ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM LÊ THỊ VINH VĂN HÓA HÀ NỘI TRONG TIỂU THUYẾT “SỐNG MÃI VỚI THỦ ĐÔ” CỦA NGUYỄN HUY TƯỞNG LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM THÁI NGUYÊN - 2019
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM LÊ THỊ VINH VĂN HÓA HÀ NỘI TRONG TIỂU THUYẾT “SỐNG MÃI VỚI THỦ ĐÔ” CỦA NGUYỄN HUY TƯỞNG Ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 8 22 01 21 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Thị Bích Thu THÁI NGUYÊN - 2019
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn: “Văn hóa Hà Nội trong tiểu thuyết “Sống
mãi với thủ đô” của Nguyễn Huy Tưởng” là công trình nghiên cứu của cá nhân
tôi dưới sự hướng dẫn của PGS.TS. Nguyễn Thị Bích Thu. Các nội dung nêu
trong luận văn là kết quả làm việc của tôi và chưa được công bố trong bất cứ một
công trình nào khác.
Các số liệu, kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực, khách quan.
Các thông tin trích dẫn trong luận văn đã được chỉ rõ nguồn gốc.
Thái Nguyên, tháng 5 năm 2019
Tác giả luận văn
Lê Thị Vinh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
LỜI CẢM ƠN
Bằng sự kính trọng và lòng biết ơn sâu sắc, tôi xin chân thành cảm ơn các
thầy cô giáo khoa Ngữ văn, khoa Sau đại học, cán bộ phòng quản lý khoa học
trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên đã tạo điều kiện thuận lợi cho
tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu tại trường.
Đặc biệt, tôi xin trân trọng cảm ơn PGS.TS. Nguyễn Thị Bích Thu, người
đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực hiện đề tài.
Cuối cùng, tôi xin được bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc tới gia đình, người
thân, đồng nghiệp cùng bạn bè đã động viên, quan tâm chia sẻ và tạo mọi điều
kiện giúp tôi hoàn thành tốt khoá học này.
Thái Nguyên, tháng 5 năm 2019
Tác giả luận văn
Lê Thị Vinh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................. i
LỜI CẢM ƠN ...................................................................................................... ii
MỤC LỤC .......................................................................................................... iii
MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1
1. Lí do chọn đề tài .............................................................................................. 1
2. Lịch sử vấn đề .................................................................................................. 3
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................ 11
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 12
5. Phương pháp nghiên cứu: .............................................................................. 12
6. Đóng góp của luận văn .................................................................................. 12
7. Cấu trúc luận văn ........................................................................................... 13
Chương 1: GIỚI THUYẾT KHÁI NIỆM VĂN HÓA VÀ SỰ NGHIỆP
SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN HUY TƯỞNG ................................................. 14
1.1. Giới thuyết khái niệm ................................................................................. 14
1.1.1. Khái niệm về “văn hóa” và “văn hóa Hà Nội” ........................................ 14
1.1.2. Mối quan hệ giữa văn hóa và văn học ..................................................... 20
1.1.3. Tiếp cận văn học từ góc nhìn văn hóa ..................................................... 22
1.2. Sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng .............................................. 24
1.2.1. Tiểu sử và hành trình sáng tác của nhà văn Nguyễn Huy Tưởng ........... 24
1.2.2. Tiểu thuyết Nguyễn Huy Tưởng ............................................................. 28
Tiểu kết chương 1 .............................................................................................. 33
Chương 2: DẤU ẤN VĂN HÓA HÀ NỘI TRONG TIỂU THUYẾT
SỐNG MÃI VỚI THỦ ĐÔ CỦA NGUYỄN HUY TƯỞNG ......................... 34
2.1. Bức tranh thiên nhiên mang dấu ấn văn hóa trong tiểu thuyết Sống mãi
với Thủ đô của Nguyễn Huy Tưởng. ................................................................. 34
2.2. Đời sống văn hóa - xã hội Việt Nam trong tiểu thuyết Sống mãi với Thủ
đô của Nguyễn Huy Tưởng ............................................................................... 40
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
2.3. Con người - chủ thể văn hóa trong tiểu thuyết Sống mãi với Thủ đô của
Nguyễn Huy Tưởng ........................................................................................... 45
2.3.1. Con người Hà Nội hào hoa, thanh lịch .................................................... 45
2.3.2. Con người có bản lĩnh và nhân cách cao đẹp .......................................... 48
Tiểu kết chương 2 .............................................................................................. 61
Chương 3: MỘT SỐ PHƯƠNG THỨC THỂ HIỆN DẤU ẤN VĂN
HOÁ HÀ NỘI TRONG TIỂU THUYẾT SỐNG MÃI VỚI THỦ ĐÔ
CỦA NGUYỄN HUY TƯỞNG ...................................................................... 62
3.1. Nghệ thuật xây dựng nhân vật .................................................................... 62
3.1.1. Nghệ thuật miêu tả ngoại hình nhân vật .................................................. 62
3.1.2. Nghệ thuật miêu tả cử chỉ, hành động nhân vật ...................................... 68
3.1.3. Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật .......................................................... 73
3.2. Ngôn ngữ .................................................................................................... 80
3.3. Hệ thống biểu tượng văn hóa trong tiểu thuyết Sống mãi với Thủ đô
của Nguyễn Huy Tưởng .................................................................................... 83
3.3.1. Biểu tượng và biểu tượng trong văn học ................................................. 83
3.3.2. Biểu tượng văn hóa Hà Nội nổi bật trong tiểu thuyết Sống mãi với
Thủ đô của Nguyễn Huy Tưởng ........................................................................ 85
Tiểu kết chương 3 .............................................................................................. 93
KẾT LUẬN ....................................................................................................... 94
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 96
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Nguyễn Huy Tưởng là một tên tuổi tiêu biểu của nền văn học Việt
Nam hiện đại. Ông bước vào làng văn hơi muộn, mặc dù từ năm 1930, trong nhật
ký của mình, Nguyễn Huy Tưởng đã viết “Phận sự của một người tầm thường
như tôi muốn tỏ lòng yêu nước thì chỉ có việc viết văn quốc ngữ” nhưng mãi đến
thập kỷ 40 ông mới thực sự cầm bút. Trong ý thức sáng tạo của mình , Nguyễn
Huy Tưởng luôn suy tư, nghiền ngẫm và lựa chọn để có được sự thống nhất, hòa
quyện giữa ý thức công dân và phẩm chất nghệ sĩ trong sáng tác của mình. Gần
20 năm hiện diện trong lĩnh vực văn học nghệ thuật, Nguyễn Huy Tưởng luôn
hướng tới sự thăng hoa trong sáng tạo, mong cho sản phẩm tinh thần của mình
góp phần tô điểm cho nền văn hóa dân tộc. Trong quá trình sáng tác, Nguyễn
Huy Tưởng đến với nhiều thể loại: thơ, truyện ngắn, tùy bút, tiểu thuyết, kịch
bản sân khấu, kịch bản phim, truyện viết cho thiếu nhi. Ở địa hạt nào, Nguyễn
Huy Tưởng cũng có những tác phẩm đồng hành với công chúng và người đọc.
1.2. Nguyễn Huy Tưởng được xem là nhà văn đa tài ở địa hạt văn xuôi.
Ông hầu như đụng bút trên hầu hết thể loại như : nhật ký, ký sự, phóng sự, truyện
ngắn, đặc biệt là tiểu thuyết. Đối với nền văn học Việt Nam hiện đại, Nguyễn
Huy Tưởng là một trong số hiếm hoi những tiểu thuyết gia có sở trường về đề tài
lịch sử. Với Đêm hội Long Trì, An Tư, Sống mãi với thủ đô, Lá cờ thêu sáu
chữ vàng…Nguyễn Huy Tưởng đã xác lập được vị trí của mình trên văn đàn dân
tộc. Dựa vào “những dòng viết ngắn ngủi và hóa thạch” của chính sử, bằng tài
năng vốn có, Nguyễn Huy Tưởng sáng tạo và hư cấu, đặt ra những vấn đề lớn
lao về đất nước, con người và nghệ thuật, bằng văn học làm nên sức sống của sử
học. Những vấn đề xưa và nay, quá khứ và hiện tại, lịch sử và thời sự luôn giao
hòa, phối trộn trong cảm hứng sáng tạo của Nguyễn Huy Tưởng, gợi không khí
rất gần mà rất xa, đượm hồn nước trong cái nhìn của nhà văn, nhà văn hóa
Nguyễn Huy Tưởng.
1.3. Trong quá trình nghiên cứu, tìm hiểu các sáng tác của Nguyễn Huy
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Tưởng, chúng tôi nhận thấy tiểu thuyết của ông in đậm dấu ấn văn hóa Việt Nam,
đặc biệt là dấu ấn văn hóa Hà Nội. Với một nhà văn hiểu biết sâu rộng về Hà
Nội, Nguyễn Huy Tưởng đã tìm thấy mảnh đất riêng của mình, bằng những liên
tưởng đối chiếu giữa kiến thức trong sách vở và với những trải nghiệm trong
cuộc đời, Hà Nội đã vào văn ông, “làm nên toàn bộ hồn cốt và đường nét trong
văn ông” khiến độc giả không chỉ “yêu tác giả tiểu thuyết” mà còn yêu quý thêm
“Hà Nội trung tâm tim óc của cả nước. Qua bao triều đại chế độ, cái tim óc bền
dẻo vĩ đại ấy đã đập đều trên chín thế kỉ rưỡi”[50].
1.4. Văn học là một bộ phận hợp thành của toàn thể cấu trúc văn hóa. Bất
kì tác phẩm văn học ở thời kì nào cũng đều mang dấu ấn văn hóa của thời kì đó.
Do vậy, khi nghiên cứu một tác phẩm văn học, chúng ta cần tìm hiểu những giá
trị văn hóa được thể hiện trong tác phẩm văn học đó. Nhất là trong giai đoạn hội
nhập toàn cầu như hiện nay thì việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc của mỗi
quốc gia đang là vấn đề được đặt lên hàng đầu. Nhận biết được điều này nên
chúng tôi mong muốn đi sâu nghiên cứu sáng tác của một tác giả cụ thể theo
hướng tiếp cận văn hóa. Chúng tôi lựa chọn tiểu thuyết của Nguyễn Huy Tưởng,
đặc biệt với tiểu thuyết Sống mãi với Thủ đô làm đối tượng nghiên cứu. Bởi
trong những công trình nghiên cứu các sáng tác của ông, các nhà nghiên cứu chủ
yếu đi sâu vào khai thác những yếu tố mang tính lịch sử và cách mạng mà chưa
có công trình nào nghiên cứu một cách chuyên sâu, có hệ thống về tiểu thuyết
của ông theo hướng liên ngành văn hóa - văn học.
1.5. Sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng đã được đưa vào chương trình học
ở đại học và các trường phổ thông hiện nay. Trong nhà trường phổ thông, tác
phẩm của Nguyễn Huy Tưởng được giảng dạy ở cả ba cấp học: Tiểu học, Trung
học cơ sở và Trung học phổ thông với ba trích đoạn văn bản tác phẩm khác nhau
ở sách giáo khoa Tiếng Việt và Ngữ Văn. Cụ thể: văn bản Bóp nát quả cam trích
từ truyện Lá cờ thêu sáu chữ vàng (Tiếng Việt lớp 2); văn bản Bắc Sơn trích
hồi 4 kịch Bắc Sơn (Ngữ Văn 9); văn bản Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài trích kịch
Vũ Như Tô (Ngữ văn 11). Nghiên cứu vấn đề này, chúng tôi mong phần nào
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
luận văn sẽ là tài liệu tham khảo đối với các thầy cô giáo và các bạn học sinh,
sinh viên trong việc giảng dạy, học tập tác phẩm của Nguyễn Huy Tưởng ở các
cấp học.
Từ những lí do trên cùng với niềm say mê và lòng kính trọng, khâm phục
tài năng Nguyễn Huy Tưởng, đặc biệt yêu thích tiểu thuyết của ông, chúng tôi
lựa chọn đề tài: “Văn hóa Hà Nội trong tiểu thuyết Sống mãi với Thủ đô của
Nguyễn Huy Tưởng”.
2. Lịch sử vấn đề
Khi nội lực sáng tạo đang dồi dào thì cơn bạo bệnh đã buộc Nguyễn Huy
Tưởng phải vĩnh biệt dương thế. Nhưng di sản văn học cùng với những trang
nhật ký tư tưởng của nhà văn vẫn được lưu giữ và đã trở thành đối tượng cuốn
hút sự quan tâm của giới nghiên cứu, phê bình và giảng dạy văn học. Tác phẩm
của ông vẫn là đối tượng để độc giả và giới phê bình, nghiên cứu và hơn một lần
khám phá và lý giải những ý tưởng phong phú, sâu sắc tiềm ẩn trong sáng tác
của ông trên những chiều kích mới, vượt qua những khía cạnh bất cập một thời.
Cho đến nay đã có rất nhiều công trình nghiên cứu của người đi trước về sự
nghiệp văn chương của Nguyễn Huy Tưởng nói chung và về tiểu thuyết nói riêng.
Khi thực hiện đề tài, chúng tôi có những thuận lợi nhất định khi kế thừa, tham
khảo những công trình mang tính tập hợp như “Nguyễn Huy Tưởng - về tác gia
và tác phẩm” (NXB Giáo dục - 2007), “Nguyễn Huy Tưởng - khát vọng một đời
văn” (NXB Văn hóa thông tin - 2001), “Nhà văn Nguyễn Huy Tưởng từ khởi
nguồn Dục Tú - Đông Anh” (NXB Kim Đồng - 2015). Ngoài ra các nhà nghiên
cứu vẫn tiếp tục phân tích, bình giá tác phẩm của nhà văn thông qua các bài viết
trên tạp chí, đề tài luận văn, luận án. Trên cơ sở đó, chúng tôi tập hợp thành
những khía cạnh liên quan đến đề tài như sau:
2.1. Những ý kiến đánh giá về tiểu thuyết của Nguyễn Huy Tưởng
Trong sự nghiệp sáng tác của mình, Nguyễn Huy Tưởng đặc biệt tâm
huyết với lịch sử, văn hóa quê nhà, đó là vùng quê ngoại thành Hà Nội. Chính vì
vậy mà ông gắn bó với mảnh đất Thăng Long bằng mối tơ duyên kì lạ. Gần hai
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
mươi năm trời lao động sáng tạo, Nguyễn Huy Tưởng đã viết về Hà Nội hoặc
những gì dính dáng đến Hà Nội, tính theo tỷ lệ phần trăm chiếm trên một nửa
khối lượng sáng tạo của nhà văn. Qua đó, nhà văn thể hiện sự am hiểu sâu sắc
tâm tư, cá tính của con người Thủ đô, cũng như những truyền thống văn hóa,
những giai thoại lịch sử của vùng đất ngàn năm văn hiến này. Có lẽ vì thế mà
Vương Trí Nhàn đã từng khẳng định ông là “một trong những người xứng đáng
nhất với danh hiệu nhà văn Hà Nội”.
Ngay nhan đề, tên gọi của những đứa con tinh thần Đêm hội Long Trì,
An Tư, Sống mãi với Thủ đô…đã rất gợi, bộc lộ cảm xúc thăng hoa của trái tim
nghệ sĩ nơi nhà văn Nguyễn Huy Tưởng. Nguyễn Minh Châu đã từng bị lôi cuốn
bởi các sáng tác về Hà Nội của Nguyễn Huy Tưởng “Những cái tên sách gợi lên
hình ảnh một cái đài tưởng niệm bằng ngôn ngữ, một vòng nguyệt quế từ bàn tay
Nguyễn Huy Tưởng đặt lên trán những trai thanh gái lịch của Hà Nội rất giàu
lòng yêu nước”[7].
Đọc Nguyễn Huy Tưởng, ai cũng nhận ra cảm hứng lịch sử bao trùm phần
lớn các tác phẩm. Lần trở lại nhật ký năm 1932, khi ông mới hơn 20 tuổi, ta hiểu
thêm rằng con người ấy từ tuổi trẻ đã nặng lòng với lịch sử dân tộc đến thế nào.
Ông viết: “Người không biết lịch sử nước mình là con trâu đi cày ruộng. Cày
với ai cũng được, mà cày ruộng nào cũng được”[21].
Như một sự sắp đặt của số phận, những sáng tác văn xuôi đầu tiên Đêm
hội Long Trì (1942), An Tư (1943), và sáng tác cuối cùng của Nguyễn Huy
Tưởng, tiểu thuyết Sống mãi với Thủ đô đều viết về đề tài lịch sử, về Thăng
Long. Nhà văn Nguyễn Tuân trong lời bạt cuốn Sống mãi với Thủ đô đã có
cảm nhận tinh tế: “Đọc lại những tiểu thuyết lịch sử, kể cả Sống mãi với Thủ
đô, người đọc vẫn thấy gây gây mùi khói vấn vương ngàn năm Thăng Long
chốn cũ”[50]. Nguyễn Tuân đã vô cùng yêu mến và không khỏi nuối tiếc những
nhân vật trong tiểu thuyết Sống mãi với Thủ đô mà Nguyễn Huy Tưởng chưa
kịp “tác thành” đường đi nước bước của họ, ông cũng say trong “khí hậu của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
thủ đô” và khung cảnh “bừng bừng cháy lên” của Hà Nội trong cuộc đụng độ
với thực dân Pháp mà Nguyễn Huy Tưởng tái tạo trong Sống mãi với Thủ đô.
Bằng ngôn ngữ của riêng mình, Nguyễn Tuân viết: “Tôi coi tiểu thuyết này như
một bức tranh có nhiều đức tính truyền cảm mà tôi chỉ muốn được làm một
người thợ mộc cố tìm cho tác giả nó một bộ khung tương xứng bằng gỗ tốt, gỗ
quý”[50].
Trong bài Vài điều ghi nhận được trên một số tác phẩm văn học gần
đây - Văn nghệ, 9 - 1961, Nhà văn Như Phong đã cảm nhận được bước ngoặt
mới trong quá trình sáng tạo của Nguyễn Huy Tưởng mà Sống mãi với thủ đô là
một minh chứng “Tập tiểu thuyết chưa trọn vẹn này đã làm cho ta thấy được cái
tính chất phức tạp của thực tế kháng chiến không còn cái vẻ tráng lệ hơi dễ dãi,
cái lối lý tưởng hóa con người hơi ngây thơ mà nhiều tác phẩm của Nguyễn Huy
Tưởng trước đây vẫn có. Với tác phẩm cuối cùng này, anh đã tự đổi mới trong
phương pháp nghệ thuật của mình”[53].
Trong một hệ thống bài viết Sống mãi với thủ đô, tác phẩm cuối cùng
của Nguyễn Huy Tưởng (Báo Nhân dân 18 - 6- 1961), chuyên luận Nguyễn
Huy Tưởng (1966), chương viết về sáng tác của nhà văn trong thời kì hòa bình
đã nhắc nhiều đến Sống mãi với thủ đô, lời giới thiệu Tuyển tập Nguyễn Huy
Tưởng (1984), Hà Minh Đức đã đưa ra nhận xét tổng quát Sống mãi với thủ đô
“bộc lộ rõ nét nhất đỉnh cao cũng như cái đích đi tới cuối cùng của Nguyễn Huy
Tưởng”, bởi tiểu thuyết đã “kết hợp được sự miêu tả sự kiện lịch sử với số phận
cá nhân, vẻ đẹp lý tưởng với chiều sâu hiện thực, âm hưởng anh hùng ca của
cuộc chiến đấu với nét trữ tình đằm thắm. Tác phẩm đã tạo dựng được nhiều bức
tranh hoành tráng của Hà Nội kháng chiến và không khí đặc biệt của một thời
kì lịch sử”[53]
Tác giả Nguyễn Phương Chi trong bài viết Sống mãi với Thủ đô đã nhận
định “Sống mãi với Thủ đô thấm đượm tinh thần yêu nước và chủ nghĩa anh
hùng cách mạng. Hết thảy các nhân vật chính diện của tác giả, ở nhiều mức độ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
và sắc thái biểu hiện khác nhau, đều mang trong mình những phẩm chất cao
đẹp: tinh thần dân tộc và ý chí tự do, thái độ sẵn sàng hy sinh vì đất nước…Nhà
văn đã bắt đầu kết hợp được quy mô sử thi rộng lớn của sự kiện với việc đi sâu
vào diễn biến số phận cũng tâm lý phức tạp của nhiều cá nhân”[6].
Với tiểu thuyết Đêm hội Long Tŕ, trong bài Nguyễn Huy Tưởng tác giả
Hà Minh Đức có viết “Tác phẩm đầu tay Đêm hội Long Trì mở đầu cho quá
trình sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng, dựa trên những tư liệu lịch sử đề cập qua
Hoàng Lê nhất thống chí và Việt Lãm xuân thu, khai thác câu chuyện xoay quanh
quan hệ giữa chúa Trịnh Sâm và hai chị em Đặng Thị Huệ” tuy nhiên “Viết Đêm
hội Long Trì, Nguyễn Huy Tưởng không khai thác tập trung vào quan hệ giữa
Trịnh Sâm và Đặng Thị Huệ như một vài cuốn sách khác. Tác giả lấy Đặng Mậu
Lân làm đầu mối cho các quan hệ Đặng Mậu Lân - Quỳnh Hoa, Đặng Mậu Lân
- Nguyễn Mại: ở đây thể hiện hai sự đối lập, đối lập giữa sự tàn ác thô bỉ của
dục vọng với vẻ đẹp mềm mại và tình yêu thơ mộng, và đối lập giữa tội ác và
công lý”[12]
Ở bài viết Sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng các tác giả Trần Đình Nam
và Nguyễn Phương Chi cũng đã có những nhận xét, đánh giá về tiểu thuyết An
Tư, “Đọc An Tư ta cảm nhận được rất rõ không khí và màu sắc thời đại mà nhà
văn mô tả. Người đọc rất tự nhiên bước vào cái thế giới do nhà văn sáng tạo ra
và cũng rất tự nhiên, vui sướng đau khổ ký thác tâm sự cùng người thiên cổ. Tình
yêu con người, đất nước, tinh thần thượng võ, những của cải tinh thần vô giá mà
cha ông hương hỏa lại cho ta, ẩn kín đâu đó sâu thẳm trong tâm linh bỗng trỗi
dậy, và ta càng tự hào, sung sướng vì mình là con Lạc cháu Hồng…”[39]
Hai tác giả Hà Minh Đức và Phan Cự Đệ trong bài Tiểu thuyết và kịch
lịch sử của Nguyễn Huy Tưởng trước Cách mạng tháng Tám đã ghi nhận
những dấu ấn văn hóa trong tiểu thuyết Đêm hội Long trì “Viết Đêm hội Long
trì, Nguyễn Huy Tưởng đã dựa vào Hoàng Lê nhất thống chí, Tang thương ngẫu
lục, Vũ trung tùy bút. Cảnh đêm trung thu ở hồ Long trì đã được Nguyễn Huy
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Tưởng mô tả gần giống như đoạn Kinh phủ (Nguyễn Án) nói về “Chuyện cũ
trong phủ chúa””[14]. Cùng với đó là những ý kiến, nhận xét của Trần Đình
Nam và Nguyễn Phương Chi trong bài Sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng
“Trước An Tư, Nguyễn Huy Tưởng viết Đêm hội Long trì. Ngay ở cuốn tiểu
thuyết đầu tay này đã thấy rõ tài viết truyện lịch sử của ông. Ông đã làm sống
lại dĩ vãng xa lắc xa lơ, bị sức nặng của hàng mấy thế kỉ đào sâu chôn chặt.
Những phong tục, tập quán, lễ nghi, những hội hè đình đám lộng lẫy với những
tài tử giai nhân “ngựa xe như nước áo quần như nêm” hiển hiện trước mắt
ta”[39]
Tác giả Nguyễn Huy Thắng trong bài viết Những khúc sông, mảnh hồ
trong cuộc đời cha tôi , đã từng khẳng định: “Hồ Tây đã đi vào những trang
sách của cha tôi trong Đêm hội Long Trì. Hồ Tây cũng là niềm tự hào của cha
tôi về những cảnh đẹp một thời của Hà Nội, với những rừng chúc, rừng bang mà
người dân kinh kì khi xưa thường tới thưởng ngoạn”[56]
Như vậy, qua việc tìm hiểu những ý kiến, đánh giá cũng như các công
trình nghiên cứu của các nhà nghiên cứu, phê bình văn học, chúng tôi nhận thấy
cảm hứng chủ đạo trong những sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng là cảm hứng
lịch sử. Đó được xem như là sở trường của nhà văn. Tuy nhiên, để có những
trang “chính sử viết bằng văn chương” ấy, thì Nguyễn Huy Tưởng phải là một
người am hiểu tường tận về nền văn hóa nước nhà. Chính điều này đã tạo nên
khoảng trống giúp chúng tôi tìm hiểu và nghiên cứu đề tài.
2.2. Những ý kiến đánh giá về dấu ấn văn hóa Hà Nội trong tiểu thuyết Sống
mãi với Thủ đô của Nguyễn Huy Tưởng
Nguyễn Huy Tưởng là nhà văn của đề tài lịch sử nhưng ông cũng là nhà
văn của cuộc sống mới, con người mới. Trong tâm thức văn hóa của người Việt
nói chung và người Hà Nội nói riêng, thiên nhiên, ngoại cảnh, môi trường sinh
thái gắn bó, hòa hợp với con người. Cùng viết về Hà Nội và dành cho trái tim
của cả nước tình yêu của chính mình, nhưng khác với Tô Hoài, Thạch Lam, Vũ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Bằng…trong cảm hứng sáng tạo của Nguyễn Huy Tưởng nổi bật âm hưởng lịch
sử - văn hóa. Trong bài viết Bên nhà văn Nguyễn Huy Tưởng cùng ngắm Hồ
Gươm, Nguyễn Minh Châu đã viết: “Nghĩ về ông, bao giờ tôi cũng tưởng tượng
ra một nhà văn đồng thời là một nhà văn hóa”. Quả vậy, trong cảm quan sáng
tạo của mình, Nguyễn Huy Tưởng đã trực tiếp hoặc gián tiếp giới thiệu những
tinh hoa văn hóa Việt với người đọc. Nhờ vào những trang viết tài hoa của nhà
văn, người đọc đương thời và hậu thế nhận ra dấu ấn văn hóa của Hà Nội, của
Việt Nam trải qua những giai đoạn, thời khắc khác nhau của lịch sử và văn hóa
dân tộc. Có thể thấy khá nhiều giá trị văn hóa truyền thống của Việt Nam nói
chung và Hà Nội nói riêng được tái hiện trong sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng.
Trong bài viết Nguyễn Huy Tưởng - khát vọng một đời văn các nhà
nghiên cứu Tôn Thảo Miên và Nguyễn Bích Thu đã chỉ ra “ Với Sống mãi với
thủ đô, Nguyễn Huy Tưởng không chỉ thành công trong tái tạo không khí hào
hùng, bi tráng của lịch sử mà cả trong miêu tả diễn biến tâm lí phức tạp, tinh vi
của đời sống tâm hồn nhân vật, mang ý nghĩa nhân bản, đề cao lòng yêu nước
và sự sống con người. Ở một góc độ khác, chỉ với ngòi bút tài hoa, tác giả cuốn
tiểu thuyết mới “tả được những nét sang trọng, lịch sự của thủ đô. Sang trọng
lịch sự mà vẫn yêu nước, ghét Tây”, điều đó làm nên cuộc sống riêng, không lẫn
với các trường thiên tiểu thuyết cùng thời với Sống mãi với thủ đô”[53].
Viết về nhân vật trong tiểu thuyết Sống mãi với thủ đô, tác giả Phong Lê
trong bài viết Sống mãi với thủ đô trong quá trình sáng tác của Nguyễn Huy
Tưởng nhận xét: “Miêu tả Hà Nội trong tính phức tạp của nó, Nguyễn Huy
Tưởng cố gắng mở rộng thế giới nhân vật của mình. Anh miêu tả nhiều tầng lớp
nhân dân lao động Hà thành, cô gái bán hoa Ngọc Hà, mẹ Thắng bán xôi chè,
Dân thợ nguội, Sơn thợ xẻ, Quý tài xế,…nhiều con người thuộc nhiều thành phần
xã hội khác nhau đó đã tham gia vào cuộc kháng chiến khỏe khoắn, tự nhiên vì
cuộc đời của họ nói chung đã phải trải qua nhiều cực khổ. Trong lớp quần chúng
cơ bản, Nguyễn Huy Tưởng chú ý những công nhân ưu tú, những cán bộ lãnh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
đạo phong trào như Dân, Quốc Vinh, Nguyễn Gia Định là lực lượng nòng cốt,
tiêu biểu cho tinh thần sống chết với thủ đô, chèo chống cho cuộc kháng chiến ở
thủ đô..”[26].Cũng trên tinh thần ghi nhận nét mới trong cảm hứng sáng tạo của
Nguyễn Huy Tưởng, Phong Lê viết: “Nguyễn Huy Tưởng đã phác họa được
nhiều thái độ khác nhau, nhiều số phận khác nhau của con người trong một cơn
rung chuyển lớn lao của lịch sử. Một cách đặt vấn đề như thế đối với các sáng
tác trước Cách mạng của anh là hoàn toàn mới lạ, chưa thể có được”[26].
Với bài viết Dấu ấn văn hóa trong tiểu thuyết Nguyễn Huy Tưởng tác
giả Nguyễn Bích Thu đã cho chúng ta thấy: “Trong Sống mãi với thủ đô, bên
cạnh cái lạnh giá của mùa đông năm 1946, cái bóng tối đặc quánh bao trùm Hà
Nội trong đêm đầu tiên quân và dân Thủ đô chống trả giặc Pháp là những hình
ảnh mang hơi ấm của văn hóa truyền thống. Cái hơi ấm ấy như tiếp sức, truyền
thêm khí thế “quyết tử cho tổ quốc quyết sinh” với người dân Thủ đô vốn giàu
lòng yêu nước, ghét Tây. Những yếu tố văn hóa xuất hiện khá đắc địa trong tiểu
thuyết đã dệt nên bức tranh toàn cảnh Hà Nội trong thời điểm có một không hai
của lịch sử dân tộc. Bức tranh ấy cho thấy sự đan bện, phối màu của hai đối cực
: chiến tranh và đời thường, hiện tại và quá khứ, cái chết và sự sống, lịch sử và
văn hóa, xưa và nay, hào hùng và hào hoa. Sự điểm xuyết, hiện diện của các yếu
tố văn hóa ấy trong sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng tạo nên mỹ cảm trong tiếp
nhận của người đọc”[54]. Cũng trong bài viết này, tác giả nhận định rằng
“Những nét đẹp mang bản sắc của Hà Nội ba mươi sáu phố phường mà biểu
tượng của nó là Hồ Gươm xuất hiện với mật độ đáng kể trong các trang văn
Sống mãi với Thủ đô…Với Nguyễn Huy Tưởng, tình yêu và niềm tự hào dành cho
Hà Nội trong những ngày Tổ quốc lâm nguy, bắt đầu từ chính tình yêu với thiên
nhiên, với Hồ Gươm, một trong những yếu tố mang đặc trưng của Hà Nội. Bởi
văn hóa chính là cách con người quan hệ với thiên nhiên”[54].
Phong Lê trong bài Sống mãi với thủ đô trong quá trình sáng tác của
Nguyễn Huy Tưởng, đã có những nhận xét khá sâu sắc về chất kịch và chất thơ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
trong tiểu thuyết Sống mãi với thủ đô, Ông viết: “không khi nào những xung đột
lớn lao trong đời sống…đem đến những đảo lộn trong tâm trạng, tình cảm, quan
hệ giữa con người lại được tập trung bằng lúc này. Cho nên có thể nói Sống mãi
với thủ đô cũng đồng thời là một thiên kịch lớn”; “nói đến chất thơ trong Sống
mãi với thủ đô trước hết là nói đến cái nhìn sâu vào bên trong các biến cố của
đời sống, phát hiện trong hiện tại những gì thuộc về quá khứ và báo hiệu cho
tương lai. Cái nhìn của Nguyễn Huy Tưởng luôn luôn là cái nhìn suốt cả quá
trình. Mỗi vấn đề, mỗi hiện tượng anh nêu lên đều có lịch sử riêng. Trong nét vẽ
rành rõ, sáng sủa của hiện tại, anh phủ lên một lượt mây mờ cổ kính của quá
khứ và cũng đồng thời rọi chiếu một thứ ánh sáng, rực rỡ của tương lai. Cảm
hứng lãng mạn do nhiệt tình của người viết đã đem đến cho thiên truyện nhiều
chất thơ. Âm hưởng chung của thiên truyện là âm hưởng lạc quan. Tiếng cười
nói, tiếng súng đạn, tiếng trẻ bán báo, rao hàng, tiếng đàn ấm áp, tiếng sinh hoạt
của cuộc đời…bản hòa tấu của nhiều âm thanh khác nhau đó trong thiên truyện
nghe sao khác rất nhiều tiếng gõ quan tài bi thảm trong Những người ở lại”[26].
Cùng với đó, Nguyễn Minh Châu trong bài viết Bên nhà văn Nguyễn
Huy Tưởng cùng ngắm Hồ Gươm đã cho thấy sự cảm nhận tinh tế của tác giả
về nét đẹp văn hóa của Hà Nội trong Sống mãi với Thủ đô “Tôi đọc Sống mãi
với Thủ đô đã mấy chục năm nay thế mà vẫn còn giữ nguyên vẹn trong trí nhớ
một chiếc lá sấu vàng khô cong như một tấm vàng giát, từ từ và lặng lẽ gieo mình
xuống vạt cỏ ven Hồ Gươm trong một buổi chiều mùa đông năm ấy - mùa đông
năm 1946 - trong một sắc trời một màu xám đầy lạnh lẽo chứa đựng một cái gì
gai gai, rờn rợn mà tôi - tôi có cảm tưởng chỉ ngòi bút Nguyễn Huy Tưởng mới
tả được hay đến như thế - về mấy ngày trước khi cuộc kháng chiến trường kì nổ
ra”[7].
