ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM LÊ THỊ VINH VĂN HÓA HÀ NỘI TRONG TIỂU THUYẾT “SỐNG MÃI VỚI THỦ ĐÔ” CỦA NGUYỄN HUY TƯỞNG LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM THÁI NGUYÊN - 2019

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM LÊ THỊ VINH VĂN HÓA HÀ NỘI TRONG TIỂU THUYẾT “SỐNG MÃI VỚI THỦ ĐÔ” CỦA NGUYỄN HUY TƯỞNG Ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 8 22 01 21 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Thị Bích Thu THÁI NGUYÊN - 2019

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn: “Văn hóa Hà Nội trong tiểu thuyết “Sống

mãi với thủ đô” của Nguyễn Huy Tưởng” là công trình nghiên cứu của cá nhân

tôi dưới sự hướng dẫn của PGS.TS. Nguyễn Thị Bích Thu. Các nội dung nêu

trong luận văn là kết quả làm việc của tôi và chưa được công bố trong bất cứ một

công trình nào khác.

Các số liệu, kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực, khách quan.

Các thông tin trích dẫn trong luận văn đã được chỉ rõ nguồn gốc.

Thái Nguyên, tháng 5 năm 2019

Tác giả luận văn

Lê Thị Vinh

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

LỜI CẢM ƠN

Bằng sự kính trọng và lòng biết ơn sâu sắc, tôi xin chân thành cảm ơn các

thầy cô giáo khoa Ngữ văn, khoa Sau đại học, cán bộ phòng quản lý khoa học

trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên đã tạo điều kiện thuận lợi cho

tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu tại trường.

Đặc biệt, tôi xin trân trọng cảm ơn PGS.TS. Nguyễn Thị Bích Thu, người

đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực hiện đề tài.

Cuối cùng, tôi xin được bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc tới gia đình, người

thân, đồng nghiệp cùng bạn bè đã động viên, quan tâm chia sẻ và tạo mọi điều

kiện giúp tôi hoàn thành tốt khoá học này.

Thái Nguyên, tháng 5 năm 2019

Tác giả luận văn

Lê Thị Vinh

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................. i

LỜI CẢM ƠN ...................................................................................................... ii

MỤC LỤC .......................................................................................................... iii

MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1

1. Lí do chọn đề tài .............................................................................................. 1

2. Lịch sử vấn đề .................................................................................................. 3

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................ 11

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 12

5. Phương pháp nghiên cứu: .............................................................................. 12

6. Đóng góp của luận văn .................................................................................. 12

7. Cấu trúc luận văn ........................................................................................... 13

Chương 1: GIỚI THUYẾT KHÁI NIỆM VĂN HÓA VÀ SỰ NGHIỆP

SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN HUY TƯỞNG ................................................. 14

1.1. Giới thuyết khái niệm ................................................................................. 14

1.1.1. Khái niệm về “văn hóa” và “văn hóa Hà Nội” ........................................ 14

1.1.2. Mối quan hệ giữa văn hóa và văn học ..................................................... 20

1.1.3. Tiếp cận văn học từ góc nhìn văn hóa ..................................................... 22

1.2. Sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng .............................................. 24

1.2.1. Tiểu sử và hành trình sáng tác của nhà văn Nguyễn Huy Tưởng ........... 24

1.2.2. Tiểu thuyết Nguyễn Huy Tưởng ............................................................. 28

Tiểu kết chương 1 .............................................................................................. 33

Chương 2: DẤU ẤN VĂN HÓA HÀ NỘI TRONG TIỂU THUYẾT

SỐNG MÃI VỚI THỦ ĐÔ CỦA NGUYỄN HUY TƯỞNG ......................... 34

2.1. Bức tranh thiên nhiên mang dấu ấn văn hóa trong tiểu thuyết Sống mãi

với Thủ đô của Nguyễn Huy Tưởng. ................................................................. 34

2.2. Đời sống văn hóa - xã hội Việt Nam trong tiểu thuyết Sống mãi với Thủ

đô của Nguyễn Huy Tưởng ............................................................................... 40

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

2.3. Con người - chủ thể văn hóa trong tiểu thuyết Sống mãi với Thủ đô của

Nguyễn Huy Tưởng ........................................................................................... 45

2.3.1. Con người Hà Nội hào hoa, thanh lịch .................................................... 45

2.3.2. Con người có bản lĩnh và nhân cách cao đẹp .......................................... 48

Tiểu kết chương 2 .............................................................................................. 61

Chương 3: MỘT SỐ PHƯƠNG THỨC THỂ HIỆN DẤU ẤN VĂN

HOÁ HÀ NỘI TRONG TIỂU THUYẾT SỐNG MÃI VỚI THỦ ĐÔ

CỦA NGUYỄN HUY TƯỞNG ...................................................................... 62

3.1. Nghệ thuật xây dựng nhân vật .................................................................... 62

3.1.1. Nghệ thuật miêu tả ngoại hình nhân vật .................................................. 62

3.1.2. Nghệ thuật miêu tả cử chỉ, hành động nhân vật ...................................... 68

3.1.3. Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật .......................................................... 73

3.2. Ngôn ngữ .................................................................................................... 80

3.3. Hệ thống biểu tượng văn hóa trong tiểu thuyết Sống mãi với Thủ đô

của Nguyễn Huy Tưởng .................................................................................... 83

3.3.1. Biểu tượng và biểu tượng trong văn học ................................................. 83

3.3.2. Biểu tượng văn hóa Hà Nội nổi bật trong tiểu thuyết Sống mãi với

Thủ đô của Nguyễn Huy Tưởng ........................................................................ 85

Tiểu kết chương 3 .............................................................................................. 93

KẾT LUẬN ....................................................................................................... 94

TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 96

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

1.1. Nguyễn Huy Tưởng là một tên tuổi tiêu biểu của nền văn học Việt

Nam hiện đại. Ông bước vào làng văn hơi muộn, mặc dù từ năm 1930, trong nhật

ký của mình, Nguyễn Huy Tưởng đã viết “Phận sự của một người tầm thường

như tôi muốn tỏ lòng yêu nước thì chỉ có việc viết văn quốc ngữ” nhưng mãi đến

thập kỷ 40 ông mới thực sự cầm bút. Trong ý thức sáng tạo của mình , Nguyễn

Huy Tưởng luôn suy tư, nghiền ngẫm và lựa chọn để có được sự thống nhất, hòa

quyện giữa ý thức công dân và phẩm chất nghệ sĩ trong sáng tác của mình. Gần

20 năm hiện diện trong lĩnh vực văn học nghệ thuật, Nguyễn Huy Tưởng luôn

hướng tới sự thăng hoa trong sáng tạo, mong cho sản phẩm tinh thần của mình

góp phần tô điểm cho nền văn hóa dân tộc. Trong quá trình sáng tác, Nguyễn

Huy Tưởng đến với nhiều thể loại: thơ, truyện ngắn, tùy bút, tiểu thuyết, kịch

bản sân khấu, kịch bản phim, truyện viết cho thiếu nhi. Ở địa hạt nào, Nguyễn

Huy Tưởng cũng có những tác phẩm đồng hành với công chúng và người đọc.

1.2. Nguyễn Huy Tưởng được xem là nhà văn đa tài ở địa hạt văn xuôi.

Ông hầu như đụng bút trên hầu hết thể loại như : nhật ký, ký sự, phóng sự, truyện

ngắn, đặc biệt là tiểu thuyết. Đối với nền văn học Việt Nam hiện đại, Nguyễn

Huy Tưởng là một trong số hiếm hoi những tiểu thuyết gia có sở trường về đề tài

lịch sử. Với Đêm hội Long Trì, An Tư, Sống mãi với thủ đô, Lá cờ thêu sáu

chữ vàng…Nguyễn Huy Tưởng đã xác lập được vị trí của mình trên văn đàn dân

tộc. Dựa vào “những dòng viết ngắn ngủi và hóa thạch” của chính sử, bằng tài

năng vốn có, Nguyễn Huy Tưởng sáng tạo và hư cấu, đặt ra những vấn đề lớn

lao về đất nước, con người và nghệ thuật, bằng văn học làm nên sức sống của sử

học. Những vấn đề xưa và nay, quá khứ và hiện tại, lịch sử và thời sự luôn giao

hòa, phối trộn trong cảm hứng sáng tạo của Nguyễn Huy Tưởng, gợi không khí

rất gần mà rất xa, đượm hồn nước trong cái nhìn của nhà văn, nhà văn hóa

Nguyễn Huy Tưởng.

1.3. Trong quá trình nghiên cứu, tìm hiểu các sáng tác của Nguyễn Huy

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Tưởng, chúng tôi nhận thấy tiểu thuyết của ông in đậm dấu ấn văn hóa Việt Nam,

đặc biệt là dấu ấn văn hóa Hà Nội. Với một nhà văn hiểu biết sâu rộng về Hà

Nội, Nguyễn Huy Tưởng đã tìm thấy mảnh đất riêng của mình, bằng những liên

tưởng đối chiếu giữa kiến thức trong sách vở và với những trải nghiệm trong

cuộc đời, Hà Nội đã vào văn ông, “làm nên toàn bộ hồn cốt và đường nét trong

văn ông” khiến độc giả không chỉ “yêu tác giả tiểu thuyết” mà còn yêu quý thêm

“Hà Nội trung tâm tim óc của cả nước. Qua bao triều đại chế độ, cái tim óc bền

dẻo vĩ đại ấy đã đập đều trên chín thế kỉ rưỡi”[50].

1.4. Văn học là một bộ phận hợp thành của toàn thể cấu trúc văn hóa. Bất

kì tác phẩm văn học ở thời kì nào cũng đều mang dấu ấn văn hóa của thời kì đó.

Do vậy, khi nghiên cứu một tác phẩm văn học, chúng ta cần tìm hiểu những giá

trị văn hóa được thể hiện trong tác phẩm văn học đó. Nhất là trong giai đoạn hội

nhập toàn cầu như hiện nay thì việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc của mỗi

quốc gia đang là vấn đề được đặt lên hàng đầu. Nhận biết được điều này nên

chúng tôi mong muốn đi sâu nghiên cứu sáng tác của một tác giả cụ thể theo

hướng tiếp cận văn hóa. Chúng tôi lựa chọn tiểu thuyết của Nguyễn Huy Tưởng,

đặc biệt với tiểu thuyết Sống mãi với Thủ đô làm đối tượng nghiên cứu. Bởi

trong những công trình nghiên cứu các sáng tác của ông, các nhà nghiên cứu chủ

yếu đi sâu vào khai thác những yếu tố mang tính lịch sử và cách mạng mà chưa

có công trình nào nghiên cứu một cách chuyên sâu, có hệ thống về tiểu thuyết

của ông theo hướng liên ngành văn hóa - văn học.

1.5. Sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng đã được đưa vào chương trình học

ở đại học và các trường phổ thông hiện nay. Trong nhà trường phổ thông, tác

phẩm của Nguyễn Huy Tưởng được giảng dạy ở cả ba cấp học: Tiểu học, Trung

học cơ sở và Trung học phổ thông với ba trích đoạn văn bản tác phẩm khác nhau

ở sách giáo khoa Tiếng Việt và Ngữ Văn. Cụ thể: văn bản Bóp nát quả cam trích

từ truyện Lá cờ thêu sáu chữ vàng (Tiếng Việt lớp 2); văn bản Bắc Sơn trích

hồi 4 kịch Bắc Sơn (Ngữ Văn 9); văn bản Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài trích kịch

Vũ Như Tô (Ngữ văn 11). Nghiên cứu vấn đề này, chúng tôi mong phần nào

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

luận văn sẽ là tài liệu tham khảo đối với các thầy cô giáo và các bạn học sinh,

sinh viên trong việc giảng dạy, học tập tác phẩm của Nguyễn Huy Tưởng ở các

cấp học.

Từ những lí do trên cùng với niềm say mê và lòng kính trọng, khâm phục

tài năng Nguyễn Huy Tưởng, đặc biệt yêu thích tiểu thuyết của ông, chúng tôi

lựa chọn đề tài: “Văn hóa Hà Nội trong tiểu thuyết Sống mãi với Thủ đô của

Nguyễn Huy Tưởng”.

2. Lịch sử vấn đề

Khi nội lực sáng tạo đang dồi dào thì cơn bạo bệnh đã buộc Nguyễn Huy

Tưởng phải vĩnh biệt dương thế. Nhưng di sản văn học cùng với những trang

nhật ký tư tưởng của nhà văn vẫn được lưu giữ và đã trở thành đối tượng cuốn

hút sự quan tâm của giới nghiên cứu, phê bình và giảng dạy văn học. Tác phẩm

của ông vẫn là đối tượng để độc giả và giới phê bình, nghiên cứu và hơn một lần

khám phá và lý giải những ý tưởng phong phú, sâu sắc tiềm ẩn trong sáng tác

của ông trên những chiều kích mới, vượt qua những khía cạnh bất cập một thời.

Cho đến nay đã có rất nhiều công trình nghiên cứu của người đi trước về sự

nghiệp văn chương của Nguyễn Huy Tưởng nói chung và về tiểu thuyết nói riêng.

Khi thực hiện đề tài, chúng tôi có những thuận lợi nhất định khi kế thừa, tham

khảo những công trình mang tính tập hợp như “Nguyễn Huy Tưởng - về tác gia

và tác phẩm” (NXB Giáo dục - 2007), “Nguyễn Huy Tưởng - khát vọng một đời

văn” (NXB Văn hóa thông tin - 2001), “Nhà văn Nguyễn Huy Tưởng từ khởi

nguồn Dục Tú - Đông Anh” (NXB Kim Đồng - 2015). Ngoài ra các nhà nghiên

cứu vẫn tiếp tục phân tích, bình giá tác phẩm của nhà văn thông qua các bài viết

trên tạp chí, đề tài luận văn, luận án. Trên cơ sở đó, chúng tôi tập hợp thành

những khía cạnh liên quan đến đề tài như sau:

2.1. Những ý kiến đánh giá về tiểu thuyết của Nguyễn Huy Tưởng

Trong sự nghiệp sáng tác của mình, Nguyễn Huy Tưởng đặc biệt tâm

huyết với lịch sử, văn hóa quê nhà, đó là vùng quê ngoại thành Hà Nội. Chính vì

vậy mà ông gắn bó với mảnh đất Thăng Long bằng mối tơ duyên kì lạ. Gần hai

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

mươi năm trời lao động sáng tạo, Nguyễn Huy Tưởng đã viết về Hà Nội hoặc

những gì dính dáng đến Hà Nội, tính theo tỷ lệ phần trăm chiếm trên một nửa

khối lượng sáng tạo của nhà văn. Qua đó, nhà văn thể hiện sự am hiểu sâu sắc

tâm tư, cá tính của con người Thủ đô, cũng như những truyền thống văn hóa,

những giai thoại lịch sử của vùng đất ngàn năm văn hiến này. Có lẽ vì thế mà

Vương Trí Nhàn đã từng khẳng định ông là “một trong những người xứng đáng

nhất với danh hiệu nhà văn Hà Nội”.

Ngay nhan đề, tên gọi của những đứa con tinh thần Đêm hội Long Trì,

An Tư, Sống mãi với Thủ đô…đã rất gợi, bộc lộ cảm xúc thăng hoa của trái tim

nghệ sĩ nơi nhà văn Nguyễn Huy Tưởng. Nguyễn Minh Châu đã từng bị lôi cuốn

bởi các sáng tác về Hà Nội của Nguyễn Huy Tưởng “Những cái tên sách gợi lên

hình ảnh một cái đài tưởng niệm bằng ngôn ngữ, một vòng nguyệt quế từ bàn tay

Nguyễn Huy Tưởng đặt lên trán những trai thanh gái lịch của Hà Nội rất giàu

lòng yêu nước”[7].

Đọc Nguyễn Huy Tưởng, ai cũng nhận ra cảm hứng lịch sử bao trùm phần

lớn các tác phẩm. Lần trở lại nhật ký năm 1932, khi ông mới hơn 20 tuổi, ta hiểu

thêm rằng con người ấy từ tuổi trẻ đã nặng lòng với lịch sử dân tộc đến thế nào.

Ông viết: “Người không biết lịch sử nước mình là con trâu đi cày ruộng. Cày

với ai cũng được, mà cày ruộng nào cũng được”[21].

Như một sự sắp đặt của số phận, những sáng tác văn xuôi đầu tiên Đêm

hội Long Trì (1942), An Tư (1943), và sáng tác cuối cùng của Nguyễn Huy

Tưởng, tiểu thuyết Sống mãi với Thủ đô đều viết về đề tài lịch sử, về Thăng

Long. Nhà văn Nguyễn Tuân trong lời bạt cuốn Sống mãi với Thủ đô đã có

cảm nhận tinh tế: “Đọc lại những tiểu thuyết lịch sử, kể cả Sống mãi với Thủ

đô, người đọc vẫn thấy gây gây mùi khói vấn vương ngàn năm Thăng Long

chốn cũ”[50]. Nguyễn Tuân đã vô cùng yêu mến và không khỏi nuối tiếc những

nhân vật trong tiểu thuyết Sống mãi với Thủ đô mà Nguyễn Huy Tưởng chưa

kịp “tác thành” đường đi nước bước của họ, ông cũng say trong “khí hậu của

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

thủ đô” và khung cảnh “bừng bừng cháy lên” của Hà Nội trong cuộc đụng độ

với thực dân Pháp mà Nguyễn Huy Tưởng tái tạo trong Sống mãi với Thủ đô.

Bằng ngôn ngữ của riêng mình, Nguyễn Tuân viết: “Tôi coi tiểu thuyết này như

một bức tranh có nhiều đức tính truyền cảm mà tôi chỉ muốn được làm một

người thợ mộc cố tìm cho tác giả nó một bộ khung tương xứng bằng gỗ tốt, gỗ

quý”[50].

Trong bài Vài điều ghi nhận được trên một số tác phẩm văn học gần

đây - Văn nghệ, 9 - 1961, Nhà văn Như Phong đã cảm nhận được bước ngoặt

mới trong quá trình sáng tạo của Nguyễn Huy Tưởng mà Sống mãi với thủ đô là

một minh chứng “Tập tiểu thuyết chưa trọn vẹn này đã làm cho ta thấy được cái

tính chất phức tạp của thực tế kháng chiến không còn cái vẻ tráng lệ hơi dễ dãi,

cái lối lý tưởng hóa con người hơi ngây thơ mà nhiều tác phẩm của Nguyễn Huy

Tưởng trước đây vẫn có. Với tác phẩm cuối cùng này, anh đã tự đổi mới trong

phương pháp nghệ thuật của mình”[53].

Trong một hệ thống bài viết Sống mãi với thủ đô, tác phẩm cuối cùng

của Nguyễn Huy Tưởng (Báo Nhân dân 18 - 6- 1961), chuyên luận Nguyễn

Huy Tưởng (1966), chương viết về sáng tác của nhà văn trong thời kì hòa bình

đã nhắc nhiều đến Sống mãi với thủ đô, lời giới thiệu Tuyển tập Nguyễn Huy

Tưởng (1984), Hà Minh Đức đã đưa ra nhận xét tổng quát Sống mãi với thủ đô

“bộc lộ rõ nét nhất đỉnh cao cũng như cái đích đi tới cuối cùng của Nguyễn Huy

Tưởng”, bởi tiểu thuyết đã “kết hợp được sự miêu tả sự kiện lịch sử với số phận

cá nhân, vẻ đẹp lý tưởng với chiều sâu hiện thực, âm hưởng anh hùng ca của

cuộc chiến đấu với nét trữ tình đằm thắm. Tác phẩm đã tạo dựng được nhiều bức

tranh hoành tráng của Hà Nội kháng chiến và không khí đặc biệt của một thời

kì lịch sử”[53]

Tác giả Nguyễn Phương Chi trong bài viết Sống mãi với Thủ đô đã nhận

định “Sống mãi với Thủ đô thấm đượm tinh thần yêu nước và chủ nghĩa anh

hùng cách mạng. Hết thảy các nhân vật chính diện của tác giả, ở nhiều mức độ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

và sắc thái biểu hiện khác nhau, đều mang trong mình những phẩm chất cao

đẹp: tinh thần dân tộc và ý chí tự do, thái độ sẵn sàng hy sinh vì đất nước…Nhà

văn đã bắt đầu kết hợp được quy mô sử thi rộng lớn của sự kiện với việc đi sâu

vào diễn biến số phận cũng tâm lý phức tạp của nhiều cá nhân”[6].

Với tiểu thuyết Đêm hội Long Tŕ, trong bài Nguyễn Huy Tưởng tác giả

Hà Minh Đức có viết “Tác phẩm đầu tay Đêm hội Long Trì mở đầu cho quá

trình sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng, dựa trên những tư liệu lịch sử đề cập qua

Hoàng Lê nhất thống chí và Việt Lãm xuân thu, khai thác câu chuyện xoay quanh

quan hệ giữa chúa Trịnh Sâm và hai chị em Đặng Thị Huệ” tuy nhiên “Viết Đêm

hội Long Trì, Nguyễn Huy Tưởng không khai thác tập trung vào quan hệ giữa

Trịnh Sâm và Đặng Thị Huệ như một vài cuốn sách khác. Tác giả lấy Đặng Mậu

Lân làm đầu mối cho các quan hệ Đặng Mậu Lân - Quỳnh Hoa, Đặng Mậu Lân

- Nguyễn Mại: ở đây thể hiện hai sự đối lập, đối lập giữa sự tàn ác thô bỉ của

dục vọng với vẻ đẹp mềm mại và tình yêu thơ mộng, và đối lập giữa tội ác và

công lý”[12]

Ở bài viết Sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng các tác giả Trần Đình Nam

và Nguyễn Phương Chi cũng đã có những nhận xét, đánh giá về tiểu thuyết An

Tư, “Đọc An Tư ta cảm nhận được rất rõ không khí và màu sắc thời đại mà nhà

văn mô tả. Người đọc rất tự nhiên bước vào cái thế giới do nhà văn sáng tạo ra

và cũng rất tự nhiên, vui sướng đau khổ ký thác tâm sự cùng người thiên cổ. Tình

yêu con người, đất nước, tinh thần thượng võ, những của cải tinh thần vô giá mà

cha ông hương hỏa lại cho ta, ẩn kín đâu đó sâu thẳm trong tâm linh bỗng trỗi

dậy, và ta càng tự hào, sung sướng vì mình là con Lạc cháu Hồng…”[39]

Hai tác giả Hà Minh Đức và Phan Cự Đệ trong bài Tiểu thuyết và kịch

lịch sử của Nguyễn Huy Tưởng trước Cách mạng tháng Tám đã ghi nhận

những dấu ấn văn hóa trong tiểu thuyết Đêm hội Long trì “Viết Đêm hội Long

trì, Nguyễn Huy Tưởng đã dựa vào Hoàng Lê nhất thống chí, Tang thương ngẫu

lục, Vũ trung tùy bút. Cảnh đêm trung thu ở hồ Long trì đã được Nguyễn Huy

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Tưởng mô tả gần giống như đoạn Kinh phủ (Nguyễn Án) nói về “Chuyện cũ

trong phủ chúa””[14]. Cùng với đó là những ý kiến, nhận xét của Trần Đình

Nam và Nguyễn Phương Chi trong bài Sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng

“Trước An Tư, Nguyễn Huy Tưởng viết Đêm hội Long trì. Ngay ở cuốn tiểu

thuyết đầu tay này đã thấy rõ tài viết truyện lịch sử của ông. Ông đã làm sống

lại dĩ vãng xa lắc xa lơ, bị sức nặng của hàng mấy thế kỉ đào sâu chôn chặt.

Những phong tục, tập quán, lễ nghi, những hội hè đình đám lộng lẫy với những

tài tử giai nhân “ngựa xe như nước áo quần như nêm” hiển hiện trước mắt

ta”[39]

Tác giả Nguyễn Huy Thắng trong bài viết Những khúc sông, mảnh hồ

trong cuộc đời cha tôi , đã từng khẳng định: “Hồ Tây đã đi vào những trang

sách của cha tôi trong Đêm hội Long Trì. Hồ Tây cũng là niềm tự hào của cha

tôi về những cảnh đẹp một thời của Hà Nội, với những rừng chúc, rừng bang mà

người dân kinh kì khi xưa thường tới thưởng ngoạn”[56]

Như vậy, qua việc tìm hiểu những ý kiến, đánh giá cũng như các công

trình nghiên cứu của các nhà nghiên cứu, phê bình văn học, chúng tôi nhận thấy

cảm hứng chủ đạo trong những sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng là cảm hứng

lịch sử. Đó được xem như là sở trường của nhà văn. Tuy nhiên, để có những

trang “chính sử viết bằng văn chương” ấy, thì Nguyễn Huy Tưởng phải là một

người am hiểu tường tận về nền văn hóa nước nhà. Chính điều này đã tạo nên

khoảng trống giúp chúng tôi tìm hiểu và nghiên cứu đề tài.

2.2. Những ý kiến đánh giá về dấu ấn văn hóa Hà Nội trong tiểu thuyết Sống

mãi với Thủ đô của Nguyễn Huy Tưởng

Nguyễn Huy Tưởng là nhà văn của đề tài lịch sử nhưng ông cũng là nhà

văn của cuộc sống mới, con người mới. Trong tâm thức văn hóa của người Việt

nói chung và người Hà Nội nói riêng, thiên nhiên, ngoại cảnh, môi trường sinh

thái gắn bó, hòa hợp với con người. Cùng viết về Hà Nội và dành cho trái tim

của cả nước tình yêu của chính mình, nhưng khác với Tô Hoài, Thạch Lam, Vũ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Bằng…trong cảm hứng sáng tạo của Nguyễn Huy Tưởng nổi bật âm hưởng lịch

sử - văn hóa. Trong bài viết Bên nhà văn Nguyễn Huy Tưởng cùng ngắm Hồ

Gươm, Nguyễn Minh Châu đã viết: “Nghĩ về ông, bao giờ tôi cũng tưởng tượng

ra một nhà văn đồng thời là một nhà văn hóa”. Quả vậy, trong cảm quan sáng

tạo của mình, Nguyễn Huy Tưởng đã trực tiếp hoặc gián tiếp giới thiệu những

tinh hoa văn hóa Việt với người đọc. Nhờ vào những trang viết tài hoa của nhà

văn, người đọc đương thời và hậu thế nhận ra dấu ấn văn hóa của Hà Nội, của

Việt Nam trải qua những giai đoạn, thời khắc khác nhau của lịch sử và văn hóa

dân tộc. Có thể thấy khá nhiều giá trị văn hóa truyền thống của Việt Nam nói

chung và Hà Nội nói riêng được tái hiện trong sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng.

Trong bài viết Nguyễn Huy Tưởng - khát vọng một đời văn các nhà

nghiên cứu Tôn Thảo Miên và Nguyễn Bích Thu đã chỉ ra “ Với Sống mãi với

thủ đô, Nguyễn Huy Tưởng không chỉ thành công trong tái tạo không khí hào

hùng, bi tráng của lịch sử mà cả trong miêu tả diễn biến tâm lí phức tạp, tinh vi

của đời sống tâm hồn nhân vật, mang ý nghĩa nhân bản, đề cao lòng yêu nước

và sự sống con người. Ở một góc độ khác, chỉ với ngòi bút tài hoa, tác giả cuốn

tiểu thuyết mới “tả được những nét sang trọng, lịch sự của thủ đô. Sang trọng

lịch sự mà vẫn yêu nước, ghét Tây”, điều đó làm nên cuộc sống riêng, không lẫn

với các trường thiên tiểu thuyết cùng thời với Sống mãi với thủ đô”[53].

Viết về nhân vật trong tiểu thuyết Sống mãi với thủ đô, tác giả Phong Lê

trong bài viết Sống mãi với thủ đô trong quá trình sáng tác của Nguyễn Huy

Tưởng nhận xét: “Miêu tả Hà Nội trong tính phức tạp của nó, Nguyễn Huy

Tưởng cố gắng mở rộng thế giới nhân vật của mình. Anh miêu tả nhiều tầng lớp

nhân dân lao động Hà thành, cô gái bán hoa Ngọc Hà, mẹ Thắng bán xôi chè,

Dân thợ nguội, Sơn thợ xẻ, Quý tài xế,…nhiều con người thuộc nhiều thành phần

xã hội khác nhau đó đã tham gia vào cuộc kháng chiến khỏe khoắn, tự nhiên vì

cuộc đời của họ nói chung đã phải trải qua nhiều cực khổ. Trong lớp quần chúng

cơ bản, Nguyễn Huy Tưởng chú ý những công nhân ưu tú, những cán bộ lãnh

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

đạo phong trào như Dân, Quốc Vinh, Nguyễn Gia Định là lực lượng nòng cốt,

tiêu biểu cho tinh thần sống chết với thủ đô, chèo chống cho cuộc kháng chiến ở

thủ đô..”[26].Cũng trên tinh thần ghi nhận nét mới trong cảm hứng sáng tạo của

Nguyễn Huy Tưởng, Phong Lê viết: “Nguyễn Huy Tưởng đã phác họa được

nhiều thái độ khác nhau, nhiều số phận khác nhau của con người trong một cơn

rung chuyển lớn lao của lịch sử. Một cách đặt vấn đề như thế đối với các sáng

tác trước Cách mạng của anh là hoàn toàn mới lạ, chưa thể có được”[26].

Với bài viết Dấu ấn văn hóa trong tiểu thuyết Nguyễn Huy Tưởng tác

giả Nguyễn Bích Thu đã cho chúng ta thấy: “Trong Sống mãi với thủ đô, bên

cạnh cái lạnh giá của mùa đông năm 1946, cái bóng tối đặc quánh bao trùm Hà

Nội trong đêm đầu tiên quân và dân Thủ đô chống trả giặc Pháp là những hình

ảnh mang hơi ấm của văn hóa truyền thống. Cái hơi ấm ấy như tiếp sức, truyền

thêm khí thế “quyết tử cho tổ quốc quyết sinh” với người dân Thủ đô vốn giàu

lòng yêu nước, ghét Tây. Những yếu tố văn hóa xuất hiện khá đắc địa trong tiểu

thuyết đã dệt nên bức tranh toàn cảnh Hà Nội trong thời điểm có một không hai

của lịch sử dân tộc. Bức tranh ấy cho thấy sự đan bện, phối màu của hai đối cực

: chiến tranh và đời thường, hiện tại và quá khứ, cái chết và sự sống, lịch sử và

văn hóa, xưa và nay, hào hùng và hào hoa. Sự điểm xuyết, hiện diện của các yếu

tố văn hóa ấy trong sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng tạo nên mỹ cảm trong tiếp

nhận của người đọc”[54]. Cũng trong bài viết này, tác giả nhận định rằng

“Những nét đẹp mang bản sắc của Hà Nội ba mươi sáu phố phường mà biểu

tượng của nó là Hồ Gươm xuất hiện với mật độ đáng kể trong các trang văn

Sống mãi với Thủ đô…Với Nguyễn Huy Tưởng, tình yêu và niềm tự hào dành cho

Hà Nội trong những ngày Tổ quốc lâm nguy, bắt đầu từ chính tình yêu với thiên

nhiên, với Hồ Gươm, một trong những yếu tố mang đặc trưng của Hà Nội. Bởi

văn hóa chính là cách con người quan hệ với thiên nhiên”[54].

Phong Lê trong bài Sống mãi với thủ đô trong quá trình sáng tác của

Nguyễn Huy Tưởng, đã có những nhận xét khá sâu sắc về chất kịch và chất thơ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

trong tiểu thuyết Sống mãi với thủ đô, Ông viết: “không khi nào những xung đột

lớn lao trong đời sống…đem đến những đảo lộn trong tâm trạng, tình cảm, quan

hệ giữa con người lại được tập trung bằng lúc này. Cho nên có thể nói Sống mãi

với thủ đô cũng đồng thời là một thiên kịch lớn”; “nói đến chất thơ trong Sống

mãi với thủ đô trước hết là nói đến cái nhìn sâu vào bên trong các biến cố của

đời sống, phát hiện trong hiện tại những gì thuộc về quá khứ và báo hiệu cho

tương lai. Cái nhìn của Nguyễn Huy Tưởng luôn luôn là cái nhìn suốt cả quá

trình. Mỗi vấn đề, mỗi hiện tượng anh nêu lên đều có lịch sử riêng. Trong nét vẽ

rành rõ, sáng sủa của hiện tại, anh phủ lên một lượt mây mờ cổ kính của quá

khứ và cũng đồng thời rọi chiếu một thứ ánh sáng, rực rỡ của tương lai. Cảm

hứng lãng mạn do nhiệt tình của người viết đã đem đến cho thiên truyện nhiều

chất thơ. Âm hưởng chung của thiên truyện là âm hưởng lạc quan. Tiếng cười

nói, tiếng súng đạn, tiếng trẻ bán báo, rao hàng, tiếng đàn ấm áp, tiếng sinh hoạt

của cuộc đời…bản hòa tấu của nhiều âm thanh khác nhau đó trong thiên truyện

nghe sao khác rất nhiều tiếng gõ quan tài bi thảm trong Những người ở lại”[26].

Cùng với đó, Nguyễn Minh Châu trong bài viết Bên nhà văn Nguyễn

Huy Tưởng cùng ngắm Hồ Gươm đã cho thấy sự cảm nhận tinh tế của tác giả

về nét đẹp văn hóa của Hà Nội trong Sống mãi với Thủ đô “Tôi đọc Sống mãi

với Thủ đô đã mấy chục năm nay thế mà vẫn còn giữ nguyên vẹn trong trí nhớ

một chiếc lá sấu vàng khô cong như một tấm vàng giát, từ từ và lặng lẽ gieo mình

xuống vạt cỏ ven Hồ Gươm trong một buổi chiều mùa đông năm ấy - mùa đông

năm 1946 - trong một sắc trời một màu xám đầy lạnh lẽo chứa đựng một cái gì

gai gai, rờn rợn mà tôi - tôi có cảm tưởng chỉ ngòi bút Nguyễn Huy Tưởng mới

tả được hay đến như thế - về mấy ngày trước khi cuộc kháng chiến trường kì nổ

ra”[7].

