Khóa Luận Tốt nghiệp “Tìm hiểu văn hóa thưởng trà của người Hà Nội”
1
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU................................................................................................................... 4
1. Lý do chọn đề tài................................................................................................... 4
1.1 Thưởng trà - nét ẩm thực độc đáo của văn hoá Việt......................................... 4
1.2 Thưởng trà – tinh hoa ẩm thực đất Hà thành ................................................... 4
1.3 Thưởng trà - những giá trị văn hoá truyền thống của Hà Nội cần được bảo
tồn.............................................................................................................................. 6
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề.................................................................................... 7
3. Đối tượng nghiên cứu ........................................................................................... 9
4. Phạm vi nghiên cứu ............................................................................................ 10
5. Nhiệm vụ nghiên cứu.......................................................................................... 10
6. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu....................................................... 10
6.1 Nguồn tài liệu .................................................................................................... 10
6.2 Phương pháp nghiên cứu.................................................................................. 10
7. Đóng góp của khóa luận ..................................................................................... 11
8. Bố cục của khóa luận.......................................................................................... 12
NỘI DUNG ............................................................................................................. 13
CHƯƠNG 1 ............................................................................................................ 13
VĂN HÓA THƯỞNG TRÀ CỦA NGƯỜI HÀ NỘI XƯA................................... 13
1.1 Quá trình chuẩn bị ........................................................................................... 15
1.1.1 Chuẩn bị nguyên liệu...................................................................................... 16
1.1.2 Chuẩn bị trà cụ............................................................................................... 20
1.1.3 Chuẩn bị không gian và tâm thế thưởng trà .................................................. 24
1.2 Tiến hành pha chế............................................................................................. 26
1.2.1 Trà, nước, trà cụ............................................................................................. 26
1.2.2 Pha trà ............................................................................................................ 27
1.2.3 Rót trà ............................................................................................................. 28
1.3 Bắt đầu thưởng thức......................................................................................... 28
1.3.1 Thưởng trà độc ẩm ......................................................................................... 29
1.3.2 Thưởng trà đối ẩm .......................................................................................... 29
1.3.3 Thưởng trà quần ẩm....................................................................................... 30
2
Tiểu kết chương 1.................................................................................................... 31
CHƯƠNG 2 ............................................................................................................ 32
VĂN HÓA THƯỞNG TRÀ CỦA NGƯỜI HÀ NỘI NAY ................................... 32
2.1 Chuẩn bị............................................................................................................ 36
2.1.1 Chuẩn bị nguyên liệu...................................................................................... 37
2.1.2 Chuẩn bị trà cụ............................................................................................... 41
2.1.3 Chuẩn bị không gian, tâm thế thưởng trà ...................................................... 43
2.2 Pha chế .............................................................................................................. 46
2.2.1 Trà, nước, trà cụ............................................................................................. 47
2.2.2 Pha trà ............................................................................................................ 47
2.2.3 Rót trà ............................................................................................................. 48
2.3 Thưởng trà ........................................................................................................ 49
2.3.1 Đối tượng thưởng trà...................................................................................... 49
2.3.2 Không gian thưởng trà ................................................................................... 51
2.3.3 Phương thức thưởng trà ................................................................................. 53
Tiểu kết chương 2.................................................................................................... 54
CHƯƠNG 3 ............................................................................................................ 56
NHỮNG GIÁ TRỊ ĐẶC SẮC TRONG VĂN HÓA THƯỞNG TRÀ CỦA
NGƯỜI HÀ NỘI..................................................................................................... 56
3.1 Những giá trị văn hóa vật chất......................................................................... 56
3.1.1 Nguyên liệu..................................................................................................... 57
3.1.2 Trà cụ.............................................................................................................. 59
3.1.3 Pha chế ........................................................................................................... 61
3.2 Những giá trị văn hóa tinh thần....................................................................... 61
3.2.1 Thưởng trà để tận hưởng tinh hoa trời đất .................................................... 63
3.2.2 Thưởng trà để kết nối tâm giao....................................................................... 65
3.2.2 Thưởng trà để sống với thế giới tâm linh, chiêm nghiệm về cuộc sống nhân
sinh .......................................................................................................................... 68
Tiểu kết chương 3.................................................................................................... 72
KẾT LUẬN............................................................................................................. 73
TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................... 76
3
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Xuất phát từ 3 lý do sau mà chúng tôi đã lựa chọn đề tài này để nghiên cứu:
1.1 Thưởng trà - nét ẩm thực độc đáo của văn hoá Việt
Trà là quốc thủy của người Việt, là tinh chất của nền văn minh lúa
nước, trà đi vào tâm hồn Việt một cách tự nhiên, tĩnh lặng. Văn hóa trà Việt
không chỉ thể hiện là một thứ thức uống phổ biến trong đời sống sinh hoạt của
con người mà còn trở thành một thứ quan trọng và thiêng liêng trong phong
tục tập quán, là thú vui thanh cao, niềm tự hào của người Việt.
Người Việt Nam đã có thói quen dùng trà tự bao đời nay, không một
gia đình nào dù ở nông thôn hay thành thị, dù giàu có hay bần hàn mà lại
không có trong nhà một bộ ấm chén pha trà. Một thói quen không biết có từ
bao giờ và đã tạo thành một nếp sống văn hóa của gia đình người Việt, mỗi
khi nhà có khách đến chơi bao giờ việc đầu tiên cũng là pha một ấm trà mới,
mời khách rồi sau đó vừa uống trà vừa bàn chuyện. Trà đã là một thứ thức
uống quen thuộc, góp phần tạo nên điểm nhấn “vị ẩm” trong nghệ thuật ẩm
thực của người Việt, một thứ nghệ thuật chất chứa tính triết lý và nhân sinh
sâu sắc.
1.2 Thưởng trà – tinh hoa ẩm thực đất Hà thành
Hà Nội là mảnh đất ngàn năm văn hiến, là nơi tụ hội của nhân tài cả
nước, là trung tâm kinh tế - chính trị - văn hóa của toàn dân tộc. Văn hóa
thưởng trà của người Hà Nội là hội tụ đỉnh cao của nền văn hóa trà Việt. Đặt
trong nhịp sống hiện đại ngày hôm nay, văn hóa thưởng trà của người Hà Nội
đã có những thay đổi, chuyển biến. Bên cạnh việc lưu giữ được những nét văn
hóa của cha ông thì cũng đã có sự du nhập của phong cách thưởng trà mới.
Điều này đã khiến cho bức tranh văn hóa thưởng trà của người Hà Nội thêm
sinh động.
4
5
1.3 Thưởng trà - những giá trị văn hoá truyền thống của Hà Nội cần được
bảo tồn
Có thể nói, trong thời gian gần đây sự xuất hiện ngày càng đậm đặc các
phong cách thưởng trà khác nhau trên địa bàn Hà Nội, khiến cho mảng màu
về phong cách thưởng trà truyền thống đang bị phai nhạt dần trong bức tranh
văn hóa trà Việt. Điều này ảnh hưởng không nhỏ tới việc xây dựng hình ảnh
một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Một thực tế là sức lan tỏa
của những phong cách thưởng trà ngoại nhập đang dần dần lấn sân so với
phong cách thưởng trà truyền thống. Do đó “tìm hiểu văn hóa thưởng trà của
người Hà Nội” để thấy được những bước chuyển mình, những nét đặc sắc
trong văn hóa thưởng trà nơi đây nhằm có những định hướng bảo lưu những
giá trị văn hóa thưởng trà truyền thống đặc sắc và tinh tế đó.
Hơn nữa, Việt Nam được coi là quê hương của cây chè, là nơi sáng tạo
ra thứ trà sen hảo hạng nổi tiếng sánh ngang cùng ba nền văn hóa trà lớn của
nhân loại (Chanoyu của Nhật Bản, Kungfu của Trung Quốc và Panyaro của
Triều Tiên). Tuy nhiên, đỉnh cao là vậy nhưng nền văn hóa trà của Việt Nam
đến hiện nay chưa có những bước phát triển vượt bậc như các lĩnh vực khác.
Vì vậy tìm hiểu về văn hóa thưởng trà của người Hà Nội nhằm nêu ra những
giá trị truyền thống còn bảo lưu được đến ngày hôm nay, những vấn đề mới
phát sinh trong hiện tại. Nhằm có những cách nhìn đa chiều để hướng đến
phát triển nền văn hóa trà tương xứng với tiềm năng sẵn có.
Khóa luận nghiên cứu về văn hóa thưởng trà của người Hà Nội từ xưa
đến nay để đem đến một cái nhìn tổng quan thành một hệ thống. Và đặc biệt
chuẩn bị hướng tới kỉ niệm 1000 năm Thăng Long – Đông Đô – Hà Nội,
chúng tôi muốn đóng góp một chút sức mình nhằm góp phần lưu giữ và phát
huy vẻ đẹp truyền thống của một Hà Nội hào hoa, phong nhã.
6
Tất cả những lí do trên cùng sự hướng dẫn tận tình của TS Nguyễn Văn
Thắng, tôi đã mạnh dạn lựa chọn vấn đề: “Tìm hiểu văn hóa thưởng trà của
người Hà Nội” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp đại học của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Văn hóa thưởng trà là một bộ phận cấu thành nên văn hóa ẩm thực.
Vấn đề này đã được rất nhiều người đề cập đến. Trong kho tàng văn hóa trà
thế giới có rất nhiều những chuyên luận viết và ngợi ca về trà.
Từ những công trình đã nghiên cứu, chúng tôi xin có cái nhìn tổng quan
mang tính khái lược nhóm thành những vấn đề nghiên cứu theo các hướng
sau:
Đề cập đến nền văn hóa trà Trung Hoa. Trước hết, là cuốn “Trà kinh”
của Lục Vũ, đây là cuốn chuyên khảo đầu tiên về trà trên thế giới. Đây được
coi là cuốn bách khoa thư về trà lâu đời nhất đời Nhà Đường và có ảnh hưởng
sâu rộng nhất đến các đời sau này. Một số tác giả như Vũ Thế Ngọc với cuốn
“Trà Kinh – nghệ thuật thưởng trà trong lịch sử và văn hóa phương Đông”.
Đây là một cuốn sách cũng có thể coi là vô cùng giá trị. Ông đã có một cách
nhìn hết sức tinh tế, trên cơ sở kế thừa những kiến thức trong cuốn “Trà
Kinh” của Lục Vũ, Vũ Thế Ngọc đã phát triển nghiên cứu về lịch sử cây chè,
nghệ thuật thưởng trà và văn hóa phương Đông. Trong đó có một chương bàn
về “Trà Việt” tương đối hay. Nói chung, đó là sự tổng hợp những kiến thức về
văn hóa trà phương Đông có giá trị to lớn đối với những người có mong muốn
tìm hiểu về văn hóa trà. Ngoài ra còn công trình “Trà văn hóa đặc sắc Trung
Hoa” của Đông A Sáng, đây cũng là kết quả kế thừa từ “Trà Kinh” của Lục
Vũ. Cuốn sách ca ngợi nền văn hóa trà Trung Hoa, từ việc nói về lịch sử cây
chè, mạn đàm về danh trà, trà cụ, nước, trà và những vai trò của trà trong cuộc
sống người Trung Hoa.
Đề cập đến nghệ thuật trà đạo Nhật Bản. Đầu tiên là cuốn Trà Thư
của Kakuro Okakura viết bằng tiếng Anh và xuất bản lần đầu năm 1906 tại
7
Mỹ, cuốn sách đã được dịch ra rất nhiều các thứ tiếng khác nhau trên thế giới.
Cuốn sách là niềm tự hào của người Nhật về nghệ thuật Trà Đạo. Trong đó là
việc giới thiệu hết sức tỉ mỉ bằng một văn phong vô cùng thu hút từ cách nhìn
tổng quan về Trà Đạo đến cách thực hành, nghệ thuật thưởng ngoạn, nói về
chất đạo và thiền trong trà, các môn phái trà và trà sư,… Tác giả Nguyễn Bá
Hoàn với hai công trình “Trà Đạo” và “Trà luận – Tinh hoa văn hóa phương
Đông”, cả hai công trình này đều là sự ngưỡng mộ và kính trọng của tác giả
đối với Thiền và Đạo, cùng cảm hứng từ cuốn “Trà Thư” của Kakura
Okakuro. Đó là những trang viết có giá trị cho người Việt Nam có thể tham
khảo và hiểu hơn về trà đạo Nhật Bản từ triết lý cho đến văn hóa Trà Đạo của
người Nhật.
Các công trình viết về Văn hóa trà Việt. Một điều không thể phủ nhận
được rằng, mặc dù Việt Nam là quê hương của cây chè nhưng những chuyên
khảo về trà của người Việt đến tận thời điểm này vẫn còn là những ẩn số. Có
chăng chỉ là một vài công trình nghiên cứu ở tầm khái luận, bài báo và những
bài viết mang tính cảm nhận cá nhân. Đầu tiên là cuốn “Văn hóa trà xưa và
nay” do Tổng Công ty chè Việt Nam xuất bản, cuốn sách chỉ là tập hợp những
bài viết của cá nhân nhằm tôn vinh Trà Việt, điểm lại sự xuất hiện của trà
trong những trước tác của vĩ nhân Việt Nam, và mới chỉ bước đầu tìm hiểu về
văn hóa trà thế giới. Nhưng nhìn chung còn rất sơ sài, chưa tạo được sự gắn
kết giữa các phần để tạo được cảm hứng cho độc giả. Ngoài ra, năm 2008 GS
Đỗ Ngọc Quỹ đã xuất bản cuốn “Khoa học văn hóa trà Thế giới và Việt
Nam”. Cuốn sách tìm hiểu về lịch sử phát triển văn hóa trà thế giới và Việt
Nam, khoa học sản xuất chè, phong tục tập quán uống chè, công dụng và giá
trị tinh thần (phi vật thể) của trà.
Ngoài ra còn một số báo cáo khoa học cấp khoa của sinh viên nghiên
cứu về trà Hà Nội. Như báo cáo khoa học năm 2006, Khoa Việt Nam học của
hai sinh viên là Vũ Thị Như Trang và Trần Thị Hương Trà với đề tài “Trà với
8
người Hà Nội”. Báo cáo có đề cập đến trà Hà Nội xưa và nay, nêu ra được
thực trạng và một số giải pháp. Tuy nhiên, báo cáo chưa thật sự nghiên cứu
đúng hướng và sâu sắc theo tên của đề tài đưa ra, không tạo thành một hệ
thống kiến thức khiến người đọc không nắm bắt được ý tưởng của tác giả.
Ngoài ra, phải kể đến báo cáo khoa học năm 2008, Khoa Việt Nam học của
tác giả Trần Thị Kim Hoa với đề tài “Trà Hà Nội dưới góc nhìn văn hóa”.
Báo cáo đã nêu ra được quá trình phát triển của văn hóa trà Hà Nội từ truyền
thống đến hiện đại, có sự khảo sát thực tế tại một số quán trà trên địa bàn Hà
Nội, và đặt địa điểm nghiên cứu sâu là Lư Trà quán. Để từ đó thấy được thực
trạng phát triển của trà Hà Nội hiện nay và đề ra những giải pháp cho quá
trình phát triển trà Hà Nội.
Tuy nhiên, những tác phẩm và các công trình nghiên cứu trên phần thì
thiên về nghiên cứu các nền văn hóa trà lớn trên thế giới như Nhật Bản, Trung
Hoa. Còn những chuyên khảo về Trà Việt vẫn đang là một câu bỏ ngỏ. Một số
báo cáo nghiên cứu về văn hóa trà Hà Nội thì chưa thật sự nghiên cứu thành
một hệ thống rõ ràng, hoặc có nghiên cứu thì chỉ mới trên phương diện cảm
tính, chưa có những số liệu cụ thể để minh chứng cho tình hình phát triển văn
hóa thưởng trà của người Hà Nội. Tính đến thời điểm hiện nay, chưa có một
tác giả nào nghiên cứu vấn đề về văn hóa thưởng trà của người Hà Nội theo
một quá trình xuyên suốt từ xưa đến nay, để thấy được hệ giá trị đặc sắc của
nó. Vì vậy mà quá trình tìm hiểu về văn hóa thưởng trà của người Hà Nội cần
được nghiên cứu thành một hệ thống kiến thức để thấy được quá trình phát
triển, bước chuyển mình của văn hóa thưởng trà của người Hà Nội từ xưa đến
nay, đồng thời rút ra được những giá trị văn hóa vật chất và tinh thần đặc sắc
nhất còn được bảo lưu, và phát triển thêm mới trong xã hội hiện nay.
3. Đối tượng nghiên cứu
Như tên đề tài đã nêu rõ, đối tượng nghiên cứu của khóa luận này là
văn hóa thưởng trà của người Hà Nội.
9
4. Phạm vi nghiên cứu
Trong khóa luận này, chúng tôi xin giới hạn phạm vi nghiên cứu của
mình là tìm hiểu về văn hóa thưởng trà của người Hà Nội theo một quá trình
lịch sử từ xưa đến nay, thông qua việc khảo sát trên địa bàn Hà Nội (tính trên
địa bàn Hà Nội đến trước tháng 8 năm 2008).
Trong quá trình khảo sát để thực hiện đề tài, chúng tôi đã tiến hành tìm
hiểu ở hầu khắp các quán trà với những phong cách khác nhau trên địa bàn Hà
Nội và lấy trọng tâm là Hiên Trà Trường Xuân (13 Ngô Tất Tố).
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
Tìm hiểu vị trí, vai trò của văn hóa thưởng trà của người Hà Nội trong
nền văn hóa trà Việt.
Làm rõ bước chuyển mình của văn hóa thưởng trà của người Hà Nội từ
xưa tới nay, những giá trị văn hóa truyền thống còn được bảo lưu, những giá
trị văn hóa mới được hình thành.
6. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu
6.1. Nguồn tài liệu
Khóa luận đã sử dụng tổng hợp nhiều nguồn tài liệu. Trước hết là
những tác phẩm đề cập tới vấn đề văn hóa trà nói chung vì chưa có chuyên
luận nào viết đầy đủ và sâu sắc về văn hóa thưởng trà của người Hà Nội. Bên
cạnh đó, khóa luận cũng tham khảo một số trang báo điện tử viết về văn hóa
trà, đặc biệt là trang http://www.traviet.org, đây là chuyên trang điện tử của
câu lạc bộ Trà Việt, đã cung cấp một nguồn tư liệu khá quan trọng cho khóa
luận. Ngoài ra, khóa luận còn sử dụng rất nhiều tư liệu thu thập được từ quá
trình điền dã nghiêm túc của người viết.
6.2. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành khóa luận, trong quá trình viết chúng tôi đã sử dụng một
số phương pháp sau:
10
Phương pháp liên ngành
Trong một chừng mực nhất định, chúng tôi sử dụng phương pháp liên
ngành để có cơ sở khoa học xác đáng lý giải và đưa ra những nhận định khoa
học cần thiết.
Phương pháp dân tộc học
Phương pháp dân tộc học bao gồm các phương pháp nghiên cứu như
phân tích – tổng hợp, thống kê, bảng biểu giúp tác giả tổng hợp được những
kiến thức liên ngành để hoàn thiện khóa luận. Nghiên cứu so sánh được tác
giả áp dụng để so sánh giữa nguyên liệu trà, trà cụ, cách thức pha chế, quá
trình thưởng thức của người Hà Nội so với một số quốc gia khác trên thế giới
như Nga, Ấn Độ, Nhật Bản,… Ngoài ra còn có cách thức mô tả để diễn tả
bằng ngôn từ toàn bộ quá trình chuẩn bị nguyên liệu, cách thức pha chế cũng
như cách thức thưởng thức các thức trà. Từ đó thấy được phong cách độc đáo,
tinh tế, phong nhã và hết sức lịch lãm của người Hà Thành.
Phương pháp điền dã
Đây là phương pháp được tác giả thực hiện một cách triệt để nhất. Vì
để có được những kết quả cụ thể, có những cách nhìn khách quan về tình hình
thưởng trà ở Hà Nội hiện nay.
Chúng tôi đã tiến hành khảo sát thực địa tại phần lớn các quán trà nổi
tiếng tại Hà Thành với nhiều phong cách khác nhau. Từ đó, đi đến quyết định
lựa chọn Hiên Trà Trường Xuân làm địa điểm nghiên cứu chuyên sâu.
7. Đóng góp của khóa luận
Đề tài được thực hiện sẽ có những đóng góp sau:
Đây là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách hệ thống, chuyên sâu
về văn hoá thưởng trà Hà Nội trong cái nhìn lịch đại theo mạch vận động của
thời gian từ truyền thống đến hiện nay.
Khẳng định nét tinh hoa đã tạo thành giá trị văn hoá ẩm thực đặc sắc
trong văn hoá thưởng trà của người Hà Nội.
11
Chỉ ra những nét văn hoá mới đang được hình thành, từ đó cho thấy
bức tranh văn hoá thưởng trà của người Hà Nội đang được tô thêm màu sắc
mới.
Góp phần khẳng định chất thanh lịch của người Tràng An thông qua
văn hoá thưởng trà xưa và nay.
8. Bố cục của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo, phần nội
dung của khóa luận bao gồm ba chương.
Chương 1: Văn hóa thưởng trà của người Hà Nội xưa.
Chương 2: Văn hóa thưởng trà của người Hà Nội nay.
Chương 3: Những giá trị đặc sắc trong văn hóa thưởng trà của người
Hà Nội.
12
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
VĂN HÓA THƯỞNG TRÀ CỦA NGƯỜI HÀ NỘI XƯA
Ở Việt Nam cây chè đã được người dân biết đến và sử dụng như một
loại thức uống phổ biến trong đời sống của nhân dân từ bao đời nay. Những
vùng chè nổi tiếng như Thái Nguyên, phú Thọ, Yên Bái, Lạng Sơn, Tuyên
Quang, Lâm Đồng…là nơi trồng và sản xuất ra những sản phẩm chè chất
lượng cao.
Tuy nhiên có nhiều cách thức chế biến khác nhau để tạo ra những loại
nước uống mang đặc trưng riêng. Theo cách hiểu chung của người Việt Nam
thì việc hái lá cây chè, rửa sạch, vò nát để đun nước uống thì gọi là chè tươi
(hoặc chè xanh tùy từng vùng). Nhưng khi những búp chè tươi trải qua những
cung đoạn chế biến như xao khô, phơi, sấy và có thể là ướp hương các loại
hoa thì gọi là trà. Vì quá trình chế biến khá phức tạp và tốn nhiều công sức
nên giá thành của trà đắt hơn rất nhiều so với thứ chè cây tại vườn của các gia
đình.
Hà Nội là thủ đô, là trung tâm văn hóa – kinh tế - chính trị, là nơi gặp
gỡ của những giá trị văn hóa tinh túy nhất cả nước. Đảm nhiệm vai trò là đầu
não, là trái tim của đất nước nên Hà Nội trong quá trình giao lưu và hội nhập
phải luôn luôn là điểm đi tiên phong để đón nhận những giá trị văn hóa,
những bước chuyển mình mạnh mẽ nhất.
Người Hà Nội tài hoa, thanh lịch trong từng cử chỉ và lời nói. Nét tinh
tế được thể hiện trong lối sống, trong từng sản phẩm làm ra. Những thức quà
Hà Nội dù nhỏ bé, đơn giản, mộc mạc đấy nhưng chất chứa rất nhiều tâm
huyết cũng như bí quyết độc đáo để không thể trộn lẫn, không nơi nào có thể
sánh được.
Hà Nội không phải là mảnh đất trồng chè nhưng lại là nơi đánh dấu, là
điểm nhấn để khẳng định sự tồn tại và phát triển của nền văn hóa trà Việt. Nơi
13
đây là địa điểm giao thương và buôn bán những sản vật quý của từng địa
phương, là nơi hội tụ những mặt hàng có giá trị và tinh tế nhất. Và trà cũng là
một trong những sản phẩm được người Hà Nội xưa vô cùng ưa chuộng, nâng
niu.
Theo sử sách ghi lại, hình thức uống trà được khởi nguồn từ các chùa
chiền. Như vậy cũng đồng nghĩa với việc thưởng trà gắn liền với đạo Phật của
người Việt, và hình thức thưởng trà này được gọi là Thiền Trà. Các nhà sư
thường thưởng trà vào buổi sáng sớm hoặc chiều muộn để giữ lòng thanh
tịnh. Hình thức thưởng trà này đã được nâng lên thành nghi lễ Thiền Trà.
Hình thức Thiền Trà ngày nay cũng đã phai nhạt đi rất nhiều, tuy nhiên tại
miền nam hình thức thiền trà tại các chùa còn tồn tại nhiều hơn so với các
chùa ở miền Bắc. Tại Hà Nội tới thời điểm hiện tại chỉ có chùa Vân Trì (Phú
Diễn – Từ Liêm) là tiến hành nghi lễ Thiền Trà định kỳ, ngoài ra chùa Đình
Quán (Phú Diễn – Từ Liêm) cũng có tổ chức nghi lễ này trong những dịp
quan trọng nhưng không đều đặn. Từ chùa chiền, hình thức thưởng trà nhanh
chóng được ưa chuộng trong chốn cung đình. Chỉ có những người thuộc tầng
lớp vua quan, quý tộc quyền quý mới thưởng thức trà với những hình thức hết
sức cầu kì, còn người dân bình thường chỉ uống chè tươi.
Trong suốt thời kỳ phong kiến, thưởng trà là cái thú chỉ có vua, quan lại
hoặc những gia đình quý tộc mới có. Và cách thức thưởng thức của họ vô
cùng cầu kỳ, tinh tế. Vào thế kỷ XVIII, trà đã trở thành một thức quý giá và
được trân trọng “Các nhà quý tộc, các bậc công hầu, các con em nhà quý
thích đều đua chuộng xa xỉ, có khi mua một bộ ấm chén, phí tổn đến vài mươi
lạng bạc. Thường có nhiều người đến chơi các hiệu chè, thăm dò các phố
buôn, vác tiền hết quan ấy chục khác để mua lấy chè ngon. Lúc ngồi rỗi, pha
chè uống với nhau, lại đánh cược xem chè đầu xuân năm nay sớm hay muộn,
giá chè năm nay cao hay hạ. Kẻ thì ưa thanh hương, người thì ưa hậu vị, kén
hiệu trỏ tên, mua cho được chè ngon, bày khay chén ra nếm thử. Thậm chí có
14
kẻ đặt tiền sẵn mua cho được hiệu chè Chính Sơn, gửi tàu buôn đặt cho được
kiểu ấm chén mới lạ, cách hiếu thượng đến thế là cùng cực” [10;32].
Theo dòng lịch sử đến những năm chiến tranh chống thực dân đế quốc
xâm lược từ cuối thế kỉ XIX - XX, người Hà Nội cũng như nhân dân cả nước
phải gồng mình chiến đấu với bom đạn ác liệt của kẻ thù. Nên phần nào đó
thú chơi của những ngày bình yên đã có thời gian bị hạn chế. Tuy nhiên
không vì vậy mà người Hà Nội lãng quên mọi thứ. Chiến đấu đấy, vội vàng
đấy nhưng những người Hà thành thanh lịch vẫn giữ cho mình những nét văn
hóa, những bí quyết sáng tạo độc đáo trong nghệ thuật thưởng trà. Những gia
đình nghệ nhân trà truyền thống tại Hà Nội vẫn âm thầm giữ gìn niềm đam
mê và bí quyết của gia đình mình cho những thế hệ sau này. Để đem đến cho
nền văn hóa trà Việt niềm tự hào về một Hà Nội hào hoa, những con người
Hà Nội thanh lịch và trà sen mang hình ảnh của một thủ đô ngàn năm tuổi.
Dương Thụ đã từng nói: “Người Hà Nội xưa coi uống trà là thanh cao
còn uống rượu là tầm thường thôi. Trà hợp với cảnh thanh tịnh, rượu hợp với
cảnh náo nhiệt. Uống trà hưởng được ba điều hay: thú thanh nhàn, thú đàm
đạo và thú giao thiệp”. Đối tượng thưởng trà của người Hà Nội xưa thông
thường là những người “sang” và “nhàn”. Chính vì vậy mà văn hóa thưởng trà
người Hà Nội xưa rất tinh tế và độc đáo. Điều này được thể hiện qua quá trình
chuẩn bị nguyên liệu, chuẩn bị không gian và tâm thế thưởng trà, cho đến quá
trình pha chế, thưởng thức cũng mang dáng dấp thanh lịch của người Hà
thành.
1.1. Quá trình chuẩn bị
Người Hà Nội xưa để chuẩn bị cho mỗi buổi thưởng trà thường rất cầu
kỳ và cẩn trọng. Từ việc chuẩn bị nguyên liệu, trà cụ cho tới không gian và
tâm thế thưởng trà tất cả đều được chuẩn bị một cách chu đáo. Cho dù đó là
việc pha trà mời khách hay chỉ là pha trà cho riêng bản thân mình thưởng
thức.
15
1.1.1 Chuẩn bị nguyên liệu
“Nhất nước, nhì trà, tam pha, tứ ấm” đấy là kinh nghiệm của các bậc
tiền nhân sành trà để lại cho hậu thế. Nhưng nước, trà, ấm và cách thức pha
chế như thế nào để đạt được một ấm trà ngon, thỏa nguyện những người
thưởng trà thì đó lại là một nghệ thuật. Những gia đình nho sỹ Hà thành xưa
luôn giữ cho mình một thói quen thưởng trà hết sức phong lưu, lịch lãm và
trân trọng chén trà.
Nước
Xét về mức độ quan trọng quyết định đến chất lượng của ấm trà ngon
hay không ngon thì yếu tố “nước” được đặt lên hàng đầu trong danh mục
nước, trà, pha chế và bộ ấm pha trà. Từ xưa đến nay, từ Đông sang Tây, tất cả
những người sành trà trên bốn bể đều khẳng định “nước” là vấn đề căn bản
thứ nhất. Các cụ ta vẫn gọi nước là “trà hữu”, là bạn thiết của trà là vì lẽ đó.
Lục Vũ người được xưng tụng là “Trà Thánh” của nền văn hóa trà Trung Hoa
đã khẳng định một câu nói đã trở thành “khuôn vàng thước ngọc” cho trà
nhân cả ngàn năm nay: “Nước suối núi hạng nhất, nhì đến nước sông, ba đến
nước giếng” (Sơn thủy thượng, giang thủy trung, tỉnh thủy hạ). Tuy nhiên
nước suối không phải bạ đâu lấy đó. Nước từ trên cao đổ xuống cũng không
được, nước suối ở những khúc chảy lờ đờ qua đất cát cũng không được. Nước
suối tốt nhất phải lấy ở khúc suối chảy trên sỏi, chảy vào hồ đá. Nước sông,
đây phải là sông ngày xưa chưa bị nhiễm độc như bây giờ. Đương nhiên cũng
phải lấy ở thượng nguồn, lấy giữa dòng sông, nơi sông không chảy siết như
sắp đến đập đến thác, nơi sông phải xa nơi người ở .v.v…Về nước giếng, thì
những giếng thượng hạng thường là giếng của chùa, chùa ở trên núi hoặc ít
nhất cũng là ở xa nơi đô hội phồn tạp…
Còn người Hà Nội xưa, do địa thế không gần nguồn suối mà lại thuộc
hạ lưu sông nên thường pha trà bằng nước mưa và nước giếng khơi. Khi mưa
được khoảng 10 phút (khi đã hết bụi bẩn trong không gian) người ta mang bàn
16
ra giữa sân gạch, lấy chậu sành to để lên trên bàn (hay trên nóc nhà ngói)
hứng nước mưa, cất đi để dành. Nước ở giếng khơi thì phải chọn những giếng
đào xuống phía dưới có đá ong, giếng được đào ở những nơi xa khu dân cư,
sạch sẽ, nước trong, vị ngọt, uống nước lã mà thấy ngon và mát lành. Nhưng
cũng có những người sành trà ở Hà Nội và Huế đã rất cẩn thận dậy từ sáng
sớm khi chưa có mặt trời đi thuyền ra giữa hồ sen hứng những giọt sương
đêm mang về làm nước pha trà.
Các cụ thường tự tay nấu nước trong những ấm đồng để trên hỏa lò đất
đốt bằng than hoa, soạn ngay trong phòng khách chớ không nấu ở dưới bếp
đem lên vì sợ lẫn mùi xào nấu. Kỹ thuật đun nước cũng vô cùng quan trọng.
Mà đun nước phải cần có hỏa lò đúng cách và chất lượng than đạt yêu cầu.
Dân sành trà luôn có riêng một hỏa lò và ấm nước đun bằng kim loại giành
riêng cho việc nấu nước pha trà, chứ không chung đụng dùng vào việc khác vì
sẽ làm mất hương vị trà. Độ nóng của nước cũng quyết định chất lượng chén
trà, không đủ độ nóng thì không chiết hết tinh trà, quá nóng trà nhũn và bay
mất hương trà. Người Hà Nội xưa rất tinh tế, người ta thường lắng đọng tâm
hồn vào chén trà ngay trước khi nó được pha, các cụ thưởng thức trà ngay từ
tiếng reo của nước đang đun để phân biệt ba loại nước sôi. Độ thứ nhất là
nước sôi “giải nhãn” trông như mắt loài cua (mới chớm sôi); độ thứ nhì là
“ngư nhãn” tức bọt nước lăn tăn trông giống như mắt đàn cá đang lội gần mặt
nước (sôi vừa), cuối cùng là nước sôi to. Và với mỗi loại trà sẽ có cách thức
chọn độ sôi của nước cho phù hợp thì mới có thể có được ấm trà tuyệt hảo.
Để có một ấm trà ngon bên cạnh sức quan trọng của “nước”, “trà” cũng
là một vấn đề rất cần chú ý. Người Hà Nội xưa đã rất tỉ mỉ, kì công để chuẩn
bị một ấm trà, lựa chọn những loại trà ngon nhất và phù hợp nhất cho từng đối
tượng, không gian và mục đích buổi thưởng trà.
17
Trà
Chúng tôi đã đọc được ở đâu đó câu nói: “Trà không có cái cao ngạo
của rượu nho, chất cá nhân tự thức của cà phê, hay cái vẻ thơ ngây mời mọc
của ca cao”. Theo chúng tôi nghĩ Trà là một thức uống hết sức bình dị của
nhiều dân tộc trên thế giới. Nhưng để thưởng thức được một ấm trà ngon thì
đòi hỏi người thưởng trà phải thực sự hiểu về trà, đặt trọn tâm huyết mình với
chén trà cùng với một nghệ thuật thưởng trà tinh tế đến từng chi tiết.
Ca dao Hà Nội xưa từng ca ngợi cách thưởng trà mạn qua câu ca dao:
“Làm trai biết đánh tổ tôm
Uống trà mạn hảo, xem nôm Thúy Kiều”
Nhưng xưa ở Hà Thành có ba nhà buôn trà lớn: Chính Thái, Sinh Thái,
Ninh Thái (nhưng lâu đời nhất là hiệu Chính Thái), nên người ta đã sửa câu ca
dao thành:
“Làm trai biết đánh tổ tôm
Uống trà Chính Thái, xem nôm Thúy Kiều”
Nghệ nhân Viên Trân cho biết: cây chè, văn hóa uống trà xuất phát từ
nền văn minh lúa nước phương Nam sau đó mới du nhập vào nền văn minh
du mục của các bộ tộc bờ Bắc sông Dương Tử, trung tâm của nền văn minh
Hoa Hạ, để rồi lan khắp năm châu bốn biển như ngày nay.
Người sành trà Hà Nội xưa thường chỉ ưa chuộng loại trà mộc, tức là
loại trà không tẩm ướp bất kì thứ hương hoa nào. Trong bài “Kệ uống trà” của
Cao Bá Quát: “Chọn bạn chọn bề ngoài/ không thấy điều hẳn hoi/Uống chè
có ướp hương/Biến mất hương chè rồi”. Cao Chu Thần làm bài kệ này chủ
trương uống trà chỉ thuần túy với mùi trà, không chấp nhận các loại trà ướp
hương hoa. Đây cũng là chủ trương của phần lớn các vị trà nhân.
Muốn có chén trà ngon, nhiều người đã lên tận những vùng trồng chè
nổi tiếng như Suối Giàng, Thái Nguyên, Phú Thọ chọn những loại chè ngon
nhất để tự tay sao chế bằng những phương pháp hết sức công phu. Trà móc
18
câu là loại trà chỉ được hái đọt non nhất nên sau khi sao quăn lại giống hình
móc câu. Song, người sành trà lại bảo phải gọi là “trà mốc cau” mới đúng vì
trà tròn cánh, trôi tay, có mốc trắng như mốc cây cau. Còn trà sao suốt là
phương pháp sao trà bằng nhiệt, tách nhiệt bằng tay với ngọn lửa liên tục đều
đặn trên chảo gang. Theo các nghệ nhân sao chế trà: trà ngon cũng như bạn
hiền, chỉ có thể may mắn gặp chứ không thể cầu mà có được. Bởi các yếu tố
như thời khí nặng nhẹ, mưa nắng mạnh yếu, độ ẩm, bàn tay người chăm sóc,
thậm chí hướng gió và hướng trồng chè (chè trồng hướng Đông sẽ ngon hơn
chè trồng hướng Tây) cũng ảnh hưởng đến chất lượng trà. Trà ngon, nước
phải trong xanh, ngửi như có hương cốm non, dư vị đọng mãi trong cổ. Còn
để bảo quản trà, theo các cụ sành trà, trà mạn phải để trong bình gốm hay sứ,
mà phải là bình tối màu, sao cho hạn chế tối thiểu ánh sáng vào vì chính ánh
sáng là thủ phạm làm giảm hương vị trà.
Nhắc đến nghệ thuật trà Hà Nội người ta sẽ hình dung ngay đến nghệ
thuật tẩm ướp trà sen, là hội tụ đỉnh cao của cái tinh tế, phong cách tao nhã,
thanh lịch và sành điệu của người Tràng An. Trong đó bông sen là thứ hoa
thông dụng nhất mà cũng là quý nhất, ướp trà ngon nhất. Ngoài ra, người Hà
Nội xưa còn có những cách tẩm ướp trà với các loại hương hoa quý khác như
hoa ngâu, hoa nhài, hoa sói, hoa thủy tiên, hoa cúc,…Tất cả những loại trà đó
đều có những hương vị đặc trưng riêng và phù hợp với từng tâm thế khác
nhau của người thưởng trà.
Tuy nhiên, phải khẳng định lại một lần nữa, trà ướp hương có những
cái ngon đặc biệt của nó nhưng các “chân trà nhân” đất Thăng Long xưa thì
bao giờ cũng chuộng trà đơn thuần (trà mộc) hơn hết.
Trong việc chuẩn bị nguyên liệu để pha chế một ấm trà ngon ngoài
nước và trà ngon, thì chúng ta không thể quên một thứ chất đốt là than hoa để
đun nước pha trà.
19
Chất đốt
Nước pha trà đã được người Hà Thành xưa lựa chọn rất cẩn trọng thì
không có lí do gì mà họ lại cẩu thả với chất đốt để đun nước, vì chất đốt sẽ
quyết định đến mùi vị của thứ nước được đun sôi. Không thể sử dụng thứ củi
ướt, củi tạp để đun nước vì như vậy sẽ khiến cho nước có mùi khói ảnh hưởng
đến hương vị của ấm trà. Than hoa là thứ mà những “chân trà nhân” lựa chọn,
vì than hoa giữ được nhiệt tốt, không có khói làm hỏng vị nước. Than phải
chắc để đượm lửa, ít phải cho than mới vào gây khói ám vào nước (Xin xem
hình 25 phần phụ lục ảnh). Than cây nhãn dùng rất tốt nhưng người Việt thời
trước còn có loại than đặc biệt: trái ổi xanh phơi khô dùng để đun. Người
Quảng Đông lại thích dùng quả ô-liu để làm chất đốt khi pha trà. Người Hàn
Quốc lại sử dụng nguyên liệu đun nước là củi.
Trong truyện “Chén trà sương”, Nguyễn Tuân còn thi vị hóa việc đun
nước pha trà, cho từng hòn than ngọn lửa một hình ảnh rất nghệ thuật:
“Những hòn than tàu cháy đều, màu đỏ ửng, có những tia lửa xanh lè vờn
quanh. Không khí mỗi lúc giao động càng nâng cao thêm những lưỡi ngọn
lửa xanh nhấp nhô. Hòn lửa rất ngon lành, trở nên một khối đỏ tươi và trong
suốt như thỏi vàng thổi chảy”.
Như vậy, riêng cung đoạn chuẩn bị nguyên liệu cho việc pha trà trong
một buổi thưởng trà của các cụ sành trà Tràng An đã lắm công phu, hiểu biết
và nhiều tâm huyết.
1.1.2 Chuẩn bị trà cụ
Trong nghệ thuật thưởng trà của người Hà Nội xưa, trà cụ là thứ vô
cùng quý giá và được sử dụng phù hợp trong những tâm thế cũng như bối
cảnh thưởng trà riêng. Những trà cụ quan trọng không thể thiếu hoặc thay thế
bằng những thứ đồ khác đó là ấm đun nước bằng đồng, hỏa lò, ấm pha trà,
chén thưởng trà…
20
Ấm pha trà
Sự ảnh hưởng không thể phủ nhận được đó là sự xuất hiện và tôn sùng
của dân ta với các loại ấm pha trà của Trung Quốc. Hẳn không người sành trà
nào trên đất Hà Nội xưa là không biết đến câu “Thứ nhất Thế Đức gan gà/Thứ
nhì Lưu Bội, thứ ba Mạnh Thần”. Đây là ba chủng loại của ấm Nghi Hưng,
thích hợp dùng cho những loại trà mộc. Ấm Thế Đức hiện nay vẫn chưa rõ
chủ nhân của tên này, chỉ biết ấm đất đó màu gan gà (tức màu nâu pha vàng)
dưới đáy có ghi chữ Thế Đức. Còn ấm Lưu Bội cũng là ấm Nghi Hưng do
Thiệu Cảnh Nam, hiệu Lưu Bội (1821 - 1850), đời Đạo Quang nhà Thanh
sáng tạo và truyền cho lò của mình. Mạng Thần (1589 - 1684) cũng là tên của
một nghệ nhân sáng tạo ra loại ấm này (tên đầy đủ là Huệ Mạnh Thần, hiệu
Kinh Khê). Ngày xưa các nghệ nhân hay ghi tên mình cùng với đời vua dưới
đáy ấm nên thành tên.
Giá trị của ấm Nghi Hưng ở chỗ không có tráng men nên hấp thụ nước
trà khiến càng lâu ngày trà càng có hương vị thơm hơn. Những người sành trà
Hà Nội xưa thường không thích ấm mới vì còn hôi mùi đất, ấm càng cũ và
trong lòng ấm có gợn lớp bợn trà mới cho trà ngon. Do vậy, các cụ ít dùng
chất tẩy rửa bên trong ấm trà, chỉ tráng qua nước nóng sau khi dùng rồi úp
cho khô ráo. Thậm chí có người mua ấm đất về không đem dùng ngay mà
dùng vật nhám chà trong ngoài cho hết bụi đất lò nung gốm bám dính vào, rồi
rửa sạch. Kế đó cho bã trà vào nấu nhiều giờ cho hơi trà ngấm vào gốm, có
người nấu như vậy mấy ngày đêm, lúc đó ấm có hơi trà và mùi đất nung biến
mất, hương vị trà không bị át mất. Đối với người Nga chiếc bình Samovar là
thứ không thể thiếu đối với mỗi người dân nơi đây. chiếc bình Samovar chứa
đầy trà nóng với những hộp đường viên là một đặc trưng không thể thiếu khi
nghĩ về cách thưởng trà của người Nga.
21
Ngoài ra ấm trà còn phân chia theo số người uống: ấm độc ẩm (Hình
11) chỉ để một người thưởng thức, ấm song ẩm (Hình 12) dùng cho hai người
đối ẩm, hay nhiều người thì dùng ấm quần ẩm (Hình 13).
Trong truyện “những cái ấm đất” Nguyễn Tuân có đề ra tiêu chuẩn lựa
ấm: “Nếu không tin ông cứ úp ấm xuống mặt gỗ kia. Cho ấm ngửa trôn lên.
Cứ xem miệng vòi với quai và gờ miệng ấm đều cắn sát mặt bằng miếng gỗ
thì biết. Nếu muốn thử kĩ nữa, quý khách thả nó vào chậu nước, thấy nó nổi
đều, cân nhau không triềng, thế là đích ấm tàu”. Nhưng thực ra chỉ chừng ấy
thì chưa đủ, vì chỉ là chiếc “ấm Tàu” chứ không phải chiếc ấm pha trà tốt.
Theo các cụ xưa muốn có một ấm pha trà tốt cần phải đạt thêm hai tiêu chuẩn
sau: 1- Vỏ ấm phải cứng, cầm ấm lên gõ nhẹ vào thành ấm nghe boong boong
càng trong càng quý. 2- Nắp ấm phải kín, thử bằng cách đổ ¾ nước vào ấm
rồi đậy nắp lại (tay ghì giữ nắp ấm cho chặt) và nghiêng vòi nếu nước không
chảy ra thì nắp ấm kín. Vỏ càng cứng càng ít thẩm thấu và nắp càng kín càng
ít thoát hơi nước, có như vậy trà mới ấm lâu và ít bay thoát hương vị.
Như vậy, người Hà Nội xưa kia đã rất cầu kỳ, bỏ nhiều công sức cho
việc lựa chọn chiếc ấm pha trà, để thỏa mãn một thú chơi hết sức tinh tế và
nghệ thuật của mình.
Chén thưởng trà
Bên cạnh tầm quan trọng của chiếc ấm pha trà thì những chiếc chén
cũng là những thứ không thể thiếu trong số trà cụ. Người sành trà Hà thành
xưa thường có đầy đủ bộ chén với chén tống (Hình 4), chén quân (Hình 5) và
loại chén phân theo mùa.
Chén trà có hai loại: chén tống (đọc chệch âm từ chữ tướng) và chén
quân. Chén tống dùng chuyên trà từ ấm ra, rồi rót vào chén quân để thưởng
thức. Theo Vương Hồng Sển thì miền Bắc dùng một chén tống và bốn chén
quân, miền Trung trở vào Nam dùng một chén tống và ba chén quân.
22
Bộ chén trà lại chia làm bốn loại để dành dùng cho từng mùa: xuân ẩm,
hạ ẩm, thu ẩm và đông ẩm. Hình dạng bốn bộ chén này cỡ vừa (không lớn
không nhỏ, không dày không mỏng) vào mùa xuân thu gọi là kiểu Xuân ẩm
và Thu ẩm; nhưng kiểu Hạ ẩm (Hình 7) dùng cho mùa hè thì chén nhỏ thành
mỏng, thấp và miệng rộng giúp nước nhanh nguội, kiểu Đông ẩm (Hình 6) thì
chén trà dày hơn và lòng chén sâu giữ cho chén trà lâu nguội. Khác với ấm
pha trà, chén pha trà phải luôn được rửa sạch bóng, không bao giờ được để
vương một ngấn nước đậm màu.
Cũng như vậy, người Hàn Quốc sử dụng trà cụ theo mùa. Trà cụ mùa
hè là những bát kiểu “katade” có miệng rộng để nước trà nóng nhanh nguội.
Mùa thu và mùa đông kiểu bát “irabo” giữ được nhiệt cho nước trà vì phải
uống nóng. Chất liệu của các trà cụ chủ yếu là gốm sứ và kim loại.
Khác với Nhật Bản trong bộ trà cụ của người Hà Nội sử dụng chén
thưởng trà theo mùa và theo số lượng người chứ không dùng bát uống trà.
Điều đó cho thấy sự thích ứng cũng như nét tinh tế, chu đáo của con người Hà
Nội.
Các loại trà cụ khác
Bên cạnh những trà cụ vô cùng quan trọng như ấm đun nước, ấm pha
trà, chén thưởng trà thì còn rất nhiều những loại trà cụ khác. Mặc dù không
trực tiếp tạo nên hương vị trà nhưng cũng không thể thiếu.
Hỏa lò
Hỏa lò là thứ thiết yếu. Làm hỏa lò cũng là một nghệ thuật sao cho lửa
vừa đủ để nước sôi và ít cần thêm than mới vào. Hỏa lò phải được tính toán
cẩn thận: ít lỗ thì lửa không bốc đủ, nhiều lỗ thì than mau tàn.
Ở Hà Thành xưa thường chỉ có những bậc vương giả, quyền quý mới
có loại hỏa lò làm bằng đồng (Hình 1), còn bậc trung lưu chỉ dùng hỏa lò
bằng đất nung.
23
Khay trà
Khay trà tuy không đụng chạm trực tiếp đến trà nhưng khay trà góp
một phần trong thú chơi trà. Khác với chén trà kiểu phương Tây thường dùng
đĩa riêng cho từng chén. Thay vào đó, người Hà Nội xưa thường dùng những
khay trà để đúng chén tống, chén quân và còn có tác dụng tránh nước trà rây
ra bàn trà. Có khay làm bằng gỗ, cũng có khay làm bằng sành sứ chạm khắc
hoa văn rất công phu và nghệ thuật.
Ngoài ra còn một số các trà cụ khác (Hình 3) như: bình chuyên trà, bồn
đựng bã trà, trà thuyền dùng để đổ nước nóng vào ngâm ấm trà cho ấm trà giữ
nóng được lâu, thìa xúc trà từ hộp đựng trà cho vào ấm làm bằng gỗ thơm
hoặc bằng tre (tránh dùng tay vì sợ ảnh hưởng đến hương trà), tăm thông vòi
ấm pha trà khi bị tắc bã trà, cái kẹp chén. Còn có một số gia đình Hà Nội cổ
luôn có lư trầm để đốt lên khi thưởng trà.
Khi đã chuẩn bị đầy đủ nguyên liệu và trà cụ thì việc chuẩn bị một
không gian và tâm thế thưởng trà cũng được các cụ xưa hết sức để tâm.
1.1.3 Chuẩn bị không gian và tâm thế thưởng trà
Không gian thưởng trà
Không gian thưởng trà chính là địa điểm ngồi thưởng trà. Các vị sành
đất Hà thành xưa thường chọn cho mình một không gian thưởng trà thật hợp
lý. Có khi cả gia đình ngồi thưởng trà quanh bàn trà đặt trong phòng khách
của gia đình. Nhưng khi có những người bạn đồng niên hay hội bạn trà thì họ
có thể ngồi thưởng trà tại một bàn trà đặt tại góc vườn có những chậu cảnh và
những lồng chim cảnh…
Không gian thưởng trà cũng là thứ không liên quan trực tiếp tới trà
nhưng lại là yếu tố tác động mạnh vào tâm lý của người thưởng trà. Để có
một buổi thưởng trà cùng mọi người có thể bình thơ, hay đàm đạo chuyện đời
chủ nhà đã phải chuẩn bị thật chu đáo không gian thưởng trà. Không thể đặt
bàn trà ở một nơi ồn ào tiếng người buôn kẻ bán, cũng không thể đặt ở một
24
nơi khí hậu ẩm mốc, đồ đạc lộn xộn. Trà không thích hợp với nơi ồn ào náo
nhiệt như tiệc rượu cũng không phải là nơi xô bồ như cà phê. Thưởng trà cần
một không gian tĩnh lặng, có vẻ đẹp của thiên nhiên, có sự hòa bình dung dị
của con người, sự hài hòa của đất trời.
Trên bàn trà xưa các cụ thường chuẩn bị một chậu cúc vạn thọ hoặc
chậu thủy tiên để mọi người vừa thưởng trà vừa ngắm hoa. Ngoài ra, một số
gia đình thượng lưu còn có những phòng trà (trà thất), trong phòng trà đó sẽ
có những bức thư pháp treo trên tường tạo nên một phòng trà vừa ấm cúng,
yên tĩnh, không khí trong lành vừa gần gũi mà cũng hết sức thanh cao, sang
trọng.
Nếu so sánh với cách sắp xếp bài trí trà thất của người Nhật thì thấy
người Việt mình thật giản dị, không coi trọng quá mức hình thức như người
Nhật. “Ở phòng trà, ta thấy hiển hiện khắp nơi mối e ngại về sự trùng lặp.
Các đồ vật mang ra trang trí đều được lựa chọn cách sao để không có màu
sắc hay mô típ nào lặp lại cái nào. Nếu trong phòng đã bày một cái lọ cắm
hoa tươi thì nhất thiết bức tranh treo tường không thể là tranh vẽ hoa lá. Nếu
bạn sử dụng chiếc ấm đun nước hình tròn thì cái vò đựng nước nên có dáng
vuông. Khi bạn đặt một cái lọ hay một cái lư trầm vào gian Tokonama, hãy
chú ý chớ có để thật đúng trung tâm, và cũng làm sao không phân chia không
gian thành hai phần bằng nhau. Cái cột đỡ phòng khách phải không giống
các cột đỡ khác trong căn nhà, để khỏi gây cảm giác đơn điệu”[1;100].
Nhưng cũng không thể không khẳng định nghệ thuật trong trà đạo của người
Nhật thật đáng để nâng niu và chiêm ngưỡng.
Tâm thế thưởng trà
Bước vào buổi thưởng trà sẽ không còn mang một vướng bận về cuộc
sống bộn bề cơm áo gạo tiền nữa. Các cụ xưa coi trọng trà vì vậy khi tham gia
buổi thưởng trà, người thưởng trà bao giờ cũng ăn mặc kín đáo, cẩn trọng
trong từng hành động, từng ánh mắt, từng lời nói với nhau. Thông thường đối
25
tượng thưởng trà là những nho sỹ, những bậc trí thức trong xã hội nên trong
không gian ấy không có những lời thô tục, những trận đấu khẩu hay những trò
cá cược… như tại các quán cà phê phong cách phương Tây.
Các cụ xưa thường thưởng trà vào buổi sáng sớm tinh mơ hay những
buổi chiều tàn, buổi tối trăng thanh gió mát. Tại những lúc đó tâm trạng con
người thường chất chứa nhiều nỗi niềm nên ngồi thưởng trà sẽ là cách thú vị
nhất để tỉnh táo và tĩnh tâm.
Điều này giống với trà đạo Nhật Bản vì đều mang tinh thần “thiền”.
Khi một vị trà khách bước đến trà thất của người Nhật, dù là ai đi chăng nữa
thì đều phải bỏ lại bên ngoài tất cả mọi đồ đạc như gươm, giáo, súng…Và
bước qua một cái cửa rất thấp phải cúi đầu xuống mới đi được vào trong.
Điều đó chỉ có trà mới làm được vì trà mang lại cho con người ta những triết
lý thật hoàn chỉnh và sâu rộng.
1.2 Tiến hành pha chế
Nhà thơ Lý Chu Lai đời Tống buồn rầu nhận xét: “Trên đời này có ba
điều tồi tệ nhất, ấy là nhìn thấy những thanh niên tuấn tú hư hỏng đi vì một
nền giáo dục sai lầm, những bức tranh tuyệt tác mất giảm hẳn chân giá trị do
quá nhiều lời ngợi khen dung tục, và bao nhiêu thứ trà tuyệt hảo phung phí
bởi những bàn tay pha chế bất tài”. Như vậy để thấy rằng việc pha chế sao
cho đạt được một ấm trà ngon là cả một quá trình đòi hỏi phải tâm huyết và
hiểu biết sâu sắc về từng loại trà.
1.2.1 Trà, nước, trà cụ
Với người Hà Nội, uống trà là một thú chơi thanh đạm. Pha cho mình
cũng là pha mời khách, người ta phải để vào đó nhiều công phu. Những công
phu đó dần trở thành lễ nghi. Từ việc chọn trà, chọn nước đều được chuẩn bị
một cách kỹ lưỡng. Đối với từng loại trà sẽ có một nhiệt độ sôi khác nhau sao
cho phù hợp. Ví như trà Ô long cần nước trên 90ºC, trà xanh cần nước ở mức
90ºC, trà xanh loại thượng hảo hạng cần để nước sôi nguội bớt xuống còn
26
khoảng 85ºC. Trà mộc thì nước sủi tăm là được (khoảng 80ºC), nước pha trà
hương chỉ cần sôi lăn tăn, các loại trà dược liệu cũng chỉ cần nước gần
sôi…Không nên dùng nước sôi sùng sục để chế vào trà vì có thể làm “cháy”
trà, khiến trà trở nên chát.
Trong ấm trà ngon người ta thấy phảng phất một mùi thơ và một vị triết
lý. Các chân trà nhân ngày xưa rất chú ý đến nghệ thuật thưởng trà với nhiều
loại trà cụ (dụng cụ pha trà) để làm sao cho người uống cũng có thể cảm nhận
và thể nghiệm giống như các thiền sư.
1.2.2 Pha trà
Trà muốn ngon phải đúng lửa, đúng nước… Cũng như muốn thành
quân tử phải có thầy và bạn tốt. Những thao tác phải thuần thục và tuân thủ
một quy trình nhất định.
Dùng thìa gỗ múc trà cho vào ấm đất nung nhỏ, xưa kia các cụ Nho gia
gọi động tác này một cách hết sức văn chương là “Ngọc diệp hồi cung” (lá
ngọc bay về cung).
Để có được ấm trà ngon thì ấm pha trà và chén thưởng trà phải được
làm nóng lên bằng nước sôi. Trà cụ dùng để xúc trà, lấy bã trà đều bằng tre
khô hoặc gỗ thơm. Khi châm nước lần một gọi là “cao sơn trường thủy” (núi
cao sông dài) rồi chắt ra ngay. Đây là thao tác tráng trà nhằm loại hết bụi bẩn
và cho trà khô kịp thấm không nổi lềnh bềnh. Lần thứ hai đổ nước vào ấm gọi
là “hạ sơn nhập thủy” (xuống núi tắm sông) nên đổ nước cao, tràn miệng ấm
để khi đậy nắp lại, bụi trà tràn ra hết, rồi dội nước lên nắp để giữ nhiệt độ cao
nhất cho ấm trà.Nước hai chính là nước ngon nhất được tạo ra trong vòng 1 -
2 phút, có hương vị đậm đà, thơm tho quyến rũ.
Hoàn toàn khác với cách thức pha chế của trà Nhật Bản. Trước hết bột
trà được cho vào bát sứ với một lượng chuẩn nhất định. Sau đó chủ nhà rót
nước sôi vào rồi dùng một dụng cụ bằng tre đánh nhẹ cho đến khi trà sủi bọt
rồi cung kính mang đến cho từng người khách.
27
Cách pha trà của người Ấn Độ cũng hoàn toàn khác. Họ nấu một bình
nước sôi, cho vào đó một ít trà đen, đợi vài phút cho trà thấm rồi cho vào bình
một ít sữa đặc và lắc đều bình trà. Như vậy là có thể thưởng thức.
Còn người Nga thì lại có cách pha trà khác. Người Nga thường uống trà
đen (hương vị gần giống như trà Lipton), trong những cái ly thủy tinh thật to
(khoảng 100 – 100ml), họ thường cho một chút đường và chanh. Loại chanh
màu vàng và to như nắm tay không chua lắm nhưng rất thơm.
Đặc trưng văn hóa cũng như khí hậu của mỗi quốc gia sẽ ảnh hưởng
đến cách thức pha chế, nguyên liệu cũng như cách thưởng trà của đất nước
đó. Từ đó tạo nên được những đặc trưng riêng mang dấu ấn văn hóa của từng
dân tộc.
1.2.3 Rót trà
Các cụ ta xưa thường rót trà vào chén tống rồi chuyên đều cho các chén
quân. Có bao nhiêu người thưởng trà sẽ có bấy nhiêu chén thưởng trà. Khi
chia trà cũng không rót đầy chén này rồi qua chén kia; rồi rót một chút vào
mỗi chén, hết vòng nếu còn sẽ rót thêm một vòng nữa. Làm như vậy nước trà
giữa các chén sẽ có vị đậm vừa nhau, màu sắc như nhau. Hoặc còn có thể đặt
các chén lại gần nhau sao cho các chén kề miệng nhau. Lúc đầu miệng ấm kề
sát với miệng chén, mấy giây sau, từ từ đưa ấm lên cao hơn, vừa đủ để tiếng
nước rót róc rách mà không bắn ra ngoài. Rót sao cho tất cả các mức nước ở
trong các chén đều ngang nhau. Từng thao tác phải thật sự thuần thục, uyển
chuyển và duyên dáng. Ánh mắt chăm chú, miệng hơi mỉm cười… Đó chính
là nghệ thuật rót trà.
1.3. Bắt đầu thưởng thức
Thưởng trà có nghĩa là thưởng thức trà, và nó là một nghệ thuật.
Thưởng trà trong lúc tâm hồn nhàn nhã, thanh tịnh là tốt nhất. Cũng có thể nói
uống trà là lối tập cho tâm hồn mình thanh tịnh. Thưởng trà phải ở một nơi
thanh tĩnh, thoáng đãng và gần thiên nhiên.
28
Ngày xưa, các nhà sư thưởng trà trong trà thất, họ thanh tịnh nhãn căn,
lắng nghe tiếng nước sôi trong ấm đồng, họ thanh tịnh nhĩ căn…Các nhà sư
thường uống trà tụng kinh thay cơm sáng hay những lúc chiều tà, đó là những
thời khắc đời sống trần tục đang bủa vây tứ phía, trà giúp tỉnh mộng trần, giúp
rửa lòng tục, xua đi nỗi cô đơn. Còn tầng lớp quan lại, nho học thì vào đêm
trăng thanh vắng, các cụ ung dung pha trà, thưởng hoa quý, ngắm trăng. Vào
buổi sáng mồng một đầu năm mới, các con cháu trong gia đình giành những
giây phút đầu tiên cho các cụ tĩnh tâm ngắm hoa, thưởng trà, sau đó đại gia
đình mới quây quần quanh bàn trà chúc thọ các cụ.
Các hình thức thưởng trà theo số lượng người là cách thưởng trà độc
đáo và tinh tế. Nó phù hợp với trạng thái tâm lý, cảm xúc của đối tượng
thưởng trà.
1.3.1. Thưởng trà độc ẩm
Thưởng trà độc ẩm là một người ngồi thưởng trà với chiếc ấm pha trà
độc ẩm nhỏ xíu xinh xắn với gam màu trầm gợi về nỗi ưu tư, một niềm riêng
của người thưởng thức. Nhiều khi độc ẩm chính là một cách để cho người ta
gỡ bỏ được những khó khăn trong tâm thức để đạt đến sự thanh thản, nhẹ
nhõm.
Những Nho sỹ Hà Thành xưa phần nhiều thích độc ẩm vì đấy là nguồn
cảm hứng để họ có thể sáng tác nên những tác phẩm nghệ thuật, hay đơn giản
chỉ là một thói quen. Thông thường trong bộ đồ trà của mình, người sành trà
luôn có đầy đủ bộ ấm từ ấm độc ẩm đến ẩm đối ẩm và quần ẩm. Vào buổi
sáng sớm các cụ cũng thích ngồi thưởng trà độc ẩm, tự tay quạt than đun nước
pha trà và thưởng thức.
1.3.2. Thưởng trà đối ẩm
Đối ẩm là hình thức thưởng trà gồm có hai người. Người Hà Nội xưa
rất cẩn trọng trong việc lựa chọn ấm để thưởng trà. Với số lượng người bao
nhiêu sẽ có loại ấm như vậy để sử dụng đảm bảo có một ấm trà ngon. Ấm to
29
quá nếu pha nhiều nước sẽ làm nhạt trà hoặc pha nhiều trà thì uống không xuể
lại nhanh nguội. Ấm bé quá lại không đủ. Chính vì vậy việc lựa chọn loại ấm
là vô cùng quan trọng.
1.3.3 Thưởng trà quần ẩm
Thưởng trà quần ẩm là hình thức nhiều người (từ ba đến năm) cùng
ngồi thưởng trà trong một bàn trà. Người Hà Nội xưa thường chỉ tham dự từ
ba đến năm người trong một bàn quần ẩm. Vì như vậy sẽ không quá nhiều
người làm ảnh hưởng đến không khí thanh tịnh của buổi thưởng trà.
Ngoài cách uống trà trong gia đình, người Hà Nội xưa còn có các hình
thức hội trà, uống trà thưởng hoa đầu năm, uống trà thưởng hoa quý đầu năm
và uống trà ngũ hương. Trong đó, hội trà là hình thức tụ họp cùng thưởng trà
khi có trà ngon hay dịp đặc biệt của các cụ. Thưởng trà đầu xuân là thói quen
của riêng các bậc tao nhân chốn kinh thành xưa. Thường thì trước tết, đích
thân các cụ đi chọn mua hoa đào, cúc, mai trắng, thủy tiên ở tận vườn, chuẩn
bị loại trà ngon nhất.
Uống trà thưởng hoa quý như hoa quỳnh, hoa trà cũng là cái thú của
nhiều người Tràng An. Đó cũng là hình thức hội trà quanh chậu hoa quý vào
tối hoa mãn khai của những người cao tuổi, đàm đạo thế sự, dặn dò lớp con
cháu.
Trà Ngũ hương chỉ giới hạn cho 5 người: Khay uống trà ngũ hương
phải thửa 5 chỗ trũng để 5 loại hoa đang độ đượm hương nhất: cúc, sói, nhài,
sen, ngâu và úp các chén kín hoa, bưng khay để lên nồi nước sôi cho hương
hoa bám vào lòng chén. Pha trà mạn ngon và rót đều vào từng chén, mỗi
người tham gia sẽ phải đoán hương trà trong chén của mình và cùng nhận xét.
Sau mỗi chén trà, người chủ trà lại hóa vị hương để ai cũng được thưởng thức
hết cái tinh túy của hội trà ngũ hương.
Nét độc đáo của thưởng trà quần ẩm là mọi người có thể họp mặt, ngồi
chơi thưởng trà ngắm hoa, đàm đạo văn chương hay chuyện đời với nhau. Và
30
đặc biệt phù hợp với những người cao tuổi có nhiều thời gian rảnh rỗi. Đây là
cơ hội để các cụ có thể gặp gỡ nhau, nói chuyện tuổi già và dạy bảo dặn dò
con cháu.
Như vậy, chúng ta thấy rằng có rất nhiều hình thức thưởng trà khác
nhau. Với mỗi hình thức như độc ẩm, đối ẩm, hay quần ẩm đều mang đến
những nét đặc trưng riêng và phù hợp cho mọi người trong từng trạng thái
cảm xúc. Và mỗi hình thức thưởng trà đều mang tính nghệ thuật cao.
Tiểu kết chương 1
Văn hóa thể hiện được con người. Văn hóa thưởng trà của người Hà
Nội xưa là đỉnh cao của nền văn hóa trà Việt. Bởi nơi đây là thủ đô của đất
nước, nơi hội tụ những bậc hiền tài của quốc gia, những con người có tầm
hiểu biết sâu rộng về nền văn hóa dân tộc. Và văn hóa thưởng trà là một trong
những nét văn hóa độc đáo và tinh tế nhất của người Tràng An xưa. Sự tinh tế
và cẩn trọng được thể hiện qua từng cung đoạn từ khâu chuẩn bị nguyên liệu,
trà cụ, không gian và tâm thế thưởng trà đến cách thức pha chế và cao độ là
nghệ thuật thưởng thức trà. Hiếm có nơi nào trên đất nước Việt Nam có số
lượng người hiểu trà và yêu trà như Hà Nội. Có những gia đình nghệ nhân trà
suốt bao nhiêu đời còn truyền lại đến ngày nay cho con cháu niềm đam mê và
nhiệt huyết giữ gìn hương trà Việt.
31
CHƯƠNG 2
VĂN HÓA THƯỞNG TRÀ CỦA NGƯỜI HÀ NỘI NAY
Sau năm 1975 đất nước hoàn toàn giải phóng, nhân dân cả nước nô nức
khôi phục nền kinh tế. Người Hà Nội xây dựng lại thủ đô tươi đẹp và văn
minh. Những thú chơi tao nhã giờ lại có thời gian và cơ hội phục hồi, phát
triển. Nét đẹp văn hóa thưởng trà của người Hà Nội vẫn tồn tại, vẫn ăn sâu
bám rễ vào tâm thức như một sợi dây vô hình nối liền quá khứ hào hoa và
hiện tại tươi sáng.
Trong quá trình đổi mới, hội nhập và mở cửa nền kinh tế đã đặt đất
nước trước không ít những khó khăn và thách thức. Hà Nội là nơi phải nỗ lực
nhiều nhất vì đây là điểm đi tiên phong, là trung tâm kinh tế - chính trị - văn
hóa của quốc gia. Lúc này mọi mặt của đời sống đã thay đổi đi rất nhiều so
với những năm tháng chiến tranh. Quá trình mở cửa và hội nhập đòi hỏi phải
giao lưu hợp tác với nhiều quốc gia trên thế giới. Một yêu cầu đặt ra cho đất
nước là vừa phải đảm bảo tiếp thu có chọn lọc những nét đẹp, tinh hoa văn
hóa của những nền văn hóa khác, nhưng không quên nhiệm vụ bảo lưu những
giá trị văn hóa dân tộc để xây dựng một nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc.
Văn hóa thưởng trà cũng như những hoạt động khác trong đời sống
theo dòng vận động của thời gian và nhịp sống hiện đại đã có những thay đổi
tất yếu. Nghệ thuật thưởng trà của người Hà Nội ngày nay là sự pha trộn của
nhiều phong cách khác nhau. Điều này đã làm cho diện mạo văn hóa trà Hà
Nội thay da đổi thịt đi rất nhiều. Không chỉ còn là cách thưởng trà tại gia trịnh
trọng như xưa, không chỉ bó hẹp đối tượng thưởng thức là những người
“sang” và “nhàn” nữa. Mà hiện nay, văn hóa thưởng trà của người Hà Nội là
sự tổng hợp của nhiều phong cách trà khác nhau từ văn hóa trà châu Âu, đến
những quán trà mang đậm phong cách trà Trung Hoa, hay những quán trà
mang phong cách rất Việt,…
32
Thông qua quá trình khảo sát trên địa bàn thủ đô Hà Nội hiện nay
chúng tôi nhận thấy mật độ quán trà ngày càng nhiều với rất nhiều phong cách
khác nhau. Đây là cơ hội cho sự phát triển của văn hóa trà Hà Nội. Bên cạnh
những thức trà mới xuất hiện trên thị trường thì những thức trà truyền thống
cũng rất được các chủ quán trà lưu ý đến. Tuy nhiên phong cách thưởng trà
của người Hà Nội hiện nay đã dần thay đổi, đó là sự đan xen và xuất hiện của
ngày càng nhiều các quán trà mang phong cách ngoại nhập. Sự xuất hiện của
các quán trà này đồng nghĩa với việc khiến cho nhiều người chưa có những
hiểu biết nhất định về văn hóa trà Việt lại ngộ nhận rằng đó là phong cách trà
Việt. Chúng tôi có thể điểm qua một số quán trà trên địa bàn Hà Nội mang
những phong cách trà ngoại nhập như sau:
Phong cách trà Châu Âu: Đó là hình ảnh những quán cà phê, quán trà
với những biển xanh của Dimah, biển vàng của Lipton, biển đỏ của Cozy…
Xuất hiện ngày càng nhiều trên các tuyến phố. Đây là những loại trà túi lọc,
chỉ cần cho một túi vào cốc, đổ nước nóng khuấy đều lên là dùng được. Trà
cũng chỉ là hương vị trà nhân tạo: đó là những hương dâu, hương chanh,
hương đào,… Trong không ít gia đình Hà Nội hiện nay, vì tính tiện ích khi
thời gian càng trở nên ít ỏi mà nhiều người đã mua những thức trà này về nhà
để dùng cũng như mời khách, thậm chí ngay cả những dịp lễ tết, hay những
dịp trọng đại những tưởng như đó là cách thưởng thức sang trọng. Nhưng kỳ
thực điều này đã khiến cho hình ảnh chén trà đất nung một thời được các cụ
nâng niu trân trọng mất dần vị thế của mình trong tâm thức không ít người Hà
Nội hiện nay.
Phong cách trà Trung Hoa: Ở Hà Nội hiện nay xuất hiện ngày càng
nhiều các quán trà với đèn lồng đỏ, cửa gỗ (hoặc cửa kính) với những cô gái
mặc áo dài hoặc sườn xám đứng hai bên cửa mở cửa mời khách cùng đội ngũ
nhân viên nữ cũng với trang phục như vậy phục vụ trà hết sức trẻ trung và
chuyên nghiệp. Một số quán trà điển hình cho phong cách trà Trung Hoa như:
33
Hy Lạc Trà Lầu (30 Nguyên Hồng), quán trà này nằm trên một con phố khá
yên tĩnh. Quán có 5 tầng, mỗi tầng đều mang một phong cách riêng phù hợp
với sở thích của từng ẩm khách. Tầng 1 là gian trưng bày các loại trà, trà cụ
và sự phát triển của văn hóa trà Trung Hoa qua các thời kỳ. Tầng 2 sử dụng
loại bàn thấp và khách ngồi thưởng trà trên những tấm nệm. Tầng 3 và tầng 4
được thiết kế là những phòng trà riêng như những phòng trà Thượng Hải. Đặc
biệt tầng 5 (chính là tầng thượng) mở ra một không gian thoáng đãng, gần gũi
với thiên nhiên rất thích hợp với cách “đối ẩm” ngắm trăng. Quán còn có các
loại trà mang hương vị và phong cách trà Trung Hoa như: trà Ô Long, Quý
Phi trà, trà Long Đỉnh, Quân Tử trà,…; Trà Hoa quán: với 4 địa điểm khác
nhau ở 132 Bùi Thị Xuân, Số 28 ngõ 28 Nguyên Hồng, 10 Nguyễn Phong
Sắc, 59 Khương Trung. Trà Hoa không đậm đặc phong cách trà Trung Hoa,
tuy nhiên các loại trà tại đây là sự kết hợp giữa các loại hoa với trà để tạo ra
những thức uống khá hấp dẫn đối với giới trẻ. Nếu đến đây vào những dịp
cuối tuần sẽ thấy đối tượng chủ yếu của các quán trà này chính là những sinh
viên, học sinh, cán bộ công chức..., phần lớn là những người trẻ tuổi.
Ngoài ra, trong thời gian mấy năm gần đây còn xuất hiện một loại thức
uống mang tên trà rất được giới trẻ nhất là các bạn nữ yêu thích đó là loại trà
sữa trân châu Đài Loan. Nó khác thậm chí vô cùng xa lạ với trà truyền thống.
Được gọi là trà sữa tuy nhiên vị trà, hương trà quá ít không đủ sức dậy hương,
vị ngọt của sữa cùng mùi vị của những loại hoa quả đi kèm như đào, xoài,
dâu…đã lấn át mất. Trà lại dùng lạnh, kèm theo hạt trân châu (làm từ bột lọc)
đựng trong các cốc nhựa to tướng có nắp bóng kính, khi uống lại dùng ống
nhựa. Nó không thể được coi là “trà” mà chỉ nên coi là một loại thức uống
giải khát. Thức uống này không được đông đảo mọi người hưởng ứng mà chỉ
phù hợp với một bộ phận nhỏ học sinh, sinh viên và những người trẻ tuổi.
Như vậy, thưởng trà theo những phong cách ngoại nhập ở Hà Nội hiện
nay đã đem lại nhiều hình thức mới lạ, cũng như đã đem đến văn hóa trà Hà
34
Nội một diện mạo mới nhiều sắc thái hơn. Hiện đại và truyền thống, mới và
cũ đan xen lẫn nhau đã đem trà đến gần với đời sống của nhân dân hơn.
Phong cách thưởng trà truyền thống dường như kén khách hơn nhưng đang
ngày càng được sự quan tâm chú ý hơn của giới trẻ. Đây là một dấu hiệu đáng
mừng của nền văn hóa trá Việt nói chúng, văn hóa trà Hà Nội nói riêng, vì thế
hệ trẻ là thế hệ tiếp bước phát triển và gìn giữ văn hóa dân tộc. Nhưng nhìn
chung, thưởng trà theo bất kỳ phong cách nào thì điều quan trọng ở người
thưởng trà là cái tâm với trà. Để thưởng thức được hương vị của trà thì người
thưởng trà phải có những hiểu biết về trà thì mới mong cảm nhận được
“chân” của trà, nếu không thì thưởng trà cũng chỉ là một cách thay thế cho
uống nước lọc bằng uống một loại nước có màu mà thôi.
Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi định hướng nghiên cứu theo
phong cách thưởng trà truyền thống ở Hà Nội để thấy được sự chuyển mình
của văn hóa trà Hà Nội từ xưa đến nay. Địa điểm chúng tôi lựa chọn khảo sát
và nghiên cứu sâu là Hiên Trà Trường Xuân, 13 Ngô Tất Tố. nằm thầm lặng
trên con phố nhỏ gần Văn Miếu. Mang đậm một phong cách thưởng trà theo
nghi lễ, phong cách truyền thống của người Việt. Tại đây, được thưởng thức
các danh trà thơm ngon nổi tiếng trên mọi miền đất nước, do cha con nghệ
nhân trà Trường Xuân sao tẩm. Nghệ nhân Trường Xuân tên khai sinh là Đỗ
Xuân Trường, sinh ở làng Ngũ Xã (Ba Đình – Hà Nội), đời thứ 5 của hiệu
Linh Dược trà, nối tiếp truyền thống từ trưởng trà đời thứ nhất sống vào đầu
thế kỉ XIX, buôn bán và mở tiệm trà tại Hà Thành. Có thể nói, cụ Trường
Xuân được biết đến như một nghê nhân nổi bật, lịch lãm về “trà Việt”. Mang
trong mình dòng máu nghệ thuật (thân phụ là nghệ nhân điêu khắc, thân mẫu
là nghệ nhân vẽ tranh thờ Hàng Trống), cụ Trường Xuân tỏ ra nhạy cảm đặc
biệt trước vẻ đẹp – và “trà” đối tượng được chọn lựa. Hiện nay cụ đã trên 80
tuổi, mặc dù sức đã yếu và nghỉ ở nhà nhưng ai có mong muốn được tìm hiểu
35
những kiến thức về trà Cụ vẫn có thể nói chuyện hàng giờ với niềm đam mê
chân thành.
Hiên Trà Trường Xuân hiện nay được mệnh danh là quán trà truyền
thống duy nhất trên đất Hà Thành. Bởi chủ nhân của quán đã cố gắng lưu giữ
lại những giá trị quý giá nhất, những mảng màu chân nhất về bức tranh văn
hóa trà Việt. Đến đây ngoài việc được thưởng trà, nếu may mắn chúng ta sẽ
có thể được gặp và nói chuyện với chủ nhân Hiên Trà nghệ nhân Hoàng Anh
Sướng, người kế nghiệp gia đình, cùng với mong ước giữ hương trà Việt.
Mang trong mình niềm đam mê nghiên cứu về văn hóa trà Việt, nghệ
nhân Hoàng Anh Sướng con trai út của nghệ nhân Trường Xuân đã đặt chân
đến hầu hết các vùng trồng chè nổi tiếng của cả nước để tìm hiểu về đặc tính
của từng loại chè, và hướng dẫn cho người dân cách thức chăm sóc để đạt
được những búp trà đặc biệt như mong muốn. Sự cẩn thận, cầu kỳ và tâm
huyết này cho chúng ta một niềm hy vọng về một nền văn hóa trà Hà Nội hào
hoa, phong nhã và tinh tế vẫn đang mang một sức sống mạnh mẽ trong lòng
những người con đất Hà Thành.
Văn hóa thưởng trà của người Hà Nội hiện nay đã có những thay đổi
nhiều so với văn hóa thưởng trà xưa từ khâu chuẩn bị, pha chế cũng như
thưởng thức. Điều này cho thấy, tính thời đại đã quyết định không nhỏ đến
những sinh hoạt văn hóa và thói quen trong đời sống của con người.
2.1 Chuẩn bị
Người Hà Nội xưa để có một buổi thưởng trà thật mãn nguyện cùng
những người bạn trà thì mọi thứ phải được chuẩn bị một cách cẩn trọng và hết
sức cầu kỳ đến từng chi tiết. Nhưng ngày nay, đối tượng thưởng trà đã thay
đổi, không gian thưởng trà cũng đã khác xưa. Nên cách thức chuẩn bị cho một
buổi thưởng trà cũng không còn là vấn đề được đặt lên hàng đầu nữa. Nếu
như trước kia đối tượng thưởng trà là những gia đình quý tộc, những bậc
vương giả, những người “sang” và “nhàn” thì hiện nay theo như khảo sát của
36
chúng tôi đối tượng thưởng trà có đầy đủ mọi tầng lớp, từ người già, người
trẻ, trung niên, nam giới hay nữ giới… Không gian thưởng trà không còn là
những phòng trà hay những bàn trà tại gia đình nữa. Mà thay vào đó là những
quán trà, những hiên trà trang trí đèn lồng lộng lẫy, sang trọng. Tuy nhiên, có
không ít người Hà Nội hiện nay vẫn dành riêng một khoảng không gian và
thời gian nhất định để thưởng trà tại gia cùng người thân trong gia đình hoặc
những người bạn tâm giao của mình.
2.1.1. Chuẩn bị nguyên liệu
Nước
Nước pha trà sẽ quyết định phần lớn đến chất lượng chén trà như kinh
nghiệm xưa của các cụ sành trà “nhất nước, nhị trà, tam pha, tứ ấm”. Thứ
nước mà người Hà Nội xưa ưa dùng để pha trà nhất là nước mưa hứng giữa
trời thì hiện nay thứ nước đấy trở thành một thứ nước rất hiếm hoi đối với
việc thưởng trà của người Hà Nội. Không phải vì người Hà Nội không biết
dùng nước mưa mà bởi lẽ do mật độ nhà cửa ở Hà Nội tăng lên chóng mặt,
chẳng còn thấy những khoảng sân gạch với bóng cau râm mát mà thay vào đó
là những ngôi nhà cao tầng mọc lên san sát nhau và bầu không khí với khói
bụi tràn đầy khiến cho thứ nước mưa có hứng được cũng không thể sử dụng
được bởi những hạt bụi lẩn vẩn trong chậu nước.
Còn nguồn nước từ các con sông hoặc các giếng khơi ở Hà Nội hiện
nay cũng là một nguồn nước vô cùng hiếm hoi bởi hầu hết hệ thống sông trên
địa bàn Hà Nội và một số vùng lân cận đều bị ô nhiễm nặng nề. Nên nguồn
nước này không thể sử dụng cho một số sinh hoạt của người dân chứ không
dám nói đến việc sử dụng để pha trà.
Nhu cầu thưởng trà ở Hà Nội ngày một lớn, sẽ không thể đáp ứng được
nếu chỉ dựa vào nguồn nước mưa ít ỏi như của các cụ sành trà xưa nữa. Chỉ
trong những dịp thật đặc biệt thì mới có nước mưa hoặc có gia đình còn sử
dụng nước tinh khiết đun sôi để pha trà, còn nguồn nước mà các quán trà sử
37
dụng để pha trà là thứ nước giếng khoan hoặc từ nguồn nước máy của thành
phố. Nhưng nước máy thường ảnh hưởng nặng nề tới hương vị của trà bởi
mùi hóa chất xử lý nước. Theo như kết quả chúng tôi khảo sát thì nguồn nước
mà Hiên Trà Trường Xuân dùng để đun nước pha trà hiện nay là nước giếng
khoan. Nước giếng khoan được bơm lên bể để chừng khoảng 3 đến 4 ngày thì
có thể bắt đầu sử dụng được.
Như vậy, chúng ta thấy được rằng bên cạnh việc sử dụng những nguồn
nước truyền thống được coi là thứ hiếm hoi (nước mưa, nước giếng đá ong…
), thì nguồn nước dùng để pha trà của người Hà Nội hiện nay đã có sự xuất
hiện và thay thế một cách hợp lý. Tất nhiên, việc lựa chọn các nguồn nước
mới này sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến hương vị của chén trà. Nhưng cũng
phải khẳng định thêm rằng đây là một cách lựa chọn tất yếu, thích nghi với
điều kiện hoàn cảnh để lưu giữ và phát triển một thú chơi tao nhã của người
Hà Thành xưa kia.
Trà
Phần lớn các quán trà trên địa bàn Hà Nội hiện nay có rất nhiều các
loại trà khác nhau. Từ trà mộc, trà ướp hương, trà bổ dưỡng, hay trà pha chế
từ các loại hoa,… Bên cạnh những thức trà truyền thống là các loại trà mới
được du nhập từ Trung Hoa hay các loại trà của nền văn hóa trà phương Tây.
Theo kết quả khảo sát tại Hiên Trà Trường Xuân, một trong những hiên
trà nức tiếng nhất của đất Hà Thành xưa và nay. Đây có thể coi là quán trà
truyền thống duy nhất ở Hà Nội hiện nay, vì chủ nhân là người khao khát
phục dựng nền văn hóa trà Việt nên điều tất yếu là phải thổi được hồn văn hóa
trà Việt vào hình ảnh cũng như hương vị trà tại đây. Không giống với những
quán trà khác là sự pha tạp của tất cả các loại thức uống từ trà cho đến các đồ
uống như cà phê, ca cao, sinh tố… có trong danh mục. Riêng danh mục của
Hiên Trà Trường Xuân được phân ra thành ba nhóm rõ ràng và chỉ là những
38
thức trà nhưng đã tạo nên sự phong phú và ấn tượng sâu đậm đối với người
thưởng thức.
Những thức trà được phân thành ba loại như sau: A. Trà xanh nguyên
thủy gồm hai dòng trà đó là dòng trà Thái Nguyên và dòng trà Shan tuyết.
Dòng trà Thái Nguyên: Tân Cương thượng hạng, Tân Cương trà, Giang Tiên trà,
La Bằng trà, Khuôn Gà trà; dòng trà Shan tuyết: Tà Xùa trà, Thượng Sơn trà,
Nậm Ty trà, Phìn Hồ trà, Đồng Văn trà, Lũng Phìn trà, Mộc Châu Sương Sa trà,
Tà Phìn trà; B. Trà bổ dưỡng gồm: mật ong đại tảo liên nhục trà, mật ong liên tu
trà, mật ong gừng trà, mật ong chanh trà, mật ong dâu trà, mật ong đào trà, mật
ong sê-ri trà; C. Trà ướp hương gồm: Trà sen, trà hoa mộc, trà bạch ngọc hoa, trà
bạch linh, trà hoa nhài, trà hoa sói, trà hoa ngâu, thiên hoa trà.
Những thức trà tại Hiên Trà Trường Xuân đều do một tay của nghệ
nhân trà Hoàng Anh Sướng lên tận những vùng trồng trà để đặt mua, thậm chí
tự tay sao tẩm những loại trà mộc. Còn trà bổ dưỡng ở đây là do sự nghiên
cứu trong thời gian dài của cha con nghệ nhân Trường Xuân để sáng tạo nên
những loại trà mang hương vị đặc trưng duy nhất đó là sự kết hợp của mật
ong và các loại thảo mộc tạo nên thức trà bổ dưỡng. Điều đặc biệt nhất không
thể không nhắc đến đó là các loại trà ướp hương do gia đình tự sao chế và tẩm
ướp mỗi vụ hoa về. Điểm nhấn của Hiên Trà Trường Xuân đó là loại trà sen,
nó được coi là thứ trà sang trọng nhất. Dòng trà ướp hoa sen Hồ Tây được
mọi người ví như là “báu vật” của Hà Nội bởi sự cầu kỳ trong các công đoạn.
Trà để ướp hoa Sen được hái từ những cây chè Tuyết Shan cổ thụ vùng núi
Hà Giang, cây cao 4-6 m, búp to và dài 6 – 8cm.
Búp chè chuẩn “một tôm, hai lá” được hái về, cho vào chõ đồ lên như
đồ xôi ở nhiệt độ 170 độ C để huỷ độ chát của trà, đến khi dẻo thì mang ra vò.
Vò xong, rũ tơi cho bay hơi nước, để nguội rồi cho vào máy sấy và sao khô.
Sau đó, đổ vào chum đất, ủ trong 3-5 năm cho trà phong hoá bớt chất chát,
búp trà tơi xốp sẽ thấm đượm nhiều hương thơm”.
39
Ướp và sấy trà là cả một quy trình nghệ thuật. Trước mùa Sen vài
tháng, gia đình nghệ nhân Trường Xuân đã đi tìm mua các đầm sen ở Hồ Tây
bởi chất bùn ở đây màu mỡ nên hoa Sen nở rất to và toả nhiều hương. Ướp
một cân trà phải dùng từ 1.000- 1.200 bông hoa Sen. Trung bình 100 bông
Sen Hồ Tây cho khoảng 100g gạo. Gạo Sen được tách ra khỏi những bông
hoa hàm tiếu (chớm nở). Nghệ nhân Trường Xuân dùng cái đấu gỗ, ở dưới
trải một lớp giấy bản thấm ẩm tốt. Ông rắc một lớp trà mỏng, một lớp gạo sen
mỏng cho đến khi hết trà và hết gạo Sen. Thùng gỗ ướp trà tốt nhất sử dụng
quả ăn hỏi, được ủ kín tuỳ theo tiết trời từng hôm, cứ 4- 6 tiếng mở nắp đảo
qua một lần cho nhiệt độ giảm đi để gạo Sen không bị ủng. Trà được ủ từ 24
tiếng rồi mang ra sàng bỏ gạo Sen và sấy. Người sấy trà phải làm sao cho
nước bay đi nhưng hương Sen còn đọng lại. Quy trình ướp trà lần 2, 3, 4 cho
đến khi trà thơm theo yêu cầu thì dừng lại.
Đối với các loại trà nhài, trà cúc, trà sói, trà ngâu,… quy trình ướp
hương đơn giản hơn trà sen. Vì vậy mà hiện nay giá trà sen tại Hiên Trà
Trường Xuân là 3 triệu đồng/ 1kg. Có những thời điểm không có trà để phục
vụ nhu cầu của khách yêu trà.
Chất đốt
Hiện nay, trong một số buổi thưởng trà quan trọng người Hà Nội vẫn sử
dụng chất đốt là than hoa để đun nước pha trà. Dịp chúng tôi được chứng kiến
tận mắt hình ảnh chiếc bếp bằng đất nung cùng với chất đốt là than hoa, người
ngồi pha trà vừa dùng chiếc quạt nan quạt cho bếp than luôn hồng rực chờ
tiếng nước sôi để pha trà mời thực khách, đó là tuần lễ văn hóa trà Việt năm
2009 diễn ra từ 14h ngày 20/11 đến ngày 23/11/2009 tại ngôi nhà Di sản 87
Mã Mây – Hà Nội.
Tuy nhiên đây không phải là thứ chất đốt phổ biến vì cuộc sống bận rộn
khiến cho mọi người đều muốn làm mọi việc thật nhanh. Và việc lựa chọn
cách đun nước bằng bếp ga, bếp than, hay ấm điện siêu tốc,… là những
40
phương tiện hữu ích và có sức thu hút đối với phần đông người Hà Nội hiện
nay. Việc sử dụng những phương tiện trên để đun nước pha trà khiến cho
nước trà giảm đi nhiều phần hương vị.
Tại các quán trà ở Hà Nội hiện nay, thứ chất đốt được sử dụng chủ yếu
để đun nước là than tổ ong vì để đáp ứng nhu cầu lớn về nước cho việc phục
vụ trà đối với ẩm khách. Việc sử dụng than tổ ong để đun nước có một lợi ích
đấy là nhanh và có thể cung cấp lượng nước sôi lớn trong cả ngày. Tuy nhiên,
nước sôi sẽ bị ám mùi khét của than và thông thường nước bị sôi vượt định
mức làm “cháy” trà khiến cho trà trở nên chát hơn, điều này chỉ có những
người sành trà mới có thể dễ dàng nhận ra.
Như vậy, ngoài việc chuẩn bị những nguyên liệu thì để tiến hành một
buổi thưởng trà điều tất yếu không thể thiếu là những trà cụ.
2.1.2 Chuẩn bị trà cụ
ấm pha trà
Những tiêu chuẩn về việc lựa chọn một bộ ấm chén pha trà hiện nay
gần như chỉ là thú chơi sang của những người sành trà. Theo như khảo sát của
chúng tôi tại phần lớn quán trà ở Hà Nội hiện nay, những chiếc ấm trà đẹp và
có giá trị chỉ được đặt ở gian trưng bày để ẩm khách có thể chiêm ngưỡng.
Những chiếc ấm dùng để pha trà cho những ẩm khách thưởng thức hiện
nay rất đa dạng về kiểu dáng và phong phú về chất liệu. Từ chất liệu bằng đất
nung, sứ tráng men, thủy tinh,… tùy vào phong cách của từng vị chủ quán trà.
Còn tại gia đình người Việt Nam nói chung và người Hà Nội nói riêng, hầu
hết gia đình nào cũng có một bộ ấm chén pha trà mời khách không kể sự giàu
sang hay nghèo hèn.
Tại Hiên Trà Trường Xuân vì đây được coi là tiêu chuẩn của một quán
trà truyền thống nên chúng tôi thấy với từng loại trà riêng sẽ có những loại ấm
với chất liệu khác nhau để làm nổi bật được hương vị của trà. Điều này thể
41
hiện sự am tường và tinh tế của chủ nhân _ nghệ nhân Hoàng Anh Sướng đối
với từng loại trà.
Với các loại trà mộc, những chiếc ấm đất nung với gam nàu nâu sẫm
được chủ nhân sử dụng để pha chế trà tạo cho ẩm khách một cảm giác giản dị
và bình an khi thưởng thức hương vị của loại trà này. Còn đối với dòng trà
ướp hương thì sử dụng những chiếc ấm sứ được tráng men xanh lam hoặc
màu trắng ngọc trông rất ấn tượng. Về kích cỡ của ấm trà rất phù hợp cho cả
việc độc ẩm, đối ẩm thậm chí quần ẩm bởi vì những chiếc ấm ở đây thường
không to quá mà cũng không nhỏ quá, trông rất ấn tượng với những hình dáng
khác nhau có khi thì hình vuông, hình tròn và sự cách điệu rất nghệ thuật.
Khác với người Hà Nội (Việt Nam), người Anh lại thường dùng ấm
bằng bạc hoặc sứ để pha nước trà. Tuy nhiên các dụng cụ uống trà cũng rất
cao nhã, chỉ khi có khách quý thì mới đem những trà cụ đẹp đẽ và quý giá ra
pha trà mời khách.
Chén thưởng trà
Cũng giống với ấm pha trà, chén thưởng trà tại các quán trà ở Hà Nội
thường được làm từ gốm. Không còn cầu kỳ như xưa nữa, họ không còn sử
dụng đủ bộ chén tống, chén quân. Vì theo quan niệm hiện đại của nhiều
người sành trà thì việc sử dụng chén tống chỉ có ưu điểm là khiến cho độ đậm
nhạt của các chén trà ngang nhau tuy nhiên khi chuyên trà ra chén tống rồi từ
chén tống ra các chén quân khiến cho nước trà bị nguội giảm mất hương vị
trà. Chính vì vậy rất ít khi chén tống được sử dụng. Thay vào đó là việc sử
dụng số lượng chén cho phù hợp với số lượng người cùng thưởng trà quanh
một bàn trà. Chén thưởng trà hiện nay cũng có rất nhiều kiểu dáng và kích cỡ
khác nhau trông khá thú vị. Những loại chén thưởng trà theo mùa cũng được
giản lược.
Tại Hiên Trà Trường Xuân, các loại chén cũng được lựa chọn rất cầu
kỳ. Đối với các chén trà mộc thì luôn luôn sử dụng chén đất nung, còn trà ướp
42
hương thì sử dụng loại chén sứ có màu trắng ngọc và thật mỏng làm nổi bật
hương vị cũng như màu sắc đẹp mắt của chén trà ướp hương. Riêng đối với
loại trà bổ dưỡng, những chén trà kiểu của vua chúa ngày xưa hay sử dụng.
Đó là những chén trà có đĩa để và nắp đậy kèm theo một chiếc thìa nhỏ trông
rất sang trọng và bắt mắt đối với mọi ẩm khách.
Các loại trà cụ khác
Những loại trà cụ như hỏa lò, khay trà,… là những thứ không trực tiếp
ảnh hưởng đến hương vị chén trà nhưng ngày xưa các cụ sành trà cũng chuẩn
bị hết sức chu đáo. Nhưng hiện nay, tại các quán trà những trà cụ đó được
giản lược đi rất nhiều.
Tại Hiên Trà Trường Xuân, chúng tôi thấy vẫn giữ được một số nét
truyền thống về trà cụ. Đó là việc trưng bày đầy đủ bộ trà cụ không thiếu một
thứ nào và đầy đủ về kiểu loại, những trà cụ này chỉ được sử dụng khi có các
đoàn khách quan trọng. Còn trong những buổi trà bình thường, một phích
nước nóng là thứ luôn luôn có đối với mỗi bàn trà. Nếu là mùa đông những
ấm trà sẽ được đặt trong những chiếc dầm để ẩm khách có thể dội nước sôi
lên trên nắp ấm và ngâm chén giữ cho ấm trà luôn luôn nóng.
Như vậy, sự cầu kỳ trong cách chuẩn bị trà cụ cho việc thưởng trà của
người Hà Nội xưa và nay có sự thay đổi. Tuy nhiên đây là sự thay đổi cho phù
hợp với nhu cầu tất yếu của cuộc sống, nhưng hoàn toàn không phải là sự
đánh mất những giá trị văn hóa vật chất. Có chăng chỉ là sự giản lược một
cách phù hợp mà thôi.
2.1.3 Chuẩn bị không gian, tâm thế thưởng trà.
Không gian thưởng trà
Không gian thưởng trà của người Hà Nội hiện nay có phần phong phú
hơn không gian thưởng trà của các cụ xưa. Vì ngoài việc thưởng trà tại gia,
người Hà Nội còn có những quán trà hết sức sang trọng với sự lựa chọn nhiều
thức trà khác nhau. Những quán trà được trang trí bởi những đèn lồng đỏ,
43
những gam màu và những mảng thiết kế mang tính cổ điển tạo cảm giác ấm
cúng cho mỗi ẩm khách khi bước chân vào không gian này. Tận dụng chất
trầm tĩnh của trà mà chủ nhân của những quán trà đã thiết kế nên những
không gian hết sức độc đáo mang đến những điều thú vị nhất và điểm nhấn để
thấy được sự khác biệt của các quán trà với nhau, chứ không là sự lặp lại như
thiết kế chung của các quán cà phê hiện đại.
Tới Hiên Trà Trường Xuân, chúng ta bắt gặp một không gian khá yên
tĩnh trong con phố nhỏ. Theo lề lối xây cất nhà người Việt xưa, đó là nơi dành
cho khách trú lỡ bộ qua đường, tạo ra một không gian cởi mở, một sự giao
thoa thú vị về độ sáng tối, về âm dương giữa trên - dưới; bên trong - bên
ngoài. Không gian Hiên trà được chia làm 4 khoảng dựa theo thuyết Kinh
Dịch: trí giác (Hình 16), trí duy (Hình 15), trí hành (Hình 17), trí xảo (Hình
18). Trí giác thanh thoát, trong sáng như một bông hoa sen, là một khoảng
không gian mang hơi hướng thâm trầm của đạo Phật. Trí duy là không gian
dành cho sự suy ngẫm, đàm đạo bạn bè.
Hai gian phòng nhỏ bố trí theo phong cách phòng trà Nhật Bản thanh
tao, trang trọng. Trí hành gồm hai gian nhà mái lá cọ, khung cảnh lãng mạn
phù hợp cho những đôi uyên ương. Trí xảo là khoảng không gian ngoài trời
cao thoáng, phóng khoáng có thể bàn công chuyện, ký kết các hợp đồng với
bạn hàng. Đến đây vào mùa sen nở, chúng ta sẽ thấy những cánh sen hồng
trải dài như chào đón từ bậc thềm vào tận chân cây cầu nhỏ. Khách đến với
“Hiên trà” dường như cũng nhẹ nhàng nâng niu, trân trọng nét đẹp dịu dàng,
tinh tế ấy
Không gian thưởng trà không phải là yếu tố quyết định trực tiếp đối với
hương vị chén trà nhưng lại là một trong những yếu tố tác động mạnh đến tâm
lý của người thưởng thức trà. Vì vậy mà để những ẩm khách đạt được một
buổi thưởng trà viên mãn các quán trà tại Hà Nội hiện nay thường rất quan
44
tâm chú ý đến việc xây dựng và thiết kế một không gian thưởng trà thật sự ấn
tượng.
Tâm thế thưởng trà
Ngày xưa trước khi bước vào buổi thưởng trà, người ta thường rũ bỏ
mọi phiền muộn, mọi lo lắng của thường ngày để có một tâm thế thanh tịnh
tham gia vào không gian thưởng trà. Nhưng ngày nay, thưởng trà bên cạnh ý
nghĩa là để cảm nhận vị ngon của trà, chiêm nghiệm về cuộc đời thế sự thì
việc thưởng trà còn là cái cớ để những mọi người có thể bàn công việc, gặp
gỡ bạn bè hay những mục đích khác.
Thông qua kết quả của 150 phiếu điều tra tại Hiên Trà Trường Xuân về
mục đích thưởng trà tại quán thì kết quả thu về như sau:
Với số phiếu của ba nhóm đối tượng chúng tôi thu về được như sau: với
28 phiếu là người già (từ 55 tuổi trở lên), 47 phiếu là trung niên (từ 35 đến 55
tuổi), 75 phiếu là người trẻ (từ 18 đến 35 tuổi).
Câu hỏi: Quý vị thường đến quán trà với mục đích gì?
Đối tượng Người già Trung niên Giới trẻ
Câu trả lời (28 phiếu) (47 phiếu) (75 phiếu)
SL Tỉ lệ SL Tỉ lệ SL Tỉ lệ
(người) (người) (người) (%) (%) (%)
100 28 47 100 100 75
32.1 9 8 17 57.3 43 Gặp gỡ bạn bè
57.1 16 14 29.7 28 21 Thưởng trà
7.1 2 25 53.3 9.4 7 Công việc
3.7 1 0 0 5.3 4 Khác
Như vậy, chúng ta thấy được rằng nhu cầu và mục đích thưởng trà của
từng đối tượng có sự khác nhau khá rõ rệt. Điều này đã thể hiện được tâm thế
thưởng trà của từng đối tượng trong xã hội.
45
Với nhóm đối tượng là người trẻ họ là những người ưa những hoạt
động nhóm và tìm hiểu những điều thú vị trong cuộc sống. Chính vì vậy mà
mục đích đến quán trà của họ với 57.3% trong tổng số 75 phiếu điều tra là đến
quán trà để gặp gỡ bạn bè, 28% là thưởng trà. Đây là một tín hiệu đáng mừng,
vì thế hệ trẻ họ là những người tiếp bước phát triển và gìn giữ nền văn hóa và
văn hóa trà đang rất cần những người trẻ hiểu biết để xây dựng một nền văn
hóa trà Việt nói chung và văn hóa trà Hà Nội nói riêng ngày càng rực rỡ hơn.
Ngoài ra, nhóm đối tượng trung niên đã tìm thấy một địa điểm khá lý
thú để bàn bạc công việc, ký kết các hợp đồng kinh tế tại quán trà với 53.3% ý
kiến cho rằng đến quán trà với mục đích công việc. Đến quán trà thì dường
như ai cũng tự ý thức phải kiềm chế bản thân mình hơn và không gian yên
tĩnh khiến cho những quyết định trở nên đúng đắn và sáng suốt hơn rất nhiều.
Xu hướng này rất tốt vì đã thay thế dần cho những buổi tiệc bia rượu tốn kém,
xa xỉ và ảnh hưởng đến sức khỏe con người trong thời đại mới.
Nhóm người già cũng tìm đến với không gian của quán trà để có thể
thưởng thức nhâm nhi hương vị của những chén trà ngon (52%) bên những
người bạn tâm giao (36%), cùng với sự chiêm nghiệm về cuộc đời, về con
người.
Theo quan sát của chúng tôi những quán trà thường rất đông khách vào
những dịp cuối tuần, bởi vì lúc này là thời gian mọi người được nghỉ ngơi sau
một tuần làm việc vất vả, nhu cầu gặp gỡ giao lưu là rất cần thiết và không
gian của những quán trà là điểm đến phù hợp nhất đối với họ
2.2 Pha chế
Để có được một ấm trà ngon nhiều người vẫn tự tay mình pha chế rất
cẩn thận theo sở thích của mình cùng những người bạn thưởng trà. Các cụ xưa
đã có câu “trà nô, tửu tướng”, uống rượu thì có thể cần người hầu rượu,
nhưng uống trà phải tự tay mình pha chế thì mới cảm nhận hết được chất của
trà. Chúa Trịnh Sâm ngày xưa có thể coi là người toàn tài, sống trong thời đại
46
thịnh trị của đất nước cùng với các nhân kiệt đất Việt khác như Nguyễn Du,
Lê Quý Đôn… Nhưng Trịnh Sâm vẫn thường tự tay pha trà, kể cả việc pha trà
và mời trà các quan trong triều và tự gọi mình là Trà Nô. Ngày nay việc pha
chế một ấm trà có phần đơn giản và dễ dãi hơn trong cách nghĩ của mọi
người.
2.2.1 Trà, nước, trà cụ
Người Hà Nội vốn cầu kỳ và cẩn trọng nên vẫn tuân thủ những cách
thức pha chế riêng đối với từng loại trà. Đối với từng loại trà sẽ có một loại
ấm pha trà, chén thưởng trà riêng và nhiệt độ sôi của nước rất riêng.
Theo quan sát của chúng tôi tại gian phòng pha chế các loại trà của
Hiên Trà Trường Xuân, các loại ấm chén được sắp đặt rất ngăn nắp, các loại
trà cũng được cất trong những hộp hoặc chai lọ khác nhau tùy theo đặc tính
của từng loại trà.
Đối với trà ướp hương đều được để trong những hộp đựng bằng thủy
tinh và đậy kín, mỗi khi mở ra lấy trà phải lấy thật nhanh và nhẹ nhàng tránh
sự tản hương của trà. Không lấy trà trước gió quạt làm phai nhạt hương trà.
Không đặt các hộp đựng trà gần nơi có nhiệt độ nóng, tránh ánh sáng trực tiếp
làm hư hại trà.
Ấm chén khi tiến hành pha chế phải được ngâm trong dầm đựng nước
sôi để cho chén và ấm được nóng đều. Đặc biệt riêng ấm trà phải được ngâm
vào một chiếc bát để khách có thể thường xuyên rót nước sôi lên nắp ấm giữ
cho ấm trà được nóng lâu.
Tất cả các loại trà cụ đều được chăm sóc cẩn thận, không có mùi lạ,
những chiếc chén thưởng trà luôn luôn sạch bóng không để lại những vệt trà
cũ. Khi mọi thứ đã chuẩn bị hoàn tất thì sẽ tiến hành pha trà.
2.2.2 Pha trà
Nghệ nhân Trường Xuân chủ Hiên Trà Trường Xuân nói “muốn có ấm
trà ngon chỉ cần chế biến trong 7 phút, nhưng nếu không học thì cả đời cũng
47
không làm được”. Đây không chỉ là kinh nghiệm pha trà mà còn là cách giáo
dục đức kiên nhẫn của con người. Mọi sự muốn thành đều phải trải qua những
giai đoạn học hỏi và rèn luyện vất vả.
Theo quan sát của chúng tôi tại Hiên Trà Trường Xuân, những nhân
viên phục vụ trà tại đây luôn luôn có thể giúp khách cách thức pha chế trà để
đạt được những ấm trà ngon nhất. Những động tác pha chế rất thành thục, từ
việc cho trà vào ấm, rót nước tráng trà (riêng trà ướp hương không nên tráng),
rót nước mời khách tất cả đều là những động tác nhẹ nhàng, đẹp mắt. Để có
một ấm trà ngon thì việc pha chế một lượng trà nhất định trong một ấm trà sẽ
quyết định đến độ đậm nhạt của chén trà. Bên cạnh việc pha trà mời khách
những nhân viên này có thể giúp những ẩm khách có nhu cầu muốn học cách
rót trà, hay châm nước vào trà sao cho hợp lí với một thái độ hết sức nhiệt
tình và niềm nở.
2.2.3.Rót trà
Pha trà và rót trà đều là nghệ thuật, đòi hỏi bàn tay người mời trà thực
sự am tường về các đặc tính của trà để chỉ trong những động tác rót trà cũng
khiến cho người thưởng trà cảm nhận được nét đẹp, hương vị thơm ngon của
chén trà như chính tấm lòng của người rót trà vậy.
Chúng tôi rất may mắn khi đến tìm hiểu tại Hiên Trà Trường Xuân đã
có dịp nói chuyện với nghệ nhân trà Hoàng Anh Sướng – chủ Hiên Trà
Trường Xuân hiện nay. Mặc dù tuổi đời còn rất trẻ nhưng niềm đam mê và
những kiến thức của anh về nền văn hóa trà Việt đã giúp chúng tôi có những
hiểu biết vô cùng quý giá. Anh nói về cách rót trà “không được rót hết nước
trong ấm trà để các tuần trà không bị vênh nhau về độ đậm nhạt. Chú ý ngay
sau khi rót xong một tuần trà thì phải châm nước vào ngay để giữ cho ấm trà
luôn nóng và khỏi bị kiệt trà”.
Hiện nay, không mấy người sử dụng chén tống để chuyên trà sang các
chén quân nữa vì làm như vậy sẽ bị nguội trà. Nên người ta thường để các
48
chén trà sát miệng nhau và rót đều thành một vòng tròn khép kín. Lúc đầu
miệng ấm kề với miệng chén rồi lên cao dần dần, rồi lại hạ thấp xuống, chỉ
nghe thấy tiếng nước róc rách mà không bị bắn ra ngoài. Lượng nước trong
các chén phải ngang bằng nhau về lượng cũng như độ đậm nhạt.
2.3. Thưởng trà
Thú pha trà với thú thưởng trà không những tương đương với nhau mà
còn có mối liên hệ hữu cơ. Trong truyền thuyết, chúa Trịnh Sâm rất yêu trà và
ông thường tự tay pha trà cho mình uống. Ông rất tâm đắc với câu “trà nô tửu
tướng”; tức là người uống rượu có phong cách như vị tướng, còn người uống
trà phải có phong thái điềm đạm, khiêm tốn như một người nô bộc giỏi giang.
Và người uống trà nên tự tay mình pha trà để thấy hết cái phong nhã và vị
thơm khi thưởng thức trà.
Người Hà Nội sành trà không thích người khác pha trà cho mình. Ngày
xưa các cụ chỉ dùng những người hầu trà nhiều nhất đến mức gẩy than trong
hỏa lò. Còn tất cả mọi công đoạn phải tự tay mình làm thì mới hợp với khẩu
vị thưởng thức của bản thân.
Nhưng hiện nay, phần vì đối tượng thưởng trà đã khác xưa hoàn toàn,
phần vì sức ép về thời gian khiến cho mọi việc đều trở nên đơn giản hóa. Việc
thưởng trà cũng đã giản lược đi rất nhiều.
2.3.1 Đối tượng thưởng trà
Đối tượng thưởng trà của người Hà Nội hiện nay là tất cả những người
sống trên địa bàn Hà Nội (tính đến trước tháng 8 năm 2008).
Theo quan sát của chúng tôi tại một số quán trà nổi tiếng ở Hà Nội số
lượng giới trẻ đến quán thưởng trà ngày càng đông. Nhất là những dịp cuối
tuần hoặc ngày lễ nào đó trong năm thì phần lớn các quán trà đều kín chỗ.
Theo kết quả của 150 phiếu điều tra phát tại Hiên Trà Trường Xuân thu
về được như sau:
49
Về đối tượng
Người già : 28 phiếu chiếm 18.7%
Trung niên: 47 phiếu chiếm 31.3%
Người trẻ: 75 phiếu chiếm 50%
Như vậy chúng ta thấy rằng số lượng giới trẻ tuổi đến Hiên Trà Trường
Xuân ngày càng nhiều. Khi hỏi chuyện thì thấy rằng rất nhiều người trong số
họ có những hiểu biết về kiến thức văn hóa trà Việt. Đây là một tín hiệu cho
sự khởi sắc của nền văn hóa trà Việt nói chung và văn hóa thưởng trà của
người Hà Nội nói riêng.
Trong số những bạn trẻ đến thưởng trà tại Hiên Trà Trường Xuân phần
lớn đều là học sinh, sinh viện hoặc những người mới ra trường đi làm. Đối
tượng người trẻ là những khách thường xuyên đến quán nhất.
Bên cạnh những đối tượng đã nêu thì có đối tượng là người nước ngoài
đến với Hiên Trà Trường Xuân cũng rất nhiều. Họ là những người ở nước
ngoài sang Việt Nam du lịch hoặc những người làm việc tại Hà Nội. Nhưng
phần lớn những người nước ngoài đến với Hiên Trà là những du khách vì họ
được giới thiệu bởi các phương tiện thông tin đại chúng về một Hiên Trà
Trường Xuân – quán trà truyền thống còn sót lại trên đất Hà Thành thời điểm
hiện nay.
Với mỗi nhóm đối tượng đến với quán trà lại có những sở thích và thói
quen thưởng thức các loại trà khác nhau. Đối với những người nước ngoài
đến với Hiên Trà Trường Xuân phải đến 70% số người này thích thưởng thức
trà bổ dưỡng. Người lớn tuổi thích thưởng trà mộc, trung niên và người trẻ
thích thưởng trà ướp hương. Nam giới thường thích uống trà chát (trà mộc),
phụ nữ lại thích uống trà bổ dưỡng,…
50
2.3.2 Không gian thưởng trà
Nếu như ngày xưa các cụ chuộng thưởng trà tại gia với những bàn trà
đặt ở những không gian thoáng đãng có cây cảnh, chim cảnh để vừa thưởng
trà vừa giao hòa lòng mình với thiên nhiên. Nhưng ngày nay, không gian tại
các gia đình ở Hà Nội bị thu hẹp đi rất nhiều. Chỉ còn rất ít những gia đình
dành một khoảng sân nhỏ để đặt bàn trà. Phần lớn nhu cầu không gian thưởng
trà được lựa chọn là các quán trà. Cũng bởi một phần tại các quán trà sẽ phục
vụ rất nhiều loại trà phù hợp với sở thích riêng của mỗi người, mỗi lứa tuổi.
Ngoài ra, đến với các quán trà người ta có thể gặp những người cùng chung
sở thích nói chuyện, đàm đạo về một lĩnh vực nào đó.
Mục đích của cuộc thưởng trà sẽ quyết định đến không gian thưởng trà
nhất định. Muốn có một không gian yên tĩnh để đàm phán công việc hay ngồi
nghe tiếng nhạc du dương khi lòng đang chống chếnh, quán trà sẽ là địa điểm
chúng ta nghĩ đến trong lúc này.
Ngoài ra thời điểm thưởng trà cũng là yếu tố quyết định đến không gian
thưởng trà. Những người Hà Nội hoài cổ thường thích dậy từ sáng sớm tinh
mơ ngồi thưởng trà độc ẩm để ngắm cảnh đất trời khi đang còn yên tĩnh chưa
bị tiếng xe máy, ô tô và khói bụi phá tan sự yên tĩnh. Và thời điểm thưởng trà
này dù muốn hay không thì chúng ta cũng không thể ra quán thưởng trà được.
Thời điểm buổi chiều sau khi tan sở hoặc buổi tối sau bữa ăn mọi người sẽ
muốn ngồi lại bên nhau thưởng thức ấm trà nóng cùng gia đình người thân
hoặc bạn bè.
Theo kết quả khảo sát tại Hiên Trà Trường Xuân chúng tôi có những
kết quả như sau:
51
Câu hỏi: Nếu được lựa chọn, quý vị sẽ chọn không gian thưởng thức trà
nào sau đây?
Không Người Già Trung niên Giới trẻ
gian Số Lượng Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ
thưởng (Người) (Người) (Người) (%) (%) (%)
trà 28 100 47 100 75 100
Quán 9 32.1 27 57.5 65 86.7
trà
Tại nhà 17 60.7 16 30 6 8
Khác 2 7.2 4 8.5 4 5.3
Thông qua kết quả khảo sát chúng ta thấy được nhu cầu về không gian
thưởng trà giữa các nhóm đối tượng là hoàn toàn khác nhau.
Nhóm người già thì thích thưởng trà tại nhà chiếm 60.7% trong tổng số
28 người được hỏi, chỉ có 32.1% là thích không gian thưởng trà tại quán. Điều
này thật dễ hiểu vì người già họ là những những người sống trầm tĩnh hơn,
hay có thói quen thưởng trà vào buổi sáng sớm tinh mơ hoặc đêm khuya trong
những bầu không gian yên tĩnh tại gia đình.
Nhóm trung niên thì có tới 57.5% trong tổng số 47 người được hỏi
thích thưởng trà tại quán trà, và có 30% thích thưởng trà tại gia. Và chỉ 8.5%
người thích thưởng trà tại những không gian khác. Nhóm đối tượng này họ
lựa chọn không gian là quán trà một phần vì sở thích thưởng trà nhưng phần
lớn họ lựa chọn đây làm địa điểm bàn bạc về công việc. Chính vì vậy, vẫn có
số lượng lớn người trong độ tuổi này lựa chọn không gian quán trà làm nơi
thưởng trà.
Giới trẻ rất thích thưởng trà tại quán với số lượng 86.7% trong tổng số
75 người được hỏi. Bởi đến đây họ được gặp gỡ bạn bè cùng trang lứa, có thể
nói chuyện vãn, hay tâm sự những chuyện tình cảm, cuộc sống, học hành.
52
Đây là lứa tuổi sôi nổi nhất, nhiệt tình nhất và cũng năng động nhất nên đôi
khi họ lựa chọn các quán trà cũng là để học hỏi, giao lưu những kiến thức về
trà, về văn hóa đất nước.
2.3.3. Phương thức thưởng trà
Nghệ thuật thưởng trà của người Hà Nội được sinh ra và ngày càng
khẳng định vị thế của mình trong văn hóa trà Việt.Về cơ bản các phương thức
thưởng trà trong nghệ thuật thưởng trà của người Hà Nội vẫn bảo tồn vẹn
nguyên những phương thức thưởng trà trong văn hóa trà Việt. Đó là những
hình thức độc ẩm, đối ẩm và quần ẩm.
Câu hỏi: Quý vị thường thưởng trà theo những phương thức nào dưới đây?
Người già Trung niên Giới trẻ
Số lượng Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ
Lựa (Người) (Người) (Người) (%) (%) (%)
chọn 100 28 47 100 75 100
Độc ẩm 67.9 19 13 27.7 15 20
Đối ẩm 17.9 5 25 53.2 39 52
Quần ẩm 14.2 4 9 19.1 21 28
Thông qua kết quả khảo sát chúng tôi nhận thấy rằng tỷ lệ người già
thích độc ẩm nhiều hơn so với người trung niên và giới trẻ. Với 67.9% trong
tổng số phiếu được hỏi ở đối tượng người già lựa chọn phương thức độc ẩm.
Riêng đối với giới trẻ và người trung niên họ lại lựa chọn cách đối ẩm và
quần ẩm phù hợp vì nó phù hợp với sự sôi nổi trong tính cách của họ.
Nhưng theo như những người phục vụ ở một số quán trà tại Hà Nội
chia sẻ thì những năm gần đây tỉ lệ giới trẻ đi uống trà một mình (độc ẩm)
ngày càng xuất hiện nhiều hơn.
Nói tóm lại, thông qua quá trình khảo sát tại một số quán trà và đặc biệt
là khảo sát bằng hệ thống bảng hỏi tại Hiên Trà Trường Xuân đã đem lại kết
53
quả một cách khách quan về bức tranh phát triển của văn hóa thưởng trà ở Hà
Nội hiện nay.
Tiểu kết chương 2
Văn hóa thưởng trà của người Hà Nội hiện nay đã có những thay đổi
lớn so với thời xưa, có những thứ vốn rất được nâng niu và cầu kỳ thì nay dần
bị “mòn” theo thời gian. Đây cũng là điều khiến cho không ít người tâm huyết
với trà Việt phải nhức lòng. Hy vọng phục dựng một nền văn hóa trà truyền
thống với những nét tinh tế thể hiện diện mạo con người Hà Nội hào hoa, lịch
lãm. Tuy nhiên cũng không thể không khẳng định sự phát triển đa dạng của
văn hóa trà Hà Nội hiện nay. Một bức tranh đa màu sắc, nhưng những “gam
màu dân tộc” đang nhạt dần đi thay vào đó là những gam màu của phong cách
trà ngoại nhập. Điều này cũng đáng phải quan tâm và chú ý. Bởi chính những
hình ảnh ngoại nhập này sẽ lấn át, thay thế dần trong tâm thức những người
dân đất Việt. Thật tai hại nếu như những thức uống nhanh chóng trong những
cốc giấy, cốc nhựa dùng một lần dần chiếm lĩnh thị trường và khiến cho
người ta lãng quên những búp trà quý giá mà các cụ xưa luôn nâng niu trân
trọng.
Chúng ta phải nhìn nhận khách quan về một hiện trạng hiện nay đó là
đi khắp các tuyến phố trên địa bàn thành phố Hà Nội, thật khó có thể tìm ra
một quán trà vẫn giữ được nét truyền thống như Hiên Trà Trường Xuân, Lư
trà quán… Bởi sự xuất hiện của quá nhiều và áp đảo của các quán trà ngoại
nhập. Thậm chí bây giờ chúng ta vào một quán cà phê cũng có thể gọi một ấm
trà những chỉ là một ấm trà thường không hương vị và nhạt nhẽo đến rầu
lòng. Sự tồn tại của nhiều quán trà mang phong cách khác nhau cùng tồn tại
trên địa bàn thành phố Hà Nội có mặt tích cực là khiến cho việc tiếp xúc đa
phương đa minh được tốt hơn nhưng cũng vì thế mà tạo nên sự lai căng, hỗn
tạp, làm nhiều người không biết đâu là trà truyền thống đâu là trà ngoại lai.
Và điều này đã làm cho không ít người thực tâm với trà phải xót xa, trăn trở.
54
Tuy nhiên, sự thay đổi diện mạo văn hóa trà Hà Nội là một sự thay đổi
tất yếu không tránh khỏi, để bảo lưu được những giá trị tốt đẹp và tinh tế ấy
cần có nhiều hơn nữa những tấm lòng, những trái tim tâm huyết với trà Việt
mà đỉnh cao là văn hóa thưởng trà của người Hà Nội. Chúng ta có quyền tin
tưởng vào một tương lai phát triển của nền văn hóa trà Việt vì đến thời điểm
hiện tại thế hệ trẻ Việt Nam nói chung, giới trẻ Hà Nội nói riêng đã có nhiều
người với vốn kiến thức hiểu biết sâu rộng và tâm huyết chân thành với trà.
55
CHƯƠNG 3
NHỮNG GIÁ TRỊ ĐẶC SẮC TRONG VĂN HÓA THƯỞNG TRÀ
CỦA NGƯỜI HÀ NỘI
Hà Nội_mảnh đất địa linh nhân kiệt, mảnh đất của những con người
hào hoa, phong nhã, cốt cách thanh cao, của những thú chơi tinh tế và độc
đáo. Nói đến văn hóa trà Việt thì không thể không nhắc đến nghệ thuật
thưởng trà của người Hà Nội. Với những con người nơi đây, từ cách pha trà,
mời trà đến thưởng trà từ lâu đã trở thành một thú chơi thanh tao, quý phái,
mang đậm chất nhân sinh phương Đông.
Văn hóa thưởng trà của người Hà Nội từ xưa tới nay đã trải qua rất
nhiều thăng trầm cùng những năm tháng lịch sử của dân tộc, có lúc thăng lúc
trầm. Nhưng không ai biết rõ nó đã ăn sâu bám rễ vào tâm thức của người dân
đất Việt từ bao giờ nữa. Chỉ biết rằng trà theo ta suốt cuộc đời. Từ những
ngày bố mẹ mừng một sinh linh bé nhỏ chào đời cả làng xóm đều đến chơi
uống chén trà mừng cho sự xuất hiện của một con người. Cho đến khi dựng
vợ gả chồng cũng không thể thiếu được chén trà mời anh em họ hàng, làng
xóm chung vui với hạnh phúc. Và đến tận khi về với tổ tiên làm người thiên
cổ thì người Việt Nam cũng được tẩm liệm cùng trà. Như vậy, khẳng định vai
trò và sức sống mãnh liệt của trà trong đời sống của người dân Việt Nam.
Văn hóa thưởng trà của người Hà Nội đã lưu giữ và phát huy được hệ
thống những giá trị văn hóa cả về vật chất lẫn tinh thần.
3.1 Những giá trị văn hóa vật chất
Những giá trị văn hóa vật chất được bảo lưu trong nghệ thuật thưởng
trà của người Hà Nội còn tồn tại đến ngày hôm nay có thể coi là tinh hoa, là
niềm tự hào của dân tộc Việt Nam. Những giá trị văn hóa vật chất ở đây là
những bí quyết sao tẩm các loại trà, các loại trà cụ, và cách thức pha chế trà
hết sức cầu kỳ và công phu.
56
3.1.1 Nguyên liệu
Nguyên liệu trà là sản phẩm đặc sắc của các vùng trà nổi tiếng ở Việt
Nam. Người Hà Nội không chỉ thưởng thức trà mộc mà còn thổi vào trong trà
cái sắc hồn riêng của mảnh đất này để tạo nên những đỉnh cao trong nghệ
thuật thưởng trà Việt Nam.
Trà nguyên chất
Trà nguyên chất là loại trà không tẩm ướp với bất kì một loại hương
hoa nào. Những người sành trà Hà Nội xưa chỉ hứng thú với loại trà này.
Nhưng để có được chén trà ngon cũng tốn biết bao nhiêu công phu. Thời điểm
hái ngọn chè tươi mới cũng phải được chú ý. Chè phải được hái lúc sáng sớm,
khi mặt trời lên là không hái nữa. Chè hái để héo rồi được sao chế bằng
phương pháp thủ công. Loại trà thượng hạng là trà một lá (gồm chồi và một lá
non nhất), loại trà ngon hai lá (gồm chồi và hai lá gần chồi nhất), loại trà ba lá
(gồm chồi và ba lá gần chồi nhất, được liệt vào hàng thứ phẩm).
Trà “móc câu” là loại trà chỉ được hái đọt non nhất nên sau khi sao sẽ
quăn lại giống như hình móc câu. Song người sành trà lại cho rằng phải gọi là
“trà mốc cau” mới đúng vì trà tròn cánh, trôi tay, có mốc trắng như mốc cây
cau. Còn trà sao suốt là phương pháp sao trà bằng nhiệt, tách nước bằng tay
với ngọn lửa liên tục, đảo đều trên chảo gang.
Những thức trà ngon ấy đều được gọi chung là trà Thái, nhưng thực ra
những thứ bán trên thị trường hiện nay cũng có nguồn gốc rất khác nhau. Để
chọn mua được những loại trà thật đáng tin thì người sành trà Hà Nội phải
đến một số địa chỉ tin cậy mới mong mua được trà ngon đúng với từng địa
danh.
Trà ướp hương
Trong số các loại trà thì trà ướp hương được đánh giá cao nhất. Hà Nội
được coi là nơi khởi điểm của cách uống trà ướp hương hoa. Vì vậy mà loại
trà quý này không được bày bán rộng rãi như các loại trà mộc. Trà ướp hương
57
hội tụ đỉnh cao cái tinh tế, phong cách nho nhã, thanh lịch của người Tràng
An. Những loại hoa được chọn để ướp trà phải là hoa quý, thanh tao như hoa
ngâu, hoa sói, hoa sen, hoa nhài, hoa cúc,… Trong đó hoa sen là thứ hoa cao
quý nhất, được lựa chọn nhiều nhất và ướp trà ngon nhất.
Theo Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác (1720 - 1791) thì “cây hoa
sen mọc từ dưới bùn đen mà không ô nhiễm mùi bùn, được khí thơm trong của
trời đất nên củ sen, hoa sen, tua, lá,… đều là những vị thuốc hay”. Điều này
cũng được nhà sư Hạnh Châu (chùa Vân Trì – Từ Liêm – Hà Nội) lý giải:
“Bởi quan niệm về hoa sen trong đạo Phật của người Á Đông. Hoa sen vốn dĩ
là thứ hoa thanh cao mọc từ bùn lầy, điều đó tương tự chữ Danh, mà người
quân tử rất coi trọng vậy”. Hương hoa sen là những gì tinh túy của đất trời tụ
lại. Vì vậy, ướp trà sen là sản vật quý giá, xưa kia chỉ dành cho hàng vương
tôn công tử, gia đình quyền quý.
Còn theo nghệ nhân Trường Xuân (Hiên Trà Trường Xuân – 13 Ngô
Tất Tố) “muốn trà ngon, chỉ hái những búp trà loại một tôm hai lá, phải hái
nhanh nhẹ nhàng, không để búp trà bị nhàu nát”. Loại trà ngon là sau khi sao
phải có một lượng nước nhất định 5 – 7%. Trà hái xong không được ướp
hương ngay mà phải để trong chum đát, đậy lá chuối từ 2 – 3 năm nhằm giảm
độ chát và cánh trà phồng lên hút được nhiều hương hơn. Chính cái công đoạn
bảo quản trà trong chum mấy năm liền không bị mốc hoặc hư hại đã là một
nghệ thuật vô cùng quý báu chỉ có những người con được gia đình nối nghiệp
mới được học những bí quyết này. Một cân trà cần ướp từ 1000 – 1200 bông
sen mà phải là thứ sen đầm Đông Trị, Thủy Sứ, làng Quảng Bá, Hồ Tây (sen
ở đây to và thơm hơn những nơi khác). Sen phải hái trước lúc bình minh, tách
lấy phần hạt gạo rồi rải cứ một lớp trà, một lớp gạo sen. Sau cùng phủ một lớp
giấy bản. Ướp liên tục 5 – 6 lần. Mỗi lần ướp xong lại sấy khô rồi ướp tiếp. Vì
công phu như vậy nên mỗi cân trà ướp hương sen có giá trị bằng 2 -3 chỉ
58
vàng. Và vì công phu là thế nên một ấm trà sen có thể uống hàng chục tuần
trà, nước trong rồi mà hương sen vẫn còn thơm ngát.
Cũng là trà ướp hương nhưng cụ Nguyễn Tuân lại ca ngợi kiểu ướp trà
bằng cách bỏ trà mạn vào bông sen mới chớm nở rồi buộc lại – ngông đến thế
là cùng. Tuy nhiên với cách này trà không để được lâu, hay bị mốc và dễ bị
mất hương, cách này chỉ có thể dùng cho một lượng trà rất ít và phải sử dụng
ngay.
Trà bổ dưỡng
Trà Việt Nam xưa kia thường có hai loại: Trà mộc, Trà ướp hoa.
Những năm gần đây xuất hiện thêm loại Trà bổ dưỡng (còn gọi là Trà thuốc).
Mỗi loại trà có một hương vị riêng. Ví như, Trà bổ dưỡng thường có vị ngọt
của cam thảo, mật ong, táo tàu hoặc lá cỏ ngọt mang lại, tạo cho chén trà vị
ngọt thanh nhã. Cách pha trà bổ dưỡng mỗi nơi mỗi khác, nhưng đơn giản
nhất là dùng một vị thuốc cho một chén trà (như Mật ong long nhãn trà, Mật
ong tâm sen trà…), hoặc cầu kỳ hơn là một bài thuốc cho một chén trà (như
trà Tiêu Dao, trà Bát Bảo…). Với loại Trà này, mỗi nghệ nhân lại có một cách
pha rất khác nhau, tạo thành những vị đặc biệt khác nhau, ví dụ như Hiên Trà
Trường Xuân thường dùng mật ong để pha thành các loại trà bổ dưỡng: mật
ong Long nhãn trà, mật ong Huyền sâm trà, mật ong Nhân sâm trà, mật ong
Tâm sen trà, mật ong Bạc hà trà.
3.1.2 Trà Cụ
Ấm pha trà
Trà cụ là những dụng cụ pha trà rất cầu kỳ. Trà cụ đầu tiên cần phải có
là ấm pha trà. Tương truyền ngày xưa, đối với dân sành trà luôn luôn phải có
hai ấm đồng, bên trong có đủ năm kim hỏa thì nước mới mau sôi, hai ấm thay
nhau giữ cho nước sôi trên lò than hoa hoặc than tàu. Than không được dùng
loại ẩm hay xốp vì như vậy sẽ sinh nhiều khói, ấm pha trà phải là thứ ấm đất
59
sét có màu đỏ sậm vừa nhỏ, vừa sinh cho đủ một tuần trà. Dân gian còn lưu
truyền hai câu thơ điểm tên những loại ấm trà nổi tiếng của Trung Hoa:
“Thứ nhất Thế Đức gan gà
Thứ nhì Lưu Bội, thứ ba Mạnh Thần”
Mua được ấm ưng ý đã là cả một nghệ thuật. Miệng ấm và vòi ấm phải
nằm trên một đường thẳng. Thả úp ấm vào chậu nước, ấm phải nổi đều, cân
nhau. Mua ấm về không được dùng ngay mà phải đun sôi qua nước bã trà
nhiều lần cho hết hơi đất và hơi lửa. Khi rửa ấm trà thì không được sử dụng
hóa chất, chỉ rửa bằng nước sạch rồi úp vào tủ chè cho khô.
Ấm có các loại ấm theo số lượng người thưởng trà: ấm độc ẩm, ấm đối
ẩm hay ấm quần ẩm…
Chén thưởng trà
Chén thưởng trà thường là chén sứ cho trà nổi nước, nhất là trà xanh.
Chén thì luôn luôn được rửa thật sạch bóng, không bao giờ để vương lại một
ngấn nước đậm màu. Trái với ấm, chén thì có sự phân biệt chén thưởng trà
theo mùa; có chén tống, chén quân…
Một số loại trà cụ khác
Dầm đựng nước nóng để ngâm ấm và chén trước khi thưởng trà được
làm từ đất nung trông rất đẹp mắt.
Kẹp chén, thìa xúc chè đều được làm bằng gỗ thơm hoặc bằng tre khô
để khỏi bị ảnh hưởng đến hương vị của trà.
Khay trà được làm bằng gỗ hoặc đất nung với những hoa văn rất ấn
tượng. Nếu khay bằng gỗ còn được trang trí bởi những khảm trai trông rất
sang trọng và quý phái.
Ngoài ra còn có tăm thông vòi ấm khi bị tắc bã trà, thìa khuấy trà làm
bằng gỗ,…
60
3.1.3 Pha chế
Cách thức pha chế một ấm trà của người Hà Nội hết sức cầu kì. Cho dù
là pha mời khách hay pha cho mình thưởng thức đều được tiến hành hết sức
cẩn trọng và nâng niu chất chứa tình yêu và niềm đam mê đối với từng búp trà
trong tay.
Trước khi pha trà, ấm, chén phải được ngâm qua nước sôi để giữ nước
trà được nóng lâu.
Thứ nước để pha trà được người Hà Nội ưa chuộng nhất vẫn là thứ
nước mưa hứng giữa trời hoặc nước giếng đá ong.
Khi lấy trà cho vào ấm phải dùng thìa gỗ hoặc thìa tre múc trà tránh
việc tiếp xúc trực tiếp tay vào những búp trà khô sẽ làm hư hại hương vị của
trà. Trà cho vào ấm cỡ khoảng 1/3 ấm là vừa. Để đạt được ấm trà ngon phải
luôn luôn giữ ấm trà và chén trà ở độ nóng cao nhất.
Khi châm nước đầu thì rót vào thật nhanh rồi rót bỏ đi ngay. Sau đó châm
nước lần hai thì đổ nước cao hơn miệng ấm để nước trong ấm trào ra khỏi miệng
ấm mang theo những bụi bẩn của trà ra ngoài hết. Khi rót trà ta đưa các chén để
khít miệng lại với nhau thành vòng tròn rồi đưa vòi ấm quay đều các chén một
lượt đi, lại một lượt lại để trà ở mỗi chén có độ đậm nhạt như nhau.
Cách pha trà như vậy không hẳn là quá phức tạp mà người sành trà phải
nắm được đặc tính của từng loại trà để pha chế cho phù hợp.
Như vậy, chúng ta thấy rằng những giá trị văn hóa vật chất được bảo
lưu trong nghệ thuật thưởng trà của người Hà Nội đã đem lại niềm tự hào cho
người dân Việt Nam về một nền văn hóa trà với đỉnh cao là thú thưởng trà
lịch lãm và phong lưu của người Hà Thành.
3.2 Những giá trị văn hóa tinh thần
Bên cạnh những giá trị văn hóa vật chất còn bảo lưu và phát triển được
đến ngày hôm nay thì những giá trị văn hóa tinh thần từ nghệ thuật thưởng trà
của người Hà Nội rất đáng được nâng niu và trân trọng.
61
“Trà không chỉ đem cái thanh cao, cái thoát tục cho con người, mà còn
giúp con người xóa bỏ hết mọi ưu tư trần tục để thanh thản sống và làm việc
cho mục đích cao cả của mình”. Người ta không sử dụng từ uống trà trong
văn hóa thưởng trà của người Hà Nội, mà người ta sử dụng từ “thưởng trà” nó
mang đến một cảm giác trân trọng chén trà và trân trọng chính những người
thưởng trà.
Nói đến giá trị văn hóa tinh thần chúng ta không thể bỏ qua yếu tố tâm
linh vì yếu tố này cũng xây đắp lên hệ giá trị vô cùng to lớn.
Trên ban thờ tổ tiên chúng ta, trong các giỗ kỵ ông cha ta thời còn rất
gần đây, các tuần rượu, tuần trà (tam trà, nhị tửu) không bao giờ thiếu được.
Phải chăng đó là một biểu hiện của lòng biết ơn nguồn cội và là sức thẩm thấu
của nền văn hóa trà tự bao đời nay.
Hình ảnh những chén trà được thờ ở ban Tam Bảo tại một số ngôi chùa
ở Hà Nội như chùa Vân Trì Và chùa Đình Quán (Phú Diễn – Từ Liêm – Hà
Nội). Đây là một hình thức thờ cúng thể hiện sự nhớ ơn tổ tiên. Bởi theo tục
truyền đức Bồ Đề Lạt Ma, người Ấn Độ đã du nhập Phật Giáo dyana vào
Trung Hoa khoảng 520 qua trường phái chan (đầu tiên được gọi là chan na),
sau này trở nên seon bên Hàn Quốc, zen bên Nhật Bản, thiền ở Việt Nam, một
hôm ngủ gật nhân lúc ngồi định tâm. Thức giấc, hổ thẹn, ngài cắt hai mí mắt
vứt xuống đất. Hai mí này mọc rễ, đâm chồi lớn lên thành một loại cây có lá
hình mí mắt mà người đời hái về dùng để giữ trí óc luôn được tỉnh táo. Chính
vì vậy mà đến hiện nay, khi đến một số ngôi chùa chúng tôi nhận thấy rằng
chỉ có những ngôi chùa tu thiền thì mới có ấm trà được đặt thờ ở ban Tam
Bảo.
Ngoài ra cách thưởng trà liên quan chặt chẽ với nếp sống của các vị
thiền sư, phù hợp nguyên tắc luôn tỉnh thức và quan sát của môn phái Thiền
được gọi là Thiền Trà. Hiện nay, tại Hà Nội chỉ còn tồn tại hai ngôi chùa có tổ
chức Thiền Trà; đó là chùa Đình Quán (Phú Diễn – Từ Liêm), tổ chức không
62
định kỳ; chùa Vân Trì (Phú Diễn – Từ Liêm), ở đây những buổi Thiền Trà
được tổ chức một cách định kỳ.
Bằng cách ngắm hoa họ hoặc thanh tịnh nơi trà thất, họ thanh tịnh
nhãn căn; lắng nghe tiếng nước sôi trong ấm đồng, họ thanh tịnh nhĩ căn; khi
nhấm nháp từng ngụm trà nhỏ từ chén trà thơm ngon, họ thanh tịnh khẩu vị và
thiệt căn; khi tiếp xúc với những trà cụ trong sự tĩnh giác, họ thanh tịnh được
xúc giác và thân căn; khi thâm tâm và lục văn thanh tịnh, họ thoát khỏi mọi
ràng buộc của phiền muộn vì vậy mà họ trở nên thanh thản. Có lẽ đó chính là
nghệ thuật thưởng thức trà quý giá nhất mà con người có thể có được.
Thời đại ngày nay cho dù vui hay buồn khách cũng không thể từ chối
được một chén trà do chủ nhân dâng mời bằng hai tay. Dâng trà là một ứng
xử văn hóa phổ quát biểu hiện sự lễ độ, lòng mến khách. Thưởng trà cũng là
một ứng xử văn hóa, uống từng ngụm nhỏ để cảm nhận hết cái thơm ngọt của
trà, cái hơi ấm thoát ra từ hai bàn tay nâng chén trà ủ nóng bàn tay trong mùa
đông lạnh giá. Động thái thưởng trà khiến cho người ta tĩnh tâm, như ăn có
nhai làm có nghĩ.
Những giá trị tinh thần được rút ra từ văn hóa thưởng trà của người Hà Nội
3.2.1 Thưởng trà để tận hưởng tinh hoa trời đất
Khi nhắc đến văn hóa trà Việt chắc hẳn ai cũng hình dung ngay đến
đỉnh cao là nghệ thuật ướp hương trà của người Hà Nội. Một trong những nét
tinh tế nhất của những nét tinh tế. Vì chẳng có một quốc gia nào có thể có đặc
sản trà sen giống của Việt Nam, và cũng chẳng có vùng nào trên đất nước
Việt Nam có thể có được thứ sen như sen Hồ Tây để ướp hương trà. Đất trời
chiều lòng người người Hà Nội nổi tiếng hào hoa, phong nhã:
“Chẳng thơm cũng thể hoa nhài
Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An”.
Người Tràng An xưa thanh lịch mà không kiêu kì, hào hoa phong nhã
mà không kiêu ngạo. Họ đẹp trong từng cử chỉ, hành động, trong lề lối của
63
cuộc sống, trong những sản vật mà họ làm ra. Không một nơi nào trên mảnh
đất Việt Nam lại có được nhiều sản vật có giá trị và ghi vào dấu ấn như mảnh
đất Kinh thành.
Thưởng trà ngắm hoa đầu xuân là một thói quen riêng của các bậc tao
nhân mặc khách chốn kinh thành xưa. Trước tết, đích thân các cụ đi chọn mua
hoa đào, cúc, mai trắng, thủy tiên ở tận vườn, chuẩn bị loại trà ngon nhất.
Sáng mồng một, con cháu giành riêng cho cụ những phút giây đầu tiên để tịnh
tâm và ngắm hoa thưởng trà, sau đó mới là cả đại gia đình cùng ngồi quanh
bàn trà chúc thọ cụ và nghe lời dặn dò.
Uống trà thưởng hoa quý như hoa quỳnh, hoa trà cũng là cái thú của
nhiều người Tràng An. Đó cũng là hình thức hội trà quanh chậu hoa quý vào
tối hoa mãn khai của những người cao tuổi, đàm đạo thế sự, văn chương và
dặn dò lớp con cháu.
Trà ngũ hương chỉ giới hạn cho năm người. Khay uống trà ngũ hương
thửa 5 chỗ trũng để 5 loại hoa đang độ đượm hương nhất: cúc, sói, nhài, sen
ngâu. Úp các chén kín hoa, bưng khay để lên nồi nước sôi cho hương hoa
bám vào lòng chén. Pha trà mạn thật ngon, rót đều ra các chén, mỗi người
tham gia phải đoán hương trà trong chén trà của mình và cũng nhận xét. Sau
mỗi chén trà, người chủ nhà lại hoán vị hương để ai cũng được thưởng thức
hết cái tinh thúy của hội trà ngũ hương.
Cách thức sao tẩm để tạo ra thứ trà sen độc nhất vô nhị luôn là niềm tự
hào của những con người Thăng Long. Dù có đi đến tận phương trời nào thì
cách thưởng trà ướp hương của người Hà Nội vẫn để lại ấn tượng sâu đậm
trong lòng ẩm khách. Thưởng trà ướp hương là một cách tận hưởng hương
hóa, tinh túy của đất trời. Một sự kết hợp thật tinh tế và kỳ diệu. Những búp
trà từ vùng sương mù quanh năm bao phủ tinh sạch và quý hiếm kết hợp với
hương sen “báu vật” của Hồ Tây để tạo nên thứ trà sen thể hiện được sự khéo
léo, tỉ mỉ và công phu của người Tràng An.
64
Người Hà Nội dù ở thời đại nào cũng muốn tìm cho mình một không
gian thật thanh tịnh và thoải mái để có thể ngồi thưởng trà độc ẩm hay cùng
quần ẩm với hội bạn trà đàm đạo thế sự. Người Hà Thành xưa chọn bàn trà
đặt ở gian chính của nhà trong bầu không khí mát mẻ, sạch sẽ hoặc đặt bàn trà
tại góc vườn có thiên nhiên cây cỏ với tiếng chim hót. Vừa thưởng trà vừa
đắm mình cùng thiên nhiên là một cách khiến cho lòng thanh thản nhẹ nhàng
hơn. Đó là sự lựa chọn không gian thưởng trà của người Hà Nội xưa. Còn
hiện nay không ít người lại lựa chọn không gian thưởng trà là các quán trà vì
tại đây người ta có thể gặp những người bạn tâm giao, những người có cùng
niềm tâm huyết với trà, có cùng sở trường thưởng trà trong khi cuộc sống tất
bật xô bồ.
Như vậy, cách thức lựa chọn các loại trà và cách ướp hương các loại
trà, chọn không gian thưởng thức. Cùng sự tinh tế trong cách thức thưởng
thức trà đã nâng tầm và khẳng định nhiều lần hơn nữa về những con người Hà
Nội hào hoa, thanh lịch.
3.2.2 Thưởng trà để kết nối tâm giao
Nhà văn Nguyễn Tuân sinh thời có nói: “Chỉ có người tao nhã, cùng
một thanh khí mới có thể cùng nhau ngồi bên một ấm trà”. Hay như trong bài
“mời trà” của quan họ Bắc Ninh:
“Mấy khi khách đến chơi nhà
Đốt than quạt nước pha trà người xơi
Trà này quý lắm người ơi
Mỗi người một chén cho tôi vừa lòng”.
Vậy người bạn tri kỷ cùng ta uống trà, hẳn phải là người bạn hiền, chỉ
cần đưa mắt là có thể hiểu lòng nhau, lấy gì mà mua cho được ở cõi đời còn
lắm bon chen và phiền muộn này. Có duyên phận lắm mới được cùng nhau
hạnh ngộ với người tri kỉ bên chén trà quý là vậy.
65
Thú thưởng trà vào sớm mai là thói quen của nhiều người Việt Nam nói
chung và người Hà Nội nói riêng. Có người thích độc ẩm, có người thích đối
ẩm, song ẩm, tứ ẩm hoặc quần ẩm. Có bình trà ngon gọi bạn hiền đến cùng
thưởng thức, đó là nét văn hóa từ bao đời nay của ông cha ta.
Thỉnh thoảng có khách đến chơi hoặc lúc rảnh hàng xóm hay rủ nhau
sang nhà uống trà. Chủ mời khách phải đưa chén bằng cả hai tay. Mời trà
cũng là một hành vi biểu hiện phong độ thanh nhã và hiếu khách của hầu hết
các gia đình Việt Nam. Kỵ nhất là mời khách bằng một chén trà nguội, hay
những chiếc chén trà bị hoen ố nước trà cũ. Chén trà mời khách thể hiện
những tình cảm tối thiểu nhất, không thể tùy tiện coi thường, dù không nhất
thiết phải bằng thứ trà thượng hảo hạng. Với mục đích giải khát thì có thể
uống trà theo cách riêng của mỗi người. Uống trà là một cách biểu thị sự tâm
đắc, trình độ văn hóa và cảm tình cùng người đối thoại. Trong ấm trà ngon,
người cùng thưởng trà tâm đầu ý hợp, dưới ánh trăng thanh gió mát, ngắm
khung cảnh tĩnh mịch của núi rừng mà luận bàn thế sự thì không còn gì thú vị
hơn nữa. Chỉ có những tao nhân mặc khách mới thưởng thức trọn vẹn cái
phong vị của cách uống trà này, chứ không phải như kẻ phàm phu tục tử bưng
ly trà to đùng lên uống ừng ực, người ta gọi là “ngưu ẩm” hay là uống như
trâu uống nước.
Cũng như uống rượu, người Hà Thành quan niệm thưởng trà ngon phải
có bạn hiền. Vừa nhâm nhi chén trà nóng vừa bàn chuyện đời, chuyện người,
chuyện thế sự thời cuộc,… vừa lắng nghe suy ngẫm, vừa triết lý vừa gật gù,
vừa tranh luận vừa bày tỏ… Cũng có khi vừa kết hợp thưởng trà, nghe nhạc
và ngắm trăng, thưởng hoa,… Không có gì có thể thanh thản hơn bằng những
phút giây thả mình vào không gian yên tĩnh chung quanh, bên chén trà tỏa
hương, bên những người bạn thân thiết nhất.
Ngay từ thời xa xưa, trà Việt đã tham gia vào lĩnh vực ngoại giao,
không phải ở vị trí “trà nước thù tạc” mà với vai trò giới thiệu tâm hồn người
66
Việt Nam phẩm chất con người Việt Nam trên trường quốc tế. Đó là bài thơ
của Cung Định Vương Trần Thủ tiễn Ngưu Lượng trưởng đoàn sứ giả của
nhà Minh sang nước ta:
“An Nam tể tướng bất năng thi
Không bả trà âu tống khách quy”.
Tạm dịch là
“Tế tướng nước Nam thơ chẳng giỏi
Bình trà suông tiễn khách ra về”.
Thế đấy tể tướng nước Nam chẳng có vàng bạc, lụa là gì cả, đến thơ
cũng chẳng có. Chỉ có bình trà suông tiễn khách ra về. Nhưng đây mới là điều
đáng quý, bởi chỉ có bình trà đã thể hiện được hết tấm lòng của người dân
nước Nam, coi nhau như thân cận, quý mến và trân trọng nên mới được tặng
bình trà.
Các cụ xưa uống trà không chỉ để thưởng thức hương vị thơm ngon kỳ
thú, mà bên ấm trà người ta còn tìm một mối tri kỷ tri âm, luận bàn thế sự,
giãi bày những quan điểm về mọi mặt của đời sống xã hội…
Thưởng trà là một thú vui phong lưu, tao nhã, là một cách bồi bổ, di
dưỡng tinh thần của người Hà Thành. Một chén trà mà chứa đựng bao điều
sâu xa. Đúng như cụ Nguyễn Tuân đã từng nhận xét: “Trong một ấm trà
ngon, người ta thấy có một mùi thơ và một vị triết lý”. Bên ấm trà người ta
thấy toát lên cái tinh thần “Vạn biến như lôi, nhất tâm thiền định”, tức là lấy
cái trong sáng tĩnh lặng của cõi lòng để chế ngự cái vạn biến của đất trời, lấy
cái thanh cao để vượt lên cái tục của đời thường.
Người Hà Nội tinh tế lắm, hiểu được triết lí sâu xa của trà, hiểu được
“tính” trà nên dù có bận rộn với cuộc sống thế nào thì chén trà vẫn là nơi khởi
điểm của tình thân, khởi điểm của tình tri kỉ. Mỗi khi đi xa thường mang theo
một chút sắc hồn riêng của Hà Thành. Gia đình nào có người đi sinh sống ở
phương xa cứ hễ đến dịp lễ tết người ở nhà lại gói gém gửi đi những gói trà
67
mộc, trà sen đặc sản Hà Thành làm quà. Dường như những sản vật này là
những sợi dây vô hình thít chặt tình thương yêu của con người, nối liền
khoảng cách về không gian và thời gian.
Xu hướng hiện nay của nhiều doanh nhân Hà Thành là lựa chọn quán
trà để vừa thưởng trà vừa bàn bạc công việc. Bởi theo họ, quán trà có sự yên
tĩnh giúp con người tỉnh táo quyết định những công việc, những hợp đồng
quan trọng, không bị men của bia rượu làm cho chếnh choáng thiếu kiểm soát
bản thân dẫn đến những tình huống éo le khi làm việc. Không gian tại các
quán trà vừa ấm cúng lại tạo cảm giác thoải mái như thưởng trà trong chính
ngôi nhà của mình vậy. Nên rất nhiều người lựa chọn thưởng trà để bàn
chuyện công việc, nơi để cùng bạn bè tâm tình về những khúc mắc, vui buồn
trong cuộc sống.
Không có gì có thể thanh đạm và lịch thiệp hơn khi ngồi quanh nhau
bên một chén trà nóng trong một không gian ấm cúng. Đây chính là một trong
những điều kiện tuyệt vời nhất để góp phần vào việc xây dựng môi trường
sống nhân ái, hài hòa. Xây dựng một hình ảnh thủ đô ngàn năm tuổi với
những con người tinh tế, sâu sắc trong lối sống, hiểu biết và trân trọng trà _
một tặng phẩm cao quý của đất trời.
3.2.3 Thưởng trà để sống với thế giới tâm linh, chiêm nghiệm về cuộc sống,
nhân sinh
Những người Hà Nội trầm lặng hay uống trà. Hà Nội không phải là
mảnh đất trồng trà nhưng có lẽ hiểu về trà nhất vẫn là người Hà Nội. Này là
trà cúc, trà sen, trà mộc, trà ngâu. Này là trà bạch ngọc hoa, trà hoa mộc. Này
là huyền sâm trà, hoàng cúc trà… hàng mấy chục loại trà khác nhau cho
người tao ngộ thưởng lãm trong mỗi dịp khác nhau. Người miền Nam bận rộn
mưu sinh, người miền Trung hiền lành vất vả, có miền nào như miền Bắc, làm
việc đấy, vội vàng đấy, tất bật đấy, nhưng mỗi ngày đều trôi qua bằng dáng vẻ
68
tao nhã, thanh lịch. Có lẽ bởi miền Bắc có trà, bởi người Hà Nội có thú
thưởng trà.
Thưởng trà là một cách để con người có thể lắng lòng, tĩnh tại chiêm
nghiệm về những sự việc đã trôi qua, ngẫm nghĩ về ngày hôm qua để rút ra
những cách nhìn nhận về cuộc sống. Thông thường để sống được với thế giới
tâm linh, chiêm nghiệm về cuộc sống nhân sinh thì người thưởng trà sẽ sử
dụng phương thức độc ẩm.
Các nhà sư muốn tu thiền được tĩnh tâm thường thưởng trà độc ẩm và
tu thiền một mình trong thiền đường hoặc trà thất. Những buổi sớm mai ở
chùa những vị sư vẫn có thói quen dậy rất sớm để tụng kinh, thưởng trà ngắm
trăng và chuẩn bị đón chào một ngày mới.
Trà không chỉ đem cái thanh cao, cái thoát tục cho con người, mà còn
giúp con người xóa bỏ hết mọi ưu tư trần tục để thanh thản sống và làm việc
cho mục đích cao cả của mình. Trần Nguyên Đán, ông ngoại của Nguyễn
Trãi, đã bất lực trước âm mưu hành động tiếm quyền, tàn sát trung thần của
Hồ Quý Ly, đã nhờ trà đem lại thăng bằng, thanh thản cho tâm hồn mình:
“Chiều bãi hoán trà liên tục lự
“Nhàn phi đố giản huấn đồng mông
Tạm dịch là:
“Tàn chầu mượn chén trà khuây muộn
“Sách mọt bày ra dạy trẻ thơ
Đến Nguyễn Trãi đã tìm đến trà như một người bạn tâm giao cùng với
“thơ” và “trăng” để đưa con người ẩn mình xa thế lụy. Bộ ba “trà”, “thơ” và
“trăng” đã nhiều lần có mặt trong thơ Nguyễn Trãi để nói lên chí hướng, tâm
tư ông:
“Cởi tục trà thường pha nước tuyết,
“Tìm thanh, trong vắt tịn chè mai
69
Cởi tục là cởi bỏ những ưu phiền thế tục; pha nước tuyết là nước trong
nhất, trong như tuyết; chè mai là chè hồng mai, thứ chè của các thiền gia.
Và:
“Chè mai đêm nguyệt dậy xem bóng
“Phiến sách, ngày xuân ngồi chấm câu
“Xem bóng, xem áo” là các ẩn ngữ của người đời xưa nói về xem lại
mình có phải hổ thẹn với “bóng” mình và cái “áo” mình đang mặc không, tức
là kiểm điểm lại bản thân mình.
Đấy là cách mà những bậc quân vương mượn trà để giãi bày tấm lòng,
để rửa lòng tục và giữ tâm được an bình. Họ vừa uống trà, vừa làm thơ, vịnh
thơ, bình thơ,… hay vừa uống trà vừa nói chuyện. Trước cảnh thiên nhiên
trong sạch, lòng người hướng đến sự nhẹ nhàng và tĩnh lặng hơn, tâm hồn thư
thái hơn…
Chính vì vậy mà thưởng trà đã được nâng lên thành văn hóa. Văn hóa
trà là một bộ phận của nền văn hóa dân tộc. “Văn hóa trà vừa hữu hình vừa vô
hình, vừa là văn hóa vật thể vừa là văn hóa phi vật thể. Văn hóa trà thể hiện
tâm hồn con người – tâm hồn thanh cao yêu cái đẹp”.[9;12]
Theo Phạm Đình Hổ trà “thú vị ở chỗ tính nó sạch sẽ, hương nó thơm
tho. Buổi sáng gió mát buổi chiều trăng trong với bạn rượu làng thơ cùng làm
chủ khách mà ung dung pha ấm trà tàu ra thưởng thức thì có thể tỉnh được
mộng trần, rửa được lòng tục” [10;33]. Và vì vậy mà lý giải được tại sao khi
trong lòng chống chếnh người ta luôn muốn tìm đến với trà để khỏa lấp những
phiền muộn, cho đầu óc thư thái, thanh thản mong quyết định mọi chuyện thật
sáng suốt.
Người Hà Thành cẩn trọng trong lối sống, tỉ mỉ trong cách dạy dỗ các
thê hệ con cháu nên những người con đất Hà Thành dù có sống trong hoàn
cảnh nào, môi trường nào thì vẫn mang trong mình nếp sống giản dị mà
không hèn mọn, kín đáo mà không khép mình. Có phải chăng do trong cuộc
70
sống của người Hà Nội có chất trà? Thưởng trà là cách để cho người ta chiêm
nghiệm về cuộc sống, có thời gian để tu tâm dưỡng tính. Cách thể hiện sự trân
trọng từng búp trà, nghệ thuật ướp hương trà như một bí quyết chỉ có thể
truyền cho người thân thực sự tin cậy trong gia đình nghệ nhân.
Trên bàn thờ của các gia đình Hà Nội xưa thường có bộ ấm chén pha
trà nhỏ tượng trưng cho lòng biết ơn tổ tiên. Ngày mồng một đầu năm, sau khi
thắp hương khấn vái tổ tiên xong, các cụ thường hạ ấm trà xuống cùng con
cháu thưởng trà để tỏ lòng thành kính, cầu mong một năm mới nhiều tài lộc.
Những giây phút thưởng trà đầu năm là thời khắc thiêng liêng nhất đối với
mọi người trong gia đình, đây là giây phút hồi tưởng lại những sự kiện của
một năm cũ và cầu mong về một năm mới nhiều may mắn, hạnh phúc.
Nếu như đặt chân lên mảnh đất Sài Gòn sẽ không hiếm hình ảnh người
dân nơi thành phố này ngồi vừa đọc báo vừa nhâm nhi ly cà phê mỗi buổi
sáng và cũng như vậy, cũng chẳng khó khăn gì để thấy hình ảnh người Hà
Nội ngồi thưởng trà, ngắm nhìn cảnh thiên nhiên hoặc nghe một bản nhạc
Trịnh sâu lắng. Đó là đặc trưng văn hóa riêng của từng vùng. Một sự lựa chọn
rất Hà Thành, một mảnh đất “địa linh” với những con người tinh tế, sâu sắc
và lắng đọng.
Phương thức trà độc ẩm chỉ phù hợp với những ai khi trong lòng mang
những tâm trạng sầu muộn, cần có những phút giây lắng đọng và suy tư. Khi
đó người ta sẽ tìm đến với trà. Ấm trà độc ẩm thường rất nhỏ xinh chỉ vừa
một chén trà cho một người thưởng thức. Màu sắc của ấm luôn luôn là những
gam màu trầm như màu xám, nâu sậm để phù hợp với tâm trạng của người
thưởng thức. Sẽ không muốn thưởng thức một ấm trà to tướng hay màu men
với hoa văn màu mè khi ngồi thưởng trà một mình. Lúc này, người ta thường
cần một sự tĩnh lặng tuyệt đối cả về không gian để có thể sống với thế giới
tâm linh và chiêm nghiệm về cuộc sống, nhân sinh.
71
Trong thời đại công nghiệp hiện nay, thú thưởng trà của người Hà Nội
đã tạo ra một cách thư giãn giữa cuộc sống hối hả đua chen cùng tốc độ phát
triển, một chiếc cầu hướng con người từ công việc lập trình máy móc đến với
tình thương yêu thường trực trong trái tim, một cách cân bằng đậm chất
phương Đông cho nền văn minh hiện đại rất phương Tây.
Tiểu kết chương 3
Những giá trị văn hóa đặc sắc trong văn hóa thưởng trà của người Hà
Nội được đúc rút từ việc tìm hiểu về văn hóa thưởng trà của người Hà Nội
xưa và nay. Những gì còn bảo lưu được đến ngày nay đều là những giá trị văn
hóa đặc sắc, để cho các thế hệ sau này mãi tự hào về một dân tộc với lịch sử
hào hùng, văn hóa in dấu trên mọi hoạt động của đời sống.
Văn hóa thưởng trà của người Hà Nội vừa là đỉnh cao của văn hóa trà
Việt, vừa là nơi bảo lưu phát triển những giá trị văn hóa truyền thống và tiếp
thu văn hóa hiện thời, những tinh hoa văn hóa của thể giới. Trong từng bước
phát triển của văn hóa trà chúng ta cần giữ gìn những giá trị văn hóa cả về vật
chất lẫn tinh thần. Biết nâng niu, trân trọng những kinh nghiệm của tiền nhân,
đó chính là những bài học vô giá về cách thức thưởng thức cũng như cách
thức tự rèn luyện bản thân. Cụ Trường Xuân từng nói: “Đừng nghĩ trà đạo
Việt Nam là cái gì quá cao siêu, mà đó là đạo tu thân dưỡng tính và khao khát
sự giao hòa”.
72
KẾT LUẬN
Nói đến văn hóa trà Việt Nam không thể không nhắc đến thú thưởng trà
của người Hà Nội. Người Hà Nội thanh lịch hào hoa là vậy nên với người dân
nơi đây việc pha trà cho mình hay pha trà mời khách đều rất cẩn trọng và đặt
trọn cái tâm của mình đối với trà. Người Hà Nội không chỉ thưởng thức trà
mộc mà còn thổi vào trong trà cái sắc hồn riêng của mảnh đất này để tạo nên
những đỉnh cao trong nghệ thuạt thưởng trà Việt Nam. Đến nơi đây, trà mộc
được ướp với hương của nhiều loại hoa nổi tiếng như hoa sen, nhài, sói,
ngâu,… Trong đó, trà sen được coi là thức uống thanh quý vào bậc nhất của
người Hà Nội. Hương trà sen thơm nhẹ mà sâu lắng, vị ngọt đậm và vị chát
dịu nhẹ như được dung hòa với nhau theo một công thức bí ẩn của tự nhiên
khiến cho người thưởng thức nó chỉ có thể cảm nhận được chứ không thể diễn
tả được thành lời.
Tìm hiểu về văn hóa thưởng trà của người Hà Nội xưa mới thấy đây
quả là một môn nghệ thuật đạt đến đỉnh cao. Không giống với trà Nhật nâng
lên thành Trà Đạo, cũng không phải cách thưởng thức theo kiểu biểu diễn
nghệ thuật của Trung Hoa mà là một nghệ thuật chế biến trà, để tạo nên một
thức trà hết sức diệu kỳ. Trà được trồng ở nơi cao nhất, búp trà là tinh hoa của
đất trời tích tụ bởi những tháng ngày mù sương và vẫn phát triển lớn mạnh
được; hoa sen là thứ mọc dưới bùn lầy, nhưng lại có hương tinh sạch và thơm
tho nhất. Hai thứ tưởng chừng như xa cách nhau vạn dặm, xa lạ nhau hoàn
toàn nhưng dưới bàn tay tài hoa, óc sáng tạo của người dân đất Hà Thành, hai
thứ này đã hợp thành một thứ “trà sen” tuyệt hảo. Thức trà này đã làm nao
lòng bao người con Hà Thành khi đi xa, làm nhức lòng người khách viễn du
để phải nhớ mãi khôn nguôi về một miền đất Kinh bắc này.
Ở Hà Nội hiện nay thú thưởng trà có phần huyên náo, ồn ào hơn, tấp
nập hơn và phong trào hơn nhưng đó lại là dấu hiệu thật đáng mừng cho thành
phố cổ kính ngàn năm tuổi này. Không chỉ là những quán cóc liêu xiêu trong
73
câu hát thủa nào, mà còn là những quán trà được thiết kế theo kiến trúc Việt
cổ điển nhưng không kém phần sang trọng, ấm cúng. Đối tượng thưởng trà
không còn bị bó hẹp trong hàng vương tôn công tử, quý tộc, nho sỹ nữa. Mà
người Hà Thành hiện nay rất nhiều người khi được hỏi đã ý thức được việc
giữ gìn và phát triển một nền văn hóa trà tràn đầy sức sống. Những quán trà
trên địa bàn Hà Nội hiện nay là nơi mọi người thường ghé lại để thưởng thức
trà với những nỗi niềm riêng hoặc với những câu chuyện nhân tình thế thái
bên lề cuộc sống nhộn nhịp.
Hà Nội bây giờ vẫn có những quán trà ghi dấu hình bóng của trà Việt
truyền thống. Vẫn còn đó sự tinh tế, nét hào hoa và cung cách quý phái được
giữ gìn và trân trọng bằng cả tấm lòng chân thành nhất. Những địa điểm như
Hiên Trà Trường Xuân, Lư Trà quán… sẽ luôn là một trong những dấu ấn
đậm nét của văn hóa trà Hà Nội. Du khách đến với những nơi này để nhâm
nhi chén trà nóng giữa cái lạnh đầu đông, để nhớ nhung những người cũ, để
suy nghĩ về sự đời, để đắm mình vào một không gian hoài cổ và tĩnh tại.
Từ một địa chỉ văn hóa trà truyền thống đặc sắc nhất ở thủ đô Hà Nội
hiện nay là Hiên Trà Trường Xuân, khóa luận đã đưa ra cái nhìn tổng thể về
văn hóa thưởng trà Hà Nội từ xưa đến nay để thấy được thực trạng phát triển
trà tại Hà Nội. Hiện nay, cách thức pha trà đã giản tiện đi rất nhiều, nhưng đối
tượng thưởng trà lại được mở rộng ra chứ không chỉ bó hẹp như xưa nữa. Một
điều đáng mừng là giữa sự ồn ào, tấp nập của phố phường Hà Nội thời hiện
đại thì vẫn còn rất nhiều người có tâm huyết với trà. Chủ Hiên Trà Trường
Xuân - nghệ nhân trà Hoàng Anh Sướng là một người như vậy. Anh đã
nguyện suốt đời mình nghiên cứu và lưu giữ hương trà Việt.
Tuy nhiên khi tìm hiểu về thực trạng những thứ còn lưu giữ được và
những điều đã bị mai một trong văn hóa thưởng trà của người Hà Nội, chúng
tôi muốn nêu ra một vài giải pháp để hướng đến việc lưu giữ, bảo tồn những
giá trị quý báu này.
74
Xuất bản những ấn phẩm, những chương trình văn hóa để giới thiệu và
quảng bá về trà Việt Nam.
Hình thành các câu lạc bộ trà.
Tôn vinh những nghệ nhân có công giữ gìn và phát huy văn hóa trà
Việt.
Đưa nghệ thuật thưởng trà vào các lễ hội ẩm thực. Xây dựng riêng lễ
hội ẩm thủy.
Xây dựng “phố trà” truyền thống.
Tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về trà hàng năm.
Tổ chức các lớp học về cách thức pha chế và thưởng thức trà.
75
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. KaKuZo OkaKuRa, Trà thư, Nxb Văn học, Hà Nội 2009.
2. Vũ Bằng, Thương nhớ Mười Hai, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội, 2000.
3. Phan Kế Bính, Việt Nam Phong tục, Nxb Văn học, Hà Nội, 2006.
4. Nguyễn Thanh Bình, Hà Nội 36 góc nhìn, Nxb Thanh Niên, Hà Nội, 2005.
5. Lý Khắc Cung, Hà Nội – Văn hóa và phong tục, Nxb Thanh Niên, Hà Nội,
2000.
6. Lý Khắc Cung, Văn vật ẩm thực đất Thăng Long, Nxb Văn hóa dân tộc,
Hà Nội, 2004.
7. Nguyễn Bá Hoàn, Trà Đạo, Nxb Thuận Hóa, Huế, 2003.
8. Nguyễn Bá Hoàn, Trà luận – Tinh hoa văn hóa phương Đông, Nxb tp Hồ
Chí Minh, 2003.
9. Trần thị Kim Hoa, Trà Hà Nội dưới góc nhìn văn hóa, Báo cáo nghiên cứu
khoa học khoa Việt Nam học, trường Đại học Sư phạm Hà Nội, 2008.
10. Phạm Đình Hổ, Vũ Trung tùy bút, Nxb Trẻ, Hà Nội, 1989.
11. Tế Hân – Ngọc Huy, Thiền trà và ăn chay, Nxb Hà Nội, 2008.
12. Lục Vũ, Trà Kinh, Nxb Văn học, Hà Nội, 2008.
13. Trần Quốc Vượng, Văn hóa Việt Nam tìm tòi và suy ngẫm, Nxb Văn học,
Hà Nội, 2003.
14. Trần Quốc Vượng – Vũ Tuân Sán, Hà Nội nghìn xưa, Nxb Văn hóa thông
tin, Hà Nội, 1975.
15. Vũ Thế Ngọc, Trà Kinh – Nghệ thuật thưởng trà trong lịch sử và văn hóa
phương Đông, Nxb Văn Nghệ, tp Hồ Chí Minh, 2006.
16. Đỗ Ngọc Quỹ – Đỗ Thị Ngọc Oanh, Khoa học văn hóa trà thế giới và
Việt Nam, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, 2008.
17. Vũ Tuân Sán, Hà Nội xưa và nay, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội, 2007.
76
18. Đông A Sáng, Trà – Văn hóa đặc sắc Trung Hoa, Nxb Văn hóa thông tin,
Hà Nội, 2004.
19. Băng Sơn, Thú ăn chơi người Hà Nội, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội,
2008.
20. Văn hóa trà xưa và nay, Nxb Tổng công ty chè Việt Nam, 1997.
21. Nhất Thanh – Vũ Văn Khiếu, Đất lề quê thói, Nxb Đường Sáng, 1970.
22. Trần Ngọc Thêm, Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2000.
23. Doãn Kế Thiện, Hà Nội cũ, Nxb Hà Nội, 1994.
24. Hoàng Đạo Thúy, Hà Nội thanh lịch, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1996.
25. Hoàng Đạo Thúy, Người và cảnh Hà Nội, Nxb Hà Nội, 1982.
26. Vũ Thị Như Trang – Trần Thị Hương Trà, Trà với người Hà Nội, Báo cáo
nghiên cứu khoa học Khoa Việt Nam học, trường Đại học Sư phạm Hà
Nội, 2006.
27. Phùng Nam Trung, Từ nghệ thuật uống trà tìm hiểu một nét văn hóa ẩm
thực Việt Nam – Nhật Bản, Báo cáo nghiên cứu khoa học khoa Việt Nam
học, trường Đại học Sư phạm Hà Nội, 2005.
28. Nguyễn Tuân, Vang bóng một thời, Nxb Văn Học, Hà Nội, 2002.
29. http://vietbao.vn/giaitri/hien-tra-truong-xuan
30. www.traviet.org
31. http://thethaovanhoa.vn
32. http://diendan.yeutretho.com/tan-man-ve-tra-dao-viet
33. http://www.vietnamnet.vn/thuhanoi/2006