Luận văn Hà Nội trong sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng, trường hợp
Sống mãi với Thủ đô của Nguyễn Thị Phương Lan cũng đã đi sâu nghiên cứu,
tìm hiểu những nét đẹp của Hà Nội trong tiểu thuyết Sống mãi với Thủ đô của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Nguyễn Huy Tưởng qua hai phương diện nội dung và nghệ thuật. Luận văn có
đề cập đến một Hà Nội với sự thấm quyện giữa lịch sử và văn hóa.
Tóm lại, từ việc tìm hiểu lịch sử vấn đề nghiên cứu sáng tác của Nguyễn
Huy Tưởng, chúng tôi thấy: Dấu ấn văn hóa trong tiểu thuyết của nhà văn đã ít
nhiều được đề cập đến tuy nhiên đó mới chỉ là những nhận định khái quát mà
chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống. Từ đó đã gợi
mở cho chúng tôi lựa chọn đề tài: Văn hóa Hà Nội trong tiểu thuyết Sống mãi
với Thủ đô của Nguyễn Huy Tưởng. Kế thừa những kết quả nghiên cứu của
người đi trước, chúng tôi sẽ mở rộng, khơi sâu và làm rõ những giá trị, dấu ấn
văn hóa có trong nội dung và nghệ thuật của tiểu thuyết Sống mãi với Thủ đô
của Nguyễn Huy Tưởng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Làm rõ mối quan hệ biện chứng giữa văn học và văn hóa, những dấu ấn
văn hóa trong tiểu thuyết Sống mãi với Thủ đô của nhà văn Nguyễn Huy Tưởng
nhìn từ hai phương diện nội dung và nghệ thuật thể hiện
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Luận văn khái lược tìm hiểu về mối quan hệ tương tác giữa văn học
và văn hóa. Từ đó có cơ sở để tìm hiểu tiểu thuyết Nguyễn Huy Tưởng nói
chung và Sống mãi với Thủ đô nói riêng trong mối quan hệ liên ngành văn
hóa - văn học.
- Luận văn nhận diện dấu ấn văn hóa Hà Nội trong tiểu thuyết Sống mãi
với Thủ đô của Nguyễn Huy Tưởng . Từ đó khẳng định phong cách nghệ thuật
và những đóng góp của Nguyễn Huy Tưởng đối với nền văn học Việt Nam hiện
đại cũng như đối với việc gìn giữ bản sắc văn hóa Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung vào việc tìm hiểu văn hóa Hà
Nội trong tiểu thuyết Sống mãi với Thủ đô của Nguyễn Huy Tưởng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
- Phạm vi tài liệu nghiên cứu: Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi
chọn khảo sát các tập tiểu thuyết: Đêm hội Long Trì, An Tư, Sống mãi với
thủ đô, đặc biệt đi sâu vào tiểu thuyết Sống mãi với Thủ đô của Nguyễn Huy
Tưởng.
5. Phương pháp nghiên cứu:
Trong quá trình thực hiện luận văn, chúng tôi sử dụng một số phương pháp
nghiên cứu cơ bản sau đây:
- Phương pháp tiếp cận văn hóa học: Phương pháp này được sử dụng nhằm
tìm hiểu những dấu ấn văn hóa có trong tác phẩm qua việc nghiên cứu mối quan
hệ giữa văn học và văn hóa.
- Phương pháp thống kê, phân loại: Chúng tôi tập trung thống kê các tác
phẩm của ông và phân loại theo đặc trưng thể loại để có thể dễ dàng trong việc
tiếp cận và phân tích tác phẩm
- Phương pháp phân tích tác phẩm theo đặc trưng thể loại: Được sử dụng
phổ biến trong luận văn để nhận xét, đánh giá tác phẩm một cách toàn diện về cả
hai mặt nội dung và nghệ thuật.
- Phương pháp so sánh, đối chiếu: Trong luận văn chúng tôi sẽ tìm hiểu
tiểu thuyết Sống mãi với Thủ đô bên cạnh những tác phẩm khác của ông trước
và sau cách mạng. Bởi phương pháp này giúp chúng tôi nhìn nhận tác phẩm trong
cái nhìn tương quan, từ đó tìm ra điểm tương đồng và khác biệt của tác phẩm với
những tác phẩm khác.
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành: Phương pháp này giúp chúng tôi có
cái nhìn toàn diện, đầy đủ hơn về tác phẩm.
6. Đóng góp của luận văn
- Luận văn là công trình đầu tiên tìm hiểu một cách hệ thống trường hợp
tiểu thuyết Sống mãi với Thủ đô của Nguyễn Huy Tưởng từ góc nhìn văn hóa.
Trên cơ sở đó luận văn đã nhận diện dấu ấn văn hóa Hà Nội trong tiểu thuyết
Sống mãi với Thủ đô trên hai phương diện nội dung và nghệ thuật thể hiện.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
- Luận văn có thể trở thành tài liệu tham khảo cho công việc học tập, giảng
dạy tác phẩm của Nguyễn Huy Tưởng trong các nhà trường phổ thông.
7. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, phần Nội dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Giới thuyết khái niệm văn hóa và sự nghiệp sáng tác của
Nguyễn Huy Tưởng
Chương 2: Dấu ấn văn hóa Hà Nội trong tiểu thuyết Sống mãi với Thủ đô
của Nguyễn Huy Tưởng
Chương 3: Một số phương thức thể hiện dấu ấn văn hóa trong tiểu thuyết
Sống mãi với Thủ đô của Nguyễn Huy Tưởng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Chương 1
GIỚI THUYẾT KHÁI NIỆM VĂN HÓA VÀ SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC
CỦA NGUYỄN HUY TƯỞNG
1.1. Giới thuyết khái niệm
1.1.1. Khái niệm về “văn hóa” và “văn hóa Hà Nội”
Khái niệm “văn hóa”
Văn hóa là một khái niệm rất phức tạp. Có rất nhiều định nghĩa văn hóa
tùy theo góc độ của người nghiên cứu muốn nhấn mạnh phương diện nào. Hiện
nay, trên thế giới có đến gần 500 định nghĩa khác nhau về “văn hóa”.
Vào thế kỉ XIX, thuật ngữ “văn hóa” được những nhà nghiên cứu phương
Tây sử dụng như một danh từ chính. Họ cho rằng “văn hóa” thế giới có thể phân
ra từ trình độ thấp đến trình độ cao nhất, và văn hóa của họ chiếm vị trí cao nhất.
Bởi vì họ cho rằng bản chất văn hóa hướng về trí lực và sự vươn lên, sự phát
triển tạo thành văn minh, E.B.Tylor là đại diện cho quan niệm đó. Theo tác giả,
văn hóa là “một tổng thể phức tạp bao gồm các kiến thức tín ngưỡng (tín niệm),
nghệ thuật, đạo đức, luật lệ, phong tục, và tất cả những khả năng và thói quen
mà con người đạt được với tư cách là một thành viên trong xã hội”[8].
Định nghĩa này được nhiều nhà khoa học chấp nhận và sau đó, khi có
những nhà khoa học đưa ra những định nghĩa khác, thì nó vẫn được nhắc đến
như một định nghĩa dùng để tham khảo. Cùng với sự phát triển của việc nghiên
cứu văn hóa theo nhiều hướng khác nhau, có rất nhiều định nghĩa được đề cập
sau định nghĩa của E.B.Tylor. Tiêu biểu là định nghĩa của Edward Sapir, William
Isaac Thomas, định nghĩa về văn hóa của ông Tổng giám đốc UNESCO F.
Mayor.
Trong bài phát biểu với nhan đề Thập kỉ thế giới phát triển văn hóa ông
Tổng giám đốc UNESCO F. Mayor định nghĩa văn hóa như sau:
“Văn hóa là một bộ phận không thể tách rời của cuộc sống và nhận thức
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
- một cách hữu thức cũng như vô thức - của các cá nhân và các cộng đồng. Văn
hóa là tổng thể sống động các hoạt động sáng tạo trong quá khứ và hiện tại. Qua
các thế kỉ, hoạt động sáng tạo ấy hình thành nên một hệ thống các giá trị và các
thị hiếu - những yếu tố xác định đặc tính riêng của từng dân tộc”[8].
Ở phương Đông, trong đó có Việt Nam, từ xa xưa đã phổ biến khái niệm
văn hiến, văn vật trong khi ở phương Tây thường gắn với khái niệm văn minh.
Như vậy, cho đến nay, chưa phải mọi người đã đồng ý với nhau tất cả về định
nghĩa văn hóa. Ở Việt Nam, nghiên cứu văn hóa như một khoa học được bắt đầu
vào nửa đầu thế kỉ XX. Những người mở đầu có thể kể đến các nhà nghiên cứu
Đào Duy Anh, Nguyễn Văn Huyên…
Ở nước ta, chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục
đích cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo
đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh
hoạt hằng ngày về mặt ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng
tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là tổng hợp của mọi phương thức
sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó do loài ngươi đã sản sinh ra nhằm thích ứng
nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”[8].
Nhà nghiên cứu Phan Ngọc đưa ra một định nghĩa văn hóa như sau: “Văn
hóa là mối quan hệ giữa thế giới biểu tượng trong óc một cá nhân hay một tộc
người với cái thế giới thực tại ít nhiều đã bị cá nhân này hay tộc người này mô
hình hóa theo cái mô hình tồn tại trong biểu tượng. Điều biểu hiện rõ nhất chứng
tỏ mối quan hệ này, đó là văn hóa dưới hình thức dễ thấy nhất, biểu hiện thành
một kiểu lựa chọn riêng của cá nhân hay tộc người, khác các kiểu lựa chọn của
các cá nhân hay các tộc người khác”[33]. Trong định nghĩa này, tác giả không
nói đến lịch sử, mà chỉ xét mặt bên ngoài của cái hiện tượng độc đáo mang tên
văn hóa.
Trên cơ sở phân tích định nghĩa về văn hóa, tác giả Trần Ngọc Thêm đã
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
đưa ra một định nghĩa về văn hóa như sau: “Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các
giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt
động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã
hội”[62].
Gần đây nhất, trong một bài viết của mình, nhà nghiên cứu Nguyễn Từ
Chi đã quy các kiểu nhìn khác nhau về văn hóa vào hai góc độ. Góc độ thứ nhất,
ông gọi là góc hẹp, “góc nhìn báo chí”, thông dụng trong cuộc sống hàng ngày.
Theo góc nhìn này thì “văn hóa” thường được hiểu là kiến thức của con người,
của xã hội. Nhưng còn các định nghĩa văn hóa từ góc độ thứ hai mà ông gọi là
góc độ “dân tộc học”. Cách định nghĩa “văn hóa” từ góc độ thứ hai này là cách
định nghĩa của một ngành khoa học, cách định nghĩa dùng trong nghiên cứu khoa
học.
Trong những năm gần đây, một số nhà nghiên cứu ở Việt Nam và kể cả ở
nước ngoài khi đề cập đến văn hóa, họ thường vận dụng định nghĩa văn hóa do
UNESCO đưa ra năm 1994. Theo UNESCO “văn hóa hôm nay có thể coi là tổng
thể những nét riêng biệt tinh thần và vật chất, trí tuệ và cảm xúc quyết định tính
cách của một xã hội hay một nhóm người trong xã hội. Văn hóa bao gồm nghệ
thuật và văn chương, những lối sống, những quyền cơ bản của con người, những
hệ thống các giá trị, những tập tục và tín ngưỡng. Văn hóa đem lại cho con người
khả năng soi xét về bản thân. Chính văn hóa đã làm cho chúng ta trở thành
những sinh vật đặc biệt nhân bản, có lý tính, có óc phê phán và dấn thân một
cách đạo lý. Chính nhờ văn hóa mà chúng ta xét đoán được những giá trị và thực
thi những sự lựa chọn. Chính nhờ văn hóa mà con người tự thể hiện, tự ý thức
được bản thân, tìm tòi không biết mệt những giá trị văn hóa mới mẻ và sáng tạo
ra những công trình vượt trội lên bản thân”[64]
Có thể nói, các định nghĩa văn hóa hiện nay rất đa dạng. Mỗi định nghĩa
đề cập đến những dạng thức hoặc những lĩnh vực khác nhau trong văn hóa. Từ
những định nghĩa về “văn hóa” như trên, ta có thể hiểu một cách khái quát như
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
sau: Văn hóa là một hoạt động sáng tạo riêng của con người, hoạt động sáng tạo
đó bao trùm lên mọi lĩnh vực hoạt động của đời sống con người, thành tựu chính
của những hoạt động sáng tạo đó là các giá trị văn hóa, và văn hóa của mỗi cộng
đồng người có những đặc tính riêng hình thành trong lịch sử, phân biệt cộng đồng
người này với cộng đồng người khác. “Văn hóa” gắn liền với cuộc sống con
người, với sự phát triển và hoàn thiện của con người, xã hội.
Khái niệm “văn hóa Hà Nội”
“Hà Nội ba sáu phố phường
Hàng Gạo, Hàng Đường, Hàng Muối trắng tinh”
Nói đến Hà Nội, người ta nghĩ ngay tới một thành phố với 36 phố phường
mang đậm nét văn hóa cổ xưa, là nơi lưu giữ lịch sử Việt có giá trị văn hóa truyền
thống. Bên cạnh đó, Hà Nội còn là thành phố vì hòa bình được UNESCO công
nhận.
Đã hơn mười thế kỉ trôi qua, nhưng Hà Nội xưa và nay vẫn luôn là trung
tâm chính trị, kinh tế, văn hóa lớn của nước Việt Nam. Hà Nội trong nghìn năm
ấy, vừa bảo tồn những giá trị truyền thống vừa biết tiếp thu những gì là tinh túy
nhất của mọi vùng miền đất nước và xa hơn là của bạn bè quốc tế, để với bản
lĩnh của Hà Nội ngàn năm văn hiến, những điều hay đã được nhân lên, đồng thời
xóa đi những cái dở, để làm nên một nền văn hóa mang bản sắc riêng đầy quyến
rũ - văn hóa Hà Nội. Và không chỉ những người sống ở Hà Nội, yêu Hà Nội mà
tất cả những ai đã từng đặt chân đến Hà Nội đều có thể cảm nhận được nét quyến
rũ ấy.
Là mảnh đất ngàn năm văn hiến, văn hóa Hà Nội đã hội tụ biết bao tinh
hoa văn hóa của mọi miền đất nước. Hệ thống di sản văn hóa vật thể và phi
vật thể của Hà Nội vô cùng phong phú, đa dạng và mang đậm bản sắc của
người Tràng An. Hệ thống di sản đó đã trở thành một biểu tượng của văn hóa
Việt Nam.
Hà Nội - trái tim của đất nước, thành phố của hòa bình - đã được biết đến
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
với những tinh hoa văn hóa ngàn năm. Đó là “Khu phố cổ” - nơi lưu giữ những
dấu ấn đặc sắc của một “Hà Nội băm sáu phố phường”, nơi đây đã chứng kiến
biết bao sự kiện lịch sử hào hùng của dân tộc trong công cuộc kháng chiến để
giữ nền độc lập cho nước nhà. Nơi đây, không những là trung tâm kinh tế mà
còn là một trung tâm văn hóa độc đáo, với văn hóa ẩm thực khá phong phú.
Những cái tên Hàng Đào, Hàng Ngang, Hàng Bạc, Hàng Khoai, Hàng Bông,
Hàng Chuối…không chỉ là tên phố mà ẩn sau mỗi tên gọi ấy là một nghề thủ
công đặc sắc, một hoài niệm của lịch sử. Đó là “Thành Cổ Thăng Long” - biểu
tượng sống động của một kinh đô được xây dựng cách đây hàng nghìn năm, hơn
nữa đó còn là một di tích độc nhất vô nhị, mang tính biểu tượng cho cộng đồng
người dân Hà Nội, giá trị lịch sử của nó luôn đứng vững với không gian, thời
gian. Và đó là “thành Cổ Loa”, một trong những tòa thành cổ nhất ở các nước
Đông Nam Á.
Bên cạnh đó, là “Chùa Một Cột” thanh thoát như đóa hoa sen. Là “Văn
miếu Quốc Tử Giám” - Trường đại học lâu đời nhất Việt Nam, là biểu tượng
của nền học vấn quốc gia, là nơi giáo dục mỗi con người cần phải giữ gìn và phát
huy truyền thống hiếu học, tôn vinh người hiền tài của dân tộc. Là “Quảng
trường Ba Đình”, nơi chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc Lập, khai
sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ngày 2 tháng 9 năm 1945. Là “Hồ
Tây”, mặt gương của Hà Nội, lá phổi của chốn Long Thành với một bề dày lịch
sử mấy nghìn năm. Là “Hồ Hoàn Kiếm”, với cầu Thê Húc, Tháp Bút, Tháp Rùa,
đền Ngọc Sơn lung linh bóng nước đã đi vào thơ ca, nhạc, họa của những người
nghệ sĩ tài hoa…Và còn rất nhiều những di tích lịch sử khác như những ngôi
chùa, ngôi đình, những cổng làng…tất cả đã tạo nên một quần thể các di sản văn
hóa vật thể đặc sắc của Hà Nội.
Tinh hoa văn hóa của Hà Nội không chỉ là những di sản vật thể như trên
mà còn là những di sản văn hóa phi vật thể. Mảng văn hóa này có trữ lượng khá
lớn, và đã phản ánh được một cách phong phú, đa dạng những truyền thống,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
những nét sinh hoạt văn hóa của người Hà Nội. Văn hóa phi vật thể Hà Nội là
tổng hòa các yếu tố giao lưu, hội nhập, dung hòa, tiếp biến, cởi mở, linh hoạt, để
tạo nên bản sắc Thăng Long- Hà Nội, một vùng đất “hội thủy, hội nhân và hội tụ
văn hóa vô cùng phong phú và đa dạng”.
Đến với những giá trị văn hóa phi vật thể chúng ta sẽ được hòa mình vào
hệ thống các lễ hội dân gian cổ truyền của người Hà Nội, những lễ hội mang đậm
màu sắc lịch sử. Lễ hội dân gian xưa của Hà Nội có vị trí khá quan trọng bởi nó
tác động tích cực, sâu sắc đến đời sống tinh thần, đời sống văn hóa của người Hà
Nội. Mọi hoạt động diễn ra trong lễ hội đều mang một ý nghĩa vô cùng thiêng
liêng. Thông qua lễ hội các thành viên của cộng đồng được gắn bó lại với nhau.
Nó còn là thời điểm mà đời sống văn hóa của mọi người được tổ chức chặt chẽ và
có quy mô, là thời điểm hội tụ các khả năng sáng tạo các thể loại văn nghệ, đưa
lại niềm phấn khởi hào hứng cho mọi người.
Tiếp đến là những tục lệ, hương ước của những làng cổ ở chốn kinh kỳ
xưa. Hiện nay, Hà Nội còn lưu giữ được hàng trăm bản hương ước bằng chữ Hán
và chữ Nôm.
Trong kho tàng văn hóa phi vật thể của Hà Nội thì các giá trị về văn hóa
ẩm thực chiếm một vị trí đáng kể. Những món ăn đặc sắc như phở Hà Nội, Nem,
bún chả, giò chả Ước Lễ, chả cá Lã Vọng, cốm Vòng, bánh cuốn Thanh Trì…mỗi
món ăn mang một hương vị đặc biệt, quyến rũ mà không nơi nào có thể bắt chước
được. Điều đó đã làm nên một phong vị, một thương hiệu riêng của Hà Nội, góp
phần làm cho Hà Nội trở thành nơi khó quên đối với những ai đã từng một lần
đặt chân tới nơi đây. Có thể nói, nghệ thuật ẩm thực là một phần tạo nên cái tinh
tế, đặc sắc của văn hóa và con người Hà Nội.
Hà Nội xưa và nay với những giá trị văn hóa ngàn năm đã và đang được
bảo tồn, phát triển, trở thành thế mạnh để Hà Nội thu hút khách trong nước và
ngoài nước đến thăm quan và tìm hiểu.Vì vậy, trong những năm qua Hà Nội luôn
giữ vững vị trí là một trong hai trung tâm du lịch lớn nhất.
1.1.2. Mối quan hệ giữa văn hóa và văn học
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Văn hóa và văn học là hai vấn đề luôn gắn bó mật thiết với nhau. Xét
trong mối quan hệ giữa văn học và văn hóa, có thế thấy văn học là sự “tự ý thức”
của văn hóa, nó không chỉ là bộ phận của văn hóa, chịu sự ảnh hưởng và chi phối
trực tiếp của văn hóa, mà còn là một trong những phương tiện để văn hóa được
tồn tại và bảo lưu. Như GS. Trần Đình Sử khẳng đinh “văn học có một vị trí
không thể thiếu trong mỗi nền văn hóa”.
Mối quan hệ giữa văn hóa và văn học là mối quan hệ biện chứng, phản
ánh đặc điểm có tính quy luật của quan hệ riêng chung có tầm cấp triết học, đó
là mối quan hệ giữa tổng thể và bộ phận. Văn học, nghệ thuật cùng với triết học,
chính trị, tôn giáo, đạo đức, phong tục…là những bộ phận hợp thành của toàn
thể cấu trúc văn hóa. Nếu văn hóa thể hiện quan niệm và cách ứng xử của con
người trước thế giới, thì văn học là hoạt động lưu giữ những thành quả đó một
cách sinh động nhất. Để có được những thành quả đó, văn hóa của một dân tộc
cũng như của toàn thể nhân loại từng trải qua nhiều chặng đường tìm kiếm, chọn
lựa, đấu tranh và sáng tạo để hình thành những giá trị trong xã hội. Văn học vừa
thể hiện con đường tìm kiếm đó, vừa là nơi định hình những giá trị đã hình thành.
Nói như nhà nghiên cứu Huỳnh Như Phương “văn học là văn hóa lên tiếng bằng
ngôn từ nghệ thuật”.
Văn học là biểu hiện của văn hóa, cho nên văn học là “tấm gương của văn
hóa”. Như vậy có nghĩa là, trong tác phẩm văn học, chúng ta luôn tìm thấy hình
ảnh của văn hóa qua sự tiếp nhận và tái hiện của nhà văn. Đó là bức tranh văn
hóa dân gian trong thơ của bà chúa thơ Nôm Hồ Xuân Hương, hay đó là những
nét đẹp văn hóa truyền thống trong truyện ngắn và tùy bút của Nguyễn Tuân, và
đó là những tín ngưỡng, phong tục tập quán trong tiểu thuyết Mẫu Thượng ngàn
của Nguyễn Xuân Khánh (đạo Mẫu và tín ngưỡng phồn thực, tục thờ Thần Chó
đá, Thần Cây đa, Thần Thành hoàng, cách lên đồng, hát chầu văn…). Tác phẩm
văn học còn dẫn chúng ta đi đến những nguồn mạch sâu xa của văn hóa qua việc
lí giải tấn bi kịch lịch sử như trong kịch Vũ Như Tô của Nguyễn Huy Tưởng hay
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
cốt cách người nông dân được đào luyện qua những biến thiên cách mạng trong
các truyện ngắn Khách ở quê ra và Phiên chợ Giát của Nguyễn Minh Châu.
Văn hóa tác động đến văn học không chỉ ở đề tài mà còn ở toàn bộ hoạt động
sáng tạo của nhà văn và hoạt động tiếp nhận của bạn đọc. Nhà văn với thế giới nghệ
thuật của mình là một sản phẩm văn hóa. Người đọc, khi tiếp nhận tác phẩm cũng
sẽ được rèn luyện, bồi dưỡng thêm về thị hiếu thẩm mỹ trong một môi trường văn
hóa nhất định. Chính không gian văn hóa này đã chi phối cách lựa chọn đề tài, thể
hiện chủ đề, xây dựng nhân vật, sử dụng thủ pháp nghệ thuật…trong quá trình sáng
tác của nhà văn; và chi phối cách phổ biến, đánh giá, thưởng thức…trong quá trình
tiếp nhận của người đọc. Một nền văn hóa cởi mở, bao dung mới tạo điều kiện thuận
lợi cho văn học phát triển. Vì vậy, có thể nói văn học là thước đo, là “nhiệt kế” vừa
định lượng, vừa kiểm nghiệm chất lượng và trình độ văn hóa của một xã hội trong
một thời điểm lịch sử nhất định.
Trên tinh thần đó, đã có khá nhiều nhà nghiên cứu căn cứ vào những dữ
liệu của văn học để tìm hiểu bức tranh văn hóa của một thời đại. Nói cách khác,
thực tiễn văn học có thể cung cấp những cứ liệu đáng tin cậy cho khoa học nghiên
cứu văn hóa. Chẳng hạn, thông qua nội dung tái hiện của văn xuôi Việt Nam đầu
thế kỉ XX, người ta có thể chứng minh cho quá trình thâm nhập của văn hóa Tây
Âu trong xã hội thời kỳ này…
Nếu văn hóa chi phối hoạt động và sự phát triển của văn học, thì ngược
lại, văn học cũng có sự tác động trở lại đến văn hóa. Trước hết, văn học là nơi
lưu giữ văn hóa, có những giá trị văn hóa từ lâu đã bị mai một theo thời gian
nhưng chúng ta vẫn có thể bắt gặp trong các tác phẩm văn học, chính những tác
phẩm văn học ấy đã đưa văn hóa đến với người đọc. Cũng từ đó mà người đọc
có thêm những hiểu biết về văn hóa, góp phần vào việc lưu giữ và bảo tồn những
giá trị văn hóa.
Bên cạnh đó, văn học góp phần khẳng đinh, định hướng những giá trị văn
hóa nhân loại. Bởi “những nhà văn tiên phong của dân tộc bao giờ cũng là những
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
nhà văn hóa lớn”. Bằng nghệ thuật ngôn từ, họ đấu tranh, phê phán những biểu
hiện văn hóa tiêu cực, đồng thời khẳng định những giá trị văn hóa mang đậm bản
sắc dân tộc, giàu giá trị nhân bản. Dù là phản ứng trước những làn sóng văn hóa
tiêu cực hay cổ vũ cho sự tiếp biến văn hóa, giới trí thức sáng tác tinh hoa bao
giờ cũng là những người tiên phong mở ra hướng nhìn về vận hội mới của văn
hóa dân tộc.
Tóm lại, giữa văn học và văn hóa có mối quan hệ hữu cơ, gắn bó mật thiết
với nhau. Sự ảnh hưởng, tác động qua lại lẫn nhau giữa văn hóa và văn học sẽ
ngày càng làm cho nền văn hóa được bảo tồn và phát triển còn văn học cũng trở
nên hoàn thiện hơn khi phản ánh được mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, con
người.
1.1.3. Tiếp cận văn học từ góc nhìn văn hóa
Giữa văn học và văn hóa có mối quan hệ hữu cơ mật thiết như vậy, cho
nên việc tìm hiểu văn học dưới góc nhìn văn hóa là một hướng đi cần thiết và có
triển vọng.
Bên cạnh cách tiếp cận văn học bằng xã hội học, mỹ học, thi pháp
học…cách tiếp cận văn học bằng văn hóa sẽ giúp chúng ta lí giải được một cách
trọn vẹn hơn tác phẩm nghệ thuật. Những yếu tố văn hóa liên quan đến thiên
nhiên, địa lý, lịch sử, phong tục, tập quán, ngôn ngữ…có thể được vận dụng để
cắt nghĩa những phương diện nội dung và hình thức của tác phẩm. Đồng thời nó
cũng có thể góp phần lý giải tâm lý sáng tác, thị hiếu độc giả và con đường phát
triển nói chung của văn học.
Tiếp cận văn học từ góc nhìn văn hóa chính là việc đặt văn học trong không
gian văn hóa với những đặc trưng của nó đã thâm nhập một cách tinh vi vào cảm
quan sáng tạo của nhà văn. Ở những người nghệ sĩ lớn, đó không phải là sự “ăn
tươi nuốt sống” mà là sự tiêu hóa và thẩm thấu vào từng hình tượng, chi tiết của
tấm thảm dệt ngôn từ. Nền văn hóa dân tộc là mảnh đất ươm mầm cho văn học
nảy nở, mang lại cho văn học một sức sống, một màu sắc riêng. Mỗi nhà văn đều
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
chịu ảnh hưởng của một nền văn hóa riêng. Vì thế muốn hiểu giá trị tư tưởng của
một tác phẩm văn học ta không thể tách rời những yếu tố văn hóa thể hiện trong
tác phẩm đó.
Văn hóa không bao giờ là một hiện tượng thuần nhất. Sự đan xen văn hóa
đôi khi dẫn đến sự pha tạp, trộn lẫn, nhưng cũng có thể dẫn đến sự kết tinh, chưng
cất nên những giá trị mới. Về thời gian, khi cái cũ chưa bàn giao cho cái mới,
văn học có thể là nơi hội tụ của những tìm tòi cho sự chuẩn bị chuyển tiếp thời
đại. Còn về không gian, khi một địa bàn trở thành ngã ba đường của sự giao lưu
văn hóa, thì văn học có thể là nơi hòa giải của những xung đột tinh thần, nhằm
tìm một tiếng nói cho sự chung sống giữa các nhóm người.
Văn học không chỉ thừa hưởng và hấp thụ những yếu tố của một không
gian văn hóa rộng như văn hóa phương Đông, văn hóa dân tộc. Mà văn học còn
thừa hưởng và hấp thụ những yếu tố của một không gian văn hóa hẹp là văn hóa
tộc người, văn hóa vùng. Sự giao lưu văn hóa của các vùng sẽ tạo ra những nét
chung trong văn học của từng vùng, đồng thời nó vẫn giữ lại những nét riêng làm
cơ sở giúp ta nhận diện bộ mặt của từng vùng văn hóa, từ đó phân biệt “lãnh thổ”
trên bản đồ văn học.
Gần đây, nhờ UNESCO phát động những thập kỉ phát triển văn hóa, người
ta bắt đầu nhận thức được văn hóa là động lực của phát triển, thì phê bình văn
học từ văn hóa càng được chú ý nhiều hơn. Đặc biệt, khi bộ môn văn hóa học và
nhân học văn hóa xuất hiện ở Việt Nam thì văn hóa bắt đầu được coi như một
nhân tố chi phối văn học. Phương pháp tiếp cận này được giới nghiên cứu vận
dụng hoặc là tự giác, hoặc là tự phát trong một số công trình nghiên cứu. Năm
1995, Trần Đình Hượu trong Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại
nghiên cứu văn học Việt Nam từ Nho giáo và đã chỉ ra được đặc điểm của giai
đoạn văn học kể từ đầu Lê đến cuối Nguyễn. Ông cũng nêu ra những hình mẫu
nhà nho (hành đạo, ẩn dật, tài tử), tác giả của thứ văn học Nho giáo này, như là
một giả thuyết làm việc. Điều này, về sau, được Trần Ngọc Vương trong Nhà
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
nho tài tử và văn học Việt Nam (1995) cụ thể hóa bằng một cái nhìn loại hình
học. Đỗ Lai Thúy trong Hồ Xuân Hương hoài niệm phồn thực đã lý giải những
biểu tượng lấp lửng hai mặt trong thơ bà bằng tín ngưỡng phồn thực, còn Trần
Nho Thìn trong Văn học trung đại Việt Nam dưới cái nhìn văn hóa (2003) thì
cho rằng nghiên cứu văn học trung đại từ những phạm trù cơ bản của văn hóa
trung đại để tránh hiện đại hóa văn học dân tộc. Nhưng có lẽ, Phan Ngọc là người
có ý thức trong câu chuyện này hơn cả. Là một nhà văn hóa học, ông đã sớm lấy
yếu tố văn hóa xã hội để tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong “Truyện Kiều”.
Rồi lại thử thách văn học bằng ngôn ngữ. Và khi một số công trình của M.
Bakhtin được dịch và giới thiệu ở Việt Nam thì hướng đi này càng được thuyết
phục.
Như vậy, có thể thấy, nếu văn học có chức năng phản ánh hiện thực thì
cũng không thể phản ánh trực tiếp được, mà chỉ có thể phản ánh thông qua “lăng
kính” văn hóa, thông qua “bộ lọc” của các giá trị văn hóa. Nhờ thế mà văn học
tránh được sự phản ánh “gương”, phản ánh một cách trần trụi. Và có lẽ, cũng
nhờ thế mà văn học có một lối phản ánh đặc trưng, một phản ánh, như người ta
thường nói, có nghệ thuật, có “nghiền ngẫm” (Lê Ngọc Trà).
1.2. Sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng
1.2.1. Tiểu sử và hành trình sáng tác của nhà văn Nguyễn Huy Tưởng
Tiểu sử cuộc đời Nguyễn Huy Tưởng
Nguyễn Huy Tưởng (1912 - 1960), ông sinh ra và lớn lên tại làng Dục Tú,
phủ Từ Sơn, tình Bắc Ninh (nay thuộc xã Dục Tú, huyện Đông Anh, Hà Nội).
Nguyễn Huy Tưởng xuất thân trong một gia đình nho giáo nề nếp và thanh bạch.
Ông thân sinh, cụ Nguyễn Huy Liễn, là một nhà nho không làm việc với chính
quyền thực dân, quanh năm sống giản dị trong lũy tre làng.
Năm Nguyễn Huy Tưởng lên bảy tuổi thì cha mất, mẹ gửi ra Hải Phòng ở
với gia đình người chị, học tiểu học ở trường Bonnal. Ông bắt đầu tham gia các
hoạt động yêu nước của thanh niên học sinh ở Hải Phòng năm 1930. Năm 1932,
Nguyễn Huy Tưởng đậu bằng thành chung và cũng bắt đầu học chữ Hán. Sau
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
đó, Nguyễn Huy Tưởng làm thư ký nhà Đoan (Thuế quan) ở Hải Phòng năm
1935, rồi năm 1938 ông tham gia Hội Truyền bá Quốc ngữ và phong trào hướng
đạo sinh ở Hải Phòng.
Ông gia nhập nhóm Văn hóa cứu quốc bí mật năm 1943 và được bầu làm
Tổng thư ký Hội Truyền bá Quốc ngữ Hải Phòng. Sau đó ông tiếp tục hoạt động
ở Hà Nội, Nam Định và Phúc Yên.