Luận văn Hà Nội trong sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng, trường hợp

Sống mãi với Thủ đô của Nguyễn Thị Phương Lan cũng đã đi sâu nghiên cứu,

tìm hiểu những nét đẹp của Hà Nội trong tiểu thuyết Sống mãi với Thủ đô của

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Nguyễn Huy Tưởng qua hai phương diện nội dung và nghệ thuật. Luận văn có

đề cập đến một Hà Nội với sự thấm quyện giữa lịch sử và văn hóa.

Tóm lại, từ việc tìm hiểu lịch sử vấn đề nghiên cứu sáng tác của Nguyễn

Huy Tưởng, chúng tôi thấy: Dấu ấn văn hóa trong tiểu thuyết của nhà văn đã ít

nhiều được đề cập đến tuy nhiên đó mới chỉ là những nhận định khái quát mà

chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống. Từ đó đã gợi

mở cho chúng tôi lựa chọn đề tài: Văn hóa Hà Nội trong tiểu thuyết Sống mãi

với Thủ đô của Nguyễn Huy Tưởng. Kế thừa những kết quả nghiên cứu của

người đi trước, chúng tôi sẽ mở rộng, khơi sâu và làm rõ những giá trị, dấu ấn

văn hóa có trong nội dung và nghệ thuật của tiểu thuyết Sống mãi với Thủ đô

của Nguyễn Huy Tưởng.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Làm rõ mối quan hệ biện chứng giữa văn học và văn hóa, những dấu ấn

văn hóa trong tiểu thuyết Sống mãi với Thủ đô của nhà văn Nguyễn Huy Tưởng

nhìn từ hai phương diện nội dung và nghệ thuật thể hiện

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Luận văn khái lược tìm hiểu về mối quan hệ tương tác giữa văn học

và văn hóa. Từ đó có cơ sở để tìm hiểu tiểu thuyết Nguyễn Huy Tưởng nói

chung và Sống mãi với Thủ đô nói riêng trong mối quan hệ liên ngành văn

hóa - văn học.

- Luận văn nhận diện dấu ấn văn hóa Hà Nội trong tiểu thuyết Sống mãi

với Thủ đô của Nguyễn Huy Tưởng . Từ đó khẳng định phong cách nghệ thuật

và những đóng góp của Nguyễn Huy Tưởng đối với nền văn học Việt Nam hiện

đại cũng như đối với việc gìn giữ bản sắc văn hóa Việt Nam.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung vào việc tìm hiểu văn hóa Hà

Nội trong tiểu thuyết Sống mãi với Thủ đô của Nguyễn Huy Tưởng.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

- Phạm vi tài liệu nghiên cứu: Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi

chọn khảo sát các tập tiểu thuyết: Đêm hội Long Trì, An Tư, Sống mãi với

thủ đô, đặc biệt đi sâu vào tiểu thuyết Sống mãi với Thủ đô của Nguyễn Huy

Tưởng.

5. Phương pháp nghiên cứu:

Trong quá trình thực hiện luận văn, chúng tôi sử dụng một số phương pháp

nghiên cứu cơ bản sau đây:

- Phương pháp tiếp cận văn hóa học: Phương pháp này được sử dụng nhằm

tìm hiểu những dấu ấn văn hóa có trong tác phẩm qua việc nghiên cứu mối quan

hệ giữa văn học và văn hóa.

- Phương pháp thống kê, phân loại: Chúng tôi tập trung thống kê các tác

phẩm của ông và phân loại theo đặc trưng thể loại để có thể dễ dàng trong việc

tiếp cận và phân tích tác phẩm

- Phương pháp phân tích tác phẩm theo đặc trưng thể loại: Được sử dụng

phổ biến trong luận văn để nhận xét, đánh giá tác phẩm một cách toàn diện về cả

hai mặt nội dung và nghệ thuật.

- Phương pháp so sánh, đối chiếu: Trong luận văn chúng tôi sẽ tìm hiểu

tiểu thuyết Sống mãi với Thủ đô bên cạnh những tác phẩm khác của ông trước

và sau cách mạng. Bởi phương pháp này giúp chúng tôi nhìn nhận tác phẩm trong

cái nhìn tương quan, từ đó tìm ra điểm tương đồng và khác biệt của tác phẩm với

những tác phẩm khác.

- Phương pháp nghiên cứu liên ngành: Phương pháp này giúp chúng tôi có

cái nhìn toàn diện, đầy đủ hơn về tác phẩm.

6. Đóng góp của luận văn

- Luận văn là công trình đầu tiên tìm hiểu một cách hệ thống trường hợp

tiểu thuyết Sống mãi với Thủ đô của Nguyễn Huy Tưởng từ góc nhìn văn hóa.

Trên cơ sở đó luận văn đã nhận diện dấu ấn văn hóa Hà Nội trong tiểu thuyết

Sống mãi với Thủ đô trên hai phương diện nội dung và nghệ thuật thể hiện.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

- Luận văn có thể trở thành tài liệu tham khảo cho công việc học tập, giảng

dạy tác phẩm của Nguyễn Huy Tưởng trong các nhà trường phổ thông.

7. Cấu trúc luận văn

Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, phần Nội dung của luận văn gồm 3 chương:

Chương 1: Giới thuyết khái niệm văn hóa và sự nghiệp sáng tác của

Nguyễn Huy Tưởng

Chương 2: Dấu ấn văn hóa Hà Nội trong tiểu thuyết Sống mãi với Thủ đô

của Nguyễn Huy Tưởng

Chương 3: Một số phương thức thể hiện dấu ấn văn hóa trong tiểu thuyết

Sống mãi với Thủ đô của Nguyễn Huy Tưởng.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Chương 1

GIỚI THUYẾT KHÁI NIỆM VĂN HÓA VÀ SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC

CỦA NGUYỄN HUY TƯỞNG

1.1. Giới thuyết khái niệm

1.1.1. Khái niệm về “văn hóa” và “văn hóa Hà Nội”

 Khái niệm “văn hóa”

Văn hóa là một khái niệm rất phức tạp. Có rất nhiều định nghĩa văn hóa

tùy theo góc độ của người nghiên cứu muốn nhấn mạnh phương diện nào. Hiện

nay, trên thế giới có đến gần 500 định nghĩa khác nhau về “văn hóa”.

Vào thế kỉ XIX, thuật ngữ “văn hóa” được những nhà nghiên cứu phương

Tây sử dụng như một danh từ chính. Họ cho rằng “văn hóa” thế giới có thể phân

ra từ trình độ thấp đến trình độ cao nhất, và văn hóa của họ chiếm vị trí cao nhất.

Bởi vì họ cho rằng bản chất văn hóa hướng về trí lực và sự vươn lên, sự phát

triển tạo thành văn minh, E.B.Tylor là đại diện cho quan niệm đó. Theo tác giả,

văn hóa là “một tổng thể phức tạp bao gồm các kiến thức tín ngưỡng (tín niệm),

nghệ thuật, đạo đức, luật lệ, phong tục, và tất cả những khả năng và thói quen

mà con người đạt được với tư cách là một thành viên trong xã hội”[8].

Định nghĩa này được nhiều nhà khoa học chấp nhận và sau đó, khi có

những nhà khoa học đưa ra những định nghĩa khác, thì nó vẫn được nhắc đến

như một định nghĩa dùng để tham khảo. Cùng với sự phát triển của việc nghiên

cứu văn hóa theo nhiều hướng khác nhau, có rất nhiều định nghĩa được đề cập

sau định nghĩa của E.B.Tylor. Tiêu biểu là định nghĩa của Edward Sapir, William

Isaac Thomas, định nghĩa về văn hóa của ông Tổng giám đốc UNESCO F.

Mayor.

Trong bài phát biểu với nhan đề Thập kỉ thế giới phát triển văn hóa ông

Tổng giám đốc UNESCO F. Mayor định nghĩa văn hóa như sau:

“Văn hóa là một bộ phận không thể tách rời của cuộc sống và nhận thức

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

- một cách hữu thức cũng như vô thức - của các cá nhân và các cộng đồng. Văn

hóa là tổng thể sống động các hoạt động sáng tạo trong quá khứ và hiện tại. Qua

các thế kỉ, hoạt động sáng tạo ấy hình thành nên một hệ thống các giá trị và các

thị hiếu - những yếu tố xác định đặc tính riêng của từng dân tộc”[8].

Ở phương Đông, trong đó có Việt Nam, từ xa xưa đã phổ biến khái niệm

văn hiến, văn vật trong khi ở phương Tây thường gắn với khái niệm văn minh.

Như vậy, cho đến nay, chưa phải mọi người đã đồng ý với nhau tất cả về định

nghĩa văn hóa. Ở Việt Nam, nghiên cứu văn hóa như một khoa học được bắt đầu

vào nửa đầu thế kỉ XX. Những người mở đầu có thể kể đến các nhà nghiên cứu

Đào Duy Anh, Nguyễn Văn Huyên…

Ở nước ta, chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục

đích cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo

đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh

hoạt hằng ngày về mặt ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng

tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là tổng hợp của mọi phương thức

sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó do loài ngươi đã sản sinh ra nhằm thích ứng

nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”[8].

Nhà nghiên cứu Phan Ngọc đưa ra một định nghĩa văn hóa như sau: “Văn

hóa là mối quan hệ giữa thế giới biểu tượng trong óc một cá nhân hay một tộc

người với cái thế giới thực tại ít nhiều đã bị cá nhân này hay tộc người này mô

hình hóa theo cái mô hình tồn tại trong biểu tượng. Điều biểu hiện rõ nhất chứng

tỏ mối quan hệ này, đó là văn hóa dưới hình thức dễ thấy nhất, biểu hiện thành

một kiểu lựa chọn riêng của cá nhân hay tộc người, khác các kiểu lựa chọn của

các cá nhân hay các tộc người khác”[33]. Trong định nghĩa này, tác giả không

nói đến lịch sử, mà chỉ xét mặt bên ngoài của cái hiện tượng độc đáo mang tên

văn hóa.

Trên cơ sở phân tích định nghĩa về văn hóa, tác giả Trần Ngọc Thêm đã

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

đưa ra một định nghĩa về văn hóa như sau: “Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các

giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt

động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã

hội”[62].

Gần đây nhất, trong một bài viết của mình, nhà nghiên cứu Nguyễn Từ

Chi đã quy các kiểu nhìn khác nhau về văn hóa vào hai góc độ. Góc độ thứ nhất,

ông gọi là góc hẹp, “góc nhìn báo chí”, thông dụng trong cuộc sống hàng ngày.

Theo góc nhìn này thì “văn hóa” thường được hiểu là kiến thức của con người,

của xã hội. Nhưng còn các định nghĩa văn hóa từ góc độ thứ hai mà ông gọi là

góc độ “dân tộc học”. Cách định nghĩa “văn hóa” từ góc độ thứ hai này là cách

định nghĩa của một ngành khoa học, cách định nghĩa dùng trong nghiên cứu khoa

học.

Trong những năm gần đây, một số nhà nghiên cứu ở Việt Nam và kể cả ở

nước ngoài khi đề cập đến văn hóa, họ thường vận dụng định nghĩa văn hóa do

UNESCO đưa ra năm 1994. Theo UNESCO “văn hóa hôm nay có thể coi là tổng

thể những nét riêng biệt tinh thần và vật chất, trí tuệ và cảm xúc quyết định tính

cách của một xã hội hay một nhóm người trong xã hội. Văn hóa bao gồm nghệ

thuật và văn chương, những lối sống, những quyền cơ bản của con người, những

hệ thống các giá trị, những tập tục và tín ngưỡng. Văn hóa đem lại cho con người

khả năng soi xét về bản thân. Chính văn hóa đã làm cho chúng ta trở thành

những sinh vật đặc biệt nhân bản, có lý tính, có óc phê phán và dấn thân một

cách đạo lý. Chính nhờ văn hóa mà chúng ta xét đoán được những giá trị và thực

thi những sự lựa chọn. Chính nhờ văn hóa mà con người tự thể hiện, tự ý thức

được bản thân, tìm tòi không biết mệt những giá trị văn hóa mới mẻ và sáng tạo

ra những công trình vượt trội lên bản thân”[64]

Có thể nói, các định nghĩa văn hóa hiện nay rất đa dạng. Mỗi định nghĩa

đề cập đến những dạng thức hoặc những lĩnh vực khác nhau trong văn hóa. Từ

những định nghĩa về “văn hóa” như trên, ta có thể hiểu một cách khái quát như

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

sau: Văn hóa là một hoạt động sáng tạo riêng của con người, hoạt động sáng tạo

đó bao trùm lên mọi lĩnh vực hoạt động của đời sống con người, thành tựu chính

của những hoạt động sáng tạo đó là các giá trị văn hóa, và văn hóa của mỗi cộng

đồng người có những đặc tính riêng hình thành trong lịch sử, phân biệt cộng đồng

người này với cộng đồng người khác. “Văn hóa” gắn liền với cuộc sống con

người, với sự phát triển và hoàn thiện của con người, xã hội.

 Khái niệm “văn hóa Hà Nội”

“Hà Nội ba sáu phố phường

Hàng Gạo, Hàng Đường, Hàng Muối trắng tinh”

Nói đến Hà Nội, người ta nghĩ ngay tới một thành phố với 36 phố phường

mang đậm nét văn hóa cổ xưa, là nơi lưu giữ lịch sử Việt có giá trị văn hóa truyền

thống. Bên cạnh đó, Hà Nội còn là thành phố vì hòa bình được UNESCO công

nhận.

Đã hơn mười thế kỉ trôi qua, nhưng Hà Nội xưa và nay vẫn luôn là trung

tâm chính trị, kinh tế, văn hóa lớn của nước Việt Nam. Hà Nội trong nghìn năm

ấy, vừa bảo tồn những giá trị truyền thống vừa biết tiếp thu những gì là tinh túy

nhất của mọi vùng miền đất nước và xa hơn là của bạn bè quốc tế, để với bản

lĩnh của Hà Nội ngàn năm văn hiến, những điều hay đã được nhân lên, đồng thời

xóa đi những cái dở, để làm nên một nền văn hóa mang bản sắc riêng đầy quyến

rũ - văn hóa Hà Nội. Và không chỉ những người sống ở Hà Nội, yêu Hà Nội mà

tất cả những ai đã từng đặt chân đến Hà Nội đều có thể cảm nhận được nét quyến

rũ ấy.

Là mảnh đất ngàn năm văn hiến, văn hóa Hà Nội đã hội tụ biết bao tinh

hoa văn hóa của mọi miền đất nước. Hệ thống di sản văn hóa vật thể và phi

vật thể của Hà Nội vô cùng phong phú, đa dạng và mang đậm bản sắc của

người Tràng An. Hệ thống di sản đó đã trở thành một biểu tượng của văn hóa

Việt Nam.

Hà Nội - trái tim của đất nước, thành phố của hòa bình - đã được biết đến

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

với những tinh hoa văn hóa ngàn năm. Đó là “Khu phố cổ” - nơi lưu giữ những

dấu ấn đặc sắc của một “Hà Nội băm sáu phố phường”, nơi đây đã chứng kiến

biết bao sự kiện lịch sử hào hùng của dân tộc trong công cuộc kháng chiến để

giữ nền độc lập cho nước nhà. Nơi đây, không những là trung tâm kinh tế mà

còn là một trung tâm văn hóa độc đáo, với văn hóa ẩm thực khá phong phú.

Những cái tên Hàng Đào, Hàng Ngang, Hàng Bạc, Hàng Khoai, Hàng Bông,

Hàng Chuối…không chỉ là tên phố mà ẩn sau mỗi tên gọi ấy là một nghề thủ

công đặc sắc, một hoài niệm của lịch sử. Đó là “Thành Cổ Thăng Long” - biểu

tượng sống động của một kinh đô được xây dựng cách đây hàng nghìn năm, hơn

nữa đó còn là một di tích độc nhất vô nhị, mang tính biểu tượng cho cộng đồng

người dân Hà Nội, giá trị lịch sử của nó luôn đứng vững với không gian, thời

gian. Và đó là “thành Cổ Loa”, một trong những tòa thành cổ nhất ở các nước

Đông Nam Á.

Bên cạnh đó, là “Chùa Một Cột” thanh thoát như đóa hoa sen. Là “Văn

miếu Quốc Tử Giám” - Trường đại học lâu đời nhất Việt Nam, là biểu tượng

của nền học vấn quốc gia, là nơi giáo dục mỗi con người cần phải giữ gìn và phát

huy truyền thống hiếu học, tôn vinh người hiền tài của dân tộc. Là “Quảng

trường Ba Đình”, nơi chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc Lập, khai

sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ngày 2 tháng 9 năm 1945. Là “Hồ

Tây”, mặt gương của Hà Nội, lá phổi của chốn Long Thành với một bề dày lịch

sử mấy nghìn năm. Là “Hồ Hoàn Kiếm”, với cầu Thê Húc, Tháp Bút, Tháp Rùa,

đền Ngọc Sơn lung linh bóng nước đã đi vào thơ ca, nhạc, họa của những người

nghệ sĩ tài hoa…Và còn rất nhiều những di tích lịch sử khác như những ngôi

chùa, ngôi đình, những cổng làng…tất cả đã tạo nên một quần thể các di sản văn

hóa vật thể đặc sắc của Hà Nội.

Tinh hoa văn hóa của Hà Nội không chỉ là những di sản vật thể như trên

mà còn là những di sản văn hóa phi vật thể. Mảng văn hóa này có trữ lượng khá

lớn, và đã phản ánh được một cách phong phú, đa dạng những truyền thống,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

những nét sinh hoạt văn hóa của người Hà Nội. Văn hóa phi vật thể Hà Nội là

tổng hòa các yếu tố giao lưu, hội nhập, dung hòa, tiếp biến, cởi mở, linh hoạt, để

tạo nên bản sắc Thăng Long- Hà Nội, một vùng đất “hội thủy, hội nhân và hội tụ

văn hóa vô cùng phong phú và đa dạng”.

Đến với những giá trị văn hóa phi vật thể chúng ta sẽ được hòa mình vào

hệ thống các lễ hội dân gian cổ truyền của người Hà Nội, những lễ hội mang đậm

màu sắc lịch sử. Lễ hội dân gian xưa của Hà Nội có vị trí khá quan trọng bởi nó

tác động tích cực, sâu sắc đến đời sống tinh thần, đời sống văn hóa của người Hà

Nội. Mọi hoạt động diễn ra trong lễ hội đều mang một ý nghĩa vô cùng thiêng

liêng. Thông qua lễ hội các thành viên của cộng đồng được gắn bó lại với nhau.

Nó còn là thời điểm mà đời sống văn hóa của mọi người được tổ chức chặt chẽ và

có quy mô, là thời điểm hội tụ các khả năng sáng tạo các thể loại văn nghệ, đưa

lại niềm phấn khởi hào hứng cho mọi người.

Tiếp đến là những tục lệ, hương ước của những làng cổ ở chốn kinh kỳ

xưa. Hiện nay, Hà Nội còn lưu giữ được hàng trăm bản hương ước bằng chữ Hán

và chữ Nôm.

Trong kho tàng văn hóa phi vật thể của Hà Nội thì các giá trị về văn hóa

ẩm thực chiếm một vị trí đáng kể. Những món ăn đặc sắc như phở Hà Nội, Nem,

bún chả, giò chả Ước Lễ, chả cá Lã Vọng, cốm Vòng, bánh cuốn Thanh Trì…mỗi

món ăn mang một hương vị đặc biệt, quyến rũ mà không nơi nào có thể bắt chước

được. Điều đó đã làm nên một phong vị, một thương hiệu riêng của Hà Nội, góp

phần làm cho Hà Nội trở thành nơi khó quên đối với những ai đã từng một lần

đặt chân tới nơi đây. Có thể nói, nghệ thuật ẩm thực là một phần tạo nên cái tinh

tế, đặc sắc của văn hóa và con người Hà Nội.

Hà Nội xưa và nay với những giá trị văn hóa ngàn năm đã và đang được

bảo tồn, phát triển, trở thành thế mạnh để Hà Nội thu hút khách trong nước và

ngoài nước đến thăm quan và tìm hiểu.Vì vậy, trong những năm qua Hà Nội luôn

giữ vững vị trí là một trong hai trung tâm du lịch lớn nhất.

1.1.2. Mối quan hệ giữa văn hóa và văn học

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Văn hóa và văn học là hai vấn đề luôn gắn bó mật thiết với nhau. Xét

trong mối quan hệ giữa văn học và văn hóa, có thế thấy văn học là sự “tự ý thức”

của văn hóa, nó không chỉ là bộ phận của văn hóa, chịu sự ảnh hưởng và chi phối

trực tiếp của văn hóa, mà còn là một trong những phương tiện để văn hóa được

tồn tại và bảo lưu. Như GS. Trần Đình Sử khẳng đinh “văn học có một vị trí

không thể thiếu trong mỗi nền văn hóa”.

Mối quan hệ giữa văn hóa và văn học là mối quan hệ biện chứng, phản

ánh đặc điểm có tính quy luật của quan hệ riêng chung có tầm cấp triết học, đó

là mối quan hệ giữa tổng thể và bộ phận. Văn học, nghệ thuật cùng với triết học,

chính trị, tôn giáo, đạo đức, phong tục…là những bộ phận hợp thành của toàn

thể cấu trúc văn hóa. Nếu văn hóa thể hiện quan niệm và cách ứng xử của con

người trước thế giới, thì văn học là hoạt động lưu giữ những thành quả đó một

cách sinh động nhất. Để có được những thành quả đó, văn hóa của một dân tộc

cũng như của toàn thể nhân loại từng trải qua nhiều chặng đường tìm kiếm, chọn

lựa, đấu tranh và sáng tạo để hình thành những giá trị trong xã hội. Văn học vừa

thể hiện con đường tìm kiếm đó, vừa là nơi định hình những giá trị đã hình thành.

Nói như nhà nghiên cứu Huỳnh Như Phương “văn học là văn hóa lên tiếng bằng

ngôn từ nghệ thuật”.

Văn học là biểu hiện của văn hóa, cho nên văn học là “tấm gương của văn

hóa”. Như vậy có nghĩa là, trong tác phẩm văn học, chúng ta luôn tìm thấy hình

ảnh của văn hóa qua sự tiếp nhận và tái hiện của nhà văn. Đó là bức tranh văn

hóa dân gian trong thơ của bà chúa thơ Nôm Hồ Xuân Hương, hay đó là những

nét đẹp văn hóa truyền thống trong truyện ngắn và tùy bút của Nguyễn Tuân, và

đó là những tín ngưỡng, phong tục tập quán trong tiểu thuyết Mẫu Thượng ngàn

của Nguyễn Xuân Khánh (đạo Mẫu và tín ngưỡng phồn thực, tục thờ Thần Chó

đá, Thần Cây đa, Thần Thành hoàng, cách lên đồng, hát chầu văn…). Tác phẩm

văn học còn dẫn chúng ta đi đến những nguồn mạch sâu xa của văn hóa qua việc

lí giải tấn bi kịch lịch sử như trong kịch Vũ Như Tô của Nguyễn Huy Tưởng hay

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

cốt cách người nông dân được đào luyện qua những biến thiên cách mạng trong

các truyện ngắn Khách ở quê ra và Phiên chợ Giát của Nguyễn Minh Châu.

Văn hóa tác động đến văn học không chỉ ở đề tài mà còn ở toàn bộ hoạt động

sáng tạo của nhà văn và hoạt động tiếp nhận của bạn đọc. Nhà văn với thế giới nghệ

thuật của mình là một sản phẩm văn hóa. Người đọc, khi tiếp nhận tác phẩm cũng

sẽ được rèn luyện, bồi dưỡng thêm về thị hiếu thẩm mỹ trong một môi trường văn

hóa nhất định. Chính không gian văn hóa này đã chi phối cách lựa chọn đề tài, thể

hiện chủ đề, xây dựng nhân vật, sử dụng thủ pháp nghệ thuật…trong quá trình sáng

tác của nhà văn; và chi phối cách phổ biến, đánh giá, thưởng thức…trong quá trình

tiếp nhận của người đọc. Một nền văn hóa cởi mở, bao dung mới tạo điều kiện thuận

lợi cho văn học phát triển. Vì vậy, có thể nói văn học là thước đo, là “nhiệt kế” vừa

định lượng, vừa kiểm nghiệm chất lượng và trình độ văn hóa của một xã hội trong

một thời điểm lịch sử nhất định.

Trên tinh thần đó, đã có khá nhiều nhà nghiên cứu căn cứ vào những dữ

liệu của văn học để tìm hiểu bức tranh văn hóa của một thời đại. Nói cách khác,

thực tiễn văn học có thể cung cấp những cứ liệu đáng tin cậy cho khoa học nghiên

cứu văn hóa. Chẳng hạn, thông qua nội dung tái hiện của văn xuôi Việt Nam đầu

thế kỉ XX, người ta có thể chứng minh cho quá trình thâm nhập của văn hóa Tây

Âu trong xã hội thời kỳ này…

Nếu văn hóa chi phối hoạt động và sự phát triển của văn học, thì ngược

lại, văn học cũng có sự tác động trở lại đến văn hóa. Trước hết, văn học là nơi

lưu giữ văn hóa, có những giá trị văn hóa từ lâu đã bị mai một theo thời gian

nhưng chúng ta vẫn có thể bắt gặp trong các tác phẩm văn học, chính những tác

phẩm văn học ấy đã đưa văn hóa đến với người đọc. Cũng từ đó mà người đọc

có thêm những hiểu biết về văn hóa, góp phần vào việc lưu giữ và bảo tồn những

giá trị văn hóa.

Bên cạnh đó, văn học góp phần khẳng đinh, định hướng những giá trị văn

hóa nhân loại. Bởi “những nhà văn tiên phong của dân tộc bao giờ cũng là những

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

nhà văn hóa lớn”. Bằng nghệ thuật ngôn từ, họ đấu tranh, phê phán những biểu

hiện văn hóa tiêu cực, đồng thời khẳng định những giá trị văn hóa mang đậm bản

sắc dân tộc, giàu giá trị nhân bản. Dù là phản ứng trước những làn sóng văn hóa

tiêu cực hay cổ vũ cho sự tiếp biến văn hóa, giới trí thức sáng tác tinh hoa bao

giờ cũng là những người tiên phong mở ra hướng nhìn về vận hội mới của văn

hóa dân tộc.

Tóm lại, giữa văn học và văn hóa có mối quan hệ hữu cơ, gắn bó mật thiết

với nhau. Sự ảnh hưởng, tác động qua lại lẫn nhau giữa văn hóa và văn học sẽ

ngày càng làm cho nền văn hóa được bảo tồn và phát triển còn văn học cũng trở

nên hoàn thiện hơn khi phản ánh được mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, con

người.

1.1.3. Tiếp cận văn học từ góc nhìn văn hóa

Giữa văn học và văn hóa có mối quan hệ hữu cơ mật thiết như vậy, cho

nên việc tìm hiểu văn học dưới góc nhìn văn hóa là một hướng đi cần thiết và có

triển vọng.

Bên cạnh cách tiếp cận văn học bằng xã hội học, mỹ học, thi pháp

học…cách tiếp cận văn học bằng văn hóa sẽ giúp chúng ta lí giải được một cách

trọn vẹn hơn tác phẩm nghệ thuật. Những yếu tố văn hóa liên quan đến thiên

nhiên, địa lý, lịch sử, phong tục, tập quán, ngôn ngữ…có thể được vận dụng để

cắt nghĩa những phương diện nội dung và hình thức của tác phẩm. Đồng thời nó

cũng có thể góp phần lý giải tâm lý sáng tác, thị hiếu độc giả và con đường phát

triển nói chung của văn học.

Tiếp cận văn học từ góc nhìn văn hóa chính là việc đặt văn học trong không

gian văn hóa với những đặc trưng của nó đã thâm nhập một cách tinh vi vào cảm

quan sáng tạo của nhà văn. Ở những người nghệ sĩ lớn, đó không phải là sự “ăn

tươi nuốt sống” mà là sự tiêu hóa và thẩm thấu vào từng hình tượng, chi tiết của

tấm thảm dệt ngôn từ. Nền văn hóa dân tộc là mảnh đất ươm mầm cho văn học

nảy nở, mang lại cho văn học một sức sống, một màu sắc riêng. Mỗi nhà văn đều

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

chịu ảnh hưởng của một nền văn hóa riêng. Vì thế muốn hiểu giá trị tư tưởng của

một tác phẩm văn học ta không thể tách rời những yếu tố văn hóa thể hiện trong

tác phẩm đó.

Văn hóa không bao giờ là một hiện tượng thuần nhất. Sự đan xen văn hóa

đôi khi dẫn đến sự pha tạp, trộn lẫn, nhưng cũng có thể dẫn đến sự kết tinh, chưng

cất nên những giá trị mới. Về thời gian, khi cái cũ chưa bàn giao cho cái mới,

văn học có thể là nơi hội tụ của những tìm tòi cho sự chuẩn bị chuyển tiếp thời

đại. Còn về không gian, khi một địa bàn trở thành ngã ba đường của sự giao lưu

văn hóa, thì văn học có thể là nơi hòa giải của những xung đột tinh thần, nhằm

tìm một tiếng nói cho sự chung sống giữa các nhóm người.

Văn học không chỉ thừa hưởng và hấp thụ những yếu tố của một không

gian văn hóa rộng như văn hóa phương Đông, văn hóa dân tộc. Mà văn học còn

thừa hưởng và hấp thụ những yếu tố của một không gian văn hóa hẹp là văn hóa

tộc người, văn hóa vùng. Sự giao lưu văn hóa của các vùng sẽ tạo ra những nét

chung trong văn học của từng vùng, đồng thời nó vẫn giữ lại những nét riêng làm

cơ sở giúp ta nhận diện bộ mặt của từng vùng văn hóa, từ đó phân biệt “lãnh thổ”

trên bản đồ văn học.

Gần đây, nhờ UNESCO phát động những thập kỉ phát triển văn hóa, người

ta bắt đầu nhận thức được văn hóa là động lực của phát triển, thì phê bình văn

học từ văn hóa càng được chú ý nhiều hơn. Đặc biệt, khi bộ môn văn hóa học và

nhân học văn hóa xuất hiện ở Việt Nam thì văn hóa bắt đầu được coi như một

nhân tố chi phối văn học. Phương pháp tiếp cận này được giới nghiên cứu vận

dụng hoặc là tự giác, hoặc là tự phát trong một số công trình nghiên cứu. Năm

1995, Trần Đình Hượu trong Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại

nghiên cứu văn học Việt Nam từ Nho giáo và đã chỉ ra được đặc điểm của giai

đoạn văn học kể từ đầu Lê đến cuối Nguyễn. Ông cũng nêu ra những hình mẫu

nhà nho (hành đạo, ẩn dật, tài tử), tác giả của thứ văn học Nho giáo này, như là

một giả thuyết làm việc. Điều này, về sau, được Trần Ngọc Vương trong Nhà

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

nho tài tử và văn học Việt Nam (1995) cụ thể hóa bằng một cái nhìn loại hình

học. Đỗ Lai Thúy trong Hồ Xuân Hương hoài niệm phồn thực đã lý giải những

biểu tượng lấp lửng hai mặt trong thơ bà bằng tín ngưỡng phồn thực, còn Trần

Nho Thìn trong Văn học trung đại Việt Nam dưới cái nhìn văn hóa (2003) thì

cho rằng nghiên cứu văn học trung đại từ những phạm trù cơ bản của văn hóa

trung đại để tránh hiện đại hóa văn học dân tộc. Nhưng có lẽ, Phan Ngọc là người

có ý thức trong câu chuyện này hơn cả. Là một nhà văn hóa học, ông đã sớm lấy

yếu tố văn hóa xã hội để tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong “Truyện Kiều”.

Rồi lại thử thách văn học bằng ngôn ngữ. Và khi một số công trình của M.

Bakhtin được dịch và giới thiệu ở Việt Nam thì hướng đi này càng được thuyết

phục.

Như vậy, có thể thấy, nếu văn học có chức năng phản ánh hiện thực thì

cũng không thể phản ánh trực tiếp được, mà chỉ có thể phản ánh thông qua “lăng

kính” văn hóa, thông qua “bộ lọc” của các giá trị văn hóa. Nhờ thế mà văn học

tránh được sự phản ánh “gương”, phản ánh một cách trần trụi. Và có lẽ, cũng

nhờ thế mà văn học có một lối phản ánh đặc trưng, một phản ánh, như người ta

thường nói, có nghệ thuật, có “nghiền ngẫm” (Lê Ngọc Trà).

1.2. Sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng

1.2.1. Tiểu sử và hành trình sáng tác của nhà văn Nguyễn Huy Tưởng

 Tiểu sử cuộc đời Nguyễn Huy Tưởng

Nguyễn Huy Tưởng (1912 - 1960), ông sinh ra và lớn lên tại làng Dục Tú,

phủ Từ Sơn, tình Bắc Ninh (nay thuộc xã Dục Tú, huyện Đông Anh, Hà Nội).

Nguyễn Huy Tưởng xuất thân trong một gia đình nho giáo nề nếp và thanh bạch.

Ông thân sinh, cụ Nguyễn Huy Liễn, là một nhà nho không làm việc với chính

quyền thực dân, quanh năm sống giản dị trong lũy tre làng.

Năm Nguyễn Huy Tưởng lên bảy tuổi thì cha mất, mẹ gửi ra Hải Phòng ở

với gia đình người chị, học tiểu học ở trường Bonnal. Ông bắt đầu tham gia các

hoạt động yêu nước của thanh niên học sinh ở Hải Phòng năm 1930. Năm 1932,

Nguyễn Huy Tưởng đậu bằng thành chung và cũng bắt đầu học chữ Hán. Sau

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

đó, Nguyễn Huy Tưởng làm thư ký nhà Đoan (Thuế quan) ở Hải Phòng năm

1935, rồi năm 1938 ông tham gia Hội Truyền bá Quốc ngữ và phong trào hướng

đạo sinh ở Hải Phòng.

Ông gia nhập nhóm Văn hóa cứu quốc bí mật năm 1943 và được bầu làm

Tổng thư ký Hội Truyền bá Quốc ngữ Hải Phòng. Sau đó ông tiếp tục hoạt động

ở Hà Nội, Nam Định và Phúc Yên.

