phòng trong thời gian tới, làm cho văn hoá giải trí trở thành
một động lực thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển, đáp ứng nhu cầu vui chơi giải trí,
nhu cầu tinh thần ngày càng cao của nhân dân thành phố Hải Phòng.
2. Việc khảo sát, phân tích, đánh giá văn hoá giải trí trên địa bàn thành phố Hải
Phòng là một công việc gặp nhiều khó khăn, phức tạp, vì vậy luận văn mới chỉ tập
trung vào khảo sát một số lĩnh vực cơ bản là: Văn hoá giải trí qua các thiết chế văn
hoá công cộng; văn hoá giải trí qua các phương tiện thông tin đại chúng; văn hoá
giải trí qua các dịch vụ văn hoá nghệ thuật; văn hoá giải trí qua các sinh hoạt văn
hoá truyền thống; văn hoá giải trí qua các hoạt động du lịch; hoạt động đầu tư nước
ngoài trong lĩnh vực văn hoá giải trí...
Có thể nói, trong thời gian qua, các hoạt động văn hoá giải trí ở Hải Phòng
đã có sự chuyển biến tích cực nhằm đáp ứng nhu cầu vui chơi giải trí của nhân
dân thành phố. Các loại hình này đã được phát triển một cách đa dạng hơn, từng
bước đáp ứng nhu cầu tinh thần ngày càng cao của công chúng thành phố, góp
phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân
tộc. Những mặt hạn chế trong lĩnh vực văn hoá giải trí thể hiện cả về phương diện
lãnh đạo quản lý và cả về tổ chức các hoạt động vui chơi giải trí. Đó là những bất
cập về nhận thức, quản lý, điều hành và giám sát, kiểm tra của các cơ quan có
trách nhiệm đối với lĩnh vực này.
3. Trên cơ sở dự báo về nhu cầu văn hoá giải trí cuả nhân dân thành phố Hải
Phòng trong thời gian tới, đề tài đã đề xuất một số phương hướng và giải pháp
nhằm đẩy mạnh phát triển văn hoá giải trí trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá. Hiện nay, tốc độ phát triển các loại hình của văn hoá giải trí
diễn ra rất mạnh mẽ, bao gồm cả xu hướng tích cực và tiêu cực, trong khi đó, các
chính sách và công tác quản lý văn hoá giải trí còn chưa theo kịp, hoặc còn lúng
túng, bị động. Do vậy, thành phố cần quan tâm hơn về việc ban hành, bổ sung
hoàn thiện các chính sách về lĩnh vực này để các lĩnh vực của văn hoá giải trí
thành phố Hải Phòng phát triển đúng hướng, góp phần xây dựng môi trường văn
hoá lành mạnh và sự phát triển toàn diện con người Hải Phòng trong thời kỳ đẩy
mạnh CNH, HĐH, hội nhập kinh tế quốc tế.
Trong quá trình thực hiện luận văn chúng tôi đã nhận được sự giúp đỡ quý báu
của Liên đoàn Lao động thành phố, Sở Văn hoá Thông tin, Sở Du lịch, Đài Phát
thanh và Truyền hình thành phố Hải Phòng, Viện Văn hoá và Phát triển - Học viện
CTQG Hồ Chí Minh, các thầy, cô giáo và các bạn đồng nghiệp. Xin chân thành cảm
ơn sự giúp đỡ quý báu đó.
Danh mục các công trình đã công bố của tác giả
có liên quan đến đề tài
1. Nguyễn Quang Linh (2006), "Tổ chức các hoạt động văn hóa vui chơi giải trí cho
công nhân lao động ở Thành phố Hải Phòng hiện nay", Thông tin Văn hóa và
phát triển, (9), tr.54-57.
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Đào Duy Anh (1938), Việt Nam văn hoá sử cương, Quan Hải tùng thư, Huế.
2. Bảo tàng Hải Phòng, (2005) Báo các tổng hợp một số hoạt động Bảo tồn -
Bảo tàng từ năm 2001 - 2005, Hải Phòng.
3. Bộ Văn hoá- Thông tin - Thể thao (1992), Mấy vấn đề văn hoá và phát triển ở
Việt Nam hiện nay, Hà Nội.
4. Bộ Văn hoá Thông tin (1994), Các văn bản pháp quy về văn hoá thông tin,
Tập 4, Hà Nội.
5. Bộ Văn hoá Thông tin (2000), Các văn bản pháp quy về văn hoá thông tin,
Tập 5, Hà Nội.