Tháng 6/1945, Nguyễn Huy Tưởng tham gia ban biên tập tạp chí Tiên
Phong của Văn hóa cứu quốc. Đến tháng 8 cùng năm, ông đi dự Đại hội quốc
dân ở Tân Trào. Ông tham gia biên tập các tờ báo Cờ giải phóng, Tiên Phong.
Tiếp đó ông giữ chức vụ Tổng thư ký Ban Trung ương Vận động đời sống mới.
Ngày 1-1-1946, ông được kết nạp vào Đảng cộng sản Đông Dương và cũng năm
1946 ông được vào Quốc hội khóa I, giữ chức Phó thư ký Hội văn hóa cứu quốc
Việt Nam. Tháng 12 năm 1946, toàn quốc kháng chiến, ông tổ chức và đưa Đoàn
văn hóa kháng chiến lên Việt Bắc. Tiếp tục hoạt động văn hóa, ông là ủy viên
Thường vụ Hội Văn nghệ Việt Nam, sau đó làm thư ký toà soạn Tạp chí Văn
nghệ và tham gia tiểu ban Văn nghệ Trung ương Đảng.
Năm 1951, Nguyễn Huy Tưởng tham gia chiến dịch biên giới. Trong hai
năm 1953, 1954 ông công tác giảm tô trong cải cách ruộng đất. Hòa bình lập lại
1954, ông làm Uỷ viên ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam khóa 1.
Bên cạnh công tác lãnh đạo Hội văn nghệ, Nguyễn Huy Tưởng còn tham
gia nhiều hoạt động gây dựng phong trào văn nghệ quần chúng trong kháng
chiến. Ông có công phát hiện và bồi dưỡng nhiều cây viết trẻ trong quân đội. Dù
ở cương vị và hoàn cảnh nào, Nguyễn Huy Tưởng luôn có những sáng tác kịp
thời đóng góp cho văn học và cách mạng.
Nguyễn Huy Tưởng mất ngày 25-7-1960, khi ông mới hoàn thành xong
tập 1 tiểu thuyết Sống mãi với Thủ đô. Tháng 9 năm 1966, Nguyễn Huy Tưởng
được Nhà nước trao tặng giả thưởng Hồ Chí Minh, dành cho những tác phẩm
tiêu biểu của ông viết ở hai thời kì trước và sau Cách mạng tháng Tám.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Hành trình sáng tác của nhà văn Nguyễn Huy Tưởng
Ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường, ông đã say mê với những câu
chuyện về các nhân vật anh hùng trong lịch sử. Vùng đất Dục Tú quê hương ông,
nơi mà có nhiều nhà nghiên cứu cho là “tất cả mọi cái đều là lịch sử” đã truyền
cho ông sự say mê đặc biệt, về quá khứ oai hùng của cha ông, đồng thời cũng sớm
đặt ra cho ông những băn khoăn của một người dân mất nước. Năm 18 tuổi, khi
còn là cậu học trò thành chung, ông đã xác định con đường đi của mình “Phận sự
của một người tầm thường như tôi muốn tỏ lòng yêu nước thì chỉ có việc viết văn
quốc ngữ mà thôi”. Những trang viết đầu tay của Nguyễn Huy Tưởng còn lưu giữ
được, cho thấy sự vụng về của một người không hẳn đã có năng khiếu bẩm sinh
về văn chương, nhưng cũng bộc lộ một khát vọng lớn lao, một tâm hồn nhạy cảm
với những suy nghĩ nhiều khi vượt qua “tầm” của một học trò đang tập sự nghề
văn. Công việc đó thầm lặng kéo dài suốt từ năm 1930 cho đến những năm 1940,
khi ông bắt đầu có tác phẩm được công bố: bộ ba truyện, kịch lịch sử Đêm hội
Long trì (1942), Vũ Như Tô (1942), An Tư (1943).
Nhật kí Nguyễn Huy Tưởng bắt đầu trang đầu tiên ngày 2 - 11 - 1930, ghi
lại cảm tưởng của chàng trai Dục Tú 18 tuổi lúc này đang học trường Bonnal ở
Hải Phòng. Một tháng sau, anh xác định mục đích đời mình “ Tôi sẽ trở nên một
người văn sĩ hoặc một người viết báo”. Suốt mấy năm sau đó là quá trình Nguyễn
Huy Tưởng đọc văn và học viết văn, bất kể là khi về quê Dục Tú hay khi theo
học ở Hải Phòng.
Nguyễn Huy Tưởng bắt đầu viết là viết kịch, và viết kịch văn xuôi và kịch
bản điện ảnh. Sự lựa chọn này cho thấy, Nguyễn Huy Tưởng ngay từ lúc trẻ đã
ưa thích loại hình nghệ thuật sân khấu và trong sự nghiệp của ông để lại thì kịch,
nhất là các vở về đề tài lịch sử, chiếm một vị trí quan trọng.
Tác phẩm đầu tay Đêm hội Long Trì mở đầu cho quá trình sáng tác của
ông. Đêm hội Long trì dựa trên những tư liệu lịch sử đề cập qua Hoàng Lê nhất
thống chí và Việt Lãm xuân thu, khai thác câu chuyện xoay quanh quan hệ giữa
chúa Trịnh Sâm và hai chị em Đặng Thị Huệ và Đặng Mậu Lân. Tiếp đó, với
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
quan điểm nhận thức tiến bộ hơn, Nguyễn Huy Tưởng đã viết Vũ Như Tô, vở
kịch lịch sử có giá trị sáng tạo về nhiều mặt. Một trong những vấn đề lịch sử
quan trọng nhất mà Nguyễn Huy Tưởng trân trọng say mê, đó là truyền thống
yêu nước chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam trong hàng ngàn năm lịch sử.
Nguyễn Huy Tưởng viết kịch Cột đồng Mã viện và tiểu thuyết An Tư dựa vào
hai hiện tượng lịch sử tuy không lớn nhưng là hai câu chuyên xót xa trong những
năm đất nước bị xâm lược. Có thể nói, toàn bộ sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng
ở thời kì trước cách mạng tháng Tám đều dành cho đề tài lịch sử.
Cách mạng tháng Tám thành công, Nguyễn Huy Tưởng ghi lại những cảm
xúc ban đầu về khung cảnh đất nước đang trỗi dậy và hồi sinh. Kịch Bắc Sơn
được tác giả viết ra trong sự tích tụ và bừng sáng của nhiệt tình cách mạng và
cảm hứng công dân. Bắc Sơn thành công và được xem là một bước ngoặt cho
sân khấu cách mạng. Hơn thế nữa, Nguyễn Huy Tưởng đã thành công với thiên
Ký sự Cao Lạng và những tác phẩm viết về Hà Nội kháng chiến, đặc biệt là
những tiểu thuyết sử thi Sống mãi với Thủ đô - tác phẩm khép lại những chặng
đường sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng
Suốt thuở ấu thơ Nguyễn Huy Tưởng đã sống gắn bó với khoảng không
gian êm đềm và không khí gia đình trong lành, ấm cúng. Ngôi nhà, khoảng sân,
chiếc ngõ, khu trường, cái xưởng gỗ với ánh trăng, bầu bạn và những trò chơi
dân dã, cùng với khoảng không gian tinh thần yên ả đầy trìu mến mà những người
ruột thịt đã chắt chiu, tạo dựng cho ông, đó là tất cả thế giới tuổi thơ của Nguyễn
Huy Tưởng: phong phú mà không xô bồ, thân thuộc mà không đơn điệu, sinh
động mà không xáo động. Và cũng chính từ gia đình, Nguyễn Huy Tưởng đã
được tiếp nhận nguồn học vấn quý giá đầu tiên. Những câu chuyện sử sách về
tấm gương của những người tài giỏi có công với làng với nước qua những câu
chuyện kể đầy cảm kích của bà nội, những chuyện cổ tích do người cậu ông kể
lại, vốn Nho học do bác và cụ đồ truyền cho…Tất cả đã thấm hòa vào ông để rồi
sau này trở lại trong những truyện cổ tích ông viết cho lứa tuổi thiếu nhi. Nguyễn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Huy Tưởng là một trong số ít nhà văn sớm quan tâm đến việc viết cho thiếu nhi.
Ngay từ trước Cách mạng, ông đã từng viết những câu chuyện cho thiếu nhi in
trong tủ sách “Hoa xuân”. Nhýng những tác phẩm quan trọng nhất của ông cho
ðối týợng này ðều xuất hiện sau nãm 1951. Nhiều truyện cho ðến nay vẫn ðýợc
coi là mẫu mực và ðýợc các em tìm đọc: Tìm mẹ, An Dương Vương xây thành
Ốc, Kể chuyện Quang Trung, Lá cờ thêu sáu chữ vàng... Sáng tác cho thiếu
nhi có thể nói là một phần sự nghiệp, một phần tâm huyết trong đời văn của ông.
Ở lĩnh vực này, Nguyễn Huy Tưởng xứng đáng là “nguồn sáng”, là “người dẫn
đầu gương mẫu cho nền văn học thiếu nhi Việt Nam”
Tóm lại, hành trình sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng là hành trình của sự
sáng tạo và cống hiến cho nghệ thuật. Những tác phẩm của ông không chỉ là
những giá trị văn học mà còn là “khát vọng một đời văn” của một người nghệ sĩ.
Trên con đường sáng tạo nghệ thuật của mình, Nguyễn Huy Tưởng đã chịu sự
ảnh hưởng rất nhiều từ gia đình và quê hương.“Môi trường trong sạch của một
gia đình Nho giáo, những tấm gương đạo đức của những bậc tiền bối trong làng
sẽ giữ vững hướng đi của ông trên con đường trưởng thành và phát triển sau này
như con quay hổi chuyển giữa trục quay của một vệ tinh nhân tạo bất chấp mọi
ngả nghiêng.”[24]
1.2.2. Tiểu thuyết Nguyễn Huy Tưởng
Văn chương là “một thứ phần thưởng rất hay” nhưng cũng lại là “một thứ
hình phạt rất nặng”. Nguyễn Huy Tưởng sớm cảm nhận chân xác điều ấy. Vậy
mà ông vẫn đến với văn chương bằng thái độ dấn thân đầy quả quyết “Áo may
không phải để chơi mà để mặc. Ta không sợ áo của ta nhàu hay nát. Người sinh
ra để hành động, không phải để tiếc thân, áo có nhàu, có nát, người ta phải sứt
sẹo, đau khổ. Đó là lẽ thường”[19] Chính bản lĩnh ấy, cốt cách khỏe khoắn ấy
đã tạo nên giá trị của ngòi bút ông, tạo nên phong độ cao sang riêng của người
trí thức, người nghệ sĩ Nguyễn Huy Tưởng qua những chuyển động dữ dội,
những thử thách nghiệt ngã của đời sống xã hội và văn học.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Nghệ thuật là sản phẩm của sự sáng tạo và nghệ sĩ là người thể hiện khát
vọng sáng tạo ấy. Trong tư duy và cảm quan nghệ thuật của mình, Nguyễn Huy
Tưởng luôn hướng tới sự kiếm tìm nghệ thuật, mong sao sản phẩm tinh thần của
mình không chỉ hữu ích mà còn thể hiện giá trị nghệ thuật, mang hiệu ứng thẩm
mỹ.
Bước vào thế giới nghệ thuật ngôn từ, Nguyễn Huy Tưởng khơi nguồn cho
những tác phẩm của mình từ dòng lịch sử của dân tộc với bao trang hào hùng rực
rỡ chiến công chống xâm lược. Hiện tại không chỉ có liên hệ với quá khứ theo
dòng thời gian mà nhiều khi là điểm xuất phát và là cảm hứng trực tiếp để khai
thác đề tài lịch sử của nhà văn
Nguyễn Huy Tưởng mong muốn sự có mặt của mình với lịch sử, với cuộc
đời chung. Dòng suy nghĩ ấy sẽ trở thành hành động cụ thể với cuộc sống mà
trước hết là hoạt động văn chương.
Phải nói rằng, lịch sử - là mối quan tâm sâu sắc và thường xuyên của
Nguyễn Huy Tưởng. Mối quan tâm ấy đã phủ khắp toàn bộ hầu hết các sáng tác
của ông, đặc biệt là những trang tiểu thuyết, đó thực sự là những trang sử viết
bằng văn chương của Nguyễn Huy Tưởng.
Ở tiểu thuyết đầu tay Đêm hội Long Trì đã sớm hiển lộ tài năng viết
truyện lịch sử của Nguyễn Huy Tưởng. Ông đã làm sống lại dĩ vãng xa xưa, bị
sức nặng của hàng mấy thế kỉ đào sâu chôn chặt. Những phong tục, tập quán, lễ
nghi, những hội hè đình đám lộng lẫy với những tài tử giai nhân “ngựa xe như
nước áo quần như nêm” hiển hiện trước mắt ta. Rồi cảnh Đặng Mậu Lân quây
màn chướng hiếp người giữa phố, cung cách Trịnh Sâm uống chè, sinh hoạt của
Trịnh Sâm và Đặng Thị Huệ trong cung thất, những thủ đoạn của Thị Huệ…tất
cả đều được hiện hữu một cách sống động.
Tiếp tục khai thác đề tài lịch sử và đào sâu thêm vào chủ đề sức sống dân
tộc, Nguyễn Huy Tưởng viết tiếp An Tư - cuốn tiểu thuyết về cuộc kháng chiến
chống quân Nguyên. Đọc An Tư ta cảm nhận được rất rõ không khí và màu sắc
thời đại mà nhà văn mô tả. Người đọc rất tự nhiên bước vào cái thế giới do nhà
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
văn sáng tạo ra và cũng rất tự nhiên, vui sướng đau khổ ký thác tâm sự cùng
người thiên cổ. Tình yêu con người, đất nước, tinh thần thượng võ, những của
cải tinh thần vô giá mà cha ông hương hỏa lại cho ta, ẩn kín đâu đó sâu thẳm
trong tâm linh bỗng trỗi dậy, và ta càng tự hào, sung sướng vì mình là con Lạc
cháu Hồng. An Tư là bức tranh hoành tráng về cuộc kháng chiến chông quân
Nguyên. Chúng ta hình dung ra quy mô của cuộc xâm lược và sức chống trả của
dân tộc ta. Từ vị quốc công tiết chế đến người lính trong quân ngũ đều tự xóa
mình đi, đều ước nguyện được xả thân vì nước. Một cô công chúa sống trong lầu
son gác tía như An Tư cũng thêu thùa may vá giúp các chiến sĩ ngoài mặt trận và
biết đặt tình yêu Tổ quốc lên trên tình yêu đôi lứa.
Qua An Tư, Nguyễn Huy Tưởng đã bắt được cái chất bi tráng của một thời
đại lịch sử thấm sâu trong số phận nhiều người. Nguyễn Huy Tưởng đã tránh
được cách nhìn sơ lược đối với những vấn đề lịch sử phức tạp. Tiểu thuyết lịch
sử An Tư tuy kết thúc bằng cái chết của một vài nhân vật, nhưng nỗi buồn riêng
không hạn chế được cảm hứng phấn chấn chung trong niềm vui thắng trận của
toàn dân tộc.
Như vậy, trước Cách mạng tháng Tám, với hai bộ tiểu thuyết Đêm hội
Long Trì và An Tư, Nguyễn Huy Tưởng đã sớm ưu tư về vận mệnh của đất nước
và dân tộc. Khi Cách mạng tháng Tám thành công, kháng chiến toàn quốc bùng
nổ, Nguyễn Huy Tưởng bước vào chặng đường mới của lịch sử dân tộc. Trong
quá trình sáng tác của mình, ngòi bút của ông luôn hướng vào những vấn đề nóng
hổi của đất nước và thời đại. Nguyễn Huy Tưởng từ một cây bút chuyên khai
thác đề tài lịch sử đã trở thành nhà văn thời sự trong “ý nghĩa chân chính của
thuật ngữ này”. Nhà văn Như Phong đã từng công nhận Nguyễn Huy Tưởng là
một “nhà văn viết kịp thời nhất”.
Sự đổi mới trong cảm hứng sáng tác này được thể hiện đậm nét qua những
trang tiểu thuyết như Truyện anh Lục, Bốn năm sau, đặc biệt hơn cả là tiểu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
thuyết Sống mãi với Thủ đô.
Với tiểu thuyết Truyện anh Lục sáng tác năm 1955, Nguyễn Huy Tưởng
đã thể hiện rõ nỗ lực sáng tạo của nhà văn khi đi sâu vào đề tài cải cách ruộng
đất, là mảnh đất còn ít người khai vỡ, lật xới lúc bấy giờ. Truyện anh Lục là
chuyện một người nông dân, chuyện những người nông dân. Anh nông dân ấy
và những người nông dân ấy đã phải trải qua những ngày đau khổ, đen tối vô
cùng của chế độ cũ và khi hòa bình lập lại, nhân vật trung tâm của tiểu thuyết đã
“rũ bùn đứng dậy” làm người theo đúng nghĩa của nó. Với Truyện anh Lục ngòi
bút của Nguyễn Huy Tưởng đã lấy quyền lợi của nhân dân làm lẽ sống, với nỗ
lực khắc họa người nông dân trưởng thành từ sau Cách mạng tháng Tám
Tiếp theo, ở tiểu thuyết Bốn năm sau, các bài viết của Vũ Tú Nam, Nam
Mộc, Nguyễn Khải đều thừa nhận bước phát triển mới của ngòi bút Nguyễn Huy
Tưởng và nhà phê bình Nam Mộc đã đi sâu hơn: “Dưới ngòi bút lành nghề của
Nguyễn Huy Tưởng, nhiều đoạn tả Điện Biên Phủ, tả lao động kiến thiết có màu
sắc sử thi khá đậm. Đồng thời những cảnh éo le trong đời sống tình cảm của
Doan, Ngàn, Cường đã được thể hiện bằng những đoạn văn tế nhị, giàu tính chất
kịch và tính chất trữ tình”[53]. Với con mắt của một họa sĩ, Dương Bích Liên
khen Bốn năm sau “ là tài hoa, thơ mộng”[53].
Sau những tiểu thuyết viết về cuộc sống mới, con người mới như Truyện
Anh Lục, Bốn năm sau Nguyễn Huy Tưởng trở lại với đề tài Hà Nội kháng
chiến, một đề tài ấp ủ với nhiều tâm huyết nhất, gắn bó với biết bao kỉ niệm và
vốn hiểu biết sâu sắc của nhà văn, Sống mãi với Thủ đô - tác phẩm khép lại
những chặng đường sáng tác của ông. Lịch sử nhưng thời sự, và Sống mãi với
Thủ đô đã dựng lại cuộc kháng chiến của quân dân Hà Nội chỉ sau khoảng lùi
ngót 15 năm, còn rất thời sự, nhưng không khí truyện, âm hưởng truyện, màu sắc
truyện lại vẫn như được gội trong một màn sương lịch sử. Sống mãi với Thủ đô
là tiểu thuyết đánh dấu trình độ trưởng thành của nghệ thuật tiểu thuyết hiện đại,
cảm hứng lịch sử và dân tộc hòa quyện không khí bi tráng của sử thi, với thế giới
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
nhân vật đông đảo, nhiều dáng vẻ mang tâm trạng, nỗi niềm riêng đã hấp dẫn và
lôi cuốn người đọc từ sự kiện này đến biến cố khác, vừa hiện thực vừa lăng mạn.
Như vậy, đánh giá về tiểu thuyết của Nguyễn Huy Tưởng, chúng ta có thể
dễ dàng nhận thấy nhìn chung tác phẩm của ông đều toát lên một bầu không khí
lịch sử cho dù đó là những sáng tác trước Cách mạng tháng Tám hay trong thời
bình. Những giá trị lịch sử của dân tộc cứ thế mà tự nhiên býớc vào những trang
vãn của ngýời nghệ sĩ đầy tài năng và giàu giá trị nhân bản. Chính vì vậy, mà
nhà văn Tô Hoài từng coi Nguyễn Huy Tưởng là “Cây bút sử thi hết sức hùng
tráng” vì “tấm lòng đối với lịch sử và quê hương từng tiềm thức gắn bó và thôi
thúc”[18].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Tiểu kết chương 1
Ở chương 1, trên cơ sở tìm hiểu các khái niệm văn hóa, văn hóa Hà Nội,
chúng tôi đi sâu vào nghiên cứu mối quan hệ giữa văn hóa và văn học. Và nhận
thấy văn hóa và văn học có mối quan hệ mật thiết chặt chẽ với nhau. Cho nên
tiếp cận văn học thì góc nhìn văn hóa vừa là một hướng tiếp cận mới, vừa là
hướng tiếp cận có nhiều triển vọng
Qua việc tìm hiểu sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng, chúng tôi
nhận thấy, Nguyễn Huy Tưởng bước vào làng văn khá muộn nhưng với các sáng
tác của mình trên nhiều thể loại, đặc biệt với tiểu thuyết Sống mãi với Thủ đô và
kịch Vũ Như Tô đã làm sáng lên tên tuổi Nguyễn Huy Tưởng, khiến sáng tác
của ông luôn đồng hành cùng công chúng, bạn đọc và thời gian
Trên nền tảng ban đầu đó, chúng tôi tiếp tục đi sâu nghiên cứu tiểu thuyết
Sống mãi với Thủ đô của Nguyễn Huy Tưởng trên hai phương diện: nội dung
và nghệ thuật, hướng tới nhận diện dấu ấn văn hóa trong tác phẩm mà ông dành
nhiều tâm huyết này.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Chương 2
DẤU ẤN VĂN HÓA HÀ NỘI TRONG TIỂU THUYẾT
“SỐNG MÃI VỚI THỦ ĐÔ” CỦA NGUYỄN HUY TƯỞNG
2.1. Bức tranh thiên nhiên mang dấu ấn văn hóa trong tiểu thuyết Sống mãi
với Thủ đô của Nguyễn Huy Tưởng.
Thiên nhiên tự bao đời nay, có vai trò hết sức quan trọng với con người.
Cuộc sống của con người dường như phụ thuộc rất nhiều vào sự thay đổi của
môi trường tự nhiên. Do vậy, trong tâm thức, con người luôn mong muốn sống
hòa mình với thiên nhiên, gắn bó với thiên nhiên. Con người trong cuộc sống
hàng ngày, bên cạnh việc khắc phục những hạn chế do thiên nhiên gây ra thì
họ cũng dành cho mình những phút giây thư giãn cùng thiên nhiên, họ ca ngợi
thiên nhiên và biến nó thành một phần để tạo nên nền văn hóa dân tộc. Những
cảm xúc, suy nghĩ, phản ứng của con người trước thiên nhiên được xem là một
biểu hiện của thái độ ứng xử văn hóa của con người. Như vậy, khi nói đến văn
hóa có nghĩa là ta đang nói đến mối quan hệ của hai yếu tố “con người và thiên
nhiên”.
Đến với văn chương, có thể nói thiên nhiên luôn là đối tượng phản ánh
quen thuộc của người nghệ sĩ. Thiên nhiên không chỉ là đề tài, là nguồn cảm
hứng bất tận dành riêng cho người nghệ sĩ. Mà nó còn là người bạn, là nơi gửi
gắm tâm sự của con người. Con người đến với thiên nhiên không chỉ để thưởng
thức, chiêm ngưỡng vẻ đẹp của nó, mà còn giãi bày những niềm vui, nỗi buồn
của mình. Trong quá trình tìm hiểu, nghiên cứu những sáng tác của Nguyễn Huy
Tưởng, đặc biệt là tiểu thuyết Sống mãi với Thủ đô, chúng tôi nhận thấy hiện
lên trong tác phẩm của ông bức tranh thiên nhiên mà trong từng trang giấy, bức
tranh ấy thấm đẫm những dấu ấn văn hóa của người Việt. Cách tác giả miêu tả
thiên nhiên cũng chính là cách tác giả thể hiện thái độ ứng xử của mình với văn
hóa dân tộc. Với Nguyễn Huy Tưởng, tình yêu và niềm tự hào dành cho mảnh
đất và con người Việt Nam bắt đầu từ tình yêu thiên nhiên. Vẻ đẹp của thiên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
nhiên dưới ngòi bút của Nguyễn Huy Tưởng mang những dấu ấn đặc trưng của
thiên nhiên Việt Nam.
Quả thực, thiên nhiên được xem là “món quà vô giá” mà tạo hóa đã ban
tặng cho những trái tim biết rung động, biết lắng nghe và cảm nhận những thay
đổi của cuộc sống. Đó không ai khác, chính là những người nghệ sĩ tài hoa.
Trong kho tàng văn học Việt Nam, ta đã từng ấn tượng với khung trời Tây
Bắc hùng vĩ mà nên thơ trong sáng tác của Tô Hoài: “Những đêm đầu mùa hè,
mây dày từng mớ, từng lớp vàng đẫm ánh trăng ủ khắp trên những cánh rừng tít
tắp, những thung lũng làng mạc xa lạ, những cánh đồng rải rác đâu trong hốc
núi...”, cũng có khi ta lại đắm say thả hồn mình vào dòng sông Đà hung bạo nhưng
lại rất trữ tình, thơ mộng của Nguyễn Tuân: “sông Đà tuôn dài tuôn dài như một
áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa
ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân...Nước sông
Đà biến đổi theo mùa, mỗi mùa có một vẻ đẹp riêng: mùa xuân “dòng xanh ngọc
bích”, mùa thu: “lừ lừ chín đỏ”...” [35]. Không những vậy, ta còn được thưởng
thức cả “bức tranh tứ bình” bốn mùa trong thơ Tố Hữu:
“Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung” [35].
Từ Bắc vào Nam, dọc theo bản đồ hình chữ S, đâu đâu ta cũng bắt gặp vẻ
đẹp của thiên nhiên trong những sáng tác của các nhà văn, nhà thơ. Nhưng ấn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
tượng với tôi nhất có lẽ là bức tranh về Hà Nội - thủ đô ngàn năm văn hiến của
dân tộc.
Hà Nội, với vẻ đẹp tiềm ẩn đã nhẹ nhàng đi vào những trang văn, trang
thơ. Không cầu kì, hoa mĩ, phô trương nhưng lại mang đến cho người đọc sự vấn
vương, những rung cảm tinh tế mỗi khi đặt chân đến mảnh đất này.
Cùng một đối tượng phản ánh nhưng mỗi nhà văn, nhà thơ lại thể hiện dấn
ấn riêng của mình qua cách mà các tác giả miêu tả về Hà Nội. Và bức tranh thiên
nhiên ấy được cảm nhận một cách gần gũi trong sự giao hòa với con người. Hơn
nữa, bằng sự cảm nhận tinh tế và ngòi bút đầy tài hoa, các tác giả đã vẽ lên những
bức tranh vô cùng sinh động với những đặc điểm riêng biệt của từng mùa.
Mùa xuân, mùa của sự khởi đầu cho một năm, dưới con mắt say mê và sự
cảm nhận sâu sắc của Vũ Bằng hiện lên thật đẹp: “Mùa xuân của tôi - mùa xuân
Bắc Việt, mùa xuân của Hà Nội - là mùa xuân có mưa riêu riêu, gió lành lạnh, có
tiếng nhạn kêu trong đêm xanh, có tiếng trống chèo vọng lại từ những thôn xóm
xa xa, có câu hát huê tình của cô gái đẹp như thơ mộng..” [34, tr. 174].
“Hà Nội mùa thu! Mùa thu Hà Nội...” câu hát quen thuộc ấy đã cho ta biết
“mùa thu Hà Nội” từ lâu đã đi vào thơ văn, nhạc họa. Và nay, một lần nữa vẻ
đẹp của mùa thu lại được nhà văn Nguyễn Khải tái hiện trong những sáng tác
của mình. Với ông, mùa thu luôn đẹp “một vẻ đẹp riêng cho mọi lứa tuổi”. Nó
đẹp bởi “những con phố vắng vẻ không buôn bán, với những góc phố của các
bà, các chị bán hàng răng đen, vấn khăn, áo cánh trắng”, với “cửa Ô Quan
Chưởng cuối thu lạnh và hơi hiu hắt”[23, tr. 432].
Trở lại với Nguyễn Huy Tưởng và tiểu thuyết Sống mãi với Thủ đô, người
đọc có thể dễ dàng nhận ra cái giá buốt ngọt ngào hòa cùng sương khói của một
ngày cuối đông. Bức tranh thiên nhiên đó làm nổi bật lên cái không khí ảm đạm
của chiến tranh, nhưng cũng chính nó lại khiến cho những trái tim luôn hướng
về Thủ đô trở nên ấm áp lạ lùng bởi lòng nhiệt huyết chiến đấu “quyết tử cho Tổ
quốc quyết sinh” luôn sục sôi trong họ.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Đúng vậy, bức tranh thiên nhiên trong sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng là
một bức tranh mang đầy tâm trạng. Đó là tâm trạng của những con người yêu
nước. Với Nguyễn Huy Tưởng, mùa đông, đặc biệt là những ngày cuối năm,
thường là thời khắc dễ gợi lên trong lòng người bao cảm xúc khó tả. Cảnh vật
lúc này không còn rực rỡ, tinh khôi mà nó mang trong mình một nỗi buồn man
mác: “bầu trời Hà Nội đục nhờ nhờ. Giá buốt. Tuy sáng đã lâu rồi, nhưng phố
xá vẫn như mới thức”[66, tr. 29]. Sự ảm đạm đó khiến “Trần Văn nao nao nhớ
về cái buổi chiều mùa thu năm ngoái”, một mùa thu làm “anh bàng hoàng như
mê như say, mặt bừng bừng nóng. Anh nhảy nhót trên con đường đầy ánh nắng
của một mùa thu tuyệt đẹp..”[66, tr. 29]. Vậy mà giờ đây, ngay giây phút này
“anh lại đang sống những ngày ngột ngạt, nặng nề”[66, tr. 30]. Và không chỉ
riêng anh, mà “tất cả phố xá nhuộm một màu đen xám, chớp chớp nháy nháy đó
đây một vài ngọn đèn trong những nhà tối tăm, ẩm thấp. Ngoài đường, kẻ chạy
ngang, người chạy dọc, kẻ bước vội, người đứng trầm ngâm rùng mình trong khí
lạnh của buổi chiều. Gió bấc thổi hiu hắt, bốc lên mùi hôi của cống rãnh, và
thỉnh thoảng sực nức cái mùi thơm phức của cà phê, mùi mặn ngậy của phở
xào”[66, tr. 78].
Miêu tả bức tranh thiên nhiên mùa đông, Nguyễn Huy Tưởng đã rất khéo
léo, tài tình khi sử dụng những từ ngữ đặc tả để cho người đọc thấy được những
đặc điểm của thiên nhiên khi vào đông: “gió bấc tê buốt táp vào mặt”, “đêm lạnh
như băng giá”, “buốt như năm đói rét”, “gió ào ào”, “bầu trời xám ngoét”, “rét
ngăn ngắt”...Mùa đông đến mang theo sự tê tái trên da thịt, nhưng chính nó cũng
là ngọn lửa sưởi ấm trái tim của những con người ngày đêm chiến đấu “thề sống
chết với Thủ đô” “Tiếng gió vù vù làm nặng thêm, âm vang thêm những tiếng
đục tường thình thịch, gấp gấp, những tiếng kê lại bàn ghế, tủ giường lục cục,
rít rít, sệt sệt. Những bàn tay vô hình đang đập phá bên trong như thét vang:
Chuẩn bị một nấm mồ vĩ đại để chôn chặt quân thù”[66, tr. 107]. Giá buốt, tê tái
bao nhiêu thì ý chí và bản lĩnh của con người càng bừng sáng bấy nhiêu. Thiên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
nhiên được xem như một nhân tố để thử thách con người. Trong cái buổi chiều
cuối đông ấy, ta thấy con người Việt Nam ta thật mạnh mẽ, kiên cường và giàu
bản lĩnh, nhưng hơn hết là tình yêu quê hương, đất nước, mãnh liệt.
Tuy nhiên, bên cạnh những trang viết cho thấy sự lạnh lẽo, u ám của buổi
chiều cuối đông thì nhà văn cũng thật xuất sắc khi miêu tả quang cảnh của những
con đường, những dãy phố và tiêu biểu hơn cả là bức tranh về Hồ Gươm - biểu
tượng văn hóa độc đáo của Hà Nội. Con đường Tràng Thi, dưới ngòi bút của ông
hiện lên “là một trong những con đường đẹp nhất của Hà Nội, mà những hàng
cây hai bên cao hơn nhà gác làm cho Hà Nội đắm trong thiên nhiên, và khi lộc
non chuyển sang xanh rậm, hay khi hoa phượng nở, hay khi lá rụng thay cho
tiếng ve sầu, người ta như trông thấy và nghe thấy sự tuần hoàn của vũ trụ”[66,
tr. 40]. Phố Tràng Tiền thì “lá sấu rụng rào rào xuống hè, xuống đường như đổ
một trận mưa to”[66, tr. 409]. Và với bút pháp trữ tình, lãng mạn, vẻ đẹp của Hồ
Gươm đã dành được nhiều sự ưu ái của nhà văn, tác giả đã không ít lần quan sát
thật tỉ mỉ cái mảnh hồ ấy để rồi vẽ lên một bức tranh tuyệt đẹp “Nước hồ phẳng
như gương, lá cây và váng nước xanh vẩn. Hàng liễu trên bờ phía Cầu Gỗ buông
rủ những mảnh thấp thoáng như sương.Những con đường nhỏ lượn dưới bóng
những cây cổ thụ quạnh hiu, cuốn bay vài tà áo màu còn sót lại.”[66, tr. 47], và
“cái tháp Bút nằm nghiêng nghiêng dưới lùm cây, hai cái trụ cổng vào cầu Thê
Húc sừng sững cao vút lên như của một ngôi đền nhà quê vắng vẻ [66, tr. 289].
Mảnh hồ ấy với người Hà Nội như là một phần không thể thiếu trong cuộc sống.