Tháng 6/1945, Nguyễn Huy Tưởng tham gia ban biên tập tạp chí Tiên

Phong của Văn hóa cứu quốc. Đến tháng 8 cùng năm, ông đi dự Đại hội quốc

dân ở Tân Trào. Ông tham gia biên tập các tờ báo Cờ giải phóng, Tiên Phong.

Tiếp đó ông giữ chức vụ Tổng thư ký Ban Trung ương Vận động đời sống mới.

Ngày 1-1-1946, ông được kết nạp vào Đảng cộng sản Đông Dương và cũng năm

1946 ông được vào Quốc hội khóa I, giữ chức Phó thư ký Hội văn hóa cứu quốc

Việt Nam. Tháng 12 năm 1946, toàn quốc kháng chiến, ông tổ chức và đưa Đoàn

văn hóa kháng chiến lên Việt Bắc. Tiếp tục hoạt động văn hóa, ông là ủy viên

Thường vụ Hội Văn nghệ Việt Nam, sau đó làm thư ký toà soạn Tạp chí Văn

nghệ và tham gia tiểu ban Văn nghệ Trung ương Đảng.

Năm 1951, Nguyễn Huy Tưởng tham gia chiến dịch biên giới. Trong hai

năm 1953, 1954 ông công tác giảm tô trong cải cách ruộng đất. Hòa bình lập lại

1954, ông làm Uỷ viên ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam khóa 1.

Bên cạnh công tác lãnh đạo Hội văn nghệ, Nguyễn Huy Tưởng còn tham

gia nhiều hoạt động gây dựng phong trào văn nghệ quần chúng trong kháng

chiến. Ông có công phát hiện và bồi dưỡng nhiều cây viết trẻ trong quân đội. Dù

ở cương vị và hoàn cảnh nào, Nguyễn Huy Tưởng luôn có những sáng tác kịp

thời đóng góp cho văn học và cách mạng.

Nguyễn Huy Tưởng mất ngày 25-7-1960, khi ông mới hoàn thành xong

tập 1 tiểu thuyết Sống mãi với Thủ đô. Tháng 9 năm 1966, Nguyễn Huy Tưởng

được Nhà nước trao tặng giả thưởng Hồ Chí Minh, dành cho những tác phẩm

tiêu biểu của ông viết ở hai thời kì trước và sau Cách mạng tháng Tám.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

 Hành trình sáng tác của nhà văn Nguyễn Huy Tưởng

Ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường, ông đã say mê với những câu

chuyện về các nhân vật anh hùng trong lịch sử. Vùng đất Dục Tú quê hương ông,

nơi mà có nhiều nhà nghiên cứu cho là “tất cả mọi cái đều là lịch sử” đã truyền

cho ông sự say mê đặc biệt, về quá khứ oai hùng của cha ông, đồng thời cũng sớm

đặt ra cho ông những băn khoăn của một người dân mất nước. Năm 18 tuổi, khi

còn là cậu học trò thành chung, ông đã xác định con đường đi của mình “Phận sự

của một người tầm thường như tôi muốn tỏ lòng yêu nước thì chỉ có việc viết văn

quốc ngữ mà thôi”. Những trang viết đầu tay của Nguyễn Huy Tưởng còn lưu giữ

được, cho thấy sự vụng về của một người không hẳn đã có năng khiếu bẩm sinh

về văn chương, nhưng cũng bộc lộ một khát vọng lớn lao, một tâm hồn nhạy cảm

với những suy nghĩ nhiều khi vượt qua “tầm” của một học trò đang tập sự nghề

văn. Công việc đó thầm lặng kéo dài suốt từ năm 1930 cho đến những năm 1940,

khi ông bắt đầu có tác phẩm được công bố: bộ ba truyện, kịch lịch sử Đêm hội

Long trì (1942), Vũ Như Tô (1942), An Tư (1943).

Nhật kí Nguyễn Huy Tưởng bắt đầu trang đầu tiên ngày 2 - 11 - 1930, ghi

lại cảm tưởng của chàng trai Dục Tú 18 tuổi lúc này đang học trường Bonnal ở

Hải Phòng. Một tháng sau, anh xác định mục đích đời mình “ Tôi sẽ trở nên một

người văn sĩ hoặc một người viết báo”. Suốt mấy năm sau đó là quá trình Nguyễn

Huy Tưởng đọc văn và học viết văn, bất kể là khi về quê Dục Tú hay khi theo

học ở Hải Phòng.

Nguyễn Huy Tưởng bắt đầu viết là viết kịch, và viết kịch văn xuôi và kịch

bản điện ảnh. Sự lựa chọn này cho thấy, Nguyễn Huy Tưởng ngay từ lúc trẻ đã

ưa thích loại hình nghệ thuật sân khấu và trong sự nghiệp của ông để lại thì kịch,

nhất là các vở về đề tài lịch sử, chiếm một vị trí quan trọng.

Tác phẩm đầu tay Đêm hội Long Trì mở đầu cho quá trình sáng tác của

ông. Đêm hội Long trì dựa trên những tư liệu lịch sử đề cập qua Hoàng Lê nhất

thống chí và Việt Lãm xuân thu, khai thác câu chuyện xoay quanh quan hệ giữa

chúa Trịnh Sâm và hai chị em Đặng Thị Huệ và Đặng Mậu Lân. Tiếp đó, với

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

quan điểm nhận thức tiến bộ hơn, Nguyễn Huy Tưởng đã viết Vũ Như Tô, vở

kịch lịch sử có giá trị sáng tạo về nhiều mặt. Một trong những vấn đề lịch sử

quan trọng nhất mà Nguyễn Huy Tưởng trân trọng say mê, đó là truyền thống

yêu nước chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam trong hàng ngàn năm lịch sử.

Nguyễn Huy Tưởng viết kịch Cột đồng Mã viện và tiểu thuyết An Tư dựa vào

hai hiện tượng lịch sử tuy không lớn nhưng là hai câu chuyên xót xa trong những

năm đất nước bị xâm lược. Có thể nói, toàn bộ sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng

ở thời kì trước cách mạng tháng Tám đều dành cho đề tài lịch sử.

Cách mạng tháng Tám thành công, Nguyễn Huy Tưởng ghi lại những cảm

xúc ban đầu về khung cảnh đất nước đang trỗi dậy và hồi sinh. Kịch Bắc Sơn

được tác giả viết ra trong sự tích tụ và bừng sáng của nhiệt tình cách mạng và

cảm hứng công dân. Bắc Sơn thành công và được xem là một bước ngoặt cho

sân khấu cách mạng. Hơn thế nữa, Nguyễn Huy Tưởng đã thành công với thiên

Ký sự Cao Lạng và những tác phẩm viết về Hà Nội kháng chiến, đặc biệt là

những tiểu thuyết sử thi Sống mãi với Thủ đô - tác phẩm khép lại những chặng

đường sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng

Suốt thuở ấu thơ Nguyễn Huy Tưởng đã sống gắn bó với khoảng không

gian êm đềm và không khí gia đình trong lành, ấm cúng. Ngôi nhà, khoảng sân,

chiếc ngõ, khu trường, cái xưởng gỗ với ánh trăng, bầu bạn và những trò chơi

dân dã, cùng với khoảng không gian tinh thần yên ả đầy trìu mến mà những người

ruột thịt đã chắt chiu, tạo dựng cho ông, đó là tất cả thế giới tuổi thơ của Nguyễn

Huy Tưởng: phong phú mà không xô bồ, thân thuộc mà không đơn điệu, sinh

động mà không xáo động. Và cũng chính từ gia đình, Nguyễn Huy Tưởng đã

được tiếp nhận nguồn học vấn quý giá đầu tiên. Những câu chuyện sử sách về

tấm gương của những người tài giỏi có công với làng với nước qua những câu

chuyện kể đầy cảm kích của bà nội, những chuyện cổ tích do người cậu ông kể

lại, vốn Nho học do bác và cụ đồ truyền cho…Tất cả đã thấm hòa vào ông để rồi

sau này trở lại trong những truyện cổ tích ông viết cho lứa tuổi thiếu nhi. Nguyễn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Huy Tưởng là một trong số ít nhà văn sớm quan tâm đến việc viết cho thiếu nhi.

Ngay từ trước Cách mạng, ông đã từng viết những câu chuyện cho thiếu nhi in

trong tủ sách “Hoa xuân”. Nhýng những tác phẩm quan trọng nhất của ông cho

ðối týợng này ðều xuất hiện sau nãm 1951. Nhiều truyện cho ðến nay vẫn ðýợc

coi là mẫu mực và ðýợc các em tìm đọc: Tìm mẹ, An Dương Vương xây thành

Ốc, Kể chuyện Quang Trung, Lá cờ thêu sáu chữ vàng... Sáng tác cho thiếu

nhi có thể nói là một phần sự nghiệp, một phần tâm huyết trong đời văn của ông.

Ở lĩnh vực này, Nguyễn Huy Tưởng xứng đáng là “nguồn sáng”, là “người dẫn

đầu gương mẫu cho nền văn học thiếu nhi Việt Nam”

Tóm lại, hành trình sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng là hành trình của sự

sáng tạo và cống hiến cho nghệ thuật. Những tác phẩm của ông không chỉ là

những giá trị văn học mà còn là “khát vọng một đời văn” của một người nghệ sĩ.

Trên con đường sáng tạo nghệ thuật của mình, Nguyễn Huy Tưởng đã chịu sự

ảnh hưởng rất nhiều từ gia đình và quê hương.“Môi trường trong sạch của một

gia đình Nho giáo, những tấm gương đạo đức của những bậc tiền bối trong làng

sẽ giữ vững hướng đi của ông trên con đường trưởng thành và phát triển sau này

như con quay hổi chuyển giữa trục quay của một vệ tinh nhân tạo bất chấp mọi

ngả nghiêng.”[24]

1.2.2. Tiểu thuyết Nguyễn Huy Tưởng

Văn chương là “một thứ phần thưởng rất hay” nhưng cũng lại là “một thứ

hình phạt rất nặng”. Nguyễn Huy Tưởng sớm cảm nhận chân xác điều ấy. Vậy

mà ông vẫn đến với văn chương bằng thái độ dấn thân đầy quả quyết “Áo may

không phải để chơi mà để mặc. Ta không sợ áo của ta nhàu hay nát. Người sinh

ra để hành động, không phải để tiếc thân, áo có nhàu, có nát, người ta phải sứt

sẹo, đau khổ. Đó là lẽ thường”[19] Chính bản lĩnh ấy, cốt cách khỏe khoắn ấy

đã tạo nên giá trị của ngòi bút ông, tạo nên phong độ cao sang riêng của người

trí thức, người nghệ sĩ Nguyễn Huy Tưởng qua những chuyển động dữ dội,

những thử thách nghiệt ngã của đời sống xã hội và văn học.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Nghệ thuật là sản phẩm của sự sáng tạo và nghệ sĩ là người thể hiện khát

vọng sáng tạo ấy. Trong tư duy và cảm quan nghệ thuật của mình, Nguyễn Huy

Tưởng luôn hướng tới sự kiếm tìm nghệ thuật, mong sao sản phẩm tinh thần của

mình không chỉ hữu ích mà còn thể hiện giá trị nghệ thuật, mang hiệu ứng thẩm

mỹ.

Bước vào thế giới nghệ thuật ngôn từ, Nguyễn Huy Tưởng khơi nguồn cho

những tác phẩm của mình từ dòng lịch sử của dân tộc với bao trang hào hùng rực

rỡ chiến công chống xâm lược. Hiện tại không chỉ có liên hệ với quá khứ theo

dòng thời gian mà nhiều khi là điểm xuất phát và là cảm hứng trực tiếp để khai

thác đề tài lịch sử của nhà văn

Nguyễn Huy Tưởng mong muốn sự có mặt của mình với lịch sử, với cuộc

đời chung. Dòng suy nghĩ ấy sẽ trở thành hành động cụ thể với cuộc sống mà

trước hết là hoạt động văn chương.

Phải nói rằng, lịch sử - là mối quan tâm sâu sắc và thường xuyên của

Nguyễn Huy Tưởng. Mối quan tâm ấy đã phủ khắp toàn bộ hầu hết các sáng tác

của ông, đặc biệt là những trang tiểu thuyết, đó thực sự là những trang sử viết

bằng văn chương của Nguyễn Huy Tưởng.

Ở tiểu thuyết đầu tay Đêm hội Long Trì đã sớm hiển lộ tài năng viết

truyện lịch sử của Nguyễn Huy Tưởng. Ông đã làm sống lại dĩ vãng xa xưa, bị

sức nặng của hàng mấy thế kỉ đào sâu chôn chặt. Những phong tục, tập quán, lễ

nghi, những hội hè đình đám lộng lẫy với những tài tử giai nhân “ngựa xe như

nước áo quần như nêm” hiển hiện trước mắt ta. Rồi cảnh Đặng Mậu Lân quây

màn chướng hiếp người giữa phố, cung cách Trịnh Sâm uống chè, sinh hoạt của

Trịnh Sâm và Đặng Thị Huệ trong cung thất, những thủ đoạn của Thị Huệ…tất

cả đều được hiện hữu một cách sống động.

Tiếp tục khai thác đề tài lịch sử và đào sâu thêm vào chủ đề sức sống dân

tộc, Nguyễn Huy Tưởng viết tiếp An Tư - cuốn tiểu thuyết về cuộc kháng chiến

chống quân Nguyên. Đọc An Tư ta cảm nhận được rất rõ không khí và màu sắc

thời đại mà nhà văn mô tả. Người đọc rất tự nhiên bước vào cái thế giới do nhà

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

văn sáng tạo ra và cũng rất tự nhiên, vui sướng đau khổ ký thác tâm sự cùng

người thiên cổ. Tình yêu con người, đất nước, tinh thần thượng võ, những của

cải tinh thần vô giá mà cha ông hương hỏa lại cho ta, ẩn kín đâu đó sâu thẳm

trong tâm linh bỗng trỗi dậy, và ta càng tự hào, sung sướng vì mình là con Lạc

cháu Hồng. An Tư là bức tranh hoành tráng về cuộc kháng chiến chông quân

Nguyên. Chúng ta hình dung ra quy mô của cuộc xâm lược và sức chống trả của

dân tộc ta. Từ vị quốc công tiết chế đến người lính trong quân ngũ đều tự xóa

mình đi, đều ước nguyện được xả thân vì nước. Một cô công chúa sống trong lầu

son gác tía như An Tư cũng thêu thùa may vá giúp các chiến sĩ ngoài mặt trận và

biết đặt tình yêu Tổ quốc lên trên tình yêu đôi lứa.

Qua An Tư, Nguyễn Huy Tưởng đã bắt được cái chất bi tráng của một thời

đại lịch sử thấm sâu trong số phận nhiều người. Nguyễn Huy Tưởng đã tránh

được cách nhìn sơ lược đối với những vấn đề lịch sử phức tạp. Tiểu thuyết lịch

sử An Tư tuy kết thúc bằng cái chết của một vài nhân vật, nhưng nỗi buồn riêng

không hạn chế được cảm hứng phấn chấn chung trong niềm vui thắng trận của

toàn dân tộc.

Như vậy, trước Cách mạng tháng Tám, với hai bộ tiểu thuyết Đêm hội

Long Trì và An Tư, Nguyễn Huy Tưởng đã sớm ưu tư về vận mệnh của đất nước

và dân tộc. Khi Cách mạng tháng Tám thành công, kháng chiến toàn quốc bùng

nổ, Nguyễn Huy Tưởng bước vào chặng đường mới của lịch sử dân tộc. Trong

quá trình sáng tác của mình, ngòi bút của ông luôn hướng vào những vấn đề nóng

hổi của đất nước và thời đại. Nguyễn Huy Tưởng từ một cây bút chuyên khai

thác đề tài lịch sử đã trở thành nhà văn thời sự trong “ý nghĩa chân chính của

thuật ngữ này”. Nhà văn Như Phong đã từng công nhận Nguyễn Huy Tưởng là

một “nhà văn viết kịp thời nhất”.

Sự đổi mới trong cảm hứng sáng tác này được thể hiện đậm nét qua những

trang tiểu thuyết như Truyện anh Lục, Bốn năm sau, đặc biệt hơn cả là tiểu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

thuyết Sống mãi với Thủ đô.

Với tiểu thuyết Truyện anh Lục sáng tác năm 1955, Nguyễn Huy Tưởng

đã thể hiện rõ nỗ lực sáng tạo của nhà văn khi đi sâu vào đề tài cải cách ruộng

đất, là mảnh đất còn ít người khai vỡ, lật xới lúc bấy giờ. Truyện anh Lục là

chuyện một người nông dân, chuyện những người nông dân. Anh nông dân ấy

và những người nông dân ấy đã phải trải qua những ngày đau khổ, đen tối vô

cùng của chế độ cũ và khi hòa bình lập lại, nhân vật trung tâm của tiểu thuyết đã

“rũ bùn đứng dậy” làm người theo đúng nghĩa của nó. Với Truyện anh Lục ngòi

bút của Nguyễn Huy Tưởng đã lấy quyền lợi của nhân dân làm lẽ sống, với nỗ

lực khắc họa người nông dân trưởng thành từ sau Cách mạng tháng Tám

Tiếp theo, ở tiểu thuyết Bốn năm sau, các bài viết của Vũ Tú Nam, Nam

Mộc, Nguyễn Khải đều thừa nhận bước phát triển mới của ngòi bút Nguyễn Huy

Tưởng và nhà phê bình Nam Mộc đã đi sâu hơn: “Dưới ngòi bút lành nghề của

Nguyễn Huy Tưởng, nhiều đoạn tả Điện Biên Phủ, tả lao động kiến thiết có màu

sắc sử thi khá đậm. Đồng thời những cảnh éo le trong đời sống tình cảm của

Doan, Ngàn, Cường đã được thể hiện bằng những đoạn văn tế nhị, giàu tính chất

kịch và tính chất trữ tình”[53]. Với con mắt của một họa sĩ, Dương Bích Liên

khen Bốn năm sau “ là tài hoa, thơ mộng”[53].

Sau những tiểu thuyết viết về cuộc sống mới, con người mới như Truyện

Anh Lục, Bốn năm sau Nguyễn Huy Tưởng trở lại với đề tài Hà Nội kháng

chiến, một đề tài ấp ủ với nhiều tâm huyết nhất, gắn bó với biết bao kỉ niệm và

vốn hiểu biết sâu sắc của nhà văn, Sống mãi với Thủ đô - tác phẩm khép lại

những chặng đường sáng tác của ông. Lịch sử nhưng thời sự, và Sống mãi với

Thủ đô đã dựng lại cuộc kháng chiến của quân dân Hà Nội chỉ sau khoảng lùi

ngót 15 năm, còn rất thời sự, nhưng không khí truyện, âm hưởng truyện, màu sắc

truyện lại vẫn như được gội trong một màn sương lịch sử. Sống mãi với Thủ đô

là tiểu thuyết đánh dấu trình độ trưởng thành của nghệ thuật tiểu thuyết hiện đại,

cảm hứng lịch sử và dân tộc hòa quyện không khí bi tráng của sử thi, với thế giới

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

nhân vật đông đảo, nhiều dáng vẻ mang tâm trạng, nỗi niềm riêng đã hấp dẫn và

lôi cuốn người đọc từ sự kiện này đến biến cố khác, vừa hiện thực vừa lăng mạn.

Như vậy, đánh giá về tiểu thuyết của Nguyễn Huy Tưởng, chúng ta có thể

dễ dàng nhận thấy nhìn chung tác phẩm của ông đều toát lên một bầu không khí

lịch sử cho dù đó là những sáng tác trước Cách mạng tháng Tám hay trong thời

bình. Những giá trị lịch sử của dân tộc cứ thế mà tự nhiên býớc vào những trang

vãn của ngýời nghệ sĩ đầy tài năng và giàu giá trị nhân bản. Chính vì vậy, mà

nhà văn Tô Hoài từng coi Nguyễn Huy Tưởng là “Cây bút sử thi hết sức hùng

tráng” vì “tấm lòng đối với lịch sử và quê hương từng tiềm thức gắn bó và thôi

thúc”[18].

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Tiểu kết chương 1

Ở chương 1, trên cơ sở tìm hiểu các khái niệm văn hóa, văn hóa Hà Nội,

chúng tôi đi sâu vào nghiên cứu mối quan hệ giữa văn hóa và văn học. Và nhận

thấy văn hóa và văn học có mối quan hệ mật thiết chặt chẽ với nhau. Cho nên

tiếp cận văn học thì góc nhìn văn hóa vừa là một hướng tiếp cận mới, vừa là

hướng tiếp cận có nhiều triển vọng

Qua việc tìm hiểu sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng, chúng tôi

nhận thấy, Nguyễn Huy Tưởng bước vào làng văn khá muộn nhưng với các sáng

tác của mình trên nhiều thể loại, đặc biệt với tiểu thuyết Sống mãi với Thủ đô và

kịch Vũ Như Tô đã làm sáng lên tên tuổi Nguyễn Huy Tưởng, khiến sáng tác

của ông luôn đồng hành cùng công chúng, bạn đọc và thời gian

Trên nền tảng ban đầu đó, chúng tôi tiếp tục đi sâu nghiên cứu tiểu thuyết

Sống mãi với Thủ đô của Nguyễn Huy Tưởng trên hai phương diện: nội dung

và nghệ thuật, hướng tới nhận diện dấu ấn văn hóa trong tác phẩm mà ông dành

nhiều tâm huyết này.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Chương 2

DẤU ẤN VĂN HÓA HÀ NỘI TRONG TIỂU THUYẾT

“SỐNG MÃI VỚI THỦ ĐÔ” CỦA NGUYỄN HUY TƯỞNG

2.1. Bức tranh thiên nhiên mang dấu ấn văn hóa trong tiểu thuyết Sống mãi

với Thủ đô của Nguyễn Huy Tưởng.

Thiên nhiên tự bao đời nay, có vai trò hết sức quan trọng với con người.

Cuộc sống của con người dường như phụ thuộc rất nhiều vào sự thay đổi của

môi trường tự nhiên. Do vậy, trong tâm thức, con người luôn mong muốn sống

hòa mình với thiên nhiên, gắn bó với thiên nhiên. Con người trong cuộc sống

hàng ngày, bên cạnh việc khắc phục những hạn chế do thiên nhiên gây ra thì

họ cũng dành cho mình những phút giây thư giãn cùng thiên nhiên, họ ca ngợi

thiên nhiên và biến nó thành một phần để tạo nên nền văn hóa dân tộc. Những

cảm xúc, suy nghĩ, phản ứng của con người trước thiên nhiên được xem là một

biểu hiện của thái độ ứng xử văn hóa của con người. Như vậy, khi nói đến văn

hóa có nghĩa là ta đang nói đến mối quan hệ của hai yếu tố “con người và thiên

nhiên”.

Đến với văn chương, có thể nói thiên nhiên luôn là đối tượng phản ánh

quen thuộc của người nghệ sĩ. Thiên nhiên không chỉ là đề tài, là nguồn cảm

hứng bất tận dành riêng cho người nghệ sĩ. Mà nó còn là người bạn, là nơi gửi

gắm tâm sự của con người. Con người đến với thiên nhiên không chỉ để thưởng

thức, chiêm ngưỡng vẻ đẹp của nó, mà còn giãi bày những niềm vui, nỗi buồn

của mình. Trong quá trình tìm hiểu, nghiên cứu những sáng tác của Nguyễn Huy

Tưởng, đặc biệt là tiểu thuyết Sống mãi với Thủ đô, chúng tôi nhận thấy hiện

lên trong tác phẩm của ông bức tranh thiên nhiên mà trong từng trang giấy, bức

tranh ấy thấm đẫm những dấu ấn văn hóa của người Việt. Cách tác giả miêu tả

thiên nhiên cũng chính là cách tác giả thể hiện thái độ ứng xử của mình với văn

hóa dân tộc. Với Nguyễn Huy Tưởng, tình yêu và niềm tự hào dành cho mảnh

đất và con người Việt Nam bắt đầu từ tình yêu thiên nhiên. Vẻ đẹp của thiên

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

nhiên dưới ngòi bút của Nguyễn Huy Tưởng mang những dấu ấn đặc trưng của

thiên nhiên Việt Nam.

Quả thực, thiên nhiên được xem là “món quà vô giá” mà tạo hóa đã ban

tặng cho những trái tim biết rung động, biết lắng nghe và cảm nhận những thay

đổi của cuộc sống. Đó không ai khác, chính là những người nghệ sĩ tài hoa.

Trong kho tàng văn học Việt Nam, ta đã từng ấn tượng với khung trời Tây

Bắc hùng vĩ mà nên thơ trong sáng tác của Tô Hoài: “Những đêm đầu mùa hè,

mây dày từng mớ, từng lớp vàng đẫm ánh trăng ủ khắp trên những cánh rừng tít

tắp, những thung lũng làng mạc xa lạ, những cánh đồng rải rác đâu trong hốc

núi...”, cũng có khi ta lại đắm say thả hồn mình vào dòng sông Đà hung bạo nhưng

lại rất trữ tình, thơ mộng của Nguyễn Tuân: “sông Đà tuôn dài tuôn dài như một

áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa

ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân...Nước sông

Đà biến đổi theo mùa, mỗi mùa có một vẻ đẹp riêng: mùa xuân “dòng xanh ngọc

bích”, mùa thu: “lừ lừ chín đỏ”...” [35]. Không những vậy, ta còn được thưởng

thức cả “bức tranh tứ bình” bốn mùa trong thơ Tố Hữu:

“Ta về mình có nhớ ta

Ta về ta nhớ những hoa cùng người

Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng

Ngày xuân mơ nở trắng rừng

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang

Ve kêu rừng phách đổ vàng

Nhớ cô em gái hái măng một mình

Rừng thu trăng rọi hòa bình

Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung” [35].

Từ Bắc vào Nam, dọc theo bản đồ hình chữ S, đâu đâu ta cũng bắt gặp vẻ

đẹp của thiên nhiên trong những sáng tác của các nhà văn, nhà thơ. Nhưng ấn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

tượng với tôi nhất có lẽ là bức tranh về Hà Nội - thủ đô ngàn năm văn hiến của

dân tộc.

Hà Nội, với vẻ đẹp tiềm ẩn đã nhẹ nhàng đi vào những trang văn, trang

thơ. Không cầu kì, hoa mĩ, phô trương nhưng lại mang đến cho người đọc sự vấn

vương, những rung cảm tinh tế mỗi khi đặt chân đến mảnh đất này.

Cùng một đối tượng phản ánh nhưng mỗi nhà văn, nhà thơ lại thể hiện dấn

ấn riêng của mình qua cách mà các tác giả miêu tả về Hà Nội. Và bức tranh thiên

nhiên ấy được cảm nhận một cách gần gũi trong sự giao hòa với con người. Hơn

nữa, bằng sự cảm nhận tinh tế và ngòi bút đầy tài hoa, các tác giả đã vẽ lên những

bức tranh vô cùng sinh động với những đặc điểm riêng biệt của từng mùa.

Mùa xuân, mùa của sự khởi đầu cho một năm, dưới con mắt say mê và sự

cảm nhận sâu sắc của Vũ Bằng hiện lên thật đẹp: “Mùa xuân của tôi - mùa xuân

Bắc Việt, mùa xuân của Hà Nội - là mùa xuân có mưa riêu riêu, gió lành lạnh, có

tiếng nhạn kêu trong đêm xanh, có tiếng trống chèo vọng lại từ những thôn xóm

xa xa, có câu hát huê tình của cô gái đẹp như thơ mộng..” [34, tr. 174].

“Hà Nội mùa thu! Mùa thu Hà Nội...” câu hát quen thuộc ấy đã cho ta biết

“mùa thu Hà Nội” từ lâu đã đi vào thơ văn, nhạc họa. Và nay, một lần nữa vẻ

đẹp của mùa thu lại được nhà văn Nguyễn Khải tái hiện trong những sáng tác

của mình. Với ông, mùa thu luôn đẹp “một vẻ đẹp riêng cho mọi lứa tuổi”. Nó

đẹp bởi “những con phố vắng vẻ không buôn bán, với những góc phố của các

bà, các chị bán hàng răng đen, vấn khăn, áo cánh trắng”, với “cửa Ô Quan

Chưởng cuối thu lạnh và hơi hiu hắt”[23, tr. 432].

Trở lại với Nguyễn Huy Tưởng và tiểu thuyết Sống mãi với Thủ đô, người

đọc có thể dễ dàng nhận ra cái giá buốt ngọt ngào hòa cùng sương khói của một

ngày cuối đông. Bức tranh thiên nhiên đó làm nổi bật lên cái không khí ảm đạm

của chiến tranh, nhưng cũng chính nó lại khiến cho những trái tim luôn hướng

về Thủ đô trở nên ấm áp lạ lùng bởi lòng nhiệt huyết chiến đấu “quyết tử cho Tổ

quốc quyết sinh” luôn sục sôi trong họ.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Đúng vậy, bức tranh thiên nhiên trong sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng là

một bức tranh mang đầy tâm trạng. Đó là tâm trạng của những con người yêu

nước. Với Nguyễn Huy Tưởng, mùa đông, đặc biệt là những ngày cuối năm,

thường là thời khắc dễ gợi lên trong lòng người bao cảm xúc khó tả. Cảnh vật

lúc này không còn rực rỡ, tinh khôi mà nó mang trong mình một nỗi buồn man

mác: “bầu trời Hà Nội đục nhờ nhờ. Giá buốt. Tuy sáng đã lâu rồi, nhưng phố

xá vẫn như mới thức”[66, tr. 29]. Sự ảm đạm đó khiến “Trần Văn nao nao nhớ

về cái buổi chiều mùa thu năm ngoái”, một mùa thu làm “anh bàng hoàng như

mê như say, mặt bừng bừng nóng. Anh nhảy nhót trên con đường đầy ánh nắng

của một mùa thu tuyệt đẹp..”[66, tr. 29]. Vậy mà giờ đây, ngay giây phút này

“anh lại đang sống những ngày ngột ngạt, nặng nề”[66, tr. 30]. Và không chỉ

riêng anh, mà “tất cả phố xá nhuộm một màu đen xám, chớp chớp nháy nháy đó

đây một vài ngọn đèn trong những nhà tối tăm, ẩm thấp. Ngoài đường, kẻ chạy

ngang, người chạy dọc, kẻ bước vội, người đứng trầm ngâm rùng mình trong khí

lạnh của buổi chiều. Gió bấc thổi hiu hắt, bốc lên mùi hôi của cống rãnh, và

thỉnh thoảng sực nức cái mùi thơm phức của cà phê, mùi mặn ngậy của phở

xào”[66, tr. 78].

Miêu tả bức tranh thiên nhiên mùa đông, Nguyễn Huy Tưởng đã rất khéo

léo, tài tình khi sử dụng những từ ngữ đặc tả để cho người đọc thấy được những

đặc điểm của thiên nhiên khi vào đông: “gió bấc tê buốt táp vào mặt”, “đêm lạnh

như băng giá”, “buốt như năm đói rét”, “gió ào ào”, “bầu trời xám ngoét”, “rét

ngăn ngắt”...Mùa đông đến mang theo sự tê tái trên da thịt, nhưng chính nó cũng

là ngọn lửa sưởi ấm trái tim của những con người ngày đêm chiến đấu “thề sống

chết với Thủ đô” “Tiếng gió vù vù làm nặng thêm, âm vang thêm những tiếng

đục tường thình thịch, gấp gấp, những tiếng kê lại bàn ghế, tủ giường lục cục,

rít rít, sệt sệt. Những bàn tay vô hình đang đập phá bên trong như thét vang:

Chuẩn bị một nấm mồ vĩ đại để chôn chặt quân thù”[66, tr. 107]. Giá buốt, tê tái

bao nhiêu thì ý chí và bản lĩnh của con người càng bừng sáng bấy nhiêu. Thiên

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

nhiên được xem như một nhân tố để thử thách con người. Trong cái buổi chiều

cuối đông ấy, ta thấy con người Việt Nam ta thật mạnh mẽ, kiên cường và giàu

bản lĩnh, nhưng hơn hết là tình yêu quê hương, đất nước, mãnh liệt.

Tuy nhiên, bên cạnh những trang viết cho thấy sự lạnh lẽo, u ám của buổi

chiều cuối đông thì nhà văn cũng thật xuất sắc khi miêu tả quang cảnh của những

con đường, những dãy phố và tiêu biểu hơn cả là bức tranh về Hồ Gươm - biểu

tượng văn hóa độc đáo của Hà Nội. Con đường Tràng Thi, dưới ngòi bút của ông

hiện lên “là một trong những con đường đẹp nhất của Hà Nội, mà những hàng

cây hai bên cao hơn nhà gác làm cho Hà Nội đắm trong thiên nhiên, và khi lộc

non chuyển sang xanh rậm, hay khi hoa phượng nở, hay khi lá rụng thay cho

tiếng ve sầu, người ta như trông thấy và nghe thấy sự tuần hoàn của vũ trụ”[66,

tr. 40]. Phố Tràng Tiền thì “lá sấu rụng rào rào xuống hè, xuống đường như đổ

một trận mưa to”[66, tr. 409]. Và với bút pháp trữ tình, lãng mạn, vẻ đẹp của Hồ

Gươm đã dành được nhiều sự ưu ái của nhà văn, tác giả đã không ít lần quan sát

thật tỉ mỉ cái mảnh hồ ấy để rồi vẽ lên một bức tranh tuyệt đẹp “Nước hồ phẳng

như gương, lá cây và váng nước xanh vẩn. Hàng liễu trên bờ phía Cầu Gỗ buông

rủ những mảnh thấp thoáng như sương.Những con đường nhỏ lượn dưới bóng

những cây cổ thụ quạnh hiu, cuốn bay vài tà áo màu còn sót lại.”[66, tr. 47], và

“cái tháp Bút nằm nghiêng nghiêng dưới lùm cây, hai cái trụ cổng vào cầu Thê

Húc sừng sững cao vút lên như của một ngôi đền nhà quê vắng vẻ [66, tr. 289].

Mảnh hồ ấy với người Hà Nội như là một phần không thể thiếu trong cuộc sống.