6. Phan Kế Bính (1990), Việt Nam phong tục, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
7. Nguyễn Văn Bính (1998), Phương pháp và tổ chức hoạt động Cung văn hoá,
Nhà văn hoá lao động trong thời kỳ đổi mới hiện nay, Luận Văn thạc sĩ Văn
hóa học, Đại học văn hoá, Hà Nội.
8. Nguyễn Văn Bính (2003), Giao tiếp và ứng xử với tư cách là thành tố văn hoá
trong hoạt động doanh nghiệp thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước, Luận án tiến sĩ Lịch sử, Viện Văn hoá thông tin, Hà Nội.
9. Đinh Thị Vân Chi (2001), Nhu cầu giải trí của thanh niên, Luận án tiến sĩ Xã
hội học, Đại học quốc gia, Hà Nội.
10. Đoàn Văn Chúc (1999), Xã hội học văn hoá, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội
11. Trần Tất Chủng (1997), "Còn không các trò vui chơi giải trí dân gian?", Tạp
chí Du lịch Việt Nam, (50), Hà Nội.
12. Công đoàn công ty LD du lịch quốc tế Hải Phòng, (2005), Báo cáo tóm tắt
một số hoạt động Công đoàn từ năm 2001 - 2005, Hải Phòng.
13. Công ty cổ phần thông tin kinh tế thương mại (2003) Hải Phòng, Thế và lực
trong thế kỷ XXI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
14. Cục Thống kê Hải Phòng, Báo cáo phân tích đời sống các tầng lớp dân cư
thành phố Hải Phòng năm 2004.
15. Cung Văn hoá LĐHN Việt Tiệp Hải Phòng (2006), Tổng hợp kết quả hoạt động từ
năm 2001 - 2005, Hải Phòng
16. Đại Bách khoa thư Xô viết (1985), Nxb Bách khoa toàn thư Xô Viết, M.,
(tiếng Nga).
17. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành
Trung ương (khoá VIII), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
18. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
19. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
20. Đảng bộ thành phố Hải Phòng (2005), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ
thành phố lần thứ XIII, Nxb Hải Phòng.
21. Đồ Sơn thắng cảnh và du lịch (1997), Nxb Hải Phòng.
22. Phạm Duy Đức (2004), Hoạt động giải trí ở đô thị Việt Nam hiện nay những
vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội.
23. Trịnh Minh Hiên (1993), Hải Phòng - Di tích lịch sử - Văn hoá, Nxb Hải Phòng.
24. Trịnh Minh Hiên (2006), Lễ hội truyền thống tiêu biểu Hải Phòng, Nxb Hải
Phòng.
25. Nguyễn Xuân Kính (chủ biên) (2002), Văn hóa dân gian trong đời sống đô
thị, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
26. Đinh Gia Khánh (1995), Văn hóa dân gian với sự phát triển của xã hội, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
27. Hữu Ngọc (1995), Hồ sơ Văn hoá Mỹ, Nxb Thế giới, Hà Nội.
28. C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin (1977), Về văn học nghệ thuật, Nxb Sự thật,
Hà Nội.
29. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, Tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
30. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, Tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
31. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, Tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
32. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, Tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
33. Hoàng Phê (chủ biên) (1988), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Khoa học xã hội, Hà
Nội.
34. Quá trình hình thành, phát triển thành phố và đặc tính người Hải Phòng
(1987), Nxb Hải Phòng.
35. Rodentan (1975), Từ điển triết học, Nxb Tiến bộ Mátxcơva, Bản Tiếng Việt,
Nxb Sự thật, Hà Nội.
36. Sở Kế hoạch và Đầu tư Hải Phòng, Kinh tế Hải Phòng 50 năm xây dựng và
phát triển (1955 - 2005), Nxb Thống kê, Hà Nội
37. Sở Thể dục Thể thao Hải Phòng (5/2006), Định hướng phát triển xã hội hoá
thể dục thể thao thành phố Hải Phòng năm 2006 - 2010.
38. Sở Văn hoá Thông tin - Uỷ ban DS - GĐ & Trẻ em thành phố Hải Phòng
(2006), Báo cáo Sơ kết 5 năm thực hiện Chỉ thị 03/2000/CT- TTg của Thủ
tưởng chính phủ về việc đẩy mạnh các hoạt động Văn hoá, vui chơi, giải
trí trẻ em.
39. Sở Văn hoá Thông tin Hải Phòng, Báo cáo tổng hợp quy hoạch ngành văn
hoá thông tin giai đoạn đến năm 2010.