Nó đẹp không chỉ bởi sự tự nhiên vốn có mà tạo hóa ban tặng mà nó còn trở
thành người chiến sĩ cùng đồng hành với người Hà Nội trong cuộc kháng chiến
ác liệt này khi mà “Cầu Thê Húc, khom khom, đã ngả màu hồng nhạt. Trấn Ba
Đình ủ rũ thấp xuống như bị dìm. Tất cả đều im lìm, chờ đợi. Những con rùa lịch
sử, chiến thắng và hòa bình, không thấy bóng tăm trên mặt nước. Cả đến đàn cò,
từ năm này qua năm khác, không bao giờ rời cái cây gạo thân cao thẳng vút và
trắng toát cũng không xào xạc như mọi khi. Chúng đi đâu hay đã nằm im trong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
tổ. Cái hồ yêu dấu như cũng cảm thấy dân tộc ta đang gặp khó khăn, và lắng
xuống lo âu”[66, tr. 47-48].
Với Nguyễn Huy Tưởng, thiên nhiên được xem là một trong những yếu tố
quan trọng để làm nên sự thành công của tác phẩm. Ở những trang viết của ông,
bức tranh thiên nhiên hiện lên thật sinh động theo từng mùa. Nếu như ở Sống
mãi với Thủ đô tác giả đã làm nổi bật lên sự lạnh lẽo, u ám của những ngày cuối
đông thì với An Tư sự ảm đạm đó lại tiếp tục được nhà văn nhắc đến khi ông
miêu tả cảnh hai bên bờ sông Cái “ban ngày dần dần đã qua, chiều đông u ám
càng tăng vẻ thê lương của tất niên. Hai bên bờ sông, cánh đồng chỉ còn trơ gốc
rạ, thỉnh thoảng nhấp nhô một chợ chiều vắng ngắt, hay một quán bỏ không.
Đường quanh co vào thôn xóm không một bóng người. Cỏ đã héo vàng, và cây
trơ lá. Sương cũng xuống với khí chiều, bốc quanh làng mạc và đâu đây một trận
gió thổi càng tăng lòng buồn của một lữ thứ, nhất là một người mang nặng những
ưu tư”[68, tr. 34]. Nhưng sự u ám đó chỉ thoáng qua khi mà “mùa hè đã trở lại
với ngày nắng chang chang, với đêm sáng đầy sao”[68, tr. 94], “gió nồm đã thổi,
gió tây đã hun, nắng vàng đã gắt, mưa rào đã sang và con chim tu hú đã gọi
hè”[68, tr. 131]. Còn với Đêm hội Long trì, người đọc lại bị cuốn hút vào bức
tranh của đêm hội Trung thu cùng “trăng lồng bóng nước, đèn ẩn cành dương,
giọng nói, câu cười, tiếng ca, tiếng quản, toàn thể mơ hồ như một giấc chiêm
bao”[67, tr. 14], hay “trăng không trong, hơi đục, nên cảnh sắc càng thêm mông
lung phiếu diểu. Đường đi, bóng cây in xuống, khi xóa khi hằn, theo với gió thu.
Trời chưa mát, nhưng cũng không nực lắm”[67, tr. 8].
Nhìn chung, ở tác phẩm nào của Nguyễn Huy Tưởng, bức tranh thiên
nhiên cũng mang đậm dấu ấn văn hóa với bao nhiêu đặc điểm về thiên nhiên,
thời tiết của từng mùa đều đã được nhà văn ghi lại thật chi tiết. Miêu tả thiên
nhiên với ngòi bút chân thực, Nguyễn Huy Tưởng đã để lại trong lòng bạn đọc
những ấn tượng sâu sắc.
2.2. Đời sống văn hóa - xã hội Việt Nam trong tiểu thuyết “Sống mãi với Thủ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
đô” của Nguyễn Huy Tưởng
Ở mỗi tác phẩm văn học, bao giờ người đọc cũng mong muốn tìm thấy
những hình ảnh của một nền văn hóa, một bản sắc văn hóa qua sự sáng tạo của
nhà văn. Nguyễn Huy Tưởng là một người “lưu giữ văn hóa” dân tộc theo đúng
nghĩa của từ này. Trong Sống mãi với Thủ đô, bên cạnh cái lạnh giá của mùa
đông năm 1946, cái bóng tối đặc quánh bao trùm Hà Nội trong đêm đầu tiên quân
và dân thủ đô chống trả giặc Pháp vẫn tiềm ẩn bóng dáng văn hóa truyền thống.
Những yếu tố văn hóa xuất hiện trong tiểu thuyết đã kiến tạo nên bức tranh toàn
cảnh Hà Nội trong thời điểm có một không hai của lịch sử dân tộc. “Bức tranh
ấy cho thấy sự đan bện, phối màu của hai đối cực: chiến tranh và đời thường,
hiện tại và quá khứ, cái chết và sự sống, lịch sử và văn hóa, xưa và nay, hào
hùng và hòa hoa”[54].
Nói đến Hà Nội là nói đến Thủ đô của ba mươi sáu phố phường của kiến
trúc đô thị, những cái tên “Hàng Lược, Hàng Đồng, Hàng Da, Hàng Điếu, Hàng
Bút, Hàng Bè, Hàng Đào, Hàng Bạc, Hàng Giấy, Hàng Khoai, Hàng Khay...” cứ
hiện dần lên trên những trang viết của Nguyễn Huy Tưởng. Và dẫn dắt người
đọc đến từng ngóc ngách của khu phố cổ. Những cái tên ấy là dấu ấn văn hóa
đặc biệt để du khách phương xa mỗi khi có dịp đặt chân về đây để khi trở về sẽ
không khỏi thổn thức nhớ về Thủ đô.
Bên cạnh đó, trong sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng, kiến trúc Hà Nội xưa
với những phố nhỏ, ngõ hẹp, mang đậm chất “phố Phái” cũng là một dấu ấn văn
hóa đặc sắc “phố Hàng Đào quang dần ra, phơi trần những nếp nhà liền nhau,
nhỏ hẹp, chênh vênh một vài căn gác như những hộp chồng lên, chỉ vừa cho một
cánh cửa sổ. Những ngôi nhà chỉ hào nhoáng khi mở cửa và khi ánh điện chiếu
vào tủ kính, quầy hàng đầy tơ lụa, len dạ do những bàn tay khôn khéo trang
hoàng, như những cung hoa lệ, nhưng khi đóng lại thì trông sao mà tẻ ngắt”[66,
tr. 218]. Trong Sống mãi với Thủ đô, người đọc nhận ra “những con đường lớn
và thẳng, những con đường đẹp với những biệt thự theo kiến trúc phương Tây,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
nhiều kiểu khác nhau, sạch sẽ và yên tĩnh, với những hàng cây lớn rủ bóng xanh
mát xuống đường”[66, tr. 212] là nơi ở của người Pháp và những người Việt
giàu có lúc bấy giờ vẫn còn xa lạ với số đông người dân Hà Nội.
Tương phản với những con đường lớn và hiện đại là những con phố nhỏ,
cũ kỹ còn giữ nguyên trên những phường, những giai thoại, những kỉ niệm của
kinh thành Thăng Long, của Hà Nội dấu xưa. Bởi Nguyễn Huy Tưởng quan niệm
“vượt khỏi Hồ Gươm mới thật sự như trở về những phố của mình”[66, tr. 212].
Đó là “Những ngôi nhà hẹp lòng, lồi ra, lõm vào, chen chúc nhau, ít có một
khoảng vườn con ngăn cách. Những mái ngói lâu đời đã ngả màu đen và mốc
trắng như những mái chùa, mái đình trải qua nhiều mưa nắng, những mái ngói
của những căn gác thấp, ọp ẹp, khấp khểnh, bỡ ngỡ và tui tủi giữa những nóc
nhà mới cao vút lên một cách hãnh tiến. Những dãy hàng cánh cửa lùa san sát
kề bên những ngôi hàng lồng kính, cái còn phảng phất thời những cô hàng xén
dịu dàng, nền nếp, ý nhị của kinh kỳ, cái đã phô trương hình thức cầu kì diêm
dúa, hào nhoáng của cái xã hội bon chen, gian giảo, lố lăng thời nô lệ Pháp”[66,
tr. 213]. Hay “ngọn đèn điện buông từ trên nóc không có trần của một căn gác
hẹp...cái nóc thấp với rui mè nặng trịch, cái bàn thờ tít bên trong, trên tường xây
bằng vôi tam hợp lâu ngày vàng ngậy, bộ tứ bình với cái khung đèn và những
tranh Tam quốc đã bị thời gian hun khói. Qua cửa sổ trông xuống ngõ, mà chấn
song là một chữ triện tráng men xanh”[66, tr. 89]. Và cả cái nhà ở bên đền Huyền
Thiên nơi Phúc đang ở “làm theo lối cổ, lủng củng những kèo và cột, tối tăm, ẩm
thấp, phảng phất như ở nhà quê. Có một lối thông sang đằng sau, và đây là cả
một xóm nhỏ lụp xụp, lúc nhúc những gian nhà ở bằng gỗ lợp tôn, có cả giếng,
chuồng gà, chuồng lợn, vài cây chuối lơ thơ”[66, tr. 126]. Tiếp đến là gian nhà
chỉ kê đủ một tấm phản và cái giường tre của vợ chồng bà Ngọ “đồ đạc tuy sơ
sài, căn nhà tối om om, nhưng toát lên một sự sạch sẽ duyên dáng đặc biệt của
những người lao động Thủ đô”[66, tr. 143]. Nhưng tại những khu nhà cũ mới
đan xen, dù “thiếu bóng cây, thiếu khoảng rộng, thiếu không khí, xoắn xuýt Hà
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Nội xưa và nay, trơ trọi gạch ngói với người” thì đó lại là nơi làm nên cái phẩm
tính của Hà Nội “Nấp trong những phố tít tắp ấy, người ta sản xuất và buôn bán,
cung cấp và thu nhập, tỏa cái truyền thống lịch thiệp, tinh xảo của Hà Nội đi
khắp nơi, gây nên cái sức quyến rũ của Thủ đô hoa lệ”[66, tr. 213].
Cách mà nhà văn thể hiện dấu ấn văn hóa qua việc miêu tả những gian
nhà mới, cũ đan xen thật độc đáo. Và điều này không chỉ được thể hiện trong
Sống mãi với Thủ đô, trở lại với những tác phẩm trước cách mạng như An Tư
hay Đêm hội Long Trì ta cũng sẽ thấy những nét đẹp văn hóa của dân tộc hiện
lên trên từng kiến trúc kiểu cung đình. Đúng như vậy, với An Tư, ta không khỏi
ngỡ ngàng trước sự tráng lệ của điện Diên Hồng “một ngôi nhà uy nghiêm rộng
rãi mà nhà vua dùng làm sở tiếp các đại biểu tôn kính của dân gian. Thềm rồng
cột tía lần chào đón kẻ quê mùa, chốn sán lạn huy hoàng phản ánh những nét
mặt sạm phong trần bày nên một cảnh tượng kì thú”[68, tr. 31], hay sự tuyệt
mĩ đến nỗi cảnh trí ở đây đã thành một cõi hoang đường của Cung Cảnh Linh
“kiến trúc ở ngoài đã nhẹ nhàng trang nhã, trong cung lại bày ra một cách huy
hoàng. Cột vàng sàn tía, sáng soi gương được, bước đi trên thảm gấm, tường
có treo những bức thêu quý hay những bức họa tươi. Bình vàng, bình ngọc, hay
bình sứ đẹp để cắm những kì hoa dị thảo. Toàn thể rộng rãi, sáng sủa, kiểu
cách, phảng phất một vẻ gì đài các, trang nghiêm, mà vẫn vui vầy ấm cúng”[68,
tr. 79-80]. Còn trong Đêm hội Long Trì lại là sự rực rỡ của phủ Chúa “bước
lên thềm, qua cánh cửa chạm rồng, qua chiếc bình phong lớn, Nguyễn Mại vào
một gian phòng rộng và sâu, cột cao và cùng với sàn, đều sơn đỏ tía. Câu đối
nét vàng rực rỡ. Giữa nhà có treo một cây đèn rất to, lồng trong một chiếc
khung bát giác sơn son thiếp vàng và có tua rủ xuống. Đèn hãy còn thắp. Trong
cùng, treo trên tường một bức thêu “Tô Vũ mục dương”, trước có kê một chiếc
sập lớn. Trên sập hai bên rải đệm vóc, giữa bày chiếc kỷ”[67, tr. 34].
Văn hóa của Hà Nội trong Sống mãi với Thủ đô không chỉ được Nguyễn
Huy Tưởng gợi lên qua từng nếp nhà, con phố. Mà trong cái không khí ngột ngạt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
nhuốm màu chiến tranh của một ngày cuối đông, Nguyễn Huy Tưởng đã chớp
được cận cảnh nét đẹp mộc mạc của một loại hình trò chơi dân gian ở miền quê
Bắc Bộ. Đó là khoảnh khắc xuất hiện anh thợ nặn tò he “một quang cảnh tưởng
như không còn giữa cái Hà Nội đã ngửi thấy mùi tanh giá của chiến tranh”. Một
cảnh tượng thật đẹp “người dân Hà Nội, hiếu kì và khao khát cái vui, đứng xem
để quên đi những mối lo nghĩ. Mấy đưa trẻ con len dưới chân người lớn để vào
gần. Tiếng cười, tiếng nói, tiếng trầm trồ khen ngợi cái tài khéo của anh thợ,
tưởng như Hà Nội vẫn còn đang thời bình” [66, tr. 31]. Tò he là sản phẩm đồ
chơi dân gian độc đáo, vừa mang bản sắc dân tộc, vừa mang tính khoa học. Nó
có tầm quan trọng trong cuộc sống, học tập, vui chơi giải trí và rèn luyện tính
thẩm mĩ cho trẻ em. Nó không chỉ là sự tích tụ của trí tuệ dân gian, mà nó còn
mang theo cái hồn của làng quê Việt. Chính vì vậy, nếu không am hiểu một cách
tường tận loại hình đồ chơi dân gian truyền thống này thì Nguyễn Huy Tưởng đã
không thể giới thiệu với người đọc một cách chi tiết hành trang làm nghề của anh
thợ nặn tò he “tất cả cửa hàng của anh thợ chỉ gồm một chiếc bàn vuông, nhỏ,
bẩn thỉu với những chiếc chén đựng bột dẻo đủ màu sắc hàng mã: xanh lơ, xanh
lá cây, đỏ thắm, hồng, vàng, tím, đen, trắng...Chiếc bàn nhỏ, nhẹ và sơ sài, có
thể lăn đi cùng đường phố Hà Nội, nay thềm nhà này, mai bờ đường khác, là sân
khấu của những vị anh hùng Tam quốc, Tây du”[66, tr. 31]. Trong cái nhìn của
nhà văn, anh thợ nặn tò he đích thị là một nghệ nhân dân gian “anh thợ thản
nhiên trổ tài. Mười ngón tay dính bột đủ màu sắc, thoăn thoắt như một cái máy
nhỏ, cứ năm, sáu phút tạo được một anh hùng. Nhân vật nào cũng khá tinh
xảo”[66, tr. 31]. Hơn thế, trong giờ phút gần kề chiến tranh, nhân vật của Nguyễn
Huy Tưởng còn lo lắng băn khoăn, liệu sau này những tinh hoa truyền thống ấy
có bị quên lãng, chết dần chết mòn hay không? Có thể thấy, từ những trang viết
cách đây hơn nửa thế kỉ, Nguyễn Huy Tưởng đã gợi những suy nghĩ về vấn đề
bảo tồn tinh hoa văn hóa truyền thống, đến hôm nay vẫn mang tính thời sự.
Trong tiểu thuyết Sống mãi với Thủ đô, những trang viết về khu chợ Đồng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Xuân cũng đã thể hiện kiến thức lịch sử - văn hóa của nhà văn về một địa danh
văn hóa, một di tích cách mạng (cuộc đấu tranh của chị em tiểu thương, trận đánh
oanh liệt của bộ đội bảo vệ chợ Đồng Xuân trong những ngày đầu toàn quốc
kháng chiến). Qua những trang văn của Nguyễn Huy Tưởng, người đọc hồi nhớ
chợ Đồng Xuân là nơi buôn bán đông vui bậc nhất Hà thành. Là nơi những tinh
hoa ẩm thực độc đáo của Hà Nội và của mọi miền đất nước không hẹn mà gặp,
đều hội tụ phong phú ở khu vực này. Người dân Hà Nội trong những ngày đầu
của chiến tranh, dù khu chợ bị giặc ném bom, vẫn tới mừng cuộc đấu tranh thắng
lợi của chị em chợ Đồng Xuân và cũng để “khuây khỏa cái nỗi nhớ chợ. Bởi vì
đây là trái tim của Hà Nội, là nơi tập trung những hàng tinh xảo của phố phường,
những món ăn vật lạ, những kì hoa dị thảo ở khắp các tỉnh đường ngược cũng
như đường xuôi. Trong những ngày áp tết, cái tên Đồng Xuân càng vang động
trong lòng mọi người. Đi chơi chợ tết trở nên một sự cần thiết như ăn và
mặc”[66, tr. 150]. Nhà văn thấu hiểu tâm lý của người Hà Nội đi chợ tết không
chỉ để mua sắm mà còn để thưởng thức, để đón trước cái hương vị, sắc màu của
tết nhất đang thấm dần vào cảnh, vào người: “Những dãy hàng cam đỏ sáng,
những rừng hoa cúc, hoa lan, hoa lay - ơn, hoa hải đường muôn hồng nghìn tía,
những cành hoa đào Nhật Tân tươi thắm như còn ở dinh đào, những cây quất ở
Quảng Bá, Tây Hồ, những chậu cảnh công phu của Nghi Tàm, những hàng su
hào, cải bắp, súp-lơ, đua nhau tranh sắc màu với hoa quả. Tất cả hòa hợp trong
cái vui rối rít mà vẫn nhịp nhàng của những tranh, những câu đối, những bao
hương, bao nến, bao chè, những bánh pháo, những hộp kẹo, hộp mứt, những
chậu cá vàng”[66, tr. 151]. Khi viết những dòng này, nhà văn Nguyễn Huy
Tưởng chắc không hình dung được có một ngày chợ Đồng Xuân thời Sống mãi
với Thủ đô đã được xây cất lại, có thể khang trang bề thế hơn nhưng với người
đọc, những hình ảnh sắc nét và sống động về chợ Đồng Xuân một thời được miêu
tả trong tiểu thuyết của ông vẫn đọng lại trọn ven trong ký ức. Bởi không phải
ngẫu nhiên mà Nguyễn Huy Tưởng dẫn giải “Thủ đô có những nơi sang trọng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
như Tràng Tiền, xinh đẹp như Hồ Gươm, nhưng đông vui nhất vẫn là cái chợ ở
vào trung tâm của ba mươi sáu phố phường này, mà cái tên đã đi liền với tên Hà
Nội, mà người tứ xứ kéo về Thủ đô đều phải tới thăm nếu không muốn phải ân
hận khi trở ra về. Đối với người Hà Nội, và nhất là đối với những người dân phố
ở đây, chợ Đồng Xuân là một điểm tự hào”[66, tr. 151]. Và như chúng ta biết,
ngày nay, chợ Đồng Xuân vẫn là một cái tên đầy kiêu hãnh, là một địa chỉ văn
hóa của khách du lịch trong nước và nước ngoài.
2.3. Con người - chủ thể văn hóa trong tiểu thuyết “Sống mãi với Thủ đô”
của Nguyễn Huy Tưởng
Khi nghiên cứu văn học từ góc nhìn văn hóa, ta nhận thấy giữa văn học và
văn hóa có mối quan hệ mật thiết với nhau. Bởi cả hai đều hướng tới đối tượng
trung tâm là con người. Con người vừa là chủ thể sáng tạo, đồng thời cũng là đối
tượng phản ánh của văn học và văn hóa. Chính vì vậy, việc đi sâu tìm hiểu khám
phá thế giới con người sẽ giúp chúng ta chiếm lĩnh được nội dung tư tưởng của
tác phẩm văn học, cũng như hiểu thêm về văn hóa của dân tộc. Tùy vào phong
cách nghệ thuật riêng mà mỗi nhà văn, nhà thơ lại có những quan niệm, điểm
nhìn khác nhau về con ngýời. Nhýng chắc chắn một ðiều là trong quan niệm nghệ
thuật của mỗi nhà vãn ít nhiều ðều chịu ảnh hýởng, sự chi phối của một nền vãn
hóa trong một thời ðại nhất ðinh. Cũng nhý bao nhà vãn khác, trong tác phẩm
của Nguyễn Huy Týởng, cái nhìn thế giới và con người của nhà văn là cái nhìn
dân chủ, đầy ưu ái, thương yêu, không ngừng hướng tới con người. Ở mỗi tác
phẩm “con người phải suy nghĩ và hành động đến kiệt lực để tìm cho mình một
sự lựa chọn, cống hiến trong sáng tạo nghệ thuật”[53, tr. 12].
2.3.1. Con người Hà Nội hào hoa, thanh lịch
Chẳng thơm cũng thể hoa nhài
Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An
Thanh lịch, văn minh là bản sắc đặc trưng của người Hà Nội. Nét thanh
lịch của người Hà Nội không chỉ là độc quyền của những người giàu có, quan
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
chức mà nét đẹp đó được xuất hiện ở mọi tầng lớp. Cho dù đó là những nông dân
quanh năm “chân lấm, tay bùn” thì ở họ cũng toát lên vẻ duyên dáng:
Đất Ngọc Hà tốt tươi phong cảnh
Gái Ngọc Hà vừa đảm vừa xinh
Ơi người gánh nước giếng đình
Còn chăng hay đã trao tình cho ai?
Thanh lịch, duyên dáng trong cách ăn mặc, nhẹ nhàng tế nhị trong cử chỉ
hành động được xem là dấu ấn văn hóa đậm nét của người Hà Nội. Là một nhà
văn có hiểu biết sâu rộng về Hà Nội, Nguyễn Huy Tưởng trong Sống mãi với
Thủ đô bên cạnh việc làm nổi bật tinh thần kiên cường, bất khuất của những con
người yêu nước thì ông cũng chú ý đến việc xây dựng cho tác phẩm của mình
những nhân vật là “trai thanh gái tú” mang vẻ đẹp hào hoa, thanh lịch của người
Hà Nội.
Đúng vậy, khi xây dựng những “mẫu người văn hoá” cho tiểu thuyết của
mình, Nguyễn Huy Tưởng đã đưa hết những đặc trưng của con người Hà Nội
vào trong một số nhân vật như Phúc, Hương, Lan, Tân, Hiền, Nhân, Nhật
Tân…Nét đẹp hào hoa thanh lịch của họ được thể hiện trong trang phục từ cách
ăn mặc gọn gàng, trang nhã, chỉnh tề. Đầu tiên là vẻ đẹp của những cô cái ngoại
thành như Nhân, cô được xem là làng hoa Ngọc Hà với cách làm đẹp kín đáo
không phô trương, khoe khoang lố lăng “Ấy là một cô con gái chạc mười chín
đôi mươi, mặc theo lối phụ nữ ngoại thành. Khăn vuông đen quặt đằng sau, áo
dài phin nâu mỏng hở cổ để lộ cái áo cánh trắng và cái áo len đan màu xanh.
Hai ống tay chét lại, tất cả y phục đều lẳn vào người”[66, tr. 32]. Và tiếp đến là
sự duyên dáng của những cô gái, chàng trai phố cổ Hà Nội, đó là Trinh với “một
chiếc áo len dài màu đen, mặt thoa phấn nhẹ, đầu quàng một cái khăn mỏng màu
hoa cà”[66, tr. 11]. Ở họ toát lên vẻ đẹp, một vẻ đẹp đậm chất dân tộc phương
Đông, cũng giống như Hiền “Hiền là một cô gái mới lớn lên, mặt bàu bàu hơi to
so với khổ người tầm thước. Chị mặc chiếc áo nhung đỏ, quần xa-tanh là, chân
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
đi hài con bướm vàng rung rinh. Đầu Hiền vấn một chiếc khăn nhung lam, cổ
đeo kiềng vàng trơn”[66, tr. 69]
Bên cạnh nét đẹp truyền thống, những con người ấy cũng biết cách tân
lành mạnh, với những trang phục mang nét đẹp phương Tây “Phúc là một thanh
niên trạc hăm bốn, hăm nhăm, nhỏ nhắn và gầy…Anh mặc một cái áo bờ-lu-
dông, cái phu-la-len xanh dọc vàng vắt trễ tràng nửa trước ngực nửa sau lưng
để lộ cái cổ trắng nõn của một con nhà giàu. Anh không đi bít tất, quần dạ xắn
lên. Đôi giày da của anh phủ đầy vôi cát”[66, tr. 128]. Hay “vẫn cái bờ-lu-dông
tím, vẫn cái bao súng lục bóng đeo bên hông, vẫn đôi giày da đen có ghệt nhỏ
túm lấy cái quần dạ màu nâu sẫm”[66, tr. 224], Văn Việt hiện lên với “cái vẻ
hiên ngang nho nhã của một người thanh niên uỷ viên quân sự”.
Cùng với những trai thanh gái lịch ấy, nhà văn cũng dành cho những con
người thuộc tầng lớp lao động những dòng văn đầy cảm mến. Trang phục của họ
tuy chỉ là “một cái mũ dạ tàng, một cái áo dạ tây con đã vá ở hai khuỷu tay, quần
đùi ka-ki vàng rộng thùng thình, thắt lưng da”[66, tr. 33] của Thắng, hay “một
cái quần cộc, một cái áo sơ-mi người lớn bằng ka-ki vàng, lùng bùng sau cái áo
sợi đan màu đỏ kệch”[66, tr. 93] của Lai, và sự phong phanh với “một bộ quần
áo nâu, cổ quàng một cái khăn mặt bông còn mới”[66, tr. 93] không biết rét của
nhân vật Sờn đã cho thấy tuy ăn mặc lam lũ những họ cũng phần nào thể hiện
được nét đẹp của người Hà Nội. Bởi đó là nét đẹp của tâm hồn.
Con người Hà Nội không chỉ đẹp qua cách ăn mặc, mà họ còn đẹp ở phong
cách ứng xử giao tiếp nền nã, văn minh, lịch sự và tế nhị “Lan đứng dậy. Trông
thấy anh về có khách, chị khẽ cúi đầu chào, đôi mắt nhỏ lim dim nhìn xuống”[66,
tr. 166]. Người Hà Nội đến với nhau bằng sự chân thành, họ tiếp đón nhau bằng
sự thân mật, gần gũi “Lan rót một chén nước chè sen mời Sinh. Anh đỡ lấy, đặt
xuống bàn hai bàn tay ôm lấy thành chén, như hơ vào lồng ấp, để cho cái nóng
chuyền sang tay lạnh cóng. Hương thơm của sen ngào ngạt như đánh bạt mùi
thuốc súng còn bám vào quần áo anh và quần áo mọi người. Anh rất cảm
động”[66, tr. 318]. Bất kể là lúc nào, thời bình hay thời chiến thì họ cũng dành
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
cho nhau những tình cảm vô cùng đáng quý, không phân biệt tuổi tác nghề
nghiệp, không phân biệt sang hèn, có thể họ chỉ đến với nhau một cách tình cờ
nhưng lại để lại trong lòng nhau những ấn tượng khó quên “Chúng ta không cần
biết tên tuổi nghề nghiệp, gia đình của nhau làm gì. Cần gì phải biết anh đang
làm tự vệ hay sắp tản cư, anh là Việt Minh hay là Quốc dân đảng, cộng sản hay
quốc gia, anh đã có vợ hay chưa bị bó buộc, anh đang lo vì tình hình hay nhởn
nhơ với nó, anh lạc quan hay bi quan, anh muốn sống hay muốn chết, biết chỉ
thêm buồn, mà cãi nhau thì khổ lắm. Chúng ta chỉ cần biết rằng lúc này - Tân
xem đồng hồ - là năm giờ mười lăm, có năm người Hà Nội còn sống, rất hay,
toàn con số năm cả, năm người cùng họp với nhau, cùng ăn với nhau, ngay trên
đất Hà Nội”[66, tr. 245-246].
Mọi cử chỉ, lời nói, hành động của từng nhân vật đều thể hiện vẻ đẹp của
con người Hà Nội thanh lịch hào hoa. Và cái tài của Nguyễn Huy Tưởng là đã
rất khéo léo để cho nhân vật của mình tự bộc lộ cái vẻ đẹp nền nã, duyên dáng
ấy “Tay cầm cát-két, Sinh định ra. Anh không dám nhìn một người phụ nữ nào,
chỉ thoang thoáng như Lan đang nhìn ra. Mà đúng như vậy. Đứng ở cái cửa
thông vào nhà trong, thỉnh thoảng Lan cũng liếc nhìn Sinh, cái liếc trộm của một
người con gái lớn chưa chồng bị kìm hãm mạnh, khi trông thấy bất cứ người đàn
ông nào”[66, tr. 168].
Người Hà Nội đẹp là vậy, và họ còn đẹp hơn khi một lòng hướng về Thủ
đô trong thời điểm lịch sử có một không hai của dân tộc. Người Hà Nội đẹp từ
ngoại hình đến tính cách, tâm hồn. Chính vì vậy, để nhận ra lối sống hào hoa
phong nhã của người Kinh thành kẻ chợ thì chỉ cần nhìn vào cách ăn mặc, dáng
đi và nghe tiếng nói của họ. Một lần nữa cần phải khẳng định sự hiểu biết rất sâu
về con người Hà Nội của Nguyễn Huy Tưởng. Sự hiểu biết ấy góp phần không
nhỏ làm nên giá trị của tiểu thuyết Sống mãi với Thủ đô
2.3.2. Con người có bản lĩnh và nhân cách cao đẹp
Như chúng ta đã biết, tiểu thuyết Sống mãi với Thủ đô đã dựng lên một
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
không khí Hà Nội sôi sục chuẩn bị kháng chiến. Nhân dân ai cũng hào hứng say
mê muốn góp công sức của mình. Người ta gác lại những nỗi niềm riêng lẻ. Và
từ đêm đầu kháng chiến, những lỗ tường thông từ nhà nọ sang nhà kia đang dần
dần làm cho người Hà Nội xích lại gần nhau. Một sự đổi thay mới mẻ đang diễn
ra trong mỗi con người và trong những mối quan hệ xã hội. Với Nguyễn Huy
Tưởng, con người luôn là trung tâm để ông hướng tới. Vì vậy, trên cái nền tráng
lệ đó của lịch sử, tác giả đã đưa hơn 40 nhân vật với những số phận, hoàn cảnh
và vị trí xã hội khác nhau, xô đẩy vào trong dòng thác lớn của cách mạng: cuộc
kháng chiến thần thánh. Trong tác phẩm, Nguyễn Huy Tưởng đã xây dựng hệ
thống tính cách nhân vật của mình với tất cả tính chất phức tạp và nhiều vẻ của
mỗi con người trong cùng một hoàn cảnh. Tuy các nhân vật chưa thể hiện được
đường đi nước bước trong một thời điểm, một khoảnh khắc, nhưng người đọc
vẫn có thể tìm thấy những nét riêng, cái dáng dấp của những con người Hà Nội
ở những tầng lớp khác nhau. Nhân vật của Nguyễn Huy Tưởng khá là đa dạng
và phong phú, họ được nhìn nhận và ðánh giá qua nhiều khía cạnh. Nhýng có lẽ
những vẻ ðẹp trong tính cách và tâm hồn luôn ðýợc tác giả tập trung ði sâu khắc
hoạ. Qua ðó, tác giả khẳng ðịnh, ca ngợi nhân cách và bản lĩnh sống của con
ngýời Việt Nam.
Trong Sống mãi với Thủ đô chúng ta có thể nhận ra hàng loạt nhân vật
khác nhau. Có những cán bộ hoạt động cách mạng như Quốc Vinh, Nguyễn Gia
Định; những công dân như Dân, Sinh; những người trí thức, học sinh như Trần
Văn Nhật Tân, Quyên, Loan; những người buôn bán, anh em dân nghèo thành
thị, những em bán báo, đánh giầy…Tuy xuất thân từ những hoàn cảnh và tầng
lớp khác nhau về sinh hoạt, tâm trạng, nguyện vong, nhưng tất cả đều cùng một
ý chí là vùng lên giết giặc, không thể sống cuộc đời nô lệ. Phần lớn họ là những
người biết đến cách mạng từ sau ngày Tổng khởi nghĩa. Cách mạng đã đưa lại
độc lập, tự do cho dân tộc nên họ có cảm tình và tin yêu cách mạng. Họ thiết tha
yêu nước, tràn đầy nhiệt huyết, luôn thể hiện bản lĩnh kiên cường, bất khuất trong
giờ phút Thủ đô lâm nguy.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Với tài năng của mình, Nguyễn Huy Tưởng đã khéo léo đưa các nhân vật
của mình vào một cuộc thử thách, để qua đó bộc lộ được những tính cách và nét
đẹp trong tâm hồn họ. Và có lẽ, tầng lớp được tác giả thử thách nhiều nhất là
tầng lớp tri thức tiểu tư sản, bởi ngay từ những ngày đầu đứng vào hàng ngũ
chiến đấu, họ vẫn mang trong mình sự mơ mộng lí tưởng hoá, thiếu thực tế và
phần nào còn có tính chất anh hùng cá nhân, còn tự do vô kỷ luật. Nhưng khi va
chạm với đời sống vô cùng gian khổ, xông vào cuộc thử lửa gay gắt, họ đã lớn
lên và cứng cáp hơn, khẳng định được sự đóng góp của mình vào công cuộc
kháng chiến chung của dân tộc.