Nó đẹp không chỉ bởi sự tự nhiên vốn có mà tạo hóa ban tặng mà nó còn trở

thành người chiến sĩ cùng đồng hành với người Hà Nội trong cuộc kháng chiến

ác liệt này khi mà “Cầu Thê Húc, khom khom, đã ngả màu hồng nhạt. Trấn Ba

Đình ủ rũ thấp xuống như bị dìm. Tất cả đều im lìm, chờ đợi. Những con rùa lịch

sử, chiến thắng và hòa bình, không thấy bóng tăm trên mặt nước. Cả đến đàn cò,

từ năm này qua năm khác, không bao giờ rời cái cây gạo thân cao thẳng vút và

trắng toát cũng không xào xạc như mọi khi. Chúng đi đâu hay đã nằm im trong

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

tổ. Cái hồ yêu dấu như cũng cảm thấy dân tộc ta đang gặp khó khăn, và lắng

xuống lo âu”[66, tr. 47-48].

Với Nguyễn Huy Tưởng, thiên nhiên được xem là một trong những yếu tố

quan trọng để làm nên sự thành công của tác phẩm. Ở những trang viết của ông,

bức tranh thiên nhiên hiện lên thật sinh động theo từng mùa. Nếu như ở Sống

mãi với Thủ đô tác giả đã làm nổi bật lên sự lạnh lẽo, u ám của những ngày cuối

đông thì với An Tư sự ảm đạm đó lại tiếp tục được nhà văn nhắc đến khi ông

miêu tả cảnh hai bên bờ sông Cái “ban ngày dần dần đã qua, chiều đông u ám

càng tăng vẻ thê lương của tất niên. Hai bên bờ sông, cánh đồng chỉ còn trơ gốc

rạ, thỉnh thoảng nhấp nhô một chợ chiều vắng ngắt, hay một quán bỏ không.

Đường quanh co vào thôn xóm không một bóng người. Cỏ đã héo vàng, và cây

trơ lá. Sương cũng xuống với khí chiều, bốc quanh làng mạc và đâu đây một trận

gió thổi càng tăng lòng buồn của một lữ thứ, nhất là một người mang nặng những

ưu tư”[68, tr. 34]. Nhưng sự u ám đó chỉ thoáng qua khi mà “mùa hè đã trở lại

với ngày nắng chang chang, với đêm sáng đầy sao”[68, tr. 94], “gió nồm đã thổi,

gió tây đã hun, nắng vàng đã gắt, mưa rào đã sang và con chim tu hú đã gọi

hè”[68, tr. 131]. Còn với Đêm hội Long trì, người đọc lại bị cuốn hút vào bức

tranh của đêm hội Trung thu cùng “trăng lồng bóng nước, đèn ẩn cành dương,

giọng nói, câu cười, tiếng ca, tiếng quản, toàn thể mơ hồ như một giấc chiêm

bao”[67, tr. 14], hay “trăng không trong, hơi đục, nên cảnh sắc càng thêm mông

lung phiếu diểu. Đường đi, bóng cây in xuống, khi xóa khi hằn, theo với gió thu.

Trời chưa mát, nhưng cũng không nực lắm”[67, tr. 8].

Nhìn chung, ở tác phẩm nào của Nguyễn Huy Tưởng, bức tranh thiên

nhiên cũng mang đậm dấu ấn văn hóa với bao nhiêu đặc điểm về thiên nhiên,

thời tiết của từng mùa đều đã được nhà văn ghi lại thật chi tiết. Miêu tả thiên

nhiên với ngòi bút chân thực, Nguyễn Huy Tưởng đã để lại trong lòng bạn đọc

những ấn tượng sâu sắc.

2.2. Đời sống văn hóa - xã hội Việt Nam trong tiểu thuyết “Sống mãi với Thủ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

đô” của Nguyễn Huy Tưởng

Ở mỗi tác phẩm văn học, bao giờ người đọc cũng mong muốn tìm thấy

những hình ảnh của một nền văn hóa, một bản sắc văn hóa qua sự sáng tạo của

nhà văn. Nguyễn Huy Tưởng là một người “lưu giữ văn hóa” dân tộc theo đúng

nghĩa của từ này. Trong Sống mãi với Thủ đô, bên cạnh cái lạnh giá của mùa

đông năm 1946, cái bóng tối đặc quánh bao trùm Hà Nội trong đêm đầu tiên quân

và dân thủ đô chống trả giặc Pháp vẫn tiềm ẩn bóng dáng văn hóa truyền thống.

Những yếu tố văn hóa xuất hiện trong tiểu thuyết đã kiến tạo nên bức tranh toàn

cảnh Hà Nội trong thời điểm có một không hai của lịch sử dân tộc. “Bức tranh

ấy cho thấy sự đan bện, phối màu của hai đối cực: chiến tranh và đời thường,

hiện tại và quá khứ, cái chết và sự sống, lịch sử và văn hóa, xưa và nay, hào

hùng và hòa hoa”[54].

Nói đến Hà Nội là nói đến Thủ đô của ba mươi sáu phố phường của kiến

trúc đô thị, những cái tên “Hàng Lược, Hàng Đồng, Hàng Da, Hàng Điếu, Hàng

Bút, Hàng Bè, Hàng Đào, Hàng Bạc, Hàng Giấy, Hàng Khoai, Hàng Khay...” cứ

hiện dần lên trên những trang viết của Nguyễn Huy Tưởng. Và dẫn dắt người

đọc đến từng ngóc ngách của khu phố cổ. Những cái tên ấy là dấu ấn văn hóa

đặc biệt để du khách phương xa mỗi khi có dịp đặt chân về đây để khi trở về sẽ

không khỏi thổn thức nhớ về Thủ đô.

Bên cạnh đó, trong sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng, kiến trúc Hà Nội xưa

với những phố nhỏ, ngõ hẹp, mang đậm chất “phố Phái” cũng là một dấu ấn văn

hóa đặc sắc “phố Hàng Đào quang dần ra, phơi trần những nếp nhà liền nhau,

nhỏ hẹp, chênh vênh một vài căn gác như những hộp chồng lên, chỉ vừa cho một

cánh cửa sổ. Những ngôi nhà chỉ hào nhoáng khi mở cửa và khi ánh điện chiếu

vào tủ kính, quầy hàng đầy tơ lụa, len dạ do những bàn tay khôn khéo trang

hoàng, như những cung hoa lệ, nhưng khi đóng lại thì trông sao mà tẻ ngắt”[66,

tr. 218]. Trong Sống mãi với Thủ đô, người đọc nhận ra “những con đường lớn

và thẳng, những con đường đẹp với những biệt thự theo kiến trúc phương Tây,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

nhiều kiểu khác nhau, sạch sẽ và yên tĩnh, với những hàng cây lớn rủ bóng xanh

mát xuống đường”[66, tr. 212] là nơi ở của người Pháp và những người Việt

giàu có lúc bấy giờ vẫn còn xa lạ với số đông người dân Hà Nội.

Tương phản với những con đường lớn và hiện đại là những con phố nhỏ,

cũ kỹ còn giữ nguyên trên những phường, những giai thoại, những kỉ niệm của

kinh thành Thăng Long, của Hà Nội dấu xưa. Bởi Nguyễn Huy Tưởng quan niệm

“vượt khỏi Hồ Gươm mới thật sự như trở về những phố của mình”[66, tr. 212].

Đó là “Những ngôi nhà hẹp lòng, lồi ra, lõm vào, chen chúc nhau, ít có một

khoảng vườn con ngăn cách. Những mái ngói lâu đời đã ngả màu đen và mốc

trắng như những mái chùa, mái đình trải qua nhiều mưa nắng, những mái ngói

của những căn gác thấp, ọp ẹp, khấp khểnh, bỡ ngỡ và tui tủi giữa những nóc

nhà mới cao vút lên một cách hãnh tiến. Những dãy hàng cánh cửa lùa san sát

kề bên những ngôi hàng lồng kính, cái còn phảng phất thời những cô hàng xén

dịu dàng, nền nếp, ý nhị của kinh kỳ, cái đã phô trương hình thức cầu kì diêm

dúa, hào nhoáng của cái xã hội bon chen, gian giảo, lố lăng thời nô lệ Pháp”[66,

tr. 213]. Hay “ngọn đèn điện buông từ trên nóc không có trần của một căn gác

hẹp...cái nóc thấp với rui mè nặng trịch, cái bàn thờ tít bên trong, trên tường xây

bằng vôi tam hợp lâu ngày vàng ngậy, bộ tứ bình với cái khung đèn và những

tranh Tam quốc đã bị thời gian hun khói. Qua cửa sổ trông xuống ngõ, mà chấn

song là một chữ triện tráng men xanh”[66, tr. 89]. Và cả cái nhà ở bên đền Huyền

Thiên nơi Phúc đang ở “làm theo lối cổ, lủng củng những kèo và cột, tối tăm, ẩm

thấp, phảng phất như ở nhà quê. Có một lối thông sang đằng sau, và đây là cả

một xóm nhỏ lụp xụp, lúc nhúc những gian nhà ở bằng gỗ lợp tôn, có cả giếng,

chuồng gà, chuồng lợn, vài cây chuối lơ thơ”[66, tr. 126]. Tiếp đến là gian nhà

chỉ kê đủ một tấm phản và cái giường tre của vợ chồng bà Ngọ “đồ đạc tuy sơ

sài, căn nhà tối om om, nhưng toát lên một sự sạch sẽ duyên dáng đặc biệt của

những người lao động Thủ đô”[66, tr. 143]. Nhưng tại những khu nhà cũ mới

đan xen, dù “thiếu bóng cây, thiếu khoảng rộng, thiếu không khí, xoắn xuýt Hà

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Nội xưa và nay, trơ trọi gạch ngói với người” thì đó lại là nơi làm nên cái phẩm

tính của Hà Nội “Nấp trong những phố tít tắp ấy, người ta sản xuất và buôn bán,

cung cấp và thu nhập, tỏa cái truyền thống lịch thiệp, tinh xảo của Hà Nội đi

khắp nơi, gây nên cái sức quyến rũ của Thủ đô hoa lệ”[66, tr. 213].

Cách mà nhà văn thể hiện dấu ấn văn hóa qua việc miêu tả những gian

nhà mới, cũ đan xen thật độc đáo. Và điều này không chỉ được thể hiện trong

Sống mãi với Thủ đô, trở lại với những tác phẩm trước cách mạng như An Tư

hay Đêm hội Long Trì ta cũng sẽ thấy những nét đẹp văn hóa của dân tộc hiện

lên trên từng kiến trúc kiểu cung đình. Đúng như vậy, với An Tư, ta không khỏi

ngỡ ngàng trước sự tráng lệ của điện Diên Hồng “một ngôi nhà uy nghiêm rộng

rãi mà nhà vua dùng làm sở tiếp các đại biểu tôn kính của dân gian. Thềm rồng

cột tía lần chào đón kẻ quê mùa, chốn sán lạn huy hoàng phản ánh những nét

mặt sạm phong trần bày nên một cảnh tượng kì thú”[68, tr. 31], hay sự tuyệt

mĩ đến nỗi cảnh trí ở đây đã thành một cõi hoang đường của Cung Cảnh Linh

“kiến trúc ở ngoài đã nhẹ nhàng trang nhã, trong cung lại bày ra một cách huy

hoàng. Cột vàng sàn tía, sáng soi gương được, bước đi trên thảm gấm, tường

có treo những bức thêu quý hay những bức họa tươi. Bình vàng, bình ngọc, hay

bình sứ đẹp để cắm những kì hoa dị thảo. Toàn thể rộng rãi, sáng sủa, kiểu

cách, phảng phất một vẻ gì đài các, trang nghiêm, mà vẫn vui vầy ấm cúng”[68,

tr. 79-80]. Còn trong Đêm hội Long Trì lại là sự rực rỡ của phủ Chúa “bước

lên thềm, qua cánh cửa chạm rồng, qua chiếc bình phong lớn, Nguyễn Mại vào

một gian phòng rộng và sâu, cột cao và cùng với sàn, đều sơn đỏ tía. Câu đối

nét vàng rực rỡ. Giữa nhà có treo một cây đèn rất to, lồng trong một chiếc

khung bát giác sơn son thiếp vàng và có tua rủ xuống. Đèn hãy còn thắp. Trong

cùng, treo trên tường một bức thêu “Tô Vũ mục dương”, trước có kê một chiếc

sập lớn. Trên sập hai bên rải đệm vóc, giữa bày chiếc kỷ”[67, tr. 34].

Văn hóa của Hà Nội trong Sống mãi với Thủ đô không chỉ được Nguyễn

Huy Tưởng gợi lên qua từng nếp nhà, con phố. Mà trong cái không khí ngột ngạt

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

nhuốm màu chiến tranh của một ngày cuối đông, Nguyễn Huy Tưởng đã chớp

được cận cảnh nét đẹp mộc mạc của một loại hình trò chơi dân gian ở miền quê

Bắc Bộ. Đó là khoảnh khắc xuất hiện anh thợ nặn tò he “một quang cảnh tưởng

như không còn giữa cái Hà Nội đã ngửi thấy mùi tanh giá của chiến tranh”. Một

cảnh tượng thật đẹp “người dân Hà Nội, hiếu kì và khao khát cái vui, đứng xem

để quên đi những mối lo nghĩ. Mấy đưa trẻ con len dưới chân người lớn để vào

gần. Tiếng cười, tiếng nói, tiếng trầm trồ khen ngợi cái tài khéo của anh thợ,

tưởng như Hà Nội vẫn còn đang thời bình” [66, tr. 31]. Tò he là sản phẩm đồ

chơi dân gian độc đáo, vừa mang bản sắc dân tộc, vừa mang tính khoa học. Nó

có tầm quan trọng trong cuộc sống, học tập, vui chơi giải trí và rèn luyện tính

thẩm mĩ cho trẻ em. Nó không chỉ là sự tích tụ của trí tuệ dân gian, mà nó còn

mang theo cái hồn của làng quê Việt. Chính vì vậy, nếu không am hiểu một cách

tường tận loại hình đồ chơi dân gian truyền thống này thì Nguyễn Huy Tưởng đã

không thể giới thiệu với người đọc một cách chi tiết hành trang làm nghề của anh

thợ nặn tò he “tất cả cửa hàng của anh thợ chỉ gồm một chiếc bàn vuông, nhỏ,

bẩn thỉu với những chiếc chén đựng bột dẻo đủ màu sắc hàng mã: xanh lơ, xanh

lá cây, đỏ thắm, hồng, vàng, tím, đen, trắng...Chiếc bàn nhỏ, nhẹ và sơ sài, có

thể lăn đi cùng đường phố Hà Nội, nay thềm nhà này, mai bờ đường khác, là sân

khấu của những vị anh hùng Tam quốc, Tây du”[66, tr. 31]. Trong cái nhìn của

nhà văn, anh thợ nặn tò he đích thị là một nghệ nhân dân gian “anh thợ thản

nhiên trổ tài. Mười ngón tay dính bột đủ màu sắc, thoăn thoắt như một cái máy

nhỏ, cứ năm, sáu phút tạo được một anh hùng. Nhân vật nào cũng khá tinh

xảo”[66, tr. 31]. Hơn thế, trong giờ phút gần kề chiến tranh, nhân vật của Nguyễn

Huy Tưởng còn lo lắng băn khoăn, liệu sau này những tinh hoa truyền thống ấy

có bị quên lãng, chết dần chết mòn hay không? Có thể thấy, từ những trang viết

cách đây hơn nửa thế kỉ, Nguyễn Huy Tưởng đã gợi những suy nghĩ về vấn đề

bảo tồn tinh hoa văn hóa truyền thống, đến hôm nay vẫn mang tính thời sự.

Trong tiểu thuyết Sống mãi với Thủ đô, những trang viết về khu chợ Đồng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Xuân cũng đã thể hiện kiến thức lịch sử - văn hóa của nhà văn về một địa danh

văn hóa, một di tích cách mạng (cuộc đấu tranh của chị em tiểu thương, trận đánh

oanh liệt của bộ đội bảo vệ chợ Đồng Xuân trong những ngày đầu toàn quốc

kháng chiến). Qua những trang văn của Nguyễn Huy Tưởng, người đọc hồi nhớ

chợ Đồng Xuân là nơi buôn bán đông vui bậc nhất Hà thành. Là nơi những tinh

hoa ẩm thực độc đáo của Hà Nội và của mọi miền đất nước không hẹn mà gặp,

đều hội tụ phong phú ở khu vực này. Người dân Hà Nội trong những ngày đầu

của chiến tranh, dù khu chợ bị giặc ném bom, vẫn tới mừng cuộc đấu tranh thắng

lợi của chị em chợ Đồng Xuân và cũng để “khuây khỏa cái nỗi nhớ chợ. Bởi vì

đây là trái tim của Hà Nội, là nơi tập trung những hàng tinh xảo của phố phường,

những món ăn vật lạ, những kì hoa dị thảo ở khắp các tỉnh đường ngược cũng

như đường xuôi. Trong những ngày áp tết, cái tên Đồng Xuân càng vang động

trong lòng mọi người. Đi chơi chợ tết trở nên một sự cần thiết như ăn và

mặc”[66, tr. 150]. Nhà văn thấu hiểu tâm lý của người Hà Nội đi chợ tết không

chỉ để mua sắm mà còn để thưởng thức, để đón trước cái hương vị, sắc màu của

tết nhất đang thấm dần vào cảnh, vào người: “Những dãy hàng cam đỏ sáng,

những rừng hoa cúc, hoa lan, hoa lay - ơn, hoa hải đường muôn hồng nghìn tía,

những cành hoa đào Nhật Tân tươi thắm như còn ở dinh đào, những cây quất ở

Quảng Bá, Tây Hồ, những chậu cảnh công phu của Nghi Tàm, những hàng su

hào, cải bắp, súp-lơ, đua nhau tranh sắc màu với hoa quả. Tất cả hòa hợp trong

cái vui rối rít mà vẫn nhịp nhàng của những tranh, những câu đối, những bao

hương, bao nến, bao chè, những bánh pháo, những hộp kẹo, hộp mứt, những

chậu cá vàng”[66, tr. 151]. Khi viết những dòng này, nhà văn Nguyễn Huy

Tưởng chắc không hình dung được có một ngày chợ Đồng Xuân thời Sống mãi

với Thủ đô đã được xây cất lại, có thể khang trang bề thế hơn nhưng với người

đọc, những hình ảnh sắc nét và sống động về chợ Đồng Xuân một thời được miêu

tả trong tiểu thuyết của ông vẫn đọng lại trọn ven trong ký ức. Bởi không phải

ngẫu nhiên mà Nguyễn Huy Tưởng dẫn giải “Thủ đô có những nơi sang trọng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

như Tràng Tiền, xinh đẹp như Hồ Gươm, nhưng đông vui nhất vẫn là cái chợ ở

vào trung tâm của ba mươi sáu phố phường này, mà cái tên đã đi liền với tên Hà

Nội, mà người tứ xứ kéo về Thủ đô đều phải tới thăm nếu không muốn phải ân

hận khi trở ra về. Đối với người Hà Nội, và nhất là đối với những người dân phố

ở đây, chợ Đồng Xuân là một điểm tự hào”[66, tr. 151]. Và như chúng ta biết,

ngày nay, chợ Đồng Xuân vẫn là một cái tên đầy kiêu hãnh, là một địa chỉ văn

hóa của khách du lịch trong nước và nước ngoài.

2.3. Con người - chủ thể văn hóa trong tiểu thuyết “Sống mãi với Thủ đô”

của Nguyễn Huy Tưởng

Khi nghiên cứu văn học từ góc nhìn văn hóa, ta nhận thấy giữa văn học và

văn hóa có mối quan hệ mật thiết với nhau. Bởi cả hai đều hướng tới đối tượng

trung tâm là con người. Con người vừa là chủ thể sáng tạo, đồng thời cũng là đối

tượng phản ánh của văn học và văn hóa. Chính vì vậy, việc đi sâu tìm hiểu khám

phá thế giới con người sẽ giúp chúng ta chiếm lĩnh được nội dung tư tưởng của

tác phẩm văn học, cũng như hiểu thêm về văn hóa của dân tộc. Tùy vào phong

cách nghệ thuật riêng mà mỗi nhà văn, nhà thơ lại có những quan niệm, điểm

nhìn khác nhau về con ngýời. Nhýng chắc chắn một ðiều là trong quan niệm nghệ

thuật của mỗi nhà vãn ít nhiều ðều chịu ảnh hýởng, sự chi phối của một nền vãn

hóa trong một thời ðại nhất ðinh. Cũng nhý bao nhà vãn khác, trong tác phẩm

của Nguyễn Huy Týởng, cái nhìn thế giới và con người của nhà văn là cái nhìn

dân chủ, đầy ưu ái, thương yêu, không ngừng hướng tới con người. Ở mỗi tác

phẩm “con người phải suy nghĩ và hành động đến kiệt lực để tìm cho mình một

sự lựa chọn, cống hiến trong sáng tạo nghệ thuật”[53, tr. 12].

2.3.1. Con người Hà Nội hào hoa, thanh lịch

Chẳng thơm cũng thể hoa nhài

Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An

Thanh lịch, văn minh là bản sắc đặc trưng của người Hà Nội. Nét thanh

lịch của người Hà Nội không chỉ là độc quyền của những người giàu có, quan

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

chức mà nét đẹp đó được xuất hiện ở mọi tầng lớp. Cho dù đó là những nông dân

quanh năm “chân lấm, tay bùn” thì ở họ cũng toát lên vẻ duyên dáng:

Đất Ngọc Hà tốt tươi phong cảnh

Gái Ngọc Hà vừa đảm vừa xinh

Ơi người gánh nước giếng đình

Còn chăng hay đã trao tình cho ai?

Thanh lịch, duyên dáng trong cách ăn mặc, nhẹ nhàng tế nhị trong cử chỉ

hành động được xem là dấu ấn văn hóa đậm nét của người Hà Nội. Là một nhà

văn có hiểu biết sâu rộng về Hà Nội, Nguyễn Huy Tưởng trong Sống mãi với

Thủ đô bên cạnh việc làm nổi bật tinh thần kiên cường, bất khuất của những con

người yêu nước thì ông cũng chú ý đến việc xây dựng cho tác phẩm của mình

những nhân vật là “trai thanh gái tú” mang vẻ đẹp hào hoa, thanh lịch của người

Hà Nội.

Đúng vậy, khi xây dựng những “mẫu người văn hoá” cho tiểu thuyết của

mình, Nguyễn Huy Tưởng đã đưa hết những đặc trưng của con người Hà Nội

vào trong một số nhân vật như Phúc, Hương, Lan, Tân, Hiền, Nhân, Nhật

Tân…Nét đẹp hào hoa thanh lịch của họ được thể hiện trong trang phục từ cách

ăn mặc gọn gàng, trang nhã, chỉnh tề. Đầu tiên là vẻ đẹp của những cô cái ngoại

thành như Nhân, cô được xem là làng hoa Ngọc Hà với cách làm đẹp kín đáo

không phô trương, khoe khoang lố lăng “Ấy là một cô con gái chạc mười chín

đôi mươi, mặc theo lối phụ nữ ngoại thành. Khăn vuông đen quặt đằng sau, áo

dài phin nâu mỏng hở cổ để lộ cái áo cánh trắng và cái áo len đan màu xanh.

Hai ống tay chét lại, tất cả y phục đều lẳn vào người”[66, tr. 32]. Và tiếp đến là

sự duyên dáng của những cô gái, chàng trai phố cổ Hà Nội, đó là Trinh với “một

chiếc áo len dài màu đen, mặt thoa phấn nhẹ, đầu quàng một cái khăn mỏng màu

hoa cà”[66, tr. 11]. Ở họ toát lên vẻ đẹp, một vẻ đẹp đậm chất dân tộc phương

Đông, cũng giống như Hiền “Hiền là một cô gái mới lớn lên, mặt bàu bàu hơi to

so với khổ người tầm thước. Chị mặc chiếc áo nhung đỏ, quần xa-tanh là, chân

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

đi hài con bướm vàng rung rinh. Đầu Hiền vấn một chiếc khăn nhung lam, cổ

đeo kiềng vàng trơn”[66, tr. 69]

Bên cạnh nét đẹp truyền thống, những con người ấy cũng biết cách tân

lành mạnh, với những trang phục mang nét đẹp phương Tây “Phúc là một thanh

niên trạc hăm bốn, hăm nhăm, nhỏ nhắn và gầy…Anh mặc một cái áo bờ-lu-

dông, cái phu-la-len xanh dọc vàng vắt trễ tràng nửa trước ngực nửa sau lưng

để lộ cái cổ trắng nõn của một con nhà giàu. Anh không đi bít tất, quần dạ xắn

lên. Đôi giày da của anh phủ đầy vôi cát”[66, tr. 128]. Hay “vẫn cái bờ-lu-dông

tím, vẫn cái bao súng lục bóng đeo bên hông, vẫn đôi giày da đen có ghệt nhỏ

túm lấy cái quần dạ màu nâu sẫm”[66, tr. 224], Văn Việt hiện lên với “cái vẻ

hiên ngang nho nhã của một người thanh niên uỷ viên quân sự”.

Cùng với những trai thanh gái lịch ấy, nhà văn cũng dành cho những con

người thuộc tầng lớp lao động những dòng văn đầy cảm mến. Trang phục của họ

tuy chỉ là “một cái mũ dạ tàng, một cái áo dạ tây con đã vá ở hai khuỷu tay, quần

đùi ka-ki vàng rộng thùng thình, thắt lưng da”[66, tr. 33] của Thắng, hay “một

cái quần cộc, một cái áo sơ-mi người lớn bằng ka-ki vàng, lùng bùng sau cái áo

sợi đan màu đỏ kệch”[66, tr. 93] của Lai, và sự phong phanh với “một bộ quần

áo nâu, cổ quàng một cái khăn mặt bông còn mới”[66, tr. 93] không biết rét của

nhân vật Sờn đã cho thấy tuy ăn mặc lam lũ những họ cũng phần nào thể hiện

được nét đẹp của người Hà Nội. Bởi đó là nét đẹp của tâm hồn.

Con người Hà Nội không chỉ đẹp qua cách ăn mặc, mà họ còn đẹp ở phong

cách ứng xử giao tiếp nền nã, văn minh, lịch sự và tế nhị “Lan đứng dậy. Trông

thấy anh về có khách, chị khẽ cúi đầu chào, đôi mắt nhỏ lim dim nhìn xuống”[66,

tr. 166]. Người Hà Nội đến với nhau bằng sự chân thành, họ tiếp đón nhau bằng

sự thân mật, gần gũi “Lan rót một chén nước chè sen mời Sinh. Anh đỡ lấy, đặt

xuống bàn hai bàn tay ôm lấy thành chén, như hơ vào lồng ấp, để cho cái nóng

chuyền sang tay lạnh cóng. Hương thơm của sen ngào ngạt như đánh bạt mùi

thuốc súng còn bám vào quần áo anh và quần áo mọi người. Anh rất cảm

động”[66, tr. 318]. Bất kể là lúc nào, thời bình hay thời chiến thì họ cũng dành

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

cho nhau những tình cảm vô cùng đáng quý, không phân biệt tuổi tác nghề

nghiệp, không phân biệt sang hèn, có thể họ chỉ đến với nhau một cách tình cờ

nhưng lại để lại trong lòng nhau những ấn tượng khó quên “Chúng ta không cần

biết tên tuổi nghề nghiệp, gia đình của nhau làm gì. Cần gì phải biết anh đang

làm tự vệ hay sắp tản cư, anh là Việt Minh hay là Quốc dân đảng, cộng sản hay

quốc gia, anh đã có vợ hay chưa bị bó buộc, anh đang lo vì tình hình hay nhởn

nhơ với nó, anh lạc quan hay bi quan, anh muốn sống hay muốn chết, biết chỉ

thêm buồn, mà cãi nhau thì khổ lắm. Chúng ta chỉ cần biết rằng lúc này - Tân

xem đồng hồ - là năm giờ mười lăm, có năm người Hà Nội còn sống, rất hay,

toàn con số năm cả, năm người cùng họp với nhau, cùng ăn với nhau, ngay trên

đất Hà Nội”[66, tr. 245-246].

Mọi cử chỉ, lời nói, hành động của từng nhân vật đều thể hiện vẻ đẹp của

con người Hà Nội thanh lịch hào hoa. Và cái tài của Nguyễn Huy Tưởng là đã

rất khéo léo để cho nhân vật của mình tự bộc lộ cái vẻ đẹp nền nã, duyên dáng

ấy “Tay cầm cát-két, Sinh định ra. Anh không dám nhìn một người phụ nữ nào,

chỉ thoang thoáng như Lan đang nhìn ra. Mà đúng như vậy. Đứng ở cái cửa

thông vào nhà trong, thỉnh thoảng Lan cũng liếc nhìn Sinh, cái liếc trộm của một

người con gái lớn chưa chồng bị kìm hãm mạnh, khi trông thấy bất cứ người đàn

ông nào”[66, tr. 168].

Người Hà Nội đẹp là vậy, và họ còn đẹp hơn khi một lòng hướng về Thủ

đô trong thời điểm lịch sử có một không hai của dân tộc. Người Hà Nội đẹp từ

ngoại hình đến tính cách, tâm hồn. Chính vì vậy, để nhận ra lối sống hào hoa

phong nhã của người Kinh thành kẻ chợ thì chỉ cần nhìn vào cách ăn mặc, dáng

đi và nghe tiếng nói của họ. Một lần nữa cần phải khẳng định sự hiểu biết rất sâu

về con người Hà Nội của Nguyễn Huy Tưởng. Sự hiểu biết ấy góp phần không

nhỏ làm nên giá trị của tiểu thuyết Sống mãi với Thủ đô

2.3.2. Con người có bản lĩnh và nhân cách cao đẹp

Như chúng ta đã biết, tiểu thuyết Sống mãi với Thủ đô đã dựng lên một

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

không khí Hà Nội sôi sục chuẩn bị kháng chiến. Nhân dân ai cũng hào hứng say

mê muốn góp công sức của mình. Người ta gác lại những nỗi niềm riêng lẻ. Và

từ đêm đầu kháng chiến, những lỗ tường thông từ nhà nọ sang nhà kia đang dần

dần làm cho người Hà Nội xích lại gần nhau. Một sự đổi thay mới mẻ đang diễn

ra trong mỗi con người và trong những mối quan hệ xã hội. Với Nguyễn Huy

Tưởng, con người luôn là trung tâm để ông hướng tới. Vì vậy, trên cái nền tráng

lệ đó của lịch sử, tác giả đã đưa hơn 40 nhân vật với những số phận, hoàn cảnh

và vị trí xã hội khác nhau, xô đẩy vào trong dòng thác lớn của cách mạng: cuộc

kháng chiến thần thánh. Trong tác phẩm, Nguyễn Huy Tưởng đã xây dựng hệ

thống tính cách nhân vật của mình với tất cả tính chất phức tạp và nhiều vẻ của

mỗi con người trong cùng một hoàn cảnh. Tuy các nhân vật chưa thể hiện được

đường đi nước bước trong một thời điểm, một khoảnh khắc, nhưng người đọc

vẫn có thể tìm thấy những nét riêng, cái dáng dấp của những con người Hà Nội

ở những tầng lớp khác nhau. Nhân vật của Nguyễn Huy Tưởng khá là đa dạng

và phong phú, họ được nhìn nhận và ðánh giá qua nhiều khía cạnh. Nhýng có lẽ

những vẻ ðẹp trong tính cách và tâm hồn luôn ðýợc tác giả tập trung ði sâu khắc

hoạ. Qua ðó, tác giả khẳng ðịnh, ca ngợi nhân cách và bản lĩnh sống của con

ngýời Việt Nam.

Trong Sống mãi với Thủ đô chúng ta có thể nhận ra hàng loạt nhân vật

khác nhau. Có những cán bộ hoạt động cách mạng như Quốc Vinh, Nguyễn Gia

Định; những công dân như Dân, Sinh; những người trí thức, học sinh như Trần

Văn Nhật Tân, Quyên, Loan; những người buôn bán, anh em dân nghèo thành

thị, những em bán báo, đánh giầy…Tuy xuất thân từ những hoàn cảnh và tầng

lớp khác nhau về sinh hoạt, tâm trạng, nguyện vong, nhưng tất cả đều cùng một

ý chí là vùng lên giết giặc, không thể sống cuộc đời nô lệ. Phần lớn họ là những

người biết đến cách mạng từ sau ngày Tổng khởi nghĩa. Cách mạng đã đưa lại

độc lập, tự do cho dân tộc nên họ có cảm tình và tin yêu cách mạng. Họ thiết tha

yêu nước, tràn đầy nhiệt huyết, luôn thể hiện bản lĩnh kiên cường, bất khuất trong

giờ phút Thủ đô lâm nguy.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Với tài năng của mình, Nguyễn Huy Tưởng đã khéo léo đưa các nhân vật

của mình vào một cuộc thử thách, để qua đó bộc lộ được những tính cách và nét

đẹp trong tâm hồn họ. Và có lẽ, tầng lớp được tác giả thử thách nhiều nhất là

tầng lớp tri thức tiểu tư sản, bởi ngay từ những ngày đầu đứng vào hàng ngũ

chiến đấu, họ vẫn mang trong mình sự mơ mộng lí tưởng hoá, thiếu thực tế và

phần nào còn có tính chất anh hùng cá nhân, còn tự do vô kỷ luật. Nhưng khi va

chạm với đời sống vô cùng gian khổ, xông vào cuộc thử lửa gay gắt, họ đã lớn

lên và cứng cáp hơn, khẳng định được sự đóng góp của mình vào công cuộc

kháng chiến chung của dân tộc.