40. Sở Văn hoá Thông tin Hải Phòng, Báo cáo hiện trạng văn hoá Hải Phòng từ
năm 1990 đến tháng 9/2002.
41. Sở Văn hoá Thông tin, Quy hoạch ngành Văn hoá Thông tin đến năm 2010
(Chuyên đề V - khôi phục, phát triển lễ hội truyền thống, văn hoá dân
gian, văn hoá làng xã) - Hải Phòng, tháng 10/2003.
42. Sở Văn hoá Thông tin Hải Phòng (2005), 50 năm xây dựng và phát triển 1955
- 2005, Nxb Hải Phòng.
43. Tạp chí Nghiên cứu lịch sử Hải Phòng (1988), Nxb Hải Phòng.
44. Văn Đức Thanh (2004), Về xây dựng môi trường văn hóa cơ sở, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
45. Hoàng Đình Thi (2004), Báo chí Hải Phòng với nhiệm vụ xây dựng và phát
triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, Luận văn
tốt nghiệp Đại học chính trị, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
46. Thành uỷ, Hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân thành phố Hải Phòng (2005),
Hải Phòng 50 năm chiến đấu, xây dựng và trưởng thành 1955 - 2005,
Nxb Hải Phòng.
47. Giang Thu (2006), Xuân về- hấp dẫn trò chơi tổ tôm điếm, Sở Văn hóa Thông
tin Hải Phòng Hướng dẫn nghiệp vụ văn hóa cơ sở.
48. Thư viện Hải Phòng, Báo cáo tổng hợp hoạt động thư viện từ năm 2001 -
2005, Hải Phòng.
49. Trần Thị Trâm (2005), "Vai trò của văn hoá dân gian trong các sân chơi trên
truyền hình", Tạp chí Nguồn sáng Dân gian, (3).
50. Trung tâm biên soạn Từ điển Bách khoa Việt Nam (1995), Từ điển bách khoa
Việt Nam, Hà Nội, Tập 3
51. ánh Tuyết (1996), "Du lịch vui chơi giải trí sẽ là ngành phát triển nhanh", Tạp
chí Du lịch Việt Nam, (37).
phụ lục
Phụ lục 1
Một số kết quả phát triển kinh tế - xã hội - văn hoá
của thành phố Hải Phòng 5 năm (2001 - 2005)
Đ.vị chỉ tiêu 2001 2002 2003 2004 2005
tính
Tỷ * Tổng sản phẩm trong 9.178 10.153 11,241 12.536 14,071
đồng nước (GDP)
- Tốc độ tăng trưởng % 9,1 10,40 10,64 10,71 12,25
USD 725,2 793,3 872,8 962,2 1.070,0 * GDP B/quân đầu người
Nghìn 1.723, 1.743, 1.754, 1.770, 1.784,2 * Dân số trung bình
người 5 4 2
- Tỷ lệ dân số đô thị % 45
Triệu 1,16 1,45 1,68, 2,12 2,43 * Thu hút khách Du lịch
lượt
Tỷ 319 441 457 464 546 *Doanh thu ngành D.lịch
đồng
% 11,7 9,5 6,7 4,5 3,0 * Tỷ lệ hộ nghèo
* Bưu chính viễn thông
7,4 - Số điện thoại/100dân Máy 9,9 12,3 14,9 17,6
1000 68 - Số người sử dụng Intenet 99 177 253 340
ng
Thuê - Thuê bao Intenet/100dân 0,23 0,33 0,58 0,82 1,09
bao
* Văn hoá
Triệu 0,18 - Tổng số sách xuất bản
bản
Triệu 10,7 - Tổng số Báo xuất bản
bản
- Số giờ phát sóng Đài Giờ/n 4,3 4,4 4,5 4,7 6,6
Tiếng nói VN + Đài TP gày
/năm
-Tỷ lệ số hộ được nghe đài % 75,0 95 95 98 98
- Số giờ phát sóng Truyền Giờ/n 14,60 15,50 18,60 20,0 20,0
gày hình Việt Nam + Đài TP
/năm
- Tỷ lệ số hộ được xem % 90 90 95 95 95
truyền hình
Nguồn: Sở Kế hoạch đầu tư Hải Phòng, Kinh tế Hải Phòng 50 năm xây dựng
và phát triển (1955-2005), Nxb Thống kê, Hà Nội, 2005.
Phụ lục 2
Một số đồ dùng lâu bền được người dân thành phố Hải Phòng sử dụng
Các đồ dùng lâu bền Đơn vị tính Năm
Tên đồ dùng %/100 hộ 2004
Xe máy 52,36
Máy điện thoại 42,37
Tủ lạnh 24,84
Đầu Video 49,14
Ti vi màu 87,63
Dàn nghe nhạc 16,45
Máy vi tính 7,2
Máy điều hoà nhiệt độ 3,01
Máy giặt, máy sấy quần áo 14,52
Bình tắm nước nóng 13,44
Nguồn: Cục Thống kê Hải Phòng, Báo cáo phân tích đời sống các tầng lớp
dân cư thành phố Hải Phòng năm 2004.
Phụ lục 3
Kết quả hoạt động bảo tồn - bảo tàng thời kỳ 2001-2005
Các hoạt động bảo tồn - bảo Đ.vị 2001 2002 2003 2004 2005 tàng tính
1-Tổng số Bảo tàng thuộc sở hữu 4 4 4 4 4
NN có trên địa bàn
2- Tổng số bảo tàng được xếp loại Loại 4 4 4 4 4
2
3- Tổng số hiện vật, tài liệu hiện Hiện 17.50 17.59 19.54
có 4 2 9 vật
4- Tổng số khách tham quan Ngườ 28.95 36.12 35.77 34.39 35.30
5 2 5 8 0 i
5- Tổng số di tích lịch sử, V.hoá 147 147 147 147 147 Di
tích và danh lam, thắng cảnh có trên
địa bàn
6- Tổng số di tích lịch sử, văn hoá - 96 96 96 96 96
và danh lam, thắng cảnh đã được
xếp hạng quốc gia.
* Tổng số khách tham quan Nghì 250 256 259 263 254
n
người
- Khách nước ngoài 12.00 15.00 15.50 16.20 17.00 -
0 0 0 0 0
- Khách trong nước 238 241 243,5 246,8 237,0 -
7- Tổng số di sản văn hoá phi vật 125 125 125 125 125 Di
sản thể có trên địa bàn (ghi tổng số và
liệt kê số loại) trong đó:
* Lễ hội 95 95 95 95 95 -
* Nghệ thuật biểu diễn dân gian 3 3 3 3 3 -
* Tôn giáo - tín ngưỡng dân gian 8 8 8 8 8 -
* Nghệ thuật tạo hình dân gian 3 3 3 3 3 -
* Nghề truyền thống 16 16 16 16 16 -
Nguồn:
- Sở Văn hoá Thông tin Hải Phòng - Báo cáo hiện trạng văn hoá Hải Phòng từ
năm 1990 đến tháng 9 năm 2002
- Bảo tàng Hải Phòng - Báo cáo tổng hợp hoạt động bảo tồn - bảo tàng từ 2002
- 2005
Phụ lục 4
Kết quả hoạt động thư viện thành phố Hải phòng thời kỳ 2001 - 2005
Các số liệu Đ/v 2001 2002 2003 2004 2005 tính
Thư 1- Tống số Thư viện có trên 28 28 28 28 28 viện địa bàn, trong đó:
- * Thư viện tổng hợp 1 1 1 1 1
- * Thư viện chuyên ngành 13 13 13 13 13
- * Thư viện Thiếu nhi 1 1 1 1 1
- * Thư viện quận, huyện.. 13 13 13 13 13
* Phòng đọc, tủ sách cơ sở Phòng 135 135 135 135 135 tủ
2- Tình hình hoạt động
* Tổng số vốn tài liệu hiện có 319.69 325.88 305.04 303.29 313.38 Bản 5 2 8 5 5
* Tổng số vốn tài liệu được bổ - 8.669 8.187 9.670 10.090 11.876 sung trong năm
* Số lượt sách báo được luân 311.12 320.71 360.60 384.95 403.40 Lượt 3 3 2 2 3 chuyển
* Tổng số thẻ được cấp trong Thẻ 6.380 7.794 7.665 7.642 8.131 năm
* Tổng số lượt bạn đọc trong 153.41 159.01 184.85 180.58 191.80 Lượt năm 9 1 1 8 4
Nguồn: Thư viện Hải Phòng, Báo cáo tổng hợp hoạt động thư viện thành
phố Hải Phòng từ năm 2001 - 2005.
Phụ lục 5
Bảng tổng hợp kết quả hoạt động của Cung Văn hoá LĐHN Việt Tiệp
thời kỳ 2003 - 2005
TT Nội dung hoạt động Đ/v tính 2003 2004 2005
I/văn hoá nghệ thuật
1 Số lượng câu lạc bộ 9 11 14 CLB
Số lượng hội viên (được cấp thẻ) Người 1.019 1.159 486
Số buổi sinh hoạt 218 479 490 Buổi
2 Biểu diến văn hoá nghệ thuật (ca Chương nhạc, thời trang, chương trình thơ, 12 14 18 trình dạ hội
Chương 3 Tổ chức - phục vụ Hội diễn 4 11 12 trình
Chương 4 Chuyên đề, tập huấn nghiệp vụ 2 4 8 trình
Triển lãm (Tranh, ảnh, tem, thư 5 4 5 5 Cuộc pháp, mỹ thuật
6 Giao lưu văn hoá, trao đổi kinh Cuộc 11 13 14 nghiệm
7 Các lớp đào tạo Lớp 4 10 13 Số lượng học viên Lượt 120 300 390 người
Sinh hoạt Văn hoá Nghệ thuật tại Lượt/ 8
Cung VH (tham dự các hoạt động) người/ 500 580 650
ngày
II/ Thể dục thể thao
1 Số lượng CLB CLB 13 13 14
Số lượng hội viên (được cấp thẻ) Người 1.412 1.316 1.556
Số buổi sinh hoạt Buổi 415 437 510
Tổ chức Giải, Hội thao 2 Cuộc 6 9 3
Tập huấn 3 Đợt 4 5 4
4 Giao lưu, thi đấu giao hữu Cuộc 12 13 6
5 Các lớp đào tạo Lớp 10 12 8
Số lượng học viên Người 400 500 600
Tham gia các giải 6 Lần 5 4 4
Thành tích (tại các giải đấu thành Giải, Huy 7 7 18 38 phố, quốc gia, quốc tế) chương
Lượt/ 8 Sinh hoạt TDTT tại Cung văn hoá
người/ 1.100 980 1.100
ngày
Nguồn: Cung Văn hoá LĐHN Việt Tiệp Hải Phòng - Báo cáo tổng hợp kết
quả hoạt động từ năm 2003 - 2005.
Phụ lục 6
Số liệu tổng hợp về trung tâm văn hoá, Nhà văn hoá ở Hải Phòng
thời kỳ 2001 - 2005
Văn hoá thông tin cơ sở Đơn 2001 2002 2003 2004 2005 vị
Nhà - Nhà Văn hoá tỉnh/thành 01 01 01 01 01 VH
- Trung tâm Thông tin - T. tâm 01 01 01 01 01 triển lãm Thành phố
- Nhà Thiếu nhi (cả tỉnh/ Nhà 03 03 03 03 03 thành và quận huyện
- Cung VH Công đoàn quản Cung 01 01 01 01 01 lý VH
- Cung VH Thanh niên - 01 01 01 01 01
- Nhà VH, Trung tâm VHTT NVH 12 12 12 12 12 quận, huyện
- NVH xã, phường CLB 169 169 169 169 169
* Tổng số các đội Văn nghệ Đội 497 497 497 497 497 quần chúng
* Tổng số các liên hoan, hội Cuộc 47 47 47 47 47 diễn
* Tổng số nhà Bưu điện văn Nhà 142 142 142 142 142 hoá xã
- Số sách, báo, tạp chí có Bản 14.800 14.800 14.800 14.800 14.800 trong Bưu điện văn hoá xã
Nguồn: Sở Văn hoá Thông tin Hải Phòng
-Báo cáo hiện trạng văn hoá Hải Phòng từ năm 1990 đến tháng 9 năm 2002.
- Báo cáo tổng hợp một số hoạt động văn hoá thông tin cơ sở thành phố Hải
Phòng năm 2003- 2005
Phụ lục 7
Kết quả hoạt động TDTT ở Hải Phòng thời kỳ 2001 - 2005
Đơn vị Nội dung 2001 2002 2003 2004 2005 tính
* Số người tập luyện TDTT % 19 19,5 19,5 20 20,5
thường xuyên
* Gia đình Thể thao % 6,5 7 7,2 7,3 7,8
* Câu lạc bộ TDTT cơ sở Câu lạc 2.025 2.150 2.200 2.215 2.230
bộ
% * Số trường giảng dạy nội 75 80 90 90 91
khoá đúng quy định
* Số trường tổ chức ngoại % 35 40 50 52 52
khoá chất lượng tốt
* Tổ chức các cuộc thi đấu Cuộc 35 35 37 38 40
Thể thao thành phố
Nguồn: Sở Thể dục Thể thao Hải Phòng, Định hướng phát triển xã hội hoá
thể dục thể thao thành phố Hải Phòng 2006-2010, 5/2006.
Phụ lục 8
Bảng tổng hợp hoạt động báo chí ở thành phố Hải Phòng
thời kỳ 2001-2005
Đơn 2001 2002 2003 2004 2005 vị
1- Số lượng các tờ báo của
thành phố
01 01 01 01 01 * Báo chính trị - xã hội tờ
01 01 01 01 01 * Báo chuyên ngành -
03 03 03 03 03 * Tạp chí chuyên ngành -
* Các hình thức xuất bản nội 17 17 17 17 17 bộ, thông tin KH, nghiệp vụ
2- Số lượng báo, tạp chí Bản trên được phát hành/năm
* Báo của Đảng bộ, chính 4 triệu 4 triệu 4 triệu 4 triệu 4 triệu - quyền thành phố
- * Báo An ninh Hải Phòng 2 triệu 2 triệu 2 triệu 2 triệu 2 triệu
* Tạp chí tổng hợp Bản
- - Tạp chí Sinh hoạt chi bộ 6.500 6.500 6.500 6.500 6.500
- - Tạp chí Cửa biển 6.600 6.600 6.600 6.600 6.600
- Tạp chí Khoa học, Kinh tế 15.900 15.900 15.900 15.900 15.900 - HP
* Tạp chí Chuyên ngành -
- Thông tin Khoa học kinh tế 2.400 2.400 2.400 2.400 2.400 -
-Thông tin Nông nghiệp, 2.400 2.400 2.400 2.400 2.400 - Thuỷ sản
- Tạp chí Văn hoá Thông tin 2.000 2.000 2.000 2.000 2.000 - HP
* Các hình thức Xuất bản nội bản 3.000 3.000 3.000 3.000 3.000 bộ
Nguồn: Hoàng Đình Thi, Báo chí Hải Phòng với nhiệm vụ xây dựng và phát
triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, Luận văn tốt nghiệp
Đại học chính trị, Học viện CTQG Hồ Chí Minh, năm 2004.
Phụ lục 9
Bảng tổng hợp hoạt động phát thanh - truyền hình ở thành phố Hải Phòng thời
kỳ 2001-2005
Đài 2001 2002 2003 2004 2005
1- Tổng số đài Phát thanh, TH
- * Đài PTTH trực thuộc thành phố 01 01 01 01 01
* Đài PT trực thuộc huyện 10 10 10 10 10
- * Đài truyền thanh xã, phường 216 216 216 216 216
* Tỷ lệ huyện, thị được phủ sóng
92,30 92,30 92,30 92,30 trong địa bàn thành phố (Phần 92,30
% trăm được tính bằng số lượng (12/1 (12/1 (12/1 (12/1 (12/1
huyện, thị trên tổng số huyện, thị 3) 3) 3) 3) 3)
có trong tỉnh thành)
* Tổng số cán bộ hiện có ở khu Cán 340 340 340 340 340 vực báo chí, phát thanh, truyền bộ hình (do địa phương quản lý)
* Số giờ phát sóng Đài Tiếng nói Ngh.g
Việt Nam + đài thành phố iờ 4.40 4.50 4.70 6.60 6,70
/năm
* Tỷ số hộ được nghe đài % 95 95 98 987 98
* Số giờ phát sóng Đài Truyền Ngh.g
14.60 15.50 18.60 20.00 20.00 hình Việt Nam + đài thành phố iờ
/năm
* Tỷ số hộ được xem truyền hình % 90 90 95 95 95
Nguồn:
- Hoàng Đình Thi, Báo chí Hải Phòng với nhiệm vụ xây dựng và phát triển
nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, Luận văn tốt nghiệp Đại
học chính trị.
- Văn kiện trình Đại hội lần thứ XIII - Đảng bộ thành phố Hải Phòng, 12/2005
Phụ lục 10
Tổng hợp hoạt động của các đoàn Nghệ thuật thành phố Hải Phòng
thời kỳ 2001 - 2005
Hoạt động biểu diễn đ.vị 2001 2002 2003 2004 2005
* Tổng số Đoàn NT chuyên Đoàn 13 13 13 13 13 nghiệp có trên địa bàn, trong đó:
- Đoàn thuộc tỉnh/thành 5 5 5 5 5 -
* Tổng số đoàn NT chia theo loại 13 13 13 13 13 - hình
- Cải lương 2 2 2 2 2 -
- Chèo 1 1 1 1 1 -
- Kịch nói 2 2 2 2 2 -
- Múa rối 1 1 1 1 1 -
- Xiếc 2 2 2 2 2 -
- Ca múa nhạc 5 5 5 5 5 -
* Tổng số các vở diễn, chương vở 26 24 24 20 20 trình mới dàn dựng trong năm
- Sân khấu 16 14 14 14 14 -
- Ca múa nhạc 10 10 10 6 6 -
* Tổng số buổi biểu diễn nghệ Buổi 1.500 1.521 1.642 1.551 1.587 thuật, trong đó:
- Của các đơn vị địa phương 800 812 916 899 900 -
- Của các đoàn tư nhân 700 589 726 652 687 -
* Tổng số lượt người xem biểu Lượt
diễn nghệ thuật, trong đó: nghìn 1.205,0 1.116,0 1.108,0 1.092,0 1.112,0
người
- Của các đơn vị địa phương 645.00 603.00 750.00 710.00 790.00 lượt 0 0 0 0 0
- Của các đoàn tư nhân 560.00 513.00 358.00 382.00 322.00 - 0 0 0 0 0
* Tổng số các buổi BDNT phục - 247 223 251 233 265 vụ vùng sâu, vùng xa
* Doanh thu( 5 đoàn Nghệ thuật tỷ 1,1 1,05 1.2 đồng của TP)
Nguồn: Sở Văn hoá Thông tin Hải Phòng
- Báo cáo hiện trạng văn hoá Hải Phòng từ năm 1990 đến tháng 9 năm 2002.
- báo cáo tổng hợp hoạt động của các đoàn nghệ thuật Hải Phòng từ năm
2001 - 2005
Phụ lục 11
Số liệu tổng hợp về tình hình hoạt động của Điện ảnh thành phố Hải Phòng thời
kỳ 2001 - 2005
Điện ảnh đơn vị 2001 2002 2003 2004 2005
1- Tổng số phim phát hành bộ 27 42 62 87 106 trong năm, (phim truyện)
2- Phim Video phát hành
trong năm (cả phim - 16 34 50 51 50
Tr.hình):
3- Số đơn vị chiếu phim Đơn vị 04 04 04 04 04
+ Rạp Rạp 02 02 03 03 04
+ Đội chiếu bóng lưu động Đội 02 02 02 02 02
4- Phim chiếu lưu động Buổi 288 288 288 288 288
5- Tổng số lượt người xem Lượt 43.26 50.08 60.00 78.00 90.00 các buổi chiếu phim lưu người 0 0 0 0 0 động
6- Số cửa hàng băng hình Cửa hàng 210 186 152 122 106
Nguồn: Sở Văn hoá Thông tin Hải Phòng- Báo cáo hiện trạng văn hoá Hải
Phòng từ năm 1990 đến tháng 9 năm 2002
- Trung tâm Phát hành phim và Chiếu bóng Hải Phòng - Báo các tổng hợp một
số hoạt động từ năm 2001 2005
Phụ lục 12
Số liệu về số lượng các quán Bar, Karaoke, Vũ trường
ở thành phố Hải Phòng thời kỳ 2001-2005
Số điểm 2001 2002 2003 2004 2005
Karaoke 433 402 408 382 265
Vũ trường 13 13 11 11 9
Ca nhạc phòng trà (bar) 21 21 19 8 8
Nguồn: Sở Văn hoá Thông tin thành phố Hải Phòng năm 2005
Phụ lục 13
Kết quả hoạt động du lịch ở thành phố Hải Phòng
thời kỳ 2001-2005
Đ/vị Chỉ tiêu 2001 2002 2003 2004 2005 tính
1- Mạng lưới
- Khách sạn, trong đó cái 126 134 171 193 221
+ Khách sạn 3 sao trở lên - 4 6 7 8 11
+ Công suất sử dụng % 51 53 46 48 51 phòng
2- Tổng lượt khách du 1000 1,234 1,722 1,883 2,035 2,429 lịch lượt
+ Khách quốc tế 1000 373,6 558,9 602 495,5 511,5 lượt
+ Khách nội địa 1000 860 1,163 1,281 1,540 1,918 lượt
3- Doanh thu ngành du tỷ 319 441 457 464 546 lịch đồng
Nguồn: Sở Kế hoạch đầu tư Hải Phòng, Kinh tế Hải Phòng 50 năm xây dựng
và phát triển (1955-2005), Nxb Thống kê, Hà Nội, 2005.
Phụ lục 14
Kết quả nộp ngân sách nhà nước của Casino Đồ Sơn từ năm 2001- 5005
2001 2002 2003 2004 2005
25 tỷ 570 triệu 35 tỷ 285 triệu 25 tỷ 978 triệu 25 tỷ 763 triệu 24 tỷ125 triệu
Nguồn: Công đoàn Công ty Liên doanh Du lịch quốc tế Hải Phòng - Báo cáo tóm
tắt một số hoạt động từ năm 2001 - 2005.
Phụ lục 15
Tổng hợp chi ngân sách cho các hoạt động văn hoá - xã hội
ở thành phố Hải Phòng thời kỳ 2001 - 2003
Đơn vị: tỷ đồng
Bình quân Stt Ngành 2001 2002 2003 năm
1 Văn hoá 15,66 17,62 16,79 16,69
2 Giáo dục - đào tạo 337 325,1 380 347,3
3 Y tế 93,10 97,3 109,46 99,6
4 Thể dục thể thao 15,20 15,3 16,68 15,7
5 Các ngành khác 55,56 51,88 62,30 56,58
Cộng 516,52 507,2 585,23 536,3
1 Văn hoá 3,0 3,5 2,9 3,1
2 Giáo dục - đào tạo 65,2 64,1 64,9 64,7
3 Y tế 18,0 19,2 18,7 18,6
4 Thể dục thể thao 2,9 3,0 2,8 2,9
5 Các ngành khác 10,8 10,2 10,6 10,5
Cộng 100 100 100 100
Nguồn: Sở Văn hoá Thông tin Hải Phòng - Báo cáo tổng hợp quy hoạch ngành văn
hoá thông tin giai đoạn đến năm 2010.
Phụ lục 16
Chi ngân sách cho sự nghiệp biểu diễn nghệ thuật (2000 - 2002)
Đơn vị: triệu đồng
Loại nghệ thuật 2000 2001 2002
650 740 327 1 Kịch nói
953 508 367 2 Chèo
450 495 433 3 Cải lương
417 530 695 4 Ca múa nhạc
350 410 325 5 Rối
2.147 2.820 2.683 Tổng số
Nguồn: Nguồn: Sở Văn hoá Thông tin Hải Phòng - Báo cáo tổng hợp quy hoạch
ngành văn hoá thông tin giai đoạn đến năm 2010.
Phụ lục 17
Điều chỉnh quy hoạch các khu công nghiệp tập trung
Khu cụm công nghiệp Khu đô thị mới
I. Khu vực ven sông Bạch Đằng
1. Khu CN Minh Đức - Tràng Kênh - Thị trấn Minh Đức mở rộng quy
2. Khu CN Bến Rừng mô 65.000 dân
3. Khu CN Đình Vũ - Khu đô thị đông nam TP, quy mô
175.000 dân; 2.350 ha
II. Khu vực ven sông Cấm
1. Khu CN Lê Thiện-Đại Bản-An - Đô thị bắc sông Cấm, quy mô:
Hưng 120.000 dân, 3030 ha
2. Khu CN Nômura - Đô thị tâybắc TP quy mô: 120.000
dân, 1650 ha
3. Khu CN Bến Kiền
4. Khu CN Vật Cách-Nam Sơn -Quận Hồng Bàng mở rộng
5. Khu CN Thượng Lý-Sở Dầu quy mô 191.000 dân, 2060 ha
6. Khu CN An Đông
7. Khu CN Đông Hải - Quận Hồng Bàng mở rộng
quy mô 187.000 dân, 1.241 ha
III. Khu ven sông Lạch Tray
1. Cụm CN An Tràng-Cống Đôi - Quận Kiến An mở rộng
quy mô 120.000 dân, 2.955 ha
2. Cụm CN Tiên Hội-Quán Trữ
3. Cụm CN Đông Hoà
4. Cụm CN Vĩnh Niệm - Quận Lê Chân mở rộng
quy mô 200.000 dân, 1.156 ha
- Đường 353, quy mô khoảng 100.000 dân, 2300 5. Cụm CN Thành Tô-Hải Thành
ha
Nguồn: Sở Văn hoá Thông tin Hải Phòng -Báo cáo tổng hợp quy hoạch ngành văn
hoá thông tin giai đoạn đến năm 2010.