Trong các nhân vật tri thức tiểu tư sản như Trần Văn, Văn Việt, Nhật Tân,
Hồng Lưu, Nguyễn Huy Tưởng quan tâm nhiều hơn cả đến Trần Văn, nhân vật
mang sắc thái tự biểu hiện. Đến với tác phẩm, người đọc thấy rõ anh giáo Trần
Văn chán ghét cuộc sống tầm thường, vô vị, qua kinh nghiệm bản thân, anh biết
cách mạng sẽ mang đến cho người trí thức một chân trời mới, niềm vui lớn đến
với anh khi cách mạng thành công: “Anh nhảy nhót trên đường đầy ánh sáng
của một mùa thu tuyệt đẹp. Anh ngẩng đầu ngắm lá cờ sao vàng trên đỉnh cột
cờ, nhìn vòm trời xanh lồng lộng. Cây cối hai bên đường reo vui..”[66, tr. 29-
30]. Nhưng là một thanh niên tiểu tư sản, anh cũng mang theo bản chất yếu đuối,
hoài nghi của tầng lớp mình. Trong đấu tranh cách mạng, dần dần Trần Văn được
rèn luyện, và dần dần vấn đề sống chết đối với anh được đặt ra theo một cách
khác. Trần Văn muốn được đóng góp vào công cuộc chung cho xứng đáng với
trách nhiệm, để bù đắp lại những thiếu sót của ngày qua. Trần Văn bộc lộ nhiều
suy nghĩ chân thực trước giờ phút thử thách quyết liệt, “Sống, chúng ta sẽ được
trông thấy thủ đô ngàn năm không còn bóng giặc. Chết, chúng ta có cái tự hào
của thế hệ đã hy sinh lần cuối cùng cho tự do của Tổ quốc. Chúng ta là những
người nô lệ cuối cùng và đồng thời là những người tự do đầu tiên. Tôi thấy rõ
sống tức là có mặt ở những nơi cần đến chúng ta. Tôi đã nhiều lần vắng mặt rồi.
Rất buồn cho những kẻ đứng ngoài”[66, tr. 103]. Bản lĩnh kiên cường, tinh thần
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
quyết chiến luôn thường trực trong con người này, ở bất cứ nơi đâu, vào bất cứ
thời điểm nào, tinh thần ấy cũng được bộc lộ một cách rõ nét “Tôi nghĩ lúc này
là lúc chúng ta lấp cái nhục bằng gươm bằng súng đấy. Và nếu vì quân Pháp mà
chiến tranh phải xảy ra thì chúng ta sẽ cho chúng nó biết rằng chúng ta không
phải là một giống hèn”[66, tr. 26]. Mọi lời nói, cử chỉ đều cho thấy ở Trần Văn
một con người có lòng yêu nước sâu sắc, bản lĩnh của anh ngày càng được tôi
luyện thêm vững chắc “Sống chết vì Tổ quốc, sống chết vì Cụ Hồ, linh hồn của
dân tộc. Người ta thường trách thanh niên chúng ta không có lý tưởng. Đây là
lúc chúng ta có một lý tưởng để mà phụng thờ, để mà hy sinh […] Ngoài cái ăn
cái mặc ra, còn phải suy nghĩ làm sao có thể giúp ích cho đời, phải có cái gì để
lại, nó đánh dấu sự tồn tại của một con người, nó nâng con người lên trên cái ăn
cái mặc. Đấy là lý tưởng, đấy là lý do sự có mặt của mình trên trái đất”[66, tr.
249-250]. Như vậy, Trần Văn đã đi vào cuộc chiến đấu với tinh thần tự nguyện,
kiên quyết và bản lĩnh của một người Hà Nội.
Hoàn cảnh của Trần Văn có khác với hoàn cảnh của nhạc sĩ Thu Phong,
cũng ở tầng lớp tiểu tư sản trí thức nghèo, bao nhiêu năm kéo mòn đời mình
trong các tiệm nhảy, đã từng lưu lạc ở nước ngoài, đói khổ và bị mọi người rẻ
rúng. Gặp những khi cùng quẫn quá, anh đã có ý định cầu cứu Việt Minh “Hồi
quân Tưởng rút về nước, Thu Phong bỗng có mộng chu du ký hợp đồng sang
Vân Nam, làm cho tiệm nhảy của một viên sĩ quan thất thế ở Long Vân. Nó không
trả tiền, Thu Phong và ba anh bạn khổ quá, tiền không có đến nỗi phải cắt tóc
cho nhau”[66, tr. 332]. Đến khi anh không còn sức, và rồi kháng chiến bùng nổ,
anh sợ sệt cầm súng; nhưng cũng từ những tiếp xúc đầu tiên, Thu Phong dần dần
trưởng thành hơn trong những ngày toàn quốc kháng chiến. Chung sống với anh
em tự vệ, lần đầu tiên Thu Phong thấy “họ rất dễ thương, không thô bỉ như bọn
lính khố đỏ, khố xanh ngày trước. Anh thấy dân tộc mình chưa bao giờ có sức
mạnh như thế và nước mắt anh chảy ra, cảm động nhìn họ cuộn giấy lại để hút
thuốc lào”[66, tr. 335].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Bên cạnh đó còn phải kể đến Quốc Vinh, người chiến sĩ đã lăn lộn hoạt
động cách mạng, luôn luôn có mặt trên mọi trận tuyến không quản ngại gian khổ
“Hồi bí mật có nhiều lúc khó khăn, anh bị đói khát, bị truy nã”[66, tr. 273] nhưng
anh vẫn tuyên truyền, vận động quần chúng tham gia kháng chiến, mọi công việc
với anh không có gì là khó khăn. Có bị bắt thì anh cũng “cắn răng chịu đựng để
không phản bội”[66, tr. 273]. Trong cuộc kháng chiến mới này, với tinh thần quả
cảm, với ý chí và nghị lực phi thường, Quốc Vinh chính thức được cử làm Phó
chủ tịch uỷ ban kháng chiến Liên khu và phụ trách thường trực. Là người cán bộ
cốt cán, anh luôn hăng say vào công việc của mình, mặc dù sức khoẻ của anh
không được tốt “Cách đây nửa tháng, anh đã đi nằm viện, nhưng vì tình hình,
lại phải trở về công tác. Thầy thuốc khuyên anh không nên thức quá chín giờ
nhưng anh có thực hiện được lời dạy ấy đâu. Mấy đêm liền không ngủ. Người
anh bã ra, anh ho hơn trước, toàn thân đau đớn vì hậu quả của những trận tra
điện, lộn mề gà mà anh đã phải chịu hồi bị mật thám bắt năm bốn mươi hai. Anh
lo cho sức khoẻ, không biết có thế đảm đương công việc không?”[66, tr. 273].
Nhưng dù có như thế nào thì anh vẫn giữ vững tinh thần, sự lạc quan, niềm tin
vào cách mạng đã khiến anh quên đi mọi đau đớn, mệt mỏi “Cái ý nghĩ Liên khu
I sẽ chống giữ đến cùng làm cho anh quên mệt. Công việc kéo anh đi. Quốc Vinh
đang sống cái giờ phút nghiêm trọng, trong nhiều giờ phút nghiêm trọng mà đời
người cán bộ đã trải qua”[66, tr. 274]. Đó chẳng phải là con người có bản lĩnh
hay sao?
Cùng với đó là Nguyễn Gia Định, người hương sư gầy gò giàu nghị lực,
khiêm tốn trong vẻ giản dị của mình, đã là người hi sinh cuối cùng trong công
cuộc kháng chiến bảo vệ dinh Bác “Hàng ngày Bác ở đấy, chúng tôi được luôn
luôn trông thấy Bác, được sinh hoạt với Bác….Chúng tôi không ngại chiến đấu.
Rút đối chúng tôi là một sự vạn bất đắc dĩ. Bởi vì chúng tôi sẽ phải bắt buộc tự tay
phá cái dinh mà chúng ta không ai đang tâm làm cả”[66, tr. 190]. Nói xong người
chính trị viên ngồi xuống “bàn tay anh run run, rút cái bút máy ra rồi lại kẹp vào
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
túi. Anh cũng chẳng nhìn ai cả. Anh chưa nói ra, nhưng anh đã có một chủ trương
dứt khoát. Nếu như phải rút khỏi dinh, anh sẽ là người cuối cùng ở lại, và cả cái
lâu đài kia sẽ đổ sập xuống quân thù”[66, tr. 190].
Bên cạnh những nhân vật trên, Nguyễn Huy Tưởng đã miêu tả khá sinh
động một số kiểu người mà tiếng súng đầu tiên của chiến tranh đã thức tỉnh và
kéo ra khỏi cuộc đời nhung lụa, giúp cho họ từ bỏ lối sống “tự do”, “trung lập”
để chọn một trong hai ngả đường: tự do hay nô lệ, cách mạng hay phản cách
mang. Kiểu người này chúng ta có thể nhận ra ở các nhân vật như Phúc, Hương,
Lan. Cùng xuất thân trong thành phần tư sản mại bản nhưng không giống Tân,
một con người bốc đồng, và đầy băn khoăn giữa sự chọn lựa thì Phúc lại tham
gia vào kháng chiến với ý muốn thay đổi cuộc đời buồn tẻ chán ngấy của gia
đình “thấy nhà bo bo ích kỉ, Phúc đi hoạt động xã hội. Anh đã vào làm giáo viên
hội Truyền bá quốc ngữ, mặc dầu nhà cấm vì sợ mật thám theo dõi. Đã có những
lúc, anh đóng cửa buồng lại, đứng trước gương tập diễn thuyết để sau này ra
làm việc xã hội”[66, tr. 134]. Chưa bị đắm sâu vào các tật xấu của giai cấp xuất
thân, tâm hồn Phúc còn khoẻ khoắn, trong sáng hơn nhiều thanh niên tư sản khác.
Là con nhà giàu nhưng Phúc lại có lối sống khác với mọi người trong gia đình.
Nếu như cha anh, ông Cự Lâm là một kẻ mang đầy tính toán lạnh lùng, nham
hiểm thì Phúc lại là chàng thanh niên luôn sốt sắng với công việc xã hội, Phúc
đã tự ý đến nhà Quảng Xương Long, bắt người gác phải mở cửa và cùng một số
đông tự vệ xông vào kho. Tiếng Phúc oang oang “Cần bao nhiêu cứ lấy. Càng
nhiều càng tốt. Ông cụ đã muốn keo bẩn thì cho keo bẩn một thể”[66, tr. 110].
Phúc chống lại gia đình để tham gia kháng chiến, anh luôn thể hiện sự thân thiết
gần gũi với mọi người. Anh không muốn Sinh gọi mình và các em là cô, là cậu
vì anh cho rằng điều đó sẽ tạo nên khoảng cách giữa anh và mọi người. Nhìn các
anh em trong đội tự vệ mà anh muốn sống một cuộc đời tự lập, không phải ăn
bám vào gia đình “Tôi muốn làm được việc gì có ích. Nếu phải chết vì Tổ quốc,
tôi cũng sẵn sàng”[66, tr. 133].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Ở đây, hầu như mọi hoạt động kháng chiến đều đã tác động đến cả mọi
tầng lớp, đã gõ cửa từng căn nhà, cuốn hút theo nó tất cả, không ai có thể thờ ơ
lảng tránh hay đứng ngoài cuộc. Nếu những con người ích kỉ, tầm thường chỉ
biết đến chồng con và sắc đẹp như Trinh, hoặc những kẻ lạnh lùng, nham hiểm
như Cự Lâm đã trở nên hoàn toàn lạc lõng và vô nghĩa trong khung cảnh chiến
đấu, thì những con người bình thường giản dị như Sinh, Tu lại nhờ trải qua chiến
đấu mà trở nên anh hùng. Và cũng có cả những nhân cách tồi tàn đã có lúc tưởng
phải bỏ đi như Long đen, nay được rèn luyện trong khói lửa lớn vượt lên, trở
thành một thành viên tích cực của đội ngũ cứu quốc.
Kháng chiến bùng nổ, toàn dân hướng về Thủ đô. Bản lĩnh kiên cường,
tinh thần yêu nước của người Việt Nam lúc bấy giờ không chỉ được thể hiện ở
những chàng thanh niên tiểu tư sản hay những anh bộ đội cụ Hồ mà nó còn được
thể hiện ở những người phụ nữ, bình thường họ vẫn được xem là phái yếu cần
được che chở và bảo vệ, thì lúc này trong giờ phút trọng đại của dân tộc họ lại
đứng lên khẳng định vai trò của mình với kháng chiến. Đó là Quyên, một nữ học
sinh đi vào kháng chiến với niềm say mê lý tưởng trong sáng. Quyên hăng hái
tham gia cách mạng, mọi lời nói, cử chỉ của cô cho thấy điều quan trọng đối với
Quyên và đối với toàn dân tộc vào thời điểm này là phải đấu tranh để dành lại tự
do độc lập “Chúng ta không thể sống mãi trong nhục nhã được”[66, tr. 25];
“Chúng em là học sinh Hà Nội. Học sinh Hà Nội mà tản cư thì nhục lắm. Ở Hà
Nội có làm sao đi nữa cũng vẫn hơn. Lần này em sẽ đến nhà chị Oanh xin cho
công tác đấy anh ạ”[66, tr. 26]. Đó là Nhân, một cô gái chạc mười chín đôi mươi,
thường có mặt khắp nơi trong Liên khu và rất hăng hái trong những cuộc vận
động mùa đông binh sĩ, quyên tiền, quyên gạo, quyên thịt ủng hộ bộ đội, và là
người đứng đầu cuộc khởi nghĩa của chị em khu chợ Đồng Xuân “chị đã xung
phong vào trong trại giặc, đòi gặp thằng chỉ huy, đòi nó phải thả mấy chị em của
chúng ta ra. Nó đuổi chị ra, chị cứ đứng lại. Nó bắt chị đem giam cùng với mấy
chị em kia. Đến trưa nó cho ăn để lấy lòng, nhưng chị Nhân đã nhịn đói để hưởng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
ứng cuộc đấu tranh của chúng ta”[66, tr. 158]. Chính vì vậy, mọi người yêu mến
ngợi ca và thán phục chị bởi cái bản lĩnh bất khuất của chị. Tiếp đến là Oanh,
bản lĩnh của Oanh có lẽ được tác giả khẳng định rõ nét nhất là sau cái chết của
ông Gia Lộc, bố của Oanh. Còn gì đau đớn hơn khi mất đi người thân, nhất là
trong cái thời khắc sôi sục của cuộc chiến bảo vệ Thủ đô, vậy mà “trong cái buổi
sáng thứ nhất của kháng chiến có một người con gái tiếp lấy súng của người cha
chết trận và lại đi công tác”[66, tr. 392]. Còn cả hai cô gái Lan và Hương, em
của Phúc, từ nhỏ đến lớn cấm cung trong bốn bức tường âm u cũng nhờ cuộc
kháng chiến mà họ dần hòa nhập với mọi người. Họ mạnh dạn vượt ra khỏi mọi
lễ giáo mà bà cô trước kia từng áp đặt để đến với cách mạng bằng việc nhiệt tình
với công việc phục vụ bộ đội và cả anh em trong đội tự vệ.
Không dừng bút ở những nhân vật trên, Nguyễn Huy Tưởng còn thể hiện
sâu sắc bản lĩnh của người Việt Nam qua hình ảnh của những đứa trẻ như Thắng
và Lai. Thắng là một cậu bé bán báo, có cha đã từng vào bộ đội Nam tiến nhưng
đã hy sinh. Phải chăng sự hy sinh của người cha ấy đã tiếp thêm dũng khí cho
cậu con trai bây giờ để rồi cậu nằng nặc đòi u cho theo bộ đội. Cuộc sống vất vả
của kháng chiến khiến chú bé “thấy cuộc đời rất lạ và mỗi lúc chú một dạn thêm,
không sợ như khi mới bắt đầu nổ súng”[66, tr.348]. Còn Lai, một cậu bé đánh
giầy, với tinh thần yêu nước, cậu đã xin vào tự vệ. Với một con người nhỏ bé
như vậy, thì có thể làm được gì cho kháng chiến, đó hẳn là suy nghĩ chung của
nhiều người. Nhưng có lẽ cậu bé ấy đã nhận thức được tình hình thời cuộc lúc
bấy giờ, cậu muốn góp phần vào công cuộc đó nên cậu đã khẳng định một cách
dứt khoát “nhưng cháu không sợ chết”[66, tr. 95], rồi “nghèo cũng khổ. Bé cũng
khổ. Thế thì cháu ở với ai? Cháu đi đâu bây giờ? Mấy thằng bạn cháu biết làm
gì bây giờ? Thôi được. Cháu lại đi tìm bộ đội vậy. Cháu lại đi tìm các cậu tự vệ
khác. Cháu đi đến chỗ nào nhận cho cháu ở lại thì thôi”[66, tr. 96]. Lai sẽ làm
mọi cách để được ở lại Hà Nội cùng toàn dân chiến đấu bảo vệ Thủ đô. Phải nói
rằng, Thắng và Lai dưới ngòi bút của Nguyễn Huy Tưởng được xem là những
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
cậu bé với vẻ bề ngoài nhỏ nhắn, vô tư hồn nhiên nhưng lại mang trong mình
một tinh thần thép.
Nhân vật trong tiểu thuyết của Nguyễn Huy Tưởng không chỉ là những
con người yêu nước sâu sắc với bản lĩnh, ý chí kiên cường và tinh thần quyết
chiến quyết thắng, hy sinh đến giọt máu cuối cùng để bảo vệ Thủ đô. Mà họ còn
là những con người có nhân cách cao đẹp, nhân cách ấy thể hiện ở tinh thần đồng
đội, ở tình làng nghĩa xóm, là tình cảm giữa con người với con người, là lòng vị
tha cao cả và là sự hi sinh thầm lặng cho công cuộc kháng chiến của một số nhân
vật.
Nói đến tình nghĩa giữa con người với nhau, thì ngay những trang đầu của
tiểu thuyết chúng ta nhận thấy Trần Văn đã động lòng thương cho một ông lão
“không có nón, không có mũ, tóc nửa màu đất, túm lại thành một cái búi đằng
sau, nhỏ như một hòn bi. Mắt lão mờ dại như mắt người hấp hối, mồm há ra để
đớp không khí, cổ chỉ còn hai miếng da mỏng như tờ giấy dính cằm. Vai lão đeo
một cái đãy nhỏ, lưng gẫy gập cõng một đứa trẻ độ hai tuổi. Đứa trẻ ngủ, cái
đầu ngoẹo xuống. Thảm nhất là nó lại chít một cái khăn đại tang còn mới”[66,
tr. 15]. Hay sự thương mến của Loan dành cho anh thợ nặn tò he trong buổi chiều
hôm ấy “Loan thấy thương thương người nghệ sĩ bình dân, và nhơ nhớ những
trò vui đơn giản làm nhộn nhịp thêm, thân mật thêm những vườn hoa, những rìa
hè, những đầu đường Hà Nội, đem lại chút giải trí cho những kẻ nghèo”[66, tr.
37]. Hơn nữa, trong không khí đấu tranh của dân tộc, những con người từng là
lưu manh như Long đen cũng nhận được sự cảm mến của Loan, một học sinh Hà
Nội “Loan cảm động nhìn mọi người đang đứng sát lại. Những thân hình còn
mảnh dẻ tương phản với những cái vóc nặng nề, cục mịch, những đầu bóng mượt
với những mớ tóc bù rối. Những thư sinh mặt trắng mới từ bỏ mái trường họp
với những người phu, người thợ chỉ có hai bàn tay trắng, những người mà ngày
thường không ai gọi là người Thủ đô, nhưng đến lúc này lại bám lấy Thủ đô hơn
cả mọi người. Ngay cả đối với Long đen, Loan cũng thấy có cái gì đáng mến”[66,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
tr. 96]. Bởi đây là lúc lương tâm của một con người đang được thức dậy “phải
có một lòng yêu chân thành mới làm cho những đống tro ấy cháy lại. Sự lạnh lẽo
của tình cảm không bao giờ cứu vớt được một con người”[66, tr. 102]. Long đen
không những nhận được sự cảm mến của Loan mà có lẽ với Trần Văn anh cũng
được nhìn nhận là một con người thực sự “Trần Văn nhìn trong đám lưu manh
không có Long đen. Anh thở dài, mừng thầm cho hắn và ân hận như đã để lỡ một
dịp cứu vớt một con người khốn nạn”[66, tr. 222].
Chiến tranh đến, khắp bốn bề những tiếng đục tường thông nhà nọ sang
nhà kia nổi lên bí mật, như đứt hơi, như giận dữ. Những cái lỗ ấy đã khiến cho
người dân Hà Nội như sát lại gần nhau hơn, thêm yêu thương nhau hơn, họ cùng
nhau đào đường, chặt cây, đắp ụ, làm chướng ngại vật…và họ biết sẻ chia những
khó khăn với nhau “Ông Ngọ tự vệ phố Hàng Khoai, một người thợ mộc đã đứng
tuổi, từ trong phố ra, tay phải giữ lấy hai tấm phản trên vai, đầu ngoẹo vào để
giữ riết lấy cái vật nặng. Ông chạy bành bạch đến đầu phố, trước cái hố dài đã
đào ngang đường. Ông số 6 lần lượt đỡ hai tấm phản xuống, bắc lên miệng hố
như hai cái cầu. Ông Ngọ bảo hai bác phu xe bò: “được rồi đấy, cho xe sang
đi””[66, tr. 136]. Những người do điều kiện sống cũ vốn thường ít quan tâm đến
nhau thì hôm nay họ sát cánh bên nhau với tình cảm thiêng liêng của người dân
Hà Nội kháng chiến. Nguyễn Huy Tưởng đã lắng nghe thấy ở bên trong cái âm
thanh của tiếng búa, tiếng đục tường những gì đang bị phá vỡ và cũng có những
cái đang hồi sinh “Rì rầm những tiếng nói tiếng cười. Những bức tường ngăn
cách mọi nhà đang được mở ra, đầu phố nọ đang sát lại đầu phố kia, những con
người không biết nhau, thành kiến với nhau, khinh ghét lẫn nhau, lừa lọc lẫn
nhau đang gần lại”[66, tr.108].
Ai ai trong số những nhân vật của Nguyễn Huy Tưởng đều được thể hiện
là những con người có nhân cách cao đẹp. Nhưng có lẽ, nhân vật được tập trung
nhiều nhất là Trần Văn qua cách anh nhìn nhận về những con người như Long
đen, Tu, Sờn…và đặc biệt là tình nghĩa mà anh dành cho Trinh. Khi gặp Trinh ở
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
nhà ga, sau câu hỏi không mấy vui vẻ của mẹ Trinh, Trần Văn cau mặt và anh
buồn cho Trinh “Cái mã ngoài sang trọng, thượng lưu thật ra chỉ để giấu một
đời sống nghèo nàn, một tâm hồn đớn hèn”[66, tr. 12]. Anh buồn vì “Hồi yêu
Trinh, anh tưởng Trinh thông minh, có ngờ đâu Trinh lại thảm đến như thế
này”[66, tr. 12]. Đến khi, trong lúc anh chuẩn bị bố trí cái ổ tác chiến mới của
anh, thì ô-tô của Trinh và Bao phóng qua và lúc ấy anh cau mặt, bực mình vì cái
nhởn nhơ của họ. Nhưng giờ đây anh có chút hối hận, sao anh có thể giận Trinh
bởi “Anh cảm thấy mình đã quá khắt khe với người, với việc. Có những phút con
người lắng xuống, tự thấy mình có những khinh ghét vu vơ, và lúc ấy người ta
trở nên độ lượng, tha thứ cho cả những cái chẳng hay ho gì cho lắm” và rồi “anh
thấy người lâng lâng, lòng không bợn chút hờn oán đối với một người đàn bà
yếu đuối”[66, tr. 219]. Với Trần Văn những chuyện xưa kia giữa anh và Trinh
chỉ còn là quá khứ, anh không giận Trinh vì điều gì. Mọi hành động, cử chỉ và
thái độ của anh với Trinh và con bé Diễm lúc này, và đặc biệt là sau khi Bao -
người chồng Trinh chết càng cho người đọc thấy ở anh một tấm lòng bao dung,
vị tha “Trần Văn ẵm con Diễm đi sau Trinh”, “Trần Văn cuộn lại cái chăn ủ
con bé mà anh đã làm tung ra”[66, tr. 301]. Anh thật thà giúp đỡ Trinh, nhưng
anh lại không muốn có bất cứ một sự hiểu lầm nào. Với anh bây giờ “Trinh chỉ
là một người cơ nhỡ, một nạn nhân của chiến tranh. Nhìn Trinh nhỏ bé trong
bóng tối, lảo đảo vì mệt mỏi, khuỵu luôn, trật giày luôn, anh thấy ngậm ngùi
thương hại”[66, tr. 302].
Trong tiểu thuyết, để khắc sâu những nhân cách cao đẹp của nhân vật,
Nguyễn Huy Tưởng đã không ít lần nhắc đến sự hi sinh. Đó là tấm lòng hi sinh
của một người mẹ, dù biết những gì đứa con đang làm là nguy hiểm nhưng bà
vẫn cứ để con làm. Tấm lòng đó khiến Trần Văn càng thương mẹ, và trong cái
thương đó có lẫn nhiều cảm phục vì “Anh biết trong thâm tâm, bà cụ muốn anh
cùng về quê. Chẳng có người mẹ nào muốn cho con chịu những thảm hoạ của
chiến tranh. Nhưng bà cụ không ngăn anh vào tự vệ, và khi anh nói phải ở lại
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
chống giữ Thủ đô, mẹ chỉ dặn: “cẩn thận đấy, chú ạ. Nhờ giời, Cụ Hồ điều đình
được không phải đánh nhau thì là phúc nhất””[66, tr. 8]. Đó cũng là sự hi sinh
của một bà mẹ dành cho tám đứa con “Việc bà cụ bán ruộng để mua súng cho
Nhật Tân” làm cho Dân cảm động. Nhưng hơn hết phải nói đến sự hi sinh của
ông Lộc, ông là một người cha không những có tinh thần chiến đấu anh dũng,
quả cảm, mà còn là một người cha yêu thương con hết mực. Chẳng cần nói ra,
những cử chỉ của ông cũng đủ cho thấy tình cảm cha con của họ đẹp như thế nào
“Ông quăng xe đạp xuống đường, rồi đứng trước mặt con, hai tay kéo Oanh lại
gần, ngửa mặt Oanh lên, mỉm cười nhìn con, và ghì má con vào má mình”[66,
tr. 266]. Trước khi chết, ông nói “Nếu tôi chết thì cũng đã làm tròn nhiệm vụ của
tôi đối với phố của chúng ta. Anh đi đi. Để tôi nằm ở đây. Anh có gặp con Oanh
nhà tôi thì với nó là tôi đã đánh xe tăng, như tôi đã hứa với nó”[66, tr. 337]. Ông
ngã xuống giữa con đường của kháng chiến nhưng vẫn không quên nhờ Thu
Phong trao lại cho Oanh khẩu súng lục. Khẩu súng này, dường như là ước nguyện
cuối cùng của ông, ông muốn con gái ông tiếp tục công việc kháng chiến bảo vệ
Thủ đô, tham gia vào cách mạng với tinh thần kiên cường như ông. Lúc này, cái
tình của một người cha, cái nghĩa vụ của một người công dân yêu nước được ông
Lộc gửi gắm vào khẩu súng ấy.
Sự hi sinh cao cả cho Thủ đô, cho đất nước không phải chỉ có ở mẹ Trần
Văn, mẹ Nhật Tân hay ông Lộc. Mà nó có ở mọi người dân của Thủ đô, họ hi
sinh nhà cửa, vườn tược, cấy cối, đồ dùng sinh hoạt…tất cả đều nhằm mục đích
phục vụ kháng chiến. Những việc làm ấy cũng rất xứng đáng để chúng ta ngợi
ca.
Tóm lại, Nguyễn Huy Tưởng đã chủ động điều khiển khối lượng mấy chục
nhân vật hoạt động trong một trình tự khá chặt chẽ, người viết không dàn đều mà
đã chọn lọc để làm nổi bật lên những tính cách chủ đạo. Qua tiểu thuyết ta thấy
tác giả đã phác hoạ được nhiều thái độ khác nhau, nhiều số phận khác nhau của
con người trong một cơn rung chuyển lớn lao của lịch sử. Một cách đặt vấn đề
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
như thế, đối với các sáng tác trước cách mạng của ông, là hoàn toàn mới lạ, chưa
thể có được, hoặc có chăng cũng chỉ thoảng qua. Cùng viết về chiến tranh của
Hà Nội, Sống mãi với Thủ đô giàu chất hiện thực hơn Những người ở lại. Sống
mãi với Thủ đô không lấy cuộc kháng chiến của Hà Nội làm đường viền cho một
tấm kịch nhỏ gia đình như trường hợp Những người ở lại mà đi vào phản ánh
trực diện cuộc chiến đấu của quân và dân Hà Nội, một cuộc chiến đấu sinh tử mà
“mỗi phố là một trận địa, mỗi nhà là một pháo đài”, mọi người đều quyết tâm
“thề sống chết với Thủ đô”.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Tiểu kết chương 2
Dấu ấn văn hoá Hà Nội được thể hiện khá sâu sắc qua từng trang viết của
Nguyễn Huy Tưởng. Với sự am hiểu tường tận và vốn kiến thức phong phú,
Nguyễn Huy Tưởng đã miêu tả bức tranh thiên nhiên mang dấu ấn đặc trưng của
văn hoá Việt Nam, tác giả cho người đọc thấy được những đặc trưng cơ bản của
thiên nhiên, thời tiết khi vào đông, nhất là vào những ngày cuối năm trong không
khí ảm đạm của chiến tranh. Đồng thời bức tranh về đời sống văn hoá-xã hội của
người Hà Nội cũng được hiện lên vô cùng sinh động, và đầy ấn tượng. Nhưng
thành công hơn cả có lẽ là sự phản ánh, khắc hoạ vẻ đẹp của con người Hà Nội.
Con người Hà Nội dưới ngòi bút của Nguyễn Huy Tưởng vừa mang nét đẹp của
văn hoá truyền thống, vừa mang tính hiện đại. Điều đó thể hiện ở những nét tính
cách tiêu biểu như: con người Hà Nội hào hoa, thanh lịch; Con người Hà Nội với
bản lĩnh và nhân cách cao đẹp. Như vậy, đến với Nguyễn Huy Tưởng và tiểu
thuyết Sống mãi với Thủ đô chúng ta được trang bị thêm cho mình những kiến
thức về văn hoá Hà Nội nói riêng và văn hoá Việt Nam nói chung. Qua đó, chúng
ta cần phải biết trân trọng, giữ gìn và phát huy những nét đẹp văn hoá của dân
tộc. Phải làm sao để những nét đẹp đó ngày một phát triển và hội nhập với văn
hoá thế giới.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Chương 3
MỘT SỐ PHƯƠNG THỨC THỂ HIỆN DẤU ẤN VĂN HOÁ HÀ NỘI
TRONG TIỂU THUYẾT “SỐNG MÃI VỚI THỦ ĐÔ”
CỦA NGUYỄN HUY TƯỞNG
3.1. Nghệ thuật xây dựng nhân vật
Nhà văn Tô Hoài cho rằng “ Nhân vật là nơi duy nhất tập trung hết thảy,
giải quyết hết thảy trong một sáng tác”. Như vậy, trong một tác phẩm văn học,
nhất là đối với thể loại truyện, nhân vật có vai trò vô cùng quan trọng. Nhân vật
có chức năng khái quát tính cách, hiện thực cuộc sống và thể hiện quan niệm của
nhà văn về cuộc đời. Là sự biểu hiện khả năng chiếm lĩnh thế giới nghệ thuật
cùng với tư tưởng nghệ thuật, lý tưởng thẩm mỹ của nhà văn về con người. Hơn
nữa, nhân vật không chỉ là nơi bộc lộ tư tưởng, chủ đề tác phẩm, mà còn là nơi
tập trung các giá trị nghệ thuật của tác phẩm. Ý thức được tầm quan trọng của
nhân vật nên mỗi nhà văn đều tập trung xây dựng cho tác phẩm của mình một hệ
thống nhân vật mà qua đó có thể bộc lộ một cách hiệu quả nhất ý đồ tư tưởng
của nhà văn. Khi tìm hiểu tiểu thuyết Sống mãi với Thủ đô của Nguyễn Huy
Tưởng, chúng tôi quan tâm tìm hiểu đến nghệ thuật xây dựng nhân vật của tác
giả để từ đó thấy được những dấu ấn văn hoá có trong từng bút pháp nghệ thuật.
3.1.1. Nghệ thuật miêu tả ngoại hình nhân vật
Dân gian ta có câu tục ngữ: “Trông mặt mà bắt hình dong”. Con người
khi tiếp xúc với nhau thì điều đầu tiên mà ai ai cũng để ý trước nhất có lẽ là ngoại
hình. Quả thật như vậy, ngoại hình ít nhiều có ảnh hưởng tới tính cách của con
người. Từ đó khi đi vào một tác phẩm văn học, điều mà tác giả hướng tới đầu
tiên hẳn sẽ là ngoại hình của nhân vật. Đây là một thủ pháp quen thuộc trong
sáng tạo nghệ thuật của nhà văn. Qua đó tác giả gửi gắm nội dung tư tưởng của
tác phẩm. Cũng giống như các nhà văn khác, Nguyễn Huy Tưởng cũng tập trung
đi sâu miêu tả nhân vật của mình với những đặc điểm về hình dáng, trang phục,
nét mặt…và tất cả những yếu tố đó đều ghi dấu đặc trưng của văn hoá Hà Nội.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Đầu tiên, chúng ta hãy cùng đi khám phá xem Nguyễn Huy Tưởng đã khắc
hoạ ngoại hình nhân vật của mình qua trang phục. Cách ăn mặc của con người
được xem là một trong những yếu tố để làm nên vẻ đẹp của họ, đó là vẻ đẹp về
ngoại hình và cũng sẽ phần nào tác động đến tính cách, lối sống của con người.
Trong tiểu thuyết Sống mãi với Thủ đô với số lượng nhân vật khá nhiều nhưng
nhà văn Nguyễn Huy Tưởng không vì thế mà sao nhãng làm mờ nhạt đi những
hình tượng nghệ thuật của mình. Nhà văn vẫn khéo léo miêu tả cụ thể từng nhân
vật, mỗi nhân vật lại được tác giả khắc hoạ theo một cách riêng. Nhưng điểm
chung của các nhân vật đó là dù có ăn mặc theo lối truyền thống hay cách tân
theo xu hướng hiện đại thì trang phục của họ cũng là một dấu ấn văn hoá đặc
biệt.