Trong các nhân vật tri thức tiểu tư sản như Trần Văn, Văn Việt, Nhật Tân,

Hồng Lưu, Nguyễn Huy Tưởng quan tâm nhiều hơn cả đến Trần Văn, nhân vật

mang sắc thái tự biểu hiện. Đến với tác phẩm, người đọc thấy rõ anh giáo Trần

Văn chán ghét cuộc sống tầm thường, vô vị, qua kinh nghiệm bản thân, anh biết

cách mạng sẽ mang đến cho người trí thức một chân trời mới, niềm vui lớn đến

với anh khi cách mạng thành công: “Anh nhảy nhót trên đường đầy ánh sáng

của một mùa thu tuyệt đẹp. Anh ngẩng đầu ngắm lá cờ sao vàng trên đỉnh cột

cờ, nhìn vòm trời xanh lồng lộng. Cây cối hai bên đường reo vui..”[66, tr. 29-

30]. Nhưng là một thanh niên tiểu tư sản, anh cũng mang theo bản chất yếu đuối,

hoài nghi của tầng lớp mình. Trong đấu tranh cách mạng, dần dần Trần Văn được

rèn luyện, và dần dần vấn đề sống chết đối với anh được đặt ra theo một cách

khác. Trần Văn muốn được đóng góp vào công cuộc chung cho xứng đáng với

trách nhiệm, để bù đắp lại những thiếu sót của ngày qua. Trần Văn bộc lộ nhiều

suy nghĩ chân thực trước giờ phút thử thách quyết liệt, “Sống, chúng ta sẽ được

trông thấy thủ đô ngàn năm không còn bóng giặc. Chết, chúng ta có cái tự hào

của thế hệ đã hy sinh lần cuối cùng cho tự do của Tổ quốc. Chúng ta là những

người nô lệ cuối cùng và đồng thời là những người tự do đầu tiên. Tôi thấy rõ

sống tức là có mặt ở những nơi cần đến chúng ta. Tôi đã nhiều lần vắng mặt rồi.

Rất buồn cho những kẻ đứng ngoài”[66, tr. 103]. Bản lĩnh kiên cường, tinh thần

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

quyết chiến luôn thường trực trong con người này, ở bất cứ nơi đâu, vào bất cứ

thời điểm nào, tinh thần ấy cũng được bộc lộ một cách rõ nét “Tôi nghĩ lúc này

là lúc chúng ta lấp cái nhục bằng gươm bằng súng đấy. Và nếu vì quân Pháp mà

chiến tranh phải xảy ra thì chúng ta sẽ cho chúng nó biết rằng chúng ta không

phải là một giống hèn”[66, tr. 26]. Mọi lời nói, cử chỉ đều cho thấy ở Trần Văn

một con người có lòng yêu nước sâu sắc, bản lĩnh của anh ngày càng được tôi

luyện thêm vững chắc “Sống chết vì Tổ quốc, sống chết vì Cụ Hồ, linh hồn của

dân tộc. Người ta thường trách thanh niên chúng ta không có lý tưởng. Đây là

lúc chúng ta có một lý tưởng để mà phụng thờ, để mà hy sinh […] Ngoài cái ăn

cái mặc ra, còn phải suy nghĩ làm sao có thể giúp ích cho đời, phải có cái gì để

lại, nó đánh dấu sự tồn tại của một con người, nó nâng con người lên trên cái ăn

cái mặc. Đấy là lý tưởng, đấy là lý do sự có mặt của mình trên trái đất”[66, tr.

249-250]. Như vậy, Trần Văn đã đi vào cuộc chiến đấu với tinh thần tự nguyện,

kiên quyết và bản lĩnh của một người Hà Nội.

Hoàn cảnh của Trần Văn có khác với hoàn cảnh của nhạc sĩ Thu Phong,

cũng ở tầng lớp tiểu tư sản trí thức nghèo, bao nhiêu năm kéo mòn đời mình

trong các tiệm nhảy, đã từng lưu lạc ở nước ngoài, đói khổ và bị mọi người rẻ

rúng. Gặp những khi cùng quẫn quá, anh đã có ý định cầu cứu Việt Minh “Hồi

quân Tưởng rút về nước, Thu Phong bỗng có mộng chu du ký hợp đồng sang

Vân Nam, làm cho tiệm nhảy của một viên sĩ quan thất thế ở Long Vân. Nó không

trả tiền, Thu Phong và ba anh bạn khổ quá, tiền không có đến nỗi phải cắt tóc

cho nhau”[66, tr. 332]. Đến khi anh không còn sức, và rồi kháng chiến bùng nổ,

anh sợ sệt cầm súng; nhưng cũng từ những tiếp xúc đầu tiên, Thu Phong dần dần

trưởng thành hơn trong những ngày toàn quốc kháng chiến. Chung sống với anh

em tự vệ, lần đầu tiên Thu Phong thấy “họ rất dễ thương, không thô bỉ như bọn

lính khố đỏ, khố xanh ngày trước. Anh thấy dân tộc mình chưa bao giờ có sức

mạnh như thế và nước mắt anh chảy ra, cảm động nhìn họ cuộn giấy lại để hút

thuốc lào”[66, tr. 335].

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Bên cạnh đó còn phải kể đến Quốc Vinh, người chiến sĩ đã lăn lộn hoạt

động cách mạng, luôn luôn có mặt trên mọi trận tuyến không quản ngại gian khổ

“Hồi bí mật có nhiều lúc khó khăn, anh bị đói khát, bị truy nã”[66, tr. 273] nhưng

anh vẫn tuyên truyền, vận động quần chúng tham gia kháng chiến, mọi công việc

với anh không có gì là khó khăn. Có bị bắt thì anh cũng “cắn răng chịu đựng để

không phản bội”[66, tr. 273]. Trong cuộc kháng chiến mới này, với tinh thần quả

cảm, với ý chí và nghị lực phi thường, Quốc Vinh chính thức được cử làm Phó

chủ tịch uỷ ban kháng chiến Liên khu và phụ trách thường trực. Là người cán bộ

cốt cán, anh luôn hăng say vào công việc của mình, mặc dù sức khoẻ của anh

không được tốt “Cách đây nửa tháng, anh đã đi nằm viện, nhưng vì tình hình,

lại phải trở về công tác. Thầy thuốc khuyên anh không nên thức quá chín giờ

nhưng anh có thực hiện được lời dạy ấy đâu. Mấy đêm liền không ngủ. Người

anh bã ra, anh ho hơn trước, toàn thân đau đớn vì hậu quả của những trận tra

điện, lộn mề gà mà anh đã phải chịu hồi bị mật thám bắt năm bốn mươi hai. Anh

lo cho sức khoẻ, không biết có thế đảm đương công việc không?”[66, tr. 273].

Nhưng dù có như thế nào thì anh vẫn giữ vững tinh thần, sự lạc quan, niềm tin

vào cách mạng đã khiến anh quên đi mọi đau đớn, mệt mỏi “Cái ý nghĩ Liên khu

I sẽ chống giữ đến cùng làm cho anh quên mệt. Công việc kéo anh đi. Quốc Vinh

đang sống cái giờ phút nghiêm trọng, trong nhiều giờ phút nghiêm trọng mà đời

người cán bộ đã trải qua”[66, tr. 274]. Đó chẳng phải là con người có bản lĩnh

hay sao?

Cùng với đó là Nguyễn Gia Định, người hương sư gầy gò giàu nghị lực,

khiêm tốn trong vẻ giản dị của mình, đã là người hi sinh cuối cùng trong công

cuộc kháng chiến bảo vệ dinh Bác “Hàng ngày Bác ở đấy, chúng tôi được luôn

luôn trông thấy Bác, được sinh hoạt với Bác….Chúng tôi không ngại chiến đấu.

Rút đối chúng tôi là một sự vạn bất đắc dĩ. Bởi vì chúng tôi sẽ phải bắt buộc tự tay

phá cái dinh mà chúng ta không ai đang tâm làm cả”[66, tr. 190]. Nói xong người

chính trị viên ngồi xuống “bàn tay anh run run, rút cái bút máy ra rồi lại kẹp vào

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

túi. Anh cũng chẳng nhìn ai cả. Anh chưa nói ra, nhưng anh đã có một chủ trương

dứt khoát. Nếu như phải rút khỏi dinh, anh sẽ là người cuối cùng ở lại, và cả cái

lâu đài kia sẽ đổ sập xuống quân thù”[66, tr. 190].

Bên cạnh những nhân vật trên, Nguyễn Huy Tưởng đã miêu tả khá sinh

động một số kiểu người mà tiếng súng đầu tiên của chiến tranh đã thức tỉnh và

kéo ra khỏi cuộc đời nhung lụa, giúp cho họ từ bỏ lối sống “tự do”, “trung lập”

để chọn một trong hai ngả đường: tự do hay nô lệ, cách mạng hay phản cách

mang. Kiểu người này chúng ta có thể nhận ra ở các nhân vật như Phúc, Hương,

Lan. Cùng xuất thân trong thành phần tư sản mại bản nhưng không giống Tân,

một con người bốc đồng, và đầy băn khoăn giữa sự chọn lựa thì Phúc lại tham

gia vào kháng chiến với ý muốn thay đổi cuộc đời buồn tẻ chán ngấy của gia

đình “thấy nhà bo bo ích kỉ, Phúc đi hoạt động xã hội. Anh đã vào làm giáo viên

hội Truyền bá quốc ngữ, mặc dầu nhà cấm vì sợ mật thám theo dõi. Đã có những

lúc, anh đóng cửa buồng lại, đứng trước gương tập diễn thuyết để sau này ra

làm việc xã hội”[66, tr. 134]. Chưa bị đắm sâu vào các tật xấu của giai cấp xuất

thân, tâm hồn Phúc còn khoẻ khoắn, trong sáng hơn nhiều thanh niên tư sản khác.

Là con nhà giàu nhưng Phúc lại có lối sống khác với mọi người trong gia đình.

Nếu như cha anh, ông Cự Lâm là một kẻ mang đầy tính toán lạnh lùng, nham

hiểm thì Phúc lại là chàng thanh niên luôn sốt sắng với công việc xã hội, Phúc

đã tự ý đến nhà Quảng Xương Long, bắt người gác phải mở cửa và cùng một số

đông tự vệ xông vào kho. Tiếng Phúc oang oang “Cần bao nhiêu cứ lấy. Càng

nhiều càng tốt. Ông cụ đã muốn keo bẩn thì cho keo bẩn một thể”[66, tr. 110].

Phúc chống lại gia đình để tham gia kháng chiến, anh luôn thể hiện sự thân thiết

gần gũi với mọi người. Anh không muốn Sinh gọi mình và các em là cô, là cậu

vì anh cho rằng điều đó sẽ tạo nên khoảng cách giữa anh và mọi người. Nhìn các

anh em trong đội tự vệ mà anh muốn sống một cuộc đời tự lập, không phải ăn

bám vào gia đình “Tôi muốn làm được việc gì có ích. Nếu phải chết vì Tổ quốc,

tôi cũng sẵn sàng”[66, tr. 133].

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Ở đây, hầu như mọi hoạt động kháng chiến đều đã tác động đến cả mọi

tầng lớp, đã gõ cửa từng căn nhà, cuốn hút theo nó tất cả, không ai có thể thờ ơ

lảng tránh hay đứng ngoài cuộc. Nếu những con người ích kỉ, tầm thường chỉ

biết đến chồng con và sắc đẹp như Trinh, hoặc những kẻ lạnh lùng, nham hiểm

như Cự Lâm đã trở nên hoàn toàn lạc lõng và vô nghĩa trong khung cảnh chiến

đấu, thì những con người bình thường giản dị như Sinh, Tu lại nhờ trải qua chiến

đấu mà trở nên anh hùng. Và cũng có cả những nhân cách tồi tàn đã có lúc tưởng

phải bỏ đi như Long đen, nay được rèn luyện trong khói lửa lớn vượt lên, trở

thành một thành viên tích cực của đội ngũ cứu quốc.

Kháng chiến bùng nổ, toàn dân hướng về Thủ đô. Bản lĩnh kiên cường,

tinh thần yêu nước của người Việt Nam lúc bấy giờ không chỉ được thể hiện ở

những chàng thanh niên tiểu tư sản hay những anh bộ đội cụ Hồ mà nó còn được

thể hiện ở những người phụ nữ, bình thường họ vẫn được xem là phái yếu cần

được che chở và bảo vệ, thì lúc này trong giờ phút trọng đại của dân tộc họ lại

đứng lên khẳng định vai trò của mình với kháng chiến. Đó là Quyên, một nữ học

sinh đi vào kháng chiến với niềm say mê lý tưởng trong sáng. Quyên hăng hái

tham gia cách mạng, mọi lời nói, cử chỉ của cô cho thấy điều quan trọng đối với

Quyên và đối với toàn dân tộc vào thời điểm này là phải đấu tranh để dành lại tự

do độc lập “Chúng ta không thể sống mãi trong nhục nhã được”[66, tr. 25];

“Chúng em là học sinh Hà Nội. Học sinh Hà Nội mà tản cư thì nhục lắm. Ở Hà

Nội có làm sao đi nữa cũng vẫn hơn. Lần này em sẽ đến nhà chị Oanh xin cho

công tác đấy anh ạ”[66, tr. 26]. Đó là Nhân, một cô gái chạc mười chín đôi mươi,

thường có mặt khắp nơi trong Liên khu và rất hăng hái trong những cuộc vận

động mùa đông binh sĩ, quyên tiền, quyên gạo, quyên thịt ủng hộ bộ đội, và là

người đứng đầu cuộc khởi nghĩa của chị em khu chợ Đồng Xuân “chị đã xung

phong vào trong trại giặc, đòi gặp thằng chỉ huy, đòi nó phải thả mấy chị em của

chúng ta ra. Nó đuổi chị ra, chị cứ đứng lại. Nó bắt chị đem giam cùng với mấy

chị em kia. Đến trưa nó cho ăn để lấy lòng, nhưng chị Nhân đã nhịn đói để hưởng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

ứng cuộc đấu tranh của chúng ta”[66, tr. 158]. Chính vì vậy, mọi người yêu mến

ngợi ca và thán phục chị bởi cái bản lĩnh bất khuất của chị. Tiếp đến là Oanh,

bản lĩnh của Oanh có lẽ được tác giả khẳng định rõ nét nhất là sau cái chết của

ông Gia Lộc, bố của Oanh. Còn gì đau đớn hơn khi mất đi người thân, nhất là

trong cái thời khắc sôi sục của cuộc chiến bảo vệ Thủ đô, vậy mà “trong cái buổi

sáng thứ nhất của kháng chiến có một người con gái tiếp lấy súng của người cha

chết trận và lại đi công tác”[66, tr. 392]. Còn cả hai cô gái Lan và Hương, em

của Phúc, từ nhỏ đến lớn cấm cung trong bốn bức tường âm u cũng nhờ cuộc

kháng chiến mà họ dần hòa nhập với mọi người. Họ mạnh dạn vượt ra khỏi mọi

lễ giáo mà bà cô trước kia từng áp đặt để đến với cách mạng bằng việc nhiệt tình

với công việc phục vụ bộ đội và cả anh em trong đội tự vệ.

Không dừng bút ở những nhân vật trên, Nguyễn Huy Tưởng còn thể hiện

sâu sắc bản lĩnh của người Việt Nam qua hình ảnh của những đứa trẻ như Thắng

và Lai. Thắng là một cậu bé bán báo, có cha đã từng vào bộ đội Nam tiến nhưng

đã hy sinh. Phải chăng sự hy sinh của người cha ấy đã tiếp thêm dũng khí cho

cậu con trai bây giờ để rồi cậu nằng nặc đòi u cho theo bộ đội. Cuộc sống vất vả

của kháng chiến khiến chú bé “thấy cuộc đời rất lạ và mỗi lúc chú một dạn thêm,

không sợ như khi mới bắt đầu nổ súng”[66, tr.348]. Còn Lai, một cậu bé đánh

giầy, với tinh thần yêu nước, cậu đã xin vào tự vệ. Với một con người nhỏ bé

như vậy, thì có thể làm được gì cho kháng chiến, đó hẳn là suy nghĩ chung của

nhiều người. Nhưng có lẽ cậu bé ấy đã nhận thức được tình hình thời cuộc lúc

bấy giờ, cậu muốn góp phần vào công cuộc đó nên cậu đã khẳng định một cách

dứt khoát “nhưng cháu không sợ chết”[66, tr. 95], rồi “nghèo cũng khổ. Bé cũng

khổ. Thế thì cháu ở với ai? Cháu đi đâu bây giờ? Mấy thằng bạn cháu biết làm

gì bây giờ? Thôi được. Cháu lại đi tìm bộ đội vậy. Cháu lại đi tìm các cậu tự vệ

khác. Cháu đi đến chỗ nào nhận cho cháu ở lại thì thôi”[66, tr. 96]. Lai sẽ làm

mọi cách để được ở lại Hà Nội cùng toàn dân chiến đấu bảo vệ Thủ đô. Phải nói

rằng, Thắng và Lai dưới ngòi bút của Nguyễn Huy Tưởng được xem là những

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

cậu bé với vẻ bề ngoài nhỏ nhắn, vô tư hồn nhiên nhưng lại mang trong mình

một tinh thần thép.

Nhân vật trong tiểu thuyết của Nguyễn Huy Tưởng không chỉ là những

con người yêu nước sâu sắc với bản lĩnh, ý chí kiên cường và tinh thần quyết

chiến quyết thắng, hy sinh đến giọt máu cuối cùng để bảo vệ Thủ đô. Mà họ còn

là những con người có nhân cách cao đẹp, nhân cách ấy thể hiện ở tinh thần đồng

đội, ở tình làng nghĩa xóm, là tình cảm giữa con người với con người, là lòng vị

tha cao cả và là sự hi sinh thầm lặng cho công cuộc kháng chiến của một số nhân

vật.

Nói đến tình nghĩa giữa con người với nhau, thì ngay những trang đầu của

tiểu thuyết chúng ta nhận thấy Trần Văn đã động lòng thương cho một ông lão

“không có nón, không có mũ, tóc nửa màu đất, túm lại thành một cái búi đằng

sau, nhỏ như một hòn bi. Mắt lão mờ dại như mắt người hấp hối, mồm há ra để

đớp không khí, cổ chỉ còn hai miếng da mỏng như tờ giấy dính cằm. Vai lão đeo

một cái đãy nhỏ, lưng gẫy gập cõng một đứa trẻ độ hai tuổi. Đứa trẻ ngủ, cái

đầu ngoẹo xuống. Thảm nhất là nó lại chít một cái khăn đại tang còn mới”[66,

tr. 15]. Hay sự thương mến của Loan dành cho anh thợ nặn tò he trong buổi chiều

hôm ấy “Loan thấy thương thương người nghệ sĩ bình dân, và nhơ nhớ những

trò vui đơn giản làm nhộn nhịp thêm, thân mật thêm những vườn hoa, những rìa

hè, những đầu đường Hà Nội, đem lại chút giải trí cho những kẻ nghèo”[66, tr.

37]. Hơn nữa, trong không khí đấu tranh của dân tộc, những con người từng là

lưu manh như Long đen cũng nhận được sự cảm mến của Loan, một học sinh Hà

Nội “Loan cảm động nhìn mọi người đang đứng sát lại. Những thân hình còn

mảnh dẻ tương phản với những cái vóc nặng nề, cục mịch, những đầu bóng mượt

với những mớ tóc bù rối. Những thư sinh mặt trắng mới từ bỏ mái trường họp

với những người phu, người thợ chỉ có hai bàn tay trắng, những người mà ngày

thường không ai gọi là người Thủ đô, nhưng đến lúc này lại bám lấy Thủ đô hơn

cả mọi người. Ngay cả đối với Long đen, Loan cũng thấy có cái gì đáng mến”[66,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

tr. 96]. Bởi đây là lúc lương tâm của một con người đang được thức dậy “phải

có một lòng yêu chân thành mới làm cho những đống tro ấy cháy lại. Sự lạnh lẽo

của tình cảm không bao giờ cứu vớt được một con người”[66, tr. 102]. Long đen

không những nhận được sự cảm mến của Loan mà có lẽ với Trần Văn anh cũng

được nhìn nhận là một con người thực sự “Trần Văn nhìn trong đám lưu manh

không có Long đen. Anh thở dài, mừng thầm cho hắn và ân hận như đã để lỡ một

dịp cứu vớt một con người khốn nạn”[66, tr. 222].

Chiến tranh đến, khắp bốn bề những tiếng đục tường thông nhà nọ sang

nhà kia nổi lên bí mật, như đứt hơi, như giận dữ. Những cái lỗ ấy đã khiến cho

người dân Hà Nội như sát lại gần nhau hơn, thêm yêu thương nhau hơn, họ cùng

nhau đào đường, chặt cây, đắp ụ, làm chướng ngại vật…và họ biết sẻ chia những

khó khăn với nhau “Ông Ngọ tự vệ phố Hàng Khoai, một người thợ mộc đã đứng

tuổi, từ trong phố ra, tay phải giữ lấy hai tấm phản trên vai, đầu ngoẹo vào để

giữ riết lấy cái vật nặng. Ông chạy bành bạch đến đầu phố, trước cái hố dài đã

đào ngang đường. Ông số 6 lần lượt đỡ hai tấm phản xuống, bắc lên miệng hố

như hai cái cầu. Ông Ngọ bảo hai bác phu xe bò: “được rồi đấy, cho xe sang

đi””[66, tr. 136]. Những người do điều kiện sống cũ vốn thường ít quan tâm đến

nhau thì hôm nay họ sát cánh bên nhau với tình cảm thiêng liêng của người dân

Hà Nội kháng chiến. Nguyễn Huy Tưởng đã lắng nghe thấy ở bên trong cái âm

thanh của tiếng búa, tiếng đục tường những gì đang bị phá vỡ và cũng có những

cái đang hồi sinh “Rì rầm những tiếng nói tiếng cười. Những bức tường ngăn

cách mọi nhà đang được mở ra, đầu phố nọ đang sát lại đầu phố kia, những con

người không biết nhau, thành kiến với nhau, khinh ghét lẫn nhau, lừa lọc lẫn

nhau đang gần lại”[66, tr.108].

Ai ai trong số những nhân vật của Nguyễn Huy Tưởng đều được thể hiện

là những con người có nhân cách cao đẹp. Nhưng có lẽ, nhân vật được tập trung

nhiều nhất là Trần Văn qua cách anh nhìn nhận về những con người như Long

đen, Tu, Sờn…và đặc biệt là tình nghĩa mà anh dành cho Trinh. Khi gặp Trinh ở

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

nhà ga, sau câu hỏi không mấy vui vẻ của mẹ Trinh, Trần Văn cau mặt và anh

buồn cho Trinh “Cái mã ngoài sang trọng, thượng lưu thật ra chỉ để giấu một

đời sống nghèo nàn, một tâm hồn đớn hèn”[66, tr. 12]. Anh buồn vì “Hồi yêu

Trinh, anh tưởng Trinh thông minh, có ngờ đâu Trinh lại thảm đến như thế

này”[66, tr. 12]. Đến khi, trong lúc anh chuẩn bị bố trí cái ổ tác chiến mới của

anh, thì ô-tô của Trinh và Bao phóng qua và lúc ấy anh cau mặt, bực mình vì cái

nhởn nhơ của họ. Nhưng giờ đây anh có chút hối hận, sao anh có thể giận Trinh

bởi “Anh cảm thấy mình đã quá khắt khe với người, với việc. Có những phút con

người lắng xuống, tự thấy mình có những khinh ghét vu vơ, và lúc ấy người ta

trở nên độ lượng, tha thứ cho cả những cái chẳng hay ho gì cho lắm” và rồi “anh

thấy người lâng lâng, lòng không bợn chút hờn oán đối với một người đàn bà

yếu đuối”[66, tr. 219]. Với Trần Văn những chuyện xưa kia giữa anh và Trinh

chỉ còn là quá khứ, anh không giận Trinh vì điều gì. Mọi hành động, cử chỉ và

thái độ của anh với Trinh và con bé Diễm lúc này, và đặc biệt là sau khi Bao -

người chồng Trinh chết càng cho người đọc thấy ở anh một tấm lòng bao dung,

vị tha “Trần Văn ẵm con Diễm đi sau Trinh”, “Trần Văn cuộn lại cái chăn ủ

con bé mà anh đã làm tung ra”[66, tr. 301]. Anh thật thà giúp đỡ Trinh, nhưng

anh lại không muốn có bất cứ một sự hiểu lầm nào. Với anh bây giờ “Trinh chỉ

là một người cơ nhỡ, một nạn nhân của chiến tranh. Nhìn Trinh nhỏ bé trong

bóng tối, lảo đảo vì mệt mỏi, khuỵu luôn, trật giày luôn, anh thấy ngậm ngùi

thương hại”[66, tr. 302].

Trong tiểu thuyết, để khắc sâu những nhân cách cao đẹp của nhân vật,

Nguyễn Huy Tưởng đã không ít lần nhắc đến sự hi sinh. Đó là tấm lòng hi sinh

của một người mẹ, dù biết những gì đứa con đang làm là nguy hiểm nhưng bà

vẫn cứ để con làm. Tấm lòng đó khiến Trần Văn càng thương mẹ, và trong cái

thương đó có lẫn nhiều cảm phục vì “Anh biết trong thâm tâm, bà cụ muốn anh

cùng về quê. Chẳng có người mẹ nào muốn cho con chịu những thảm hoạ của

chiến tranh. Nhưng bà cụ không ngăn anh vào tự vệ, và khi anh nói phải ở lại

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

chống giữ Thủ đô, mẹ chỉ dặn: “cẩn thận đấy, chú ạ. Nhờ giời, Cụ Hồ điều đình

được không phải đánh nhau thì là phúc nhất””[66, tr. 8]. Đó cũng là sự hi sinh

của một bà mẹ dành cho tám đứa con “Việc bà cụ bán ruộng để mua súng cho

Nhật Tân” làm cho Dân cảm động. Nhưng hơn hết phải nói đến sự hi sinh của

ông Lộc, ông là một người cha không những có tinh thần chiến đấu anh dũng,

quả cảm, mà còn là một người cha yêu thương con hết mực. Chẳng cần nói ra,

những cử chỉ của ông cũng đủ cho thấy tình cảm cha con của họ đẹp như thế nào

“Ông quăng xe đạp xuống đường, rồi đứng trước mặt con, hai tay kéo Oanh lại

gần, ngửa mặt Oanh lên, mỉm cười nhìn con, và ghì má con vào má mình”[66,

tr. 266]. Trước khi chết, ông nói “Nếu tôi chết thì cũng đã làm tròn nhiệm vụ của

tôi đối với phố của chúng ta. Anh đi đi. Để tôi nằm ở đây. Anh có gặp con Oanh

nhà tôi thì với nó là tôi đã đánh xe tăng, như tôi đã hứa với nó”[66, tr. 337]. Ông

ngã xuống giữa con đường của kháng chiến nhưng vẫn không quên nhờ Thu

Phong trao lại cho Oanh khẩu súng lục. Khẩu súng này, dường như là ước nguyện

cuối cùng của ông, ông muốn con gái ông tiếp tục công việc kháng chiến bảo vệ

Thủ đô, tham gia vào cách mạng với tinh thần kiên cường như ông. Lúc này, cái

tình của một người cha, cái nghĩa vụ của một người công dân yêu nước được ông

Lộc gửi gắm vào khẩu súng ấy.

Sự hi sinh cao cả cho Thủ đô, cho đất nước không phải chỉ có ở mẹ Trần

Văn, mẹ Nhật Tân hay ông Lộc. Mà nó có ở mọi người dân của Thủ đô, họ hi

sinh nhà cửa, vườn tược, cấy cối, đồ dùng sinh hoạt…tất cả đều nhằm mục đích

phục vụ kháng chiến. Những việc làm ấy cũng rất xứng đáng để chúng ta ngợi

ca.

Tóm lại, Nguyễn Huy Tưởng đã chủ động điều khiển khối lượng mấy chục

nhân vật hoạt động trong một trình tự khá chặt chẽ, người viết không dàn đều mà

đã chọn lọc để làm nổi bật lên những tính cách chủ đạo. Qua tiểu thuyết ta thấy

tác giả đã phác hoạ được nhiều thái độ khác nhau, nhiều số phận khác nhau của

con người trong một cơn rung chuyển lớn lao của lịch sử. Một cách đặt vấn đề

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

như thế, đối với các sáng tác trước cách mạng của ông, là hoàn toàn mới lạ, chưa

thể có được, hoặc có chăng cũng chỉ thoảng qua. Cùng viết về chiến tranh của

Hà Nội, Sống mãi với Thủ đô giàu chất hiện thực hơn Những người ở lại. Sống

mãi với Thủ đô không lấy cuộc kháng chiến của Hà Nội làm đường viền cho một

tấm kịch nhỏ gia đình như trường hợp Những người ở lại mà đi vào phản ánh

trực diện cuộc chiến đấu của quân và dân Hà Nội, một cuộc chiến đấu sinh tử mà

“mỗi phố là một trận địa, mỗi nhà là một pháo đài”, mọi người đều quyết tâm

“thề sống chết với Thủ đô”.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Tiểu kết chương 2

Dấu ấn văn hoá Hà Nội được thể hiện khá sâu sắc qua từng trang viết của

Nguyễn Huy Tưởng. Với sự am hiểu tường tận và vốn kiến thức phong phú,

Nguyễn Huy Tưởng đã miêu tả bức tranh thiên nhiên mang dấu ấn đặc trưng của

văn hoá Việt Nam, tác giả cho người đọc thấy được những đặc trưng cơ bản của

thiên nhiên, thời tiết khi vào đông, nhất là vào những ngày cuối năm trong không

khí ảm đạm của chiến tranh. Đồng thời bức tranh về đời sống văn hoá-xã hội của

người Hà Nội cũng được hiện lên vô cùng sinh động, và đầy ấn tượng. Nhưng

thành công hơn cả có lẽ là sự phản ánh, khắc hoạ vẻ đẹp của con người Hà Nội.

Con người Hà Nội dưới ngòi bút của Nguyễn Huy Tưởng vừa mang nét đẹp của

văn hoá truyền thống, vừa mang tính hiện đại. Điều đó thể hiện ở những nét tính

cách tiêu biểu như: con người Hà Nội hào hoa, thanh lịch; Con người Hà Nội với

bản lĩnh và nhân cách cao đẹp. Như vậy, đến với Nguyễn Huy Tưởng và tiểu

thuyết Sống mãi với Thủ đô chúng ta được trang bị thêm cho mình những kiến

thức về văn hoá Hà Nội nói riêng và văn hoá Việt Nam nói chung. Qua đó, chúng

ta cần phải biết trân trọng, giữ gìn và phát huy những nét đẹp văn hoá của dân

tộc. Phải làm sao để những nét đẹp đó ngày một phát triển và hội nhập với văn

hoá thế giới.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Chương 3

MỘT SỐ PHƯƠNG THỨC THỂ HIỆN DẤU ẤN VĂN HOÁ HÀ NỘI

TRONG TIỂU THUYẾT “SỐNG MÃI VỚI THỦ ĐÔ”

CỦA NGUYỄN HUY TƯỞNG

3.1. Nghệ thuật xây dựng nhân vật

Nhà văn Tô Hoài cho rằng “ Nhân vật là nơi duy nhất tập trung hết thảy,

giải quyết hết thảy trong một sáng tác”. Như vậy, trong một tác phẩm văn học,

nhất là đối với thể loại truyện, nhân vật có vai trò vô cùng quan trọng. Nhân vật

có chức năng khái quát tính cách, hiện thực cuộc sống và thể hiện quan niệm của

nhà văn về cuộc đời. Là sự biểu hiện khả năng chiếm lĩnh thế giới nghệ thuật

cùng với tư tưởng nghệ thuật, lý tưởng thẩm mỹ của nhà văn về con người. Hơn

nữa, nhân vật không chỉ là nơi bộc lộ tư tưởng, chủ đề tác phẩm, mà còn là nơi

tập trung các giá trị nghệ thuật của tác phẩm. Ý thức được tầm quan trọng của

nhân vật nên mỗi nhà văn đều tập trung xây dựng cho tác phẩm của mình một hệ

thống nhân vật mà qua đó có thể bộc lộ một cách hiệu quả nhất ý đồ tư tưởng

của nhà văn. Khi tìm hiểu tiểu thuyết Sống mãi với Thủ đô của Nguyễn Huy

Tưởng, chúng tôi quan tâm tìm hiểu đến nghệ thuật xây dựng nhân vật của tác

giả để từ đó thấy được những dấu ấn văn hoá có trong từng bút pháp nghệ thuật.

3.1.1. Nghệ thuật miêu tả ngoại hình nhân vật

Dân gian ta có câu tục ngữ: “Trông mặt mà bắt hình dong”. Con người

khi tiếp xúc với nhau thì điều đầu tiên mà ai ai cũng để ý trước nhất có lẽ là ngoại

hình. Quả thật như vậy, ngoại hình ít nhiều có ảnh hưởng tới tính cách của con

người. Từ đó khi đi vào một tác phẩm văn học, điều mà tác giả hướng tới đầu

tiên hẳn sẽ là ngoại hình của nhân vật. Đây là một thủ pháp quen thuộc trong

sáng tạo nghệ thuật của nhà văn. Qua đó tác giả gửi gắm nội dung tư tưởng của

tác phẩm. Cũng giống như các nhà văn khác, Nguyễn Huy Tưởng cũng tập trung

đi sâu miêu tả nhân vật của mình với những đặc điểm về hình dáng, trang phục,

nét mặt…và tất cả những yếu tố đó đều ghi dấu đặc trưng của văn hoá Hà Nội.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Đầu tiên, chúng ta hãy cùng đi khám phá xem Nguyễn Huy Tưởng đã khắc

hoạ ngoại hình nhân vật của mình qua trang phục. Cách ăn mặc của con người

được xem là một trong những yếu tố để làm nên vẻ đẹp của họ, đó là vẻ đẹp về

ngoại hình và cũng sẽ phần nào tác động đến tính cách, lối sống của con người.

Trong tiểu thuyết Sống mãi với Thủ đô với số lượng nhân vật khá nhiều nhưng

nhà văn Nguyễn Huy Tưởng không vì thế mà sao nhãng làm mờ nhạt đi những

hình tượng nghệ thuật của mình. Nhà văn vẫn khéo léo miêu tả cụ thể từng nhân

vật, mỗi nhân vật lại được tác giả khắc hoạ theo một cách riêng. Nhưng điểm

chung của các nhân vật đó là dù có ăn mặc theo lối truyền thống hay cách tân

theo xu hướng hiện đại thì trang phục của họ cũng là một dấu ấn văn hoá đặc

biệt.