“Ăn Bắc, mặc Kinh” - câu ngạn ngữ chỉ nét đẹp trong trang phục của người
kinh đô Thăng Long với dấu ấn Hà Thành cổ kính và thanh lịch. Đến với tiểu
thuyết Sống mãi với Thủ đô ta thấy tác giả đã làm “sống lại” trước mắt độc giả
bóng dáng văn hoá Hà Nội qua cách ăn mặc theo lối truyền thống của một số
nhân vật. Theo lối truyền thống ấy, cho thấy người Hà Nội xưa ưa sự gọn gàng,
kín đáo, nề nếp. Vẫn biết trong khói lửa của chiến tranh, sẽ chẳng có ai muốn
nghĩ đến chuyện ăn mặc, chuyện làm đẹp cho mình, nhưng với “một chiếc áo
len dài màu đen, mặt thoa phấn nhẹ, đầu quàng một cái khăn mỏng màu hoa
cà”[66, tr. 11], thì cái vẻ đẹp và cái sang trọng của Trinh vẫn nổi bật lên giữa
đám người tản cư sẩm tối. Trinh là loại phụ nữ “biết mình có cái dáng người làm
tôn y phục”[66, tr. 11], hơn nữa Trinh có vẻ đẹp dịu dàng được Bao cho là rất
phương Đông. Chính vì thế mà Trinh “toát ra một thứ lịch sự tự nhiên khiến mọi
người chú ý”[66, tr.11].
Hay tiếp đến là Nhân, một người có cách ăn mặc theo lối phụ nữ ngoại
thành. Đó là “khăn vuông đen quặt đằng sau, áo dài phin nâu mỏng hở cổ để lộ
cái áo cánh trắng và áo len đan màu xanh. Hai ống tay chét lại, tất cả y phục
đều lẳn vào người”[66, tr. 32]. Trang phục của Nhân và Trinh nhìn nhận kĩ ta sẽ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
thấy điểm chung, đó là sự kết hợp hài hoà của những màu sắc nhẹ nhàng, đơn
giản. Người phụ nữa xưa thường chuộng những màu như đen, nâu, trắng, xanh
hay tím...Đây là những màu sắc tạo nên vẻ đẹp dịu dàng, duyên dáng cho người
phụ nữ, và đặc biệt, ngoài cái quần, cái áo thì những người phụ nữ ấy bao giờ
cũng có một chiếc khăn vuông đội đầu. Điều này được tác giả tiếp tục thể hiện
qua nhân vật Hiền, con một nhà buôn cau lớn, trang phục của Hiền có phần tươi
tắn hơn nhưng vẫn mang cái gì đó của văn hoá truyền thống “Chị mặc chiếc áo
nhung đỏ, quần xa-tanh là, chân đi hài con bướm vàng rung rinh. Đầu Hiền vấn
một chiếc khăn nhung lam, cổ đeo kiềng vàng trơn”[66, tr. 69]. Và tân tiến hơn
một chút là Oanh với “áo len xanh đan thưa để lộ một cách đỏm dáng cái cổ áo
lụa thêu”[66, tr. 186]. Sự nhẹ nhàng, kín đáo, không loè loẹt, phô trương trong
trang phục của những nhân vật trên khiến họ hiện lên thật đẹp trong mắt người
đọc.
Theo thời gian, năm tháng, trước sự thay đổi của cuộc sống, trong sự hội
nhập của đất nước thì cách ăn mặc của người Hà Thành cũng có những đổi thay.
Những con người Hà Nội bây giờ có phần tân tiến hơn, họ biết làm đẹp, biết cách
tân trang phục của mình cho phù hợp với xu hướng của xã hội, nhưng sự thay
đổi đó không làm mất đi nét đẹp truyền thống của dân tộc. Có nghĩa là trong
trang phục của họ có sự kết hợp hài hoà giữa truyền thống và hiện đại. Trong
tiểu thuyết của mình, Nguyễn Huy Tưởng đã khoác lên cho nhân vật của mình
những bộ trang phục Âu hoá như Văn Việt, nguyên là một thầy kí máy đèn. Văn
Việt được miêu tả “Vẫn cái bờ-lu-dông tím, vẫn cái bao súng lục bóng đeo bên
hông, vẫn đôi giày da đen có ghệt nhỏ túm lấy cái quần dạ màu nâu sẫm”[66, tr.
224] đã cho người đọc thấy được cái vẻ hiên ngang nho nhã của người thanh niên
uỷ viên quân sự. Cùng với đó là Phúc, một thanh niên nhỏ nhắn và gầy, dáng vẻ
mang kiểu cách của con nhà giàu “Anh mặc một cái áo bờ-lu-dông cũ, cái phu-
la-len xanh dọc vàng vắt trễ tràng nửa trước ngực nửa sau lưng để lộ cái cổ
trắng nõn của một con nhà giàu. Anh không đi bít tất. Quần dạ xắn lên. Đôi giầy
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
da của anh phủ đầy vôi cát”[66, tr. 128]. Hay Tân, cũng một thiếu gia con nhà
giàu nên trang phục của anh cũng mang sự cách tân hiện đại “Tân trạc ngoài hai
mươi tuổi, trễ tràng trong bộ quần áo xanh trả, sơ-mi không đeo cờ-ra-vát”[66,
tr. 60]. Và nhạc sĩ Thu Phong, cái nghề nghiệp của anh đã có ảnh hưởng đến kiểu
cách ăn mặc của người nghệ sĩ, trong bữa tiệc cuối ngày trước giờ kháng chiến,
Thu Phong “mặc một bộ quần áo màu xám sắt, kiểu cài cúc giữa, gi-lê phờ-la-
nen trắng, có dây đồng hồ vàng vắt qua hai túi dưới”[66, tr. 247].
Ngược lại với trang phục thể hiện vẻ đẹp sang trọng của những “nam thanh
nữ tú” như Phúc, Văn Việt, Trinh, Hiền hay Tân. Lại là sự giản dị có phần nhơ
nhếch tuềnh toàng của Tu, trong cái giá lạnh của mùa đông, vậy mà “anh chỉ
phong phanh một bộ quần áo nâu, cổ quàng một cái khăn mặt bông còn mới”[66,
tr. 93], rồi cả Sinh nữa “cái mũ cát-két, bộ quần áo vải tím của anh ta lấm tấm
vôi cát, đôi giày da thuộc trắng xoá như bị vùi bột”[66, tr. 131]. Với vẻ bề ngoài
kém phần sang trọng nhưng họ lại có nét dễ mến của những con người chân chất,
thật thà.
Miêu tả người Hà Nội tác giả Nguyễn Huy Tưởng không chỉ miêu tả những
đối tượng là nam nữ thanh niên mà những đứa trẻ như Thắng và Lai cũng được
nhà văn quan tâm, khắc hoạ một cách thật sinh động. Trước hết là qua những bộ
quần áo mà chúng mặc trên người. Với Thắng, tác giả miêu tả “Chú bé cắp một
cái cặp da cũ đựng đầy những báo Cứu quốc, Dân Thanh, Dân mới. Nó đội một
cái mũ dạ tàng, mặc một áo dạ tây con đã vá ở hai khuỷu tay, quần đùi ka-ki
vàng rộng thùng thình, thắt lưng da giấu một quả lựu đạn”[66, tr. 33]. Còn Lai
“mặc một cái quần cộc, một cái áo sơ-mi người lớn bằng ka-ki vàng, lùng bùng
sau cái áo sợi đan màu đỏ kệch”[66, tr. 93]. Đó là những đứa trẻ lam lũ, vất vả,
đói khát từ miếng ăn đến tấm áo. Đáng thương hơn là chúng phải hứng chịu
chứng kiến cảnh ngột ngạt của chiến tranh. Ấy thế mà ở chúng vẫn toát lên vẻ
hồn nhiên, tinh nghịch của một đứa trẻ. Nhưng điểm sáng nhất của chúng khiến
người đọc ấn tượng là tinh thần chiến đấu không sợ gian khổ của những đứa trẻ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
đáng lẽ ra phải được chăm lo đầy đủ, được đến trường. Chính tinh thần quả cảm
ấy đã làm nên vẻ đẹp của con người Thủ đô. Tinh thần sống chết với Thủ đô đã
được lan toả ở mọi tầng lớp, mọi giai cấp trong xã hội.
Tuy nhiên, với Nguyễn Huy Tưởng, đời sống văn hoá thời đại không chỉ
được thể hiện trong trang phục mà nó còn được thể hiện qua việc nhà văn miêu
tả dáng người, nét mặt của các nhân vật. Số lượng nhân vật nhiều nhưng tác giả
luôn biết nắm bắt những nét tiêu biểu và đặc sắc nhất để chỉ bằng vài nét chấm
phá đã lột tả được tính cách của nhân vật.
Đúng vậy, bằng cái tài của một người nghệ sĩ luôn gắn bó mình với từng
trang văn, Nguyễn Huy Tưởng đã dựng lên những bức chân dung vô cùng phong
phú và đa dạng. Vẻ đẹp của từng nhân vật được hiện lên với những hình dáng
khác nhau như cái dáng “dong dỏng cao. Cái đầu húi cua theo lối bàn chải, trông
có vẻ gọn gàng, nhanh nhẹn”[66, tr. 22] của Trần Văn được tác giả miêu tả tương
phản với “đôi mắt lờ đờ của một người mơ mộng nhiều hơn thực tế, tình cảm
nhiều hơn lý trí”[66, tr. 22]. Trái với dáng người cao, gầy của Trần Văn là cái
thân hình “vai rộng, người lớn. Một pho tượng lực sĩ nước da đen hồng, khuôn
mặt trái xoan, lưỡng quyền hơi cao, đường nét gẫy gọn, không bị thịt mỡ làm
cho thô và nặng. Toàn thể toát ra một con người khoẻ mạnh, thật thà giản dị,
điểm đôi chút phớt lờ”[66, tr. 36] của chàng thanh niên tên Dân. Và cả Tu nữa,
anh được miêu tả với “hai vai rộng và chắc nịch như lực điền, da mặt dày lên vì
sự vất vả và tính thật thà”[66, tr. 90]. Còn Mộng Xuân, anh kép cải lương, lại là
một con người với cái thân hình “ẻo lả, mặt trắng bệch, tóc mai dài, ăn mặc chải
chuốt một cách lẳng lơ”[66, tr. 90], chỉ với vài nét vẽ mà Nguyễn Huy Tưởng
không chỉ làm nổi bật lên hình tượng nhân vật của mình mà ông còn gọi lên được
cho người đọc thấy cách ăn mặc đặc trưng của những anh kép. Đến Sinh, nhà
văn lại miêu tả “người cao cao, xương xương, nước da ngăm ngăm đen mắt một
mí, không nhỏ lắm ẩn dưới bộ lông mày rậm”[66, tr. 131]. Nhưng với Tân, một
thiếu gia con nhà giàu được hiện lên là “một thanh niên tầm thước, lẻo khoẻo,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
để tóc mai dài, bộ ria nhỏ như một nét bút chì kẻ nhỏ”[66, tr. 234]. Văn Việt thì
“dáng người tầm thước, nho nhã, kiểu cách, gọn ghẽ trong chiếc bờ-lu-
dông”[66, tr. 74].
Đó là những chàng thanh niên của Thủ đô, Nguyễn Huy Tưởng thật khéo
khi miêu tả những con người này. Mỗi người một vẻ, qua cái dáng hình người
thì gầy gò, mảnh dẻ, người thì to cao lực lưỡng…người đọc nhận thấy được tính
cách cũng như lối sống của từng người. Bên cạnh những chàng trai đó là bóng
hình của những người phụ nữ. Vẫn là bút pháp miêu tả tỉ mỉ, chi tiết, các chị em
phụ nữ hiện lên thật duyên dáng và đáng mến. Quyên, với tính cách nhí nhảnh
của tuổi học sinh, cô được khắc hoạ với vẻ “mũm mĩm, không đẹp nhưng tươi vì
cái miệng nhỏ có duyên, răng nhỏ và đều tăm tắp”[66, tr. 20]. Còn hai chị em
Hương và Lan, tuy là chị em một nhà nhưng qua cách miêu tả của nhà văn thì có
lẽ không ai nghĩ rằng họ là chị em ruột, bởi họ không giống nhau ở một nét nào.
Hương “mặt bừng như hơ lửa, đôi mắt bồ câu lấp loáng cái sáng hồn nhiên của
tuổi thơ và cái e thẹn của tuổi dậy thì. Tóc loà xoà trên hai vai mảnh khảnh,
khuôn lấy cái mặt trái xoan hơi gầy, nhưng cái gầy ấy chỉ làm sắc sảo thêm, gãy
gọn thêm những đường nét trong sáng sinh động dưới làn da tươi mát như nhung.
Chân tay chưa nảy nở hết còn lọng khọng, vụng về, luôn luôn cử động. Hương
như con chim nhỏ bỡ ngỡ trước cuộc đời lúc nào cũng như giật mình muốn vỗ
cánh bay. Khác với Hương, Lan tuy mới ngoài hai mươi, đã có cái dáng nặng nề
xộc xệch của một người đứng bóng. Nước da trắng, mai mái, xoa phấn nhẹ,
không còn cái nhuỵ ánh lên của những người đương độ. Đôi mắt nhỏ buồn buồn,
mặt vô vị và không chuyển động như Phật, phản ánh một cuộc sống cấm cung,
cách biệt với cuộc đời, khép nép và giả dối, âm thầm và lạnh lẽo. Đôi vú lép, do
bà giáo bắt phải ép dẹp xuống, làm cho thân hình Lan thẳng tuột cứng đờ. Những
nốt trứng cá mọc dày trên hai má bì bì, càng tăng cái vẻ vô duyên, đồng thời
cũng để lộ ra, ngoài ý muốn của Lan, một đời sống quạnh hiu đầy khát khao và
thèm muốn”[66, tr. 128-129].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Nhìn chung, dù miêu tả nam hay nữ, người lớn hay trẻ nhỏ, thì Nguyễn
Huy Tưởng cũng dành cho họ những nét bút chân thực nhất, giàu tình cảm nhất,
và để lại trong lòng người đọc những ấn tượng sâu sắc nhất. Miêu tả nhân vật
qua vẻ đẹp ngoại hình, nhà văn đã làm nổi bật lên tính cách và lối sống của từng
người. Nhưng hơn hết là tác giả đã thể hiện thật sâu sắc những nét đẹp văn hoá
của dân tộc. Những nét đẹp ấy không phải chỉ có ở con người Hà Nội mà nó còn
có ở toàn thể nhân dân Việt Nam ta.
3.1.2. Nghệ thuật miêu tả cử chỉ, hành động nhân vật
Như trên chúng ta đã nói, nghệ thuật miêu tả ngoài hình nhân vật trong
các tác phẩm văn học là một trong những yếu tố làm nên sự thành bại của một
nhà văn. Thì nay chúng ta cũng cần khẳng định thêm, nhân vật không phải chỉ
được khai thác, khám phá qua vẻ bề ngoài, mà trong suốt quá trình tạo dựng lên
một tác phẩm nghệ thuật, người nghệ sĩ cũng rất chú ý xây dựng lên những cử
chỉ và hành động cho nhân vật. Bổ sung thêm các yếu tố để nhân vật được hoàn
thiện hơn, từ đó cũng giúp nhân vật bộc lộ được tính cách của mình rõ nét hơn.
Chính vì vậy, trong tiểu thuyết Sống mãi với Thủ đô tác giả Nguyễn Huy Tưởng
cũng đã chú ý miêu tả cử chỉ, hành động nhân vật. Và điều đáng chú ý là hầu như
những cử chỉ và hành động đó đều hướng về một cái đích đó là bảo vệ Thủ đô
với tinh thần và ý chí quật cường
Trong tác phẩm, cử chỉ và hành động của nhân vật được gợi lên đã cho
người đọc thấy con người Việt Nam nói chung và quân dân Thủ đô lúc bấy giờ
nói riêng rất thương yêu, đùm bọc, che chở cho nhau và đều một lòng cùng nhau
hướng đến tinh thần quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh. Đó là sự miệt mài, say mê
với công việc của Loan. Là một học sinh tỉnh lẻ nhưng ngay lúc này, Loan như
một người con thực sự của Hà Nội, anh vui mừng khi được tham gia vào kháng
chiến, anh sẵn sàng nhận nhiệm vụ và làm việc không biết mệt mỏi, say mê đến
mức khi thấy tất cả mọi người cũng đang chuẩn bị xông vào cuộc chiến đấu sống
chết như anh thì “Loan thấy yên tâm hơn trong cái việc vẽ bản đồ mà mới đầu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
anh còn cưỡng lại”[66, tr. 97] và rồi “Anh cắm cúi vẽ tay run run vì rét và vì sự
quan trọng của công việc. Nhưng rồi mắt anh cay xè, hoa lên. Bàn tay cóng dừng
lại. Loan thiu thiu buồn ngủ”[66, tr. 98]. Đến một người tỉnh lẻ còn hăng hái như
vậy, nói gì đến những người con của Thủ đô. Cùng với sự hăng say của Loan là
sự dứt khoát từ bỏ lối sống khuôn khổ có phần cổ hủ của gia đình để tham gia
kháng chiến của Phúc. Phúc đến với cuộc chiến đấu này trên tinh thần tự nguyện,
và không phải đến khi chiến tranh xảy ra anh mới cho mọi người thấy cái tinh
thần đó, mà trước đó anh đã chống lại gia đình để tham gia vào các hoạt động xã
hội với công tác tuyên truyền. Và đến khi kháng chiến bùng nổ, anh đã “tự tiện
đến nhà Quảng Xương Long, bắt người gác phải mở cửa, và cùng một số đồng
chí tự vệ xông vào kho. Người gác giữ lại thì Phúc chửi mắng thậm tệ”[66, tr.
110] và Phúc đứng ở ngoài vỉa hè hò hét giục mọi người, tiếng Phúc oang oang
“Cần bao nhiêu cứ lấy. Càng nhiều càng tốt. Ông cụ đã muốn keo bẩn thì cho
keo bẩn một thể”[66, tr. 110]. Hành động này của Phúc thật đáng ngợi ca, cho
thấy anh không bị phụ thuộc, chịu sự kiểm soát của ai, anh hoàn toàn tự do trong
mọi hành động. Dưới Phúc là hai cô em Hương và Lan, họ đều là những cô nàng
tiểu thư, tuổi thanh xuân của họ chỉ là bốn bức tường bởi sự hà khắc của bà cô,
ấy thế mà họ cũng đã đứng dậy bật tung bức tường gia giáo ấy để đến với cách
mạng theo sự chỉ đạo dìu dắt của anh trai. Tham gia chiến đấu, có thể họ không
giỏi đào đường, chặt cây, đắp ụ, có thể họ không biết cầm súng, cầm gươm, sử
dụng xe tăng đại bác như những chàng thanh niên, những anh bộ đội cụ Hồ,
nhưng họ lại rất tích cực và nhiệt tình phục vụ anh em đội tự vệ và bộ đội “Người
hút thuốc lá người ăn xôi chè. Sinh lẳng lặng rút đi. Lan, Hương và mấy bà thay
nhau rót nước. Từ lúc Phúc về, Lan đã đỡ sợ, và bây giờ đã nhanh nhẹn ra. Anh
em vừa ăn vừa khen xôi vò và chè sen của chị.”[66, tr. 319].
Tiếp đến là Nhật Tân, trong công cuộc kháng chiến anh cũng luôn thể hiện
tinh thần chiến đấu yêu nước ghét giặc của mình. Anh làm công tác tuyên truyền,
vận động mọi người tham gia cùng nhau sống chết với Thủ đô. Anh cố gắng làm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
mọi cách để thúc giục Tân, bạn thân của anh vào tự vệ nhưng mọi nỗ lực của anh
đã không được kẻ nửa vời của thời cuộc đáp lại.Và không vì thế mà anh xao lãng
công việc, ý chí suy giảm, anh càng hăng hái hơn và tinh thần ấy được bộc lộ rất
rõ khi anh chứng kiến cảnh ông Ngọ bị thằng Tây giết hại lúc đó “Nhật Tân đã
nhảy ra đường, dẻo dang như một anh hùng trong phim ảnh…anh nghiến răng,
chĩa súng bắn thẳng vào ngực nó. Anh từ từ đút súng vào túi. Nhìn thằng Tây
giãy giụa, cái mồm lút dưới mớ râu xồm đen ngáp ngáp, anh mỉm cười khinh bỉ,
lấy giày hất cái xác sang một bên và lững thững đi về phía Đồng Xuân.”[66, tr.
141]. Và còn cả Thu Phong và Vũ Minh nữa, họ là những người hoàn toàn xa lạ
với nhau và mới chỉ biết đến nhau qua bữa tiệc ở nhà Tân. Thì nay trong đêm
đầu của cuộc kháng chiến, họ lại vô tình gặp lại nhau, một sự gặp lại kì lạ, họ
“ôm chầm lấy nhau, thân thiết như đôi bạn lâu đời”[66, tr. 335]. Trong cái bóng
tối ngột ngạt mùi súng đạn, mùi của xác người, vào cái thời điểm phải đối diện
với cái chết khi mà quân giặc đang tấn công vào Thủ đô, hai chàng thanh niên ấy
đã nói với nhau “hay là tự tử” vì “đằng nào cũng chết. Để nó bắt được thì nhục,
mà tra tấn thì khó lòng chịu ðýợc”[66, tr. 339]. Với suy nghĩ như vậy cho thấy,
những con người yêu nước ấy đã “thề sống chết với Thủ đô, nay nguyện cùng
chết để khỏi sa vào tay giặc”[66, tr. 340]. Ấm lòng biết mấy khi dân tộc ta có
những con người như vậy, thà “chết trong còn hơn sống nhục”. Hay chỉ một hành
động nhỏ của ông Lộc là đưa súng cho Oanh, con gái ông, cũng đã cho thấy nó
đẹp như thế nào, nó đẹp bởi nó đã thể hiện được ý chí quyết tâm chiến đấu của
ông Lộc, và ông muốn Oanh có tinh thần như ông.
Miêu tả sự say mê, hăng hái với công việc kháng chiến, nhà văn Nguyễn
Huy Tưởng không chỉ miêu tả những nam nữ thanh niên khoẻ mạnh mà ông còn
đưa ngòi bút của mình hướng tới những con người bình thường, có khi trong
cuộc sống bình thường, nếu không để ý thì rất nhiều người sẽ không biết đến sự
tồn tại của họ. Nhân vật mà chúng tôi muốn nói đến ở đây là Ông số 6, đó là một
con người mà trong cái đời “tứ cố vô thân” của ông -quê quán, bố mẹ, anh em,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
ngay cả tên tuổi của mình, ông đều không biết. ông nương thân ở những ngôi
đền, ngôi chùa. Công việc hàng ngày của ông là “vào phố quét tước các vỉa hè,
thu dọn những đống rác do các hàng rong bày ra đường” và đêm đến “ông đi
nhặt những xác chết trần truồng chỉ còn da bọc xương….Tờ mờ sáng, sau khi
những người đói còn sống sót toả đi các phố xin ăn, ông lại rửa ráy sạch sẽ
những chỗ vỉa hè họ vừa nằm vừa bậy ra hôi thối….Sau đấy ông trở về đền quét
dọn. Cái đền sạch sẽ đến nỗi ai vào lễ cũng thấy nhẹ lâng lâng”[66, tr. 142].
Những việc làm lặng thầm của ông đã góp phần không nhỏ cho cuộc kháng chiến.
Đó là một con người tầm thường, giản dị trong cuộc sống nhưng lại là một chiến
sĩ hi sinh thầm lặng cho cách mạng.
Hành động, cử chỉ của mỗi nhân vật trong tác phẩm đều thể hiện sự quyết
tâm chống trả đến cùng, quét sạch quân thù ra khỏi đất nước. Và đẹp biết bao khi
những hành động ấy lại mang thêm vẻ đẹp nhân văn sâu sắc. Đối diện với sự
sống chết ở mọi lúc mọi nơi, nhưng quân và dân Thủ đô vẫn luôn thể hiện tinh
thần yêu thương, đoàn kết, che chở cho nhau. Đó là khi Ông Ngọ và Ông số 6
bắc hai tấm phản gỗ thành cái cầu qua cái hố đào ngang đường để giúp hai bác
phu xe bò đi qua. Hay là khi Nhật Tân cùng anh em đội tự vệ giúp một cái xe bò
chở nước mắm đi qua con đường đang xẻ. Nhật Tân nói “Chúng ta là người Hà
Nội, chúng ta phải lịch sự anh em ạ. Tự vệ phải giúp đỡ nhân dân. Chúng ta đào
hố để ngăn giặc, nhưng không được làm phiền cho đồng bào” và “anh đứng lên
miệng hố, hoa chân múa tay, giục mọi người như chính anh là một cấp chỉ
huy….Anh hô mọi người xúm vào đẩy cái xe bò”[66, tr. 137]. Và đôi khi chỉ là
cái nắm tay giữa hai con người cũng khiến cho cái ảm đạm lạnh ngắt của chiến
tranh trở nên ấm áp lạ lùng. Cái nắm tay để truyền hơi ấm, truyền cho nhau sức
mạnh, niềm tin để chiến đấu. Đó là cái nắm tay thể hiện sự sẻ chia của Sinh dành
cho Phúc “Sinh chăm chú nghe Phúc, đến đây anh bỗng chìa tay nắm lấy tay
người bạn mới. Cái bàn tay đầy chai của anh như nuốt lấy cái bàn tay ẻo lả của
anh sinh viên. Đây là lần đầu tiên Sinh chìa tay ra với Phúc….Đôi bàn tay nắm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
chặt. Gió rét thổi vù vù. Sinh nói: “Không có những ngày như thế này, có lẽ
chúng ta chẳng bao giờ bắt tay nhau cả”. Một nụ cười nở trên môi làm sáng cái
mặt xương xương của anh thợ nguội”[66, tr. 165-166]. Nhưng đáng chú ý nhất
có lẽ là hành động, cử chỉ mà Trần Văn đối với Trinh. Con người ai cũng vậy,
cuộc sống đôi khi khiến cho con người ta lúc thế này, lúc thế khác. Ai cũng có
lúc vui, buồn, sướng, khổ. Bình thường còn vậy, nói chi gì đến chiến tranh, trong
tác phẩm Nguyễn Huy Tưởng đã khéo xây dựng tình huống khi đưa nhân vật
Trinh đến một hoàn cảnh vô cùng éo le, ác nghiệt khi cả chồng và người vú em
đều bị giặc giết chết để qua đó làm nổi bật lên tấm lòng vị tha bao dung của Trần
Văn khi anh luôn cố gắng giúp đỡ hai mẹ con Trinh “Sau khi biết chuyện vú em
chết, Trần Văn thấy mình không thể bỏ mặc Trinh ở đây được. Anh ẵm Diễm,
dẹp đường cho Trinh đi. Trong khi vội vã cũng không ý tứ nữa, anh nắm lấy bàn
tay Trinh, kéo Trinh lên trước mặt, để anh đi sau chặn dòng người”[66, tr. 439].
Chiến tranh luôn mang đến cho con người sự căng thẳng mệt mỏi, nhưng
với tinh thần thép, quân và dân Thủ đô vẫn luôn vững vàng, sẵn sàng để chiến đấu.
Trong quá trình bám trụ và bảo vệ Hà Nội, bên cạnh những giây phút tưởng chừng
chỉ cách “thần chết” trong gang tấc thì những nhân vật trong tiểu thuyết Sống mãi
với Thủ đô vẫn vang lên những tiếng cười sảng khoái trước hành động pha trò trêu
bé Thắng của Dân “Dân vẫn mặc bộ quần áo xanh công nhân, đội mũ ca-lô tím,
áo và mũ đầy bồ hóng, cánh tay phải cắp một viên đạn mooc-chi-ê nhưng chẳng
bợn đến thân hình cao lớn, vững chãi của anh. Anh há cái miệng rộng, cười một
cách thật thà. Bỗng anh làm bộ sợ hãi, chạy quanh gian phòng như để tránh đạn.
Anh nhặt viên đạn lên, lè lưỡi, rùng mình, khiến cho anh tiểu đội trưởng và Thắng
đều cười ầm lên”[66, tr. 351]. Tiếng cười trong chốc lát nhưng đã xoá đi sự lạnh
lẽo của mùa đông và chiến tranh. Nó dường như tiếp thêm sức mạnh cho quân và
dân ta trong công cuộc kháng chiến.
Từ việc miêu tả cử chỉ, hành động của từng nhân vật trong tác phẩm,
Nguyễn Huy Tưởng đã thầm ca ngợi những tấm gương “quyết tử cho Tổ quốc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
quyết sinh” của dân tộc Việt Nam. Những con người ấy đã làm đẹp truyền thống
văn hoá nước nhà. Họ xứng đáng được tôn vinh trong những trang sử hào hùng
của dân tộc ta.
3.1.3. Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật
Đối với một tác phẩm văn học, trong quá trình xây dựng những hình tượng
nghệ thuật, người nghệ sĩ bên cạnh việc miêu tả ngoại h́ ình, cử chỉ và hành động
của nhân vật thì việc đi sâu khai thác diễn biến tâm lí của nhân vật cũng là điều
mà nhà văn đặc biệt quan tâm. Đã là con người thì ai cũng có những suy nghĩ và
có cả một thế giới nội tâm bên trong. Ngoại hình là yếu tố được biểu hiện ra bên
ngoài mà ai cũng có thể nhìn thấy, nhưng nội tâm bên trong thì không phải ai
cũng biết. Diễn biến tấm lí của con người bao giờ cũng vậy, vô cùng phức tạp.
Thế nhưng việc miêu tả tâm lí nhân vật với Nguyễn Huy Tưởng lại là sở trường
bởi tác giả là một người nghệ sĩ tài ba luôn biết cách khai thác tìm hiểu cái thế
giới bí ẩn đó của con người.
Trước hết chúng ta nhận thấy nhân vật được tác giả tập trung miêu tả tâm
lí nhiều nhất là Trần Văn. Trong suốt quá trình trước và khi chiến tranh xảy ra,
tâm lí và những suy nghĩ của Trần Văn luôn được nhà văn đề cập đến. Đầu tiên
là tâm trạng khó chịu vì câu hỏi dớ dẩn của mẹ Trinh và cả những lời nói của
Trinh khi hai người gặp nhau ở nhà ga. Những lời nói đó khiến “Trần Văn cau
mặt”, cùng lúc đó Trần Văn nghĩ đến “giữa cái nhục và cái hiên ngang ở lại Thủ
đô. Trần Văn đã chọn cái thứ hai. Anh cảm thấy người anh nhẹ nhàng. Anh không
phải bịn rịn vì mẹ nữa. Anh mừng thầm mẹ đã đi khỏi nơi nguy hiểm”[66, tr. 13].
Bước cùng Loan trên đường ra phía Bờ Hồ, trong lòng anh gợi lên cảnh người
dân Hà Nội đã ra đây lấp các hầm hố vào một buổi sáng mùa thu cách đây vài
tháng. Lúc ấy “Trần Văn tưởng như bóng ma chiến tranh sẽ không bao giờ còn
trở lại nữa” vậy mà giờ đây nó đang rầm rập đến sau lưng. Đây là một cuộc
chiến đấu sống chết với quân xâm lược Pháp, và Trần Văn thấy mình phải là
người dự cuộc, không thể trốn tránh mặc dầu còn bỡ ngỡ. Nên từ nãy tới giờ “sự
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
xấu hổ tủi nhục cứ xoáy mãi vào lòng anh, làm cho anh tức thở và chốc chốc lại
đau nhói. Anh muốn thoát ra, mà có cái gì cứ chập lấy anh. Anh muốn vươn lên,
nó cứ đè anh xuống. Anh muốn bước nhanh, mà chân cứ nặng nề. Anh muốn thét
lên một tiếng kêu to, nhưng miệng anh như ngậm sỏi, và khi anh nói ra, anh cảm
thấy lời nói gượng gạo, nhạt nhẽo, rời rạc, đứt hơi. Nỗi giận càng phải kìm đi
anh càng thấy mệt mỏi và bất lực. Trong trí anh, lộn xộn những hình ảnh của
bọn mũ đỏ thâm thù, của bọn Tây đầm ngạo nghễ, của mấy thằng bồi hèn hạ,
của lá cờ bị vò nát, của anh thông tin vô tội mà lúc này có lẽ chúng đang tra tấn,
trong khi đó có thể vợ con anh ta đang rưng rức khóc thầm. Hai hàm răng rít
lại, anh run run nghĩ đến cái phút sảng khoái được cầm một con dao sắc thọc
sâu vào cổ một thằng giặc, không cứ là đứa nào. Nhưng anh nhắm mắt lại, cảm
thấy bàn tay mình yếu ớt, không quen. Trong uất ức, anh bỗng thấy chói lên
những vinh quang của người anh hùng áo vải mà sự nghiệp cứu nước dính chặt
với Hồ Gươm”[66, tr. 47]. Tham gia vào tự vệ ngót nửa tháng, trong lần đầu tiên
cùng anh em đào hầm “Trần Văn cảm thấy có một cái gì vui không thể nói được,
nó ấm ấm, nhẹ nhẹ, phơi phới từ bên trong đưa ra”[66, tr. 80], đôi khi Trần Văn
“thấy mình nhẹ nhõm, trong cái say sưa của nguy hiểm và cái kích thích của
phiêu lưu”[66, tr. 106]. Những suy nghĩ, hành động của anh dưới ngòi bút của
nhà văn cho thấy sự hồ hởi hăng hái, say mê, nhiệt tình với công việc của dân
tộc. Vậy mà, khi tham gia vào bữa tiệc ở nhà Tân cùng những người bạn chưa hề
quen biết, bữa tiệc kéo dài với rượu và thức ăn ngon khiến cho “Trần Văn như
quên hết. Có lúc anh muốn cưỡng lại, nhưng rồi cứ đắm trong cái không khí lạ
lùng này. Anh mong mỏi chẳng có sự gì xảy ra. Anh tự hỏi: “có phải như thế này
mới thật là sống không?””[66, tr. 248]. Sau cơn say của men nồng, tiếng trái phá
đầu tiên làm cho anh tỉnh giấc, loạng choạng bước ra ngoài, biểu hiện tâm lí của
Trần Văn lúc này được tác giả khai thác khá sâu. Anh thất thểu đi dưới con đường
đạn bay vèo vèo, sau những lần thoát chết “Trần Văn cảm thấy mình như đã vượt
được bao nhiêu nguy hiểm” nhưng lòng anh vẫn ngổn ngang trăm mối “phần lo
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
cho tính mạng đến đâu rồi đã thoát được chưa. Phần vui vui vì một vài tin đầu
tiên thu lượm được. Nhưng bao trùm nặng nề, day dứt là cái ý nghĩ sắp gặp lại
anh em. Anh càng đau xót thấy mình là một thằng hèn hạ, một kẻ trốn tránh, một
tên đào ngũ. Sự bỏ đi của anh có thể làm thiệt nhiều đến bao nhiêu công việc ở
nhà. Anh đã làm thiệt cho kháng chiến. Trong khi mọi người đang xông ra giết
giặc, hay ít ra cũng có nhiệm vụ gì-anh thèm cái công việc chặt cây thầm lặng
của mấy người vô danh kia-thì anh còn ở đây, lang thang và thảm hại. Anh vẫn
chỉ là một kẻ đứng ngoài đối với cuộc chiến đấu. Nó không phải là của ai nữa
mà là của anh, của tất cả mọi người Việt Nam lúc này. Anh muốn được trở về
ngay. Anh sẽ cầm súng lục của anh xông ra trận, có gục chết vì đạn giặc, anh
cũng vui lòng. Đạn vèo vèo, anh tự nhủ: Trần Văn ơi, mày đừng chết nhé. Nhưng
rồi anh lại nghĩ: Mà có chết đi thì cũng đáng đời! Đầu anh nhức, lòng trống
không, miệng cay đắng. Cái khát kinh người càng làm cho anh rời rã, khốn khổ,
hoang mang”[66, tr. 288-289]. Trong cơn suy nghĩ vô định ấy, anh gặp Nhật Tân
“mừng mừng tủi tủi, Trần Văn bắt tay Nhật Tân, nắm chặt lấy, như đứa trẻ vớ
được một vật gì thì không rời ra”[66, tr. 290]. Từ sau cái sự việc khiến anh xấu
hổ với anh em tự vệ và những người cán bộ lãnh đạo cách mang, anh đã có một
quyết tâm lớn. Anh nghĩ “chỉ còn cách là lăn xả vào cuộc chiến đấu để chuộc
lại cái lỗi lầm của mình” và “Anh lấy làm đau khổ rằng trong cái đêm trọng đại
này, anh lại làm một việc mất hết cả lòng tin cậy của anh em….Dù phải hi sinh
trong trận này, anh cũng không có một chút ân hận”[66, tr. 428]. Nhưng cái hào
hứng của anh tan đi cùng với trận đánh, hơn nữa khi thấy cảnh anh em tự vệ của
các khu tát nhau, đấm nhau, đá nhau, vung dao, vung mác định giết nhau khi họ
tranh giành nhau cái máy chữ, chăn màn…điều đó làm cho “Trần Văn đau đớn
trước cái cảnh tượng không đẹp mắt ấy. Nó trái với sự tưởng tượng của anh”[66,
tr. 429].
Phải nói rằng, Trần Văn là nhân vật được tác giả đi sâu miêu tả tâm lí trong
suốt quá trình chiến đấu của quân và dân ta. Diễn biến tâm lí của nhân vật này được
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
khai thác theo một trình tự lô gic làm cho người đọc như được cuốn hút vào thế giới
nội tâm của nhân vật và từ đó cũng khiến cho chúng ta hiểu thêm được nhiều điều
ở nhân vậy này. Nhưng ngoài Trần Văn thì Nguyễn Huy Tưởng cũng không để cho
những nhân vật khác của mình bị lạc lõng, ông cũng đã khá là tỉ mỉ khi miêu tả tâm
lí của các nhân vật như Trinh, Sinh, Loan, Quốc Vinh…
Với Trinh, một cô gái được nhìn nhận ban đầu là người có cuộc sống viên
mãn với sự bao bọc, chở che của người chồng và một cuộc sống đầy đủ. Thế
nhưng, sau khi tiễn mẹ ở nhà ga, trở về nhà “Trinh thấy như hẫng hẳn cuộc đời.
Cái xã hội nhỏ bé của Trinh lại càng thu hẹp. Trinh tủi vì Bao không ra ga tiễn
mẹ. Cuộc gặp gỡ với Trần Văn làm cho Trinh nghĩ ngợi thêm nhiều”[66, tr. 52],
Trinh đọc báo thấy tin “Hãy đề phòng trường hợp lạc trẻ…” đây không phải là
tin quan trong nhưng sao “Trinh lo sợ, tay chân run rẩy”, “Trinh phân vân không
biết cho Diễm đi hay ở lại, đeo dấu cho con hay không?”[66, tr. 53]. Sự khốc
liệt của chiến tranh đã cướp đi sinh mạng của Bao, khiến cho mẹ con Trinh lâm
vào cảnh khốn cùng “Nghĩ đến xác chồng còn nằm đó, không ai chôn cất, Trinh
lại sụt sùi khóc. Chỉ trong nháy mắt, cả cuộc đời êm đềm của chị đổ sụp”, Trinh
nhận được sự giúp đỡ của Trần Văn, từ lúc gặp anh, Trinh “đi từ ngạc nhiên đến
bối rối, từ cảm động đến biết ơn, từ đau đớn hoang mang đến một cái gì dìu dịu
như được người an ủi”[66, tr. 300-301]. Nỗi bất hạnh của Trinh đâu có dừng ở
đó, cho đến khi cả người vú em cũng bị thằng Tây giết hại “Trinh sợ quá, suýt
tuột tay đánh rơi con Diễm. Nhà Cự Lâm chỉ còn cách vài chục thước mà Trinh
không sao đi được”[66, tr. 310]. Trước kia, mọi việc trong nhà Trinh không phải
động tay, kể cả việc chăm bé Diễm đều là vú em chăm lo, nên lúc này đây, trong
cơn sài của con Diễm, Trinh hoang mang, tuyệt vọng “Trinh hối vì đã sợ mất cái
dáng đẹp của mình mà không giữ sữa và ít ẵm con. Trinh đưa lưỡi vào cái miệng
đói mềm yếu và mãnh liệt của con và thấy cái miệng nhỏ như đang rút hết ruột
gan mình. Chị ấp con vào lòng rung lên trong thương yêu và đau khổ”[66, tr.
312]. Trinh tiếp tục nhận được sự giúp đỡ của Sinh, anh đưa mẹ con Trinh đến
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
nhà Cự Lâm, lúc này “Trinh ngơ ngác một mẹ một con…Nhìn đứa con đói lả
không còn sức để khóc nữa, Trinh cực cho mình và cực cho con; chị không oán
trách chồng đã không nghe chị, chị cũng không trách ai vì những người chị gặp
từ lúc nổ súng đến giờ đều tốt cả. Trinh oán trách một cái gì tàn bạo, ngang trái,
tự nhiên ở đâu đến chỉ trong vài tiếng đồng hồ đã phá tan tất cả cái gì là hạnh
phúc của đời Trinh. Trinh sẽ đi đâu và con Trinh sẽ thế nào”[66, tr. 315]. Những
suy nghĩ đó khiến Trinh cứ trằn trọc, tiếng đại bác làm con Diễm giật mình, Trinh
nắm lấy tay con, trong khoảng khắc đó Trinh nghĩ “Hai mẹ con cùng mong manh
yếu đuối. Trinh chỉ có một nguyện vọng. Nếu phải chết thì hai mẹ con cùng chết
một lúc”[66, tr. 316], nghĩ đến đây “Trinh mếu máo một mình”. Tìm hiểu diễn
biến tâm lí của Trinh ta thấy, đây là một nhân vật thờ ơ với sự sống còn của Thủ
đô. Nhưng qua việc tạo dựng và đưa nhân vật đi từ tình huống này đến tình huống
khác của nhà văn đã làm nổi bật lên sự ác liệt của chiến tranh. Chiến tranh mang
đến cho con người những mất mát không chỉ về vật chất mà nó còn ảnh hưởng
đến đời sống tâm lí của con người. Mọi trang viết của nhà văn đều mang một
dụng ý, một tư tưởng nào đó, mà chỉ có đi sâu khám phá chúng ta mới thấy được.
Phân tích tâm lí nhân vật là sự phản ánh thế giới nội tâm của nhân vật,
giúp nhân vật bộc bộ những tâm tư, tình cảm, thể hiện tính cách, con người của
mình. Người đọc cũng nhờ đó mà có những nhận xét, đánh giá về nhân vật và
cái tài của người nghệ sĩ. Trong Sống mãi với Thủ đô Nguyễn Huy Tưởng đã
khá thành công trong việc thể hiện nội tâm của nhân vật Trần Văn hay Trinh.
Nhưng không chỉ có vậy, khi cả Thủ đô đang chìm trong khói lửa, sục sôi với
công việc kháng chiến thì những nhân vật khác của tác phẩm cũng được tác giả
khai thác tỉ mỉ, chi tiết. Đó là tâm trạng vui mừng của Sinh, khi được tham gia
vào đội tự vệ, niềm vui ấy dường như đã xua tan đi cái giá buốt của mùa đông
“Sinh vui một cách lạ, đầu choáng váng như say. Trời rét và gió bấc, sương mù
lất phất như mưa. Nhưng Sinh thấy nóng ran trong người, máu rậm rật như trong
ngày xuân ấm” được Quốc Vinh tặng cho một khẩu súng lục Đức, điều mà Sinh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
mơ ước từ lâu. Đã rất lâu rồi, anh thèm có được nó, cầm khẩu súng trong tay
“anh buồn cho một số người, sắm cả súng trường, súng ngắn, nhưng rồi bỏ về
quê”, nghĩ đến nó “anh có cái hí hửng của một người được của” [66, tr. 161].
Và còn cả Loan nữa, cũng vui mừng không kém gì Sinh khi được góp phần vào
cuộc chiến đấu của Thủ đô “Loan vâng khe khẽ một cách lễ phép. Loan còn dè
dặt, do cái thói quen của một người tỉnh nhỏ, và cũng do cái lòng tôn kính đối
với thầy. Nhưng Loan vui lắm. Trần Văn sẽ giới thiệu anh vào tự vệ”[66, tr. 31],
đến khi có thông báo Loan về ở với Ban tuyên truyền để làm cách mạng. Cầm
cái chứng minh thư mà “anh có cảm tưởng như bắt đầu từ giờ phút này anh sẽ
chuyển vào một cuộc đời đầy nguy hiểm, và cái giấy này buộc anh vào một cái
gì đó chặt chẽ, cứng như gang thép. Anh thấy lạnh suốt từ gáy đến chân”[66, tr.
99]. Vui biết mấy khi được cùng nhân dân chống trả quân thù giành lại độc lập
cho dân tộc. Đây là tâm trạng chung của hầu hết các nhân vật trong tác phẩm như
Quốc Vinh “Quốc Vinh cảm thấy lạnh từ gáy đến chân, nhưng trong lòng anh
bừng bừng phấn khởi” [66, tr. 182], như Phúc, anh đã từng nói với Sinh “tôi
thích làm những việc ấy lắm” anh muốn được sống một cuộc đời như những
người anh em trong đội tự vệ, dù có khó khăn vất vả nhưng họ vẫn cứ vui, cứ
hát, anh thấy “cuộc đời như thế vui hơn là lúc nào cũng nghĩ những mưu này kế
nọ”[66, tr. 165]. Đôi khi đó lại là tâm trạng băn khoan do dự của nhân vật trước
khi lựa chọn cái chết để bảo vệ danh dự như Vũ Minh “Tuy nói thế, nhưng Vũ
Minh còn trù trừ chưa muốn rút kíp. Anh tưởng anh sẽ là người giải phóng Thủ
đô, hãnh diện với người yêu. Ngày ấy, anh sẽ đội mũ sắt, đi ủng cao, đeo kiếm
dài đi trong đoàn chiến sĩ hiên ngang, giữa những tiếng hoan hô vang dậy. Có
muôn đóa hoa ném xuống người anh”[66, tr. 341]. Và cũng có lúc là tâm trạng
day dứt vì những gì đã làm, đã nghĩ của nhân vật như Thu Phong. Khi trao khẩu
súng của ông Lộc cho Oanh, thông báo cho Oanh tin bố cô đã mất “Thu Phong
rưng rưng nước mắt”, “nghĩ đến cái vụ tự tử hụt mà đêm qua anh đã cười vỡ
bụng, lúc này Thu Phong lại hoe hoe đỏ mắt” trước những gì mà anh đang chứng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
kiến. Anh nghĩ rằng “Cuộc sống vẫn có nghĩa dù chỉ để đưa tin nhà cho một
người bạn chiến” [66, tr. 391]. Hay tâm trạng của đứa con khi nghe tin bố mất,
cái tin như sét đánh khiến cho “đôi lông mày kẻ của Oanh ríu lại. Trống ngực
chị đập mạnh....Oanh mím chặt môi, cái cằm hơi lẹm của chị như ngắn lại. Chị
cầm lấy khẩu súng, tai văng vẳng lời của bố buổi chiều hôm qua” nhưng rồi nhà
văn không để cho nhân vật của mình đắm chìm trong đau khổ bởi hoàn cảnh lúc
bấy giờ buộc mỗi con người cần phải biết gác lại việc riêng để hòa vào công việc
kháng chiến chung của Thủ đô. Nguyễn Huy Tưởng thực sự đã quá xuất sắc khi
miêu tả tâm trạng của Oanh lúc này, nghĩ đến Thủ đô đang còn đang trong cuộc
chiến đấu sống chết, Oanh đã kìm nén nỗi đau khổ và “mặt chị trở lại tự nhiên”.
Chỉ vậy thôi cũng đủ thấy ý thức tự giác và tinh thần yêu nước của người dân
Thủ đô trong thời điểm ác liệt của cuộc chiến.
Thế giới nội tâm của con người là vô cùng phong phú và đa dạng. Đến với
tác phẩm này, người đọc không những thấy được tâm trạng vui mừng khi tham
gia kháng chiến của Trần Văn, Sinh, Quốc Vinh...mà còn thấy được sự khó xử
của Tân trước những câu hỏi của Dân. Tân coi là kẻ lạc loài với thời cuộc nên
khi Dân hỏi “Ông có theo chúng tôi đánh giặc không?”, Tân thấy choáng váng,
không nói được gì, anh “tự trách mình sao lại dấn thân vào một chỗ khó xử thế
này”[66, tr. 355].
Như vây, có thể thấy nghệ thuật miêu tả nhân vật của Nguyễn Huy Tưởng
thực sự đáng để chúng ta nể phục. Cái tài của nhà văn là đã khắc họa được một
cách chân thực những hình tượng nghệ thuật, làm cho những con người ấy hiện
lên thật sinh động và mang đến cho người đọc những cung bậc cảm xúc khác
nhau. Người đọc như được cùng các nhân vật tham gia vào cuộc chiến đấu bảo
vệ mảnh đất ngàn năm văn hiến của dân tộc.
3.2. Ngôn ngữ
Mỗi nhà văn khi cho ra đời “đứa con tinh thần” của mình đều không quên
gửi gắm trong đó những dấu ấn của bản thân. Đó chính là phong cách nghệ thuật
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
của người nghệ sĩ. Cũng giống như những nhà văn khác, Nguyễn Huy Tưởng
cũng tạo dựng cho mình một phong cách riêng, độc đáo. Phong cách ấy không
chỉ được thể hiện qua nghệ thuật miêu tả nhân vật của tác giả mà còn được thể
hiện qua ngôn ngữ trong tác phẩm. Và trong từng tác phẩm khác nhau thì nhà
văn lại sử dụng ngôn ngữ khác nhau. Khi viết về đề tài lịch sử, nhà văn thường
lựa chọn cho mình một lối viết mang tính trang nghiêm cổ kính để gợi lại những
trang sử hào hùng của dân tộc. Thế nhưng khi tìm hiểu đến tiểu thuyết Sống mãi
với Thủ đô, người đọc còn khám phá được những ngôn ngữ khác, đó là những
chất liệu làm nổi bật dấu ấn văn hóa trong tác phẩm.
Đến với nghệ thuật, người nghệ sĩ bao giờ cũng lựa chọn cho mình những
lối viết riêng. Với lối viết không cầu kì như Nguyễn Tuân, không thâm trầm như
Nam Cao, không sắc sảo như Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Huy Tưởng đã để lại ấn
tượng sâu sắc trong lòng người đọc bởi lối viết điềm đạm, uyên thâm pha chút
lãng mạn, hào hoa như cốt cách của con người ông.
Ngôn ngữ nghệ thuật trong tiểu thuyết của Nguyễn Huy Tưởng luôn thể
hiện sự tinh tế, trầm lắng như cốt cách con người Hà Nội thanh lịch, không ồn
ào, phô trương. Việc gọt giũa từng từ, từng chữ của ông cho thấy con người Hà
Nội văn minh, lịch sự bực nào. Điều này thể hiện sự khác biệt giữa Nguyễn Huy
Tưởng với một số nhà văn như Hoàng Quốc Hải, Nguyễn Xuân Khánh, họ đã
đem quá nhiều ngôn ngữ cuộc sống hiện đại, vào tác phẩm.
Là nhà văn gắn với nguồn cảm hứng lịch sử, Nguyễn Huy Tưởng cho
người đọc thấy được một văn phong mang tính trang nghiêm, cổ kính. Chất cổ
điển trong ngôn ngữ nghệ thuật của ông thể hiện ở âm hưởng nghiêm trang, hào
hùng. Lối viết này đã làm nên tên tuổi của nhà văn trên văn đàn văn học Việt
Nam. Thế nhưng là người nghệ sĩ, nhà văn không bao giờ bó buộc mình trong
một lối viết mang tính sáo mòn mà luôn luôn có sự sáng tạo, mở rộng ngòi bút
của mình với những lối viết khác nhau. Chính vì vậy, khi đến với tiểu thuyết
Sống mãi với Thủ đô người đọc vô cùng ấn tượng với cách viết, cách sử dụng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
ngôn ngữ của tác giả. Cũng giống như nhiều tác phẩm khác cùng viết về đề tài
lịch sử của Nguyễn Huy Tưởng thì Sống mãi với Thủ đô cũng đã được tác giả
khai thác sâu những vấn đề, khía cạnh khác nhau của lịch sử dân tộc qua ngôn
ngữ mang tính chất sử thi. Nhờ chất liệu quen thuộc này mà tác giả đã làm sống
dậy cuộc đấu tranh trường kì của quân và dân Thủ đô, dựng lên được những bức
tượng đài vĩ đại của dân tộc. Tính chất sử thi trong tác phẩm được thể hiện qua
ngôn ngữ ngợi ca, có khi kết hợp cả ngôn ngữ kể mang chất tự sự.
Đúng vậy, sự ngợi ca của tác giả dành cho thiên tiểu thuyết này là khá dày.
Mà chủ yếu là ngợi ca tinh thần chiến đấu quả cảm, ý chí kiên cường bất khuất
của người Hà Nội như “Dân tộc Việt Nam chúng ta là một dân tộc yêu chuộng
hòa bình. Nhưng với cái chí khí quật cường mà tổ tiên ta đã hun đúc cho những
anh hùng như Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung, dân tộc chúng ta có một
tinh thần bất khả diệt. Ta chỉ hiền với những người trọng tự do và dân chủ, chứ
không bao giờ hiền hậu và đạo đức với những kẻ gian tà hung ác, cũng không
bao giờ khuất phục trước sức mạnh của một kẻ địch nào”, “Trong cuộc kháng
chiến này, một lần nữa, Đảng ta lại làm cái sứ mạng là lái con thuyền Tổ quốc
vượt qua bão táp phong ba tới bờ chiến thắng. Dưới lá cờ vinh quang của Tổ
quốc, của Đảng, chúng ta chúc nhau tin tưởng tiến lên, hoàn thành nhiệm
vụ”[66, tr. 199-200]. Trong giờ phút căng thẳng của chiến tranh, để truyền thêm
sức mạnh và niềm tin chiến đấu cho nhau “nhiều bàn tay đã nắm lấy nhau”[66,
tr. 197], chỉ một hành động nhỏ thôi đã cho thấy sự đồng lòng quyết tâm tiêu diệt
giặc của nhân dân ta mạnh mẽ như thế nào.
Ngôn ngữ mang tính sử thi này là ngôn ngữ chủ đạo làm nên giá trị của
tác phẩm. Tuy nhiên bên cạnh đó, nhà văn đã đưa vào trong tác phẩm của
mình lớp ngôn ngữ thể hiện sự lịch lãm cũng như văn hóa ứng xử của người
Hà Nội, đó là ngôn ngữ trữ tình lãng mạn, đặc biệt là ngôn ngữ đời thường
gắn với người lao động được nhà văn sử dụng khá phổ biến và đặt hiệu quả
nghệ thuật cao.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Ngôn ngữ trữ tình đã giúp nhà văn thể hiện được sâu sắc những tâm tư
tình cảm của con người dành cho nhau trong những ngày đối diện với sự sống và
cái chết. Ngôn ngữ ấy được bắt nguồn từ những cái đẹp mà nhà văn thể hiện
trong tác phẩm. Nó mềm mại, nhẹ nhàng cũng giống như câu chuyện tình yêu
của Hiền và Nhật Tân, một chuyện tình trong sáng bởi “Họ tuy yêu nhau nhưng
chưa bao giờ sàm sỡ. Họ chỉ gửi cho nhau những cuốn sổ trong ấy có ép những
hoa, những lá, những con bướm đẹp mà trong khi đi chơi những làng quanh Hà
Nội hay về quê họ nhặt được và đem về làm kỉ niệm những ngày vui”[66, tr. 70].
Hay là cái khoảnh khắc mà hai người bạn vừa thoát ra khỏi tay thần chết bởi cái
suy nghĩ “thà chết chứ không chịu để cho giặc bắt” ngồi bên nhau, qua cái cửa
sổ lớn có chấn song “Thu Phong lơ mơ nhìn lên trời. Trăng lưỡi liềm trong suốt,
như một bìa giấy bạc, in rõ trên nền trời không gợn mây. Hai bên đuôi trăng, có
hai ngôi sao sáng như ngọc” bất giác anh nghĩ “người ta thường bảo sao bao
giờ cũng xa trăng. Không hiểu vì sao đêm nay, hai ngôi sao kia ở sát ngay trăng
mà sáng như thế được”[66, tr. 341]. Vầng trăng ấy, ánh sao ấy bình thường đã
khiến cho con người ta bị mê hoặc, và trong cái khoảnh khắc này nó lại càng đẹp
hơn bởi dưới ánh trăng ấy có hai người bạn đang kề bên nhau, ánh sáng của trăng
sao đã truyền thêm cho họ sức mạnh, niềm tin chiến đấu. Hình ảnh lãng mạn
này xuất hiện không nhiều trên trang viết của nhà văn nhưng sự xuất hiện bất
ngờ ấy đã làm cho tác phẩm của ông thêm phần giá trị.
Người Hà Nội hào hoa, thanh lịch không những được thể hiện qua trang
phục, dáng đi, cử chỉ, điệu bộ mà còn được thể hiện qua lời ăn tiếng nói. Nắm
bắt được điều này, Nguyễn Huy Tưởng đã khéo léo vận dụng vào trong tác phẩm
của mình qua cách xưng hô của nhân vật. Họ gọi nhau là “cô” là “cậu”, là “đằng
ấy”, là “anh”, là “tôi”, là “đồng chí”...nghe sao mà thân thương đến vậy. Mọi lời
nói của nhân vật đều thể hiện thật sâu sắc cái lịch sự, văn minh của con người
Thủ đô. Nhưng để phản ánh một cách chân thực nhất, làm cho tác phẩm trở nên
gần gũi với người đọc thì Nguyễn Huy Tưởng đã không ngần ngại khi đưa lớp
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
ngôn ngữ đời thường vào tác phẩm. Ngôn ngữ đời thường trước hết được thể
hiện qua việc sử dụng những từ ngữ mang tính địa phương như “cậu”, “mợ”, đẻ”,
“u”...đó là những từ ngữ cho thấy sự đa dạng của Tiếng Việt, và hơn hết nó phù
hợp với đời sống văn hóa - xã hội lúc bấy giờ. Cùng với đó là những ngôn ngữ
có phần thô tục, suồng sã như tiếng chửi của anh thợ nặn “Đánh Đức thua Đức,
đánh Nhật thua Nhật, đánh đâu thua đấy, bắt nạt Việt Nam. Mẹ cha mày, bố mày
cũng không dám đánh đêm”[66, tr. 38], của Thu Phong “giữ cẩn thận, nó nổ bỏ
mẹ”[66, tr. 343], của Tân “ Được. Nói thế đúng hơn. Thôi mày về đi, không tự
vệ nó chửi cho bỏ mẹ”[66, tr. 240], của Long đen “Các anh còn đòi Long đen
cái gì nữa? Bao giờ mới hết nghi cái thằng Long đen chó má này”[66, tr. 100],
của Quý “Mẹ cha cái thằng Hồng Lưu, nó rút lúc nào nó không bảo tao”,
“Đ....mẹ tiên sư những thằng hèn nhát. Rút đi không báo gì cho bố nó cả”[66,
tr. 403], và cả tiếng chửi của thằng Việt gian “Đ...mẹ chúng mày. Ông đã bảo
không nghe thì ông sẽ giết hết bọn Việt Minh phiến loạn”[66, tr. 418]. Sự giản
dị của ngôn ngữ đời thường còn được thể hiện qua cách xưng hô “mày - tao” của
Tân và Nhật Tân , tuy có phần không lịch sự nhưng lại cho thấy được sự thân
mật, gần gũi của hai người bạn. Trong cuộc chiến, họ là những con người không
có chung hướng đi nhưng với họ tình bạn vẫn sẽ là mãi mãi.
Viết về lịch sử nhưng từng trang viết của Nguyễn Huy Tưởng lại thấm
đẫm chất trữ tình. Đó chính là những dòng mà nhà văn miêu tả về Hà Nội. Bức
tranh về Thủ đô yêu dấu hiện lên thật sống động qua từng câu, từng chữ, bức
tranh ấy mang theo bao dấu ấn văn hóa của người Việt Nam. Sự sáng tạo trong
xây dựng hình tượng nghệ thuật kết hợp với sự điêu luyện trong việc sử dụng
ngôn ngữ làm cho người đọc say mê, cùng hòa chung vào không khí chiến đấu
sôi sục của dân tộc.
3.3. Hệ thống biểu tượng văn hóa trong tiểu thuyết Sống mãi với Thủ đô của
Nguyễn Huy Tưởng
3.3.1. Biểu tượng và biểu tượng trong văn học
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Để tồn tại và khẳng định vị trí của mình trên thế giới thì mỗi dân tộc đều
có những nét đặc sắc riêng về văn hóa, và một trong những yếu tố làm nên bản
sắc văn hóa của từng vùng miền chính là “biểu tượng”. Có thể nói biểu tượng là
hình thái biểu hiện của văn hóa.
“Biểu tượng” (symbol, còn được dịch là tượng trưng, biểu trưng, phù hiệu,
kí hiệu) là một trong những từ có nhiều nghĩa nhất trong hệ thống các khoa học
về kí hiệu. Theo Từ điển Tiếng Việt định nghĩa, thì “biểu tượng là hình ảnh sáng
tạo nghệ thuật có một ý nghĩa tượng trưng trừu tượng”[35, tr. 88]. Còn trong
cuốn Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới nhà phân tâm học người Thụy Sỹ
C.G.Jung có nói “Cái mà chúng ta gọi là biểu tượng là một từ ngữ, một danh từ
hay một hình ảnh ngay cả khi chúng ta quen thuộc trong đời sống hàng ngày vẫn
chứa đựng mối quan hệ liên can, cộng thêm vào đó cái ý nghĩa quy ước và hiển
nhiên của chúng. Trong biểu tượng có bao hàm một điều gì đó mơ hồ, chưa biết
hay bị che dấu đối với chúng ta”[4, tr. XXIX]. Là một phương thức chuyển nghĩa
của lời nói, biểu tượng có quan hệ gần gũi với ẩn dụ, hoán dụ...cũng giống như
ẩn dụ và hoán dụ, biểu tượng được hình thành trên cơ sở so sánh, đối chiếu các
đối tượng, hiện tượng ở một vài phương diện, khía cạnh, để làm nổi bật bản chất,
tạo ra một ý niệm cụ thể về hiện tượng hay đối tượng đó. Tuy nhiên, giữa biểu
tượng với ẩn dụ, hoán dụ cũng có điểm khác biệt. Đó là nếu kí hiệu của ẩn dụ,
hoán dụ là những dấu hiệu nhất thời, rời rạc giữa cái biểu đạt và cái được biểu
đạt, chỉ có tác động biểu nghĩa, thì biểu tượng có sự thống nhất giữa cái biểu đạt
và cái được biểu đạt, có tính chất ổn định hơn. Hay có thể nói, biểu tượng là
những hình ảnh tượng trưng của sự vật, hiện tượng trong thế giới xung quanh,
được hình thành trên cơ sở các cảm giác và tri giác đã xảy ra trước đó, được giữ
lại trong ý thức, đó lŕ kết quả của sự phản ánh hiện thực vào não người.
Biểu tượng văn hóa là một hình thái ngôn ngữ - kí hiệu tượng trưng, nó
được hình thành nhờ vào năng lực “tượng trưng hóa” của con người, theo phương
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
thức dùng hình ảnh để bày tỏ ý nghĩa. Biểu tượng là “hạt nhân”, là nơi lưu giữ
những giá trị văn hóa qua hàng ngàn năm lịch sử và cũng là hình thức để quảng
bá nền văn hóa của dân tộc với các nước trên thế giới.
Biểu tượng trong văn học đã được đề cập khá nhiều trong các công trình
nghiên cứu, các tác phẩm phê bình văn học ở Việt Nam cũng như nhiều nước trên
thế giới. Bàn về điều này, chúng ta thấy biểu tượng trong văn học là loại biểu
tượng mang tính đa nghĩa được tạo nên bằng ngôn từ nghệ thuật và là một phương
thức để chuyền tải ý đồ của người nghệ sĩ. Biểu tượng trong các tác phẩm văn học
có thể được sử dụng với nghĩa gốc hoặc nghĩa chuyển, tùy thuộc vào dụng ý sáng
tạo của nhà văn. Việc giải mã các biểu tượng trong tác phẩm văn học không những
giúp ta hiểu được những giá trị riêng biệt của tác phẩm mà còn đưa đến cho ta
những giá trị văn hóa của dân tộc. Hành trình tìm hiểu khám phá biểu tượng trong
văn học là hành trình tìm về cội nguồn văn hóa đồng thời cũng là hành trình tìm
kiếm những giá trị chân, thiện, mỹ của dân tộc.
3.3.2. Biểu tượng văn hóa Hà Nội nổi bật trong tiểu thuyết Sống mãi với Thủ
đô của Nguyễn Huy Tưởng
Tiểu thuyết Sống mãi với Thủ đô của Nguyễn Huy Tưởng thể hiện cái
nhìn tinh tế và sâu sắc về đời sống văn hóa của Hà Nội. Những nét đẹp văn hóa
của Thủ đô được nhà văn thể hiện qua nhiều phương diện, khía cạnh khác nhau,
đó có thể là thiên nhiên, đời sống văn hóa xã hội hay con người. Những có lẽ
điểm đáng chú ý nhất là hệ thống các biểu tượng. Bằng tài năng độc đáo của
mình, Nguyễn Huy Tưởng đã đưa hầu hết biểu tượng của Hà Nội như Hồ Gươm,
những con đường, những phố nhà... vào trong tác phẩm của mình, để dựng lên
trước mắt người đọc một Thủ đô thu nhỏ. Hệ thống biểu tượng đó thể hiện sự
hiểu biết rất sâu và rộng của tác giả về Thủ đô, và hơn hết là tình yêu mà tác giả
dành cho mảnh đất văn hiến này.
Biểu tượng Hồ Gươm
Với Nguyễn Huy Tưởng, tình yêu và niềm tự hào dành cho Hà Nội trong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
những ngày Tổ quốc lâm nguy, bắt đầu từ chính tình yêu với thiên nhiên mà
đầu tiên là cái vẻ đẹp thơ mộng của Hồ Gươm. Hà Nội ba sáu phố phường mà
biểu tượng của nó là Hồ Gươm xuất hiện với mật độ đáng kể trong các trang
văn Sống mãi với Thủ đô. Trong tâm thức văn hóa của người Việt nói chung
và người Hà Nội nói riêng, thiên nhiên ngoại cảnh, môi trường sinh thái gắn
bó, hòa hợp với con người. Cùng viết về Hà Nội và dành cho trái tim của cả
nước tình yêu của chính mình, nhưng khác với Tô Hoài, Thạch Lam, Vũ
Bằng...trong cảm hứng sáng tạo của Nguyễn Huy Tưởng nổi bật âm hưởng
lịch sử-văn hóa. Thông qua nhận vật Trần Văn, nhân vật chính trong tác phẩm,
Hồ Gươm luôn gắn liền với sự kiện lịch sử và văn hóa của Thăng Long- Hà
Nội và với người Hà Nội “Lá rụng trên vai anh.Gió lạnh của Hồ Gươm phả
vào mặt anh, làm cho anh dìu dịu. Nước hồ phẳng như gương, lá cây và váng
nước xanh vẩn. Hàng liễu trên bờ phía cầu Gỗ buông rủ những mành thấp
thoáng như sương. Những con đường nhỏ lượn dưới bóng những cây cổ thụ
quạnh hiu, cuốn bay vào tà áo màu còn sót lại. Cầu Thê Húc, khom khom, đã
ngả màu hồng nhạt. Trấn Ba Đình ủ rũ thấp xuống như bị dìm. Tất cả đều im
lìm, chờ đợi. Những con rùa lịch sử, chiến thắng và hòa bình, không thấy bóng
tăm trên mặt nước. Cả đến đàn cò, từ năm này qua năm khác, không bao giờ
rời cái cây gạo thân cao thẳng vút và trắng toát cũng không xào xạc như mọi
khi. Chúng đi đâu hay đã nằm im trong tổ. Cái hồ yêu dấu cũng như cảm thấy
dân tộc đang gặp khó khăn, và lắng xuống lo âu”[66, tr. 47-48]. Cái tên “Hồ
Gươm” gợi lên cho người đọc bao cảm xúc khó tả khi nhớ về những vinh
quang của người anh hùng áo vải mà sự nghiệp cứu nước gắn chặt với Hồ
Gươm. Trong tiểu thuyết, Nguyễn Huy Tưởng đã miêu tả Hồ Gươm bằng tất
cả tình yêu mà ông dành cho Thủ đô, bởi Hồ Gươm là một trong những yếu
tố mang đặc trưng của Hà Nội. Vì vậy mà trong cái buổi sáng tản cư ấy đồng
bào ta đã ngoái cổ lại đằng sau quyến luyến. Họ thấy “Hồ Gươm vắng ngắt,
lẻ tẻ vài bóng người vội vã. Đã quá trưa. Phố xá và đám đông ủ rũ dưới một
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
bầu trời tro xám. Trông ra Bờ Hồ và dựa vào phố Cầu Gỗ, cái nhà đồ sộ, ba
tầng của hiệu sách Nam Kỳ, đang xây dựng dở, với những tường gạch đỏ kệch,
với những đà giáo tua tủa, chống chơ, im lặng, càng làm cho khu phố thêm
ngồn ngang, loét lở.”[66, tr. 63]. Và trong phiên gác đêm của mình, Trần Văn
quan sát các ngả đường và không khỏi bồi hồi bởi “Một mảnh Hồ Gươm trước
mặt, những hàng liễu mơ hồ rủ xuống bờ nước đen đặc...Khí lạnh của Hồ thấm
vào người anh. Lòng anh dạt dào thứ hoài cổ...Anh bâng khuâng như sống
trong quá khứ, thuở Lê Thái Tổ thắng trận đi chơi hồ, trao lại cho con rùa
thiêng thanh thần kiếm đuổi giặc nay không cần đến nữa, thuở những tao nhân
mặc khách đến đấy để ngâm thơ vịnh nguyệt, xướng họa với nhau, hào hứng
giữa cảnh trời xanh nước biếc của cái hồ xinh đẹp nằm giữa kinh kì”[66, tr.
216]. Trong đên đầu tiên chống trả quân thù để giữ lấy từng con phố của Hà
Nội, Hồ Gươm như cùng hòa vào bối cảnh chung của cuộc chiến “Hồ Gươm
nằm dúi dụi trong bóng tối. Phủ Bắc Bộ đưa lại những tiếng súng liên thanh
cục cục rõ mồm một, và những tiếng súng trường dóng một mà anh có cảm
tưởng là người ta ngắm kỹ lắm rồi mới bắn”[66, tr. 285], “Một vài cây đổ mà
cả Bờ Hồ xơ xác. Sau những rặng liễu ủ rũ, bờ phía đền Bà Kiệu đứng im lìm
những toa xe điện chỏng chơ như mấy quán hàng chợ vắng. Lác đác một vài
bóng người.”[66, tr. 446]. Và cũng là Trần Văn trong cuộc hội ngộ bất ngờ
với những chàng thanh niên Hà Nội khác ở bữa tiệc nhà Tân. Họ đã tranh luận,
so sánh Thủ đô Hà Nội với Paris, dù Hà Nội đang pha tạp, nhộn nhạo trong
những ngày đầu kháng chiến, anh vẫn bộc lộ cảm xúc tự hào và chính kiến cá
nhân về Hà Nội “Hà Nội thiếu lâu đài nhưng không thiếu cảnh. Các cụ ngày
xưa chả nói Hà Nội là đất của năm núi, hai mươi tám đảo, của Thăng long,
đại bát cảnh đấy ư? Ở trên thế giới đâu có Hồ Gươm, Hồ Tây ở giữa Thủ đô.
Ở đâu có con sông nước đỏ chảy qua”[66, tr. 253].
Hồ Gươm, mang vẻ đẹp nhẹ nhàng và thơ mộng, là trái tim của Thủ đô
văn hiến, là một biểu tượng đẹp của Việt Nam. Hình ảnh “hồ” không chỉ xuất
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
hiện trong Sống mãi với Thủ đô mà nó còn theo Nguyễn Huy Tưởng đi vào
những tác phẩm khác như tiểu thuyết Đêm hội Long trì. Trong tác phẩm, nhà
văn đã có sự miêu tả một cách chọn lọc để làm sao cái biểu tượng có một không
hai ấy hiện lên thật sinh động, tác giả viết “Hồ Long trì đã thành một nơi bồng
lai mộng ảo, cách biệt với phàm trần. Hồ rộng hơn nửa dặm, thả rất nhiều sen
ấu. Bên hồ, có đắp những ngọn giả sơn rất to bằng đất hoặc bằng đá. Trong
hang, trong hốc, hoặc trên đỉnh, hoặc dưới chân, hoặc trước hoặc sau ẩn ẩn hiện
hiện những chàng Tương Như, hay những gã Tiêu Lang ngồi hòa nhạc, ăn mặc
ra vẻ tiên phong đạo cốt. Núi vọng ra những tiếng bổng tiếng chìm, tiếng ti, tiếng
trúc, nghe lả lướt du dương”[67, tr. 7].
Hồ Gươm, biểu tượng văn hóa độc đáo mãi là nguồn cảm hứng bất tận với
các nhà văn nhà thơ, đặc biệt là Nguyễn Huy Tưởng. Không có gì có thể làm mờ
nhạt đi hình ảnh này trong trái tim người Hà Nội nói riêng và người dân Việt
Nam nói chung. Nó sẽ mãi là biểu tượng đẹp không chỉ thu hút người Hà Nội mà
còn thu hút khách bốn phương.
Biểu tượng đường, phố
Nếu như Hồ Gươm là trái tim của Thủ đô ngàn năm thì những con đường,
những dãy phố của mảnh đất này được xem như là sợi dây liên kết những nếp
nhà để con người Hà Nội được gần nhau hơn. Hà Nội là Thủ đô của ba mươi sáu
phố phường náo nhiệt và tấp nập đã để lại những ấn tượng khó thể quên cho
những ai đã từng đặt chân tới đây. Nó ấn tượng bởi tên đường, tên phố, những
cái tên ấy không phải là ngẫu nhiên mà nó thường gắn liền với một ý nghĩa văn
hóa nào đó mà chỉ có đi sâu tìm hiểu nền văn hóa Hà Nội mới hiểu hết được.
Đường, phố Hà Nội xưa kia yên bình và dung dị vô cùng. Những con
đường ấy đã trở thành một phần kí ức của Thủ đô, đi vào trong những câu thơ,
câu hát để mỗi người dân Hà Nội, ai cũng ngân nga câu hát “ngõ nhỏ phố nhỏ
nhà tôi ở đó”, nó trở thành một phần kí ức không thể quên..
Là một người con của Hà Nội, Nguyễn Huy Tưởng cũng không khỏi bồi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
hồi khi đưa bút để miêu tả từng con đường, từng dãy phố trong tác phẩm của
mình. Đó là con đường Tràng Thi, dưới ngòi bút của nhà văn, con đường ấy
được cảm nhận “Đây là một trong những con đường đẹp nhất của Hà Nội, mà
những hàng cây hai bên cao hơn nhà gác làm cho Hà Nội đắm trong thiên
nhiên, và khi lộc non chuyển sang xanh râm, hay khi hoa phượng nở, hay khi
lá rụng thay cho tiếng ve sầu, người ta như trông thấy và nghe thấy sự tuần
hoàn của vũ trụ”[66, tr. 40]. Chỉ với những dòng văn ngắn ngủi mà vẻ đẹp của
con đường thay đổi theo từng mùa hiện lên sống động vô cùng. Thế nhưng trong
những ngày Thủ đô ra sức chống trả quân thù thì “con đường trông đau thương
và quằn quại...Thư viện trung ương thì im lặng như ngôi đền, chỉ có lá bàng,
lá đa rụng đều xuống những thảm cỏ, xuống mấy cái ghế đá lơ thơ ngoài vườn
vắng”[66, tr. 40]. Mọi cảnh vật lúc này như hòa vào sự đau thương, mất mát
của chiến tranh. Cái tinh tế của nhà văn đó là “tả cảnh ngụ tình”. Những con
đường ấy như là những người chiến sĩ đã chiến đấu dũng cảm, có thể hi sinh cả
thân mình, để cho người dân Hà Nội đào đường, đắp ụ, dựng chướng ngại vật
giúp cho công cuộc kháng chiến “khắp bốn bề những tiếng đục tường thông
nhà nọ sang nhà kia nổi lên bí mật như đứt hơi, như giận dữ. Nó không tẻ nhạt
như hôm trước, mà râm ran, vội vã...Từ đầu Hàng Đào, qua Hàng Ngang, Hàng
Đường đến chợ Đồng Xuân, rải rác những bao cát dựng sù sụ trước những cửa
lùa gỗ rất xưa và những cửa lùa sắt văn minh một cách lạc lõng”[66, tr. 106],
“Phố Hàng Bồ, phố Hàng Đường, phố Hàng Ngang, phố Hàng Bạc, và nhiều
phố gần đấy, thanh niên nam nữ chạy đến ầm ầm. Người lấy xẻng, người lấy
cuốc, người lấy thuổng đem đi”[66, tr. 111], “Phố Hàng Mã, đầu bên kia đã
rào kín bằng những súc gỗ lớn chưa xẻ, đầu nhọn vươn lên như những mũi đạn
khổng lồ. Đầu bên này, anh em đang đào hào chống xe tăng. Các chị lúi húi
xúc đất, vật lên bờ hào”[66, tr. 163]. Rồi đến “Cái phố dốc dốc, nhỏ nhỏ, hiển
hiện trước mắt, bao phủ trong sương khói...Đầu phố cuối phố đã chia hai thế
giới”[66, tr. 380]. Đó là những người anh hùng thầm lặng của Thủ đô yêu dấu.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Để chuẩn bị cho cuộc kháng chiến, những con phố ấy như sát lại gần nhau hơn.
Và khi bắt đầu cuộc chiến, những con đường đó trở nên vắng tanh, rộng rãi như
con đường trên phố chợ mà Sinh đi qua “không có một bóng người qua lại. Gió
đánh bay những bụi vôi xoáy lại, giạt ra như vờn trên con đường đầy gạch vụn
và rác rưởi, lỗ chỗ những lỗ chôn mìn, như những lỗ giun sau cơn mưa”[66, tr.
163]. Những gì mà chiến tranh mang đến khiến cho người ta thấy tiếc tiếc và
Sinh nhớ về những ngày tưng bừng của phố xá, nhớ ngày Cách mạng năm ngoái
“trong cuộc thách nhau giữa các phố làm những cổng chào to nhất, đẹp nhất,
anh và các bạn anh đã tham gia xây dựng cái cổng chào của chợ Đồng Xuân
đồ sộ như một cổng thành. Đứng ở trên nhìn suốt được xuống Hàng Đào, đến
Bờ Hồ, một con đường đầy những cổng chào, rợp bóng cờ đỏ. Đêm đêm, sau
bao nhiêu đêm âm thầm với đèn phòng thủ thụ động - các phố rực sáng như sao
sa”[66, tr. 163]. Cũng vì kháng chiến mà “Hàng Đào đã thành một phố hoang
tàn. Đường ngổn ngang những cột đèn, những bàn ghế, quầy tủ, những biển
hàng, những kính vỡ. Tất cả như vừa qua một cơn mưa bão khô ráo. Trời đẹp,
buổi sáng yên tĩnh, nhưng vẫn có một cái gì nặng nề, thỉnh thoảng cục cục vài
tiếng liên thanh. Các bức tường như chờ đợi. Khu phố âm ỉ, như giấu bên trong
quả địa lôi bực tức sắp nổ”[66, tr. 385]. Thế nhưng sau tất cả, những con đường,
dãy phố ấy vẫn là những gì đáng để người ta tự hào như bác sĩ Pha người đã
từng có thời gian sống bên Pháp “Tôi rất vui được sống ở Hà Nội những ngày
tuyệt đẹp như thế này. Những cái phố rất Việt Nam, đi lâu về mới càng thấy
quý, những tên phố rất nên thơ...”[64, tr. 260].
Những góc phố, những con đường đã gắn liền với bao thăng trầm của thời
gian, chứng kiến biết bao sự kiện lịch sử quan trong của dân tộc. Nhưng ngày
nay, chúng ta thật khó để mà bắt gặp một con đường giữa Thủ đô với hai bên
đường chỉ là những hàng cây và vỉa hè rợp bóng mát. Phải chăng Hà Nội như
vậy chỉ thuộc về quá khứ...
Biểu tượng Cầu Long Biên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Hà Nội có cầu Long Biên
Vừa dài vừa rộng bắc trên sông Hồng
Tàu xe đi lại thong dong
Người người tấp nập gánh gồng ngược xuôi...
“Cầu Long Biên - chứng nhân lịch sử” nói như vậy quả không sai. Bởi
những thăng trầm đổi thay của Hà Nội đều có sự chứng kiến của cây cầu này.
Hơn một thế kỉ qua, cầu Long Biên đã chứng kiến bao sự kiện lịch sử hào hùng,
bi tráng của Hà Nội. Hiện nay, tuy đã rút về vị trí khiêm nhường nhưng cầu Long
Biên vẫn mãi trở thành một nhân chứng lịch sử, không chỉ riêng Hà Nội mà của
cả nước.
Hình ảnh cây cầu Long Biên đã trở nên quen thuộc và là một phần không
thể thiếu của Hà Nội, vì đây là cây cầu đầu tiên bắc qua con sông Hồng bồi đắp
phù sa. Cây cầu ấy đã nhẹ nhàng đi vào thơ, văn và để lại cho người đọc những
cung bậc cảm xúc khác nhau khi nghĩ về một thời xa xưa của dân tộc. Một thời
mà quân và dân Thủ đô cũng như toàn thể nhân dân Việt Nam đứng lên chống
giặc với một ý chí kiên cường bất khuất. Trong tiểu thuyết của mình, Nguyễn
Huy Tưởng đã dựng lại hình ảnh cây cầu để một lần nữa khẳng định Cầu Long
Biên là nhân chứng của lịch sử. Tác giả viết “cầu Long Biên nổi lên những nhịp
mắc võng đen thui, nối đuôi nhau gày gày dài ngoẵng, nhấp nhô trên nền trời
sưng tấy, giật gân, hình ảnh nặng nề, ủ rũ, đầy đe dọa của một nơi đã vào tay
giặc. Xa xa, ngoài bãi, chốc chốc lại loáng lên những dòng nước phù sa của
sông Hồng phản chiếu ánh lửa, như những giọt nước mắt trào ra rồi lại khô đi.
Tất cả rùng rùng trong sự quay cuồng của khói lửa....Trời đất đảo điên và sáng
tối nhập nhòa tưởng như thời kỳ quả đất còn đang bốc cháy”[66, tr. 431- 432].
Trải qua thời gian hơn một trăm năm, cầu Long Biên vẫn luôn soi bóng
và gắn bó với dòng sông Hồng, với Hà Nội dấu yêu. Là cây cầu bắc qua ba
thế kỷ và mang trên mình những vết thương của chiến tranh, thế nhưng cây
cầu này vẫn sừng sững, hiên ngang trước mưa nắng của cuộc đời. Và đặc biệt
là nó đã trở thành biểu trưng của Hà Nội, là linh hồn thấm đẫm những giá trị
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
văn hóa-lịch sử của dân tộc, đồng thời cũng là gạch nối giữa quá khứ, hiện tại
và tương lai.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Tiểu kết chương 3
Nghệ thuật biểu hiện những dấu ấn văn hóa trong tiểu thuyết Sống mãi
với Thủ đô của Nguyễn Huy Tưởng được nhà văn khái quát ở những đặc sắc
như: nghệ thuật miêu tả nhân vật, ngôn ngữ và giọng điệu và các hình ảnh biểu
tượng. Trong nghệ thuật xây dựng nhân vật, tác giả tập trung vào các phương
diện ngoại hình, cử chỉ hành động hay tâm lí nhân vật. Ở mỗi phương diện đều
mang đậm dấu ấn văn hóa bởi con người chính là một trong những yếu tố làm
nên văn hóa. Về ngôn ngữ thì cũng giống như nhiều tác phẩm khác cùng viết về
đề tài lịch sử đó là ngôn ngữ mang chất sử thi hào hùng, ngoài ra nhà văn còn có
sự sáng tạo riêng cho mình với ngôn ngữ đời thường và chất giọng trữ tình lãng
mạn. Đặc biệt, điều làm nên dấu ấn văn hóa sâu đậm nhất trong tiểu thuyết này
là hệ thống các biểu tượng: Hồ Gươm, Cầu Long Biên, những con đường, dãy
phố.. Đây chính là những hình ảnh chủ đạo góp phần làm nên thế giới hình tượng
nghệ thuật độc đáo đậm đà bản sắc dân tộc trong tiểu thuyết Sống mãi với Thủ
đô của Nguyễn Huy Tưởng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
KẾT LUẬN
1. Văn học và văn hóa có mối quan hệ chặt chẽ, chúng tác động qua lại,
chi phối lẫn nhau. Nếu như văn hóa là “chất liệu” của văn học thì văn học lại là
phương thức làm nên diện mạo cho văn hóa. Với hướng nghiên cứu văn học từ
góc nhìn văn hóa đã được rất nhiều nhà phê bình trong giới văn học tiếp cận và
đánh giá là một hướng nghiên cứu có triển vọng. Trên cơ sở này chúng tôi đã
mạnh dạn tìm hiểu những dấu ấn văn hóa Hà Nội được thể hiện trong tiểu thuyết
Sống mãi với Thủ đô của Nguyễn Huy Tưởng ở một số phương diện.
2. Ở phương diện thứ nhất chúng tôi đã tìm thấy những dấu ấn văn hóa
đặc sắc của Thủ đô ngàn năm văn hiến qua bức tranh thiên nhiên. Trong cái ảm
đạm của chiến tranh tác giả vẫn cho người đọc thấy được những đặc trưng của
thời tiết vào những ngày cuối đông. Cảnh vật vào thời điểm này được Nguyễn
Huy Tưởng miêu tả mang một màu sắc riêng, một hương vị riêng của Hà Nội.
3. Bên cạnh bức tranh thiên nhiên văn hóa đó là đời sống văn hóa - xã hội
của con người Hà Nội. Đó là một đời sống vô cùng phong phú, đa màu sắc, với
những cây tò he xanh, đỏ, vàng, tím, lam...một trò chơi dân gian chứa đựng cả
một bầu trời tuổi thơ của con người, và tiếp đến là nét đẹp văn hóa trong kiến
trúc của những ngôi nhà cổ kính. Những ngôi nhà ở đó đã chứng kiến sự thay đổi
của thời gian làm cho văn hóa Hà Nội ngày thêm sâu sắc. Và cùng với đó là một
nét sinh hoạt khá độc đáo của người dân thủ đô qua việc tác giả miêu tả khu chợ
Đồng Xuân với những gian hàng đã bị đổ xuống vì sự khốc liệt của chiến tranh.
Nhà văn dành hẳn cho khu chợ này một chương trong tiểu thuyết để khẳng định
cái ý nghĩa to lớn của nó. Đây không chỉ là nơi buôn bán tập trung lớn nhất của
Thủ đô mà còn là trận địa để quân và dân ta đứng lên chống phá quân thù. Giá
trị lịch sử, văn hóa của khu chợ Đồng Xuân đã khiến nó trở thành một địa chỉ
văn hóa của Hà Nội trước đây cũng như hiện nay.
4. Dấu ấn văn hóa trong tiểu thuyết Sống mãi với Thủ đô nổi bật lên hình
ảnh của con người. Con người luôn được coi là trung tâm vậy nên trong tác phẩm,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Nguyễn Huy Tưởng đã dành cho hơn bốn mươi nhân vật của mình những trang
viết thật xuất sắc, phản ánh được một cách chân thực về con người, về xã hội, về
đất nước ta lúc bấy giờ. Những con người ấy hiện lên với nét đẹp thanh lịch, hào
hoa của những nam thanh nữ tú Hà Nội, sự duyên dáng tế nhị của họ góp phần
khẳng định nét đẹp trong văn hóa của dân tộc ta. Họ không những đẹp, duyên
dáng mà họ còn là những con người có bản lĩnh và nhân cách cao đẹp
5. Ở phương diện thứ hai, từ việc tìm hiểu một số phương thức thể hiện
dấu ấn văn hóa trong tiểu thuyết Sống mãi với Thủ đô của Nguyễn Huy Tưởng
qua cách tác giả xây dựng nhân vật, ngôn ngữ và hệ thống biểu tượng trong tác
phẩm. Văn hóa Hà Nội được nhà văn trải khắp toàn bộ tiểu thuyết, bao trùm lên
tất cả con người, những nếp nhà, những con đường, dãy phố, những gì diễn ra
trên từng trang viết của Nguyễn Huy Tưởng.
Ngày này, với sự phát triển của xã hội, xu hướng hội nhập và toàn cầu
hóa luôn được quan tâm hàng đầu. Chính vì vậy, mà quá trình đó đang được
diễn ra một cách sôi động. Điều đó cho thấy, xã hội càng phát triển thì việc giữ
gìn bản sắc văn hóa dân tộc càng có ý nghĩa hơn bao giờ hết. Và dân tộc Việt
Nam ta luôn luôn hội nhập theo xu hướng “hòa nhập chứ không hòa tan”. Như
vây, qua tiểu thuyết Sống mãi với Thủ đô nhà văn Nguyễn Huy Tưởng không
chỉ dựng lại bức tranh hào hùng của dân tộc ta trong cuộc kháng chiến, không
chỉ cho người đọc thấy được những dấu ấn văn hóa đặc sắc của Thủ đô Hà Nội,
mà còn khéo kéo nhắc nhở chúng ta, những thế hệ tương lai của đất nước hãy
biết trân trọng, giữ gìn và phát huy những truyền thống, những nét văn hóa tốt
đẹp đó.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Vũ Tuấn Anh (1992), “Khắc khoải đời văn”, Nguyễn Huy Tưởng một sự
nghiệp chưa kết thúc, Viện văn học, 4/1992.
2. Lại Nguyên Ân (1999), 150 Thuật ngữ Văn học, Nxb Đại học Quốc gia, Hà
Nội.
3. Lê Huy Bắc (1998), “Giọng và giọng điệu trong văn xuôi hiện đại”, Tạp chí
Văn học, tr.66.
4. Chevalier (Jean), Gheerbrant (Alain) (1997), Từ điển biểu tượng văn hóa
thế giới, Nxb Đà Nẵng.
5. Anh Chi (2015), “Nguyễn Huy Tưởng như tôi thấy, hôm nay”, Nhà văn
Nguyễn Huy Tưởng từ khởi nguồn Dục Tú - Đông Anh, Nxb Kim Đồng
6. Nguyễn Phương Chi (1984), “Sống mãi với Thủ đô”, Từ điển văn học, tập
11, Nxb Khoa học xã hội, H.
7. Nguyễn Minh Châu (1989), “Bên nhà văn Nguyễn Huy Tưởng, cùng ngắm
Hồ Gươm”, Báo Người Hà Nội số 144, ngày 19-5-1989.
8. Chu Xuân Diên (2002), Cơ sở Văn hóa, Nxb Đại học quốc gia thành phố
Hồ Chí Minh.
9. Phạm Đức Dương (2002), Từ văn hóa đến văn học, Nxb Văn hóa Thông
tin, Hà Nội.
10. Phan Cự Đệ (1997), Văn học, đổi mới và giao lưu văn hóa, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
11. Hà Minh Đức (2000), Lời giới thiệu Nguyễn Huy Tưởng về tác gia tác
phẩm, Nxb Giáo dục.
12. Hà Minh Đức (1984), “Nguyễn Huy Tưởng”, Lời giới thiệu Tuyển tập
Nguyễn Huy Tưởng, Nxb Văn học.
13. Hà Minh Đức (1961), “Sống mãi với Thủ đô tác phẩm cuối cùng của
Nguyễn Huy Tưởng”, Nhân dân, 18-6-1961.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
14. Hà Minh Đức, Phan Cự Đệ (1966), “Tiểu thuyết và kịch lịch sử trước Cách
mạng tháng Tám”, Trích Chuyên khảo Nguyễn Huy Tưởng (1912 - 1960),
Nxb Văn học, H.
15. Trần Văn Giàu (1980), Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
16. Nguyễn Thị Thu Hà (2015), “Nguyễn Huy Tưởng và tôi”, Nhà văn Nguyễn
Huy Tưởng từ khởi nguồn Dục Tú - Đông Anh, Nxb Kim Đồng
17. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên) (2009), Từ
điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội
18. Tô Hoài (2015), “Nguyễn Huy Tưởng người làng Dục Tú”, Nhà văn Nguyễn
Huy Tưởng từ khởi nguồn Dục Tú - Đông Anh, Nxb Kim Đồng
19. Mai Hương (1992), “Những trăn trở và khát khao sáng tạo”, Nguyễn Huy
Tưởng một sự nghiệp chưa kết thúc, Viện văn học.
20. Mai Hương (2015), “Tìm về với tuổi thơ Nguyễn Huy Tưởng”, Nhà văn
Nguyễn Huy Tưởng từ khởi nguồn Dục Tú - Đông Anh, Nxb Kim Đồng
21. Thanh Huyền (1996), “Nguyễn Huy Tưởng người viết sử bằng văn
chương”, Tạp chí Xưa và nay số 32 tháng 10.
22. Nguyễn Văn Hiệu (2006), “Mối quan hệ giữa nghiên cứu văn học và văn hóa
học”, Báo cáo tại Hội thảo khoa học “Nâng cao chất lượng đào tạo bậc sau đại
học chuyên ngành văn hóa học” do Bộ môn Văn học tổ chức tháng 01.
23. Nguyễn Khải (2014), Nguyễn Khải - Tuyển tập truyện ngắn, Nxb Văn hóa
Thông tin Hà Nội.
24. Lưu Văn Lợi (2015), “Nguyễn Huy Tưởng trước khi là nhà văn”, Nhà văn
Nguyễn Huy Tưởng từ khởi nguồn Dục Tú - Đông Anh, Nxb Kim Đồng
25. Phong Lê (1997), “Nguyễn Huy Tưởng - văn xuôi và kịch”, Văn học trên
hành trình của thế kỷ XX, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.
26. Phong Lê (1961), “Sống mãi với Thủ đô trong quá trình sáng tác của
Nguyễn Huy Tưởng”, Nghiên cứu văn học 12.
27. Ju. Lotman (2012), “Biểu tượng trong hệ thống văn hóa”, Tạp chí nghiên
cứu văn học, Tr 18 - 31
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
28. Nguyễn Thị Phương Lan (2017), Hà Nội trong sáng tác của Nguyễn Huy
Tưởng, trường hợp Sống mãi với Thủ đô, Luận văn thạc sĩ, Trường đại học
Khoa học - ĐHTN
29. Lê Phương Liên (2015), “Nguyễn Huy Tưởng từ miền cổ tích -quê hương”,
Nhà văn Nguyễn Huy Tưởng từ khởi nguồn Dục Tú - Đông Anh, Nxb Kim
Đồng
30. Nguyễn Thị Tuyết Minh (2015), “Tác phẩm của Nguyễn Huy Tưởng trong
nhà trường phổ thông”, Nhà văn Nguyễn Huy Tưởng từ khởi nguồn Dục Tú-
Đông Anh, Nxb Kim Đồng
31. Nguyễn Đăng Mạnh (2003), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà
văn, Nxb Giáo dục, Hà Nội
32. Nguyễn Như Mai (2015), “Đến với Nguyễn Huy Tưởng qua năm tháng cuộc
đời”, Nhà văn Nguyễn Huy Tưởng từ khởi nguồn Dục Tú - Đông Anh, Nxb
Kim Đồng
33. Phan Ngọc (1998), Bản sắc Văn hóa Việt Nam, Nxb Văn hóa thông tin,
Hà Nội
34. Nhiều tác giả (2015), Ngữ văn 7, Tập 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội
35. Nhiều tác giả (2013), Ngữ văn 12, Tập 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội
36. Nhiều tác giả (2008), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng
37. Nhiều tác giả (1984), Từ điển Văn học, tập II, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội
38. Nhiều tác giả (2006), Chân dung các nhà văn Việt Nam hiện đại, Nxb Giáo
dục, Hà Nội
39. Trần Đình Nam, Nguyễn Phương Chi (1985), “Sáng tác của Nguyễn Huy
Tưởng”, Tiểu thuyết Đêm hội Long Trì, Nxb Hà Nội.
40. Phạm Xuân Nguyên (2015), “Từ làng Dục Tú có một nhà văn”, Nhà văn
Nguyễn Huy Tưởng từ khởi nguồn Dục Tú - Đông Anh, Nxb Kim Đồng
41. Huỳnh Như Phương, Văn học và văn hóa truyền thống,
http://nhavantphcm.com.vn/tac-pham-chon-loc/nghien-cuu-phe-binh/van-
hoc-va-van-hoa-truyen-thong-huynh-nhu-phuong.html
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
42. Dương Trung Quốc (1999), “Đề tài lịch sử trong sáng tác của Nguyễn Huy
Tưởng”, Đêm hội Long Trì, bộ ba tác phẩm gồm Đêm hội Long Trì, An
Tư,Vũ Như Tô, Nxb Hà Nội.
43. Đỗ Huy Quang (2015), “Giá trị cội nguồn với sự nghiệp của nhà văn
Nguyễn Huy Tưởng”, Nhà văn Nguễn Huy Tưởng từ khởi nguồn Dục Tú-
Đông Anh, Nxb Kim Đồng.
44. Trần Đình Sử, Giá trị văn hóa của văn học Việt Nam,
http://trandinhsu.wordpress.com/2017/03/06/gia-tri-van-hoa-cua-van-hoc-
viet-nam/
45. Trần Đình Sử (1998), Dẫn luận thi pháp học, Nxb Giáo dục, Hà Nội
46. Trần Đình Sử (2005), Giáo trình Lí luận văn học, Nxb Đại học Sư phạm,
Hà Nội.
47. Trần Đăng Suyền (2012), Phương pháp nghiên cứu và phân tích tác phẩm
văn học, Nxb Giáo dục Việt Nam.
48. Hoàng Tiến (1992), “Nguyễn Huy Tưởng với đề tài Hà Nội”, Nguyễn Huy
Tưởng một sự nghiệp chưa kết thúc, Viện văn học, H.
49. Cao Xuân Thử (1992), ““Cung đình” trong bộ ba tác phẩm của Nguyễn Huy
Tưởng”, Nguyễn Huy Tưởng một sự nghiệp chưa kết thúc, Viện văn học 4.
50. Nguyễn Tuân (1996), “Sống mãi với Thủ đô”, Tuyển tập Nguyễn Tuân, tập
3, Nxb Văn học.
51. Nguyễn Ngọc Thiện (1992), “Sống mãi với Thủ đô - “Không chỉ là phản
ánh, mà còn là tổng kết, soi sáng”, Nguyễn Huy Tưởng một sự nghiệp chưa
kết thúc, Viện văn học, H.
52. Nguyễn Đình Thi (1960), “Vĩnh biệt Nguyễn Huy Tưởng”, Văn học số 105.
53. Nguyễn Bích Thu, Tôn Thảo Miên (2000), “Nguyễn Huy Tưởng - khát vọng
một đời văn”, Nguyễn Huy Tưởng về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục.
54. Nguyễn Bích Thu (2015), “Dấu ấn văn hóa trong tiểu thuyết Nguyễn Huy
Tưởng”, Nhà văn Nguyễn Huy Tưởng từ khởi nguồn Dục Tú - Đông Anh,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Nxb Kim Đồng
55. Nguyễn Huy Thắng (2015), “Cha tôi với quê hương Dục Tú”, Nhà văn
Nguyễn Huy Tưởng từ khởi nguồn Dục Tú - Đông Anh, Nxb Kim Đồng
56. Nguyễn Huy Thắng (1996), “Những khúc sông, mảnh hồ trong cuộc đời
cha tôi”, Tia sáng 11.
57. Nguyễn Huy Thắng (1997), “Cha tôi hình ảnh dệt từ trí tưởng”, Nguyễn Huy
Tưởng trong vầng sáng hồi nhớ, Nxb Hà Nội.
58. Nguyễn Huy Thắng (1997), “Cha tôi viết Sống mãi với Thủ đô”, Nguyễn
Huy Tưởng trong vầng sáng hồi nhớ, Nxb Hà Nội.
59. Đỗ Lai Thúy (2006), Quan hệ văn hóa và văn học từ cái nhìn hệ thống,
http://tiasang.com.vn/, ngày 17/11/2006
60. Đỗ Lai Thúy (2005), Văn hóa Việt Nam nhìn từ mẫu người văn hóa, Nxb
Văn hóa thông tin, Hà Nội
61. Trần Nho Thìn (2018), Phương pháp tiếp cận văn hóa trong nghiên cứu
giảng dạy văn học, Nxb Giáo dục Việt Nam
62. Trần Ngọc Thêm (1997), Cơ sở Văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội
63. Phạm Quốc Tuấn (2007), Cơ sở Văn hóa Việt Nam, Đề cương bài giảng,
Đại học sư phạm -Đại học Thái Nguyên
64. Trần Thị Việt Trung (2010), Bản sắc dân tộc trong thơ ca các dân tộc thiểu
số Việt Nam hiện đại, Nxb Đại học Thái Nguyên
65. Hà Xuân Trường (1994), Văn hóa - Khái niệm và suy ngẫm, Nxb Văn hóa
thông tin, Hà Nội
66. Nguyễn Huy Tưởng (2014), Sống mãi với Thủ đô, Nxb Kim Đồng
67. Nguyễn Huy Tưởng (2015), Đêm hội Long trì, Nxb Kim Đồng
68. Nguyễn Huy Tưởng (2010), An Tư, Nxb Kim Đồng
69. Trần Quốc Vượng (chủ biên) (2009) Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục
70. Trần Quốc Vượng (2000), Văn hóa Việt Nam tìm tòi và suy ngẫm, Nxb Văn
hóa dân tộc.