“Ăn Bắc, mặc Kinh” - câu ngạn ngữ chỉ nét đẹp trong trang phục của người

kinh đô Thăng Long với dấu ấn Hà Thành cổ kính và thanh lịch. Đến với tiểu

thuyết Sống mãi với Thủ đô ta thấy tác giả đã làm “sống lại” trước mắt độc giả

bóng dáng văn hoá Hà Nội qua cách ăn mặc theo lối truyền thống của một số

nhân vật. Theo lối truyền thống ấy, cho thấy người Hà Nội xưa ưa sự gọn gàng,

kín đáo, nề nếp. Vẫn biết trong khói lửa của chiến tranh, sẽ chẳng có ai muốn

nghĩ đến chuyện ăn mặc, chuyện làm đẹp cho mình, nhưng với “một chiếc áo

len dài màu đen, mặt thoa phấn nhẹ, đầu quàng một cái khăn mỏng màu hoa

cà”[66, tr. 11], thì cái vẻ đẹp và cái sang trọng của Trinh vẫn nổi bật lên giữa

đám người tản cư sẩm tối. Trinh là loại phụ nữ “biết mình có cái dáng người làm

tôn y phục”[66, tr. 11], hơn nữa Trinh có vẻ đẹp dịu dàng được Bao cho là rất

phương Đông. Chính vì thế mà Trinh “toát ra một thứ lịch sự tự nhiên khiến mọi

người chú ý”[66, tr.11].

Hay tiếp đến là Nhân, một người có cách ăn mặc theo lối phụ nữ ngoại

thành. Đó là “khăn vuông đen quặt đằng sau, áo dài phin nâu mỏng hở cổ để lộ

cái áo cánh trắng và áo len đan màu xanh. Hai ống tay chét lại, tất cả y phục

đều lẳn vào người”[66, tr. 32]. Trang phục của Nhân và Trinh nhìn nhận kĩ ta sẽ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

thấy điểm chung, đó là sự kết hợp hài hoà của những màu sắc nhẹ nhàng, đơn

giản. Người phụ nữa xưa thường chuộng những màu như đen, nâu, trắng, xanh

hay tím...Đây là những màu sắc tạo nên vẻ đẹp dịu dàng, duyên dáng cho người

phụ nữ, và đặc biệt, ngoài cái quần, cái áo thì những người phụ nữ ấy bao giờ

cũng có một chiếc khăn vuông đội đầu. Điều này được tác giả tiếp tục thể hiện

qua nhân vật Hiền, con một nhà buôn cau lớn, trang phục của Hiền có phần tươi

tắn hơn nhưng vẫn mang cái gì đó của văn hoá truyền thống “Chị mặc chiếc áo

nhung đỏ, quần xa-tanh là, chân đi hài con bướm vàng rung rinh. Đầu Hiền vấn

một chiếc khăn nhung lam, cổ đeo kiềng vàng trơn”[66, tr. 69]. Và tân tiến hơn

một chút là Oanh với “áo len xanh đan thưa để lộ một cách đỏm dáng cái cổ áo

lụa thêu”[66, tr. 186]. Sự nhẹ nhàng, kín đáo, không loè loẹt, phô trương trong

trang phục của những nhân vật trên khiến họ hiện lên thật đẹp trong mắt người

đọc.

Theo thời gian, năm tháng, trước sự thay đổi của cuộc sống, trong sự hội

nhập của đất nước thì cách ăn mặc của người Hà Thành cũng có những đổi thay.

Những con người Hà Nội bây giờ có phần tân tiến hơn, họ biết làm đẹp, biết cách

tân trang phục của mình cho phù hợp với xu hướng của xã hội, nhưng sự thay

đổi đó không làm mất đi nét đẹp truyền thống của dân tộc. Có nghĩa là trong

trang phục của họ có sự kết hợp hài hoà giữa truyền thống và hiện đại. Trong

tiểu thuyết của mình, Nguyễn Huy Tưởng đã khoác lên cho nhân vật của mình

những bộ trang phục Âu hoá như Văn Việt, nguyên là một thầy kí máy đèn. Văn

Việt được miêu tả “Vẫn cái bờ-lu-dông tím, vẫn cái bao súng lục bóng đeo bên

hông, vẫn đôi giày da đen có ghệt nhỏ túm lấy cái quần dạ màu nâu sẫm”[66, tr.

224] đã cho người đọc thấy được cái vẻ hiên ngang nho nhã của người thanh niên

uỷ viên quân sự. Cùng với đó là Phúc, một thanh niên nhỏ nhắn và gầy, dáng vẻ

mang kiểu cách của con nhà giàu “Anh mặc một cái áo bờ-lu-dông cũ, cái phu-

la-len xanh dọc vàng vắt trễ tràng nửa trước ngực nửa sau lưng để lộ cái cổ

trắng nõn của một con nhà giàu. Anh không đi bít tất. Quần dạ xắn lên. Đôi giầy

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

da của anh phủ đầy vôi cát”[66, tr. 128]. Hay Tân, cũng một thiếu gia con nhà

giàu nên trang phục của anh cũng mang sự cách tân hiện đại “Tân trạc ngoài hai

mươi tuổi, trễ tràng trong bộ quần áo xanh trả, sơ-mi không đeo cờ-ra-vát”[66,

tr. 60]. Và nhạc sĩ Thu Phong, cái nghề nghiệp của anh đã có ảnh hưởng đến kiểu

cách ăn mặc của người nghệ sĩ, trong bữa tiệc cuối ngày trước giờ kháng chiến,

Thu Phong “mặc một bộ quần áo màu xám sắt, kiểu cài cúc giữa, gi-lê phờ-la-

nen trắng, có dây đồng hồ vàng vắt qua hai túi dưới”[66, tr. 247].

Ngược lại với trang phục thể hiện vẻ đẹp sang trọng của những “nam thanh

nữ tú” như Phúc, Văn Việt, Trinh, Hiền hay Tân. Lại là sự giản dị có phần nhơ

nhếch tuềnh toàng của Tu, trong cái giá lạnh của mùa đông, vậy mà “anh chỉ

phong phanh một bộ quần áo nâu, cổ quàng một cái khăn mặt bông còn mới”[66,

tr. 93], rồi cả Sinh nữa “cái mũ cát-két, bộ quần áo vải tím của anh ta lấm tấm

vôi cát, đôi giày da thuộc trắng xoá như bị vùi bột”[66, tr. 131]. Với vẻ bề ngoài

kém phần sang trọng nhưng họ lại có nét dễ mến của những con người chân chất,

thật thà.

Miêu tả người Hà Nội tác giả Nguyễn Huy Tưởng không chỉ miêu tả những

đối tượng là nam nữ thanh niên mà những đứa trẻ như Thắng và Lai cũng được

nhà văn quan tâm, khắc hoạ một cách thật sinh động. Trước hết là qua những bộ

quần áo mà chúng mặc trên người. Với Thắng, tác giả miêu tả “Chú bé cắp một

cái cặp da cũ đựng đầy những báo Cứu quốc, Dân Thanh, Dân mới. Nó đội một

cái mũ dạ tàng, mặc một áo dạ tây con đã vá ở hai khuỷu tay, quần đùi ka-ki

vàng rộng thùng thình, thắt lưng da giấu một quả lựu đạn”[66, tr. 33]. Còn Lai

“mặc một cái quần cộc, một cái áo sơ-mi người lớn bằng ka-ki vàng, lùng bùng

sau cái áo sợi đan màu đỏ kệch”[66, tr. 93]. Đó là những đứa trẻ lam lũ, vất vả,

đói khát từ miếng ăn đến tấm áo. Đáng thương hơn là chúng phải hứng chịu

chứng kiến cảnh ngột ngạt của chiến tranh. Ấy thế mà ở chúng vẫn toát lên vẻ

hồn nhiên, tinh nghịch của một đứa trẻ. Nhưng điểm sáng nhất của chúng khiến

người đọc ấn tượng là tinh thần chiến đấu không sợ gian khổ của những đứa trẻ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

đáng lẽ ra phải được chăm lo đầy đủ, được đến trường. Chính tinh thần quả cảm

ấy đã làm nên vẻ đẹp của con người Thủ đô. Tinh thần sống chết với Thủ đô đã

được lan toả ở mọi tầng lớp, mọi giai cấp trong xã hội.

Tuy nhiên, với Nguyễn Huy Tưởng, đời sống văn hoá thời đại không chỉ

được thể hiện trong trang phục mà nó còn được thể hiện qua việc nhà văn miêu

tả dáng người, nét mặt của các nhân vật. Số lượng nhân vật nhiều nhưng tác giả

luôn biết nắm bắt những nét tiêu biểu và đặc sắc nhất để chỉ bằng vài nét chấm

phá đã lột tả được tính cách của nhân vật.

Đúng vậy, bằng cái tài của một người nghệ sĩ luôn gắn bó mình với từng

trang văn, Nguyễn Huy Tưởng đã dựng lên những bức chân dung vô cùng phong

phú và đa dạng. Vẻ đẹp của từng nhân vật được hiện lên với những hình dáng

khác nhau như cái dáng “dong dỏng cao. Cái đầu húi cua theo lối bàn chải, trông

có vẻ gọn gàng, nhanh nhẹn”[66, tr. 22] của Trần Văn được tác giả miêu tả tương

phản với “đôi mắt lờ đờ của một người mơ mộng nhiều hơn thực tế, tình cảm

nhiều hơn lý trí”[66, tr. 22]. Trái với dáng người cao, gầy của Trần Văn là cái

thân hình “vai rộng, người lớn. Một pho tượng lực sĩ nước da đen hồng, khuôn

mặt trái xoan, lưỡng quyền hơi cao, đường nét gẫy gọn, không bị thịt mỡ làm

cho thô và nặng. Toàn thể toát ra một con người khoẻ mạnh, thật thà giản dị,

điểm đôi chút phớt lờ”[66, tr. 36] của chàng thanh niên tên Dân. Và cả Tu nữa,

anh được miêu tả với “hai vai rộng và chắc nịch như lực điền, da mặt dày lên vì

sự vất vả và tính thật thà”[66, tr. 90]. Còn Mộng Xuân, anh kép cải lương, lại là

một con người với cái thân hình “ẻo lả, mặt trắng bệch, tóc mai dài, ăn mặc chải

chuốt một cách lẳng lơ”[66, tr. 90], chỉ với vài nét vẽ mà Nguyễn Huy Tưởng

không chỉ làm nổi bật lên hình tượng nhân vật của mình mà ông còn gọi lên được

cho người đọc thấy cách ăn mặc đặc trưng của những anh kép. Đến Sinh, nhà

văn lại miêu tả “người cao cao, xương xương, nước da ngăm ngăm đen mắt một

mí, không nhỏ lắm ẩn dưới bộ lông mày rậm”[66, tr. 131]. Nhưng với Tân, một

thiếu gia con nhà giàu được hiện lên là “một thanh niên tầm thước, lẻo khoẻo,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

để tóc mai dài, bộ ria nhỏ như một nét bút chì kẻ nhỏ”[66, tr. 234]. Văn Việt thì

“dáng người tầm thước, nho nhã, kiểu cách, gọn ghẽ trong chiếc bờ-lu-

dông”[66, tr. 74].

Đó là những chàng thanh niên của Thủ đô, Nguyễn Huy Tưởng thật khéo

khi miêu tả những con người này. Mỗi người một vẻ, qua cái dáng hình người

thì gầy gò, mảnh dẻ, người thì to cao lực lưỡng…người đọc nhận thấy được tính

cách cũng như lối sống của từng người. Bên cạnh những chàng trai đó là bóng

hình của những người phụ nữ. Vẫn là bút pháp miêu tả tỉ mỉ, chi tiết, các chị em

phụ nữ hiện lên thật duyên dáng và đáng mến. Quyên, với tính cách nhí nhảnh

của tuổi học sinh, cô được khắc hoạ với vẻ “mũm mĩm, không đẹp nhưng tươi vì

cái miệng nhỏ có duyên, răng nhỏ và đều tăm tắp”[66, tr. 20]. Còn hai chị em

Hương và Lan, tuy là chị em một nhà nhưng qua cách miêu tả của nhà văn thì có

lẽ không ai nghĩ rằng họ là chị em ruột, bởi họ không giống nhau ở một nét nào.

Hương “mặt bừng như hơ lửa, đôi mắt bồ câu lấp loáng cái sáng hồn nhiên của

tuổi thơ và cái e thẹn của tuổi dậy thì. Tóc loà xoà trên hai vai mảnh khảnh,

khuôn lấy cái mặt trái xoan hơi gầy, nhưng cái gầy ấy chỉ làm sắc sảo thêm, gãy

gọn thêm những đường nét trong sáng sinh động dưới làn da tươi mát như nhung.

Chân tay chưa nảy nở hết còn lọng khọng, vụng về, luôn luôn cử động. Hương

như con chim nhỏ bỡ ngỡ trước cuộc đời lúc nào cũng như giật mình muốn vỗ

cánh bay. Khác với Hương, Lan tuy mới ngoài hai mươi, đã có cái dáng nặng nề

xộc xệch của một người đứng bóng. Nước da trắng, mai mái, xoa phấn nhẹ,

không còn cái nhuỵ ánh lên của những người đương độ. Đôi mắt nhỏ buồn buồn,

mặt vô vị và không chuyển động như Phật, phản ánh một cuộc sống cấm cung,

cách biệt với cuộc đời, khép nép và giả dối, âm thầm và lạnh lẽo. Đôi vú lép, do

bà giáo bắt phải ép dẹp xuống, làm cho thân hình Lan thẳng tuột cứng đờ. Những

nốt trứng cá mọc dày trên hai má bì bì, càng tăng cái vẻ vô duyên, đồng thời

cũng để lộ ra, ngoài ý muốn của Lan, một đời sống quạnh hiu đầy khát khao và

thèm muốn”[66, tr. 128-129].

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Nhìn chung, dù miêu tả nam hay nữ, người lớn hay trẻ nhỏ, thì Nguyễn

Huy Tưởng cũng dành cho họ những nét bút chân thực nhất, giàu tình cảm nhất,

và để lại trong lòng người đọc những ấn tượng sâu sắc nhất. Miêu tả nhân vật

qua vẻ đẹp ngoại hình, nhà văn đã làm nổi bật lên tính cách và lối sống của từng

người. Nhưng hơn hết là tác giả đã thể hiện thật sâu sắc những nét đẹp văn hoá

của dân tộc. Những nét đẹp ấy không phải chỉ có ở con người Hà Nội mà nó còn

có ở toàn thể nhân dân Việt Nam ta.

3.1.2. Nghệ thuật miêu tả cử chỉ, hành động nhân vật

Như trên chúng ta đã nói, nghệ thuật miêu tả ngoài hình nhân vật trong

các tác phẩm văn học là một trong những yếu tố làm nên sự thành bại của một

nhà văn. Thì nay chúng ta cũng cần khẳng định thêm, nhân vật không phải chỉ

được khai thác, khám phá qua vẻ bề ngoài, mà trong suốt quá trình tạo dựng lên

một tác phẩm nghệ thuật, người nghệ sĩ cũng rất chú ý xây dựng lên những cử

chỉ và hành động cho nhân vật. Bổ sung thêm các yếu tố để nhân vật được hoàn

thiện hơn, từ đó cũng giúp nhân vật bộc lộ được tính cách của mình rõ nét hơn.

Chính vì vậy, trong tiểu thuyết Sống mãi với Thủ đô tác giả Nguyễn Huy Tưởng

cũng đã chú ý miêu tả cử chỉ, hành động nhân vật. Và điều đáng chú ý là hầu như

những cử chỉ và hành động đó đều hướng về một cái đích đó là bảo vệ Thủ đô

với tinh thần và ý chí quật cường

Trong tác phẩm, cử chỉ và hành động của nhân vật được gợi lên đã cho

người đọc thấy con người Việt Nam nói chung và quân dân Thủ đô lúc bấy giờ

nói riêng rất thương yêu, đùm bọc, che chở cho nhau và đều một lòng cùng nhau

hướng đến tinh thần quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh. Đó là sự miệt mài, say mê

với công việc của Loan. Là một học sinh tỉnh lẻ nhưng ngay lúc này, Loan như

một người con thực sự của Hà Nội, anh vui mừng khi được tham gia vào kháng

chiến, anh sẵn sàng nhận nhiệm vụ và làm việc không biết mệt mỏi, say mê đến

mức khi thấy tất cả mọi người cũng đang chuẩn bị xông vào cuộc chiến đấu sống

chết như anh thì “Loan thấy yên tâm hơn trong cái việc vẽ bản đồ mà mới đầu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

anh còn cưỡng lại”[66, tr. 97] và rồi “Anh cắm cúi vẽ tay run run vì rét và vì sự

quan trọng của công việc. Nhưng rồi mắt anh cay xè, hoa lên. Bàn tay cóng dừng

lại. Loan thiu thiu buồn ngủ”[66, tr. 98]. Đến một người tỉnh lẻ còn hăng hái như

vậy, nói gì đến những người con của Thủ đô. Cùng với sự hăng say của Loan là

sự dứt khoát từ bỏ lối sống khuôn khổ có phần cổ hủ của gia đình để tham gia

kháng chiến của Phúc. Phúc đến với cuộc chiến đấu này trên tinh thần tự nguyện,

và không phải đến khi chiến tranh xảy ra anh mới cho mọi người thấy cái tinh

thần đó, mà trước đó anh đã chống lại gia đình để tham gia vào các hoạt động xã

hội với công tác tuyên truyền. Và đến khi kháng chiến bùng nổ, anh đã “tự tiện

đến nhà Quảng Xương Long, bắt người gác phải mở cửa, và cùng một số đồng

chí tự vệ xông vào kho. Người gác giữ lại thì Phúc chửi mắng thậm tệ”[66, tr.

110] và Phúc đứng ở ngoài vỉa hè hò hét giục mọi người, tiếng Phúc oang oang

“Cần bao nhiêu cứ lấy. Càng nhiều càng tốt. Ông cụ đã muốn keo bẩn thì cho

keo bẩn một thể”[66, tr. 110]. Hành động này của Phúc thật đáng ngợi ca, cho

thấy anh không bị phụ thuộc, chịu sự kiểm soát của ai, anh hoàn toàn tự do trong

mọi hành động. Dưới Phúc là hai cô em Hương và Lan, họ đều là những cô nàng

tiểu thư, tuổi thanh xuân của họ chỉ là bốn bức tường bởi sự hà khắc của bà cô,

ấy thế mà họ cũng đã đứng dậy bật tung bức tường gia giáo ấy để đến với cách

mạng theo sự chỉ đạo dìu dắt của anh trai. Tham gia chiến đấu, có thể họ không

giỏi đào đường, chặt cây, đắp ụ, có thể họ không biết cầm súng, cầm gươm, sử

dụng xe tăng đại bác như những chàng thanh niên, những anh bộ đội cụ Hồ,

nhưng họ lại rất tích cực và nhiệt tình phục vụ anh em đội tự vệ và bộ đội “Người

hút thuốc lá người ăn xôi chè. Sinh lẳng lặng rút đi. Lan, Hương và mấy bà thay

nhau rót nước. Từ lúc Phúc về, Lan đã đỡ sợ, và bây giờ đã nhanh nhẹn ra. Anh

em vừa ăn vừa khen xôi vò và chè sen của chị.”[66, tr. 319].

Tiếp đến là Nhật Tân, trong công cuộc kháng chiến anh cũng luôn thể hiện

tinh thần chiến đấu yêu nước ghét giặc của mình. Anh làm công tác tuyên truyền,

vận động mọi người tham gia cùng nhau sống chết với Thủ đô. Anh cố gắng làm

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

mọi cách để thúc giục Tân, bạn thân của anh vào tự vệ nhưng mọi nỗ lực của anh

đã không được kẻ nửa vời của thời cuộc đáp lại.Và không vì thế mà anh xao lãng

công việc, ý chí suy giảm, anh càng hăng hái hơn và tinh thần ấy được bộc lộ rất

rõ khi anh chứng kiến cảnh ông Ngọ bị thằng Tây giết hại lúc đó “Nhật Tân đã

nhảy ra đường, dẻo dang như một anh hùng trong phim ảnh…anh nghiến răng,

chĩa súng bắn thẳng vào ngực nó. Anh từ từ đút súng vào túi. Nhìn thằng Tây

giãy giụa, cái mồm lút dưới mớ râu xồm đen ngáp ngáp, anh mỉm cười khinh bỉ,

lấy giày hất cái xác sang một bên và lững thững đi về phía Đồng Xuân.”[66, tr.

141]. Và còn cả Thu Phong và Vũ Minh nữa, họ là những người hoàn toàn xa lạ

với nhau và mới chỉ biết đến nhau qua bữa tiệc ở nhà Tân. Thì nay trong đêm

đầu của cuộc kháng chiến, họ lại vô tình gặp lại nhau, một sự gặp lại kì lạ, họ

“ôm chầm lấy nhau, thân thiết như đôi bạn lâu đời”[66, tr. 335]. Trong cái bóng

tối ngột ngạt mùi súng đạn, mùi của xác người, vào cái thời điểm phải đối diện

với cái chết khi mà quân giặc đang tấn công vào Thủ đô, hai chàng thanh niên ấy

đã nói với nhau “hay là tự tử” vì “đằng nào cũng chết. Để nó bắt được thì nhục,

mà tra tấn thì khó lòng chịu ðýợc”[66, tr. 339]. Với suy nghĩ như vậy cho thấy,

những con người yêu nước ấy đã “thề sống chết với Thủ đô, nay nguyện cùng

chết để khỏi sa vào tay giặc”[66, tr. 340]. Ấm lòng biết mấy khi dân tộc ta có

những con người như vậy, thà “chết trong còn hơn sống nhục”. Hay chỉ một hành

động nhỏ của ông Lộc là đưa súng cho Oanh, con gái ông, cũng đã cho thấy nó

đẹp như thế nào, nó đẹp bởi nó đã thể hiện được ý chí quyết tâm chiến đấu của

ông Lộc, và ông muốn Oanh có tinh thần như ông.

Miêu tả sự say mê, hăng hái với công việc kháng chiến, nhà văn Nguyễn

Huy Tưởng không chỉ miêu tả những nam nữ thanh niên khoẻ mạnh mà ông còn

đưa ngòi bút của mình hướng tới những con người bình thường, có khi trong

cuộc sống bình thường, nếu không để ý thì rất nhiều người sẽ không biết đến sự

tồn tại của họ. Nhân vật mà chúng tôi muốn nói đến ở đây là Ông số 6, đó là một

con người mà trong cái đời “tứ cố vô thân” của ông -quê quán, bố mẹ, anh em,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

ngay cả tên tuổi của mình, ông đều không biết. ông nương thân ở những ngôi

đền, ngôi chùa. Công việc hàng ngày của ông là “vào phố quét tước các vỉa hè,

thu dọn những đống rác do các hàng rong bày ra đường” và đêm đến “ông đi

nhặt những xác chết trần truồng chỉ còn da bọc xương….Tờ mờ sáng, sau khi

những người đói còn sống sót toả đi các phố xin ăn, ông lại rửa ráy sạch sẽ

những chỗ vỉa hè họ vừa nằm vừa bậy ra hôi thối….Sau đấy ông trở về đền quét

dọn. Cái đền sạch sẽ đến nỗi ai vào lễ cũng thấy nhẹ lâng lâng”[66, tr. 142].

Những việc làm lặng thầm của ông đã góp phần không nhỏ cho cuộc kháng chiến.

Đó là một con người tầm thường, giản dị trong cuộc sống nhưng lại là một chiến

sĩ hi sinh thầm lặng cho cách mạng.

Hành động, cử chỉ của mỗi nhân vật trong tác phẩm đều thể hiện sự quyết

tâm chống trả đến cùng, quét sạch quân thù ra khỏi đất nước. Và đẹp biết bao khi

những hành động ấy lại mang thêm vẻ đẹp nhân văn sâu sắc. Đối diện với sự

sống chết ở mọi lúc mọi nơi, nhưng quân và dân Thủ đô vẫn luôn thể hiện tinh

thần yêu thương, đoàn kết, che chở cho nhau. Đó là khi Ông Ngọ và Ông số 6

bắc hai tấm phản gỗ thành cái cầu qua cái hố đào ngang đường để giúp hai bác

phu xe bò đi qua. Hay là khi Nhật Tân cùng anh em đội tự vệ giúp một cái xe bò

chở nước mắm đi qua con đường đang xẻ. Nhật Tân nói “Chúng ta là người Hà

Nội, chúng ta phải lịch sự anh em ạ. Tự vệ phải giúp đỡ nhân dân. Chúng ta đào

hố để ngăn giặc, nhưng không được làm phiền cho đồng bào” và “anh đứng lên

miệng hố, hoa chân múa tay, giục mọi người như chính anh là một cấp chỉ

huy….Anh hô mọi người xúm vào đẩy cái xe bò”[66, tr. 137]. Và đôi khi chỉ là

cái nắm tay giữa hai con người cũng khiến cho cái ảm đạm lạnh ngắt của chiến

tranh trở nên ấm áp lạ lùng. Cái nắm tay để truyền hơi ấm, truyền cho nhau sức

mạnh, niềm tin để chiến đấu. Đó là cái nắm tay thể hiện sự sẻ chia của Sinh dành

cho Phúc “Sinh chăm chú nghe Phúc, đến đây anh bỗng chìa tay nắm lấy tay

người bạn mới. Cái bàn tay đầy chai của anh như nuốt lấy cái bàn tay ẻo lả của

anh sinh viên. Đây là lần đầu tiên Sinh chìa tay ra với Phúc….Đôi bàn tay nắm

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

chặt. Gió rét thổi vù vù. Sinh nói: “Không có những ngày như thế này, có lẽ

chúng ta chẳng bao giờ bắt tay nhau cả”. Một nụ cười nở trên môi làm sáng cái

mặt xương xương của anh thợ nguội”[66, tr. 165-166]. Nhưng đáng chú ý nhất

có lẽ là hành động, cử chỉ mà Trần Văn đối với Trinh. Con người ai cũng vậy,

cuộc sống đôi khi khiến cho con người ta lúc thế này, lúc thế khác. Ai cũng có

lúc vui, buồn, sướng, khổ. Bình thường còn vậy, nói chi gì đến chiến tranh, trong

tác phẩm Nguyễn Huy Tưởng đã khéo xây dựng tình huống khi đưa nhân vật

Trinh đến một hoàn cảnh vô cùng éo le, ác nghiệt khi cả chồng và người vú em

đều bị giặc giết chết để qua đó làm nổi bật lên tấm lòng vị tha bao dung của Trần

Văn khi anh luôn cố gắng giúp đỡ hai mẹ con Trinh “Sau khi biết chuyện vú em

chết, Trần Văn thấy mình không thể bỏ mặc Trinh ở đây được. Anh ẵm Diễm,

dẹp đường cho Trinh đi. Trong khi vội vã cũng không ý tứ nữa, anh nắm lấy bàn

tay Trinh, kéo Trinh lên trước mặt, để anh đi sau chặn dòng người”[66, tr. 439].

Chiến tranh luôn mang đến cho con người sự căng thẳng mệt mỏi, nhưng

với tinh thần thép, quân và dân Thủ đô vẫn luôn vững vàng, sẵn sàng để chiến đấu.

Trong quá trình bám trụ và bảo vệ Hà Nội, bên cạnh những giây phút tưởng chừng

chỉ cách “thần chết” trong gang tấc thì những nhân vật trong tiểu thuyết Sống mãi

với Thủ đô vẫn vang lên những tiếng cười sảng khoái trước hành động pha trò trêu

bé Thắng của Dân “Dân vẫn mặc bộ quần áo xanh công nhân, đội mũ ca-lô tím,

áo và mũ đầy bồ hóng, cánh tay phải cắp một viên đạn mooc-chi-ê nhưng chẳng

bợn đến thân hình cao lớn, vững chãi của anh. Anh há cái miệng rộng, cười một

cách thật thà. Bỗng anh làm bộ sợ hãi, chạy quanh gian phòng như để tránh đạn.

Anh nhặt viên đạn lên, lè lưỡi, rùng mình, khiến cho anh tiểu đội trưởng và Thắng

đều cười ầm lên”[66, tr. 351]. Tiếng cười trong chốc lát nhưng đã xoá đi sự lạnh

lẽo của mùa đông và chiến tranh. Nó dường như tiếp thêm sức mạnh cho quân và

dân ta trong công cuộc kháng chiến.

Từ việc miêu tả cử chỉ, hành động của từng nhân vật trong tác phẩm,

Nguyễn Huy Tưởng đã thầm ca ngợi những tấm gương “quyết tử cho Tổ quốc

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

quyết sinh” của dân tộc Việt Nam. Những con người ấy đã làm đẹp truyền thống

văn hoá nước nhà. Họ xứng đáng được tôn vinh trong những trang sử hào hùng

của dân tộc ta.

3.1.3. Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật

Đối với một tác phẩm văn học, trong quá trình xây dựng những hình tượng

nghệ thuật, người nghệ sĩ bên cạnh việc miêu tả ngoại h́ ình, cử chỉ và hành động

của nhân vật thì việc đi sâu khai thác diễn biến tâm lí của nhân vật cũng là điều

mà nhà văn đặc biệt quan tâm. Đã là con người thì ai cũng có những suy nghĩ và

có cả một thế giới nội tâm bên trong. Ngoại hình là yếu tố được biểu hiện ra bên

ngoài mà ai cũng có thể nhìn thấy, nhưng nội tâm bên trong thì không phải ai

cũng biết. Diễn biến tấm lí của con người bao giờ cũng vậy, vô cùng phức tạp.

Thế nhưng việc miêu tả tâm lí nhân vật với Nguyễn Huy Tưởng lại là sở trường

bởi tác giả là một người nghệ sĩ tài ba luôn biết cách khai thác tìm hiểu cái thế

giới bí ẩn đó của con người.

Trước hết chúng ta nhận thấy nhân vật được tác giả tập trung miêu tả tâm

lí nhiều nhất là Trần Văn. Trong suốt quá trình trước và khi chiến tranh xảy ra,

tâm lí và những suy nghĩ của Trần Văn luôn được nhà văn đề cập đến. Đầu tiên

là tâm trạng khó chịu vì câu hỏi dớ dẩn của mẹ Trinh và cả những lời nói của

Trinh khi hai người gặp nhau ở nhà ga. Những lời nói đó khiến “Trần Văn cau

mặt”, cùng lúc đó Trần Văn nghĩ đến “giữa cái nhục và cái hiên ngang ở lại Thủ

đô. Trần Văn đã chọn cái thứ hai. Anh cảm thấy người anh nhẹ nhàng. Anh không

phải bịn rịn vì mẹ nữa. Anh mừng thầm mẹ đã đi khỏi nơi nguy hiểm”[66, tr. 13].

Bước cùng Loan trên đường ra phía Bờ Hồ, trong lòng anh gợi lên cảnh người

dân Hà Nội đã ra đây lấp các hầm hố vào một buổi sáng mùa thu cách đây vài

tháng. Lúc ấy “Trần Văn tưởng như bóng ma chiến tranh sẽ không bao giờ còn

trở lại nữa” vậy mà giờ đây nó đang rầm rập đến sau lưng. Đây là một cuộc

chiến đấu sống chết với quân xâm lược Pháp, và Trần Văn thấy mình phải là

người dự cuộc, không thể trốn tránh mặc dầu còn bỡ ngỡ. Nên từ nãy tới giờ “sự

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

xấu hổ tủi nhục cứ xoáy mãi vào lòng anh, làm cho anh tức thở và chốc chốc lại

đau nhói. Anh muốn thoát ra, mà có cái gì cứ chập lấy anh. Anh muốn vươn lên,

nó cứ đè anh xuống. Anh muốn bước nhanh, mà chân cứ nặng nề. Anh muốn thét

lên một tiếng kêu to, nhưng miệng anh như ngậm sỏi, và khi anh nói ra, anh cảm

thấy lời nói gượng gạo, nhạt nhẽo, rời rạc, đứt hơi. Nỗi giận càng phải kìm đi

anh càng thấy mệt mỏi và bất lực. Trong trí anh, lộn xộn những hình ảnh của

bọn mũ đỏ thâm thù, của bọn Tây đầm ngạo nghễ, của mấy thằng bồi hèn hạ,

của lá cờ bị vò nát, của anh thông tin vô tội mà lúc này có lẽ chúng đang tra tấn,

trong khi đó có thể vợ con anh ta đang rưng rức khóc thầm. Hai hàm răng rít

lại, anh run run nghĩ đến cái phút sảng khoái được cầm một con dao sắc thọc

sâu vào cổ một thằng giặc, không cứ là đứa nào. Nhưng anh nhắm mắt lại, cảm

thấy bàn tay mình yếu ớt, không quen. Trong uất ức, anh bỗng thấy chói lên

những vinh quang của người anh hùng áo vải mà sự nghiệp cứu nước dính chặt

với Hồ Gươm”[66, tr. 47]. Tham gia vào tự vệ ngót nửa tháng, trong lần đầu tiên

cùng anh em đào hầm “Trần Văn cảm thấy có một cái gì vui không thể nói được,

nó ấm ấm, nhẹ nhẹ, phơi phới từ bên trong đưa ra”[66, tr. 80], đôi khi Trần Văn

“thấy mình nhẹ nhõm, trong cái say sưa của nguy hiểm và cái kích thích của

phiêu lưu”[66, tr. 106]. Những suy nghĩ, hành động của anh dưới ngòi bút của

nhà văn cho thấy sự hồ hởi hăng hái, say mê, nhiệt tình với công việc của dân

tộc. Vậy mà, khi tham gia vào bữa tiệc ở nhà Tân cùng những người bạn chưa hề

quen biết, bữa tiệc kéo dài với rượu và thức ăn ngon khiến cho “Trần Văn như

quên hết. Có lúc anh muốn cưỡng lại, nhưng rồi cứ đắm trong cái không khí lạ

lùng này. Anh mong mỏi chẳng có sự gì xảy ra. Anh tự hỏi: “có phải như thế này

mới thật là sống không?””[66, tr. 248]. Sau cơn say của men nồng, tiếng trái phá

đầu tiên làm cho anh tỉnh giấc, loạng choạng bước ra ngoài, biểu hiện tâm lí của

Trần Văn lúc này được tác giả khai thác khá sâu. Anh thất thểu đi dưới con đường

đạn bay vèo vèo, sau những lần thoát chết “Trần Văn cảm thấy mình như đã vượt

được bao nhiêu nguy hiểm” nhưng lòng anh vẫn ngổn ngang trăm mối “phần lo

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

cho tính mạng đến đâu rồi đã thoát được chưa. Phần vui vui vì một vài tin đầu

tiên thu lượm được. Nhưng bao trùm nặng nề, day dứt là cái ý nghĩ sắp gặp lại

anh em. Anh càng đau xót thấy mình là một thằng hèn hạ, một kẻ trốn tránh, một

tên đào ngũ. Sự bỏ đi của anh có thể làm thiệt nhiều đến bao nhiêu công việc ở

nhà. Anh đã làm thiệt cho kháng chiến. Trong khi mọi người đang xông ra giết

giặc, hay ít ra cũng có nhiệm vụ gì-anh thèm cái công việc chặt cây thầm lặng

của mấy người vô danh kia-thì anh còn ở đây, lang thang và thảm hại. Anh vẫn

chỉ là một kẻ đứng ngoài đối với cuộc chiến đấu. Nó không phải là của ai nữa

mà là của anh, của tất cả mọi người Việt Nam lúc này. Anh muốn được trở về

ngay. Anh sẽ cầm súng lục của anh xông ra trận, có gục chết vì đạn giặc, anh

cũng vui lòng. Đạn vèo vèo, anh tự nhủ: Trần Văn ơi, mày đừng chết nhé. Nhưng

rồi anh lại nghĩ: Mà có chết đi thì cũng đáng đời! Đầu anh nhức, lòng trống

không, miệng cay đắng. Cái khát kinh người càng làm cho anh rời rã, khốn khổ,

hoang mang”[66, tr. 288-289]. Trong cơn suy nghĩ vô định ấy, anh gặp Nhật Tân

“mừng mừng tủi tủi, Trần Văn bắt tay Nhật Tân, nắm chặt lấy, như đứa trẻ vớ

được một vật gì thì không rời ra”[66, tr. 290]. Từ sau cái sự việc khiến anh xấu

hổ với anh em tự vệ và những người cán bộ lãnh đạo cách mang, anh đã có một

quyết tâm lớn. Anh nghĩ “chỉ còn cách là lăn xả vào cuộc chiến đấu để chuộc

lại cái lỗi lầm của mình” và “Anh lấy làm đau khổ rằng trong cái đêm trọng đại

này, anh lại làm một việc mất hết cả lòng tin cậy của anh em….Dù phải hi sinh

trong trận này, anh cũng không có một chút ân hận”[66, tr. 428]. Nhưng cái hào

hứng của anh tan đi cùng với trận đánh, hơn nữa khi thấy cảnh anh em tự vệ của

các khu tát nhau, đấm nhau, đá nhau, vung dao, vung mác định giết nhau khi họ

tranh giành nhau cái máy chữ, chăn màn…điều đó làm cho “Trần Văn đau đớn

trước cái cảnh tượng không đẹp mắt ấy. Nó trái với sự tưởng tượng của anh”[66,

tr. 429].

Phải nói rằng, Trần Văn là nhân vật được tác giả đi sâu miêu tả tâm lí trong

suốt quá trình chiến đấu của quân và dân ta. Diễn biến tâm lí của nhân vật này được

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

khai thác theo một trình tự lô gic làm cho người đọc như được cuốn hút vào thế giới

nội tâm của nhân vật và từ đó cũng khiến cho chúng ta hiểu thêm được nhiều điều

ở nhân vậy này. Nhưng ngoài Trần Văn thì Nguyễn Huy Tưởng cũng không để cho

những nhân vật khác của mình bị lạc lõng, ông cũng đã khá là tỉ mỉ khi miêu tả tâm

lí của các nhân vật như Trinh, Sinh, Loan, Quốc Vinh…

Với Trinh, một cô gái được nhìn nhận ban đầu là người có cuộc sống viên

mãn với sự bao bọc, chở che của người chồng và một cuộc sống đầy đủ. Thế

nhưng, sau khi tiễn mẹ ở nhà ga, trở về nhà “Trinh thấy như hẫng hẳn cuộc đời.

Cái xã hội nhỏ bé của Trinh lại càng thu hẹp. Trinh tủi vì Bao không ra ga tiễn

mẹ. Cuộc gặp gỡ với Trần Văn làm cho Trinh nghĩ ngợi thêm nhiều”[66, tr. 52],

Trinh đọc báo thấy tin “Hãy đề phòng trường hợp lạc trẻ…” đây không phải là

tin quan trong nhưng sao “Trinh lo sợ, tay chân run rẩy”, “Trinh phân vân không

biết cho Diễm đi hay ở lại, đeo dấu cho con hay không?”[66, tr. 53]. Sự khốc

liệt của chiến tranh đã cướp đi sinh mạng của Bao, khiến cho mẹ con Trinh lâm

vào cảnh khốn cùng “Nghĩ đến xác chồng còn nằm đó, không ai chôn cất, Trinh

lại sụt sùi khóc. Chỉ trong nháy mắt, cả cuộc đời êm đềm của chị đổ sụp”, Trinh

nhận được sự giúp đỡ của Trần Văn, từ lúc gặp anh, Trinh “đi từ ngạc nhiên đến

bối rối, từ cảm động đến biết ơn, từ đau đớn hoang mang đến một cái gì dìu dịu

như được người an ủi”[66, tr. 300-301]. Nỗi bất hạnh của Trinh đâu có dừng ở

đó, cho đến khi cả người vú em cũng bị thằng Tây giết hại “Trinh sợ quá, suýt

tuột tay đánh rơi con Diễm. Nhà Cự Lâm chỉ còn cách vài chục thước mà Trinh

không sao đi được”[66, tr. 310]. Trước kia, mọi việc trong nhà Trinh không phải

động tay, kể cả việc chăm bé Diễm đều là vú em chăm lo, nên lúc này đây, trong

cơn sài của con Diễm, Trinh hoang mang, tuyệt vọng “Trinh hối vì đã sợ mất cái

dáng đẹp của mình mà không giữ sữa và ít ẵm con. Trinh đưa lưỡi vào cái miệng

đói mềm yếu và mãnh liệt của con và thấy cái miệng nhỏ như đang rút hết ruột

gan mình. Chị ấp con vào lòng rung lên trong thương yêu và đau khổ”[66, tr.

312]. Trinh tiếp tục nhận được sự giúp đỡ của Sinh, anh đưa mẹ con Trinh đến

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

nhà Cự Lâm, lúc này “Trinh ngơ ngác một mẹ một con…Nhìn đứa con đói lả

không còn sức để khóc nữa, Trinh cực cho mình và cực cho con; chị không oán

trách chồng đã không nghe chị, chị cũng không trách ai vì những người chị gặp

từ lúc nổ súng đến giờ đều tốt cả. Trinh oán trách một cái gì tàn bạo, ngang trái,

tự nhiên ở đâu đến chỉ trong vài tiếng đồng hồ đã phá tan tất cả cái gì là hạnh

phúc của đời Trinh. Trinh sẽ đi đâu và con Trinh sẽ thế nào”[66, tr. 315]. Những

suy nghĩ đó khiến Trinh cứ trằn trọc, tiếng đại bác làm con Diễm giật mình, Trinh

nắm lấy tay con, trong khoảng khắc đó Trinh nghĩ “Hai mẹ con cùng mong manh

yếu đuối. Trinh chỉ có một nguyện vọng. Nếu phải chết thì hai mẹ con cùng chết

một lúc”[66, tr. 316], nghĩ đến đây “Trinh mếu máo một mình”. Tìm hiểu diễn

biến tâm lí của Trinh ta thấy, đây là một nhân vật thờ ơ với sự sống còn của Thủ

đô. Nhưng qua việc tạo dựng và đưa nhân vật đi từ tình huống này đến tình huống

khác của nhà văn đã làm nổi bật lên sự ác liệt của chiến tranh. Chiến tranh mang

đến cho con người những mất mát không chỉ về vật chất mà nó còn ảnh hưởng

đến đời sống tâm lí của con người. Mọi trang viết của nhà văn đều mang một

dụng ý, một tư tưởng nào đó, mà chỉ có đi sâu khám phá chúng ta mới thấy được.

Phân tích tâm lí nhân vật là sự phản ánh thế giới nội tâm của nhân vật,

giúp nhân vật bộc bộ những tâm tư, tình cảm, thể hiện tính cách, con người của

mình. Người đọc cũng nhờ đó mà có những nhận xét, đánh giá về nhân vật và

cái tài của người nghệ sĩ. Trong Sống mãi với Thủ đô Nguyễn Huy Tưởng đã

khá thành công trong việc thể hiện nội tâm của nhân vật Trần Văn hay Trinh.

Nhưng không chỉ có vậy, khi cả Thủ đô đang chìm trong khói lửa, sục sôi với

công việc kháng chiến thì những nhân vật khác của tác phẩm cũng được tác giả

khai thác tỉ mỉ, chi tiết. Đó là tâm trạng vui mừng của Sinh, khi được tham gia

vào đội tự vệ, niềm vui ấy dường như đã xua tan đi cái giá buốt của mùa đông

“Sinh vui một cách lạ, đầu choáng váng như say. Trời rét và gió bấc, sương mù

lất phất như mưa. Nhưng Sinh thấy nóng ran trong người, máu rậm rật như trong

ngày xuân ấm” được Quốc Vinh tặng cho một khẩu súng lục Đức, điều mà Sinh

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

mơ ước từ lâu. Đã rất lâu rồi, anh thèm có được nó, cầm khẩu súng trong tay

“anh buồn cho một số người, sắm cả súng trường, súng ngắn, nhưng rồi bỏ về

quê”, nghĩ đến nó “anh có cái hí hửng của một người được của” [66, tr. 161].

Và còn cả Loan nữa, cũng vui mừng không kém gì Sinh khi được góp phần vào

cuộc chiến đấu của Thủ đô “Loan vâng khe khẽ một cách lễ phép. Loan còn dè

dặt, do cái thói quen của một người tỉnh nhỏ, và cũng do cái lòng tôn kính đối

với thầy. Nhưng Loan vui lắm. Trần Văn sẽ giới thiệu anh vào tự vệ”[66, tr. 31],

đến khi có thông báo Loan về ở với Ban tuyên truyền để làm cách mạng. Cầm

cái chứng minh thư mà “anh có cảm tưởng như bắt đầu từ giờ phút này anh sẽ

chuyển vào một cuộc đời đầy nguy hiểm, và cái giấy này buộc anh vào một cái

gì đó chặt chẽ, cứng như gang thép. Anh thấy lạnh suốt từ gáy đến chân”[66, tr.

99]. Vui biết mấy khi được cùng nhân dân chống trả quân thù giành lại độc lập

cho dân tộc. Đây là tâm trạng chung của hầu hết các nhân vật trong tác phẩm như

Quốc Vinh “Quốc Vinh cảm thấy lạnh từ gáy đến chân, nhưng trong lòng anh

bừng bừng phấn khởi” [66, tr. 182], như Phúc, anh đã từng nói với Sinh “tôi

thích làm những việc ấy lắm” anh muốn được sống một cuộc đời như những

người anh em trong đội tự vệ, dù có khó khăn vất vả nhưng họ vẫn cứ vui, cứ

hát, anh thấy “cuộc đời như thế vui hơn là lúc nào cũng nghĩ những mưu này kế

nọ”[66, tr. 165]. Đôi khi đó lại là tâm trạng băn khoan do dự của nhân vật trước

khi lựa chọn cái chết để bảo vệ danh dự như Vũ Minh “Tuy nói thế, nhưng Vũ

Minh còn trù trừ chưa muốn rút kíp. Anh tưởng anh sẽ là người giải phóng Thủ

đô, hãnh diện với người yêu. Ngày ấy, anh sẽ đội mũ sắt, đi ủng cao, đeo kiếm

dài đi trong đoàn chiến sĩ hiên ngang, giữa những tiếng hoan hô vang dậy. Có

muôn đóa hoa ném xuống người anh”[66, tr. 341]. Và cũng có lúc là tâm trạng

day dứt vì những gì đã làm, đã nghĩ của nhân vật như Thu Phong. Khi trao khẩu

súng của ông Lộc cho Oanh, thông báo cho Oanh tin bố cô đã mất “Thu Phong

rưng rưng nước mắt”, “nghĩ đến cái vụ tự tử hụt mà đêm qua anh đã cười vỡ

bụng, lúc này Thu Phong lại hoe hoe đỏ mắt” trước những gì mà anh đang chứng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

kiến. Anh nghĩ rằng “Cuộc sống vẫn có nghĩa dù chỉ để đưa tin nhà cho một

người bạn chiến” [66, tr. 391]. Hay tâm trạng của đứa con khi nghe tin bố mất,

cái tin như sét đánh khiến cho “đôi lông mày kẻ của Oanh ríu lại. Trống ngực

chị đập mạnh....Oanh mím chặt môi, cái cằm hơi lẹm của chị như ngắn lại. Chị

cầm lấy khẩu súng, tai văng vẳng lời của bố buổi chiều hôm qua” nhưng rồi nhà

văn không để cho nhân vật của mình đắm chìm trong đau khổ bởi hoàn cảnh lúc

bấy giờ buộc mỗi con người cần phải biết gác lại việc riêng để hòa vào công việc

kháng chiến chung của Thủ đô. Nguyễn Huy Tưởng thực sự đã quá xuất sắc khi

miêu tả tâm trạng của Oanh lúc này, nghĩ đến Thủ đô đang còn đang trong cuộc

chiến đấu sống chết, Oanh đã kìm nén nỗi đau khổ và “mặt chị trở lại tự nhiên”.

Chỉ vậy thôi cũng đủ thấy ý thức tự giác và tinh thần yêu nước của người dân

Thủ đô trong thời điểm ác liệt của cuộc chiến.

Thế giới nội tâm của con người là vô cùng phong phú và đa dạng. Đến với

tác phẩm này, người đọc không những thấy được tâm trạng vui mừng khi tham

gia kháng chiến của Trần Văn, Sinh, Quốc Vinh...mà còn thấy được sự khó xử

của Tân trước những câu hỏi của Dân. Tân coi là kẻ lạc loài với thời cuộc nên

khi Dân hỏi “Ông có theo chúng tôi đánh giặc không?”, Tân thấy choáng váng,

không nói được gì, anh “tự trách mình sao lại dấn thân vào một chỗ khó xử thế

này”[66, tr. 355].

Như vây, có thể thấy nghệ thuật miêu tả nhân vật của Nguyễn Huy Tưởng

thực sự đáng để chúng ta nể phục. Cái tài của nhà văn là đã khắc họa được một

cách chân thực những hình tượng nghệ thuật, làm cho những con người ấy hiện

lên thật sinh động và mang đến cho người đọc những cung bậc cảm xúc khác

nhau. Người đọc như được cùng các nhân vật tham gia vào cuộc chiến đấu bảo

vệ mảnh đất ngàn năm văn hiến của dân tộc.

3.2. Ngôn ngữ

Mỗi nhà văn khi cho ra đời “đứa con tinh thần” của mình đều không quên

gửi gắm trong đó những dấu ấn của bản thân. Đó chính là phong cách nghệ thuật

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

của người nghệ sĩ. Cũng giống như những nhà văn khác, Nguyễn Huy Tưởng

cũng tạo dựng cho mình một phong cách riêng, độc đáo. Phong cách ấy không

chỉ được thể hiện qua nghệ thuật miêu tả nhân vật của tác giả mà còn được thể

hiện qua ngôn ngữ trong tác phẩm. Và trong từng tác phẩm khác nhau thì nhà

văn lại sử dụng ngôn ngữ khác nhau. Khi viết về đề tài lịch sử, nhà văn thường

lựa chọn cho mình một lối viết mang tính trang nghiêm cổ kính để gợi lại những

trang sử hào hùng của dân tộc. Thế nhưng khi tìm hiểu đến tiểu thuyết Sống mãi

với Thủ đô, người đọc còn khám phá được những ngôn ngữ khác, đó là những

chất liệu làm nổi bật dấu ấn văn hóa trong tác phẩm.

Đến với nghệ thuật, người nghệ sĩ bao giờ cũng lựa chọn cho mình những

lối viết riêng. Với lối viết không cầu kì như Nguyễn Tuân, không thâm trầm như

Nam Cao, không sắc sảo như Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Huy Tưởng đã để lại ấn

tượng sâu sắc trong lòng người đọc bởi lối viết điềm đạm, uyên thâm pha chút

lãng mạn, hào hoa như cốt cách của con người ông.

Ngôn ngữ nghệ thuật trong tiểu thuyết của Nguyễn Huy Tưởng luôn thể

hiện sự tinh tế, trầm lắng như cốt cách con người Hà Nội thanh lịch, không ồn

ào, phô trương. Việc gọt giũa từng từ, từng chữ của ông cho thấy con người Hà

Nội văn minh, lịch sự bực nào. Điều này thể hiện sự khác biệt giữa Nguyễn Huy

Tưởng với một số nhà văn như Hoàng Quốc Hải, Nguyễn Xuân Khánh, họ đã

đem quá nhiều ngôn ngữ cuộc sống hiện đại, vào tác phẩm.

Là nhà văn gắn với nguồn cảm hứng lịch sử, Nguyễn Huy Tưởng cho

người đọc thấy được một văn phong mang tính trang nghiêm, cổ kính. Chất cổ

điển trong ngôn ngữ nghệ thuật của ông thể hiện ở âm hưởng nghiêm trang, hào

hùng. Lối viết này đã làm nên tên tuổi của nhà văn trên văn đàn văn học Việt

Nam. Thế nhưng là người nghệ sĩ, nhà văn không bao giờ bó buộc mình trong

một lối viết mang tính sáo mòn mà luôn luôn có sự sáng tạo, mở rộng ngòi bút

của mình với những lối viết khác nhau. Chính vì vậy, khi đến với tiểu thuyết

Sống mãi với Thủ đô người đọc vô cùng ấn tượng với cách viết, cách sử dụng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

ngôn ngữ của tác giả. Cũng giống như nhiều tác phẩm khác cùng viết về đề tài

lịch sử của Nguyễn Huy Tưởng thì Sống mãi với Thủ đô cũng đã được tác giả

khai thác sâu những vấn đề, khía cạnh khác nhau của lịch sử dân tộc qua ngôn

ngữ mang tính chất sử thi. Nhờ chất liệu quen thuộc này mà tác giả đã làm sống

dậy cuộc đấu tranh trường kì của quân và dân Thủ đô, dựng lên được những bức

tượng đài vĩ đại của dân tộc. Tính chất sử thi trong tác phẩm được thể hiện qua

ngôn ngữ ngợi ca, có khi kết hợp cả ngôn ngữ kể mang chất tự sự.

Đúng vậy, sự ngợi ca của tác giả dành cho thiên tiểu thuyết này là khá dày.

Mà chủ yếu là ngợi ca tinh thần chiến đấu quả cảm, ý chí kiên cường bất khuất

của người Hà Nội như “Dân tộc Việt Nam chúng ta là một dân tộc yêu chuộng

hòa bình. Nhưng với cái chí khí quật cường mà tổ tiên ta đã hun đúc cho những

anh hùng như Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung, dân tộc chúng ta có một

tinh thần bất khả diệt. Ta chỉ hiền với những người trọng tự do và dân chủ, chứ

không bao giờ hiền hậu và đạo đức với những kẻ gian tà hung ác, cũng không

bao giờ khuất phục trước sức mạnh của một kẻ địch nào”, “Trong cuộc kháng

chiến này, một lần nữa, Đảng ta lại làm cái sứ mạng là lái con thuyền Tổ quốc

vượt qua bão táp phong ba tới bờ chiến thắng. Dưới lá cờ vinh quang của Tổ

quốc, của Đảng, chúng ta chúc nhau tin tưởng tiến lên, hoàn thành nhiệm

vụ”[66, tr. 199-200]. Trong giờ phút căng thẳng của chiến tranh, để truyền thêm

sức mạnh và niềm tin chiến đấu cho nhau “nhiều bàn tay đã nắm lấy nhau”[66,

tr. 197], chỉ một hành động nhỏ thôi đã cho thấy sự đồng lòng quyết tâm tiêu diệt

giặc của nhân dân ta mạnh mẽ như thế nào.

Ngôn ngữ mang tính sử thi này là ngôn ngữ chủ đạo làm nên giá trị của

tác phẩm. Tuy nhiên bên cạnh đó, nhà văn đã đưa vào trong tác phẩm của

mình lớp ngôn ngữ thể hiện sự lịch lãm cũng như văn hóa ứng xử của người

Hà Nội, đó là ngôn ngữ trữ tình lãng mạn, đặc biệt là ngôn ngữ đời thường

gắn với người lao động được nhà văn sử dụng khá phổ biến và đặt hiệu quả

nghệ thuật cao.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Ngôn ngữ trữ tình đã giúp nhà văn thể hiện được sâu sắc những tâm tư

tình cảm của con người dành cho nhau trong những ngày đối diện với sự sống và

cái chết. Ngôn ngữ ấy được bắt nguồn từ những cái đẹp mà nhà văn thể hiện

trong tác phẩm. Nó mềm mại, nhẹ nhàng cũng giống như câu chuyện tình yêu

của Hiền và Nhật Tân, một chuyện tình trong sáng bởi “Họ tuy yêu nhau nhưng

chưa bao giờ sàm sỡ. Họ chỉ gửi cho nhau những cuốn sổ trong ấy có ép những

hoa, những lá, những con bướm đẹp mà trong khi đi chơi những làng quanh Hà

Nội hay về quê họ nhặt được và đem về làm kỉ niệm những ngày vui”[66, tr. 70].

Hay là cái khoảnh khắc mà hai người bạn vừa thoát ra khỏi tay thần chết bởi cái

suy nghĩ “thà chết chứ không chịu để cho giặc bắt” ngồi bên nhau, qua cái cửa

sổ lớn có chấn song “Thu Phong lơ mơ nhìn lên trời. Trăng lưỡi liềm trong suốt,

như một bìa giấy bạc, in rõ trên nền trời không gợn mây. Hai bên đuôi trăng, có

hai ngôi sao sáng như ngọc” bất giác anh nghĩ “người ta thường bảo sao bao

giờ cũng xa trăng. Không hiểu vì sao đêm nay, hai ngôi sao kia ở sát ngay trăng

mà sáng như thế được”[66, tr. 341]. Vầng trăng ấy, ánh sao ấy bình thường đã

khiến cho con người ta bị mê hoặc, và trong cái khoảnh khắc này nó lại càng đẹp

hơn bởi dưới ánh trăng ấy có hai người bạn đang kề bên nhau, ánh sáng của trăng

sao đã truyền thêm cho họ sức mạnh, niềm tin chiến đấu. Hình ảnh lãng mạn

này xuất hiện không nhiều trên trang viết của nhà văn nhưng sự xuất hiện bất

ngờ ấy đã làm cho tác phẩm của ông thêm phần giá trị.

Người Hà Nội hào hoa, thanh lịch không những được thể hiện qua trang

phục, dáng đi, cử chỉ, điệu bộ mà còn được thể hiện qua lời ăn tiếng nói. Nắm

bắt được điều này, Nguyễn Huy Tưởng đã khéo léo vận dụng vào trong tác phẩm

của mình qua cách xưng hô của nhân vật. Họ gọi nhau là “cô” là “cậu”, là “đằng

ấy”, là “anh”, là “tôi”, là “đồng chí”...nghe sao mà thân thương đến vậy. Mọi lời

nói của nhân vật đều thể hiện thật sâu sắc cái lịch sự, văn minh của con người

Thủ đô. Nhưng để phản ánh một cách chân thực nhất, làm cho tác phẩm trở nên

gần gũi với người đọc thì Nguyễn Huy Tưởng đã không ngần ngại khi đưa lớp

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

ngôn ngữ đời thường vào tác phẩm. Ngôn ngữ đời thường trước hết được thể

hiện qua việc sử dụng những từ ngữ mang tính địa phương như “cậu”, “mợ”, đẻ”,

“u”...đó là những từ ngữ cho thấy sự đa dạng của Tiếng Việt, và hơn hết nó phù

hợp với đời sống văn hóa - xã hội lúc bấy giờ. Cùng với đó là những ngôn ngữ

có phần thô tục, suồng sã như tiếng chửi của anh thợ nặn “Đánh Đức thua Đức,

đánh Nhật thua Nhật, đánh đâu thua đấy, bắt nạt Việt Nam. Mẹ cha mày, bố mày

cũng không dám đánh đêm”[66, tr. 38], của Thu Phong “giữ cẩn thận, nó nổ bỏ

mẹ”[66, tr. 343], của Tân “ Được. Nói thế đúng hơn. Thôi mày về đi, không tự

vệ nó chửi cho bỏ mẹ”[66, tr. 240], của Long đen “Các anh còn đòi Long đen

cái gì nữa? Bao giờ mới hết nghi cái thằng Long đen chó má này”[66, tr. 100],

của Quý “Mẹ cha cái thằng Hồng Lưu, nó rút lúc nào nó không bảo tao”,

“Đ....mẹ tiên sư những thằng hèn nhát. Rút đi không báo gì cho bố nó cả”[66,

tr. 403], và cả tiếng chửi của thằng Việt gian “Đ...mẹ chúng mày. Ông đã bảo

không nghe thì ông sẽ giết hết bọn Việt Minh phiến loạn”[66, tr. 418]. Sự giản

dị của ngôn ngữ đời thường còn được thể hiện qua cách xưng hô “mày - tao” của

Tân và Nhật Tân , tuy có phần không lịch sự nhưng lại cho thấy được sự thân

mật, gần gũi của hai người bạn. Trong cuộc chiến, họ là những con người không

có chung hướng đi nhưng với họ tình bạn vẫn sẽ là mãi mãi.

Viết về lịch sử nhưng từng trang viết của Nguyễn Huy Tưởng lại thấm

đẫm chất trữ tình. Đó chính là những dòng mà nhà văn miêu tả về Hà Nội. Bức

tranh về Thủ đô yêu dấu hiện lên thật sống động qua từng câu, từng chữ, bức

tranh ấy mang theo bao dấu ấn văn hóa của người Việt Nam. Sự sáng tạo trong

xây dựng hình tượng nghệ thuật kết hợp với sự điêu luyện trong việc sử dụng

ngôn ngữ làm cho người đọc say mê, cùng hòa chung vào không khí chiến đấu

sôi sục của dân tộc.

3.3. Hệ thống biểu tượng văn hóa trong tiểu thuyết Sống mãi với Thủ đô của

Nguyễn Huy Tưởng

3.3.1. Biểu tượng và biểu tượng trong văn học

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Để tồn tại và khẳng định vị trí của mình trên thế giới thì mỗi dân tộc đều

có những nét đặc sắc riêng về văn hóa, và một trong những yếu tố làm nên bản

sắc văn hóa của từng vùng miền chính là “biểu tượng”. Có thể nói biểu tượng là

hình thái biểu hiện của văn hóa.

“Biểu tượng” (symbol, còn được dịch là tượng trưng, biểu trưng, phù hiệu,

kí hiệu) là một trong những từ có nhiều nghĩa nhất trong hệ thống các khoa học

về kí hiệu. Theo Từ điển Tiếng Việt định nghĩa, thì “biểu tượng là hình ảnh sáng

tạo nghệ thuật có một ý nghĩa tượng trưng trừu tượng”[35, tr. 88]. Còn trong

cuốn Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới nhà phân tâm học người Thụy Sỹ

C.G.Jung có nói “Cái mà chúng ta gọi là biểu tượng là một từ ngữ, một danh từ

hay một hình ảnh ngay cả khi chúng ta quen thuộc trong đời sống hàng ngày vẫn

chứa đựng mối quan hệ liên can, cộng thêm vào đó cái ý nghĩa quy ước và hiển

nhiên của chúng. Trong biểu tượng có bao hàm một điều gì đó mơ hồ, chưa biết

hay bị che dấu đối với chúng ta”[4, tr. XXIX]. Là một phương thức chuyển nghĩa

của lời nói, biểu tượng có quan hệ gần gũi với ẩn dụ, hoán dụ...cũng giống như

ẩn dụ và hoán dụ, biểu tượng được hình thành trên cơ sở so sánh, đối chiếu các

đối tượng, hiện tượng ở một vài phương diện, khía cạnh, để làm nổi bật bản chất,

tạo ra một ý niệm cụ thể về hiện tượng hay đối tượng đó. Tuy nhiên, giữa biểu

tượng với ẩn dụ, hoán dụ cũng có điểm khác biệt. Đó là nếu kí hiệu của ẩn dụ,

hoán dụ là những dấu hiệu nhất thời, rời rạc giữa cái biểu đạt và cái được biểu

đạt, chỉ có tác động biểu nghĩa, thì biểu tượng có sự thống nhất giữa cái biểu đạt

và cái được biểu đạt, có tính chất ổn định hơn. Hay có thể nói, biểu tượng là

những hình ảnh tượng trưng của sự vật, hiện tượng trong thế giới xung quanh,

được hình thành trên cơ sở các cảm giác và tri giác đã xảy ra trước đó, được giữ

lại trong ý thức, đó lŕ kết quả của sự phản ánh hiện thực vào não người.

Biểu tượng văn hóa là một hình thái ngôn ngữ - kí hiệu tượng trưng, nó

được hình thành nhờ vào năng lực “tượng trưng hóa” của con người, theo phương

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

thức dùng hình ảnh để bày tỏ ý nghĩa. Biểu tượng là “hạt nhân”, là nơi lưu giữ

những giá trị văn hóa qua hàng ngàn năm lịch sử và cũng là hình thức để quảng

bá nền văn hóa của dân tộc với các nước trên thế giới.

Biểu tượng trong văn học đã được đề cập khá nhiều trong các công trình

nghiên cứu, các tác phẩm phê bình văn học ở Việt Nam cũng như nhiều nước trên

thế giới. Bàn về điều này, chúng ta thấy biểu tượng trong văn học là loại biểu

tượng mang tính đa nghĩa được tạo nên bằng ngôn từ nghệ thuật và là một phương

thức để chuyền tải ý đồ của người nghệ sĩ. Biểu tượng trong các tác phẩm văn học

có thể được sử dụng với nghĩa gốc hoặc nghĩa chuyển, tùy thuộc vào dụng ý sáng

tạo của nhà văn. Việc giải mã các biểu tượng trong tác phẩm văn học không những

giúp ta hiểu được những giá trị riêng biệt của tác phẩm mà còn đưa đến cho ta

những giá trị văn hóa của dân tộc. Hành trình tìm hiểu khám phá biểu tượng trong

văn học là hành trình tìm về cội nguồn văn hóa đồng thời cũng là hành trình tìm

kiếm những giá trị chân, thiện, mỹ của dân tộc.

3.3.2. Biểu tượng văn hóa Hà Nội nổi bật trong tiểu thuyết Sống mãi với Thủ

đô của Nguyễn Huy Tưởng

Tiểu thuyết Sống mãi với Thủ đô của Nguyễn Huy Tưởng thể hiện cái

nhìn tinh tế và sâu sắc về đời sống văn hóa của Hà Nội. Những nét đẹp văn hóa

của Thủ đô được nhà văn thể hiện qua nhiều phương diện, khía cạnh khác nhau,

đó có thể là thiên nhiên, đời sống văn hóa xã hội hay con người. Những có lẽ

điểm đáng chú ý nhất là hệ thống các biểu tượng. Bằng tài năng độc đáo của

mình, Nguyễn Huy Tưởng đã đưa hầu hết biểu tượng của Hà Nội như Hồ Gươm,

những con đường, những phố nhà... vào trong tác phẩm của mình, để dựng lên

trước mắt người đọc một Thủ đô thu nhỏ. Hệ thống biểu tượng đó thể hiện sự

hiểu biết rất sâu và rộng của tác giả về Thủ đô, và hơn hết là tình yêu mà tác giả

dành cho mảnh đất văn hiến này.

 Biểu tượng Hồ Gươm

Với Nguyễn Huy Tưởng, tình yêu và niềm tự hào dành cho Hà Nội trong

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

những ngày Tổ quốc lâm nguy, bắt đầu từ chính tình yêu với thiên nhiên mà

đầu tiên là cái vẻ đẹp thơ mộng của Hồ Gươm. Hà Nội ba sáu phố phường mà

biểu tượng của nó là Hồ Gươm xuất hiện với mật độ đáng kể trong các trang

văn Sống mãi với Thủ đô. Trong tâm thức văn hóa của người Việt nói chung

và người Hà Nội nói riêng, thiên nhiên ngoại cảnh, môi trường sinh thái gắn

bó, hòa hợp với con người. Cùng viết về Hà Nội và dành cho trái tim của cả

nước tình yêu của chính mình, nhưng khác với Tô Hoài, Thạch Lam, Vũ

Bằng...trong cảm hứng sáng tạo của Nguyễn Huy Tưởng nổi bật âm hưởng

lịch sử-văn hóa. Thông qua nhận vật Trần Văn, nhân vật chính trong tác phẩm,

Hồ Gươm luôn gắn liền với sự kiện lịch sử và văn hóa của Thăng Long- Hà

Nội và với người Hà Nội “Lá rụng trên vai anh.Gió lạnh của Hồ Gươm phả

vào mặt anh, làm cho anh dìu dịu. Nước hồ phẳng như gương, lá cây và váng

nước xanh vẩn. Hàng liễu trên bờ phía cầu Gỗ buông rủ những mành thấp

thoáng như sương. Những con đường nhỏ lượn dưới bóng những cây cổ thụ

quạnh hiu, cuốn bay vào tà áo màu còn sót lại. Cầu Thê Húc, khom khom, đã

ngả màu hồng nhạt. Trấn Ba Đình ủ rũ thấp xuống như bị dìm. Tất cả đều im

lìm, chờ đợi. Những con rùa lịch sử, chiến thắng và hòa bình, không thấy bóng

tăm trên mặt nước. Cả đến đàn cò, từ năm này qua năm khác, không bao giờ

rời cái cây gạo thân cao thẳng vút và trắng toát cũng không xào xạc như mọi

khi. Chúng đi đâu hay đã nằm im trong tổ. Cái hồ yêu dấu cũng như cảm thấy

dân tộc đang gặp khó khăn, và lắng xuống lo âu”[66, tr. 47-48]. Cái tên “Hồ

Gươm” gợi lên cho người đọc bao cảm xúc khó tả khi nhớ về những vinh

quang của người anh hùng áo vải mà sự nghiệp cứu nước gắn chặt với Hồ

Gươm. Trong tiểu thuyết, Nguyễn Huy Tưởng đã miêu tả Hồ Gươm bằng tất

cả tình yêu mà ông dành cho Thủ đô, bởi Hồ Gươm là một trong những yếu

tố mang đặc trưng của Hà Nội. Vì vậy mà trong cái buổi sáng tản cư ấy đồng

bào ta đã ngoái cổ lại đằng sau quyến luyến. Họ thấy “Hồ Gươm vắng ngắt,

lẻ tẻ vài bóng người vội vã. Đã quá trưa. Phố xá và đám đông ủ rũ dưới một

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

bầu trời tro xám. Trông ra Bờ Hồ và dựa vào phố Cầu Gỗ, cái nhà đồ sộ, ba

tầng của hiệu sách Nam Kỳ, đang xây dựng dở, với những tường gạch đỏ kệch,

với những đà giáo tua tủa, chống chơ, im lặng, càng làm cho khu phố thêm

ngồn ngang, loét lở.”[66, tr. 63]. Và trong phiên gác đêm của mình, Trần Văn

quan sát các ngả đường và không khỏi bồi hồi bởi “Một mảnh Hồ Gươm trước

mặt, những hàng liễu mơ hồ rủ xuống bờ nước đen đặc...Khí lạnh của Hồ thấm

vào người anh. Lòng anh dạt dào thứ hoài cổ...Anh bâng khuâng như sống

trong quá khứ, thuở Lê Thái Tổ thắng trận đi chơi hồ, trao lại cho con rùa

thiêng thanh thần kiếm đuổi giặc nay không cần đến nữa, thuở những tao nhân

mặc khách đến đấy để ngâm thơ vịnh nguyệt, xướng họa với nhau, hào hứng

giữa cảnh trời xanh nước biếc của cái hồ xinh đẹp nằm giữa kinh kì”[66, tr.

216]. Trong đên đầu tiên chống trả quân thù để giữ lấy từng con phố của Hà

Nội, Hồ Gươm như cùng hòa vào bối cảnh chung của cuộc chiến “Hồ Gươm

nằm dúi dụi trong bóng tối. Phủ Bắc Bộ đưa lại những tiếng súng liên thanh

cục cục rõ mồm một, và những tiếng súng trường dóng một mà anh có cảm

tưởng là người ta ngắm kỹ lắm rồi mới bắn”[66, tr. 285], “Một vài cây đổ mà

cả Bờ Hồ xơ xác. Sau những rặng liễu ủ rũ, bờ phía đền Bà Kiệu đứng im lìm

những toa xe điện chỏng chơ như mấy quán hàng chợ vắng. Lác đác một vài

bóng người.”[66, tr. 446]. Và cũng là Trần Văn trong cuộc hội ngộ bất ngờ

với những chàng thanh niên Hà Nội khác ở bữa tiệc nhà Tân. Họ đã tranh luận,

so sánh Thủ đô Hà Nội với Paris, dù Hà Nội đang pha tạp, nhộn nhạo trong

những ngày đầu kháng chiến, anh vẫn bộc lộ cảm xúc tự hào và chính kiến cá

nhân về Hà Nội “Hà Nội thiếu lâu đài nhưng không thiếu cảnh. Các cụ ngày

xưa chả nói Hà Nội là đất của năm núi, hai mươi tám đảo, của Thăng long,

đại bát cảnh đấy ư? Ở trên thế giới đâu có Hồ Gươm, Hồ Tây ở giữa Thủ đô.

Ở đâu có con sông nước đỏ chảy qua”[66, tr. 253].

Hồ Gươm, mang vẻ đẹp nhẹ nhàng và thơ mộng, là trái tim của Thủ đô

văn hiến, là một biểu tượng đẹp của Việt Nam. Hình ảnh “hồ” không chỉ xuất

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

hiện trong Sống mãi với Thủ đô mà nó còn theo Nguyễn Huy Tưởng đi vào

những tác phẩm khác như tiểu thuyết Đêm hội Long trì. Trong tác phẩm, nhà

văn đã có sự miêu tả một cách chọn lọc để làm sao cái biểu tượng có một không

hai ấy hiện lên thật sinh động, tác giả viết “Hồ Long trì đã thành một nơi bồng

lai mộng ảo, cách biệt với phàm trần. Hồ rộng hơn nửa dặm, thả rất nhiều sen

ấu. Bên hồ, có đắp những ngọn giả sơn rất to bằng đất hoặc bằng đá. Trong

hang, trong hốc, hoặc trên đỉnh, hoặc dưới chân, hoặc trước hoặc sau ẩn ẩn hiện

hiện những chàng Tương Như, hay những gã Tiêu Lang ngồi hòa nhạc, ăn mặc

ra vẻ tiên phong đạo cốt. Núi vọng ra những tiếng bổng tiếng chìm, tiếng ti, tiếng

trúc, nghe lả lướt du dương”[67, tr. 7].

Hồ Gươm, biểu tượng văn hóa độc đáo mãi là nguồn cảm hứng bất tận với

các nhà văn nhà thơ, đặc biệt là Nguyễn Huy Tưởng. Không có gì có thể làm mờ

nhạt đi hình ảnh này trong trái tim người Hà Nội nói riêng và người dân Việt

Nam nói chung. Nó sẽ mãi là biểu tượng đẹp không chỉ thu hút người Hà Nội mà

còn thu hút khách bốn phương.

 Biểu tượng đường, phố

Nếu như Hồ Gươm là trái tim của Thủ đô ngàn năm thì những con đường,

những dãy phố của mảnh đất này được xem như là sợi dây liên kết những nếp

nhà để con người Hà Nội được gần nhau hơn. Hà Nội là Thủ đô của ba mươi sáu

phố phường náo nhiệt và tấp nập đã để lại những ấn tượng khó thể quên cho

những ai đã từng đặt chân tới đây. Nó ấn tượng bởi tên đường, tên phố, những

cái tên ấy không phải là ngẫu nhiên mà nó thường gắn liền với một ý nghĩa văn

hóa nào đó mà chỉ có đi sâu tìm hiểu nền văn hóa Hà Nội mới hiểu hết được.

Đường, phố Hà Nội xưa kia yên bình và dung dị vô cùng. Những con

đường ấy đã trở thành một phần kí ức của Thủ đô, đi vào trong những câu thơ,

câu hát để mỗi người dân Hà Nội, ai cũng ngân nga câu hát “ngõ nhỏ phố nhỏ

nhà tôi ở đó”, nó trở thành một phần kí ức không thể quên..

Là một người con của Hà Nội, Nguyễn Huy Tưởng cũng không khỏi bồi

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

hồi khi đưa bút để miêu tả từng con đường, từng dãy phố trong tác phẩm của

mình. Đó là con đường Tràng Thi, dưới ngòi bút của nhà văn, con đường ấy

được cảm nhận “Đây là một trong những con đường đẹp nhất của Hà Nội, mà

những hàng cây hai bên cao hơn nhà gác làm cho Hà Nội đắm trong thiên

nhiên, và khi lộc non chuyển sang xanh râm, hay khi hoa phượng nở, hay khi

lá rụng thay cho tiếng ve sầu, người ta như trông thấy và nghe thấy sự tuần

hoàn của vũ trụ”[66, tr. 40]. Chỉ với những dòng văn ngắn ngủi mà vẻ đẹp của

con đường thay đổi theo từng mùa hiện lên sống động vô cùng. Thế nhưng trong

những ngày Thủ đô ra sức chống trả quân thù thì “con đường trông đau thương

và quằn quại...Thư viện trung ương thì im lặng như ngôi đền, chỉ có lá bàng,

lá đa rụng đều xuống những thảm cỏ, xuống mấy cái ghế đá lơ thơ ngoài vườn

vắng”[66, tr. 40]. Mọi cảnh vật lúc này như hòa vào sự đau thương, mất mát

của chiến tranh. Cái tinh tế của nhà văn đó là “tả cảnh ngụ tình”. Những con

đường ấy như là những người chiến sĩ đã chiến đấu dũng cảm, có thể hi sinh cả

thân mình, để cho người dân Hà Nội đào đường, đắp ụ, dựng chướng ngại vật

giúp cho công cuộc kháng chiến “khắp bốn bề những tiếng đục tường thông

nhà nọ sang nhà kia nổi lên bí mật như đứt hơi, như giận dữ. Nó không tẻ nhạt

như hôm trước, mà râm ran, vội vã...Từ đầu Hàng Đào, qua Hàng Ngang, Hàng

Đường đến chợ Đồng Xuân, rải rác những bao cát dựng sù sụ trước những cửa

lùa gỗ rất xưa và những cửa lùa sắt văn minh một cách lạc lõng”[66, tr. 106],

“Phố Hàng Bồ, phố Hàng Đường, phố Hàng Ngang, phố Hàng Bạc, và nhiều

phố gần đấy, thanh niên nam nữ chạy đến ầm ầm. Người lấy xẻng, người lấy

cuốc, người lấy thuổng đem đi”[66, tr. 111], “Phố Hàng Mã, đầu bên kia đã

rào kín bằng những súc gỗ lớn chưa xẻ, đầu nhọn vươn lên như những mũi đạn

khổng lồ. Đầu bên này, anh em đang đào hào chống xe tăng. Các chị lúi húi

xúc đất, vật lên bờ hào”[66, tr. 163]. Rồi đến “Cái phố dốc dốc, nhỏ nhỏ, hiển

hiện trước mắt, bao phủ trong sương khói...Đầu phố cuối phố đã chia hai thế

giới”[66, tr. 380]. Đó là những người anh hùng thầm lặng của Thủ đô yêu dấu.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Để chuẩn bị cho cuộc kháng chiến, những con phố ấy như sát lại gần nhau hơn.

Và khi bắt đầu cuộc chiến, những con đường đó trở nên vắng tanh, rộng rãi như

con đường trên phố chợ mà Sinh đi qua “không có một bóng người qua lại. Gió

đánh bay những bụi vôi xoáy lại, giạt ra như vờn trên con đường đầy gạch vụn

và rác rưởi, lỗ chỗ những lỗ chôn mìn, như những lỗ giun sau cơn mưa”[66, tr.

163]. Những gì mà chiến tranh mang đến khiến cho người ta thấy tiếc tiếc và

Sinh nhớ về những ngày tưng bừng của phố xá, nhớ ngày Cách mạng năm ngoái

“trong cuộc thách nhau giữa các phố làm những cổng chào to nhất, đẹp nhất,

anh và các bạn anh đã tham gia xây dựng cái cổng chào của chợ Đồng Xuân

đồ sộ như một cổng thành. Đứng ở trên nhìn suốt được xuống Hàng Đào, đến

Bờ Hồ, một con đường đầy những cổng chào, rợp bóng cờ đỏ. Đêm đêm, sau

bao nhiêu đêm âm thầm với đèn phòng thủ thụ động - các phố rực sáng như sao

sa”[66, tr. 163]. Cũng vì kháng chiến mà “Hàng Đào đã thành một phố hoang

tàn. Đường ngổn ngang những cột đèn, những bàn ghế, quầy tủ, những biển

hàng, những kính vỡ. Tất cả như vừa qua một cơn mưa bão khô ráo. Trời đẹp,

buổi sáng yên tĩnh, nhưng vẫn có một cái gì nặng nề, thỉnh thoảng cục cục vài

tiếng liên thanh. Các bức tường như chờ đợi. Khu phố âm ỉ, như giấu bên trong

quả địa lôi bực tức sắp nổ”[66, tr. 385]. Thế nhưng sau tất cả, những con đường,

dãy phố ấy vẫn là những gì đáng để người ta tự hào như bác sĩ Pha người đã

từng có thời gian sống bên Pháp “Tôi rất vui được sống ở Hà Nội những ngày

tuyệt đẹp như thế này. Những cái phố rất Việt Nam, đi lâu về mới càng thấy

quý, những tên phố rất nên thơ...”[64, tr. 260].

Những góc phố, những con đường đã gắn liền với bao thăng trầm của thời

gian, chứng kiến biết bao sự kiện lịch sử quan trong của dân tộc. Nhưng ngày

nay, chúng ta thật khó để mà bắt gặp một con đường giữa Thủ đô với hai bên

đường chỉ là những hàng cây và vỉa hè rợp bóng mát. Phải chăng Hà Nội như

vậy chỉ thuộc về quá khứ...

 Biểu tượng Cầu Long Biên

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Hà Nội có cầu Long Biên

Vừa dài vừa rộng bắc trên sông Hồng

Tàu xe đi lại thong dong

Người người tấp nập gánh gồng ngược xuôi...

“Cầu Long Biên - chứng nhân lịch sử” nói như vậy quả không sai. Bởi

những thăng trầm đổi thay của Hà Nội đều có sự chứng kiến của cây cầu này.

Hơn một thế kỉ qua, cầu Long Biên đã chứng kiến bao sự kiện lịch sử hào hùng,

bi tráng của Hà Nội. Hiện nay, tuy đã rút về vị trí khiêm nhường nhưng cầu Long

Biên vẫn mãi trở thành một nhân chứng lịch sử, không chỉ riêng Hà Nội mà của

cả nước.

Hình ảnh cây cầu Long Biên đã trở nên quen thuộc và là một phần không

thể thiếu của Hà Nội, vì đây là cây cầu đầu tiên bắc qua con sông Hồng bồi đắp

phù sa. Cây cầu ấy đã nhẹ nhàng đi vào thơ, văn và để lại cho người đọc những

cung bậc cảm xúc khác nhau khi nghĩ về một thời xa xưa của dân tộc. Một thời

mà quân và dân Thủ đô cũng như toàn thể nhân dân Việt Nam đứng lên chống

giặc với một ý chí kiên cường bất khuất. Trong tiểu thuyết của mình, Nguyễn

Huy Tưởng đã dựng lại hình ảnh cây cầu để một lần nữa khẳng định Cầu Long

Biên là nhân chứng của lịch sử. Tác giả viết “cầu Long Biên nổi lên những nhịp

mắc võng đen thui, nối đuôi nhau gày gày dài ngoẵng, nhấp nhô trên nền trời

sưng tấy, giật gân, hình ảnh nặng nề, ủ rũ, đầy đe dọa của một nơi đã vào tay

giặc. Xa xa, ngoài bãi, chốc chốc lại loáng lên những dòng nước phù sa của

sông Hồng phản chiếu ánh lửa, như những giọt nước mắt trào ra rồi lại khô đi.

Tất cả rùng rùng trong sự quay cuồng của khói lửa....Trời đất đảo điên và sáng

tối nhập nhòa tưởng như thời kỳ quả đất còn đang bốc cháy”[66, tr. 431- 432].

Trải qua thời gian hơn một trăm năm, cầu Long Biên vẫn luôn soi bóng

và gắn bó với dòng sông Hồng, với Hà Nội dấu yêu. Là cây cầu bắc qua ba

thế kỷ và mang trên mình những vết thương của chiến tranh, thế nhưng cây

cầu này vẫn sừng sững, hiên ngang trước mưa nắng của cuộc đời. Và đặc biệt

là nó đã trở thành biểu trưng của Hà Nội, là linh hồn thấm đẫm những giá trị

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

văn hóa-lịch sử của dân tộc, đồng thời cũng là gạch nối giữa quá khứ, hiện tại

và tương lai.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Tiểu kết chương 3

Nghệ thuật biểu hiện những dấu ấn văn hóa trong tiểu thuyết Sống mãi

với Thủ đô của Nguyễn Huy Tưởng được nhà văn khái quát ở những đặc sắc

như: nghệ thuật miêu tả nhân vật, ngôn ngữ và giọng điệu và các hình ảnh biểu

tượng. Trong nghệ thuật xây dựng nhân vật, tác giả tập trung vào các phương

diện ngoại hình, cử chỉ hành động hay tâm lí nhân vật. Ở mỗi phương diện đều

mang đậm dấu ấn văn hóa bởi con người chính là một trong những yếu tố làm

nên văn hóa. Về ngôn ngữ thì cũng giống như nhiều tác phẩm khác cùng viết về

đề tài lịch sử đó là ngôn ngữ mang chất sử thi hào hùng, ngoài ra nhà văn còn có

sự sáng tạo riêng cho mình với ngôn ngữ đời thường và chất giọng trữ tình lãng

mạn. Đặc biệt, điều làm nên dấu ấn văn hóa sâu đậm nhất trong tiểu thuyết này

là hệ thống các biểu tượng: Hồ Gươm, Cầu Long Biên, những con đường, dãy

phố.. Đây chính là những hình ảnh chủ đạo góp phần làm nên thế giới hình tượng

nghệ thuật độc đáo đậm đà bản sắc dân tộc trong tiểu thuyết Sống mãi với Thủ

đô của Nguyễn Huy Tưởng.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

KẾT LUẬN

1. Văn học và văn hóa có mối quan hệ chặt chẽ, chúng tác động qua lại,

chi phối lẫn nhau. Nếu như văn hóa là “chất liệu” của văn học thì văn học lại là

phương thức làm nên diện mạo cho văn hóa. Với hướng nghiên cứu văn học từ

góc nhìn văn hóa đã được rất nhiều nhà phê bình trong giới văn học tiếp cận và

đánh giá là một hướng nghiên cứu có triển vọng. Trên cơ sở này chúng tôi đã

mạnh dạn tìm hiểu những dấu ấn văn hóa Hà Nội được thể hiện trong tiểu thuyết

Sống mãi với Thủ đô của Nguyễn Huy Tưởng ở một số phương diện.

2. Ở phương diện thứ nhất chúng tôi đã tìm thấy những dấu ấn văn hóa

đặc sắc của Thủ đô ngàn năm văn hiến qua bức tranh thiên nhiên. Trong cái ảm

đạm của chiến tranh tác giả vẫn cho người đọc thấy được những đặc trưng của

thời tiết vào những ngày cuối đông. Cảnh vật vào thời điểm này được Nguyễn

Huy Tưởng miêu tả mang một màu sắc riêng, một hương vị riêng của Hà Nội.

3. Bên cạnh bức tranh thiên nhiên văn hóa đó là đời sống văn hóa - xã hội

của con người Hà Nội. Đó là một đời sống vô cùng phong phú, đa màu sắc, với

những cây tò he xanh, đỏ, vàng, tím, lam...một trò chơi dân gian chứa đựng cả

một bầu trời tuổi thơ của con người, và tiếp đến là nét đẹp văn hóa trong kiến

trúc của những ngôi nhà cổ kính. Những ngôi nhà ở đó đã chứng kiến sự thay đổi

của thời gian làm cho văn hóa Hà Nội ngày thêm sâu sắc. Và cùng với đó là một

nét sinh hoạt khá độc đáo của người dân thủ đô qua việc tác giả miêu tả khu chợ

Đồng Xuân với những gian hàng đã bị đổ xuống vì sự khốc liệt của chiến tranh.

Nhà văn dành hẳn cho khu chợ này một chương trong tiểu thuyết để khẳng định

cái ý nghĩa to lớn của nó. Đây không chỉ là nơi buôn bán tập trung lớn nhất của

Thủ đô mà còn là trận địa để quân và dân ta đứng lên chống phá quân thù. Giá

trị lịch sử, văn hóa của khu chợ Đồng Xuân đã khiến nó trở thành một địa chỉ

văn hóa của Hà Nội trước đây cũng như hiện nay.

4. Dấu ấn văn hóa trong tiểu thuyết Sống mãi với Thủ đô nổi bật lên hình

ảnh của con người. Con người luôn được coi là trung tâm vậy nên trong tác phẩm,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Nguyễn Huy Tưởng đã dành cho hơn bốn mươi nhân vật của mình những trang

viết thật xuất sắc, phản ánh được một cách chân thực về con người, về xã hội, về

đất nước ta lúc bấy giờ. Những con người ấy hiện lên với nét đẹp thanh lịch, hào

hoa của những nam thanh nữ tú Hà Nội, sự duyên dáng tế nhị của họ góp phần

khẳng định nét đẹp trong văn hóa của dân tộc ta. Họ không những đẹp, duyên

dáng mà họ còn là những con người có bản lĩnh và nhân cách cao đẹp

5. Ở phương diện thứ hai, từ việc tìm hiểu một số phương thức thể hiện

dấu ấn văn hóa trong tiểu thuyết Sống mãi với Thủ đô của Nguyễn Huy Tưởng

qua cách tác giả xây dựng nhân vật, ngôn ngữ và hệ thống biểu tượng trong tác

phẩm. Văn hóa Hà Nội được nhà văn trải khắp toàn bộ tiểu thuyết, bao trùm lên

tất cả con người, những nếp nhà, những con đường, dãy phố, những gì diễn ra

trên từng trang viết của Nguyễn Huy Tưởng.

Ngày này, với sự phát triển của xã hội, xu hướng hội nhập và toàn cầu

hóa luôn được quan tâm hàng đầu. Chính vì vậy, mà quá trình đó đang được

diễn ra một cách sôi động. Điều đó cho thấy, xã hội càng phát triển thì việc giữ

gìn bản sắc văn hóa dân tộc càng có ý nghĩa hơn bao giờ hết. Và dân tộc Việt

Nam ta luôn luôn hội nhập theo xu hướng “hòa nhập chứ không hòa tan”. Như

vây, qua tiểu thuyết Sống mãi với Thủ đô nhà văn Nguyễn Huy Tưởng không

chỉ dựng lại bức tranh hào hùng của dân tộc ta trong cuộc kháng chiến, không

chỉ cho người đọc thấy được những dấu ấn văn hóa đặc sắc của Thủ đô Hà Nội,

mà còn khéo kéo nhắc nhở chúng ta, những thế hệ tương lai của đất nước hãy

biết trân trọng, giữ gìn và phát huy những truyền thống, những nét văn hóa tốt

đẹp đó.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Vũ Tuấn Anh (1992), “Khắc khoải đời văn”, Nguyễn Huy Tưởng một sự

nghiệp chưa kết thúc, Viện văn học, 4/1992.

2. Lại Nguyên Ân (1999), 150 Thuật ngữ Văn học, Nxb Đại học Quốc gia, Hà

Nội.

3. Lê Huy Bắc (1998), “Giọng và giọng điệu trong văn xuôi hiện đại”, Tạp chí

Văn học, tr.66.

4. Chevalier (Jean), Gheerbrant (Alain) (1997), Từ điển biểu tượng văn hóa

thế giới, Nxb Đà Nẵng.

5. Anh Chi (2015), “Nguyễn Huy Tưởng như tôi thấy, hôm nay”, Nhà văn

Nguyễn Huy Tưởng từ khởi nguồn Dục Tú - Đông Anh, Nxb Kim Đồng

6. Nguyễn Phương Chi (1984), “Sống mãi với Thủ đô”, Từ điển văn học, tập

11, Nxb Khoa học xã hội, H.

7. Nguyễn Minh Châu (1989), “Bên nhà văn Nguyễn Huy Tưởng, cùng ngắm

Hồ Gươm”, Báo Người Hà Nội số 144, ngày 19-5-1989.

8. Chu Xuân Diên (2002), Cơ sở Văn hóa, Nxb Đại học quốc gia thành phố

Hồ Chí Minh.

9. Phạm Đức Dương (2002), Từ văn hóa đến văn học, Nxb Văn hóa Thông

tin, Hà Nội.

10. Phan Cự Đệ (1997), Văn học, đổi mới và giao lưu văn hóa, Nxb Chính trị

Quốc gia, Hà Nội.

11. Hà Minh Đức (2000), Lời giới thiệu Nguyễn Huy Tưởng về tác gia tác

phẩm, Nxb Giáo dục.

12. Hà Minh Đức (1984), “Nguyễn Huy Tưởng”, Lời giới thiệu Tuyển tập

Nguyễn Huy Tưởng, Nxb Văn học.

13. Hà Minh Đức (1961), “Sống mãi với Thủ đô tác phẩm cuối cùng của

Nguyễn Huy Tưởng”, Nhân dân, 18-6-1961.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

14. Hà Minh Đức, Phan Cự Đệ (1966), “Tiểu thuyết và kịch lịch sử trước Cách

mạng tháng Tám”, Trích Chuyên khảo Nguyễn Huy Tưởng (1912 - 1960),

Nxb Văn học, H.

15. Trần Văn Giàu (1980), Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam,

Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

16. Nguyễn Thị Thu Hà (2015), “Nguyễn Huy Tưởng và tôi”, Nhà văn Nguyễn

Huy Tưởng từ khởi nguồn Dục Tú - Đông Anh, Nxb Kim Đồng

17. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên) (2009), Từ

điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội

18. Tô Hoài (2015), “Nguyễn Huy Tưởng người làng Dục Tú”, Nhà văn Nguyễn

Huy Tưởng từ khởi nguồn Dục Tú - Đông Anh, Nxb Kim Đồng

19. Mai Hương (1992), “Những trăn trở và khát khao sáng tạo”, Nguyễn Huy

Tưởng một sự nghiệp chưa kết thúc, Viện văn học.

20. Mai Hương (2015), “Tìm về với tuổi thơ Nguyễn Huy Tưởng”, Nhà văn

Nguyễn Huy Tưởng từ khởi nguồn Dục Tú - Đông Anh, Nxb Kim Đồng

21. Thanh Huyền (1996), “Nguyễn Huy Tưởng người viết sử bằng văn

chương”, Tạp chí Xưa và nay số 32 tháng 10.

22. Nguyễn Văn Hiệu (2006), “Mối quan hệ giữa nghiên cứu văn học và văn hóa

học”, Báo cáo tại Hội thảo khoa học “Nâng cao chất lượng đào tạo bậc sau đại

học chuyên ngành văn hóa học” do Bộ môn Văn học tổ chức tháng 01.

23. Nguyễn Khải (2014), Nguyễn Khải - Tuyển tập truyện ngắn, Nxb Văn hóa

Thông tin Hà Nội.

24. Lưu Văn Lợi (2015), “Nguyễn Huy Tưởng trước khi là nhà văn”, Nhà văn

Nguyễn Huy Tưởng từ khởi nguồn Dục Tú - Đông Anh, Nxb Kim Đồng

25. Phong Lê (1997), “Nguyễn Huy Tưởng - văn xuôi và kịch”, Văn học trên

hành trình của thế kỷ XX, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.

26. Phong Lê (1961), “Sống mãi với Thủ đô trong quá trình sáng tác của

Nguyễn Huy Tưởng”, Nghiên cứu văn học 12.

27. Ju. Lotman (2012), “Biểu tượng trong hệ thống văn hóa”, Tạp chí nghiên

cứu văn học, Tr 18 - 31

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

28. Nguyễn Thị Phương Lan (2017), Hà Nội trong sáng tác của Nguyễn Huy

Tưởng, trường hợp Sống mãi với Thủ đô, Luận văn thạc sĩ, Trường đại học

Khoa học - ĐHTN

29. Lê Phương Liên (2015), “Nguyễn Huy Tưởng từ miền cổ tích -quê hương”,

Nhà văn Nguyễn Huy Tưởng từ khởi nguồn Dục Tú - Đông Anh, Nxb Kim

Đồng

30. Nguyễn Thị Tuyết Minh (2015), “Tác phẩm của Nguyễn Huy Tưởng trong

nhà trường phổ thông”, Nhà văn Nguyễn Huy Tưởng từ khởi nguồn Dục Tú-

Đông Anh, Nxb Kim Đồng

31. Nguyễn Đăng Mạnh (2003), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà

văn, Nxb Giáo dục, Hà Nội

32. Nguyễn Như Mai (2015), “Đến với Nguyễn Huy Tưởng qua năm tháng cuộc

đời”, Nhà văn Nguyễn Huy Tưởng từ khởi nguồn Dục Tú - Đông Anh, Nxb

Kim Đồng

33. Phan Ngọc (1998), Bản sắc Văn hóa Việt Nam, Nxb Văn hóa thông tin,

Hà Nội

34. Nhiều tác giả (2015), Ngữ văn 7, Tập 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội

35. Nhiều tác giả (2013), Ngữ văn 12, Tập 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội

36. Nhiều tác giả (2008), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng

37. Nhiều tác giả (1984), Từ điển Văn học, tập II, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội

38. Nhiều tác giả (2006), Chân dung các nhà văn Việt Nam hiện đại, Nxb Giáo

dục, Hà Nội

39. Trần Đình Nam, Nguyễn Phương Chi (1985), “Sáng tác của Nguyễn Huy

Tưởng”, Tiểu thuyết Đêm hội Long Trì, Nxb Hà Nội.

40. Phạm Xuân Nguyên (2015), “Từ làng Dục Tú có một nhà văn”, Nhà văn

Nguyễn Huy Tưởng từ khởi nguồn Dục Tú - Đông Anh, Nxb Kim Đồng

41. Huỳnh Như Phương, Văn học và văn hóa truyền thống,

http://nhavantphcm.com.vn/tac-pham-chon-loc/nghien-cuu-phe-binh/van-

hoc-va-van-hoa-truyen-thong-huynh-nhu-phuong.html

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

42. Dương Trung Quốc (1999), “Đề tài lịch sử trong sáng tác của Nguyễn Huy

Tưởng”, Đêm hội Long Trì, bộ ba tác phẩm gồm Đêm hội Long Trì, An

Tư,Vũ Như Tô, Nxb Hà Nội.

43. Đỗ Huy Quang (2015), “Giá trị cội nguồn với sự nghiệp của nhà văn

Nguyễn Huy Tưởng”, Nhà văn Nguễn Huy Tưởng từ khởi nguồn Dục Tú-

Đông Anh, Nxb Kim Đồng.

44. Trần Đình Sử, Giá trị văn hóa của văn học Việt Nam,

http://trandinhsu.wordpress.com/2017/03/06/gia-tri-van-hoa-cua-van-hoc-

viet-nam/

45. Trần Đình Sử (1998), Dẫn luận thi pháp học, Nxb Giáo dục, Hà Nội

46. Trần Đình Sử (2005), Giáo trình Lí luận văn học, Nxb Đại học Sư phạm,

Hà Nội.

47. Trần Đăng Suyền (2012), Phương pháp nghiên cứu và phân tích tác phẩm

văn học, Nxb Giáo dục Việt Nam.

48. Hoàng Tiến (1992), “Nguyễn Huy Tưởng với đề tài Hà Nội”, Nguyễn Huy

Tưởng một sự nghiệp chưa kết thúc, Viện văn học, H.

49. Cao Xuân Thử (1992), ““Cung đình” trong bộ ba tác phẩm của Nguyễn Huy

Tưởng”, Nguyễn Huy Tưởng một sự nghiệp chưa kết thúc, Viện văn học 4.

50. Nguyễn Tuân (1996), “Sống mãi với Thủ đô”, Tuyển tập Nguyễn Tuân, tập

3, Nxb Văn học.

51. Nguyễn Ngọc Thiện (1992), “Sống mãi với Thủ đô - “Không chỉ là phản

ánh, mà còn là tổng kết, soi sáng”, Nguyễn Huy Tưởng một sự nghiệp chưa

kết thúc, Viện văn học, H.

52. Nguyễn Đình Thi (1960), “Vĩnh biệt Nguyễn Huy Tưởng”, Văn học số 105.

53. Nguyễn Bích Thu, Tôn Thảo Miên (2000), “Nguyễn Huy Tưởng - khát vọng

một đời văn”, Nguyễn Huy Tưởng về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục.

54. Nguyễn Bích Thu (2015), “Dấu ấn văn hóa trong tiểu thuyết Nguyễn Huy

Tưởng”, Nhà văn Nguyễn Huy Tưởng từ khởi nguồn Dục Tú - Đông Anh,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Nxb Kim Đồng

55. Nguyễn Huy Thắng (2015), “Cha tôi với quê hương Dục Tú”, Nhà văn

Nguyễn Huy Tưởng từ khởi nguồn Dục Tú - Đông Anh, Nxb Kim Đồng

56. Nguyễn Huy Thắng (1996), “Những khúc sông, mảnh hồ trong cuộc đời

cha tôi”, Tia sáng 11.

57. Nguyễn Huy Thắng (1997), “Cha tôi hình ảnh dệt từ trí tưởng”, Nguyễn Huy

Tưởng trong vầng sáng hồi nhớ, Nxb Hà Nội.

58. Nguyễn Huy Thắng (1997), “Cha tôi viết Sống mãi với Thủ đô”, Nguyễn

Huy Tưởng trong vầng sáng hồi nhớ, Nxb Hà Nội.

59. Đỗ Lai Thúy (2006), Quan hệ văn hóa và văn học từ cái nhìn hệ thống,

http://tiasang.com.vn/, ngày 17/11/2006

60. Đỗ Lai Thúy (2005), Văn hóa Việt Nam nhìn từ mẫu người văn hóa, Nxb

Văn hóa thông tin, Hà Nội

61. Trần Nho Thìn (2018), Phương pháp tiếp cận văn hóa trong nghiên cứu

giảng dạy văn học, Nxb Giáo dục Việt Nam

62. Trần Ngọc Thêm (1997), Cơ sở Văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội

63. Phạm Quốc Tuấn (2007), Cơ sở Văn hóa Việt Nam, Đề cương bài giảng,

Đại học sư phạm -Đại học Thái Nguyên

64. Trần Thị Việt Trung (2010), Bản sắc dân tộc trong thơ ca các dân tộc thiểu

số Việt Nam hiện đại, Nxb Đại học Thái Nguyên

65. Hà Xuân Trường (1994), Văn hóa - Khái niệm và suy ngẫm, Nxb Văn hóa

thông tin, Hà Nội

66. Nguyễn Huy Tưởng (2014), Sống mãi với Thủ đô, Nxb Kim Đồng

67. Nguyễn Huy Tưởng (2015), Đêm hội Long trì, Nxb Kim Đồng

68. Nguyễn Huy Tưởng (2010), An Tư, Nxb Kim Đồng

69. Trần Quốc Vượng (chủ biên) (2009) Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục

70. Trần Quốc Vượng (2000), Văn hóa Việt Nam tìm tòi và suy ngẫm, Nxb Văn

hóa dân tộc.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn