ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HỒ CHÍ MINH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN



NGUYỄN THỊ THẢO

VĂN HỌC VÀ PHẬT HỌC

TRÊN BÁO CHÍ PHẬT GIÁO VIỆT NAM

TRƯỚC NĂM 1945

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - 2014

ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HỒ CHÍ MINH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN



NGUYỄN THỊ THẢO

VĂN HỌC VÀ PHẬT HỌC

TRÊN BÁO CHÍ PHẬT GIÁO VIỆT NAM

TRƯỚC NĂM 1945

CHUYÊN NGÀNH

MÃ SỐ : VĂN HỌC VIỆT NAM : 62.22.34.01

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

PGS TS. LÊ GIANG

1. GS.TS. Huỳnh Như Phương 2. PGS.TS. Hà Văn Đức

Phản biện độc lập: Phản biện:

1. PGS.TS. Đoàn Thị Thu Vân 2. PGS.TS. Nguyễn Công Lý 3. PGS.TS. Trần Hồng Liên

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - 2014

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết

quả nêu trong luận án là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ

công trình nào khác.

TP. Hồ Chí Minh, ngày 28 tháng 3 năm 2014

Tác giả luận án

Nguyễn Thị Thảo

KÝ HIỆU VÀ NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT

1. TK. : Thế kỷ

2. VH&KHNV Văn học và Khoa học Nhân văn :

3. HT. : Hòa thượng

4. Nxb : Nhà xuất bản

5. TP. : Thành phố

6. tr. : Trang

: 7. Ví dụ [115, tr.339] Tài liệu số 115 ở mục tài liệu tham khảo, trang 339

MỤC LỤC

DẪN NHẬP

1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................... 1

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề .................................................................................... 2

3. Mục đích nghiên cứu ............................................................................................. 8

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ........................................................................ 8

5. Phương pháp nghiên cứu ...................................................................................... 8

6. Đóng góp mới của luận án .................................................................................... 9

7. Cấu trúc luận án .................................................................................................. 10

Chương 1: PHONG TRÀO CHẤN HƯNG PHẬT GIÁO VÀ BÁO CHÍ PHẬT

GIÁO VIỆT NAM TRƯỚC 1945 ............................................. 11

1.1. Phong trào Chấn hưng Phật giáo từ cuối thập niên 1920

đến trước 1945 ............................................................................................ 11

1.1.1. Tình hình Phật giáo Việt Nam đầu thế kỷ XX .......................................... 11

1.1.2. Nguyên nhân dẫn đến phong trào Chấn hưng Phật giáo ........................... 13

1.1.3. Hoạt động của phong trào Chấn hưng Phật giáo ...................................... 18

1.1.3.1. Phong trào Chấn hưng Phật giáo ở Nam Kỳ .................................... 18

1.1.3.2. Phong trào Chấn hưng Phật giáo ở Trung Kỳ ................................. 23

1.1.3.3. Phong trào Chấn hưng Phật giáo ở Bắc Kỳ ..................................... 26

1.1.4. Những thành tựu chung của phong trào Chấn hưng Phật giáo .................. 28

1.1.5. Những nhân vật tiêu biểu trong phong trào Chấn hưng Phật giáo ............ 33

1.2. Tình hình báo chí Phật giáo Việt Nam trước 1945 ....................................... 40

1.2.1. Báo chí Phật giáo ở Nam Kỳ ..................................................................... 41

1.2.2. Báo chí Phật giáo ở Trung Kỳ ................................................................... 47

1.2.3. Báo chí Phật giáo ở Bắc Kỳ ....................................................................... 50

Tiểu kết ..................................................................................................................... 54

Chương 2: PHẬT HỌC TRÊN BÁO CHÍ

PHẬT GIÁO VIỆT NAM TRƯỚC 1945 .................................. 56

2.1. Thế giới quan Phật giáo trên báo chí Phật giáo trước 1945 ......................... 56

2.1.1. Vấn đề Thượng đế sáng tạo muôn vật ....................................................... 58

2.1.2. Vấn đề linh hồn bất tử ............................................................................... 66

2.1.3. Vấn đề cảnh giới cực lạc và địa ngục ........................................................ 74

2.1.4. Vấn đề tồn tại của ngoại giới ..................................................................... 82

2.2. Tư tưởng đạo đức Phật giáo trên báo chí Phật giáo trước 1945 ................. 91

2.2.1. Khuyến thiện và Nhân quả - nghiệp báo ................................................... 92

2.2.2. Từ bi .......................................................................................................... 97

2.2.3. Hiếu đạo ................................................................................................... 101

2.2.4. Lợi tha ...................................................................................................... 104

2.3. Phật giáo với vấn đề dân tộc và đại chúng ................................................... 108

2.3.1. Phật giáo với dân tộc ............................................................................... 108

2.3.2. Phật giáo với đại chúng ........................................................................... 116

Tiểu kết ................................................................................................................... 123

Chương 3: VĂN HỌC TRÊN BÁO CHÍ

PHẬT GIÁO VIỆT NAM TRƯỚC 1945 ............................... 125

3.1. Tổng quan về văn học trên báo chí Phật giáo trước 1945 .......................... 125

3.2. Dịch kinh Phật - một loại hình dịch văn học đặc biệt ................................. 130

3.3. Giá trị nội dung của thơ văn trên báo chí Phật giáo trước 1945 ............... 148

3.3.1. Giáo dục tư tưởng đạo đức Phật giáo ...................................................... 148

3.3.2. Thể hiện tinh thần dân tộc ....................................................................... 159

3.3.3. Thể hiện tinh thần nhân đạo .................................................................... 169

3.4. Giá trị nghệ thuật của thơ văn trên báo chí Phật giáo trước 1945 ............ 175

3.4.1. Giá trị nghệ thuật của thơ ........................................................................ 175

3.4.1.1. Thể thơ ............................................................................................ 175

3.4.1.2. Ngôn ngữ thơ ................................................................................... 177

3.4.2. Giá trị nghệ thuật của văn xuôi ................................................................ 184

3.4.2.1. Nghệ thuật xây dựng tính cách nhân vật ........................................ 184

3.4.2.2. Kết cấu tác phẩm ............................................................................. 192

3.4.2.3. Ngôn ngữ kể chuyện và đối thoại .................................................... 197

Tiểu kết ................................................................................................................... 204

KẾT LUẬN ............................................................................................................ 205

DANH MỤC BÁO CHÍ PHẬT GIÁO VIỆT NAM TRƯỚC 1945 .................. 208

THƯ MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................ 209

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ

LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ĐÃ CÔNG BỐ ............................ 219

PHỤ LỤC 1: Bìa báo chí Phật giáo trước 1945 ..................................................... 220

PHỤ LỤC 2: Một số trang thơ văn trên báo chí Phật giáo trước 1945 ................. 235

PHỤ LỤC 3: Danh mục thơ trên báo chí Phật giáo trước 1945 ............................ 245

PHỤ LỤC 4: Danh mục văn xuôi trên báo chí Phật giáo trước 1945 ................... 253

DẪN NHẬP

1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Có thể nói, báo chí Việt Nam kể từ khi ra đời cho tới cuối thế kỷ XIX là

phương tiện thông tin đại chúng quan trọng nhất trong xã hội Việt Nam. Đến hôm

nay, tuy đã có hàng loạt các phương tiện thông tin đại chúng khác liên tục xuất hiện,

nhưng báo chí vẫn không mất đi địa vị và giá trị quan trọng của nó trong đời sống

xã hội Việt Nam.

Theo sự phát triển của lịch sử dân tộc, bước sang những thập niên đầu của

thời kỳ hiện đại, báo chí Việt Nam đã từng tác động đến dư luận xã hội trên cả hai

lĩnh vực chính trị và văn học. Về chính trị, báo chí dĩ nhiên là sự kết nối, truyền

thông về các mặt thời sự, xã hội, nhiều tờ báo có khuynh hướng yêu nước đã góp

phần đáng kể vào công cuộc đấu tranh giành độc lập cho dân tộc. Về văn học, báo

chí là nhân tố quan trọng giúp cho văn học Quốc ngữ ra đời, góp phần to lớn trong

việc xây dựng và phát triển nền văn học Việt Nam hiện đại. Thiếu Sơn trong bài

diễn thuyết Báo giới và văn học quốc ngữ năm 1933 tại Hội Nam Kỳ Khuyến học

Sài Gòn, đã nhận thấy mối quan hệ đặc biệt của văn học và báo chí ở Việt Nam:

“Trong những nước văn minh, văn học ra đời trước báo chí, nhưng ở Việt Nam,

chính báo chí đã tạo nên nền văn học hiện đại” [95, tr.115].

Trong tình hình đó, từ những năm đầu TK.XX, những tư tưởng muốn chấn

hưng Phật giáo thỉnh thoảng được đăng trên các báo chí Quốc ngữ, nội dung chủ

yếu là đặt vấn đề chỉnh đốn và phát triển Phật giáo Việt Nam. Từ đó, các Hội

Nghiên cứu Phật học ra đời, cùng với nó là các tạp chí, tờ báo chuyên về Phật học

như: Từ bi âm, Duy tâm Phật học, Viên âm, Đuốc tuệ, Tiếng chuông sớm v.v.. góp

phần quan trọng tạo nên phong trào Chấn hưng Phật giáo đầu TK.XX. Tuy nhiên,

có thể nói, báo chí Phật giáo lúc bấy giờ dù phổ biến còn hạn chế, không gây tiếng

vang lớn như báo chí thế tục, nhưng những vấn đề nó đặt ra rất gần gũi với văn hóa

dân tộc, với tâm linh người Việt, để từ đó có thể nuôi dưỡng một niềm tin sâu xa

cao quý trong lòng người dân Việt Nam.

2

Ngày nay, với sự phát triển không ngừng của xã hội hiện đại, những tạp chí,

tờ báo Phật giáo ấy đã ít được quan tâm và đề cập đến. Sẽ đáng tiếc, nếu tình hình

này cứ kéo dài.

Với số lượng hàng chục tờ báo, báo chí Phật giáo trước 1945 thực sự là một

hiện tượng quan trọng trong đời sống tinh thần dân tộc. Có thể qua những tờ báo

này giúp ta hiểu được lịch sử và văn học Phật giáo trong giai đoạn quan trọng: nửa

đầu TK.XX. Chọn đề tài Văn học và Phật học trên báo chí Phật giáo Việt Nam

trước năm 1945 để nghiên cứu, chúng tôi hy vọng có thể tìm về cội nguồn báo chí

Phật giáo, hiểu được văn học và tư tưởng Phật học giai đoạn này, từ đó hy vọng có

thể khơi dậy những giá trị tinh hoa của Phật giáo và dân tộc đã được tạo nên từ xưa.

2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ

Từ trước đến nay, đã có khá nhiều công trình nghiên cứu về báo chí Việt

Nam trước 1945. Trong đó có không ít công trình đề cập về sự hình thành và phát

triển của báo chí Phật giáo. Điều này đã giúp cho chúng tôi rất nhiều ý tưởng,

đường hướng để thực hiện đề tài nghiên cứu của mình.

- Năm 1972, Nguyễn Văn Ẩn (Ban Báo chí học, phân khoa VH&KHNV,

Viện Đại học Vạn Hạnh) hoàn thành khóa luận tốt nghiệp với đề tài Báo chí tôn

giáo tại Việt Nam. Trong chương III [2, tr.23], tác giả nhắc đến quá trình hình thành

và phát triển của báo chí Phật giáo giai đoạn 1920-1945 như Pháp âm, Phật hóa

Tân Thanh niên, Từ bi âm, Bát nhã âm, Tiến hóa, Duy tâm Phật học, Bồ đề, Viên

âm, Tam bảo, Đuốc tuệ, Tiếng chuông sớm. Tác giả cho rằng báo chí Phật giáo

những năm 1920-1945 là phương tiện chính của công cuộc canh tân đất nước và

góp phần quan trọng vào công cuộc chung này. Giai đoạn này, dù đã có những đáng

tiếc xảy ra giữa các báo, như cuộc bút chiến, thậm chí có lúc mạt sát lẫn nhau bằng

những lời quá đáng giữa Từ bi âm và Tiến hóa về các vấn đề quản lý nội bộ của Hội

Nam Kỳ Nghiên cứu Phật học, nhưng người ta cũng dễ dàng thông cảm vì đó là

những khuyết điểm khó tránh khỏi của báo chí Phật giáo trong giai đoạn đầu. Ngoài

ra, tác giả còn đề cập đến những cuộc trao đổi khá sôi nổi về sự hiện hữu của Tây

phương cực lạc, giữa một bên nhận là có Tây phương cực lạc (Từ bi âm) và một bên

phủ nhận (Tiến hóa); về vấn đề canh tân Phật giáo giữa Tiến hóa và Duy tâm Phật

3

học; về giáo lý nhà Phật giữa Tiến hóa và Viên âm. Tác giả nhận định: các cuộc trao

đổi ấy cho thấy đã đến lúc phải thẳng thắn đặt ra nhiều vấn đề của Phật học âm ỉ lâu

nay. Tuy nhiên, với những vấn đề này, tác giả chỉ nêu vài ý kết luận khái quát mà

không phân tích, dẫn chứng cụ thể.

- Năm 1985, Nguyễn Lang công bố tập 3, cuốn Việt Nam Phật giáo sử luận ở

Paris. Cho đến nay, công trình gồm cả ba tập đã được Nhà xuất bản Văn học (Hà

Nội) tái bản lần thứ ba (năm 2000). Trong tập 3, khi viết về phong trào Chấn hưng

Phật giáo Việt Nam, Nguyễn Lang có đề cập đến một số tờ báo và tạp chí Phật giáo,

như: Pháp âm, Phật hóa Tân Thanh niên, Từ bi âm, Viên âm, Đuốc tuệ, Tiếng

chuông sớm, Duy tâm Phật học, Tiến hóa, Pháp âm Phật học, Tam bảo, Bát nhã âm,

Quan âm, Tinh tiến. Về báo chí Phật giáo, tác giả chỉ trình bày tổng quát quá trình

hình thành, tôn chỉ hoạt động và những đóng góp chung của các tạp chí, tờ báo Phật

giáo đối với Phật giáo và dân tộc nửa đầu TK.XX. Ngoài ra, tác giả còn nhắc đến

vài nét những cuộc tranh luận, thảo luận giữa các tạp chí lúc bấy giờ về tư tưởng

Phật học và đường hướng chấn hưng Phật giáo. Nhìn chung, theo tác giả đúc kết, sự

ra đời của báo chí Phật giáo lúc bấy giờ đã làm Phật học trở nên dễ dàng phổ biến

hơn đối với đại chúng. Ai cũng có thể đọc hiểu Phật pháp bằng chữ Quốc ngữ. Cho

nên có thể nói sự thành công của báo chí Phật giáo cũng là sự thành công của chữ

Quốc ngữ [67, tr.771-772]. Có thể nói Việt Nam Phật giáo sử luận (tập III) là công

trình nghiên cứu sâu về báo chí và Phong trào chấn hưng Phật giáo. Tuy nhiên

trong công trình này còn một số tạp chí chưa được đề cập đến (Bồ đề, Phật pháp chỉ

Niết bàn) và nhất là văn học Phật giáo hầu như chưa được quan tâm nghiên cứu.

- Công trình Triết học và tư tưởng của Giáo sư Trần Văn Giàu (Nxb. Thành

phố Hồ Chí Minh, 1988) đã dành một chương quan trọng cho việc nghiên cứu Phật

giáo nửa đầu TK.XX: Phong trào Chấn hưng Phật giáo và các vấn đề tư tưởng triết

học mà phong trào ấy đã nêu lên ở nước ta trong thời kỳ lịch sử giữa hai cuộc chiến

tranh thế giới [44, tr.320]. Trong chương này, tác giả đã khảo sát nhiều tờ báo, tạp

chí Phật giáo nổi tiếng như: Từ bi âm, Viên âm, Duy tâm Phật học, Đuốc tuệ…¸để

tìm hiểu tình hình Phật giáo trước 1945. Trong mục Mấy vấn đề tư tưởng cuộc vận

động Chấn hưng Phật giáo đã đề ra, Trần Văn Giàu đã chỉ ra những điểm tiến bộ

4

đặc biệt của Phật giáo đương thời thông qua cuộc thảo luận sôi nổi trên báo về

Thượng đế, linh hồn, Thiên đường, địa ngục… Có thể nói đây là công trình nghiên

cứu sớm nhất, công phu nhất của một nhà nghiên cứu mác-xít về báo chí Phật giáo

nửa đầu TK.XX. Trần Văn Giàu đã đánh giá cao tư tưởng yêu nước, khoa học của

nhiều tờ báo, tạp chí, sách vở Phật giáo giai đoạn này. Tuy nhiên công trình cũng

chưa dành sự quan tâm tới mảng văn học trên báo chí ấy.

- Báo chí Phật giáo với phong trào Chấn hưng Phật giáo (1930-1945), khóa

luận tốt nghiệp đại học ngành Lịch sử (Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, 1994)

của Thích Thanh Đạt đã giới thiệu khái quát một số tạp chí, tờ báo Phật giáo và

những vấn đề tư tưởng triết học Phật giáo thể hiện qua báo chí Phật giáo thời kỳ

1930-1945. Tuy nhiên, trong phạm vi một khóa luận tốt nghiệp đại học, tác giả chưa

có điều kiện sưu tập tư liệu đầy đủ, cũng như chưa phân tích sâu những đặc điểm và

giá trị nội dung, nghệ thuật của Phật học và văn học thể hiện trên báo chí Phật giáo

lúc bấy giờ.

- Công trình Báo chí Việt Nam từ khởi thủy đến 1945 (Nxb. TP. Hồ Chí Minh,

2000) của Huỳnh Văn Tòng đã nêu rõ sự hình thành, phát triển và những đóng góp

của làng báo chí Việt Nam trên các lĩnh lực văn hóa, giáo dục, chính trị, kinh tế, xã

hội của Việt Nam. Trong phần Những tờ báo chuyên biệt, tác giả có đề cập đến quá

trình ra đời của tạp chí Pháp âm [116, tr.345], Viên âm [116, tr.339] và báo Đuốc

tuệ [116, tr.306], là những tạp chí, tờ báo Phật giáo đầu tiên ở Nam Kỳ, Trung Kỳ

và Bắc Kỳ giai đoạn trước 1945. Ngoài ra, phần phụ lục cuối tập sách với nhan đề

Mục lục báo chí Việt ngữ từ 1865-1945, tác giả đã liệt kê hầu như gần đủ những tạp

chí, tờ báo Phật giáo trước 1945 và ghi cả thông tin về năm xuất bản, đình bản, như:

Từ bi âm (1932-1941), Viên âm (1933-1936), Đuốc tuệ (1935-1939), Tiếng chuông

sớm (1935-1936), Duy tân (tâm) (1935-1943), Bồ đề (1936), Bát nhã âm (1936-

1943), Pháp âm Phật học (1937-1938), Tam bảo (1937-1939), Tiến hóa (1938-

1939), Phật pháp chỉ Niết bàn (1941). Đây là công trình nghiên cứu tổng quát về

báo chí, trong đó có đề cập chi tiết đến những tạp chí, tờ báo Phật giáo đã ra đời

trước 1945. Tuy nhiên, khi khảo sát trực tiếp tư liệu báo chí Phật giáo hiện có,

chúng tôi thấy trong công trình này còn có rất nhiều lầm lẫn về năm đình bản một

5

số tờ báo, tạp chí Phật giáo, như: Từ bi âm (đình bản năm 1945, không phải năm

1941), Viên âm (đình bản năm 1945, không phải năm 1936), Đuốc tuệ (đình bản

năm 1945, không phải năm 1939), Tam bảo (đình bản năm 1938, không phải năm

1939), Tiến hóa (đình bản năm 1941, không phải năm 1939). Ngoài ra, tên chủ

nhiệm một số tạp chí cũng ghi không chính xác: chủ nhiệm tạp chí Tiến hóa là Đỗ

Kiết Triệu, chứ không phải Đỗ Kiết Tuân; tạp chí Duy tâm Phật học, chủ nhiệm là

Nguyễn Văn Ân, chứ không phải là Nguyễn Văn An.

- Công trình Lịch sử báo chí Việt Nam 1865-1945 (Nxb. Đại học Quốc gia

Hà Nội, 2000) do Đỗ Quang Hưng chủ biên cũng có phần đề cập đến thời điểm ra

đời của báo chí Phật giáo trước 1945. Theo các tác giả (Đỗ Quang Hưng, Dương

Trung Quốc, Nguyễn Thành), báo chí Phật giáo Việt Nam ra đời từ phong trào

Chấn hưng Phật giáo. Phần phụ lục cuối sách, các tác giả đã thống kê, giới thiệu

ngắn gọn về quá trình xuất hiện và hoạt động của một số tạp chí, tờ báo Phật giáo

Việt Nam đương thời như: Viên âm, Đuốc tuệ, Quan âm, Tinh tiến v.v..

- Công trình Báo chí ở Thành phố Hồ Chí Minh (100 câu hỏi đáp về Gia

Định - Sài Gòn TP. Hồ Chí Minh, Nxb. TP. Hồ Chí Minh, năm 2007, Trương Ngọc

Tường, Nguyễn Ngọc Phan biên soạn) cho biết tạp chí Quốc ngữ Phật giáo đầu tiên

được xuất bản ở Sài Gòn là Pháp âm và trình bày khá đầy đủ về diện mạo, nội dung

của tạp chí này [121, tr.112]. Ngoài ra, công trình còn cho thấy vai trò của nhà báo

Xích Liên (sư Thiện Chiếu) đối với sự nghiệp chấn hưng và sự nghiệp báo chí Phật

giáo [121, tr.115]. Có thể nói, dù công trình này không nhấn mạnh nhiều đến báo

chí Phật giáo, nhưng các tác giả cũng đã góp phần khẳng định thêm cho chúng ta

thấy sự hiện hữu đầu tiên của báo chí Phật giáo Việt Nam giai đoạn trước 1945 và

những đóng góp của nhà báo Xích Liên đối với Phật giáo và dân tộc.

- Công trình Lược khảo Báo chí Phật giáo Việt Nam (1929-2008) của

Nguyễn Đại Đồng (Nxb. Tôn giáo, 2008) đã cho thấy rõ nét tình hình báo chí Phật

giáo Việt Nam từ khi ra đời năm 1929 (theo tác giả) cho đến năm 2008. Phần thứ

nhất, tác giả trình bày Báo chí Phật giáo từ khi ra đời đến Toàn quốc kháng chiến

(1929-1946) [34, tr.7]. Trong mục này, tác giả đã trình bày khá đầy đủ hoàn cảnh ra

đời, nhân sự lãnh đạo, các hoạt động và nội dung khái quát của báo chí Phật giáo

6

trước 1945. Tuy nhiên, chúng tôi thấy công trình vẫn còn thiếu tạp chí Phật pháp

chỉ Niết bàn. Nói chung, công trình đã cho chúng tôi cái nhìn tổng thể, hệ thống,

toàn diện về báo chí Phật giáo Việt Nam và tầm ảnh hưởng của báo chí Phật giáo

trong đời sống xã hội.

- Công trình Phong trào chấn hưng Phật giáo Việt Nam (Tư liệu báo chí Việt

Nam từ 1927-1938) của Nguyễn Đại Đồng và Nguyễn Thị Minh (Nxb. Tôn giáo,

2008) đã trình bày rõ ràng các hoạt động cụ thể của báo chí Phật giáo trong giai

đoạn đầu TK.XX, trong đó có nhấn mạnh vai trò của báo chí đối với phong trào

Chấn hưng Phật giáo nói riêng, đối với sự duy trì và bảo vệ nền độc lập dân tộc nói

chung. Công trình đã đem đến cho chúng tôi nhiều thông tin hữu ích về báo chí Phật

- Bên cạnh đó, Nguyễn Đại Đồng còn có các bài: “Tạp chí Viên âm”, “Tạp

giáo lúc bấy giờ.

chí Đuốc tuệ” trên tạp chí Nghiên cứu Phật học (2009) và “Tạp chí Duy tâm Phật

học” trên nguyệt san Giác ngộ (2011). Cả ba bài viết đều trình bày tổng quát về

diện mạo, nội dung của các tạp chí Phật giáo này.

- Những công trình: Việt Nam: Những sự kiện lịch sử (1919-1945) của

Dương Trung Quốc (2005), Báo chí Phật giáo tại Việt Nam: Thực trạng và vấn đề

(Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn, Trường ĐH KHXH & NV, ĐHQG Hà Nội) của Lê Thị

Hồng Hạnh (2010),… đã giới thiệu khái quát về nội dung và sự ảnh hưởng của báo

chí Phật giáo trong đời sống xã hội. Luận văn Thạc sĩ trên còn cho thấy điểm nổi

bật của báo chí Phật giáo hiện nay là làm rõ các vấn đề tín ngưỡng xã hội, tạo điều

kiện cho những người đang trăn trở với đức tin có cách nhìn đúng đắn, khách quan

hơn về tôn giáo nói chung và Phật giáo nói riêng. Bộ phận báo chí này cũng phát

huy ý thức, truyền thống dân tộc, góp phần xây dựng nền kinh tế quốc gia vững

mạnh, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân và sự đoàn kết giữa các tôn giáo.

- Bên cạnh đó, những bài viết trên báo mạng như “Báo chí Phật giáo: Vấn đề

hội nhập và phát triển” của Thích Thiện Bảo (2000) đăng trên website

daophatngaynay.com và giacngo.vn đã đề cập đến vai trò của báo chí Phật giáo

trong công cuộc chấn hưng cho đến hiện nay. Khi nói về vai trò của báo chí Phật

giáo trước 1945, tác giả chỉ nhấn mạnh đến tạp chí Pháp âm, Từ bi âm, Duy tâm

7

Phật học, Viên âm và báo Đuốc tuệ. Ngoài ra, tác giả cũng đề cập vài nét đến cuộc

tranh luận giữa các tạp chí về vấn đề Thượng đế sáng tạo, vấn đề linh hồn bất tử…

Qua bài viết, tác giả nhận định rằng báo chí Phật giáo trước 1945 đã làm sáng tỏ

trắng đen, phản bác những luận điểm sai lầm của một số người chưa hiểu rõ về đạo

Phật.

Trần Kiêm Đạt (2008) với bài viết “Sơ lược lịch sử báo chí Phật giáo Việt

Nam” đăng trên website phattuvietnam.net, cũng đã trình bày khái lược diện mạo

một số tạp chí, tờ báo Phật giáo trước 1945. Trong đó, tác giả khẳng định báo chí

Phật giáo Việt Nam thực sự khai sinh và phát triển từ khi có phong trào Chấn hưng

Phật giáo vào thập niên 1930. Nội dung bài viết phản ảnh thực tế Phật giáo trong

từng giai đoạn, đồng thời cũng đề cập đến những cuộc tranh luận giữa các tạp chí,

mà tiêu biểu là Duy tâm Phật học và Tiến hóa.

Bài viết “Báo xuân Phật giáo xưa” của Nguyễn Ngọc Phan (2012) đăng trên

website khoavanhoc-ngonngu.edu.vn đã trình bày những giai phẩm xuân mà báo chí

Phật giáo giai đoạn đầu TK.XX từng thể hiện, như Duy tâm Phật học, Đuốc tuệ, Từ

bi âm, Bát nhã âm v.v.. Tác giả cho rằng báo chí Phật giáo trong sự nghiệp xiển

dương Phật pháp và chấn hưng Phật giáo luôn gắn liền với nhân sinh thời cuộc, bộc

lộ những ưu tư trăn trở trước hoàn cảnh mất nước và sự cùng khổ của đồng bào.

Những bài viết qua báo mạng trên ít nhiều cũng đã chỉ ra được vai trò và giá

trị của báo chí Phật giáo đối với phong trào Chấn hưng Phật giáo và đối với dân tộc,

đồng thời cũng đề cập đến một vài vấn đề mà báo chí đương thời tranh luận sôi nổi.

Tuy nhiên, các bài viết chỉ dừng lại ở điểm khái quát sơ lược mà chưa đi sâu phân

tích về những tác động tư tưởng nhiều mặt của báo chí.

Nhìn chung, trên thực tế dù đã từng có một số nhà nghiên cứu viết về lịch sử

báo chí Việt Nam, trong đó có đề cập đến báo chí Phật giáo, thậm chí có những nhà

nghiên cứu đề cập chuyên biệt về báo chí Phật giáo Việt Nam, nhưng các công trình,

bài viết ấy mới chỉ dừng lại ở một vài khía cạnh riêng biệt, chưa bao quát hết các

tạp chí, tờ báo Phật giáo. Chưa có công trình nào đề cập cụ thể và toàn diện về diện

mạo, giá trị và đặc điểm của báo chí Phật giáo giai đoạn trước 1945 trên các lĩnh

vực Phật học, văn học, văn hóa tư tưởng, chính trị, kinh tế, xã hội v.v..

8

ủa những người đi trước, trong luận án

này, chúng tôi hy vọng có thể nghiên cứu sâu hơn về đặc điểm, giá trị của Phật học

và văn học trên báo chí Phật giáo Việt Nam trước 1945.

3. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU

Với đề tài Văn học và Phật học trên báo chí Phật giáo Việt Nam trước năm

1945, chúng tôi muốn giới thiệu một cách hệ thống về báo chí Phật giáo trước 1945.

Trên cơ sở đó luận án sẽ trình bày, luận giải những vấn đề Phật học và văn học trên

bộ phận báo chí ấy. Về Phật học, luận án sẽ trình bày các phương diện: thế giới

quan Phật giáo, tư tưởng đạo đức, quan hệ Phật giáo với dân tộc và đại chúng… Về

văn học, luận án trình bày những giá trị đặc điểm nội dung, nghệ thuật của văn học

Phật giáo Việt Nam trong giai đoạn này qua các thể loại thơ, văn xuôi, dịch văn học.

4. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU

Đối tượng chủ yếu chúng tôi chọn khảo sát là báo chí Phật giáo Việt Nam

trước 1945. Chúng tôi cố gắng khảo sát tất cả những tư liệu có thể tìm được. Hiện

nay còn 13 tạp chí và 2 tờ báo là: Tạp chí: Pháp âm (1929), Phật hóa Tân Thanh

niên (1929), Từ bi âm (1932-1945), Viên âm (1933-1945), Tiếng chuông sớm

(1935-1936), Duy tâm Phật học (1935-1943), Bồ đề (1936), Bác (Bát) nhã âm

(1936-1943), Pháp âm Phật học (1937-1938), Tam bảo (1937-1938) (Theo như

hình ảnh thì bản tiếng Hoa chỉ đề Tam bảo, nhưng bản tiếng Việt đề là Tam bảo chí,

Nguyễn Đại Đồng cũng viết là Tam bảo chí), Tiến hóa (1938-1941), Quan âm

(1938-1943), Phật pháp chỉ Niết bàn (1941) và báo: Đuốc tuệ (1935-1945), Tinh

tiến (1945).

Các tờ báo, tạp chí này hiện nay đang lưu trữ chủ yếu ở Thư viện Quốc gia

(Hà Nội), bên cạnh đó là ở một số chùa và tủ sách tư nhân.

Từ những tờ báo, tạp chí Phật giáo này, chúng tôi đi sâu vào nghiên cứu đặc

điểm, giá trị của tư tưởng Phật học và văn học.

5. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Để thực hiện đề tài, chúng tôi tiến hành sưu tầm những tác phẩm, bài viết, tờ

báo, tạp chí và những công trình từ trước đến nay có liên quan đến mảng báo chí

9

Phật giáo Việt Nam trước 1945. Đồng thời, chúng tôi cũng sưu tầm tất cả những tạp

chí, tờ báo Phật giáo trước 1945. Đây là những tài liệu làm nền tảng cho việc nghiên

cứu một cách trung thực và chính xác.

Trong luận án này, chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu

sau:

5.1. Phƣơng pháp thống kê - phân loại

Dùng các phương pháp bổ trợ này nhằm mục đích thống kê, phân loại những

tài liệu có liên quan đến luận án đã sưu tầm được, từ đó góp phần tìm hiểu, thẩm

định giá trị đích thực của báo chí Phật giáo trước 1945.

5.2. Phƣơng pháp phân tích - so sánh - tổng hợp

Để đáp ứng nhu cầu của đề tài, luận án sử dụng xuyên suốt các phương pháp

chủ đạo: phân tích - so sánh - tổng hợp nhằm tìm ra những đặc điểm về nội dung tư

tưởng của các vấn đề Phật học, những giá trị nghệ thuật đặc sắc trong giáo lý nhà

Phật cùng những đặc điểm nội dung và giá trị nghệ thuật của thơ ca, văn xuôi đã thể

hiện trên báo chí Phật giáo trước 1945. Qua đó chứng minh sự đóng góp đích thực

của báo chí Phật giáo đương thời đối với Phật giáo và dân tộc. Trên cơ sở này, luận

án còn xác định sự ra đời và phát triển của báo chí Phật giáo trước 1945 đã phát huy

được gì cho nền văn hóa, văn học của dân tộc trong chặng đầu hiện đại hóa.

5.3. Phƣơng pháp lịch sử xã hội

Vận dụng thêm phương pháp này để xác định những tiền đề hình thành và

phát triển của báo chí Phật giáo trước 1945. Nghiên cứu báo chí Phật giáo trong mối

liên hệ chặt chẽ với lịch sử - xã hội đương thời.

6. ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN

Hoàn thành luận án Văn học và Phật học trên báo chí Phật giáo Việt Nam trước

năm 1945, chúng tôi mong muốn có những đóng góp sau:

- Giới thiệu một cách có hệ thống tình hình báo chí Phật giáo trước 1945. Xác

định lại năm ra đời, năm kết thúc, mục đích tôn chỉ, ban biên tập của từng tờ báo, tạp

chí Phật giáo.

10

- Trình bày một cách có hệ thống, tường minh về các vấn đề chủ yếu của Phật

học và văn học trên báo chí Phật giáo trước 1945.

Luận án có thể góp phần vào việc tìm lại giá trị của báo chí Phật giáo trước

1945, những đóng góp của báo chí Phật giáo đối với đời sống tinh thần của dân tộc.

7. CẤU TRÚC LUẬN ÁN

Ngoài phần Dẫn nhập, luận án gồm 3 chương:

Chƣơng 1: Phong trào Chấn hƣng Phật giáo và báo chí Phật giáo Việt

Nam trƣớc 1945: Trình bày khái quát về phong trào Chấn hưng Phật giáo và tình

hình báo chí Phật giáo Việt Nam trước 1945 (từ trang 11 đến trang 55).

Chƣơng 2: Phật học trên báo chí Phật giáo Việt Nam trƣớc 1945: Trình

bày thế giới quan Phật giáo, tư tưởng đạo đức Phật giáo, vấn đề Phật giáo đối với

dân tộc và đại chúng, nhằm rút ra những giá trị cơ bản của Phật giáo giai đoạn này

(từ trang 56 đến trang 124).

Chƣơng 3: Văn học trên báo chí Phật giáo Việt Nam trƣớc 1945: Trình

bày khái quát về mảng văn học trên báo chí Phật giáo, phân tích giá trị nội dung,

nghệ thuật của thơ và văn xuôi trên những tờ báo ấy (từ trang 125 đến trang 204).

Đề tài luận án là “Văn học và Phật học trên báo chí Phật giáo Việt Nam

trước năm 1945”. Luận án phải đặt từ “Văn học” trước là để cho phù hợp với mã

ngành Văn học Việt Nam, nhưng trong khi triển khai thì Phật học (chương 2) được

trình bày trước Văn học (chương 3). Làm như vậy vì trên báo chí Phật giáo, tư

tưởng Phật học là vấn đề trung tâm, quan trọng nhất, phải nghiên cứu Phật học

(chương 2) trước rồi mới đến Văn học (chương 3). Văn học vẫn là vấn đề đi sau tư

tưởng và chủ yếu là phương tiện truyền bá tư tưởng Phật học.

Cuối luận án là phần Kết luận (từ trang 205 đến trang 207), Danh mục báo chí

Phật giáo (trang 208), Thư mục tài liệu tham khảo (từ trang 209 đến trang 218) và

Danh mục các công trình của tác giả đã công bố (trang 219). Người viết có chuẩn bị

thêm phần Phụ lục (từ trang 220 đến trang 258), giới thiệu một số hình ảnh báo chí,

tổng danh mục thơ và văn trên báo chí Phật giáo trước 1945.

11

Chƣơng 1

PHONG TRÀO CHẤN HƢNG PHẬT GIÁO

VÀ BÁO CHÍ PHẬT GIÁO VIỆT NAM TRƢỚC 1945

1.1. PHONG TRÀO CHẤN HƢNG PHẬT GIÁO TỪ CUỐI THẬP NIÊN 1920

ĐẾN 1945

1.1.1. Tình hình Phật giáo Việt Nam đầu thế kỷ XX

Đầu TK.XX, sau khi bình định được Việt Nam, Pháp thực hiện chính sách

nâng đỡ, tạo điều kiện cho đạo Công giáo phát triển. Chính quyền Pháp vì muốn

loại trừ ảnh hưởng của Phật giáo và Nho giáo, nên đã quyết tâm loại bỏ chữ Hán mà

thay bằng chữ Pháp [84, tr.474].

Lúc bấy giờ, kinh sách Phật toàn là chữ Hán, do vậy dân chúng học tiếng

Pháp hoặc ít học không đọc được kinh điển. Từ đó, tín đồ không thấu hiểu giáo lý

của Phật và đây là tiền đề khiến người dân cách xa dần đạo Phật, khiến đạo Phật

ngày càng suy vi. Đạo Phật đã suy đến mức toàn quốc không có một ngôi trường

Phật học nào cho người dân đến tham học [51, tr.20].

Thực dân Pháp đã cố tình loại trừ dần văn hóa dân tộc và thay vào đó là văn

hóa của phương Tây. Các khái niệm yêu nước, trung quân, đạo đức tôn giáo, phong

tục tập quán, tín ngưỡng… đều bị phê phán là lạc hậu, lỗi thời. Đạo Phật hầu như bị

gạt ra ngoài lề của đời sống xã hội đương thời. Dẫu biết rằng cả nước Việt Nam lúc

bấy giờ, mỗi làng đều có chùa thờ Phật, thậm chí có làng có đến ba ngôi chùa. Thế

nhưng, những ngôi chùa đó chỉ là nơi dành riêng cho phái nữ, những bà cụ… mỗi

tháng vào những ngày Rằm, mồng Một đến chùa lễ Phật. Đạo Phật thời kỳ đã trở

thành một tôn giáo tiêu cực, chán đời, mê tín dị đoan. Người dân tôn kính Đức Phật

như một bậc Thượng đế toàn năng có quyền ban phước giáng họa.

Cụ thể là chính quyền thực dân thực hiện chính sách kỳ thị, đàn áp Phật giáo

như: kiểm tra đời sống sinh hoạt của tăng chúng trong chùa, những chùa nào muốn

xây dựng, sửa chữa thì phải xin giấy phép và được chính quyền cấp giấy phép mới

được xây cất. Chúng dùng chính sách hủ hóa dân tộc ta bằng cách cho phép tự do

12

hoạt động mê tín dị đoan, nhưng hạn chế con đường giáo dục văn hóa truyền thống

của dân tộc. Mục đích của chúng là làm cho dân ta ngu dốt để dễ bề sai khiến,

không muốn cho dân tộc ta trở nên lớn mạnh và đạo Phật từ đó cũng bị đồng hóa

với những tà thuyết ngoại đạo. Ngoài ra, một số ngôi chùa lớn đã bị chính quyền

Pháp phá hủy dần [84, tr.475].

Việt Liên với bài Phật giáo không phải là đạo hữu thần đã ghi rất rõ về sự

kiện này:

Nhưng xét cho kỹ, phần đông người mình chưa hiểu cái yếu nghĩa của Phật

giáo, cho là một đạo hữu thần, cũng cầu xin, cũng chuộc tội, chẳng khác chi

những kẻ ỷ lại thần quyền. Hoặc cho là một đạo hoang đường mê tín, chứa

những việc huyễn hoặc dị đoan, không hiểu Phật giáo có một cái triết lý rất

thâm thiết. Trải qua bao nhiêu thế kỷ đã bị chôn sâu trong cái não mê tín

của bọn ngu dân và bị khuất sau tấm lòng lợi dụng của một hạng tín đồ vô

học... Nếu chẳng chấn hưng Phật giáo, chỉnh đốn Phật giáo lại, thì Phật giáo

cũng như các tôn giáo khác, sẽ theo một công lệ đào thải mà tiêu diệt trước

khi thế giới đại đồng [E, số 2, tr. 6-8].

Thời gian bị kìm hãm kéo dài cho đến năm 1920, giới tăng sĩ và trí thức

trong nước mới có cơ hội đứng ra hô hào, phát khởi phong trào Chấn hưng đạo Phật

Việt Nam. Từ đó, báo chí Phật giáo mới có cơ hội ra đời và được phổ biến rộng rãi

khắp nơi, đồng thời các kinh sách Phật giáo, nhờ phương tiện in ấn tiên tiến nên

cũng được xuất bản và lưu hành nhiều hơn.

Nhờ sự khởi sắc từ những thập niên đầu TK.XX mà sau này, việc đào tạo

tăng ni tại Việt Nam dần dần trở nên có quy củ. Hệ thống giáo dục được hình thành

và đi theo thứ bậc từ hệ sơ cấp, trung cấp, cao đẳng đến đại học.

Quả thật, giai đoạn những năm đầu thế kỷ XX, dù đất nước bị chia làm ba kỳ,

dưới ba hình thức cai trị khác nhau, nhưng sự thống nhất về dân tộc, văn hóa và tôn

giáo lúc bấy giờ vẫn được duy trì và gìn giữ. Sự hiện diện của đạo Phật xuyên suốt

từ Bắc chí Nam đã là một yếu tố góp phần to lớn, nhằm đối kháng với việc chia cắt

đất nước để cai trị theo chủ trương của người Pháp. Hơn nữa, dù chịu ảnh hưởng

13

mạnh của quá trình Âu hóa, nhưng Phật giáo Việt Nam đã phát triển mạnh mẽ qua

phong trào Chấn hưng Phật giáo.

Ðạo Phật trong giai đoạn kháng Pháp nửa đầu thế kỷ XX đã gắn kết với quần

chúng, đã hòa chung với lòng yêu nước của muôn dân, thể hiện bằng mục đích Tu

là tìm hạnh phúc cho tha nhân và góp phần thực thi sứ mệnh đem lại hòa bình cho

quê hương đất nước. Lúc này có nhiều vị tăng sĩ đã cởi áo cà sa để khoác chiến bào,

hòa mình cùng dân tộc đấu tranh chống Pháp, đã có nhiều vị hy sinh anh dũng trong

cuộc kháng chiến gian khổ của dân tộc.

1.1.2. Nguyên nhân dẫn đến phong trào Chấn hƣng Phật giáo

Đầu TK.XX, sau cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918), nền kinh tế

tư bản lâm vào cuộc khủng hoảng. Giai đoạn 1920-1930, khủng hoảng kinh tế bắt

đầu và kéo dài, các đế quốc tăng cường chính sách bóc lột ở các nước thuộc địa.

Đông Dương trở thành nạn nhân trong chính sách khai thác tàn nhẫn của Pháp. Việt

Nam cũng lâm vào tình trạng khốn khổ, “một cổ hai tròng” - vừa phát xít Nhật và

vừa thực dân Pháp đè nặng lên đôi vai người dân thuộc địa, dẫn đến mâu thuẫn và

phân hóa giai cấp trong xã hội Việt Nam. Điều này đã tác động mạnh mẽ đến mọi

lĩnh vực trong đời sống từ kinh tế, chính trị, văn hóa và cả tín ngưỡng tâm linh.

Nhờ tiếp thu những trào lưu tư tưởng dân chủ tư sản qua các tân thư, tân văn

của Lương Khải Siêu và Khang Hữu Vi cùng cuộc vận động cách mạng ở Trung

Quốc; các thuyết về nhân đạo, nhân quyền của những nhà khai sáng Pháp thế kỷ

XVIII như J. Rousseau, S. Montesquieu, F. Voltaire mà các trí thức yêu nước Việt

Nam đã có sự thay đổi sâu sắc về tư tưởng. Bên cạnh đó, tấm gương Nhật Bản nhờ

Duy Tân mấy chục năm mà đánh bại đế quốc Nga đã làm tăng thêm niềm tin của

các nhà trí thức yêu nước Việt Nam. Phong trào Duy Tân ở Việt Nam phát sinh từ

những nguyên nhân trên. Mục đích của phong trào là xây dựng một đất nước Việt

Nam độc lập, thống nhất, giàu mạnh. Hình thức hoạt động của phong trào Duy Tân

ở Việt Nam diễn ra vừa công khai, vừa bí mật nhưng khá toàn diện, phổ biến rộng

khắp 3 miền của đất nước.

14

Chính những biến động lịch sử đó đã tác động mạnh mẽ vào phong trào

Chấn hưng Phật giáo thời kỳ này. Nhiều nhà nho chí sĩ đã đánh giá cao vai trò của

Phật giáo đối với sự phát triển của xã hội, sự tự cường của dân tộc. Trong bối cảnh

đó, báo chí Quốc ngữ có khuynh hướng duy tân ra đời như: Nông cổ mín đàm

(1901), Lục tỉnh tân văn (1907), Đăng cổ tùng báo (1907), Đông Dương tạp chí

(1913), Nam phong tạp chí (1917), An Nam tạp chí (1926), Phụ nữ tân văn

(1929)… Những tờ báo này đã góp phần “khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh”

như khẩu hiệu của phong trào Duy Tân đầu TK.XX. Chính những tờ báo này cũng

góp phần thúc đẩy cho phong trào Chấn hưng Phật giáo diễn ra nhanh chóng và

phát triển mạnh trong đời sống xã hội.

Các nhà cách mạng tiêu biểu của phong trào Duy Tân, trong đó có Phan Chu

Trinh đã từng nhận định rằng Phật giáo hưng thịnh thì đất nước cũng sẽ hưng thịnh.

Có thể nói Phan Chu Trinh là người đặt niềm tin rất lớn vào sự đóng góp của một

nền Phật giáo phục hưng đối với nền hòa bình dân tộc, cho nên ông thường hô hào

việc chấn hưng đạo Phật để hỗ trợ cách mạng. Trong một buổi diễn thuyết, ông đã

từng nói:

giáo, chúng ta không biết cương cường xả thân vì nghĩa, chỉ bo bo giữ cái

Nước Đại Nam chúng ta ngày nay sở dĩ yếu hèn là vì thiếu tinh thần tôn

lối riêng của mình. Nay bà con thử xét, đời Trần sao dân tộc ta hùng dũng

như vậy: quân Nguyên thắng cả Á cả Âu, nuốt trọn Trung Hoa mà qua đến

nước ta thì bại tẩu; nào bị cướp sáo ở Chương Dương Độ, nào bị bắt trói ở

Bạch Đằng, như vậy chẳng phải là nhờ đạo Phật ở ta thời đó rất thịnh ư?

Nhờ cái tinh thần tôn giáo của ta ư? [67, tr.750].

Giai đoạn giữa năm 1935, có nhiều bài viết trên báo Tràng an lấy tên là H.T

luận bàn về Phong trào Phật giáo chấn hưng. Tác giả đã cho rằng có ba nguyên

nhân của sự phục hưng Phật giáo, đó là do lòng tự ái của dân tộc, niềm khát ngưỡng

một lý tưởng để theo và do nạn kinh tế khủng hoảng.

Thế nhưng lại còn có ý kiến cho rằng phong trào Chấn hưng Phật giáo ra đời

là do ý đồ mỵ dân của thực dân Pháp: chúng muốn đẩy dân ta đắm chìm trong tín

ngưỡng mê tín của tôn giáo, để họ quên đi sự chống đối ngoại bang. Theo Nguyễn

15

Lang, sự nghi ngờ đó được xuất phát từ hai sự kiện: thứ nhất là do việc Nhà nước

bảo hộ đã dễ dàng ký giấy cho phép thành lập các Hội Phật giáo; thứ hai là do có

một vài người được xem như là “người của chính quyền” đã hoạt động trong các

Hội Phật giáo, như Trần Nguyên Chấn trong Hội Nam Kỳ Nghiên cứu Phật học,

Nguyễn Năng Quốc và Lê Dư trong Hội Phật giáo Bắc Kỳ [67, tr.762]. Nhưng các

sĩ phu yêu nước ngay từ đầu đã không nghĩ như thế, các học giả có uy tín như

Nguyễn Lang [67], Trần Văn Giàu [44] đều thẳng thắn bác bỏ quan điểm sai trái ấy.

Huỳnh Thúc Kháng trên báo Viên âm, Phan Khôi trên báo Tràng an đã gạt

bỏ ra ngoài những quan điểm sai lầm về Phật giáo và phong trào Chấn hưng Phật

giáo. Các vị đã đưa ra ý kiến tán đồng với quan điểm của Phan Chu Trinh khi cho

rằng, chấn hưng Phật giáo là một việc làm có ích cho quốc dân như đã dẫn ở trên.

Đặc biệt, Huỳnh Thúc Kháng vừa phát biểu ý kiến tán đồng vấn đề chấn

hưng Phật giáo trên tạp chí Viên âm, vừa khuyên Viên âm nên cố gắng:

Viên âm hãy gắng lên. Người ta nói khoa học với tôn giáo không cùng đi

với nhau, là nói ở xứ văn minh nào kia, chứ ở xứ khai thông chậm trễ dân

trí mơ mù như xứ ta, tôn giáo còn là phương thuốc chữa bệnh chung cho

người mình có hiệu nghiệm. Huống là cái thuyết từ bi cứu khổ, độ tha, giác

tha và nhân quả luân hồi của Phật giáo thông cả các giai cấp trong xã hội,

mà ai thực hành theo có bổ ích cho chúng sanh không phải là ít, chưa nói

đến “Niết bàn” là chỗ thượng thừa cao xa kia [D, số 3].

Những quan điểm trên cho chúng ta hiểu được, phong trào Chấn hưng Phật

giáo tại Việt Nam đã nhận được sự đồng tình của nhiều chí sĩ yêu nước đầu TK.XX.

Nhìn rộng ra châu Á, phong trào Chấn hưng Phật giáo Việt Nam diễn ra

trong bối cảnh chung của phong trào Chấn hưng Phật giáo ở các nước châu Á: Tích

Lan, Ấn Độ, Trung Quốc… nhằm khôi phục lại các giá trị của Phật giáo, phát triển

Phật học.

Bắt đầu từ cư sĩ David Hewavitarane, người Tích Lan, sau này xuất gia thành

đại đức Dharmapala. Để chấn hưng Phật giáo, Dharmapala đã thành lập Hội Đại Bồ

đề Ấn Độ và xuất bản tạp chí Bồ đề, thành lập các trung tâm Phật học và tu viện

16

Phật giáo. Dharmapala thường hun đúc tinh thần chấn hưng Phật giáo của tín đồ

Phật giáo Ấn Độ bằng những lời kêu gọi trong mỗi thời thuyết pháp ở Ấn Độ: “Phật

giáo ở Ấn Độ đã bị truy phóng một thời gian dài 800 năm. Ngày nay, họ đã và đang

quay trở về Tổ quốc. Tất cả chúng ta hãy thức tỉnh siêu vượt chế độ, giai cấp và tín

điều, với mục đích duy nhất của Hội Đại Bồ đề là đem giáo lý của Đấng Phật đà

tặng mọi người dân Ấn Độ” [64, tr. 201].

Năm 1908, đại đức Dharmapala đã viết thư liên lạc với cư sĩ Dương Nhân

Sơn ở Trung Quốc để mời cộng tác và từ đó phong trào lan rộng nhanh chóng.

Tại Trung Quốc, cư sĩ Dương Nhân Sơn đã đứng lên thiết lập Kỳ Hoàn Tịnh

xá, triệu tập những học giả nghiên cứu Phật học bằng Hán văn, Anh văn và Pali.

Tiếp đó, năm 1912, HT. Thái Hư lập Phật học viện Vũ Xương, ra tạp chí Giác xã

năm 1918, sau đổi thành Hải triều âm, làm tiền đề cho nhiều Phật học viện ra đời.

Các hiệp hội Tăng Giáo dục, Phật giáo Hợp Tiến, Phật giáo Tổng hội, Phật giáo

Liên hiệp, Phật giáo Cư sĩ lâm... liên tiếp ra đời khắp mọi nơi.

Những hoạt động tích cực để chấn hưng Phật giáo của các nhân vật Phật giáo

xuất chúng từ Tích Lan, Ấn Độ, Trung Quốc đã tác động đến các nước ở châu Á

khác như: Miến Điện, Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái Lan, Việt Nam v.v.. Phong trào

đổi mới Phật sự từ các nước này cũng được diễn ra nhanh chóng và có hiệu quả. Có

thể nói, phong trào Chấn hưng Phật giáo ở Việt Nam chịu ảnh hưởng trực tiếp và

mạnh mẽ từ phong trào Chấn hưng Phật giáo Trung Quốc, đặc biệt là những tư

tưởng cải cách Phật giáo của HT. Thái Hư.

Mặt khác, ở Việt Nam đầu TK.XX, do nhiều nguyên nhân về kinh tế, văn

hóa, xã hội và tư tưởng đã xuất hiện nhiều phong trào tôn giới mới. Những phong

trào tôn giáo này bắt nguồn từ Phật giáo, từ tín ngưỡng dân gian, hoặc từ “Tam

giáo” (Phật - Lão - Nho) rồi cải biên, trong đó có đạo Cao Đài do các ông Ngô

Minh Chiêu (1878-1930), Lê Văn Trung (1875-1934), Phạm Công Tắc (1893-

1959),… thành lập năm 1926; Phật giáo Hòa Hảo do ông Huỳnh Phú Sổ (1920-

1946) thành lập năm 1939,… Sự phát triển của các tôn giáo đương thời đã tạo ra

sức cạnh tranh mạnh mẽ đối với Phật giáo. Đây cũng là nhân tố tác động đến sự ra

đời của phong trào Chấn hưng Phật giáo.

17

Ngoài những nguyên nhân từ quốc tế, nguyên nhân chính trị - xã hội và tôn

giáo trong nước, sự ra đời của phong trào Chấn hưng Phật giáo Việt Nam còn do

những nguyên nhân nội tại trong giới Phật giáo. Trước đó và ngay cả giai đoạn này,

có lúc có nơi, sự suy giảm uy tín của Phật giáo đối với dân chúng khá rõ.

Nguyên nhân chủ yếu là do một bộ phận của giới tăng sĩ đã đi sai lạc con

đường chính pháp, không chuyên tâm tu hành mà chỉ chuyên lo “ứng phó” đạo

tràng để thu tài vật, lợi dụng tín ngưỡng dân gian để cầu danh cầu lợi cho bản thân.

Cư sĩ Khánh Vân đã trực tiếp lên án tình hình này trên tạp chí Duy tâm Phật học số

18 năm 1926: “Có kẻ mượn Phật làm danh, cũng ngày đêm hai buổi công phu, thọ

trì, nhập sóc vọng, cũng sám hối như ai, nhưng lại luyện bùa học ngải, luyện roi

thần, khi lên ông, lúc gặp bà, gọi là cứu nhân độ thế, nhưng thực ra lợi dụng lòng

mê muội của thiện nam, tín nữ, rộng túi tham vơ vét cho sạch sành sanh”.

Cư sĩ Thanh Quang cũng nói về tình trạng này trên báo Đuốc tuệ bằng những

lời lẽ phê phán gay gắt: “Đau đớn thay xứ ta, những hạng xuất gia vào chùa phần

nhiều chỉ học đặng vài bộ kinh, lo luyện hơi cho hay, tập nhịp tán cho già, nay lãnh

đám này, mai lãnh đám kia; cũng tràng hạt, cũng cà sa, thử lật mặt trái của họ ra mà

xem thì có khác nào người trần tục” [F, số 178-179, tr.3-5].

Rõ ràng, vấn đề “tha hóa đạo đức” của một bộ phận trong giới tu sĩ đã làm

ảnh hưởng đến sự suy đồi của Phật giáo. Điều đó đã khiến cho nhiều nhà lãnh đạo

Phật giáo, người có tâm huyết với Phật giáo trăn trở, lo lắng. Sư Thiện Chiếu, nhà

trí thức trẻ đầy nhiệt huyết không thể ngồi yên, đã mạnh dạng chỉ trích trên tờ Đông

Pháp thời báo số 532, ra ngày 14.1.1927: “Xét lại tăng giới hiện thời ở nước ta mà

nhất là ở Nam Kỳ, phần nhiều không chuyên tâm về đường học vấn, kẻ hảo tâm

thời lo độc thiện, có khi lạc vào cái chủ nghĩa yếm thế nên không biết nghĩa vụ và

trách nhiệm của mình; mình đã chẳng biết thời làm sao truyền bá ra cho người khác

biết được?”.

Nhìn chung, trước bối cảnh trong và ngoài nước như thế, nhiều tăng sĩ cùng

nhân sĩ trí thức yêu nước có nhiệt tâm, có tín tâm với đạo Phật đã tìm mọi cách chấn

hưng Phật giáo để khôi phục lại truyền thống tín ngưỡng, đạo lý và phong tục tập

quán của dân tộc, đồng thời qua đó đoàn kết tập hợp lực lượng để chống Pháp,

18

giành độc lập cho dân tộc. Công cuộc này đã làm thay đổi rất nhiều về nội dung và

hình thức hoạt động của Phật giáo Việt Nam.

1.1.3. Hoạt động của phong trào Chấn hƣng Phật giáo

Có thể nói, phong trào Chấn hưng Phật giáo Việt Nam được khởi đầu từ các

đô thị Nam Kỳ với những đóng góp quan trọng của HT. Khánh Hòa và sư Thiện

Chiếu, để sau đó lan ra Trung và Bắc Kỳ.

1.1.3.1. Phong trào Chấn hưng Phật giáo ở Nam Kỳ

Từ năm 1920, mặc dù trong cả nước, tình hình Phật giáo không có gì sáng

sủa nhưng tại Nam Kỳ, rải rác ở các nơi, nhiều vị có tâm huyết vẫn duy trì các đạo

tràng tu học Phật pháp và thuyết giảng tại các chùa lớn, như: HT. Thích Từ Phong

giảng dạy Phật pháp cho tăng sĩ tại chùa Giác Hải. Hòa thượng còn tổ chức khắc

bản in kinh và khuyến khích việc phiên dịch kinh Phật ra chữ Quốc ngữ. Từ năm

1922, Hòa thượng đã cho xuất bản bộ Quy Nguyên Trực Chỉ do chính mình phiên

dịch ra Quốc ngữ. HT. Khánh Hòa thì thuyết giảng Phật pháp cho chư tăng tại chùa

Tiên Linh. HT. Chí Thành quy tụ tăng sĩ về giảng dạy Phật pháp hàng năm tại chùa

Phi Lai. Hòa thượng còn tổ chức thành lập trường Phật học dành cho ni giới tại

chùa Giác Hoa (Bạc Liêu) và đã thu hút được trên một trăm học ni về tham học. Tại

Trà Vinh, HT. Huệ Quang giảng dạy Phật pháp tại chùa Long Hòa; HT. Khánh Anh

giảng tại chùa Long An. Cả hai đạo tràng đều có từ bốn mươi đến một trăm học

tăng tham học. Ngoài ra còn có HT. Tâm Thông chùa Trường Thọ (Gò Vấp - Gia

Định), HT. Hoằng Nghĩa chùa Giác Viên (Chợ Lớn), HT. Huệ Tịnh chùa Linh

Thuyền (Gò Công)… cũng thể hiện nhiệt huyết truyền bá Phật pháp ngay tại trú xứ

của chính các vị đó.

Năm 1923, trong một buổi họp của đại diện các Tổ đình tại chùa Long Hòa,

Trà Vinh, HT. Khánh Hòa đã khởi xướng thành lập tổ chức Lục Hòa Liên hiệp

nhằm mục đích tạo điều kiện cho các vị có tâm huyết, lo lắng về sự suy đồi của Phật

giáo Việt Nam có cơ hội gặp gỡ nhau để bàn bạc việc Chấn hưng Phật giáo, qua ba

nỗ lực: chỉnh đốn tăng già, kiến lập Phật học đường, diễn dịch và xuất bản kinh sách

19

Việt ngữ. Các vị Tổ sư tiền bối của phong trào này là HT. Huệ Quang, Khánh Hòa

và Khánh Anh.

Năm 1926, sau khi nghe cư sĩ Huỳnh Thái Cửu trình bày lời thỉnh cầu, đề

nghị thành lập Hội Phật giáo để khởi xướng phong trào nghiên cứu giáo lý, chấn

chỉnh Tăng già, HT. Khánh Hòa đã đem chuyện này bàn với HT. Huệ Quang, trú trì

chùa Long Hòa, Trà Vinh, đồng thời còn đề xuất chương trình chấn hưng, bao gồm

4 điểm:

- Lập hội Phật giáo.

- Thỉnh ba tạng kinh điển dịch ra chữ Quốc ngữ.

- Lập trường Phật học để đào tạo tăng tài.

- Xuất bản tạp chí phổ biến giáo lý, kêu gọi tăng đồ thức tỉnh, chấn hưng quy

củ thiền môn.

Tuy nhiên, khi bắt tay vào thực hiện thì không đủ kinh phí và còn nhiều vấn

đề phức tạp xảy ra, nên HT. Khánh Hòa cũng chưa thể thực hiện mong ước của

mình.

Tiếp đó, trên lĩnh vực truyền thông, các tờ báo liên tục đăng tải về tình hình

suy yếu của Phật giáo và kêu gọi chư tăng, Phật tử cùng giới trí thức yêu nước cần

có thái độ, quan điểm, lập trường chấn hưng nền Phật học nước nhà. Ngày 5.1.1927,

ông Nguyễn Mục Tiên, một nhà báo quen thuộc của nhân dân Sài Gòn trên tờ Đông

pháp thời báo số 529 đã viết bài kêu gọi Nên chấn hưng Phật giáo ở nước nhà.

Sư Thiện Chiếu, trú trì chùa Linh Sơn, Sài Gòn đã viết bài đăng trên Đông

Pháp thời báo số 532 ra ngày 14.1.1927 với nhan đề: Chấn hưng Phật giáo ở nước

nhà. Ngoài việc nêu lên những nguyên nhân khiến cho Phật giáo suy đồi, sư Thiện

Chiếu đã đề xuất những nội dung cụ thể cho phong trào Chấn hưng Phật giáo, gồm

3 điểm căn bản sau:

- Lập Phật học báo quán để truyền bá Phật lý, khi Phật lý được vãn hồi sẽ

xóa bỏ những điều mê tín.

20

- Lập Phật gia công học để đào tạo ra những bậc hoằng pháp mô phạm

truyền giáo về sau.

- Dịch kinh Phật ra tiếng ta để cho Phật giáo nước ta sau này khỏi sợ thất

truyền.

Cũng từ năm 1927, từ bài báo của nhà sư Tâm Lai tại Bắc Kỳ đề xuất chấn

hưng và thống nhất Phật giáo trên tờ Khai hóa nhật báo số 1640, ra ngày 16.1.1927

với chủ đề Sớm thành lập Việt Nam Phật giáo Hội cho cả ba miền, HT. Khánh Hòa

đã cử sư Thiện Chiếu ra gặp sư Tâm Lai để xúc tiến thành lập Phật giáo Tổng hội,

nhưng không đạt được sự đồng thuận do nhiều biến động trong cả nước.

Năm 1928, sau mùa an cư tại Quy Nhơn, HT. Khánh Hòa trở về Nam đề

nghị khởi xướng phong trào Chấn hưng Phật giáo ở Nam Kỳ và được sự ủng hộ của

HT. Huệ Quang (chùa Long Hòa, Tiểu Cần, Trà Vinh), HT. Khánh Anh (chùa

Thiên Phước, Trà Ôn, Cần Thơ). Đó là những bậc tu sĩ đạo cao đức trọng, học vấn

uyên thâm và đặc biệt là đầy nhiệt huyết với sự nghiệp hoằng dương chính pháp.

Học hỏi kinh nghiệm từ tình hình Phật giáo thế giới, chư vị Hòa thượng đã đồng

tâm hiệp lực, nhất trí khởi xướng phong trào Chấn hưng Phật giáo Nam Kỳ, để từ

đó tạo tiền đề chấn hưng Phật giáo, chấn hưng Quốc học Việt Nam. HT. Khánh Hòa

đã cùng ba vị tăng sĩ Từ Nhẫn, Chơn Huệ và Thiện Niệm lo tổ chức việc xây dựng

Thích Học đường và Phật học Thư xã tại chùa Linh Sơn, Sài Gòn.

Năm 1929, HT. Khánh Hòa và Thiện Chiếu lại vận động giới cư sĩ hữu tâm ở

Trà Vinh gửi mua cho Thư xã một bộ Tục Tạng kinh gồm 750 tập và lưu giữ tại

chùa Linh Sơn. Đồng thời, HT. Khánh Hòa còn cho ấn hành tạp chí Pháp âm. Đó là

tờ báo Phật giáo đầu tiên bằng Quốc ngữ tại Việt Nam.

Năm 1931, tại Sài Gòn, Hội Nam Kỳ Nghiên cứu Phật học được thành lập,

trụ sở đặt tại chùa Linh Sơn, Hội trưởng là HT. Từ Phong. Hội đã xuất bản tạp chí

Từ bi âm do HT. Khánh Hòa làm chủ nhiệm. Hội đã lập Pháp Bảo Phường, thỉnh

Tam tạng kinh Trung Hoa làm tài liệu nghiên cứu, với hoài bão là làm sao cho Phật

pháp được sáng tỏ trong đương thời. Hội cũng đã cất được một Phật học đường,

trang bị nội thất đầy đủ để nhận học tăng nội trú. Tuy nhiên, vì sự bất hòa trong nội

21

bộ nên Phật học đường không được khai giảng và công việc hoằng pháp bị đình trệ.

Từ đó phát sinh ra hai Hội Phật giáo khác nhau, một Hội tên là Lưỡng Xuyên Phật

học tại Trà Vinh do HT. Khánh Hòa và Huệ Quang lãnh đạo và một Hội lấy tên là

Phật học Kiêm Tế ở Rạch Giá, do HT. Trí Thiền sáng lập, với sự cộng tác của sư

Thiện Chiếu.

Năm 1932, Đoàn Trung Còn đã thành lập Nhà xuất bản Phật học Tùng thư.

Nhờ đó mà giai đoạn này, nhiều kinh sách đã được xuất bản, như sách Phật giáo sơ

học, Phật giáo vấn đáp, Phật học giáo khoa thư. Cả những bộ kinh bằng chữ Quốc

ngữ cũng được xuất bản rộng rãi, như kinh Kim Cương, Pháp Hoa, Lăng Nghiêm…

Năm 1933, với nhiệt huyết đào tạo tăng tài, HT. Khánh Hòa đã về chùa Long

Hòa, tổ chức Phật học đường lưu động, lấy tên là Liên Đoàn Phật học xã, với mục

đích đào tạo tăng tài và hoằng dương chính pháp. Đây là một Phật học đường hoạt

động theo lối tuần hoàn và liên tục, tức là quy cho mỗi chùa đài thọ chi phí ba tháng,

đồng thời ban ngày là để dạy học, ban đêm thì thuyết pháp. Từ khi lớp học được

khai giảng, đã có khoảng năm mươi vị học tăng được thu nhận vào liên đoàn. Pháp

sư giảng dạy thường xuyên có HT. Khánh Anh và HT. Pháp Hải. Khởi điểm đài thọ

được bắt đầu từ chùa Long Hòa ở Tiểu Cần - Vĩnh Bình, tiếp đến chùa Thiên Phước

(Trà Ôn). Cuối cùng đến chùa Viên Giác (Bến Tre) thì hội bị tan rã do thiếu tài

chính.

Năm 1934, HT. Khánh Hòa tiếp tục cùng các pháp hữu thành lập Hội Lưỡng

Xuyên Phật học, trụ sở tại chùa Lưỡng Xuyên, Trà Vinh (trước kia tên là chùa Long

Phước) và HT. An Lạc, chùa Vĩnh Tràng, Mỹ Tho được bầu làm Hội trưởng. Công

việc đầu tiên của hội là tổ chức Phật học đường và đã có nhiều học tăng đến cầu học.

Lưỡng Xuyên Phật học đường được khai giảng vào cuối năm 1934 và HT. Huệ

Quang, Khánh Anh được mời đến giảng dạy. HT. Khánh Hòa đảm nhiệm chức vụ

đốc giáo.

Năm 1935, Hội xuất bản sách Phật học Giáo khoa bằng hai thứ chữ Quốc

ngữ và Hán, đến tháng 10 cùng năm, Hội đã xuất bản tạp chí Duy tâm Phật học.

Tạp chí đã khởi dịch kinh Ưu Bà Tắc Giới và Quán Vô Lượng Thọ. Sau đó, Hội

Lưỡng Xuyên Phật học cũng mời thêm các HT. Mật Thể và Như Ý từ Thừa Thiên

22

vào để giảng dạy Phật pháp. Nhưng đến cuối năm 1941, trường lại bị đóng cửa vì

thiếu tài chính. Từ đó, Hội Lưỡng Xuyên Phật học chỉ còn đủ sức duy trì những lớp

tiểu học tại các chi hội địa phương như Sa Đéc, Phú Nhuận và Kế Sách.

Tuy nhiên, liền hai thập niên 1930-1940, khởi điểm từ Phật học đường

Lưỡng Xuyên, một phong trào Chấn hưng Phật giáo Nam Kỳ đã ra đời và hoạt động

đạt hiệu quả, lan rộng đến khắp các tỉnh Nam Kỳ. Nhiều thế hệ tăng sinh từ miền

Đông, miền Tây Nam Bộ đều về đây để tu học, nghiên cứu Phật pháp. Chính nơi

này đã đào tạo được nhiều người trở thành những danh tăng, đóng góp lợi ích rất

lớn cho đạo pháp và dân tộc. Người có công nhất trong việc đào tạo thế hệ tăng sinh

có thể nói là HT. Huệ Quang - Chánh Tổng quản Hội Lưỡng Xuyên Phật học kiêm

Giảng sư chính Lưỡng Xuyên Phật học đường. Trong kháng chiến chống Pháp, Hòa

thượng là Ủy viên Xã hội thuộc Ủy ban Kháng chiến Hành chính tỉnh Trà Vinh,

kiêm Chủ tịch Hội Phật giáo kháng chiến miền Tây Nam Bộ. Đặc biệt vào năm

1947, Lưỡng Xuyên Phật học đường đã mở ra một trang sử sáng đẹp, đáp lại lời kêu

gọi của Tổ quốc lúc lâm nguy, 47 vị tăng sinh đang theo học tại đây đã gửi áo cà sa

lại nhà chùa, lên đường tham gia kháng chiến và nhiều người trong số họ đã anh

dũng hy sinh trên các chiến trường chống thực dân Pháp khắp Nam Kỳ.

Có thể nói, chùa Lưỡng Xuyên là một trung tâm Phật giáo lớn ở Nam Kỳ,

đóng góp xứng đáng cho sự nghiệp Chấn hưng Phật giáo, chấn hưng quốc học nước

ta trong nửa đầu TK.XX và là tiền đề cho Giáo hội Phật giáo Việt Nam hình thành,

phát triển sau này.

Năm 1934, Tịnh Độ Cư sĩ Phật hội do đức tôn sư Minh Trí thành lập tại Tân

Hưng Long, xã Phú Định, Chợ Lớn và xuất bản tạp chí Pháp âm Phật học năm

1937. Tuy trong Hội không có hội viên là tăng sĩ nhưng Hội đã tôn sư Minh Trí làm

thầy Chứng minh. Hội này chủ trương Phật giáo nhập thế, phước huệ song tu, sử

dụng y thuật làm phương tiện cứu nhân độ thế, do đó, mọi tín đồ đều cần phải biết

về đông y và cách sử dụng thuốc nam.

Tuy tạp chí Pháp âm Phật học không được duy trì lâu dài, nhưng Tịnh Độ

Cư sĩ Phật hội vẫn tiếp tục hoạt động và đem đến những thành quả đáng kể. Tại

Nam Kỳ, tỉnh nào cũng có chùa của Hội, nhất là tại các tỉnh Cần Thơ, Ba Xuyên,

23

An Xuyên và Gia Định. Phần lớn những chùa này không có tăng sĩ trú trì và hướng

dẫn nghi lễ tụng niệm. Đặc biệt, các chùa thuộc Tịnh Độ Cư sĩ Phật hội đều mở

phòng thuốc nam và chữa bệnh, cung cấp thuốc miễn phí cho dân chúng.

Năm 1936, Hội Phật học Kiêm Tế được thành lập tại Rạch Giá, trụ sở đặt tại

chùa Tam bảo, do HT. Trí Thiền (Nguyễn Văn Đồng) làm Chánh Tổng lý. Hội xuất

bản tạp chí Tiến hóa, sau đó sư Thiện Chiếu điều hành với những tư tưởng cách

mạng tiến bộ. Chủ trương của Hội Phật học Kiêm tế là đấu tranh chính trị, vừa

chuyển tải Phật học vừa trị nước giúp đời.

Có thể kể thêm nhiều Hội khác như: Hội Phật giáo Liên hữu do sư trú trì

chùa Bình An, tỉnh Long Xuyên thành lập (1932); Hội Phật giáo Tương Tế do HT.

Phước Chí (Lê Phước Chí) thành lập ở Sóc Trăng (1934), trụ sở đặt tại chùa Thiên

Phước và đến năm 1936 xuất bản tạp chí Bồ đề; Hội Thiên Thai Thiền giáo tông

liên hữu ở Bà Rịa do Tổ Huệ Đăng lập (1934), trụ sở tại chùa Thiên Thai, Vũng Tàu

và xuất bản tạp chí Bát nhã âm v.v.. Những Hội này tuy không hoạt động sôi nổi

nhưng cũng đã tạo được tiếng vang cho phong trào Chấn hưng Phật giáo lúc bấy giờ.

1.1.3.2. Phong trào Chấn hưng Phật giáo ở Trung Kỳ

Vào khoảng năm 1920, cũng như Nam Kỳ, các chùa ở Trung Kỳ đã có

những Hòa thượng tâm huyết vẫn duy trì các đạo tràng tu học Phật pháp rất mạnh

mẽ, như HT. Tuệ Pháp là người uyên thâm giáo điển, thường giảng dạy kinh luận

tại chùa Thiên Hưng (Bình Định). Ngoài ra còn có HT. Thanh Thái chủ trì và hướng

dẫn đạo tràng tại chùa Từ Hiếu (Huế); HT. Đắc Ân tại chùa Quốc Ân (Huế); HT.

Tâm Tịnh tại chùa Tây Thiên (Huế); HT. Phước Huệ tại chùa Thập Tháp (Bình

Định)…

Từ Nam Kỳ, phong trào Chấn hưng Phật giáo đã lan đến Trung Kỳ và có thể

nói, HT. Giác Tiên là người khởi xướng phong trào Chấn hưng Phật giáo tại Trung

Kỳ.

Năm 1932, tại Huế, HT. Giác Tiên đã tập họp các tăng sĩ và với sự cộng tác

của cư sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám, Nguyễn Khoa Tân v.v.. thành lập Hội An Nam

Phật học, trụ sở đặt tại chùa Trúc Lâm (nơi HT. Giác Tiên trú trì) do cư sĩ Lê Đình

24

Thám làm Hội trưởng, HT. Giác Tiên làm Chứng minh đạo sư và bắt đầu tổ chức

thuyết pháp tại chùa Từ Quang. Hội còn mở nhiều chi hội ở các tỉnh, quận, xã.

Chữ “học” trong danh từ An Nam Phật học, theo Lê Đình Thám còn có nghĩa

là “hành”. Hội An Nam Phật học đã liên tiếp mời các HT. Giác Tiên (chùa Diệu Đế),

Giác Nhiên (chùa Báo Quốc) và Tịnh Hạnh (chùa Tường Vân) làm Chứng minh đạo

sư. Ngoài ra Hội còn được sự hỗ trợ của các bậc tôn túc ở các Tổ đình và sự cộng

tác của các vị tăng ni xuất sắc thời đó như: Mật Khế, Mật Nguyện, Đôn Hậu, Trí Độ,

Trí Thủ, Mật Thể, Diệu Hương và Diệu Viên.

Năm 1933, Hội đã mở trường An Nam Phật học tại chùa Trúc Lâm, về sau,

trường được dời về chùa Báo Quốc.

Năm 1934, Hội An Nam Phật học đã khuyến khích mở các Phật học đường

Sơ đẳng tại các tỉnh.

Hội An Nam Phật học đã thỉnh Đại tạng kinh để làm tài liệu nghiên cứu và

xuất bản tạp chí Viên âm (1934) để hoằng dương chính pháp. Hội còn là nơi khởi

xướng thành lập Gia đình Phật Hóa Phổ đầu tiên (1940) và lập Trường Bồ Đề. Gia

đình Phật Hóa Phổ là hình thức đầu tiên của tổ chức Gia đình Phật tử Việt Nam,

được tổ chức theo từng gia đình, lấy tên gia trưởng làm tên đơn vị. Mục đích của

Gia đình Phật Hóa Phổ là phổ biến Phật pháp trong giới trẻ, dạy các em xây dựng

lòng tin chân chính, thực hành theo đạo lý một cách đúng đắn, không mê tín dị đoan.

Sau đó, đến năm 1935, Hội đã tiếp tục mở Phật học đường tại chùa Báo Quốc để

đào tạo Tăng tài.

Sơn môn Huế và Hội An Nam Phật học rất chú trọng việc đào tạo tăng tài và

chỉnh lý tăng giới. Cho nên, ngoài việc thành lập các lớp Phật học cho tăng sĩ trẻ tại

các chùa, Hội đã đề ra một chương trình chỉnh lý tình trạng tăng sĩ, gồm hai điểm:

- Thành lập một hội đồng luật sư gồm có những bậc tăng già tinh thông giới

luật để giám sát giới hạnh của tăng chúng.

- Tổ chức những ban thầy cúng, là những người biết tán, tụng, cầu an, cầu

siêu và hướng dẫn tang lễ [D, số 14].

25

Cũng trong thời kỳ hưởng ứng phong trào Chấn hưng Phật giáo, tại tỉnh Bình

Định, những bậc đống lương thạch trụ: HT. Phước Huệ (chùa Thập Tháp) (1920-

1945), Pháp sư Phổ Huệ (1920-1935), HT. Vĩnh Khánh… đã nhiệt tình cho ấn hành

các pháp bảo: Liên tôn thập niệm yếu lãm, Tịnh nghiệp văn và Mông sơn thập loại

diễn nghĩa... Chư Hòa thượng viện chủ, trú trì các chùa Long Khánh, Thiên Đức,

Bạch Sa, Minh Tịnh thì hợp tác sáng lập, giảng dạy và duy trì các trường Gia giáo

tại những chùa này. Sau đó, các vị họp nhau thành lập Hội Phật học Bình Định từ

năm 1932 đến năm 1945.

Cuối năm 1934, gặp lúc phong trào chấn hưng Phật giáo đang phát triển

mạnh mẽ ở miền Trung, thầy Trí Thủ đã cùng một số bạn đồng môn tại Huế vận

động tổ chức trường Phật học Tây Thiên. Các thầy đã mời HT. Giác Nhiên, Phước

Huệ, Thánh Duyên, Quốc Ân, Tường Vân dạy nội điển; mời bác sĩ Tâm Minh Lê

Ðình Thám, các ông Nguyễn Khoa Toàn và Cao Xuân Huy dạy các môn văn hóa

ngoại điển. Trường xây dựng học trình mười năm, gồm: ba năm sơ đẳng, ba năm

trung đẳng, hai năm cao đẳng và hai năm siêu đẳng. Lớp Sơ đẳng do Tổ Thập Tháp

chủ giảng, phần nội điển gồm: Luật Sa di, kinh Vô lượng thọ, kinh Ðịa tạng, kinh

Thủy sám.

Năm 1935, Hội Đà Thành Phật học được thành lập tại Đà Nẵng và cơ quan

ngôn luận là tạp chí Tam bảo xuất bản năm 1937. Bản ý và chủ đích hành động của

hội Đà thành Phật học, theo Tam bảo số 1 là:

- Phò khởi tăng giới, nguyện cùng chư tôn Nam Bắc liên đoàn bảo tồn Tăng

bảo.

- Nguyện cùng chư tôn chấn chỉnh tôn phong, thi hành chung một điều lệ và

cần phải giữ giới hạnh đoan nghiêm.

Năm 1935, tại Huế đã long trọng tổ chức Đại lễ Phật đản trong hai ngày 7 và

8 tháng 4 âm lịch. Chiều ngày 7 tháng 4 âm lịch, tại chùa Diệu Ðế, Ban Ðồng ấu

gồm 52 em trong đồng phục áo the xanh quần trắng, đeo giải băng màu vàng chữ

nâu: Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, hát bản nhạc Mừng Phật đản (sau này

được phổ biến dưới tên Trầm Hương Ðốt). Ðây là bản nhạc Phật giáo đầu tiên, được

26

ghi theo ký âm phương Tây của nhạc sĩ Bửu Bác, ở giai đoạn nền tân nhạc Việt

Nam còn phôi thai.

Sự thành công của lễ Phật Ðản này đã tạo ra một số bài báo công kích đạo

Phật trên các báo Tràng an và Ánh sáng (Huế). Các bài viết cho rằng đạo Phật ru

ngủ quần chúng, nên phục hưng Phật giáo là việc làm không hợp thời. Tuy nhiên,

các cư sĩ Nguyễn Xuân Thanh và Tâm Minh Lê Ðình Thám đã phản bác lại bằng

những lập luận có sức thuyết phục cao.

Năm 1940, Hội An Nam Phật học đặc biệt chú trọng đến việc giáo dục thanh

thiếu niên, đã mở một lớp học chuyên dạy về Phật học, Lão học và Khổng học cho

thanh niên tân học. Từ đó mà Đoàn Thanh niên Phật học Đức Dục được thành lập,

dưới sự hướng dẫn của bác sĩ Lê Đình Thám. Vì đoàn là sự kết hợp của những

người vừa có tân học, vừa vững chãi về Phật học, nên đã tiến bộ rất nhanh chóng về

mọi mặt.

Đoàn Phật học Đức Dục còn tổ chức Phật học tùng thư, xuất bản sách dành

riêng cho tuổi trẻ. Những tác phẩm Phật giáo sơ học (Đoàn Phật học Đức Dục

soạn), Phật giáo và Đức Dục (Đinh Văn Vinh), Đời vui (Ngọc Thừa), Nghĩa chữ

Cho (Nguyễn Hữu Quán), Thanh niên Đức Dục (Đinh Văn Nam), Phật giáo và

Thanh niên Đức Dục (Phạm Hữu Bình) v.v.. được liên tục xuất bản. Đồng thời

những lớp thiếu niên Phật tử gọi là Đồng ấu được thành lập dưới sự hướng dẫn của

đoàn và tính đến năm 1942, đã có 12 đoàn Đồng ấu ra đời, mỗi đoàn khoảng 40 em.

Ngày Phật đản năm 1943, Đại hội Thanh thiếu niên Phật tử đã quy tụ trên

400 đoàn sinh tại đồi Quảng Tế, gần chùa Từ Hiếu. Sự kiện này đã đánh dấu bước

đầu thành công trong việc phát động phong trào thanh niên Phật tử tại đất Việt.

Năm 1943, Thượng tọa Mật Thể (Tâm Nhất, Nguyễn Hữu Kế, 1912-1961)

công bố Việt Nam Phật giáo sử lược, Tân Việt xuất bản tại Hà Nội. Tác phẩm được

tái bản nhiều lần.

1.1.3.3. Phong trào Chấn hưng Phật giáo ở Bắc Kỳ

Từ năm 1920, tại Bắc Kỳ, HT. Thanh Hanh đã duy trì việc giảng dạy Phật

pháp tại chùa Vĩnh Nghiêm; chùa Bà Đá cũng duy trì được một đạo tràng lớn, mỗi

27

năm có hàng trăm tăng sĩ an cư kiết hạ và học tập giáo điển. HT. Thanh Thao (Đỗ

Văn Hỷ) thì in ấn kinh sách rất nhiều, kể cả những bộ kinh lớn như Đại Bảo tích.

Năm 1927, sau cuộc hội ngộ giữa hai nhà lãnh đạo là sư Thiện Chiếu và Tâm

Lai về việc thành lập Tổng hội Phật giáo Việt Nam bất thành, phong trào Chấn

hưng tại Bắc Kỳ tạm lắng xuống, nhưng ở Nam Kỳ, phong trào lại khởi lên khá

mạnh mẽ. Thông qua cửa ngõ tuyên truyền bằng phương tiện truyền thông báo chí,

cộng với sự nhiệt tâm tinh cần của HT. Khánh Hòa, sư Thiện Chiếu… phong trào

Chấn hưng Phật giáo đã lan ra Trung Kỳ và Bắc Kỳ, như lời khẳng định trên tạp chí

Tiếng chuông sớm:

Trước Từ bi âm ta chớ nên quên hai cuốn Pháp âm và Phật giáo Tân

Thanh niên làm quân tiên phong dọn đường đi trước. Ông Đoàn Trung

Còn, người có lòng với đạo Phật thay! Một mình dịch theo sách Tây tra

sang sách Ta, bao nhiêu là quyển nói về Phật giáo. Ấy cũng nhờ những cái

nhân duyên từ trước ấy, cho nên Trung Kỳ, Bắc Kỳ lần lượt theo sau mà

đứng lên hoằng tuyên Phật pháp… [E, số 1, tr. 45-47].

Từ đó, năm 1934, tại Hà Nội, Hội Phật giáo Bắc Kỳ được thành lập, do cư sĩ

Nguyễn Năng Quốc làm Hội trưởng, tôn HT. Thanh Hanh (Tổ Vĩnh Nghiêm) làm

Thiền gia Pháp chủ. Tuy thành lập muộn hơn các Hội ở Nam Kỳ và Trung Kỳ,

nhưng Hội Phật giáo Bắc Kỳ đã phát triển rất nhanh chóng. Chỉ trong vòng một

năm mà các chi hội đã được thành lập khắp nơi trên đất Bắc.

Hội xuất bản tuần báo Đuốc tuệ (1935) để hoằng dương chính pháp, đồng

thời mở trường đào tạo tăng sinh ở chùa Quán Sứ, trường ni tại chùa Bồ Đề và chùa

Bát Tháp. Khóa học bắt đầu từ bốn năm sơ cấp lên ba năm trung cấp.

Năm 1934, Hội Bắc Kỳ Cổ sơn môn được thành lập, do HT. Thanh Tường

(Đinh Xuân Lạc) đứng đầu. Cơ quan ngôn luận là tạp chí Tiếng chuông sớm (1935).

Năm 1940, Hội Phật giáo Bắc Kỳ qua nỗ lực của các nhà sư Quang Minh,

Thanh Thạnh, Doãn Hài và Thanh Tích phối hợp với Trường Viễn Ðông Bác Cổ đã

bắt đầu thực hiện bộ Đại Nam Phật điển tùng san. Công trình này có ý nghĩa lớn lao

là đã góp phần bảo tồn văn hóa Phật giáo và giữ gìn văn hóa dân tộc. Đến năm 1943,

28

bộ này đã thực hiện theo lối in dập lại được 8 tập các tác phẩm Phật giáo Việt Nam

bằng chữ Nôm và chữ Hán: Chư kinh nhật tụng, Thụ giới nghi phạm, Thiền uyển kế

đăng lục, Pháp hoa đề cương, Bát nhã trực giải, Khóa Hư lục, Trần Triều dật tồn

Phật điển lục và Lễ tụng hành trì yếu tập. Ðây là những tài liệu tham khảo hiếm hoi,

quý giá về các tác phẩm xưa của Phật giáo Việt Nam.

Ngoài ra, Hội cũng thực hiện thêm bộ Hải triều âm văn khố, giới thiệu các

tác phẩm tân thư dễ hiểu về Phật giáo Trung Hoa cận đại của các tác giả như Ðại sư

Thái Hư, Lương Khải Siêu, Khang Hữu Vi, Châu Tự Ca, Âu Dương Kiến Vô... giúp

cho giới cư sĩ cựu học và tân học được dễ dàng hơn trong việc học Phật của mình.

Hội Phật giáo Bắc Kỳ còn tổ chức thành lập nhiều ban Đồng ấu ở các tỉnh

hội, thể thức hoạt động cũng giống như các ban Đồng ấu ở Trung Kỳ. Nghi thức lễ

Phật dành cho các em đã được Hội biên soạn bằng chữ Quốc ngữ. Cư sĩ Công Chân

là người có công nhất trong sự dạy dỗ và huấn luyện giới trẻ.

Năm 1943, Hội Thanh Niên Phật tử Việt Nam thành lập, do bác sĩ Nguyễn

Hữu Thuyết làm Hội trưởng. Hội chủ trương lấy tinh thần từ bi cứu độ và làm công

tác xã hội.

Có thể nói, từ năm 1934 đến 1945, Hội Phật giáo Bắc Kỳ đã tạo được nhiều

thành tích to lớn, đồng thời sự có mặt đông đảo của giới trí thức làm cho Hội thêm

khởi sắc. Các HT. Tâm Băng, Tâm Lĩnh, Tâm Bác, Thọ Cầu, Tâm Bảo, Thanh

Hoán, Thanh Hậu, Tâm Tấn, Trí Hải, Tố Liên, Tuệ Chiếu v.v.. đều là những người

đã hoạt động đắc lực cho phong trào Chấn hưng Phật giáo tại Bắc Kỳ lúc bấy giờ.

1.1.4. Những thành tựu chung của phong trào Chấn hƣng Phật giáo

Những năm đầu TK.XX, phong trào Chấn hưng Phật giáo đã lần lượt dấy lên

ở nhiều nơi. Hàng tăng sĩ với nhiệt tâm mạnh mẽ, bấy lâu ẩn dật, đến lúc thể hiện

tinh thần nhập thế tích cực của người đệ tử Phật.

Ngoài ra, ở cả ba miền đất nước còn có những cư sĩ trí thức cựu học lẫn tân

học, uyên thâm về cả thế học và Phật học. Họ là những cư sĩ có tâm huyết, đã tích

cực góp phần trong việc đổi mới cách thuyết giáo và giảng dạy cổ truyền trong chốn

Phật đường. Nhân vật trí thức đầy nhiệt huyết tiêu biểu lúc bấy giờ có: Thiều Chửu

29

Nguyễn Hữu Kha (1902-1954). Ông là đông y sĩ, người sáng lập Hội Phật học Bắc

Kỳ, trụ sở đặt tại chùa Quán Sứ (Hà Nội); phụ trách báo Đuốc tuệ của Hội. Bên

cạnh còn có Tâm Minh Lê Đình Thám (1897-1969), là bác sĩ tây y; sáng lập viên và

là Hội trưởng Hội Phật học Trung Kỳ (tức là An Nam Phật học hội), trụ sở đặt tại

chùa Trúc Lâm (Huế); chủ nhiệm kiêm chủ bút nguyệt san Viên âm, cơ quan hoằng

pháp của Hội. Người tiêu biểu thứ ba không thể không đề cập đến là Chánh Trí Mai

Thọ Truyền (1905-1973). Ông là Đốc phủ sứ, sáng lập chùa Xá Lợi (Sài Gòn) và

Hội Phật học Nam Việt, đóng góp rất nhiều cho tạp chí Từ quang của Hội.

Những thành tựu nổi bật của phong trào Chấn hưng Phật giáo Việt Nam là:

(1) Chấn hưng Phật học:

Các Hội Phật giáo được thành lập ở ba miền. Tuy mỗi Hội đều đề ra phương

thức hoạt động khác nhau tùy theo khả năng và điều kiện của từng vùng miền,

nhưng cùng hướng về mục tiêu chung là cải cách từ nội dung Phật học cho đến mô

hình sinh hoạt, tu học. Mục đích là chấn chỉnh tăng già, nâng cao trình độ Phật học

cho tăng ni, phổ cập giáo lý đến mọi tầng lớp quần chúng Phật tử. Do vậy, kinh

sách đã được chư tăng, học giả uyên thâm Phật học sưu tầm, biên dịch ra chữ Quốc

ngữ và ấn tống rộng rãi các nơi. Mỗi Hội đều có cơ quan ngôn luận để tuyên truyền

đường lối chấn hưng, đã tạo nên sức thu hút mạnh mẽ đối với quần chúng.

Các tạp chí Phật học được xuất bản làm phương tiện chấn chỉnh giáo lý và sự

tu hành của tăng sĩ, tín đồ, chuyển hóa được phần nào đức tin của quần chúng đối

với đạo Phật từ mê tín thành chánh tín. Sự ra đời của báo chí Phật giáo bằng chữ

Quốc ngữ và kinh sách Phật học phổ thông đã tạo nên một phong trào học Phật dễ

dàng cho đại chúng. Hơn nữa, vấn đề mở rộng đạo tràng thuyết pháp tại các cơ sở

tự viện đã tạo cơ hội cho nhiều người biết đến Phật pháp. Chính những hoạt động

của báo chí Phật giáo đã tạo điều kiện cho phong trào Chấn hưng Phật giáo càng

lang rộng và lớn mạnh trong cả nước, nhất là trên diễn đàn văn hóa dân tộc, văn hóa

Phật giáo cũng như các lĩnh vực khác liên quan đến Phật giáo nước nhà.

Từ phong trào Chấn hưng, đã tạo nên nhiều cuộc trao đổi, tranh luận về các

tư tưởng Phật học trên diễn đàn báo chí Phật giáo, với nhiều chủ đề được đặt ra liên

30

quan đến thế giới quan và nhân sinh quan Phật giáo. Điều này đã thu hút sự quan

tâm của các giới từ những người nghiên cứu Phật học cho đến những nhà trí thức

không thuộc Phật giáo. Nó có tác động mạnh mẽ trong cả nước về tình hình sinh

hoạt Phật giáo, đồng thời còn thể hiện tinh thần hội nhập Phật giáo thế giới theo xu

hướng phát triển.

Trước kia, kinh điển rất hiếm có, tín đồ muốn đọc kinh Phật phải tìm đến

chùa mượn nhưng cũng rất ít. Từ lúc phong trào Chấn hưng Phật giáo lan rộng thì

kinh sách Phật giáo bằng chữ Quốc ngữ khá nhiều và được bán rộng rãi tại các chùa

thuộc Hội Phật giáo, đồng thời các tạp chí Phật học cũng có thể gửi bằng đường bưu

điện đến tận nhà.

Các Hội Phật học đã quy tụ được nhiều học giả đến tìm hiểu Phật pháp. Tại

Hội Phật giáo Bắc Kỳ, nhiều nhân sĩ đã tham gia vào Ban Khảo cứu Phật học:

Nguyễn Văn Tố, Trần Trọng Kim, Trần Văn Giáp, Nguyễn Đỗ Mục, Nguyễn Văn

Ngọc, Dương Bá Trạc, Nguyễn Trọng Thuật, Bùi Kỷ v.v.. Tại tòa soạn Tiếng

chuông sớm ở chùa Bà Đá ta thấy cả Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu, Nguyễn Mạnh

Bổng, Nguyễn Tiến Lãng v.v..

(2) Bước đầu hình thành nền báo chí, văn học Phật giáo Việt Nam bằng chữ

Quốc ngữ. Đây chính là tiền đề dẫn đến việc hình thành Đại tạng kinh Việt Nam

bằng chữ Quốc ngữ sau này.

(3) Đào tạo được đội ngũ tăng tài kế thừa để phục vụ đạo pháp và dân tộc:

Xuất phát từ các Hội, nhiều trường Phật học được thành lập. Chương trình

giảng dạy giáo lý của mỗi trường đều được biên soạn cụ thể, riêng biệt theo các cấp

độ khác nhau. Đây là đường hướng giáo dục có cơ sở, theo một hệ thống từ thấp

đến cao, nhằm nâng cao trình độ Phật pháp, phát triển dân trí, cũng là lần đầu tiên

quá trình đào tạo tăng tài cho hiện tại và tương lai của Phật giáo được thực hiện có

tổ chức. Như lời nhận xét của Phạm Quỳnh trong dịp viếng thăm Phật học đường

Báo Quốc ngày 29.05.1937: “Trường Sơ đẳng Phật học lập ra chưa đầy ba năm mà

học sinh đã làm được bài chữ Hán, học kinh tiểu thừa, lý nghĩa đều đã rõ nhiều lắm.

31

Trong các điệu (học tăng trẻ) lên nói, có điệu mới có mười, mười hai tuổi mà thôi,

thật đáng khen công đức các ngài dạy dỗ” [D, số 25, tr.51].

Nhờ sự củng cố, trưởng thành về tổ chức đó mà phong trào Chấn hưng Phật

giáo của các Hội ở ba miền đã xây dựng được một số cơ sở đào tạo gọi là Phật học

đường để đào tạo tăng ni một cách quy củ.

Tại Nam Kỳ có trường Tăng sĩ ở Chợ Lớn, các lớp Phật học ở các chùa Tiên

Linh (Bến Tre), chùa Phi Lai (Châu Đốc), chùa Giác Hoa (Bạc Liêu), chùa Long

Hòa (Trà Vinh), chùa Thiên Phước (Vĩnh Long). Đặc biệt vào năm 1934, Phật học

đường Lưỡng Xuyên khai giảng và đào tạo được một số tăng tài: HT. Thiện Hòa,

Thiện Hoa, Hành Trụ, Hiển Thụy, Chánh Quang v.v..

Tại Trung Kỳ có trường Sơ đẳng Tăng, Phật học đường Trúc Lâm và Tây

Thiên, Phật học đường Báo Quốc và Kim Sơn (Huế).

Đặc biệt, trường An Nam Phật học đã đào tạo được năm mươi học tăng nội

trú. Sau khi học xong sáu năm tiểu học và ba năm trung học, lớp này được thi lên

đại học. Về sau, lớp đã có mười vị Tăng sĩ xuất sắc như HT. Trí Quang, Thiện Siêu,

Trí Thuyên v.v.. Từ năm 1922, HT. Giác Tiên đã rước HT. Phước Huệ từ chùa

Thập Tháp (Bình Định) về chùa Trúc Lâm (Huế) để mở trường Sơn Môn Phật học

với tư cách là một trường Đại học. Trường đã đào tạo được những vị tài đức như

HT. Mật Thể, Trí Thủ, Quảng Huệ, Mật Hiển, Mật Khế, Thiện Trí v.v.. Sau đó bốn

năm, HT. Mật Khế lại mở một lớp tiểu học để đào tạo bốn mươi học tăng tại chùa

Tường Vân và một lớp tại chùa Từ Đàm cho hai mươi học ni.

Năm 1937, tại chùa Long Khánh (Bình Định) đã khai giảng trường Trung

đẳng Phật học, chùa Tây Thiên (Phan Rang) mở được một lớp tiểu học. Riêng Phật

học đường của Hội Đà Thành Phật học ở Đà Đẵng đã khai giảng được hai lớp cấp

tiểu học và trung học.

Hội Phật giáo Bắc Kỳ đã tổ chức được hai lớp tiểu học cho tăng ni sinh tại

chùa Cao Phong ở Phúc Yên và chùa Côn Sơn ở Hải Dương. Một lớp trung học

được khai giảng tại chùa Quán Sứ và một lớp đại học được duy trì tại chùa Sở (Hà

Đông). Tổng số các học tăng nội trú của bốn lớp là 69 vị [C, số 159].

32

Có thể nói, các cơ sở đào tạo của Phật giáo lúc bấy giờ không chỉ đào tạo

được đội ngũ tăng ni trí thức để hỗ trợ cho phong trào Chấn hưng Phật giáo mà còn

định hình được một phương hướng, nề nếp mới trong việc đào tạo tăng tài ở những

giai đoạn về sau.

Ngoài ra, hệ thống chùa chiền đều được chấn chỉnh, từ việc thờ tự cúng bái

cho đến hình thức lễ nghi và các sinh hoạt trong chùa đều được tổ chức trang

nghiêm. Chùa được xem là cơ sở quan trọng nhất của việc phát triển Sơn môn pháp

phái và của Hội. Đây không chỉ là cơ sở tín ngưỡng tâm linh của cộng đồng người

Việt mà còn là cơ sở đại diện cho nền văn hóa dân tộc.

Quả thật, phong trào Chấn hưng Phật giáo Việt Nam giai đoạn nửa đầu

TK.XX có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng không những trong giới Phật giáo mà

còn ngoài xã hội. Chấn hưng Phật giáo đã đưa Phật giáo trở lại đúng với truyền

thống, vai trò và vị trí vốn có trong xã hội Việt Nam. Đặc biệt, phong trào đã xóa bỏ

sự mê tín dị đoan, bỏ đi những hủ tục tín ngưỡng cúng vái không thích hợp trong

cuộc sống, đồng thời đem giáo pháp vào đời để ban vui cứu khổ cho chúng sinh

đúng theo tinh thần nhập thế tích cực của đạo Phật. Xem tiếp lời của Phạm Quỳnh

trong dịp viếng thăm Phật học đường Báo Quốc ngày 29.05.1937, chúng ta sẽ thấy

rõ hơn ý nghĩa này:

“Cái tinh thần Việt Nam của chúng ta đây tất phải nhờ các học thuyết tạo

thành, mà xét về đức dục thì một phần lớn là do công nghiệp của Phật học.

Phật học đã có ảnh hưởng về luân lý đạo đức trong dân tộc ta như vậy, thì ai

là người muốn bảo tồn tinh thần dân tộc Việt Nam tất phải tán thành cho

Phật học… Tôi xin khuyên các thầy học sinh nên mở mang đạo lý của Phật

rõ ràng cho công chúng dễ hiểu. Xin chúc các Hội Phật học và Tăng già đạt

mục đích chấn hưng Phật học” [D, số 25, tr.54-55].

Nhìn chung, phong trào Chấn hưng Phật giáo trong những năm đầu TK.XX

đã có nhiều hội Phật học ra đời, nhiều tạp chí xuất bản và nhiều trường lớp Phật học

v.v.. liên tục hình thành. Tất cả đều cùng chung ý tưởng hướng về mục đích đào tạo

tăng tài để hoằng dương chính pháp, đồng thời còn khơi dậy, hun đúc tinh thần yêu

33

nước, giữ gìn truyền thống văn hóa của dân tộc và vươn lên vì hòa bình, độc lập, tự

do, thống nhất Tổ quốc Việt Nam.

Với những ý nghĩa trên mà phong trào Chấn hưng Phật giáo Việt Nam đến

hôm nay đã được xem là nền tảng để xây dựng một ngôi nhà Phật giáo Việt Nam

vững mạnh, luôn đồng hành cùng với Dân tộc trong sự nghiệp phát triển đất nước

và đạo pháp trong thời hiện đại.

1.1.5. Những nhân vật tiêu biểu trong phong trào Chấn hƣng Phật giáo

Lịch sử cho thấy, phong trào Chấn hưng Phật giáo được khởi xướng từ HT.

Khánh Hòa tại Nam Kỳ, HT. Giác Tiên tại Trung Kỳ và HT. Thanh Hanh tại Bắc

Kỳ. Đó chính là ba vị được tôn là Tổ sư của phong trào Chấn hưng Phật giáo lúc

bấy giờ.

Để tìm hiểu về tiểu sử của các nhân vật tiêu biểu này, chúng tôi đã căn cứ

vào tài liệu Việt Nam Phật giáo sử luận của Nguyễn Lang [67] và Tiểu sử danh tăng

Việt Nam thế kỷ XX của Thích Đồng Bổn [3].

HT. Khánh Hòa pháp danh Thích Như Trí, sinh ngày 22 tháng 4 năm Mậu

Dần (1877) tại làng Phú Lễ, tổng Bảo An, quận Ba Tri, nay là xã Phú Lễ, huyện Ba

Tri, tỉnh Bến Tre. Hòa thượng xuất gia năm 19, thọ giáo ở chùa Kim Cang và chùa

Long Triều (Tân An). Vốn là người thông minh lại hiếu học, cho nên sau mười năm

theo thầy học đạo, nghiên cứu kinh sách, ngài đã nổi tiếng là một nhà sư tinh thông

về Phật học. Hòa thượng được cử làm trú trì ở các chùa Khải Tường, Long Phước,

Hàng Lâm… Năm 1907, Hòa thượng về trú trì chùa Tiên Linh và tổ chức việc

truyền giảng giáo lý nhà Phật, đào tạo tăng sinh, rồi dần dần mở rộng tầm hoạt động

ra các tỉnh khác ở Nam Kỳ.

Hòa thượng còn hiểu biết nhiều về Nho học, đã đi đến nhiều nơi và giao

thiệp rộng với các nhân sĩ, trí thức, cư sĩ Phật giáo, đặc biệt sống gần gũi với quần

chúng tín đồ nên Hòa thượng có sự hiểu biết sâu sắc về đời sống của nhân dân,

nguyện vọng, ước mơ của họ cùng tình hình xã hội của Nam Kỳ trong những thập

niên đầu TK.XX. Từ đó, Hòa thượng cùng với một số nhà sư có tinh thần yêu nước,

tiến bộ như HT. Huệ Quang, sư Thiện Chiếu… tiến hành một cuộc vận động Chấn

34

hưng đạo Phật. Chính Hòa thượng là người sáng lập Hội Nam Kỳ nghiên cứu Phật

học và quy tụ nhiều vị cao tăng, nhân sĩ Phật giáo có tiếng tăm lúc bấy giờ.

Từ năm 1930, Hòa thượng được bầu làm Hội trưởng Hội Nam Kỳ nghiên

cứu Phật học, chủ bút tạp chí Từ bi âm kiêm Giám đốc Phật học tùng thư và là

người lãnh đạo tinh thần có uy tín lớn đối với Phật tử Nam Kỳ và Trung Kỳ. Cũng

trong khoảng thời gian này, Hòa thượng đã đi đến nhiều nơi để vận động đổi mới

hoạt động của đạo Phật. Về Trà Vinh, Hòa thượng cùng HT. Huệ Quang thành lập

Hội Lưỡng Xuyên Phật học và xuất bản tạp chí Duy tâm Phật học.

Khi Cách mạng tháng Tám 1945 bùng nổ, Hòa thượng kêu gọi các Phật tử

trong tỉnh và trong miền ủng hộ chính quyền cách mạng, tham gia vào sự nghiệp

xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong buổi đầu độc lập. Cũng trong thời gian này, do

tuổi cao sức yếu, Hòa thượng ở hẳn tại chùa Tiên Linh, ít đi đâu xa. Năm Đinh Hợi

(1947), Hòa thượng lâm bệnh nặng, biết mình không qua khỏi, nên đã cẩn thận sắp

xếp lại những tổ chức trong Phật giáo, căn dặn học trò, tín đồ tham gia phục vụ đạo

pháp và dân tộc rồi từ giã cõi đời ngày 19 tháng 6 năm Đinh Hợi.

Với lòng kính trọng một vị cao tăng uyên thâm về mặt triết học Phật giáo, có

công xây dựng Giáo hội, giàu lòng yêu nước, năm 1951, Hội Tăng già Giáo hội và

Lục hòa Phật tử suy tôn HT. Khánh Hòa làm Tổ của Phật giáo Nam Kỳ. Sinh ra trên

mảnh đất giàu truyền thống yêu nước, HT. Khánh Hòa đã tiếp thu và phát huy tinh

thần đó trong việc tu thân hành đạo một cách tích cực và sáng tạo. Cuộc đời của

Hòa thượng là một tấm gương cao đẹp về tinh thần yêu nước, lòng vị tha cho hàng

vạn tín đồ Phật giáo noi theo.

Ở Nam Kỳ, ngoài HT. Khánh Hòa còn có những Hòa thượng đầy nhiệt huyết

và đã đóng góp công sức không nhỏ cho phong trào Chấn hưng Phật giáo như: HT. Liên Tôn, Bích Liên, Trí Thiền…

Người tiêu biểu trong phong trào Chấn hưng Phật giáo Trung Kỳ là HT. Giác

Tiên. Hòa thượng thế danh là Nguyễn Duy Quyển, sinh năm Canh Thìn, niên hiệu

Tự Ðức đời thứ 33 (1879). Chính quán thuộc làng Giạ Lệ Thượng, xã Thủy Phương,

huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên.

35

Năm 1883, khi Hòa thượng được bốn tuổi thì song thân đều qua đời. Ngài

được ông bà bác đồng tộc đem về nuôi dưỡng. Thấy Hòa thượng có bẩm chất thông

minh nên ông bà cho theo Nho học. Sau một thời gian, nhận thấy giáo lý Phật đà

mới là con đường hướng đến cảnh giải thoát, ngài xin hai bác đi xuất gia đầu Phật.

Năm 11 tuổi, ngài cầu thọ giáo với Tổ Tâm Tịnh và đến tu học tại Tổ đình

Từ Hiếu. Nơi đây, ngài Hải Thiệu đang là trú trì và ngài Tâm Tịnh làm Giám tự.

Năm 14 tuổi, ngài được Tổ Tâm Tịnh cho thọ Sa di. Năm 28 tuổi (1907),

ngài được bổn sư cho đăng đàn thọ Cụ túc giới và đỗ Thủ khoa. Sau khi đắc giới,

ngài vừa chuyên tinh hành trì giới luật và nghiên cứu những bộ kinh cao sâu, vừa

hầu cận bên cạnh sư phụ.

Năm 1913, sư bà Diên Trường xây dựng xong chùa Trúc Lâm ở làng Dương

Xuân Thượng và mời HT. Giác Tiên làm trú trì. Năm 1920, khi HT. Huệ Pháp mở

giảng đường tại chùa Thiên Hưng, HT. Giác Tiên đã cùng các đệ tử đến cầu học.

Năm Giáp tý (1924), đời vua Ðồng Khánh thứ 9, ngài vân tập đại tăng và tổ chức an

cư kiết hạ.

Năm 1925, Hòa thượng nhận được chiếu chỉ của triều đình phong làm trú trì

chùa Diệu Đế. Năm 1928, sau khi trùng tu Phật điện và tăng xá chùa Trúc Lâm,

Hòa thượng mở Phật học đường tại đây. Từ đó, Trúc Lâm thành nơi đào tạo tăng tài

và cũng là khởi điểm đầu tiên cho Ðại học Phật giáo tại cố đô Huế nói riêng và

Trung Kỳ nói chung. Năm Canh Ngọ (1930), ngài khuyến khích và giúp đỡ cho sư

bà Diệu Hương mở ni trường Diệu Ðức.

Năm Tân Mùi (1931), Hòa thượng đứng ra vận động thành lập Hội An Nam

Phật học. Một mình ngài tự đi cung thỉnh chư vị Hòa thượng, Thượng tọa có tài đức

ra chung lo Phật pháp. Năm Quý Dậu (1933), ngài ủy thác cho HT. Mật Khế, vị đệ

tử lớn và xuất sắc nhất của ngài mở một trường Tiểu học Phật học tại chùa Vạn

Phước để cho lớp Sa di của các chùa có nơi đến học.

Ngoài vị đệ tử lớn là HT. Mật Khế, còn có một vị đệ tử lớn thọ tại gia Bồ tát

giới đã theo học với ngài từ năm 1928 là bác sĩ Tâm Minh Lê Ðình Thám. Tâm

Minh vâng lời sư phụ để lo cho Hội An Nam Phật học, lo soạn thảo chương trình

36

giáo dục thanh thiếu nhi và kết hợp thành lập Đoàn Phật tử tinh tấn tu học. Hạnh

nguyện của ngài là làm thế nào để đưa Phật giáo vào lòng dân tộc một cách trong

sáng và hữu hiệu. Tuy nhiên, việc làm vừa mới được một đoạn đường thì ngài thọ

bệnh.

Ngày 15 tháng 11 năm 1936, ngài cho vân tập tăng chúng lại để nghe ngài

giảng kinh Pháp Bảo Ðàn. Hai hôm sau, khi giảng xong phẩm Bát Nhã, ngài đã

nhìn từng vị đệ tử để truyền kệ. Vào lúc 20 giờ ngày 17.11.1936, niên hiệu Bảo Ðại

thứ 11, ngài im lặng và từ từ đi vào cõi tịnh. Ngài thọ thế 57 tuổi.

Chư Tôn đức Tăng già, quần chúng Phật tử và Hội An Nam Phật học tề tựu

về Trúc Lâm Ðại Thánh tự để lo lễ cúng dường cũng như phò nhục thân ngài nhập

bảo tháp rất trọng thể.

Ngài là vị đệ tử xuất sắc nhất của Tổ Tâm Tịnh (Khai sơn Tổ đình Tây Thiên

Di Ðà). Ngài không những là vị xuất trần thượng sĩ, mà còn là một thi sĩ đã để lại

những áng thơ hay, những di bút xuất thần mà các Tổ đình Tường Vân, Từ Quang,

Tra Am v.v.. vẫn còn tôn thờ trong hậu tổ hay nơi chánh điện. Những vị đệ tử xuất

gia của ngài có: Mật Tín, Mật Khế, Mật Hiển, Mật Nguyện, Mật Nhơn, Mật Thể,

Diệu Huệ và Diệu Không. Tại gia thì có: Ðại thần Hồ Ðắc Trung, bác sĩ Tâm Minh

Lê Ðình Thám và bác sĩ Trương Xướng. Những vị ấy đều đóng vai trò quan trọng

trong phong trào Chấn hưng Phật giáo Việt Nam.

Những vị Hòa thượng tiêu biểu cho phong trào Chấn hưng Phật giáo Trung

Kỳ lúc bấy giờ còn có HT. Phước Huệ. Hòa thượng tên đời là Nguyễn Tấn Giao,

sinh năm 1869 tại xã Nhơn Thành, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định. Ngài xuất gia

năm 13 tuổi tại chùa Thập Tháp, theo học với các HT. Châu Long chùa Tịnh Lâm

(Phù Cát), HT. Luật Truyền chùa Từ Quang (Phú Yên). Hòa thượng thọ Đại giới

năm 1889 và đắc pháp năm 1892 cùng với HT. Luật Truyền. Bước đường hoằng

pháp của Hòa thượng bắt đầu từ năm 1894 khi nhận làm trú trì chùa Phổ Quang

(Tuy Phước, Bình Định).

Năm 1901, Hòa thượng được triều đình Huế lúc này là vua Thành Thái ban

giới đao độ điệp làm Tăng cang chùa Thập Tháp. Năm 1908, Hòa thượng được mời

37

ra Kinh đô Huế làm chủ lễ cho một khóa giảng kinh tại chùa Trúc Lâm và được

thỉnh vào Hoàng cung giảng pháp cho vua, quan cùng hoàng gia. Các vua Thành

Thái, Duy Tân, Khải Định đều từng được nghe Hòa thượng giảng kinh và danh hiệu

Quốc sư đã được tôn xưng trong hoàn cảnh này.

Chùa Thập Tháp là một trong số các ngôi Tổ đình nổi tiếng của đất Bình

Định. Nếu như lúc khởi đầu, ngôi Tổ đình ấy được chú ý nhiều do vị khai sơn là HT.

Nguyên Thiều, người có công lớn trong sứ mạng truyền bá Phật giáo ở Đàng Trong

thời Nam Bắc phân tranh, hậu bán thế kỷ XVII; thì vào thời hiện đại, Tổ đình Thập

Tháp được cả nước biết đến vì sự có mặt của Quốc sư Phước Huệ.

Năm 1920, trong ý hướng đào tạo tăng tài cho sứ mạng hoằng dương chính

pháp, HT. Phước Huệ đã đứng ra tổ chức các lớp Phật học tại chùa Thập Tháp và

chùa Long Khánh (Quy Nhơn). Chính trong thời gian này, hai thầy Mật Khế (1904-

1935) và Đôn Hậu (1904-1993) đã vào tận chùa Thập Tháp để cầu học.

Từ năm 1930-1937, Quốc sư Phước Huệ thường xuyên ra kinh đô Huế để

giảng dạy Phật pháp cho các lớp cao đẳng, trung đẳng ở các chùa Trúc Lâm, Tường

Vân, Tây Thiên. Trong số các tăng sĩ từng theo học với Quốc sư, đáng chú ý nhất là

HT. Mật Thể (1912-1961), tác giả sách Việt Nam Phật giáo sử lược. Sách này được

Quốc sư đề tựa bằng chữ Hán.

Từ năm 1938, với cương vị là Đốc giáo của Phật học đường cấp trung đẳng

do Hội Phật học Bình Định tổ chức tại chùa Long Khánh - Quy Nhơn, Quốc sư

Phước Huệ đã đóng góp nhiều cho công tác đào tạo tăng tài. Các HT. Thiện Hòa

(1907-1978), Thiện Hoa (1918-1973) cũng từng theo học tại đây.

Sư bà Thích nữ Diệu Không, trong lời tựa bản dịch kinh Lăng Già tâm ấn

của mình đã nhắc lại kỷ niệm từng theo học với Quốc sư Phước Huệ.

Bộ Lăng Già tâm ấn tôi học theo cách đây hơn ba mươi năm với HT. Thập

Tháp khai dạy ở chùa Trúc Lâm, tỉnh Thừa Thiên vào năm 1932. Lớp Đại

học ấy gồm có các vị Hòa thượng, Thượng tọa và cư sĩ Tâm Minh. Được

dự thính kinh này, tôi như người mê sực tỉnh, nhờ vậy tôi bỏ được cái tập

quán phú quý, ô trược, tiến thân vào con đường đạo [62, tr.7].

38

Nói chung, sự đóng góp lớn lao của Quốc sư Phước Huệ là ở lĩnh vực giảng

dạy, đào tạo lớp hậu học, đúng như nhận xét của Nguyễn Lang: “Khả năng giáo hóa

của HT. Phước Huệ rất vĩ đại, vì vậy người đương thời đã tặng cho ông mỹ hiệu

“Phật pháp thiên lý câu”, nghĩa là “Con ngựa ngàn dặm của Phật pháp” [67, tr.846].

Hòa thượng viên tịch năm 1945 tại chùa Thập Tháp.

Tại Bắc Kỳ, người khởi xướng phong trào Chấn hưng Phật giáo là HT.

Thanh Hanh. Hòa thượng thế danh là Nguyễn Thanh Ðàm, pháp hiệu Thanh Hanh,

sinh năm 1840 trong một gia đình thi lễ tại làng Thanh Liệt, huyện Thanh Trì, tỉnh

Hà Ðông (nay thuộc Hà Nội). Năm lên 7 tuổi, ngài được gia đình cho học chữ Hán.

Nhờ có sẵn thiên tư, lại được cha rèn thầy dạy, nên việc học của ngài tiến bộ nhanh

chóng.

Năm lên 10 tuổi (1850), ngài đã đến xuất gia với vị Hòa thượng họ Nguyễn ở

chùa Hòe Nhai - Hà Nội. Năm 18 tuổi (1858), ngài được về chùa Vĩnh Nghiêm, tỉnh

Bắc Giang, tiếp tục tu học dưới sự chỉ dẫn của HT. Tâm Viên. Năm 20 tuổi (1860),

ngài thọ Cụ túc giới tại Ðại giới đàn chùa Vĩnh Nghiêm. Sau đó ngài vẫn tiếp tục ở

lại chùa tu hành nghiên cứu giáo lý. Ngài tu học rất tinh tấn và trở thành một nhân

vật rường cột của Tổ đình này.

Năm 30 tuổi (1870), ngài được cử vào tỉnh Ninh Bình giảng dạy Phật pháp

cho tăng ni ở các chùa: Phượng Ban, Hoàng Kim, Phúc Tỉnh v.v.. Ðến chỗ nào,

ngài cũng chỉ thiết tha một niềm: lấy việc hoằng dương chính pháp, giáo hóa tăng ni

làm phận sự. Ngài luôn tâm niệm làm mọi việc lợi lạc cho tín đồ là sứ mệnh của

người xuất gia và thời gian làm Pháp sư truyền đạo ròng rã là 30 năm. Tăng ni và

thập phương thiện tín, ai cũng được thấm nhuần Phật pháp do ngài truyền trao.

Năm Canh Tý (1900), lúc ngài 60 tuổi, sư huynh của ngài là HT. Thanh

Tuyền viên tịch. Ngài trở về Tổ đình Vĩnh Nghiêm và được sơn môn suy cử vào

ngôi kế đăng. Từ đó tăng chúng và tín đồ thường gọi ngài là Tổ Vĩnh Nghiêm.

Trong cương vị đứng đầu một ngôi Tổ đình lớn vào bậc nhất Bắc Kỳ, công

việc điều hành đa đoan, nhưng ngài vẫn không xao lãng việc hoằng dương chính

pháp, đào tạo tăng tài, bồi dưỡng lớp kế thừa. Ngài thường xuyên lui tới trường

39

Viễn Ðông Bác Cổ ở Hà Nội, tìm tòi tam tạng kinh điển đại thừa, rồi xin phép ban

Giám đốc cho đồ chúng đem bút giấy vào sao chép về cho khắc ván, ấn hành nhiều

bản. Bước đi tiên phong của HT. Thanh Hanh đã tạo nên phong trào các sơn môn

lớn trên đất Bắc đua nhau sao chép và in ấn kinh sách, giúp tăng ni và cư sĩ có tài

liệu Phật học tham cứu. Nhờ đó mà các thiền môn có được những bộ kinh quý hiếm

như kinh Hoa Nghiêm Sớ Tấu, kinh Ðại Bát Nhã, kinh Ðại Bảo Tích, kinh Duy Ma

Cật, kinh Trường A Hàm, luật Tứ Phần Tu Trì, luật Trừng Trị Tục Khắc và các bộ

luận về môn Duy Thức với bộ Phụ Giáo Biên v.v.. Các bộ kinh, luật, luận ấy được

khắc ván và in, đều có mang lời tựa và lời bạt của Hòa thượng.

Hòa thượng luôn quan tâm đến việc Chấn hưng Phật giáo, quy tụ các sơn

môn về một mối. Ngày 05 tháng 12 năm 1934, Hội Phật giáo Bắc Kỳ mới chính

thức được thành lập. Hội đã thỉnh cầu HT. Thanh Hanh làm Thiền gia Pháp chủ.

Tuy tuổi đời lúc đó đã 94, sức khỏe giảm sút nhiều, nhưng vì ước nguyện mấy chục

năm nay của Hòa thượng đã thành sự thật, nên ngài vẫn vui vẻ nhận lãnh nhiệm vụ

nặng nề ấy. Trong lễ suy tôn được tổ chức rất long trọng tại chùa Quán Sứ ngày 23

tháng 12 năm 1934, Hòa thượng đã kêu gọi tăng sĩ theo nguyên tắc lục hòa của Phật

dạy mà bỏ hết những dị biệt của tông nọ phái kia để dốc lòng chấn hưng Phật giáo.

Sau bao năm tận tụy phục vụ Ðạo pháp, Hòa thượng đã đào tạo được nhiều

tăng tài, góp sức cho phong trào Chấn hưng Phật giáo, hòa giải những ý kiến dị biệt,

đưa các sơn môn Bắc Kỳ về chung một mái nhà Phật giáo. Công đức của Hòa

thượng thật vô cùng to lớn. Ngày mồng 8 tháng 12 năm Bính Tý (1936), Hòa

thượng đã viên tịch tại chùa Vĩnh Nghiêm, hưởng thọ 96 tuổi đời, 86 tuổi đạo. Có

thể nói, ý nguyện hòa hợp tăng già, hưng thịnh Phật đạo để làm mẫu mực cho đời

và hy vọng giải thoát chúng sinh của Hòa thượng vẫn còn sáng mãi.

Ngoài Tổ Thanh Hanh, từ 1932 trở đi, ở Bắc Kỳ cũng xuất hiện nhiều bậc

tăng sĩ, cư sĩ đóng góp công sức rất lớn cho phong trào Chấn hưng Phật giáo tại nơi

này, như HT. Tuệ Tạng, Mật Ứng, Tố Liên, Trí Hải... cùng các cư sĩ: Nguyễn Năng

Quốc, Thiều Chửu, Trần Trọng Kim, Nguyễn Can Mộng, Nguyễn Trọng Thuật,

Phan Kế Bính...

40

Tìm hiểu cuộc đời và sự nghiệp của một vài vị Hòa thượng tiêu biểu trong

phong trào Chấn hưng Phật giáo Việt Nam đã cho chúng ta thấy được những cống

hiến, hy sinh cao cả của chư vị Tổ sư nửa đầu TK.XX đối với quá trình phát huy

Phật giáo và duy trì nền hòa bình dân tộc. Họ đã vì lợi ích chung của nhân dân mà

đem cả tinh thần lẫn vật chất của mình để cống hiến, phụng sự cho các Hội Phật

giáo, nhằm tạo điều kiện cho các Hội hoạt động truyền bá chính pháp. Vị nào cũng

đều hết lòng lo xây dựng, mở trường Phật học để đào tạo tăng tài, hun đúc cho thế

hệ tương lai tinh thần vì đạo pháp và dân tộc; đồng thời còn quan tâm in ấn kinh

điển cho quần chúng có cơ hội tiếp cận Phật pháp mà nương theo tu tập, làm mọi

điều lành. Những tấm gương sáng ấy đã tạo nên trang sử huy hoàng của Phật giáo

nửa đầu TK.XX và cả đến ngày nay.

1.2. TÌNH HÌNH BÁO CHÍ PHẬT GIÁO VIỆT NAM TRƢỚC 1945

Báo chí Phật giáo Việt Nam ngay từ những năm đầu của TK.XX chưa xuất

hiện nhiều. Mãi đến khi có phong trào Chấn hưng Phật giáo vào thập niên 1930, báo

chí Phật giáo mới thực sự khai sinh và phát triển. Như nhà nghiên cứu Huỳnh Văn

Tòng đã viết: “Phong trào Chấn hưng Phật giáo với việc thành lập nhiều hội đoàn,

tổ chức nghiên cứu Phật giáo, cũng có những tờ báo riêng như Từ bi âm, Đuốc tuệ,

Đuốc chân lý, v.v.. [116, tr.295].

Vì báo chí Phật giáo là một trong những phương tiện chính yếu làm lan tỏa

tư tưởng chấn hưng Phật giáo, do đó sự phát triển báo chí Phật giáo gắn liền với

diễn trình chấn hưng Phật giáo tại Việt Nam. Những tạp chí Phật giáo lần lượt được

xuất bản, đã đóng góp sức mạnh to lớn cho phong trào Chấn hưng Phật giáo lúc bấy

giờ. Cho nên, khi đề cập đến báo chí Phật giáo, những nhà nghiên cứu đều lấy mốc

thời gian thập niên 1930-1945 làm khởi điểm và phong trào Chấn hưng Phật giáo

Việt Nam làm nền cho hoạt động của báo chí Phật giáo.

Ngoài ra, trong quá trình phục vụ cho việc đẩy mạnh phong trào Chấn hưng

Phật giáo, báo chí Phật giáo còn thực hiện nhiệm vụ hoằng pháp, xây dựng nền văn

học Phật giáo trong văn học chữ Quốc ngữ. Trong giai đoạn này, giáo lý của Đức

Phật được những học giả, nhà nghiên cứu quan tâm truyền bá bằng chữ Quốc ngữ

và thậm chí tranh luận rất nhiều trên diễn đàn ngôn luận.

41

Lịch sử cho thấy, từ sau năm 1929, các Hội nghiên cứu Phật học từ ba miền:

Nam Kỳ, Trung Kỳ và Bắc Kỳ tiếp nối ra đời, nhằm tu chỉnh những sai lạc trong

Phật giáo, do hoàn cảnh lịch sử dưới chế độ thực dân Pháp tạo nên. Ngôn luận cho

các Hội Phật học chính là những tờ báo Phật giáo. Lịch sử ra đời và quá trình tiến

triển của báo chí Phật giáo lúc này quả thật có ý nghĩa, đã kịp thời nói lên được

phần nào giáo nghĩa tích cực, truyền thống tốt đẹp của Phật giáo và dân tộc, góp

phần vào công cuộc đấu tranh giành độc lập cho Tổ quốc Việt Nam.

1.2.1. Báo chí Phật giáo ở Nam Kỳ

Năm 1929, HT. Khánh Hòa kết hợp với HT. Huệ Quang, Từ Nhẫn, Chơn

Huệ và Thiện Chiếu đã vận động giới cư sĩ hữu tâm cho ấn hành tạp chí Pháp âm,

với số đầu ra ngày 31.8.1929. Trụ sở tạp chí đặt tại chùa Xoài Hột (Mỹ Tho) và

được sự ủng hộ, đóng góp của Phật tử tại chùa. Đây là tạp chí Phật giáo đầu tiên

bằng chữ Quốc ngữ, mục đích chính là kêu gọi tăng ni đoàn kết chấn hưng, học

Quốc ngữ để giải quyết nạn thất học trong tăng già.

Nội dung tạp chí gồm có 9 yếu mục. Mục đầu tiên là những lời bày tỏ và lời

kêu gọi Phật tử tham gia viết bài, ủng hộ tài chính để tổ chức Thư xã và thành lập

Phật học viện để giảng dạy giáo lý. Những mục tiếp theo nói về Phật học, Phật giả,

Tự trần, Những điều cần thiết cho người tại gia tín ngưỡng Phật giáo, Phật giáo

luân lý học, Ai tri âm đó biết cho ai, Văn uyển và mục cuối cùng là hành trình nhựt

ký. Đặc biệt, thông qua mục Tự trần của HT. Khánh Hòa, giúp chúng ta hiểu được

những thông tin về đường hướng chấn hưng Phật giáo ở Nam Kỳ lúc giờ. Pháp âm

chỉ ra được một số duy nhất thì đình bản.

Ngay sau đó, Thiện Chiếu đã vận động xuất bản một tạp chí khác lấy tên là

Phật hóa Tân Thanh niên, nhắm tới giới thanh niên trí thức. Nội dung trong tạp chí

này gồm tám “yếu mục”: Ai là người lo đời thương đời muốn làm việc cho đời?,

Nước ta ngày nay cần phải chấn hưng Phật giáo, Kính cáo các sư cụ, Kính cáo các

tín đồ, Phật học vấn đáp, Bài diễn thuyết của ông Lương Khải Siêu tại Phật giáo

tổng hội nước Tàu, Một buổi hội nghị tại chùa Linh Sơn, Chương trình chùa của

“Phật hóa Tân Thanh niên” sẽ lập. Cụ thể, bài viết của tác giả Huệ Thanh về Một

42

buổi hội nghị tại chùa Linh Sơn đã giúp chúng ta phỏng đoán được có lẽ tạp chí

Phật hóa Tân Thanh niên ra đời trong khoảng tháng 10 hay tháng 11 năm 1929.

Tuy nhiên, thật đáng tiếc, tạp chí tiếp sức cho Pháp âm cũng chỉ mới ra được

một số thì bị đình bản vì lý do tài chính.

Kế đến, Hội Nam Kỳ Nghiên cứu Phật học xuất bản tạp chí Từ bi âm, ra số

đầu tiên ngày 01.01.1932 do HT. Khánh Hòa làm chủ nhiệm, HT. Bích Liên làm

chủ bút, Đại đức Liên Tôn làm phó chủ bút. Trụ sở đặt tại chùa Linh Sơn, số 149

đường Douaumont (ngày nay là đường Cô Giang, Quận 1, TP. Hồ Chí Minh).

Nội dung trong Từ bi âm ở hai số đầu tiên gồm 7 yếu mục, nhưng từ số 3 trở

về sau hầu như đề cập đến 8 yếu mục, có số lên đến 9, 10 yếu mục. Tuy nhiên, nội

dung đều xoay quanh các chủ đề: Luận về triết lý Phật giáo, Phật pháp căn bản,

phiên dịch kinh Phật, lịch sử Phật Thích Ca và chư vị Bồ tát, thời sự, chuyện vui,

tiểu thuyết và văn uyển.

Chủ đề Luận về triết lý Phật giáo chủ yếu đăng những bài triết lý Phật giáo

qua nhân sinh quan và vũ trụ quan; những bài giải nghĩa về lời Phật dạy, nhằm giúp

tín đồ nắm bắt được giáo lý đạo Phật từ cơ bản đến nâng cao. Mục Thời sự phê phán

nhiều đến việc mê tín dị đoan, hướng cho quần chúng nhân dân đi đúng con đường

chính pháp của Phật. Mục Văn uyển đa phần đăng các sáng tác thơ, thỉnh thoảng có

những bài ca, phú... Nói chung đều hướng về mục tiêu khuyến thiện, hướng con

người sống theo tinh thần đạo đức Phật giáo.

Những tác giả đầu đóng góp nhiều công sức cho tạp chí Từ bi âm trong thời

kỳ đầu có: HT. Giác Nhiên, Bích Liên, Trí Độ, Liên Tôn, Thiện Dụng, Giác Nhựt,

Nhựt Chánh... Sau này có thêm sự cộng tác của thầy Thiện Minh, sư cô Diệu Minh,

Giảng Trai, Đạo Tế, Kim Xuân, Chánh Niệm, Nguyên Bản v.v..

Từ bi âm được xem là diễn đàn đầu tiên có sự góp mặt của Ni giới. Các tác

giả và tác phẩm tiêu biểu: Ni sư Diệu Tịnh với các Lời than phiền của mộ cô vãi (số

27), Cái án nguỵ truyền Chánh pháp (số 73), Ni sư Diệu Ngôn đóng góp bài Đối

với nữ lưu hiện thời - chị em chúng ta có nên ghé mắt đến không (số 100), sư cô

Diệu Tu với bài Đôi lời thỏ thẻ (110), sư cô Diệu Minh với bài Bàn về vấn đề hoằng

43

dương Phật pháp về bên nữ giới (số 115, 116, 117). Thông qua các bài viết, các tác

giả kêu gọi chấn hưng Ni giới, đấu tranh cho sự bình đẳng của nữ giới trong xã hội.

Sau khi HT. Khánh Hòa thôi làm chủ nhiệm, Từ bi âm không còn giữ được

tôn chỉ, mục đích đã đề ra. Số mục, số trang giảm dần, số người viết bài cũng ít, có

lúc hai tháng mới xuất bản một kỳ. Từ đó, Trần Nguyên Chấn lấy Từ bi âm làm

diễn đàn để công kích các tổ chức khác như Hội Phật học Kiêm Tế, Hội Lưỡng

Xuyên Phật học… Về sau, HT. Chánh Tâm ở chùa Thiên Phước, quận Trà Ôn được

mời giữ chức chủ nhiệm Từ bi âm. Nhờ sự hợp tác của HT. Bích Liên và Liên Tôn

mà Từ bi âm đã được duy trì liên tục mười năm và đóng góp đáng kể trong vai trò

hoằng pháp của mình, đồng thời thành công trong việc phổ thông hóa Phật học bằng

chữ Quốc ngữ. Tạp chí đình bản vào tháng 8 năm 1945.

Tháng 10 năm 1935, Hội Lưỡng Xuyên Phật học cho ra mắt Duy tâm Phật

học, do Huệ Quang làm chủ nhiệm và bác sĩ Nguyễn Văn Khỏe làm quản lý. Tòa

soạn được đặt tại chùa Long Phước. Đến số 13, ra tháng 10 năm 1936, Duy tâm

Phật học đổi thành tạp chí Duy tâm Phật học [Phụ lục 1, tr.227]. Điểm nổi bật của

Duy tâm Phật học là bên cạnh những bài viết về ni giới, tạp chí có nhiều bài viết

góp phần vào việc Chấn hưng Phật giáo: Thích tử Thiện Quả với bài Luận về Chấn

hưng Phật giáo, Lê Văn Xuân với bài Chấn hưng và tương lai Phật giáo; Nguyễn

Văn Khỏe với bài Phật giáo vì sao phải chấn hưng...

Vì lúc bấy giờ phong trào Phật học lan rộng nhiều nơi, nên báo Lục tỉnh tân

văn tại Sài Gòn cũng mở “Trang Phật học”. Vì vậy mà tạp chí Duy tâm Phật học

cũng thường lên tiếng kêu gọi thành lập một Phật giáo Tổng hội để thống nhất tổ

chức Phật giáo Việt Nam.

Thế là từ cuối năm 1937 trở đi, trong số nào tạp chí Duy tâm Phật học cũng

cho đăng bài viết bàn về vấn đề thành lập Tổng hội Phật giáo, nhưng vì mối liên hệ

giữa Hội Lưỡng Xuyên Phật học và Nam Kỳ Nghiên cứu Phật học không được tốt

đẹp, nên tạp chí có lần bị kích bác. Tuy nhiên, Duy tâm Phật học vẫn là tạp chí tạo

được nhiều uy tín trong giới Phật giáo miền Hậu Giang với các cây bút nổi tiếng

như: HT. Khánh Hòa, Huệ Quang, Võ Khánh Anh; Tỳ kheo Thích Mật Thể, Trần

44

Huỳnh, Việt Liên Tử, Trần Văn Giác, Nguyễn Văn Khỏe… Tạp chí xuất bản đến số

53-54 ra ngày 6.7.1943 là số cuối cùng, sau đó phải đình bản vì không có giấy in.

Có thể nói, Duy tâm Phật học là tạp chí tiêu biểu của Phật giáo Nam Kỳ, đã

có những đóng góp xứng đáng cho việc truyền bá Phật pháp. Cụ thể, tạp chí đã hỗ

trợ cho Hội Lưỡng Xuyên Phật học đào tạo nhiều tăng tài cho các thế hệ sau.

Từ khi Hội Phật học Kiêm Tế thành lập năm 1936 đến đầu năm 1938 đã cho

ra đời tạp chí Tiến hóa, do Phan Thanh Hà làm chủ bút, Đỗ Kiết Triệu làm chủ

nhiệm, sư Thiện Chiếu làm cố vấn. Tạp chí là cơ quan truyền bá Phật pháp và cứu

tế xã hội của Hội.

“Tạp chí Tiến Hoá số ra mắt đã đăng hình cô nhi viện Kiêm Tế, một cô nhi

viện có thể gọi là cô nhi viện Phật giáo đầu tiên tại Việt Nam tổ chức theo kiểu Tây

phương. Tiến Hoá số 1 cũng đăng hình (chụp ngày 26.9.1937) Hội Phật học Kiêm

tế cứu trợ nạn nhân bão lụt tại Rạch Giá và cho biết rằng hội đã nuôi ăn từ 200 đến

300 nạn nhân bão lụt tại trụ sở của hội trong thời gian hai tháng” [34, tr. 91].

Điều này cho thấy Hội Phật học Kiêm Tế đã thực hiện đúng phương châm

“lời nói đi đôi với việc làm”, tức là Hội đã thực hiện bằng hành động cụ thể, nhằm

giúp người, giúp xã hội ngày một tiến triển tốt đẹp.

Với chí hướng học theo cách hoạt động tôn giáo của các nước trên thế giới,

Tiến hóa đã đưa ra nhiều quan niệm táo bạo về việc cải cách Phật giáo, phê bình lối

“đầu tròn áo vuông” trong hình tướng của người xuất gia:

Cải cách tăng già (tăng ni bình đẳng): Về mặt tinh thần, tăng già đã nhờ có

nền giáo dục phổ thông ở các trường sơ đẳng của nhà chùa, sau nầy ai

muốn học những chức nghiệp chuyên môn như canh nông hoặc kỹ nghệ,

hoặc muốn đeo đuổi đến bực trung học hoặc cao đẳng thì cũng học ở các

trường nhà nước. Còn về mặt hình thức? Cứ phải “đầu trọc áo vuông” hay

phải cải cách một cách triệt để?... [L, số 3, tr. 67-69].

Tiến hóa còn có nhận định rằng Đức Phật không phải là bậc sáng suốt hoàn

toàn trong mọi thời đại. Ngoài những điều đúc kết, răn dạy của nhà Phật, con người

cần có những hiểu biết về khoa học trong thời đại mà mình đang sống. Tiến hóa

45

cũng ca ngợi tinh thần vô úy của các tăng sĩ Trung Quốc gia nhập quân đội kháng

Nhật và kêu gọi Phật tử Việt Nam cũng phải hăng hái nhập thế trong tinh thần ấy.

Các nhà nghiên cứu cho rằng nội dung Tiến hóa phản ánh quan điểm của sư

Thiện Chiếu là chính. Có lẽ sư Thiện Chiếu chịu ảnh hưởng tư tưởng ban đầu của

Đại sư Thái Hư, và khi đã chấp nhận ảnh hưởng đó, ông vạch cho mình một con

đường thẳng. Ông cũng không theo dõi để thấy rằng từ sau thập niên 1920, chính

Đại sư Thái Hư đã nhìn nhận có lúc mình quá cực đoan và trở lại với lối trung đạo

của nhà Phật. Từ đó, các nhà nghiên cứu kết luận do gốc rễ Phật học của các nhà lý

thuyết trong Hội Phật học Kiêm Tế chưa sâu vững.

Tiến hóa xuất bản mỗi tháng một số. Nội dung thể hiện các tiêu đề Xã luận,

Phê bình, Nghiên cứu Phật học và Triết học, Bách khoa thưởng thức, Tin thế giới...

Tiến hóa mang màu sắc vận động chính trị chống Pháp, mặc dù các bài đều

viết về chủ đề Phật giáo nhưng bên trong chứa đựng những ý tưởng cách mạng.

Tiến hóa còn kêu gọi xây dựng xã hội, là một việc làm mà các báo chí Phật giáo

thời đó ít đề cập đến.

Tiến hóa tuyên bố đình bản năm 1941. Nguyên nhân là do các nhân vật chủ

chốt của Hội như “HT. Trí Thiền, sư Thành Đạo, một số cư sĩ trong Ban Biên tập và

cây bút chủ lực là Thiện Chiếu bị bắt hoặc có người bị cầm tù vì tham gia khởi

nghĩa Nam Kỳ, nên Hội Phật học Kiêm Tế cũng bị tan rã” [34, 98].

Báo chí ở Nam Kỳ còn có sự hiện diện của Bồ đề tạp chí, xuất bản số đầu

tiên vào ngày 15.8.1936 tại Sóc Trăng, do HT. Phước Chí làm Tổng Biên tập. Tạp

chí là cơ quan truyền bá của Hội Phật học Tương Tế, sáng lập ngày 11.6.1934. Hội

quán đặt tại chùa Thiên Phước, quận Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng. Tạp chí Bồ đề mỗi

tháng xuất bản được một số. Nội dung chủ yếu đề cập mảng Phật học và phụ trương

các tiêu đề diễn đàn, xã luận... tạp chí cho biết:

Mục đích của tạp chí này, nguyện đem hết năng lực mà tuyên truyền chủ

nghĩa của Phật giáo cho xứng với thời cơ, hiệp với chân lý, cho quý vị

thiện tín rõ được lý thuyết trong Tam tạng giáo hải của Phật tổ ban truyền,

46

hầu một ngày kia chứng được nhất chân pháp giới… Vả lại, Bồ đề tạp chí

này cốt để phổ thông chánh giáo và bảo tồn trường Phật học [H, số 1, tr.1].

Ngày 15.3.1936, Hội Thiên Thai Thiền giáo tông xuất bản tạp chí Bát nhã

âm, tòa soạn đặt tại chùa Thiên Bửu (Thiên Thai), tỉnh Bà Rịa, do Đỗ Phước Tâm

làm chủ nhiệm. Bát nhã âm là cơ quan truyền bá Phật pháp của Thiên Thai Thiền

giáo tông, xuất bản vào ngày 15 mỗi tháng. Bên cạnh những bài viết mang nội dung

Chấn hưng Phật giáo, tạp chí chủ yếu chuyển tải những giáo pháp, bài thơ mang ý

nghĩa khuyến tấn người bỏ ác làm lành, xây dựng nền đạo đức Phật giáo tiến bộ.

Cuối năm 1943, Bát nhã âm đình bản do không có giấy in.

Hưởng ứng phong trào Chấn hưng Phật học, ở Nam Kỳ còn xuất hiện Tịnh

Độ Cư sĩ Phật hội. Hội đã cho xuất bản tạp chí Pháp âm Phật học vào tháng 1.1937

để làm phương tiện truyền bá. Chủ nhiệm là ông Lê Văn Hậu, chủ bút là cư sĩ Trần

Huỳnh.

Pháp âm Phật học chủ trương chấn hưng Phật giáo, “lên án chiến tranh”, tôn

trọng hiện tại. Ngay từ lúc thành lập, tạp chí đã có sự cộng tác của nhiều cây bút

tiến bộ như Trần Huỳnh, Phan Hiển Đạo, Phạm Đình Vinh…

Tạp chí Pháp âm Phật học được xem là một tờ báo tiến bộ nhưng nó cũng có

phần cực đoan. “Từ số 7 ra tháng 7 năm 1937 Pháp âm ủng hộ lập trường của Thiện

Chiếu và bắt đầu công kích đường lối phục hưng của các tổ chức Phật giáo lúc bấy

giờ. Từ số 13 trở đi, Pháp âm lên tiếng ủng hộ lập trường thiên tả của Tiến hóa,

“hết sức ủng hộ việc bỏ cái lối đầu trọc áo vuông” do Tiến hóa đề nghị” [34, tr. 79].

Về lý luận, Pháp âm Phật học kêu gọi thủ tiêu hết các chế độ tài sản tư hữu

mới có thể tạo được tinh thần vô ngã của nhà Phật một cách hữu hiệu. Tình hình

kinh tế khó khăn, độc giả Pháp âm Phật học ngày một ít đi. Tạp chí xuất bản thưa

dần, không đủ điều kiện xuất bản phải tự đình bản vào tháng 8 năm 1938.

Ngày 18.12.1941, tạp chí Phật pháp chỉ Niết bàn xuất bản số đầu tiên tại Sài

Gòn, do Hồ Ngọc Sung làm Tổng Biên tập. Khuynh hướng chính của tạp chí cũng

nhằm để truyền bá Phật pháp: “Chúng tôi có lòng sùng tu Phật pháp nên mới xây

dựng ra tạp chí Phật pháp chỉ Niết bàn, đem ra chơn lý của Phật pháp thuở xưa, là

47

một cái nền văn chương cũ phô bày chỗ hay, chỗ khéo, văn xưa cũng có giá trị vậy.

Chúng tôi muốn cống hiến cho đời đặng mà diệt lần các thống khổ ưu sầu, thảm não

của mỗi người…” [N, số 1, tr.1].

Có thể nói, cho đến năm 1945, riêng ở Nam Kỳ đã có 9 tạp chí ra đời - một

số lượng không nhỏ. Nội dung chủ yếu là cổ xúy phong trào Chấn hưng Phật giáo

và thể hiện tinh thần yêu nước, giải phóng dân tộc. Từ mục tiêu đó, các tạp chí liên

tục đăng tải những bài Phật học từ căn bản đến nâng cao, lý giải những triết lý thực

tế và khoa học của đạo Phật nhằm bài trừ mê tín dị đoan v.v.. Đồng thời còn đăng

những tin tức xã hội trong và ngoài nước để giúp cho tín đồ hiểu thêm về thời cuộc

cũng như hun đúc tinh thần yêu quê hương, đất nước. Như vậy, sự ra đời của báo

chí Phật giáo ở Nam Kỳ trong giai đoạn này, quả thật đã đóng góp công sức rất lớn

cho phong trào Chấn hưng Phật giáo và sự nghiệp giải phóng dân tộc.

1.2.2. Báo chí Phật giáo ở Trung Kỳ

Trước phong trào sôi nổi của các tạp chí Phật giáo ở Nam Kỳ, ngày

1.12.1933, ở Trung Kỳ, Hội An Nam Phật học đã xuất bản tạp chí Viên âm. Tòa

soạn đặt tại số 113 đường Champeau - Huế (nay là số 5, đường Hà Nội). Trong thời

gian đầu, Lê Đình Thám đảm nhiệm chức vụ hội trưởng, nhưng sau đó Nguyễn

Khoa Tân, Ưng Bàng v.v.. đã thay nhau làm Hội trưởng. Lê Đình Thám lúc này

đảm nhiệm phần chủ bút, chuyên lo kiểm duyệt các bài giáo lý. Cho nên có thể nói,

ông là linh hồn của tạp chí Viên âm.

Phần nội dung, trong hai số đầu tiên, tạp chí chỉ đề cập đến bốn mục chính:

Như thị pháp, Biệt khai phương tiện, Sự tích và Tiêu tức. Nhưng từ số 3 trở về sau,

tạp chí đã tăng cường thêm mục thứ năm là Quyển đầu ngữ. Tiêu đề năm mục lớn

này được duy trì xuyên suốt, không thay đổi.

Quyển đầu ngữ chuyển tải những giáo pháp căn bản về đạo Phật. Như thị

pháp thì giải nghĩa về Luận, diễn đàn, chư kinh giảng nghĩa… Mục Biệt khai

phương tiện đăng lại những bài pháp đã được các thầy thuyết giảng tại các đạo tràng,

triển khai phần Phật học dị giải và đăng thơ ca, truyện mang nội dung chuyển tải

giáo lý nhà Phật. Mục Sự tích thì chủ yếu đăng nhiều kỳ về sự tích Đức Phật Thích

48

Ca cùng chư vị Bồ tát. Mục Tiêu tức đăng những tin tức Phật sự các chùa, các Hội

Phật học… cũng như thư từ hỏi đáp giữa người đọc và tạp chí Viên âm.

Những tác giả chủ lực ban đầu giúp duy trì Viên âm có Thích Mật Khế,

Thích Giác Nhiên, Tâm Minh Lê Đình Thám, Chỉnh Túc... Mỗi người đều phụ trách

một mảng khác nhau trên tạp chí.

Trong các số đầu của Viên âm, ở mục Biệt khai phương tiện, Lê Đình Thám

đã viết truyện ngắn (lấy tên T.M), truyện dài (lấy tên Châu Hải) và cả truyện hài

hước (lấy tên Ba Rảm) trong tiểu mục Phiền não tức Bồ đề. Nhưng từ số 4 trở đi, vì

muốn tăng cường thêm giáo lý, ông đã giảm bớt phần truyện, chỉ giữ lại tiểu mục

Phiền não tức Bồ đề, đồng thời ông cũng viết thêm những bài Phật pháp bằng Pháp

văn trên Viên âm, nhằm chuyển tải đạo lý đến nhiều người đọc.

Viên âm được xem là một tạp chí có nhiều nhà biện tài như Lê Đình Thám,

Nguyễn Xuân Thanh v.v.. đã mạnh dạng đối chất với các học giả đương ở các tạp

chí Phật giáo khác. Đặc biệt, Nguyễn Xuân Thanh đã góp phần mở ra hướng đi tích

cực cho Phật giáo đối với thế hệ trẻ. Ông cho rằng đạo Phật có thể trui luyện cho

con người một tinh thần tự lập, bền chí, biết hy sinh và thanh niên của đạo Phật là

những người biết phát bồ đề tâm, nên có thể thực hiện được tinh thần ấy. Ông còn

đăng nhiều bài viết chứng minh Phật học rất cần thiết để bổ túc cho khoa học.

Từ số 48 trở đi, do có sự tham gia của thành viên Đoàn Phật học Đức Dục,

cụ thể là Võ Văn Cường với bài viết “Tâm hồn dân tộc Việt Nam với Phật giáo” và

bài viết bằng tiếng pháp “Thực hành thiền” (Practique de la Méditation) đã giúp cho

Viên âm thêm phần khởi sắc. Từ đó, rất nhiều đoàn viên của Đoàn Phật học Đức

Dục như: Lê Hữu Hoài, Phạm Hữu Bình, Lê Bối, Trần Đỗ Cung, Ngô Điền,

Nguyễn Năng Viên, Nguyễn Hữu Quán, Võ Đình Cường, Đinh Văn Vinh, Ngô Đồi,

Nguyễn Duy Như, Hoàng Kim Hải, Trực Hiên, Phạm Văn Quang, Phan Văn Hùng,

Hướng Trai… đã đóng góp bài thường xuyên cho Viên âm.

Về sau, thấy Đoàn Phật học Đức Dục làm việc có nhiệt tâm với Phật pháp và

đạt hiệu quả cao, Lê Đình Thám đã giao cho Đoàn việc biên tập Viên âm và sử dụng

tạp chí này để trẻ hóa đội ngũ Phật tử. Hầu hết mọi bài vở đều do các đoàn viên

49

trong Đoàn viết với lối cách tân, súc tích, giúp người đọc dễ tiếp thu và nội dung

chủ yếu hướng về tuổi trẻ.

Tạp chí Viên âm được truyền bá rộng rãi ra các tỉnh thành như Hà Nội, Sài

Gòn... đã giúp cho việc hoằng pháp càng được phổ biến nhanh hơn. Từ năm 1943,

do gặp khó khăn về giấy, Tâm Minh Lê Đình Thám đã nhờ Thiều Chửu ở Hà Nội

giúp đỡ, nên từ đó việc in ấn Viên âm là do nhà in Đuốc Tuệ của Hội Phật giáo Bắc

Kỳ đảm nhận. Kể từ ngày ra số đầu tiên đến ngày đình bản vào tháng 8 năm 1945,

Viên âm đã ra được 78 số, trong đó có những số ghép, tức là hai tháng xuất bản một

lần (số 55-56, 60-61, 75-76).

Có thể nói, Viên âm là cơ quan ngôn luận chính của chư sơn môn Trung Kỳ

và Hội An Nam Phật học. Viên âm đã quy tụ được những cây bút sắc sảo, đưa ra

những luận cứ sắc bén và đặc biệt là có những chương trình hoạt động thiết thực.

Năm 1937, tiếp nối có tạp chí Tam bảo (Ngoài bìa ghi là Tam bảo chí, nhưng

bên trong ghi Tam bảo tạp chí) [Phụ lục 1, tr.231] được xuất bản, do HT. Trí Hải,

chùa Bích Liên, Bình Định làm chủ bút. HT. Giác Chánh, chùa Giác Phong, Quảng

Trị làm phó chủ bút. Ông Trần Văn Uyển làm chủ nhiệm. Tạp chí Tam bảo là cơ

quan truyền bá phong trào Chấn hưng Phật giáo của Hội Đà Thành Phật học tại Đà

Nẵng.

Đầu tiên, Tam bảo ra mỗi tháng một số, sau đó hai tháng, ba tháng ra một số,

số trang cũng giảm từ khoảng 60 trang lúc đầu xuống còn 50 trang. Nội dung chủ

yếu trong Tam bảo tạp chí thường gồm 7 đến 9 yếu mục: Phật học vấn đáp, Phật

giáo sử lược, Luận về vấn đề lập chương trình tổ chức Hội Việt Nam Phật giáo liên

hiệp, Kinh diễn nghĩa, Diễn đàn, Truyện cao tăng Việt Nam, tin tức, văn uyển...

Với Hội Phật giáo liên hiệp thống nhất, Tam bảo đề nghị tổ chức hai cơ quan:

cơ quan Hoằng Pháp do chư tăng chủ động, gồm có các trách vụ nghi lễ, tổ chức,

truyền bá và giáo dục. Cơ quan Hộ Pháp do cư sĩ phụ trách, gồm các trách vụ cứu tế,

ngoại giao, kiểm sát, kiến trúc và kinh tế.

Cũng giống như Viên âm, đội ngũ cộng tác ngày một thưa dần, điều kiện

kinh tế khó khăn, Tam bảo phải đình bản vào giữa năm 1938.

50

Nhìn chung, so với Nam Kỳ thì số lượng tạp chí của Trung Kỳ không nhiều,

chỉ có hai tờ là Viên âm và Tam bảo. Tuy nhiên, đây là những tạp chí chủ lực của

Trung Kỳ, đồng thời cũng là những tạp chí tiêu biểu của báo chí Phật giáo Việt

Nam giai đoạn này.

1.2.3. Báo chí Phật giáo ở Bắc Kỳ

Nhằm đẩy mạnh phong trào Chấn hưng Phật giáo ở Bắc Kỳ, các Hội Phật

học ở đây cũng đã quan tâm rất nhiều đến việc xuất bản báo chí Phật giáo.

Trong lúc tuần báo Đuốc tuệ còn đang chuẩn bị ra mắt thì HT. Thanh Thao,

trú trì chùa Linh Quang (Bà Đá) đã cho phát hành số đầu tiên của tạp chí Tiếng

chuông sớm vào ngày 15.6.1935 do chính ngài làm chủ nhiệm, HT. Thanh Tường,

trú trì chùa Trầm ở Hà Đông, chùa Vũ Thạch ở Hà Nội và HT. Đặng Văn Lợi, tăng

trưởng chùa Trấn Quốc làm quản lý. HT. Bảo Giám (Bùi Xuân Dục), trú trì chùa

Đông Lâm ở Bắc Ninh làm chủ bút. HT. Xuân Lan (Nguyễn Quang Độ), trú trì chùa

Bảo Phúc ở Hà Đông làm phó chủ bút.

HT. Thanh Tường mời được nhiều vị cao tăng làm cố vấn và nhiều danh sĩ

viết bài cho Tiếng chuông sớm. Số ra mắt của tạp chí Tiếng chuông sớm đăng bài

Tình hình Phật giáo trong nước của ký giả H.S đã nhắc đến công trình chấn hưng

Phật giáo ở Nam Kỳ, Trung Kỳ và sự thành lập Hội Phật giáo Bắc Kỳ tại chùa Quán

Sứ với ý mỉa mai, đã gây được tiếng vang trong giới Phật học, khiến Hội Phật giáo

Bắc Kỳ không vui: “Hiện nay nhờ thế lực của các quan đại thần và của các bậc

thượng lưu, hội đã lan ra hầu khắp Bắc Kỳ, đâu đâu cũng có chi bộ, lại được Tổ

Vĩnh Nghiêm, một vị trưởng lão trong Tùng Lâm Bắc Kỳ chủ trương mọi việc ở

Hội chính. Tiếng chuông sớm này do Cổ sơn môn Hồng Phúc và Bà Đá cũng xin

góp phần phục vụ...”.

Tuy nhiên, ngài Thanh Hanh mặc dù tuổi đã rất cao, nhưng vẫn khéo léo hòa

giải, khiến các dị biệt lần lần được thay chỗ cho tinh thần cộng tác hòa hợp. Tuần

báo Đuốc tuệ phát hành số đầu tiên vào ngày 10.12.1935, sau đó, Tiếng chuông sớm

số 14 ra ngày 26.12.1935 ngỏ lời chào mừng và đăng bài thể hiện sự hòa giải.

51

Ngoài ra, trong nhiều số của tạp chí Tiếng chuông sớm có dành một chuyên

mục riêng với tên Dư luận, với mục đích là “Hoan nghênh ý kiến các bạn độc giả

đối với việc chấn hưng Phật giáo trong nước” [E, số 16, tr.13]. Từ chuyên mục này

cho thấy Tiếng chuông sớm thường xuyên có những bài viết thảo luận hay công

kích tạp chí Từ bi âm, như trong số 16 ra ngày 14.1.1936, Tiếng chuông sớm đã lên

tiếng công kích: “Ngoài bìa thấy ba chữ “Từ bi âm” mà ở trong thì đem những

chuyện hoang đường, những câu vô lý để bày biện, khích bác. Hình như một cái

trường ngôn luận để phân tranh chuyện phải quấy của người. Vậy thì sai hẳn với tôn

chỉ “Từ bi âm”, trên mặt tạp chí của Hội Nam Kỳ Nghiên cứu Phật học lại còn mất

hết cái giá trị của Hội, còn làm cho mất hết lòng tín ngưỡng của quốc dân”.

Trong số 19, ra ngày 8.3.1936, cũng trong mục Dư luận, Tiếng chuông sớm

đã có ý trao đổi với Từ bi âm về những hoạt động của tạp chí:

Chúng tôi vì công lý mà đăng các bài xét ra có ích cho công chúng, đối với

Hội Nam Kỳ Nghiên cứu Phật học Sài Gòn, chúng tôi rất có lòng liên lạc và

quý mến, lại mong cho được hoàn toàn. Chỉ tiếc không hiểu làm sao Hội

Nam Kỳ Nghiên cứu Phật học ra đời trước có Từ bi âm làm cơ quan, sao

không cổ động cho liên lạc chư sơn lại làm một, để đến nỗi sau này lắm Hội

ra đời, quay ra công kích lại Hội cả.

Tiếng chuông sớm cũng muốn mở rộng và làm phong phú thêm tờ báo nên

đã mời thêm một số nhà văn vào ban biên tập, như Nguyễn Mạnh Bổng và Nguyễn

Trung Như. Tuy nhiên, vì tài chính eo hẹp, nên Tiếng chuông sớm cũng chỉ phát

hành được 24 số, đến cuối tháng 5 năm 1936 thì tạp chí đình bản.

Tạp chí Tiếng chuông sớm ra đời, tuy đóng góp không nhiều cho phong trào

Chấn hưng Phật giáo và cho dân tộc, nhưng nó cũng nhen chút lửa hồng cho đường

lối phát triển Phật giáo, trong tinh thần duy trì truyền thống sinh hoạt cổ điển của

thiền môn.

Năm 1935, báo Đuốc tuệ đã ra đời vào đầu tháng Chạp, do ông Nguyễn

Năng Quốc làm chủ nhiệm. HT. Trung Thứ, trú trì chùa Bằng Sở làm chủ bút. HT.

Doãn Hài (Dương Văn Hiển), trú trì chùa Tế Cát làm phó chủ bút và ông Cung

52

Đình Bính làm quản lý. Trụ sở báo được đặt tại chùa Quán Sứ, đường Richard, Hà

Nội (nay là số 73 phố Quán Sứ, Hà Nội).

Từ năm 1937, tờ báo mỗi tháng xuất bản hai kỳ vào ngày 1 và ngày 15.

Những cây bút như Thái Hòa, Thanh Đặc, Tố Liên, Đỗ Trần Bảo, Phạm Văn Côn,

Đinh Gia Thuyết, Đỗ Đình Nghiêm, Trần Trọng Kim, Bùi Kỷ v.v.. tuy có đóng góp

công sức rất lớn cho báo nhưng có thể nói, chỉ có Đồ Nam Tử Nguyễn Trọng Thuật

và Thiều Chửu Nguyễn Hữu Kha là hai cây bút bền bỉ nhất.

Nội dung Đuốc tuệ xoay quanh các yếu mục: Phật học, Dịch kinh Phật, Lịch

sử Phật giáo, Giới thiệu danh lam thắng cảnh, Tiểu thuyết, Văn uyển, Thời sự trong

và ngoài nước, Phương danh các mạnh thường quân... Tinh thần hoạt động của

Đuốc tuệ cũng hướng về củng cố, phát huy phong trào Chấn hưng Phật giáo. Nhiều

bài viết được đăng với nội dung nhấn mạnh tinh thần “Đạo Phật vì cuộc đời, vì nhân

sinh”, mà không phải là đạo chạy trốn cuộc đời. Điều này thể hiện cụ thể qua bài

viết“Đạo Phật có quan thiết với sự sống của đời người” của Phan Đình Hòe đăng ở

số đầu tiên.

Trưởng ban biên tập đầu tiên của Đuốc tuệ là Trần Trọng Kim. “Trước khi

đến với đạo Phật, ông đã là một học giả uyên bác về sử học và văn học. Tuy mới

tiếp xúc với đạo Phật nhưng ông đã nắm bắt được những điểm cơ bản của giáo lý

nhà Phật và có những bài diễn thuyết nổi tiếng tại chùa Quán Sứ như Phật giáo đối

với cuộc nhân sinh (17.3.1935), Thập nhị nhân duyên (11.1.1936)…” [34, tr. 56].

Ông Nguyễn Trọng Thuật với truyện Cô con gái Phật hái dâu, kể lại cuộc

đời Ỷ Lan, một cô gái thôn quê làm nghề hái dâu ở làng Thổ Lỗi (sau này là làng

Siêu Loại) được vua Lý Thánh Tông chọn làm Nguyên phi. Đây là câu chuyện dài

có tính nghệ thuật cao, được đăng nhiều kỳ trên Đuốc tuệ, với ý nghĩa chính là lấy

tinh thần nhập thế tích cực của đạo Phật để dựng nước và cải tổ những bất công ở xã

hội nông thôn…

Nhờ có nội dung phong phú, Đuốc tuệ được độc giả khắp nơi đón đọc. Ngoài

công việc của nhà Phật, Đuốc tuệ còn góp phần vào việc xây dựng nền văn hóa Việt

Nam mang đậm bản sắc dân tộc.

53

Đuốc tuệ được xem là tờ báo Phật giáo có những đóng góp lớn lao trong việc

hoằng dương Phật pháp về nhiều mặt. Suốt 10 năm hoạt động, Đuốc tuệ đã mang lại

nhiều công trình có giá trị về các mặt khảo cứu, dịch thuật, sáng tác văn học. Mối

quan hệ chặt chẽ giữa Đuốc tuệ với Trường Viễn đông Bác Cổ cũng góp phần quan

trọng giúp Đuốc tuệ giới thiệu với quần chúng những tác phẩm văn học cổ của Phật

giáo Việt Nam.

Tháng 3 năm 1942, HT. Trung Thứ (Phan Trung Thứ) viên tịch. HT. Tế Cát

lên làm chủ bút. Đuốc tuệ vẫn được xuất bản liên tục đến ngày 15.8.1945 mới đình

bản, tổng cộng là 258 số.

Năm 1938, tạp chí Quan âm được xuất bản, do Lương Văn Tuân làm chủ

nhiệm kiêm chủ bút, mỗi tháng ra hai số, trong đó thể hiện được các tiêu chí Xã hội,

Văn hóa, Phật học, Triết học, Văn chương, Quảng cáo... Mặc dù là tạp chí Phật

giáo nhưng các bài viết phần nhiều liên quan đến Khổng giáo và các vấn đề xã hội.

Riêng mảng Tin tức được Quan âm đăng tải liên tục, đáp ứng kịp thời các

nhu cầu thiết yếu trong cuộc sống của xã hội đương thời. Như đưa tin việc có thể

giúp đỡ nhân dân về mặt pháp luật: “Ban cố vấn Pháp luật của Bản báo sẵn lòng

giúp đỡ độc giả dài hạn hầu hết các việc về pháp luật, bất cứ về việc hình hay việc

hộ...” [M, số 23, tr.8].

Với phần Quảng cáo, Quan âm tạp chí thể hiện rất nhiều, vừa tạo điều kiện

cho các nhà doanh nghiệp quảng bá thương hiệu, vừa giới thiệu cho người dân biết

những nhu yếu phẩm trong cuộc sống: “Chè Quan Âm (Hà Nội): Chè Thái Ninh

hiệu Quan Âm là một thứ chè rất thông dụng cho hết thảy các giới sĩ, nông, công,

thương dùng hàng ngày; tiếp khách rất nhã nhặn, vì sắc xanh, mùi thơm, ngọt giọng,

giá lại hạ hơn các thứ chè khác (0$07 một gói)” [M, số 22, tr.10].

Có thể nói, hình thức quảng cáo của tạp chí Quan âm lúc bấy giờ còn giản

đơn, mộc mạc, không có nhiều hình ảnh minh họa, nhưng cũng mang đến thuận lợi

lớn cho xã hội đương thời. Đến ngày 15 tháng 2 năm 1943, tạp chí đình bản.

Ngày 28.6.1945, Hội Phật giáo Bắc Kỳ đã ra số đầu tiên báo Tinh Tiến, phụ

trương của báo Đuốc tuệ, gồm 8 trang, khổ 130 x 190 mm và mỗi tuần xuất bản 3

54

số. Tờ báo này do ông Nguyễn Hữu Kha làm chủ nhiệm, Cung Đình Bính làm quản

lý, chuyên đăng các yếu mục: Giáo lý Đại thừa, Giáo dục, Y tế, Từ thiện và Thời sự.

Tờ báo tuy có ít trang, nhưng được sự cộng tác thường xuyên của Bát Nhã, Tịnh

Như, Thiều Chửu, Lạc Tu, Từ Trai… Tinh tiến ra được 24 số thì đình bản (tháng 9

năm 1945).

Nhìn chung, qua việc tìm hiểu tình hình báo chí Phật giáo trước 1945 cho

thấy báo chí ở Nam Kỳ ra đời sớm nhất và số lượng cũng chiếm nhiều nhất, gồm có

9 tạp chí. Ở Trung Kỳ chỉ có 2 tạp chí, còn Bắc Kỳ thì có 2 tạp chí và 2 tờ báo.

Việc duy trì báo chí Phật giáo ở ba miền đều nhờ vào sự ủng hộ tài chính của

quần chúng Phật tử và nhân sĩ trí thức là chủ yếu. Tài chính từ việc phát hành báo

chí chỉ là phần phụ. Do đó, có một vài tạp chí vì không đủ kinh phí nên phải sớm

đình bản.

Hoạt động của báo chí Phật giáo đương thời đều hướng vào mục tiêu chung

là truyền bá Phật học từ cơ bản đến nâng cao, trao đổi những triết lý Phật giáo và

tuyên truyền tư tưởng chấn hưng Phật giáo nước nhà. Đồng thời báo chí Phật giáo

cũng truyền tải những nội dung và giá trị nghệ thuật của thơ ca, văn xuôi mang tư

tưởng đạo đức, giáo dục Phật giáo.

TIỂU KẾT

Đất nước Việt Nam trong những năm đầu TK.XX dù gặp nhiều biến động về

các mặt từ kinh tế, chính trị đến văn hóa, xã hội nhưng nhờ lòng yêu nước, đoàn kết

của toàn dân và sự đồng hành của đạo Phật nên đã không đánh mất đi linh hồn của

dân tộc. Đặc biệt, sự ra đời của phong trào Chấn hưng Phật giáo, của báo chí Phật

giáo đã góp sức mạnh mẽ cùng dân tộc đứng lên giành lại độc lập, chủ quyền cho

Về báo chí Phật giáo, mặc dù kể từ tháng 8 năm 1945 đã nhất loạt đình bản

dân tộc Việt Nam.

trên toàn quốc, nhưng trước đó là một phong trào sôi nổi, chứa đựng bề sâu tư

tưởng về Phật giáo, làm thăng hoa tinh thần Phật học, góp phần không nhỏ cho

phong trào Chấn hưng Phật giáo nói riêng và việc bảo tồn, phát huy nền văn hóa,

55

văn học đất nước nói chung. Vì vậy, có thể khẳng định rằng báo chí Phật giáo trước

1945 đã thể hiện được đường lối dân tộc và nhân bản của Phật giáo.

Hầu như tạp chí, tờ báo Phật giáo nào cũng nhận được sự cộng tác của nhiều

vị xuất gia, cư sĩ và các văn nghệ sĩ; nội dung phong phú với nhiều đề mục từ Phật

học đến thế học, mang lợi ích thiết thực cho cuộc sống và cho cả phong trào đấu

tranh vì nền hòa bình, độc lập dân tộc. Vì đây là thời kỳ Chấn hưng Phật giáo nên

báo chí đua nhau nở rộ và cũng là dịp để cho những người có tâm thao thức về tiền

đồ của Phật giáo thể hiện những ưu tư, trăn trở của mình. Đặc biệt là dịp tốt để họ

chuyển tải giáo lý Phật giáo và cả những tư tưởng tranh luận, thảo luận về đường

hướng chấn hưng Phật giáo bằng những kinh nghiệm tiếp thu được từ trong kinh

điển và thực tế cuộc sống, nhằm rút ra phương hướng đúng đắn cho con đường phát

triển Phật giáo và dân tộc.

So với Phật giáo và báo chí Phật giáo thời đại ngày nay, chúng ta thấy Phật

giáo và báo chí giai đoạn trước 1945 quả là còn hạn chế nhiều mặt về nội dung. Do

ảnh hưởng chung của xã hội đương thời, nền khoa học công nghệ chưa phát triển

nên báo chí Phật giáo lúc bấy giờ về hình thức trình bày còn sơ sài, không đẹp mắt.

Hơn nữa, vì các Hội cũng như báo chí Phật giáo giai đoạn này tập trung chủ yếu về

vấn đề chấn hưng Phật học, cho nên các tạp chí đã quan tâm đăng nhiều những

chuyên đề về Phật học mà ít quan tâm tới thời sự Phật giáo hoặc các thông tin khác.

Vì vậy, các ấn phẩm đã không được đa dạng để hình thành sự lựa chọn phong phú

cho độc giả.

Tuy nhiên, sự ra đời và hoạt động của báo chí Phật giáo giai đoạn trước 1945

đã làm cho phong trào Chấn hưng Phật giáo trở nên sôi nổi hơn và nung nấu trong

tâm tưởng những tăng ni, cư sĩ và Phật tử một ý thức về sự thống nhất Phật giáo

trên cả nước. Đây chính là thành quả quan trọng của phong trào Chấn hưng Phật

giáo Việt Nam và báo chí Phật giáo đã có những đóng góp tích cực mà theo Nguyễn

Lang đánh giá là “Quang cảnh phục hưng tưng bừng như chưa bao giờ có” [67, tr.

756]. Do vậy, có thể nói sự ra đời của phong trào Chấn hưng Phật giáo và báo chí

Phật giáo trước 1945 là dấu ấn lịch sử, là nền móng, là tiền đề cho sự hình thành và

phát triển Phật giáo và báo chí Phật giáo hôm nay và mai sau.

56

Chƣơng 2

PHẬT HỌC TRÊN BÁO CHÍ PHẬT GIÁO VIỆT NAM

TRƢỚC 1945

2.1. THẾ GIỚI QUAN PHẬT GIÁO TRÊN BÁO CHÍ PHẬT GIÁO TRƢỚC

1945

Từ khi báo chí Phật giáo Việt Nam liên tục nối tiếp nhau ra đời trong khoảng

những năm 1930 đến những năm 1940, thì phong trào học Phật cũng ngày càng lớn

mạnh. Lý do chính yếu của sự xuất hiện báo chí Phật giáo trong giai đoạn này có

thể nói là nhằm phổ biến giáo lý bằng chữ Quốc ngữ, để truyền bá chính pháp, đồng

thời còn làm phương tiện thông tin nội bộ và cổ động lòng yêu nước trong quần

chúng nhân dân. Cho nên, báo chí Phật giáo luôn được khẳng định là nhân tố làm

sáng tỏ trắng đen, phải trái, đánh đổ những luận điểm sai lầm về giáo lý đạo Phật

của một số người. Ngoài biện luận về chân lý, báo chí Phật giáo còn nêu lên tinh

thần mang tính văn hóa dân tộc. Việc đấu tranh nội bộ Phật giáo thể hiện qua những

bài viết trên báo chí, càng cho thấy rõ hơn tinh thần nghiên cứu Phật học đã trở

thành công cụ sắc bén tấn công vào những tệ nạn trong nội tình Phật giáo. Như ở

tạp chí Duy tâm Phật học số 18, bài Phật giáo nước ta vì đâu chịu cái hiện trạng

suy đồi, cư sĩ Khánh Vân đã thẳng thắn chỉ trích: “Có kẻ mượn Phật làm danh, cũng

ngày đêm hai buổi công phu, thọ trì sóc vọng, cũng sám hối như ai nhưng lại thủ dị

cầu kỳ, học thêm bùa ngải, luyện roi thần làm bạn với thiên linh cái, đồng nhi, khi

ông lên lúc bà xuống... gọi là cứu nhân độ thế, vậy mà cũng lên mặt trú trì. Hiện

trạng như thế bảo sao chẳng suy đồi, làm tấm bia cho các nhà duy vật mỉa mai?”.

Khác với quan điểm của tạp chí Duy tâm Phật học, tạp chí Viên âm số 14 đã

nêu lên những mục tiêu chủ yếu của sự Chấn hưng Phật giáo qua phần trả lời Phong

trào Phật giáo chấn hưng của tác giả Hải Triều: “Vì sự tấn hóa của trí thức người

xứ ta về mặt luận lý; vì khoa học tuy đánh đổ sự mê tín nhưng tự mình không có

năng lực tạo thành hạnh phúc cho nhân loại; vì phải có một đạo lý vững vàng để

làm cho khoa học phục tỉnh, để đào tạo đức tính của loài người”.

57

Những quan điểm trên cho thấy, vấn đề đối thoại trên diễn đàn báo chí không

phải đến ngày nay mới có, mà ngay cả trong thời điểm trước đó cũng đã được các vị

chủ bút, chủ biên mạnh dạn đặt ra với dư luận quần chúng, tạo thành sự tranh luận

đầy lý thú trong nền văn hóa Phật giáo nói chung và báo chí Phật giáo nói riêng.

Nhiều tác giả như Phan Khôi, Huỳnh Thúc Kháng cũng đã từng viết bài nói lên tâm

tư tình cảm của mình và có lúc ông cũng bực mình phát biểu đăng trên Viên âm số 3,

ra ngày 1.2.1934: “Các hội Phật giáo xứ ta cứ im ỉm mà chẳng làm việc gì hết”.

Phải nhìn nhận, các báo và tạp chí Phật giáo lúc bấy giờ rất khách quan và

tiến bộ khi mở cuộc đối thoại ngay trên diễn đàn ngôn luận của hội mình, để mọi

người Phật tử hoặc những sĩ phu đứng ngoài Phật giáo có điều kiện tham gia góp ý

phát biểu, phê phán hoặc tranh luận.

Trước sự xâm nhập mạnh mẽ của văn hóa phương Tây, cụ thể là sự ảnh

hưởng của nền khoa học hiện đại, những triết lý của đạo Phật thể hiện trên báo chí

Phật giáo trước 1945 cũng theo xu hướng chuyển đổi từ đạo Phật cổ truyền sang

khuynh hướng thích ứng với thời đại khoa học, hay nói cách khác là cổ xúy cho tinh

thần “thay cũ đổi mới”. Từ đó đã làm nảy sinh ra nhiều cuộc tranh luận về tư tưởng

xoay quanh vấn đề triết học và nhận thức luận Phật giáo thật sôi nổi giữa các tạp chí

Phật giáo, nhằm mục đích là làm sáng tỏ tư tưởng của đạo Phật xưa cũng như nay.

Xuân Thanh trong Viên âm số 15 đã khẳng định rất rõ về tính khoa học của

Phật giáo trong lòng dân tộc qua bài luận Khoa học với Phật pháp. Tác giả khẳng

định: “Phật pháp chính nơi hiện trạng của sự tai nghe mắt thấy, của tâm trí loài

người mà thiết thực chỉ bày những lối tu tập chơn chính, nghĩa lý cũng có, thực

hành cũng có, chứng nghiệm cũng có, thiệt đủ làm cho khoa học phải khâm phục”.

Nói chung, trên diễn đàn báo chí Phật giáo lúc bấy giờ, những vấn đề thế

giới quan Phật giáo được thảo luận nhiều nhất có thể nói là vấn đề quan niệm về

Thượng đế, linh hồn, thế giới Cực lạc, địa ngục và về ngoại giới… Tuy nhiên, biện

pháp và phương thức thể hiện khác nhau, nhiều khi họ còn tranh luận gay gắt về

quan điểm của mình trên diễn đàn ngôn luận. Những cuộc tranh luận này thu hút

giới trí thức Phật giáo và cả không Phật giáo tham gia trong tinh thần thẳng thắn,

đối thoại. Nó có tác động lớn về tình hình sinh hoạt Phật giáo trong nước trước sự

58

đổi mới mạnh mẽ và thể hiện tinh thần hội nhập Phật giáo thế giới trong xu hướng

phát triển.

2.1.1. Vấn đề Thƣợng đế sáng tạo muôn vật

Theo học thuyết Duyên khởi của Phật giáo, vạn pháp do duyên sinh và cũng

do duyên diệt, nên không có một thực thể cố định thì hẳn nhiên niềm tin vào một vị

thần sáng tạo luôn luôn bị phản bác. Tư tưởng phủ nhận về một đấng toàn năng và

vĩnh cửu đã được thể hiện rất nhiều trong kinh tạng Phật giáo. Vấn đề này, xuyên

qua nhiều thế kỷ, triết học Phật giáo đã trình bày chi tiết các lập luận bác bỏ học

thuyết về một vị thần sáng thế. Nó đã được quan tâm để so sánh những việc này với

cách mà các triết gia phương Tây đã bác bỏ các thông tin chứng minh thần học về

sự tồn tại của đấng sáng tạo.

Ở Việt Nam, từ khi phong trào Chấn hưng Phật giáo ra đời thì vấn đề quan

niệm đạo Phật vô thần hay hữu thần, đạo Phật thừa nhận hay phủ nhận sự tồn tại

của Thượng đế mới được đem ra tranh luận sôi nổi trên diễn đàn báo chí Phật giáo

và điều đó đã thu hút sự chú ý của hàng vạn tín đồ và độc giả. Sự kiện này, phần

nhiều các tạp chí Phật giáo đều đồng ý với tư tưởng không có Thượng đế sáng tạo

muôn vật.

Tạp chí Viên âm số 5 - 1934 đã đề cập đến bài Muôn vật vì sao mà có. Ở đây,

Viên âm đã giải thích rõ muôn vật không có tự tính, tức là không thực có. Con

người do mê muội, trong thể tính bình đẳng không tự biết, nên chia ra có tâm có

cảnh, rồi hiện ra dường như là có muôn vật, chứ thật ra muôn vật không thực có.

Muôn vật đã không thực có thì khác gì cảnh giới trong chiêm bao, chỉ vì nhân

duyên nương nhau nên hiện ra hình trạng giả dối ở trong tính mê lầm của con người.

Sáng nương với tối mà có; tư tưởng, suy nghĩ nương theo cảm xúc mà có; nương

với nhau, đối đãi với nhau mà hóa ra cái tướng giả dối của vũ trụ này; cũng in tuồng

có sinh, nhưng thật ra không có cái gì đáng gọi là sinh; cũng in tuồng có diệt, nhưng

thật ra không có cái gì đáng gọi là diệt. Nếu suy xét cho cùng tột thì chỉ thấy những

tính giả dối nương với nhau, đối đãi với nhau mà thôi chứ không có muôn vật. Tính

nương nhau, đối đãi với nhau đó, trong đạo Phật gọi là “nhân duyên”. Khi các nhân

duyên hợp lại thì dường như là có, khi các nhân duyên chia rẽ thì dường như là

59

không. Nếu con người bỏ được tính chấp có, chấp không thì mới biết toàn cả vũ trụ

xưa nay vẫn một thể như nhau không khác.

Trên Viên âm số 8, ra tháng 7 năm 1934, đề cập tiếp theo tư tưởng muôn vật

vì sao mà có qua bài Phạm vương và tạo hóa. Bài này giải thích rõ ràng hơn về vấn

đề Thượng đế tạo vật. Mở đầu bài viết, Viên âm đã khẳng định: “Có người đạo Phật

coi sách Bà la môn thấy nói “Phạm vương sinh ra vạn vật”, rồi đến khi coi kinh

Phật, thấy nói có “Phạm vương thính pháp” lại tưởng lầm rằng đạo Phật cũng thừa

nhận có ông Tạo hóa. Điều này nên cải chính. Trong kinh điển đạo Phật, đã có

nhiều chỗ bác lý thuyết Tạo hóa”. Qua đó, Viên âm tiếp tục lược giải những luận

điểm đó rất cụ thể. Viên âm khẳng định Phạm vương không thể tự mình sinh ra, vì

những lý do sau: Thứ nhất, trước khi sinh ra thì không có cái chi đáng gọi là tự

mình, như thế thì làm sao còn sinh ra được. Thứ hai, vì tính thiêng liêng đã cho là

tính của Phạm vương thì trước khi Phạm vương sinh ra chưa có tính thiêng liêng,

chưa có tính thiêng liêng thì Phạm vương nương vào đâu mà tự sinh? Thứ ba, nếu

như không có tính thiêng liêng mà cũng tự sinh ra được thì cần gì phải tin rằng có

ông Tạo hóa? Thứ tư, vì tính thiêng liêng của Phạm vương chỉ do tư tưởng Bà la

môn tạo thành, không phải sự thật. Tính thiêng liêng là cái gì? Chẳng lẽ nói luẩn

quẩn như vậy: Phạm vương có tính thiêng liêng vì ông tự sinh, Phạm vương tự sinh

vì ông có tính thiêng liêng.

Tiếp đó, Viên âm lý giải thêm rằng phàm luận lý phải do nơi thực nghiệm,

không nên lấy sự tự tin riêng của mình làm bằng cớ mà bàn luận, huống chi không

đủ duyên cớ chứng minh chắc rằng có một ông nào sinh ra vạn vật, dầu là ông

Phạm vương. Vì sao? Vì những nguyên nhân sau: Thứ nhất, nếu trước không có gì

cả thì ông Phạm vương lấy duyên cớ gì mà tự sinh? Thứ hai, nếu trước khi có muôn

vật, chỉ có một mình ông Phạm vương thì vì cớ gì mà ông phải sinh ra muôn vật?

Nếu bản tính của Phạm vương là sinh ra muôn vật thì muôn vật với ông phải cùng

sinh ra một lần. Đã cùng sinh ra một lần thì Phạm vương không thể gọi là ông Tạo

hóa, còn nếu bản tính của Phạm vương không sinh ra muôn vật, thì ông cứ không

sinh ra luôn, vì trong khi chỉ có một mình ông, không có cái gì khác nữa, ông có thể

mượn duyên cớ gì khác đặng sinh ra muôn vật. Thứ ba, Phạm vương hữu hình hay

60

vô hình, có tri giác hay không có tri giác? Không thể có cái gì gồm cả hữu hình và

vô hình, hay gồm cả tri giác và không có tri giác được. Vậy, nếu Phạm vương vô

hình thì không thể sinh ra các món hữu hình, nếu Phạm vương có tri giác thì không

thể sinh ra các món không tri giác. Huống chi trong thế gian, người khôn kẻ dại,

người lành kẻ dữ, loài bay loài lặn, loài lanh lẹ loài chậm chạp, đều khác hẳn với

nhau, lẽ đâu một giống lại sinh ra nhiều thứ như vậy.

Viên âm số 27, ra tháng 8 năm 1937 có đăng bài giảng Đâu là con đường

hạnh phúc của nhà sư Đôn Hậu giảng tại Faifoo (Hội An) ngày 25.3.1937, đã một

lần nữa góp phần bác bỏ những thuyết khẳng định sự tồn tại của Thượng đế. Tác giả

lập luận rằng sự hạnh phúc của con người hẳn nhiên không phải do thờ phụng, cúng

bái hay cầu nguyện mà đạt được. Điều chính yếu là phải thực hành những pháp

chân chính. Đấng thiêng liêng mà con người tin tưởng, dù là có cũng chưa phải hẳn

tột đỉnh cao quý, không phải bình đẳng, từ bi, vì còn ban thưởng những ai cầu xin

mình và xử phạt ai không tôn kính mình. Như thế chẳng khác gì người có thế lực,

nếu ai biết cầu lụy mình thì ban cho chức này chức nọ, còn ngược lại thì bị đày đọa,

chém giết. Qua đó, tác giả khẳng định không có Thượng đế tạo vật bằng câu chất

vấn rất sắc bén: “Đã là thiêng liêng thì cái gì cũng sinh ra được, cái gì cũng cải lại

được, mà nay sinh ra để cho người ta không theo mình rồi bỏ vào địa ngục là lý làm

sao?”.

Phải nói, những tư tưởng bác bỏ Thượng đế tạo vật trong Viên âm rất lý thú,

chuẩn xác, đã tạo được sự đồng tình của các tín đồ Phật giáo.

Tạp chí Duy tâm Phật học cũng tham gia vào cuộc thảo luận phủ định sự tồn

tại của Thượng đế sáng tạo muôn vật. Tuy nhiên, với chủ đề này, Duy tâm Phật học

có ý muốn nghiêng về chủ trương gắn liền Phật giáo với khoa học.

Trên Duy tâm Phật học số 5, ra tháng 2.1936, An Giang cư sĩ đã viết bài

Phật giáo với thuyết Vũ trụ quan, thuật lại quan điểm của đức Phật là không quan

tâm đến chuyện ai là đấng sáng tạo ra vũ trụ. Đạo Phật chỉ xác tín rằng vũ trụ là vô

thủy vô chung và luôn “biến chuyển theo luật nhân quả vô cùng tận”. Sau đó, liên

tục những số 6, 7, 8, tạp chí cũng lần lượt đăng bài của HT. Khánh Hòa đã giảng tại

Hội Lưỡng Xuyên Phật học nhân dịp đại hội đầu năm. Bài giảng đã lý giải về những

61

quan niệm vũ trụ và nhân sinh của Phật giáo rất cụ thể. Đầu tiên, Hòa thượng nhấn

mạnh đến mối quan hệ mật thiết giữa khoa học hiện đại và Phật học cổ truyền,

nhằm mục đích xóa bỏ những tư tưởng cho rằng đạo Phật là mê tín dị đoan:

Tôi vốn là một nhà học Phật chớ không phải một nhà thực nghiệm khoa

học, nên không dám phê bình khoa học, nhưng theo lý học thì Phật pháp

tức khoa học, khoa học tức Phật pháp, khoa học là “tướng”, Phật pháp là

“tính”, khoa học là “dụng”, Phật pháp là “thể”, khoa học là “sự”, Phật

pháp là “lý”. Chưa hề có tướng mà không tính, có thể mà không dụng, có

sự mà không lý, có hình thức mà không tinh thần bao giờ. Bởi cái bệnh vị

ngã đã thông thường, phái duy tâm thì bài xích phái duy vật, phái duy vật

lại kích bác phái duy tâm, kẻ chấp lý bỏ sự, người chấp sự bỏ lý, mới sinh

ra phân biệt bỉ thử. Thật ra, Phật pháp không ngoài khoa học, khoa học

cũng không ngoài Phật pháp, Phật pháp khoa học viên dung mới hoàn toàn

sự lý.

Luận điểm trên cho thấy, HT. Khánh Hòa muốn dung hòa Phật giáo với khoa

học, muốn khẳng định cho muôn người hiểu được rằng các tôn giáo trên thế giới,

chỉ có Phật giáo là hợp nhất với khoa học. Điều này, lúc bấy giờ trên báo Đuốc tuệ

đã liên tục xuất hiện nhiều bài viết bàn luận và minh chứng Phật giáo mang tính

khoa học mà không phải mê tín, là tân tiến chứ không phải cổ hủ, là năng động,

nhiệt tình trong việc cứu độ chúng sinh mà không phải bi quan, yếm thế.

Cách đây hơn 25 thế kỷ, Đức Phật đã vận dụng phương thức tương tự khoa

học để quán sát thế giới nội tại bằng sự suy xét vô tư khách quan và khuyến khích

các đệ tử của Ngài không nên chấp nhận bất cứ điều gì cho đến khi nào họ đã thực

sự nghiên cứu và xác chứng tính thực tại của nó. Như lời tuyên bố của Đức Phật:

“Ai thấy pháp, người ấy thấy Ta, ai thấy Ta, người ấy thấy pháp” [12, tr.219]. Lời

tuyên bố đó cũng có nghĩa rằng trí tuệ mà Đức Phật chứng ngộ là toàn bộ giáo lý

Ngài đã tự thân tu tập, tự thân hành trì và tự thân chứng ngộ. Tại đây, cánh cửa giải

thoát sẽ mở ra một chân trời mới của thế giới tự tại, an lạc và hạnh phúc thật sự khi

mỗi cá nhân biết tự thực nghiệm và chứng ngộ.

62

Như vậy, có thể nói triết lý Phật giáo rất gần gũi với tinh thần khoa học,

nhưng sẽ không đúng nếu cho rằng Phật giáo là triết lý khoa học. Bởi việc ứng dụng

thực tiễn của khoa học có khả năng làm cho đời sống con người tiện nghi hơn, giỏi

hơn, hưởng thụ hơn những điều trước đây chưa từng có. Nhưng khoa học không thể

giúp con người chế ngự tự tâm, như ngày nay có quá nhiều người lâm vào tình trạng

sợ hãi, bất an và cảm thấy không an ổn. Đồng thời khoa học cũng không đưa con

người đạt đến sự kiểm soát đạo đức và mục đích của cuộc sống.

Tiếp đó, trên tạp chí Duy tâm Phật học, HT. Khánh Hòa lại trực tiếp phản

bác quan niệm Thượng đế sáng tạo: “Nếu Thượng đế hay cái hình xanh xanh tròn

tròn là đấng chúa tể đủ nhân đức, nhân lực, hoàn toàn tự quyền tạo ra muôn vật, thì

tức là một đại từ phụ của muôn vật, sao không dùng công đạo công lý, lại đành nhẫn

tâm tạo ra có giống làm người khôn ngoan xảo trá, có giống làm vật ngu độn dại

khờ”.

Qua đó, Hòa thượng còn nhấn mạnh nếu có Thượng đế sáng tạo thì tại sao

không lấy đức từ bi mà tạo ra sự bình đẳng cho con người. Hiện đời vẫn có người

giàu sang hạnh phúc, có người phải chịu dốt nát, bệnh hoạn mà nghèo hèn, đói rách,

thống khổ đủ điều…

Trên Duy tâm Phật học số 24, ra tháng 9.1937, Trường Tố đăng bài Thuyết

sinh tử, trong đó tác giả giải thích nguồn gốc của vũ trụ không phải do Thượng đế

mà chính là do “Tứ đại” (đất, nước, gió, lửa) tạo nên. Ông nhấn mạnh Tứ đại là

thuyết phổ biến của triết học nguyên thủy Ấn Độ, nhưng ngoài tứ đại còn phải có

thêm cái biết và cái không, đó là theo thuyết “Lục đại duyên khởi”.

Trên báo Đuốc tuệ, từ số 71-74, trong bài viết Phật giáo tân luận, Nguyễn

Trọng Thuật đã bàn cãi với các nhà Phật học ở Trung Kỳ và Nam Kỳ về vấn đề

Thượng đế sáng tạo muôn vật với nhiều lý luận khác nhau. Cụ thể ở số 72, ông

khẳng định: “Đức Thích Ca cho rằng hết thảy mọi sự vật trong vũ trụ đều do ở cái

tâm của ta tạo ra cả. Thiện hay ác là do cái tâm ta tự làm, siêu hay đọa là do cái tâm

ta tự biết, chứ chẳng phải cầu ở đâu bên ngoài”.

63

Luận điểm đó của Nguyễn Trọng Thuật là đồng ý với tư tưởng cho rằng đạo

Phật là một tôn giáo không công nhận có thượng đế sáng tạo. Để nhấn mạnh thêm

điều này, trong số 73, ra ngày 15.11.1937, cũng trong bài Phật giáo tân luận, ông

khẳng định rằng xét cùng vật lý, tới cõi tuyệt đối, không thấy có manh mối gì làm

chủ trương trong vũ trụ, nên Đức Phật Thích Ca không thừa nhận cái thuyết Phạm

vương sáng tạo. Ngài cho rằng mọi phép tắc trong vũ trụ chỉ là do nhiều nhân duyên

gặp nhau, cảm nhau, hợp nhau lại mà thành. Song vạn vật đều có bản thể mà tâm ta

vốn có bản lai. Bản lai của tâm ta là do ở một linh tính chân như bàng bạc khắp vũ

trụ, vô thỉ vô chung, chiếu sáng cho hết thảy. Bởi thế, Ngài gọi linh tính ấy là Phật

tính. Từ những luận cứ đó, Nguyễn Trọng Thuật đã khẳng định: “Vậy thì đạo Phật

là y cứ vào thực chứng mà luận vật lý chứ không phải là “liễu tận không hư”. Đã

quy tâm chân như của người ta, lại tôn sùng linh tính của vụ trụ, thế là đạo Phật đã

biết tới chỗ vũ trụ thần đó, chứ không phải là độc tôn ngã mạn như lời Huxley Tiên

sinh đã nói ở trong sách Thiên diễn”. Qua đó, ông cũng nhấn mạnh quan điểm của

mình rằng đạo Phật thực là bổ khuyết cho chủ nghĩa thuần duy vật mà lại thoát được

cái mê tín Phạm vương sáng tạo của Bà la môn. Cho nên nói, đạo Phật thực là một

tôn giáo văn minh.

Cũng trên Đuốc tuệ, còn có rất nhiều bài viết của nhiều tác giả đồng tình với

Viên âm và Duy tâm Phật học khi cho rằng không có Thượng đế sáng tạo muôn vật.

Như ở mục Phật học vấn đáp trên Đuốc tuệ số 77, ra ngày 15.1.1938 đã khẳng định:

“Vũ trụ và muôn vật đều bởi nhân duyên mà thành lập, không phải do một thiên

thần sáng tạo, duy có nhân tốt lại gặp những duyên tốt thì thành những vật tốt, trái

lại, nhân duyên không tốt thì thành những vật xấu. Người biết tránh ác theo lành thì

thần thức sáng láng, tức là cái nhân tốt, lại nhờ chủng loại quý báu, tức là cái duyên

tốt vậy”.

Như thế, cả ba tạp chí, tờ báo Phật học lớn của cả ba kỳ là Duy tâm Phật học,

Viên âm, Đuốc tuệ đều lấy tinh thần vô thủy vô chung, vạn vật do duyên sinh và

cũng do duyên diệt mà đánh đổ quan điểm Thượng đế sáng tạo muôn vật ra khỏi

vòng tranh luận đương thời.

64

Quả đúng như vậy, vì tin tưởng vào một đấng sáng thế Brahman (Phạm thiên)

mà hàng nghìn năm, xã hội Ấn Độ đã duy trì sự phân chia bốn giai cấp, gây nên sự

chia rẽ trầm trọng, mỗi giai cấp đều tùy thuộc vào ý chí của đấng Phạm thiên, cố

định vị trí ở thân thể của Phạm thiên: Giai cấp Bà la môn được cho là con chính

thống của Phạm thiên, sinh ra từ miệng Phạm thiên, là chủng tính tối thượng an

hưởng cuộc đời sung sướng. Giai cấp Sát đế lỵ sinh ra từ cánh tay Phạm thiên, là

giai cấp hoàng tộc, thay Phạm thiên nắm giữ quyền hành thống trị. Giai cấp Vệ xá

được cho là sinh ra từ bắp vế Phạm thiên, là giai cấp thương gia, nông phu và thợ

thuyền phụ trách về kinh tế. Giai cấp Thủ đà la được cho là sinh ra từ gót chân của

Phạm thiên, là hạng bần cùng hạ tiện và chỉ làm nô lệ suốt đời cho các giai cấp trên.

Sự thị hiện của Đức Phật đã làm đảo lộn mọi giá trị cố hữu, thay vào đó Ngài

mở ra cánh cửa mới của sự nhận thức khi chối từ về sự tồn tại của Brahman; điều

này được đề cập trong nhiều kinh văn Phật giáo. Đoạn kinh Tevijja (Tam minh) sau

đây kể về cuộc đối thoại giữa Đức Phật và Bà la môn Vàsettha về đấng Phạm thiên:

Này Vàsettha, như vậy ngươi nói không có một Bà la môn nào trong

những vị tinh thông ba tập Vedà đã tận mặt thấy Phạm thiên, không có một

tôn sư nào của các Bà la môn tinh thông ba tập Vedà đã tận mặt thấy Phạm

thiên, không có một đại tôn sư nào của các Bà la môn tinh thông ba tập

Vedà và đã tận mặt thấy Phạm thiên, không có một Bà la môn nào cho đến

bảy đời đại tôn sư, tôn sư của những Bà la môn tinh thông ba tập Vedà đã

tận mắt thấy Phạm thiên. Trong những tu sĩ thời cổ, trong các Bà la môn

tinh thông ba tập Vedà, những vị sáng tác các thần chú, những vị trì tụng

thần chú mà xưa kia những thần chú được hát lên, được trì tụng, được

ngâm vịnh và ngày nay những Bà la môn tinh thông ba tập Vedà cũng hát

lên, trì tụng và giảng dạy như các vị Atthaka, Vàmaka… không có một vị

nào đã nói: “Chúng tôi biết, chúng tôi thấy Phạm thiên ở đâu, Phạm thiên

từ đâu đến, Phạm thiên sẽ đi đâu”. Như vậy các Bà la môn tinh thông ba

tập Vedà đã nói: “Chúng tôi không biết, chúng tôi không thấy con đường

đưa đến cộng trú với Phạm thiên, nhưng chúng tôi thuyết dạy con đường

ấy: “Đây là trực đạo, đây là chánh đạo hướng đến, dẫn đến cộng trú với

65

Phạm thiên cho những ai thực hành theo”. Này Vàsettha, ngươi nghĩ thế

nào? Sự kiện là như vậy thời có phải lời nói của những Bà la môn tinh

thông ba tập Vedà là không chính xác, hợp lý [13, bài kinh số 13].

Đối với một số người tin tưởng một cách nghiêm túc hơn thì ý tưởng về đấng

Thượng đế tạo hóa chỉ là một lập trường, để giải thích các sự kiện bên ngoài như

nguồn gốc của thế giới mà họ không thể hiểu thấu. Họ quan niệm đó là một đối

tượng của đức tin có thể tạo ra một cảm giác mạnh mẽ bên cạnh sự hiện diện an ủi

của đấng tạo hóa và sự gần gũi với chính mình. Chẳng hạn như ấn tượng thời thơ ấu,

hình ảnh huyền thoại của những ông Bụt, cô Tiên đi vào truyền thống, học đường

và môi trường xã hội đã tác động vào bề mặt của vỏ não, tạo nên những hình ảnh

của tư tưởng mà tín đồ của các tôn giáo đã có một lề lối khái niệm chân thành nhất.

Trong tư tưởng Phật giáo Ấn Độ thời xưa bác bỏ một cách rõ ràng ý niệm về

vĩnh cửu, đã nêu lên thuyết vạn vật thay đổi, trong đó thuyết Duyên khởi đóng vai

trò chủ đạo, để thay thế vai trò của Thượng đế Toàn năng hay đấng Sáng tạo. Quan

niệm về các vị thần linh, mặc dù có trong Phật giáo nhưng đó không phải là điểm

trọng tâm của giáo lý hay được sử dụng như là nền tảng của giáo lý Phật giáo. Như

vậy, sự hiện hữu của mọi sự vật hiện tượng theo Phật giáo là tùy thuộc nhiều

“nhân”, nhiều “duyên” phát sinh, không ai tạo ra nó cả. Nguyên lý Duyên khởi đó

đã được Đức Phật tóm tắt trong kinh Phật tự thuyết như sau:

“Do cái này có mặt nên cái kia có mặt.

Do cái này không có mặt nên cái kia không có mặt.

Do cái này sinh nên cái kia sinh.

Do cái này diệt nên cái kia diệt” [16, tr. 291].

1 Năm giới: 1. Không sát sinh, 2. Không trộm cắp, 3. Không tà dâm, 4. Không nói dối, 5. Không uống rượu. 2 Thập thiện là mười việc làm tốt lành, mang lại lợi ích cho con người trong hiện tại và tương lai. gồm có: Thân: 1. Không sát sanh, 2. Không trộm cướp, 3. Không tà dâm; Khẩu: 4. Không nói dối, 5. Không nói thêm bớt, 6. Không nói hai chiều, 7. Không nói lời ác; Ý: 8. Không tham lam, 9. Không giận dữ, 10. Không si mê.

Với cuộc sống hiện đại, không cần sự thưởng phạt của một đấng tối cao, giá trị đạo đức của Phật giáo trên căn bản năm giới (1) và Thập thiện (2) đã cung ứng cho

66

quốc gia và xã hội một nền tảng đạo đức chắc chắn. Không mù quáng và ảo tưởng

trong niềm tin, dựa trên triết thuyết hợp lý, sâu sắc từ sự thực hành mang tính khoa

học, tín đồ tôn thờ Đức Phật là bậc thầy giác ngộ, là vị thầy của lòng từ bi và trí tuệ

và nhìn nhận Đức Phật như bản chất tiềm ẩn trong chính mình. Đó là điểm khác biệt

giữa Phật giáo và các tôn giáo khác. Mặc dù Phật giáo được xem như là một tôn

giáo, tuy nhiên lý thuyết, triết học và sự thực hành vượt ra ngoài phạm vi tôn giáo;

Phật giáo đặt con người làm mục tiêu thể nghiệm sự khổ đau và giải thoát khổ đau

ngay trong đời sống thay vì khái niệm huyền ảo về một đấng sáng thế toàn năng và

vĩnh cửu.

Đức Phật từng dạy: “Chúng sinh là chủ nhân của nghiệp, là kẻ thừa tự của

nghiệp; nghiệp là thai tạng, nghiệp là quyến thuộc, nghiệp là nhân tố phán xét” [15,

tr. 481]. Những hành động có ý thức do con người tạo ra chính là đấng Thượng đế

của họ. Vì thế, mỗi người chính là đấng Sáng tạo cũng như kẻ hủy diệt bản thân

mình và thế giới này mà không phải là ai khác. Con người sẽ không thể thay đổi

nghiệp lực của mình, không thể từ ác tâm sang thiện tâm, không thể chứng quả giải

thoát nếu do một đấng Thiên chủ tạo nên. Vì thế, Phật giáo không bao giờ cho rằng

có Thượng đế toàn năng.

2.1.2. Vấn đề linh hồn bất tử

Thời Phật còn tại thế, có hai phái ngoại đạo nêu ra hai chủ thuyết: một là

“Thường kiến”, hai là “Đoạn kiến”. Phái Thường kiến cho rằng, linh hồn con người

mãi mãi là con người, dù có tạo tội ác đến đâu, chết rồi cũng tái sinh trở lại làm

người. Ngược lại, phái Đoạn kiến cho rằng, con người sau khi chết là không có linh

hồn tồn tại đời sau, tức là mất hẳn. Hai phái này, theo chủ trương của họ là không

có nhân quả báo ứng. Vì quan niệm và tin như thế, nên họ tha hồ làm ác mà không

sợ quả báo gì.

Do quan niệm linh hồn theo nhiều cách khác nhau, nên con người vẫn bàn

cãi về vấn đề có hay không có linh hồn. Thường thì linh hồn được hiểu là phần tinh

anh, cái tinh thể, tinh thần của con người, đối lập với vật chất, với bất cứ cơ quan

sinh học nào của cơ thể.

67

Các tín ngưỡng, tôn giáo thường cho rằng linh hồn là thiêng liêng, là bất diệt.

Ấn giáo quan niệm linh hồn hay bản ngã, tự ngã là trường tồn và hòa đồng được với

Đại ngã hay Phạm thiên (Brahman), gồm ba tính chất là chân lý, trí tuệ và hạnh

phúc.

Tín ngưỡng dân gian còn cho rằng linh hồn người chết có thể nương gá vào

đâu đó và có thể hiện hình trên đời mà người ta thường gọi là ma. Nhiều người tin

rằng khi một người chết đi, linh hồn người ấy sẽ đến cõi âm, sinh sống ở đấy, chờ

sự phán xét của Diêm vương, linh hồn ác có thể bị hành hạ cho đến khi được đầu

thai ở dương thế.

Phật giáo thuận theo ngôn ngữ, tín ngưỡng của dân gian, vẫn nói đến linh

hồn, vong linh, hương linh… để chỉ cái phần còn lại sau khi chết của một người.

Nhưng dù gọi là gì đi nữa thì theo giáo lý duyên sinh, vô thường, vô ngã, Phật giáo

không bao giờ chủ trương cái phần phi vật chất này, hay linh hồn là thường hằng,

bất diệt. Như lời giải thích: “Phật giáo vốn không chủ trương “Linh hồn bất diệt

luận”. Đối với sự đồng, dị giữa linh hồn và nhục thể, đức Thế tôn đều không trả lời.

Phật giáo vì quan niệm chủ thể thực tiễn nên xem trọng sự tồn tại của tâm, sự tồn tại

này triệt để đứng trên lập trường tương quan giữa tâm và vật, không xem nặng cái

nào là thực thể, cái nào là giả tướng mà chủ trương rằng tâm và vật đều không, không có tự tính” [6, tr.2454].

Tuy nhiên từ xưa đến nay, vẫn còn tồn tại hai vấn đề chính yếu gây ra sự mê

tín đối với quần chúng nhân dân về tôn giáo là tin có Thượng đế sáng tạo và tin có

linh hồn bất tử.

Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, sư Thiện Chiếu là vị sư trẻ đầu tiên đã

“công khai” trình bày vấn đề có hay không có linh hồn bất tử trong sách Phật giáo

vấn đáp. Ông nhấn mạnh khi con người chết đi thì ngũ uẩn (sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng

uẩn, hành uẩn và thức uẩn) sẽ tan rã, không có vật gì gọi là linh hồn tồn tại.

Đọc được luận điểm đó, Liên Tôn, chủ bút của tạp chí Từ bi âm đã phản đối

kịch liệt trong số 18, ra ngày 15.9.1932: “Xin hỏi các bạn trí thức học Phật lâu nay

đã thấy chỗ nào trong kinh, luận nói như vậy, và đã thấy ai nói càn như sư Thiện

68

Chiếu vậy chưa?... Như vậy thì sư viết một quyển sách ra, kẻ thì khinh yểm, người

thì lầm lạc, vậy có lợi ích gì cho đời hay không?”. Tuy đả kích như thế, nhưng Liên

Tôn vẫn chưa tìm đâu ra luận điểm nào trong kinh điển Phật giáo được Đức Phật

thừa nhận là có linh hồn bất tử. Có lẽ từ đó mà cuộc tranh luận về linh hồn bắt đầu

sôi nổi trên báo chí Phật giáo.

Ở tạp chí Viên âm, vấn đề thảo luận về linh hồn có vẻ rõ ràng, chi tiết và hầu

như là đều dẫn đến kết luận không có linh hồn bất tử.

Tạp chí Viên âm nêu quan điểm cho rằng sở dĩ các nhà nghiên cứu Phật học

luôn tranh luận về vấn đề linh hồn vì không xác định rõ tính cách của cái hồn. Tính

cách của linh hồn cũng như tính cách của muôn sự vật khác, theo sự hiểu biết của

mỗi người, ý nghĩa không giống nhau. Cho nên, trước khi bàn cãi về linh hồn, cần

phải định rõ tính cách của cái hồn. Tuy nhiên, định tính cách cũng chỉ theo ý tưởng

của muôn người, không nên nhận lầm rằng đó là tính cách nhất định của cái hồn

theo nghĩa lý đạo Phật.

Theo đó, trên tạp chí Viên âm số 4, ra tháng 3 năm 1934, bác sĩ Lê Đình

Thám đã chứng minh là không có linh hồn bất tử. Ông cho rằng con người theo tín

ngưỡng gồm có hai phần là xác và hồn, cũng nghe thấy bình thường. Nhưng khi con

người còn đang sống, cái thấy cái nghe đó do đâu. Nếu như nói thân thấy thân nghe

thì chết vẫn còn mắt, còn tai, sao lại không thấy không nghe được. Còn nói hồn thấy

hồn nghe thì cái thấy, nghe kia phải nương theo xác thịt mới có hay riêng một mình

phần hồn cũng có. Nếu nói phải nương theo xác thịt mới có thì cái hồn ra ngoài xác

thịt chắc không còn nghe còn thấy nữa, vậy thì tại sao con người lại tin rằng một

mình cái hồn cũng thấy cũng nghe. Còn như nói chỉ một phần hồn cũng thấy cũng

nghe, thì hồn ấy ra sao. Khi mình đứt một cánh tay, hồn có đứt cánh tay không. Nếu

nói có thì hồn với xác là một. Nếu như hồn như hư không, không thể đứt được thì

làm sao hồn những người đui không tự thấy mà đi, lại phải nhờ người khác dắt.

Lập luận trên tạp chí Viên âm thật sự đã gây hoang mang rất nhiều đối với

những người tin có linh hồn bất tử. Bác sĩ Tây y Lê Đình Thám giải thích linh hồn

rất có khoa học và ngay cả trong chiêm bao, ông cũng lý giải thật chuẩn xác, bác bỏ

hẳn ý kiến thông thường cho rằng đó là “hồn đi chơi”. Ông nói rằng chiêm bao do

69

tư tưởng của mình biến ra mọi sự, tư tưởng trong sạch thì thấy những điều lành, tư

tưởng độc ác thì thấy những điều dữ. Nếu như nói thân trong chiêm bao là hồn của

mình thì cảnh giới trong chiêm bao là ở đâu? Cảnh giới ấy có thật hay không? Nếu

như có thật thì tại sao những người xung quanh mình lại không thấy? Nếu như do tư

tưởng mình tưởng tượng ra, thì tất cả cảnh giới trong chiêm bao đều là mình, mà

không phải chỉ riêng một cái thân kia. Vậy thì làm sao nhận là hồn là xác được. Và

cuối cùng ông kết luận: “Xét như vậy, đủ biết cái hồn biết thấy biết nghe, biết có

mình có người, biết thương biết ghét, biết vui biết buồn kia là không thực có”.

Cũng trên tạp chí Viên âm số 4, Lê Đình Thám đã nhắc đến những thắc mắc

của nhiều tín đồ và độc giả qua các khía cạnh khác về ma quỷ, đánh đồng thiếp v.v..

Họ cho rằng nếu hồn không thực có, vậy làm sao nhiều người còn thấy ma, lại có

người đánh đồng thiếp thấy rõ ông bà cha mẹ? Qua đó, ông đã trả lời vấn đề này

bằng cách hỏi lại: “Nhân vật trong chiêm bao có thật hay không? Chắc ai cũng trả

lời không, vì nếu có thật, sao khi tỉnh dậy lại không thấy?”. Với điều này, ông lý

giải rằng nhân vật chiêm bao không có thật, vì chiêm bao nên dường như là có,

cũng như con ma vốn không có thật, nhưng vì lòng mê tín và sợ hải nên thấy là có

ma thật. Đánh đồng thiếp mà thấy linh hồn ông bà, cha mẹ mình ở âm phủ, cũng

giống như những người đi xem múa rối, bị phép thuật thôi miên, nên thấy con trâu

đi qua ống tre. “Đó là tư tưởng của mình hóa ra chứ không gì khác”.

Lê Đình Thám lại nêu ra những thắc mắc tiếp theo của độc giả tạp chí Viên

âm số 4: “Nếu không có linh hồn thì làm sao ngày nay người ta lại sống được?”.

Nói đến nguồn gốc của sự sống này thì quả thật tạp chí Viên âm chưa giải đáp được

một cách rõ ràng, chắc chắn. Tuy nhiên, Viên âm vẫn giữ quan điểm cho rằng không

có linh hồn bất tử và giải thích theo ý riêng là cái làm cho con người tồn tại thì lúc

nào cũng hiện hữu. Vì nếu như cái ấy không có thì cái sống cũng không có. Nhưng

cái ấy là cái ấy, mà không phải là cái hồn theo lối thông thường.

Tuy tạp chí Viên âm lý giải chi tiết nhưng lập luận lại không triệt để, thiếu

khoa học, như lời kết luận: “Muốn cho có đèn sáng cần phải làm ra luồng điện

mạnh, làm ra cái đèn tốt, cũng như muốn được thân trong sạch, muốn được cảnh vui

vẻ, cần phải hành động một cách chính đáng, đó là lẽ tất nhiên, chớ cái làm cho

70

chúng ta sống đây thiệt không thể kêu bằng chi được, gượng ra phải gọi là “tâm”;

một điều chắc chắn là không phải cái hồn tự mình biết thương biết ghét, biết thấy

biết nghe đâu”.

Phải chăng tạp chí Viên âm muốn để chỗ cho thuyết “luân hồi” và thuyết

“duy thức” của Phật giáo tiếp tục làm sáng tỏ vấn đề này? Dẫu lý giải còn mâu

thuẫn, nhưng Viên âm đã gây tiếng vang lớn đối với quần chúng, khiến các tạp chí

khác cũng phải lên tiếng thảo luận.

Tạp chí Tiến hóa có lẽ đã hiểu rõ vấn đề nên đã có cái nhìn so sánh khá

chuẩn xác với các tạp chí khác, hầu tìm ra một kiến giải đúng với chân lý của đạo

Phật. Cụ thể, khi thấy tạp chí Viên âm bàn luận về linh hồn còn nhiều mâu thuẫn,

Tiến hóa số 14-15, ra tháng 4.1939 đã có bài Thảo luận với Viên âm về linh hồn rất

rõ ràng và chi tiết. Tiến hóa cho rằng Phật giáo đã không nhận có thần tạo vật, thì

không nhận có linh hồn là một vật sống hoài không chết, đầu thai từ kiếp này sang

kiếp khác như của đạo Bà la môn (hữu ngã luân hồi). Sự hiểu biết và phân biệt (biết

thấy, biết nghe, biết thương, biết ghét v.v..) của ta trong khi còn sống, theo đạo Phật

gọi là Thức (Thức tức là cái hiểu biết: mắt biết thấy, tai biết nghe, mũi biết ngửi... ý

biết phân biệt v.v..), nó sinh diệt vô thường, không phải là một cái sống hoài không

chết, như thuyết linh hồn của tất cả ngoại đạo. Theo thuyết Mười hai nhân duyên

của đạo Phật, vì có vô minh mới sinh ra hành (sự biến đổi), do hành sinh ra thức (sự

hiểu biết) v.v.. nếu muốn khỏi luân hồi tái sinh thì phải trừ diệt vô minh. Từ luận

điểm đó, tạp chí Tiến hóa kết luận nếu ai tin có linh hồn không chết thì chính họ là

người ngoại đạo.

Tiếp đó, tạp chí Tiến hóa còn khẳng khái lên tiếng trước các báo chí: “Cái

lầm to của Viên âm là bảo cái tâm làm cho chúng ta sống lại. Cái làm cho chúng ta

sống lại là Nghiệp (hành động, tạo tác) cùng các duyên khác mà không phải là tâm

như trước đây chúng tôi đã cắt nghĩa, nhưng thấy Viên âm còn mập mờ cái tâm, cho

nên chúng tôi cần giải thích cho rõ”.

HT. Bích Liên đã trực tiếp bào chữa cho tạp chí Từ bi âm với bài Thích nghi

về cái hồn đăng ở số 104. Hòa thượng cho rằng có linh hồn mà theo Phật giáo gọi là

71

“A lại da thức”, là một trong tám thức (Nhãn thức, Nhĩ thức, Tỷ thức, Thiệt thức,

Thân thức, Ý thức, Mạt na thức, A lại da thức).

Đồng ý với quan điểm này của HT. Bích Liên, trên tạp chí Duy tâm Phật học

số 8, ra ngày 11.5.1936, HT. Khánh Hòa cũng cho biết: “Nghiệp thức, thế gian

thường kêu là linh hồn, thì nghiệp thức hay linh hồn cũng tức là một… Lại cũng

kêu là cái thân “trung ấm” và nó hễ buông thân này thì bắt thân kia”.

Theo sự giải thích của ông Phạm Hữu Bính trên Viên âm số 50, ra tháng 6

năm 1942: “Mạt na thức và A lại da thức không phải là linh hồn huyền bí, kỳ diệu.

Sáu thức đầu giao tiếp với ngoại cảnh, hai thức sau không giao tiếp với ngoại cảnh.

Giống như học lâu năm thì không quên được nữa”. Rồi ông kết luận các thức cao

thấp đều thực có, còn nếu tin rằng linh hồn độc lập với thân thể, thân thể chết rồi

nhưng nó còn tồn tại bất tử, thì đó là chỉ là tưởng tượng, là mê tín. Viên âm nhấn

mạnh “linh hồn là một danh hiệu không có trong kinh điển Phật giáo”.

Đúng vậy, theo Phật giáo, cái mà các ngoại đạo gọi là linh hồn thì Phật giáo

gọi là tính biết, cái biết, sự nhận thức, tư duy…, gọi chung là Thức. Thức bao gồm

một nội dung được xem là những dấu ấn, những hạt mầm (chủng tử) được tạo nên

bởi những hành tác của một người trong đời sống hiện tại và những đời sống trước

kia, còn được gọi là nghiệp hay nghiệp thức. Nghiệp là những hành động lặp đi lặp

lại nhiều lần thành thói quen. Chính thói quen này khi thuần thục, nó có một sức

mạnh phi thường để tùy duyên chiêu cảm thọ sinh. “Nghiệp thức tương đương với

phần tự thể trong A lại da thức, là do sức tác động của vô minh bất giác mà sinh ra,

là thức do nghiệp duyên mà sinh ra” [6, tr.3119].

Trong thuyết cơ bản của Phật giáo, thuyết năm uẩn phân tích con người là

một tập hợp năm uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức). Trong năm uẩn chỉ có sắc uẩn là

vật chất, còn bốn uẩn còn lại đều là phi vật chất, hay là thuộc phạm trù tinh thần.

Một cách phân tích khác, ngược với cách phân tích năm uẩn là chia sắc uẩn thành

bốn yếu tố: địa, thủy, hỏa, phong gọi là bốn đại và tập hợp các yếu tố phi vật chất

hay tinh thần thành một nhóm, gọi chung là thức hay thức đại (địa, thủy, hỏa, phong,

thức).

72

Sau thời Đức Phật, các luận gia suy diễn rằng có một cái thức gọi là A lại da

hàm chứa mọi nội dung của thức. “Vì thức này giữ gìn không để mất chủng tử các

pháp nên gọi là Vô một thức; vì là cội gốc các pháp nên gọi là Bản thức, vì có tác

dụng rất mạnh đối với các thức nên gọi là Thức chủ; vì là nguồn gốc của vũ trụ vạn

hữu, hàm chứa vạn hữu, làm cho vạn hữu tồn tại, không mất đi, nên gọi là Tàng

thức; vì hàm chứa các chủng tử để sinh ra và nuôi lớn vạn hữu nên cũng gọi Chủng

tử thức” [4, tr.39]. Nội dung của thức này luôn luôn biến đổi theo hoàn cảnh sống

và theo hành động của chúng sinh mang nó. Chính đấy là năng lượng, là sức mạnh,

gọi là nghiệp lực mà khi một người chết đi, nó đẩy A lại da hay Thức nương gá vào

một thân thể mới vừa tượng hình có hoàn cảnh phù hợp với nó. Đây là ý nghĩa của

“linh hồn đi đầu thai” mà Phật giáo gọi là Thức đi đầu thai, không phải là quan

niệm linh hồn bất tử đi đầu thai. Nếu nói có linh hồn bất tử đi đầu thai thì không lẽ

nếu ai kiếp này làm người giàu sang thì sau khi chết rồi, linh hồn giàu sang ấy vẫn

còn và tiếp tục đầu thai làm kiếp khác và cũng sinh làm người giàu sang. Hoặc

ngược lại nếu người nghèo khổ thì kiếp sau vẫn cứ nghèo khổ. Quan niệm này hoàn

toàn trái ngược với triết lý nhân quả - nghiệp báo của đạo Phật.

Đức Phật trong kinh Bổn Sinh, đã kể về nhiều kiếp trước của Ngài khi còn là

một hành giả đang tu tập. Tuy nhiên, theo định luật nhân quả, chúng ta không cần

phải biết chết rồi sẽ đi về đâu; nhưng điều ta cần phải biết đó là chúng ta đang sống

với một tâm thức như thế nào, đang gieo trồng thiện nghiệp hay ác nghiệp? Vấn đề

còn lại đã có luật nhân quả - nghiệp báo điều động.

Trong kinh Đại Duyên (Mahanidanasutta) của Trường Bộ (Dighanikaya),

Đức Phật cật vấn Tôn giả A nan: “Này A nan, nếu Thức không đi vào trong bụng

mẹ thì danh sắc có thể hình thành trong bụng mẹ không?”.

Tôn giả A nan đáp: “Bạch Thế Tôn, không”. Rõ ràng Đức Phật đã dạy rằng

chính cái Thức đi đầu thai.

Về sau, nhiều luận gia gọi cái Thức đi đầu thai này là Càn thát bà hay thân

Trung hữu, Trung ấm mà giới Phật học vẫn còn chưa thống nhất quan điểm về tính

chất, sự hiện hữu và thời gian hiện hữu của nó trước khi nhập thai.

73

Nhìn chung, Phật giáo được xem như là “chủ nghĩa vô thần” đối với những

người có tư tưởng độc lập hay những nhà hữu thần, chỉ vì Phật giáo không tin tưởng

vào một đấng sáng tạo, toàn năng và vĩnh cửu. Tuy nhiên, quan niệm về “vô thần”

trong Phật giáo không đồng nghĩa với “vô thần” của những nhà thuần túy duy vật

hay duy vật biện chứng. Học thuyết Phật giáo là sự hòa hợp giữa tâm và vật. Phật

giáo không tán thành triết lý vật chất hủy diệt thuần túy, vì cho rằng đó là một lý

thuyết sai lầm. Sáu cõi luân hồi (Trời, Người, A tu la, Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sanh)

và các cảnh giới Thánh hiền thanh tịnh (Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát, Phật) đủ để

chứng minh rằng quan điểm của Phật giáo không phải là sự hủy diệt hoàn toàn sau

khi chết hay là có linh hồn bất tử, mà là sự thay đổi không ngừng. Mỗi chúng sinh

là một đấng sáng tạo muôn vẻ cho chính mình xuyên qua sự vô hạn của kiếp luân

hồi, tùy theo nghiệp thức gây tạo như thế nào mà sinh vào cảnh giới thích ứng như

thế đó.

Nói tóm lại, Phật giáo không quan niệm có linh hồn bất tử, vì như giáo lý Vô

ngã đề cập, không hề có một bản ngã hay cái ngã linh hồn nào trường tồn bất diệt,

mà chỉ có dòng nghiệp thức của các chúng hữu tình luôn hiện hành. Nếu có một cái

ngã linh hồn bất tử, thì con vật không thể sau khi phát triển thiện nghiệp qua nhiều

đời, có thể chuyển sinh sang làm kiếp con người; hoặc là con người không thể

chuyển sinh thành một vị Bồ tát hay một vị Phật. Bởi theo cái nhìn của Phật giáo,

loài vật ngoài hoạt động theo bản năng, chúng còn có tính thiện, tức có tính giác,

cũng biết nhận thức, phân biệt. Tùy theo nghiệp nhân đã tạo nặng hay nhẹ mà sinh

vào loài vật nào đó, đến khi hết nghiệp có thể được sinh làm người, chứ không thể

đã làm sinh làm loài vật thì làm loài vật mãi.

Tuy nhiên, dòng nghiệp thức chính là sự vận hành liên tục từ đời này qua đời

khác trong cõi luân hồi mà nền tảng của sự vận hành này chính là tâm thức của mỗi

chúng sinh. “Theo tông Duy thức, tâm thức chính là thức thứ 8 (A lại da). Vì thức

này bao hàm nghĩa tích tập, là thể căn bản sinh ra các pháp, nên cũng gọi là Tập

khởi tâm, nghĩa là A lại da thức chứa nhóm chủng tử và sinh khởi hiện hành” [8,

tr.4317]. Do đó, đạo Phật không thừa nhận có một linh hồn bất tử, nhưng thừa nhận

có sự chuyển biến của tâm thức trong suốt hành trình sinh, tái sinh và nghiệp nào

74

nặng sẽ lôi mình trước. Cho đến khi nào hành giả tu tập đạt được thánh quả như A

la hán, Phật, hay Bồ tát ở địa vị không thối chuyển này, thì vòng luân hồi chấm dứt.

Lúc bấy giờ vấn đề sinh và tái sinh là do nguyện lực chứ không phải là do sự thúc

đẩy của nghiệp lực nữa.

Từ đó cho thấy, với những luận giải trên tạp chí Viên âm và Tiến hóa phần

nào đã chứng minh được những tư tưởng Phật giáo tiến bộ đối với cái nhìn của khoa

học. Riêng HT. Bích Liên trên Từ bi âm và HT. Khánh Hòa trên Duy tâm Phật học

có nhắc đến A lại da thức và nghiệp thức đi đầu thai là đã có cái nhìn đúng với triết

lý Phật giáo. Tuy nhiên để kết luận, cả hai vị đều cho đó là linh hồn, là có linh hồn

tồn tại thì không chính xác. Vì vậy, cái được tạp chí Viên âm gọi “cái ấy” chính là A

lại da thức, là Thức hay Nghiệp thức đều đồng nghĩa nhau và tất cả đều do vô minh

từ vô thỉ mà có. Nó là vọng thức, luôn luôn vận hành, biến đổi theo hoàn cảnh và

hành tác của một người, và là động lực khiến chúng sinh đi đầu thai, trôi lăn trong

sinh tử luân hồi. Nếu biết tu tập, Thức sẽ biến thành Trí tuệ tuyệt đối, thành giải

thoát tối hậu, chấm dứt sinh tử, chứng đạt Niết bàn.

2.1.3. Vấn đề cảnh giới Cực lạc và địa ngục

Có thể nói, ngoài hai vấn đề nêu trên, đạo Phật vẫn còn nhiều vấn đề triết lý

sâu xa trong thời kỳ Chấn hưng Phật giáo thập niên 1930-1940, được tăng già và

các nhà cư sĩ Phật học đưa ra nghiên cứu, thảo luận: “Có hay không có Tây phương

Cực lạc? Có hay không có cảnh giới địa ngục?”... Những sự kiện này đã được báo

chí Phật giáo bàn luận rất phong phú trong tinh thần đối thoại thẳng thắn, kể cả

những buổi thuyết giảng, tạo nên sinh khí mới trên diễn đàn Phật giáo đấu tranh

giữa những trào lưu có tư tưởng tiến bộ và lạc hậu.

Người đầu tiên bàn luận về vấn đề Cực lạc và địa ngục có thể nói là sư Thiện

Chiếu. Ông đã khẳng định lập trường của mình trong sách Phật giáo vấn đáp rằng

cảnh Niết bàn, Cực lạc không phải là không có gì hết. Niết bàn nghĩa là “tắt”, cũng

như gió thổi lửa tắt, tắt là tắt vọng tâm, không bám theo giả tướng mà trở về bản thể

“Chơn tâm”. Niệm Phật để dứt vọng tâm, đừng nên hiểu lầm rằng niệm Phật sẽ

được Phật rước về Tây phương Cực lạc, để rồi cố niệm chuỗi này qua chuỗi nọ mà

75

lòng tham lam, độc ác vẫn còn. Nếu ỷ lại có Phật rước mà vọng tâm không dứt trừ,

thì dù có niệm Phật trăm ngàn kiếp cũng vẫn ở trong luân hồi sinh tử.

Liên Tôn, chủ bút tạp chí Từ bi âm và nhiều học giả khác đều lên tiếng tranh

cãi với cách luận giải đó của Thiện Chiếu. Đây là dịp để Thiện Chiếu luận bàn chi

tiết hơn về tư tưởng của mình và hiển nhiên sự tranh luận giữa các tạp chí, tờ báo

với mục đích là làm sáng tỏ Phật pháp.

Liên Tôn hỏi thẳng Thiện Chiếu: “Nếu theo lời sư, “tin Phật rước là sai lầm”

thì xưa Phật Thích Ca nói trong kinh Di Đà: “Nếu chúng sinh nào giữ niệm danh

hiệu Di Đà thì chư Phật sẽ hiện ra trước mắt”, còn ngài Thế Chí nói trong kinh Lăng

nghiêm: “Nay ta ở cõi này mà rước người niệm Phật về nơi Tịnh độ”, chẳng phải là

Phật Di Đà nguyện lầm, Đức Thế Chí cũng rước lầm hay sao?”.

Từ đó, Thiện Chiếu đã trả lời cho Liên Tôn rằng thuyết thưởng phạt của tôn

giáo quan niệm ai biết làm điều lành, sau khi chết được sinh lên Thiên đường, còn

làm điều ác, sẽ bị đọa vào địa ngục thì quả thật rất mơ hồ, chưa thuyết phục. Vì

ngay trong đời hiện tại con người đang sống, không có gì chứng minh rõ về cảnh

giới Cực lạc và địa ngục. Cho nên nói Thiên đường, địa ngục thật ra chỉ là danh

hiệu để chỉ cho sự vui khổ ở đời. Phật giáo nói rằng: “Lòng mê muội thì khổ, ấy gọi

là chúng sinh, lòng sáng suốt thì vui, ấy xưng là Phật”. Vậy thì lẽ nào chúng ta phải

đợi có Thiên đường mới vui, có địa ngục mới khổ sao?

Tiếp đó, Thiện Chiếu đã giải thích cụ thể hơn rằng theo triết lý Phật giáo,

Niết bàn không phải là cảnh, là cõi hay là nước của Phật. Nếu để tâm định tĩnh,

không mê muội thì được an lạc, đó gọi là Niết bàn, là Cực lạc.

Tạp chí Viên âm đồng ý với Thiện Chiếu về luận điểm này, nên đã để Chỉnh

Túc tham gia vào Viên âm số 12, với bài luận Đâu là Thiên đường, địa ngục. Tác

giả đã nghiễm nhiên cho rằng: “Người vui thì cảnh buồn cũng hóa ra vui, người

buồn thì cảnh vui cũng hóa ra buồn. Hễ tri túc làm lành thì đâu đâu cũng là Thiên

đường, tham cầu làm dữ thì đâu đâu cũng là địa ngục. Thế mới biết Thiên đường

cũng là tâm, địa ngục cũng là tâm, một tâm mà sinh ra hai lối, chúng ta nên đi lối

nào?”.

76

Đồng với quan điểm này còn có Tri Huyền Tử với bài viết Thiên đường và

địa ngục với ngày Rằm tháng bảy đăng trên Quan âm số 31, ra tháng 8 năm 1942:

“Phật lại nói: Thiên đường và địa ngục ở tâm ấy, mà Tịnh độ với luân hồi cũng trụ

cả nơi tâm ấy”. Từ đó, Tri Huyền Tử lý giải địa ngục với quả địa cầu cũng là sự ảnh

hưởng hình phạt, không ở đâu xa. Nếu từng nhà, từng người không sớm lo tu tập

theo chính pháp sẽ là kẻ có lỗi. Mọi sự tàn ác, ngược ngạo, trái với lương tâm là cái

gốc tội báo, vì nó vốn tích tụ nơi tâm. Muốn phá địa ngục để được an vui chốn

Thiên đường thì hãy tự phá địa ngục ở ngay tâm mình, bởi sự luân chuyển địa ngục

hóa ra Thiên đường ở ngay trước mắt thế gian mà thôi.

Như vậy, theo Thiện Chiếu cũng như tạp chí Quan âm và Viên âm cho rằng

các cảnh giới Cực lạc hay địa ngục là do chính tâm mình tạo ra và ngay ở thế gian

này mà không phải do ai tạo hết. Chỉ cần con người nói, làm, suy nghĩ với tâm tốt

thì sẽ được sống vui vẻ, hạnh phúc ở cõi Tịnh độ thế gian. Bằng ngược lại, con

người sống với tâm bất thiện, không chịu sửa bỏ lỗi lầm thì nhất định sẽ sống khổ

đau trong cõi địa ngục trần gian. Nhân duyên quả báo rõ ràng, tất cả tội phước đều

do mình tạo ra và do chính mình nhận lãnh.

Tuy nhiên, về phía Liên Tôn, cũng có nhiều học giả ở tạp chí khác ủng hộ

quan điểm cho rằng có cảnh giới Cực lạc hay địa ngục ở nơi nào đó. Trong tạp chí

Bát nhã âm số 23, Giác Quang đã đưa ra bài luận Phải tin về pháp Tịnh độ, xác định

phương pháp tu Tịnh độ một cách đúng đắn: “Người không có đức tin thì chẳng hề

thưởng thức đặng lối kết quả mỹ mãn. Người chẳng tin thì mỗi mỗi hành vi cử chỉ

gì chẳng hề để vào trong ký ức. Than ôi! Như thuyết Tịnh độ đây do đâu mà chẳng

tín vậy? Sao gọi là Tịnh độ? Cõi Tịnh độ đây là cõi thế giới Cực lạc ở phương

Tây…”.

Cùng với pháp tu Tịnh độ, tác giả Minh Lý với bài viết Dứt tất cả nghiệp

chướng đặng sanh về Tịnh độ đăng trên tạp chí Bát nhã âm số 14, ra ngày 15.4.1939

đã một lần nữa nêu bật giá trị của pháp môn này, với mục đích giúp người học Phật

có cái nhìn đúng đắn và cụ thể hơn. Tuy cách nhìn này của ông có phần phiến diện,

nhưng cũng đã bày tỏ được tư tưởng của mình về cảnh giới Tịnh độ. Ông cho rằng

cũng vì nghiệp chướng làm cho chúng sinh hệ lụy vào ba cõi, trôi lăn trong sáu nẻo

77

luân hồi, chịu nhiều khổ đau trong vòng sinh tử. Chỉ có sự tu hành, noi theo Tịnh độ

chính tông thì mới mong thoát khổ.

Trên Duy tâm Phật học số 5, có đăng bài giảng của Phạm Chơn Trí. Ông đã

kể lại chuyện Phật Thích Ca nói về cảnh Cực lạc rất thú vị: “Từ đây qua đến Tây

phương cách mười muôn ức thế giới của Phật, có một thế giới kêu là Cực lạc, thế

giới ấy có một vị Phật hiệu là A Di Đà hiện nay đang thuyết pháp. Những chúng

sinh ở cõi đó thì không có các điều khổ, chỉ hưởng các điều vui, không phiền não

thống khổ, cho nên thế giới ấy gọi là Cực lạc (tột sự vui)”.

Ngay từ Đuốc tuệ số đầu tiên ra ngày 10.12.1935, đã có sự đóng góp của

Nguyễn Trọng Thuật. Ông cũng khẳng định tư tưởng cho rằng có cảnh giới Cực lạc

của Phật A Di Đà. Tiếp đến số 129 của Đuốc tuệ, ra tháng 4 năm 1940 còn có bài

viết tả cảnh Tây phương Cực lạc chi tiết và giống như thật. Trong đó nói rằng chúng

sinh sống lâu vô cùng, muốn gì có nấy v.v.. Chúng sinh ở đó không ai lấy của ai,

không ai dâm dục, giận dữ, ngu si, kiêu mạn, khổ não; không ai đói khát, tiếng nói

của mọi người đều thanh nhã. Về cây cảnh thì luôn đầy hoa quả, gió thổi vào là phát

ra âm nhạc, chúng sinh hòa hợp, bàn giảng chính pháp. Mặt đất bằng phẳng như

tâm của chúng sinh phẳng lặng. Muốn qua nước Tịnh độ, muốn về xứ Tây phương

Cực lạc thì dễ lắm, chỉ cần lúc nào cũng đọc sáu chữ: Nam mô A Di Đà Phật!

Trên Đuốc tuệ số 29, Lê Đình Hoa cũng bênh vực cho tư tưởng này. Ông cho

biết ý suy nghĩ là ý nghiệp, thân hành động là thân nghiệp và miệng nói năng là

khẩu nghiệp. Nếu để ba nghiệp theo con đường ác thì sẽ sinh vào địa ngục, Ngạ quỷ,

Súc sinh; nghiệp trung bình thì sinh ra làm Người, làm Tu la (Quỷ thần); còn tạo

nghiệp lành thì được sinh lên cõi trời, cõi Cực Lạc an vui.

Nhàn Vân Đình cũng tham gia trong Đuốc tuệ số 158 qua bài Thiện ác. Ông

tiếp bước người trước, cũng khẳng định nếu làm điều lành thì con người đi theo

nghiệp tốt, còn làm điều xấu thì chịu nghiệp không tốt: “Hễ làm thiện thì được nhẹ

nghiệp, kinh gọi là bạch nghiệp (nghiệp trắng), cho nên nổi lên mà lên con đường

thiện… Hễ làm ác thì phải nặng nghiệp, kinh gọi là hắc nghiệp (nghiệp đen), cho

nên chìm xuống mà xuống con đường ác…”.

78

Với tư tưởng đó, trên tạp chí Từ bi âm số 47, ra ngày 1.2.1933 có HT. Chánh

Tâm đã nói về Bốn mươi tám lời phát nguyện của Phật A Di Đà, nhằm chỉ cho tín

đồ con đường tu tập sinh về Cực lạc theo Phật A Di Đà.

Tạp chí Tam bảo cũng rất quan tâm về sự kiện có hay không có cảnh giới

Cực lạc và địa ngục, nên ngay từ số 1, ra ngày 15.1.1937, tạp chí đã lý giải:

Phật ta vì thương chúng ta ngu dại, nên lấy cái lòng từ bi quảng đại, dạy ra

đủ pháp năm thừa, 1. Nhơn thừa, dạy người giữ năm điều giới cấm, thời

đời đời kiếp kiếp, thường được thân người, khỏi đọa về loài khác; 2. Thiên

thừa, dạy người tu mười nghiệp thiện, tức tâm đừng tham đừng sân, đừng

mê dại. Thân đừng sát hại, đừng trộm cắp, đừng tà dâm; miệng đừng láo

xược, đừng thêu dệt, đừng đâm thọc, đừng nói hung dữ, nhơ nhớp, thời

báo thân được sanh về cõi trời. Còn ba thừa sau là Phật dạy người do thanh

văn thừa, duyên giác thừa mà tu tới Bồ tát thừa, dứt luôn nghiệp sanh tử

luân hồi, về cảnh Tịnh độ, chứng thành Phật quả, rồi trở ra độ chúng sinh...

Có thể nói, khi bàn về thế giới, cảnh giới, đã có rất nhiều kinh điển Phật giáo

đề cập đến tam thiên đại thiên thế giới, vô lượng vô biên thế giới, hằng hà sa số thế

giới. Địa ngục chỉ là một trong sáu cảnh giới của cõi Dục (Trời, A tu la, Người, Súc

sinh, Ngạ quỷ, Địa ngục) thuộc thế giới Ta bà. Tùy theo nghiệp lực của mỗi chúng

sinh mà tái sinh vào một cảnh giới tương ứng với nghiệp lực của mình. Mỗi cảnh

giới mà chúng sinh thọ dụng phải đầy đủ ba yếu tố là vị trí, thân tướng và tâm thức.

Địa ngục là một trong những cảnh giới mà kinh điển thường nói đến, nơi đó

chúng sinh phải chịu khổ cùng cực mà không ở đâu có thể sánh bằng. Vị trí địa

ngục, theo kinh Địa Tạng thì nằm ở phương Đông của cõi Diêm Phù Đề 3 , có núi

Thiết Vi (bao bọc bằng sắt) trong đó tối om, ánh sáng mặt trời mặt trăng không soi

tới. Trong núi ấy, gồm những địa ngục lớn, nhỏ… tùy theo tính chất của những

3 Diêm Phù Đề: Theo Từ điển Phật học Huệ Quang (tập II, tr. 1078): Cõi nước có trồng nhiều cây Diêm Phù và sản xuất ra vàng Diêm Phù đàn. Theo Luận Câu xá 11, trong 4 đại châu lớn, chỉ châu này có tòa Kim cương, tất cả Bồ tát sắp thành Chính giác đều ngồi tòa này… Theo trên thì biết, Diêm Phù đề vốn chỉ cho Ấn Độ, về sau chỉ chung cho thế giới nhân gian.

nghiệp ác đã tạo mà người ta sẽ bị chiêu cảm vào những cảnh địa ngục khác nhau.

79

Chúng ta nhờ tạo nghiệp nhân làm người nên được sinh làm người, còn những

chúng sinh nào tạo nghiệp nhân địa ngục thì bị đọa đày trong địa ngục v.v.. Đây là

một sự thật của định luật nhân quả - nghiệp báo, vì theo Phật giáo, trước hết có thể

hiểu địa ngục là một cảnh giới, một cõi sống cụ thể, không phải là ẩn dụ hay biểu

tượng.

Nếu như chúng ta tạo nhiều nghiệp ác là đã tự chọn lấy con đường vào địa

ngục, thì cũng không ai khác có thể cứu chúng ta ra khỏi địa ngục ngoài việc tự tâm

chúng ta biết thay đổi, hướng về điều lành. Mỗi một niệm lành khởi lên sẽ giúp

người ta rời xa dần các cảnh địa ngục, giảm nhẹ các hình phạt khổ não mà họ đang

thọ nhận.

Cho nên, nếu đứng trên lập trường duyên khởi có thể nói địa ngục hay vạn

pháp đều không thật có, là “không”, như “huyễn”, hay qua lăng kính “Tam giới duy

tâm” thì có thể nói địa ngục hay Cực lạc là tùy theo trạng thái tâm mình đau khổ

hay hạnh phúc, nhưng điều ấy chỉ đúng về phần “lý” trong quan điểm về cảnh giới

mà thôi. Đức Phật khi thuyết minh về cảnh giới bao gồm “lý” và “sự” rất rõ ràng.

Đạo Phật chủ trương “sự lý” phải viên dung, tánh tướng không hai. Như nước và

sóng không thể tách rời ra được. Thiên về lý mà bỏ quên sự sẽ dẫn đến những ngộ

nhận đáng tiếc, nhất là sự phá kiến, không tin nhân quả, phủ nhận tội phước.

Thế nào gọi là “sự Cực lạc”? Sự là hình tướng, là những hiện tướng bên

ngoài mà chúng ta có thể thấy biết được. Dựa theo kinh A Di Đà do đức Phật Thích

Ca đã giới thiệu và diễn tả về cảnh giới Tây phương Cực lạc, chúng ta tin chắc có

cõi Cực lạc, có Phật A Di Đà làm giáo chủ và có các hàng Thánh chúng cũng như

như những vị đã được vãng sinh về nơi đó. Nhờ tin chắc như vậy nên chúng ta cố

gắng nương vào danh tướng sáu chữ “Nam mô A Di Đà Phật” mà trì niệm. Do niệm

chuyên nhất lâu ngày nên được thuần thục, đạt được nhứt tâm bất loạn. Như thế,

chắc chắn khi lâm chung, chúng ta sẽ được vãng sinh về Cực lạc.

Thế nào là lý Cực lạc? Lý là bên trong, thuộc về tâm thể, chúng ta không thể

dùng mắt thường để thấy được. Tâm thể nầy mỗi người đều sẵn có. Đây là một thực

thể bất sinh, bất diệt, còn gọi là chơn tâm hay lý tính. Khi chúng ta nhiếp tâm niệm

hồng danh Phật và lúc đó tâm ta an trụ vào câu Phật hiệu, không khởi nghĩ việc gì

80

khác, nghĩa là không khởi ý nghĩ về hai bên: có không, phải trái, tốt xấu v.v.. thì

khi đó tự tánh Di Đà hay Duy tâm Tịnh độ hiện tiền. Như vậy sự và lý không có hai.

Tuy không hai, nhưng nói một cũng không được. Ví như nước trong không ngoài

nước đục mà có. Muốn có nước trong, ta phải chịu khó lọc cặn bã. Khi cặn bã

không còn, chất nước trong hiện ra. Trong nhà Phật thường nói: “nương sự hiển lý

hay tức lý hiển sự là vậy”. Sự và lý phải dung thông. Nước đục là dụ cho sự, nước

trong là dụ cho lý. Thế thì, lý không ngoài sự và sự không ngoài lý mà có. Do khi tu

tập, chúng ta chưa thể nhập được lý tính, nên cần phải nương vào sự tướng.

Cực lạc (Niết bàn), theo kinh điển Phật giáo định nghĩa gồm có hai phương

diện [9, tr.2833]:

- Hữu dư y Niết bàn: chỉ cho người đã đạt đến cảnh giới thoát khỏi vòng luân

hồi sinh tử, nhưng nhục thể vẫn còn tồn tại.

- Vô dư y Niết bàn: là cảnh giới vĩnh viễn, phần nhục thể không còn hiện

hữu nữa.

Nếu đứng về phương diện lý luận mà nói thì Vô dư y Niết bàn là cảnh giới

trên Hữu dư y Niết bàn. Vì còn có thân thể thì dù tâm có muốn thoát ly già, bệnh,

chết cũng không tránh khỏi những nhược điểm của phần nhục thể. Cho nên, chỉ khi

nào trút bỏ cả phần nhục thể thì mới vĩnh viễn an toàn.

Song, đây chỉ nói về phương diện lý luận mà thôi, nếu theo ý nghĩa tôn giáo

thực tế mà nói thì Đức Phật lại coi trọng Hữu dư hơn Vô dư. Vì Đức Phật đã tự thể

nghiệm Niết bàn vĩnh viễn ngay trong hiện tại, và muốn cho chúng sinh cũng thể

nghiệm được như Ngài.

Do vậy, có thể nói, đối với bậc Giác ngộ, thành tựu tuệ giác Bát nhã thì vạn

pháp đều “không”, còn đối với chúng sinh nói chung, nghiệp lực nặng nề, vô minh

che lấp thì vạn pháp đều “có”.

Như vậy, theo tư tưởng Phật giáo vẫn cho rằng có cảnh giới địa ngục và Cực

lạc, nhưng phải hiểu trên lập trường vạn pháp hết thảy đều do nhân duyên sinh,

ngoài nhân duyên ra không có một vật gì tồn tại. Hơn nữa, chính Phật và các đệ tử

của Ngài cũng thường ví dụ Vô dư y Niết bàn ví như ngọn đèn, hễ “dầu hết thì lửa

81

tự tắt”. Và cứ theo ví dụ ấy mà suy ra thì không thể bảo Niết bàn là hư vô được.

Cảnh giới Vô dư y Niết bàn là cảnh giới tuyệt đối vắng lặng, vĩnh viễn bất động: vì

nó là đương thể của pháp tính tuyệt đối, của ý chí tuyệt đối. Nhưng, nếu đứng trên

lập trường hiện tượng giới mà nhận xét thì đó chẳng qua chỉ là thực hiện cái lý

tưởng “ẩn mất không hiện” trong mắt chúng sinh.

Nói chung, học thuyết về nghiệp là chu kỳ của sự tạo tác và hình thành của

tâm cùng vật, đặt căn bản trên giáo lý nhân quả, tác động và chi phối sự hiện hữu

của chúng sinh. Chủ thuyết “không” trong đạo Phật chỉ là sự từ chối của bản ngã bất

biến đã gây nên đau khổ cho con người. Ngược lại, nó là một giáo lý giải thoát hoặc

Niết bàn, là trạng thái hủy diệt hoàn toàn của tham, sân, si, hủy diệt những khổ đau

của ngọn lửa dục vọng đang thiêu đốt chúng sinh. Tuy nhiên, theo triết lý rốt ráo

của đạo Phật, Niết bàn không phải là cảnh giới có chủ thể và đối tượng, vì vậy nó

không đồng với hình thức và ý tưởng tạo lập của một đấng vĩnh hằng.

Trường hợp Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, ròng rã sáu năm trời chuyên tâm

đoạn trừ phiền não mà chưa thể thành công, nhưng chỉ ngồi tĩnh lặng tư duy trong

khoảng bốn mươi chín ngày thì đạt đến giác ngộ, là vì trong thời gian chuyên tâm

tiêu diệt phiền não đã không còn dính líu đến sinh, già, bệnh, chết. Trên cơ sở này,

từ ngữ Niết bàn không phải chỉ có nghĩa là “dập tắt”, nó được dùng để biểu thị cái

cảnh giới “diệu lạc tối cao”, là “Hữu dư y Niết bàn”.

Như vậy, những luận giải trên của Đuốc tuệ, Bát nhã, Tam bảo, Từ bi âm cho

rằng có cõi Cực lạc và địa ngục hay những luận giải của Thiện Chiếu, Viên âm và

Quan âm đều không trái với triết lý Phật giáo. Do báo chí lúc bấy giờ không có lập

trường thấu đáo cả hai mặt “lý” và “sự” nên xảy ra sự tranh luận. Thật ra, nếu muốn

sinh về Cực lạc thì cũng phải chuyên tâm làm điều lành, dứt mọi vọng tưởng, như

trên Đuốc tuệ số 129 nói chỉ cần nhất tâm niệm Phật A Di Đà, vì lúc ta chuyên tâm

niệm Phật A Di Đà thì mọi vọng tưởng không có cơ hội khởi sinh. Điều này cũng

không khác gì quan niệm bên phía Thiện Chiếu cho rằng khi tâm an lạc thì đó là

Cực lạc, bởi theo ý Thiện Chiếu, nếu tâm muốn an lạc cũng phải dứt trừ vọng tưởng,

dứt trừ phiền não.

82

2.1.4. Vấn đề tồn tại của ngoại giới

Từ lâu, con người đã không ngừng tìm hiểu nguồn gốc của thế giới và vẫn

luôn thắc mắc rằng thế giới này có từ khi nào? Câu hỏi ấy chứa đựng một bí ẩn vô

cùng to lớn. Nhưng thực tế, vấn đề nhận thức về thực tại của thế giới bên ngoài, hay

thực tại của các đối tượng thế giới bên ngoài, nhìn chung là chưa được giải quyết

một cách triệt để. Phật giáo đưa vào hệ tư tưởng Việt Nam những quan niệm biện

chứng với các khái niệm “vô thường”, “vô ngã”, “duyên sinh”. Ở đó cho thấy Phật

giáo nhìn sự vật trong sự vận động và biến đổi liên tục, không có gì tồn tại mãi mãi.

Tuy nhận thức đó chỉ thấy được cái biến đổi mà không thấy được cái ổn định tương

đối, chỉ thấy được cái vận động mà không thấy được cái hình thức của vận động,

tuy dễ đi tới chiều hướng bi quan và thái độ buông xuôi, nhưng mặt khác phải thấy

nhận thức như vậy là có chiều sâu, là thấy được một phương diện cơ bản của quá

trình phát triển sự vật.

Vào thời kỳ những năm đầu TK.XX, lúc mà các tạp chí đua nhau ra đời thì

những tư tưởng Phật học tiến bộ cũng lần lượt xuất hiện. Hầu như lúc bấy giờ, các

tạp chí, tờ báo Phật học: Từ bi âm, Duy tâm Phật học, Viên âm, Đuốc tuệ v.v.. đều

nhất trí quan điểm Phật giáo nhìn nhận thế giới quan là “các hành vô thường”, tức là

muôn vật đều vận động biến đổi không ngừng.

Đạo Phật cho rằng “vô thường” là không cố định, luôn biến đổi. Các sự vật,

hiện tượng trong vũ trụ không đứng yên mà luôn luôn biến đổi không ngừng theo

chu trình bất tận là “sinh - trụ - dị - diệt”, nghĩa là sinh ra, tồn tại, biến dạng và mất

đi. Do đó, không có gì trường tồn, bất định mà chỉ có sự vận động biến đổi không

ngừng. Với quan niệm này, Đức Phật dạy: “Tất cả những gì trong thế gian đó là

biến đổi, hư hoại, đều là vô thường”. Vì vậy mọi sự vật không mãi ở yên trong một

trạng thái nhất định, mà luôn luôn thay đổi hình dạng, đi từ trạng thái hình thành

đến biến dị rồi tan rã. Sinh và diệt là hai quá trình xảy ra đồng thời trong một sự vật,

hiện tượng cũng như trong toàn thể vũ trụ rộng lớn. Đức Phật cũng dạy rằng không

phải là sự vật, hiện tượng sinh ra mới gọi là sinh, mất (hay chết đi) mới gọi là diệt,

mà trong sự sống có sự chết, chết không phải là hết, không phải là hết khổ mà chết

là điều kiện của một sự sinh thành mới.

83

Theo Phật giáo, thế giới vũ trụ được dệt nên bởi những hệ thống trùng trùng

duyên khởi. “Cái nầy có thì cái kia có, cái nầy sinh thì cái kia sinh, cái nầy không

thì cái kia không, cái nầy diệt thì cái kia diệt…”. Đó là nhận định căn bản và sâu sắc

của đạo Phật. Vì vậy, thế giới quan mà Đức Phật thuyết minh là thế giới quan nhân

duyên. Trong thế giới nhân duyên, không thể có những hiện tượng thường hằng

vĩnh cửu. Các pháp do nương nhau mà tồn tại, nương nhau mà hoại diệt. Tất cả đều

có sự liên hệ mật thiết với nhau. Không có sự liên hệ ấy, sẽ không có một vật nào

được thành lập. Sự liên hệ ấy gọi là nhân duyên.

Từ chỗ nhận định ấy mà báo chí Phật giáo lúc bấy giờ hầu như đi đến kết

luận “các pháp không có thực tính”. Về vấn đề này, tạp chí Viên âm ra sức chứng

minh sự kiện “muôn vật không thực có”. Trên Viên âm số 5, ra tháng 5 năm 1934 có

bài viết đề cập: “Một vật chi, phải tự nó có tính chất nhất định mới gọi là có được.

Nay chúng ta hãy đem những món mắt thấy ra mà xét thử là thực có hay là không

thực có”. Từ đó, Viên âm giải thích những vật do mắt thấy tuy nhiều, nhưng không

ngoài bốn yếu tố là sáng và tối, có hình và không hình. Tất cả đều phải nương nhau

và đối lập với nhau mới có sự hiện hữu. Suy cho cùng, không có vật gì mà riêng bản

thân nó có tính chất nhất định. Rồi Viên âm kết luận muôn vật trên đời là không

thực có.

Tạp chí Viên âm số 6, ra tháng 5 năm 1934 cũng luận rằng dầu sự vật gì, xét

cho cùng tột chỉ thấy có các nhân duyên mà không thấy thực có một sự vật nào.

Nhưng các nhân duyên kia cũng chỉ là sự vật, cũng chỉ vì nhân duyên hòa hợp mà

thành, chứ cũng không thật nữa. Tạp chí còn dẫn chứng đoạn kinh Lăng nghiêm:

“Nhân duyên hòa hợp, hư vọng hữu sinh, nhân duyên biệt ly, hư vọng đoạn diệt”,

rồi đi đến kết luận:

Vì nhân duyên mà có các pháp, nên các pháp đều là các pháp của nhân

duyên. Vì các pháp mà có nhân duyên nên nhân duyên đều là nhân duyên

của các pháp, các pháp làm ra nhân duyên, nhân duyên làm ra các pháp,

ngoài các pháp không có nhân duyên, ngoài nhân duyên không có các

pháp, các pháp vốn không, nhân duyên chẳng thật, nếu rõ thấu lý nhân

duyên thì rõ được cái tướng chân thực của mọi sự vật trong vũ trụ.

84

Nếu lập luận như vậy thì quả là tạp chí Viên âm đã đi theo đúng tư tưởng

triết lý Phật giáo cho rằng vạn pháp duyên sinh mà không phải thực có. Vì duyên

sinh nên chúng vô thường, không trường tồn vĩnh cửu.

Song song với quan điểm này, còn có HT. Đôn Hậu luận giải trong tạp chí

Viên âm ra ngày 27.8.1937 về đề tài Đâu là con đường hạnh phúc. Hòa thượng

đồng ý với Lê Đình Thám về những kiến giải trên, nhưng lập luận có phần xác thực

và chi tiết hơn. Hòa thượng chứng minh mọi sự vật không thực có bằng cách cho

rằng các giác quan của ta đánh lừa ta. Lâu nay ta bị u mê bởi thành kiến và tập quán,

cho nên tin là có thực những điều tai nghe, mắt thấy.

HT. Đôn Hậu còn chứng minh rằng mọi sự vật trên đời đều có thể phân chia

thành từng bộ phận nhỏ, cho nên chúng chỉ có danh từ mà không có thực thể. Ví

như một quyển sách, do nhiều nhân tố hợp lại mới thành: bìa, giấy, mực và nhân

công. Tuy nhiên bìa là bìa, giấy là giấy hay nhân công là nhân công chứ không phải

là sách. Nếu tách rời những nhân tố đó ra, không có gì đáng gọi là sách. Cho nên

nói quyển sách cũng chỉ là một danh từ mà không có thực thể. Ngay cả thân con

người cũng thế, đều do các tế bào hợp lại mới thành, nên đó chỉ là danh từ mà

không phải thật có.

Trên tạp chí Viên âm số 70, năm 1944, Hướng Trai đã thực hiện bài viết Bình

tĩnh và lạc quan giúp con người biết vận dụng thuyết duyên sinh vào cuộc sống

chiến tranh đầy khổ lụy, mong mọi người thoát khỏi mọi khổ đau của kiếp sống

hiện tại. Hướng Trai nhấn mạnh trong hoàn cảnh đau thương như ngày nay, chiến

tranh lan rộng khắp hoàn cầu, không có người nào thoát khổ. Trong hoàn cảnh như

thế, kẻ thể chất yếu đuối, kẻ ốm đau, khốn cực đã đành, mà những kẻ thân thể dầu

vô bịnh, song nếu tinh thần bạc nhược thì cũng không khỏi khổ đau.

Hướng Trai còn giải thích điều đó bởi do nhiều nguyên nhân khác nhau. Thế

nhưng, có một nguyên nhân chủ yếu là do mê mờ, không biết những quy luật hiển

nhiên chi phối đời người, nên thấy mình chịu bó tay, mặc sức cho hoàn cảnh dày vò

với mọi điều đau khổ. Vì sự mê mờ ấy nên mỗi lúc gặp hoàn cảnh hơi biến đổi,

không yên tĩnh, thường nảy sinh ba tâm trạng: sợ chết, chán nản, bất định… Người

sợ chết chỉ vì chưa hiểu, chưa tin lý nhân duyên sinh diệt. Con người thương yêu

85

nhau không muốn rời xa nhau là điều hiển nhiên, song người có trí tuệ, nhận thấy

được mọi sự vật trên đời hễ có thành thì có hoại, quy luật ấy chẳng chừa bỏ ai, nên

họ không đeo mang mối sầu vô ích. Đó là người đã hiểu lý duyên sinh. Hiểu được

lý ấy tất có quan niệm đúng về sự sống chết vô thường ở đời. Như thế, con người sẽ

không còn quá lo âu về cái chết, sự chia lìa mà an tâm vui sống và biết chuyển hóa

mọi khổ sầu thành hạnh phúc.

Về sự kiện thuyết duyên sinh này, Thiện Tâm đã đăng bài viết trên Duy tâm

Phật học số 5, với nhận định rằng vũ trụ là “Vô thỉ, vô chung, vô cùng, vô tận”.

Nghĩa là không biết sinh ra khi nào và lúc nào sẽ tiêu diệt. “Hễ nhân tan bên này thì

duyên hiệp bê kia, có mất đi đâu mà gọi là tiêu diệt”.

Quả thật, những lập luận trên của Viên âm cũng như Duy tâm Phật học rất

đúng với triết lý “nhân duyên giả hợp” của Phật giáo. Đây chính là quan điểm thứ

nhất của thuyết duy thức Phật giáo cho rằng “vạn pháp không thực có”, mọi vật đều

do “nhân duyên giả hợp”. Tuy nhiên, với báo chí Phật giáo, để lý giải rõ hơn về vạn

vật và con người, họ đã dựa vào Duy thức luận của Phật giáo, còn nhận định con

người qua thuyết “vô ngã”, tức cho rằng con người không có thực ngã. Đây là đặc

điểm thứ hai của thuyết duy thức.

Phật giáo cho rằng thế giới xung quanh ta và cả con người không phải do

một vị thần nào sáng tạo ra mà được cấu thành bởi sự kết hợp của 2 yếu tố là “Sắc”

và “Danh”. Trong đó, Sắc là yếu tố vật chất, là cái có thể cảm nhận được, nó bao

gồm đất, nước, lửa và không khí; Danh là yếu tố tinh thần, không có hình chất mà

chỉ có tên gọi, nó bao gồm: thọ (cảm thọ), tưởng (suy nghĩ), hành (ý muốn để hành

động) và thức (sự nhận thức). Danh và sắc kết hợp lại tạo thành 5 yếu tố gọi là

“Ngũ uẩn”, chúng tác động qua lại với nhau tạo nên vạn vật và con người. Nhưng

sự tồn tại của sự vật chỉ là tạm thời, thoáng qua, không có sự vật riêng biệt nào tồn

tại mãi mãi. Do đó, không có “Bản ngã” hay cái tôi chân thực.

Như vậy, có thể hiểu Vô ngã là không có cái tôi chân thực. Vô ngã nghĩa là

không có một bản chất trường tồn bất biến, không có một chủ thể tuyệt đối, không

có một linh hồn bất diệt, không có Đấng sáng tạo vĩnh cửu. Tất cả các sự vật hiện

tượng đều do nhân duyên sinh, vì do nhân duyên sinh nên không thực có, vì không

86

thực có nên gọi là Vô ngã. Mọi sự vật hiện tượng Vô ngã là vì do duyên sinh, đã do

duyên sinh thì phải theo duyên diệt.

HT. Đôn Hậu lại lý giải rõ hơn về tính vô ngã của con người. Hòa thượng nói

rằng khi ta thấy, đó là cảm giác của con mắt; ta nghe, là cảm giác của tai; ta biết

nóng, lạnh, to, nhỏ, trơn, nhám, cứng, mềm,… là cảm giác của thân thể; ta biết phân

biệt mọi sự vật, đó là cảm giác của ý thức. Tách rời những cảm giác đó ra thì không

có gì tồn tại để gọi là thực ngã. Nếu cho rằng cảm giác nơi mắt là ngã, là ta, thì

không lẽ những cảm giác khác chẳng phải là ngã, là ta sao? Hoặc nếu tất cả các cảm

giác đều là ngã thì thành ra có quá nhiều cái ngã. Vậy đâu mới là cái ngã của mình,

mới là thật ngã? Qua đó, Hòa thượng kết luận: “Cái ngã (cái ta) cũng chỉ là một cái

tên thôi, như cái bộ sa lông, trừ các bàn ghế ra thì không còn gì thực thể”.

Để làm sáng tỏ thêm những luận điểm đó, HT. Đôn Hậu còn lý giải: “Lại

người đời vì sao mà cho rằng có thực ngã, có phải là nhận biết có sự thực ngã không?

Nếu nhận biết có sự thực ngã, thì cái ngã là cái bị biết. Vậy người đời đem cái gì mà

biết cái ngã. Xét như vậy thì biết rằng hiện chúng ta thực có thấy, nghe, hay biết,

nhưng không có một vật gì thực tồn tại đáng gọi là ngã”.

Đồng với luận điểm này, Đuốc tuệ số 2, ra ngày 17.12.1935 cũng có tác giả

tham gia bài viết Bàn về nghĩa vô ngã, nhưng nghiêng về vận dụng thực tế hơn:

Tuy biết rõ thế giới là ảo, bản chất của thế giới là không, song Phật giáo

dạy cho tín đồ không được cố chấp. Chấp thế giới là có thực, hay chấp thế

giới là không thực, đều không đúng. Nếu chấp là thực thì sẽ khổ vì sinh,

lão, bệnh, tử; vì tranh giành do chấp có cái ta và những sở hữu của ta, từ

đó phát sinh xung đột, chiến tranh. Thiên tai, nhân họa xảy ra cũng vì nhận

thức vô minh lầm lạc. Nhưng nếu chấp không cũng là bệnh, vì sẽ chẳng có

công dụng gì cả, sẽ ngược ngạo với thế giới đời thường.

Qua đó, tác giả bài viết trên Đuốc tuệ giải thích thế giới vô cùng phong phú

là công dụng của tâm thức, miễn biết đó là ảo và đừng quá cố chấp. Vì thế, không

thể phủ nhận rằng cái vô thỉ vô minh và nhất niệm vô minh đã đem lại vô lượng vô

biên công dụng, nhưng cũng không nên cố chấp chúng để dẫn đến tranh giành, xung

87

đột, chiến tranh và đau khổ một cách mê muội, bởi vì chúng chỉ là ảo. Rồi Đuốc tuệ

kết luận: “Đó là ý nghĩa trung đạo mà Bồ tát Long Thọ đã diễn giải trong tác phẩm

Trung Quán luận”.

Hơn nữa, Đ.N.T đã trình bày Lòng không nhân ngã trong Đuốc tuệ số 61, ra

ngày 15.05.1937, nhấn mạnh việc ứng dụng tinh thần “vô ngã” vào trong cuộc sống

thực tế mà không phải chỉ là lý luận suông. Tác giả đã vận dụng triết lý “vô ngã”

của Phật giáo vào tinh thần “không nhân ngã” và giải thích “Lòng không nhân ngã”

là một điều đạo đức thiết yếu của chủ nghĩa nhân gian Phật giáo. Một điều đạo đức

tuyệt đối và làm cội rễ cho hết thảy mọi điều luân lý đạo đức của loài người, của

chủ nghĩa xã hội đời nay. “Nhân ngã” là người với ta hay là kẻ khác với mình, là cái

gì thuộc về của người khác và cái gì thuộc về của ta. Lòng nhân ngã là lòng hay

phân biệt, so sánh, chi ly về chỗ người với ta, hay là cái gì của người, cái gì của ta.

“Lòng không nhân ngã” thì trái lại, nghĩa là không hề phân biệt, so sánh, chi ly về

chỗ người với ta, hay là cái gì của người, cái gì của ta… Bởi thế trong kinh thường

nói đến “lòng không nhân ngã” của Đức Phật đối với chúng sinh, đối với nhân loại.

Như nói khi Ngài thấy con hùm đói lả sắp chết, Ngài bèn cắt thịt mình cho nó ăn, lại

nói khi Ngài thấy dân trong cả một xứ đói, Ngài bèn hóa cho thân mình thành một

núi thịt cho dân cả xứ ấy đến xẻo mà cứu cơn đói. Tuy những câu chuyện đó là thí

dụ, nhưng thí dụ đến như thế thì cái “lòng không nhân ngã” của Ngài triệt để và

quảng đại bao la dường nào. Cuối cùng, Đ.N.T khẳng định: “muốn tuyệt mối loạn,

muốn tát bể khổ, muốn xây đài cực lạc giữa cõi nhân gian, loài người ai nấy phải

cùng nhau giữ lấy cái “lòng không nhân ngã” trước”.

Các lý giải của những tạp chí trên quả là không đi sai lệch triết lý Phật giáo.

Chúng ta thử nghiệm lại thân mình có phải là tạm bợ hay không? Nếu thân chắc

chắn chân thực thì không bao giờ hoại. Từ đó có thể hiểu thân người là do duyên

hợp, nên khi thiếu duyên thì nó sinh ra bệnh tật rồi đi đến bại hoại, đó là lẽ thật,

không còn gì nghi ngờ nữa. Do vậy, Đức Phật nói thân này vô ngã, bởi vô ngã nên

không có chủ thể, bởi không có chủ thể nên tùy duyên mà thành, tùy duyên mà hoại,

không phải lúc nào cũng nguyên vẹn.

88

Một luận điểm nữa của Duy thức Phật giáo là cho rằng “vạn pháp duy thức”.

Để lý giải cho thuyết này, báo chí Phật giáo đã đề cập rất nhiều đến những khái

niệm “có” và “không”. Trong lịch sử tư tưởng và lịch sử văn học nước ta, thuyết

“có” và “không” của Phật giáo đã từng là đề tài thú vị cho nhiều bài thơ của các nhà

sư, đồng thời cũng là chủ đề cho không ít những chuyện khôi hài của các nhà Nho.

Còn đối với quần chúng Phật tử, thì xem đây là một thuyết rất kỳ diệu.

Trên Đuốc tuệ số 47, ra tháng 11 năm 1936, ông Phó bảng Bùi Kỷ cho rằng

đức Phật đưa ra thuyết “không”, đó là tôn chỉ độc nhất vô nhị của đạo Phật, cửa

Phật thường được gọi là “Không môn”. Ông giải thích đạo Phật chia thế gian làm

tam giới là dục giới, sắc giới và vô sắc giới. Tam giới cũng chính là tam hữu và hữu

là chi thứ mười trong mười hai nhân duyên, là cái ma chướng triền miên trong kiếp

hữu tình chúng sinh. Có tam hữu mới có sinh, lão, bệnh, tử, gây ra nghiệp luân hồi.

Đức Phật lập ra thuyết “không” chính là để phá tam hữu giới, mở đường giải thoát

cho muôn loài. Dù giải thích được như vậy, nhưng ông chốt lại rất mơ hồ: “Song

chữ không rộng quá, cao quá và lại tinh vi quá, vì rộng quá mà coi như lờ mờ, cao

quá mà coi như huyền bí, thành ra một chữ “không” mà sinh ra nhiều hoài nghi, để

cho nhiều người muốn hỏi mà khó giải đáp, muốn biết mà khó sưu tầm, đến nỗi

càng nghĩ lại càng quẫn, càng nói lại càng vẫn, càng biện luận lại càng cùng”.

Tuy nhiên, tạp chí Viên âm thì muốn tỏ ra hiểu thấu vấn đề trọng yếu này,

nên đã luận giải trên số 6, ra tháng 5 năm 1934:

Trong thế gian, cái chi thấy được, nghe được gọi là có, trái lại gọi là không.

Như cái ghế cái bàn thì cho là có, còn khoảng không khí ở giữa thì gọi là

không. Nhưng xét kỹ thì không khí nào phải thực là không. Trái lại, những

cái người ta cho là có, như bàn ghế, nếu trừ các món cảm giác như mắt

thấy vuông tròn, thân chạm vào biết cứng mềm v.v.. thì không còn tính chi

khác nữa. Các vật kia tự mình không có tính riêng thì làm sao có được”?

Đó là tạp chí Viên âm luận “có” và “không” theo cái có cái không ở thế gian.

Còn cái có cái không theo đại thừa Phật giáo thì sao? Viên âm giải thích đại thừa

cho rằng muôn vật là tuyệt đối nhưng cũng đối đãi nhau. Trong chỗ tuyệt đối thì

không có gì gọi là sự vật, nhưng trong chỗ đối đãi vẫn hiện hữu đầy đủ muôn sự vật.

89

Hay nói cách khác, sự vật trong đối đãi vẫn mang tính tuyệt đối, trong tuyệt đối vẫn

luôn có sự đối đãi. Tức là nơi có mà không có, nơi không có mà có. Người tu theo

đại thừa hiểu rõ như vậy, nên một mặt là thấu triệt tướng tuyệt đối của các pháp mà

diệt trừ nguồn gốc vô minh phiền não, một mặt vẫn nhận chân được tướng đối đãi

của các pháp, để từ đó có thể tùy phương tiện hóa độ chúng sinh đồng được giác

ngộ, giải thoát.

Như vậy, theo đại thừa Phật giáo, cái “có” cái “không” là điều căn bản, rất

cần thiết cho sự tu hành giải thoát, hóa độ chúng sinh. Vì vậy, tạp chí Viên âm đã

nhấn mạnh: “Nếu ai biết rõ được cái có và cái không thì lo chi không hiểu toàn thể

của Phật pháp”.

Trên tạp chí Viên âm số 6, ra tháng 5 năm 1934, Trí Độ lý giải theo Bát nhã

tâm kinh rằng vì hiểu biết “sắc chẳng khác không, sắc tức là không” nên chẳng tham

nhiễm sắc, thanh, hương, vị… không còn các điều dục vọng, thoát khỏi cảnh giới

phàm phu. Vì hiểu biết “không chẳng khác sắc, không tức là sắc”, nên vẫn trong

diệt định mà hiện đủ oai nghi, nên chẳng đắm cảnh Niết bàn mà hóa độ muôn loài.

Luận giải đó của Trí Độ cho ta thấy chữ “không” trong kinh Bát Nhã rất thù

thắng. Tuy nhiên, chúng ta đừng lầm chữ “không” này là ý nghĩa trống rỗng, không

có gì hết. Không là đối với có. Chữ “không” đây là ngay nơi sự vật hiện tiền mắt

thấy, tay sờ mó được, song chủ thể nó là không, không cố định. Như vậy dù mắt

thấy, tay sờ mó được mà nói là không, đó là không chủ thể, không cố định. Bát Nhã

nói “không” vì nó do nhân duyên sinh nên không chủ thể. Cho nên chữ “không”

trong kinh Bát Nhã còn gọi là Tính không, là chân không diệu hữu, siêu việt hữu vô.

Hệ thống Bát nhã gọi đó là Tự tính không. Tức là không có chủ thể, không tự tính

nhưng sự vật vẫn có giả tướng của nó khi đủ duyên tụ hội.

Duyên khởi, vô thường, vô ngã (thực ra vô thường cũng là vô ngã. Về mặt

thời gian thì nó là vô thường, về mặt không gian, nó là vô ngã) là những giáo lý nền

tảng vô cùng quan trọng trong hệ thống giáo lý Phật giáo. Từ luận điểm cho rằng

mọi sự vật và cả con người đều theo lý vô thường, vô ngã và duyên sinh, Duy thức

Phật giáo đi đến kết luận “vạn pháp duy thức”.

90

Với triết lý này, tạp chí Viên âm luận giải rằng: “Hiện nay chúng ta thấy in

tuồng có thân (ngã), có cảnh (vật), thân ấy, cảnh ấy chẳng khác gì thân cảnh trong

chiêm bao. Vậy nó cũng do cái thức tâm biến hiện, chỉ vì chúng ta chưa tỉnh dậy

nên chưa nhận rõ đó thôi”. Vậy là Viên âm cho rằng “thức tâm là gốc của vạn vật”,

đó là ý nghĩa vạn pháp duy thức.

Lý giải đó của tạp chí Viên âm đã làm cho nhiều người nghi ngờ, chưa chấp

nhận, vì họ cho rằng chiêm bao là cảnh khác nhau hoàn toàn với thức tỉnh. Nếu con

người đang thức, đang tỉnh thì không phải là đang chiêm bao. Khi con người nhận

thức được “có ta và có sự vật quanh ta, sự vật ấy hôm qua ta đã thấy có, ngày mai

chắc sẽ còn thì tại sao lại bảo sự vật ấy không thực có được”. Tạp chí Viên âm đã

tiếp tục giải thích:

Có người nghĩ rằng cảnh chiêm bao do thức tâm biến hiện là một việc dễ

hiểu, vì nó chỉ trong một lúc thôi, chứ cảnh vật giữa này, lúc nào ngủ dậy

cũng thấy y như ngày trước, sao gọi là không thực có? Tôi xin đáp lại rằng,

lắm khi trong giấc chiêm bao, thấy đến 40 năm, 50 năm, trong khi ấy cũng

có thức có ngủ, mà cảnh chiêm bao không thay đổi, duy tỉnh dậy, không

chiêm bao nữa mới biết là đã chiêm bao. Vậy cảnh vật giữa này có khác

chi là cảnh chiêm bao mà cho là thực có? Nếu chúng ta không phân biệt thì

còn cái gì là xanh đỏ, là dài ngắn, là thơm thối, là ngọt mặn, là cứng mềm,

là nóng lạnh v.v.. trừ cái món phân biệt ấy ra thì còn gì đáng gọi là sự sự

vật vật.

Tạp chí Viên âm còn dẫn chứng thêm rằng những sự vật mang tính “nóng

lạnh, cứng mềm, ngọt mặn, thơm thối, dài ngắn, xanh đỏ…” đều do sự phân biệt, do

thức tâm tưởng tượng của con người tạo thành, nên gọi là “vạn pháp duy thức”.

Trên tạp chí Bát nhã âm số 14 có bài viết Vạn pháp duy tâm của Pháp Bửu,

cho thấy tác giả cũng đồng quan điểm nhận thức vạn pháp đều do thức tâm biến

hiện, ông đã lập luận rất rõ ràng, sắc bén, giúp con người có cái nhìn sâu sắc hơn về

sự kiện này.

91

Quan điểm “vạn pháp duy thức” ấy của thuyết Duy thức được các nhà

nghiên cứu Phật học đồng thuận cao. Bởi Phật giáo cho rằng “vạn pháp duy thức” là

để xác minh vạn vật vô thường, là giả huyễn, không đáng để quyến luyến, vọng

tưởng. Và khi con người hết vọng tưởng thì mới hết chịu cảnh luân hồi sinh tử khổ

đau. Như thế có thể nói duy thức Phật giáo rất triệt để, bởi nhìn nhận từ trời đất, vạn

vật cho đến con người đều không thật có.

Nhìn chung, tư tưởng về ngoại giới của Phật giáo thể hiện tập trung ở ba

phạm trù: Vô ngã, vô thường và duyên, rồi dẫn đến kết luận “vạn pháp duy thức”.

Như vậy, thông qua các phạm trù này, triết học Phật giáo đã bác bỏ quan điểm duy

tâm lúc bấy giờ cho rằng thần Brahman sáng tạo ra con người và thế giới. Phật giáo

cho rằng sự vật và con người được cấu thành từ các yếu tố vật chất và tinh thần. Các

sự vật hiện tượng thế giới nằm trong quá trình liên hệ, vận động, biến đổi không

ngừng và nguyên nhân của sự vận động, biến đổi nằm trong các sự vật. Đó là quan

điểm biện chứng về thế giới, tuy còn mộc mạc, chất phác nhưng rất đáng trân trọng.

Nói tóm lại, qua những lập luận của các bài viết trên báo chí về Thượng đế,

linh hồn, Cực lạc và địa ngục, cho thấy tư tưởng Phật giáo lúc bấy giờ có hướng

giải thích theo nguyên lý khoa học. Tuy nhiên, đến với thuyết duy thức, cái nhìn của

Phật giáo đối với ngoại giới còn có phần cách xa khoa học. Bởi vì điều kiện đầu tiên

để có khoa học là chấp nhận tính chất khách quan của thế giới, của vạn vật, là khẳng

định rằng vạn vật, thế giới tồn tại độc lập với ý thức của con người. Thế nhưng, dù

thế nào thì ở Việt Nam trong giai đoạn nửa đầu TK.XX, các tư tưởng ấy của Phật

giáo vẫn có ý nghĩa rất quan trọng về mặt triết học và cả mặt chính trị. Đó là điều

hiếm có trong lịch sử Việt Nam từ xưa đến nay.

2.2. TƢ TƢỞNG ĐẠO ĐỨC PHẬT GIÁO TRÊN BÁO CHÍ PHẬT GIÁO

TRƢỚC 1945

Đạo Phật hiện hữu ở đời nhằm chỉ ra cái khổ cho con người hiểu và tìm cách

giải thoát những khổ đau trong đời. Phật giáo dạy con người dám nhìn thẳng sự thật

của khổ đau để chuyển hóa chúng. Từ đó cho thấy, khi trong mê muội thì thân phận

con người thật là bi đát, nhưng khi nhận thức được mình mê muội thì con người có

thể hoán cải được hoàn cảnh và cuộc sống của mình.

92

Nhưng làm thế nào để hoán cải? Làm thế nào để chuyển mê thành ngộ? Làm

thế nào để chuyển khổ thành vui? Báo chí Phật giáo trước 1945 đã làm sống dậy

nhiều triết lý đạo Phật, nhiều tư tưởng đạo đức về cuộc sống nhân sinh nhằm chỉ

dẫn phương pháp chuyển mê thành ngộ, chuyển khổ thành vui của con người.

Trong giai đoạn nửa đầu TK.XX, báo chí Phật giáo là một trong những

phương tiện chính của công cuộc Chấn hưng Phật giáo Việt Nam, việc truyền bá

Phật học luôn được quan tâm hàng đầu. Mục đích chủ yếu là diễn giải các vấn đề

kinh điển, giới luật, pháp luận, lịch sử Phật giáo và những bài giảng mang tính chất

phổ thông, gắn liền với đời sống hiện thực cũng như nêu lên những ưu tư, trăn trở

và đường hướng kêu gọi Chấn hưng Phật giáo. Các tạp chí hầu như có dụng ý lần

lượt trình bày những tư tưởng Phật học từ cơ bản đến nâng cao, nhưng tất cả đều

quy về một điểm là giúp mọi người tin hiểu đạo Phật một cách đúng đắn, xóa bỏ mê

tín dị đoan và đem giáo lý Phật giáo ứng dụng vào đời sống hằng ngày, để cuộc

sống được an vui, hạnh phúc. Như lời của tạp chí Duy tâm Phật học, ngay từ số 1

năm 1935 đã khẳng định: “Duy tâm ra đời để cứu rỗi cái đời đảo điên thống khổ, cái

trí thức lu mờ, sửa đổi hết thảy những phong tục xấu xa, các điều thành kiến dở

dang của xã hội; mưu sao cho nhơn loại yên vui, cõi đời bình tỉnh, từ chốn quê mùa

đến nơi khai hóa được biết lý huyền diệu cao sâu của Phật pháp...”.

Những tinh hoa giáo điển mang tính giáo dục trực tiếp đối với con người mà

các tạp chí đã thể hiện đều là những bài luận giảng về Phật học và nội dung nói

chung chứa đựng những triết lý khuyến thiện trên tinh thần nhân quả - nghiệp báo,

từ bi, hiếu đạo và lợi tha theo lời Phật dạy. Những tư tưởng đạo đức ấy đã mở ra

cho con người một tầm nhìn sâu rộng về cuộc sống, giúp muôn người hiểu được

Phật pháp và thực hành đúng theo chính pháp, ngõ hầu xây dựng đời sống cá nhân

và xã hội theo con đường chân, thiện, mỹ.

2.2.1. Khuyến thiện và nhân quả - nghiệp báo

Thuyết nhân quả - nghiệp báo của nhà Phật, nói đủ là nhân - duyên và quả, là

một triết lý mang tính khoa học, thể hiện quy luật tự nhiên của vũ trụ, không mang

tính chất hình thức của sự thưởng phạt từ một đấng quyền năng nào. Đức Phật khám

93

phá triết lý nhân quả cũng chính là khám phá triết lý khoa học tự nhiên để áp dụng

tu hành, khuyên người làm điều thiện hầu đạt đến giác ngộ, giải thoát.

Theo đạo Phật, vũ trụ nhân sinh chuyển biến vận hành theo lý duyên khởi, hệ

quả hình thành một quy luật chung, đó là luật nhân quả. Vì vậy, xét về góc độ khoa

học, từ nhân đến quả là sự chuyển biến tự nhiên. Nó vận hành một cách âm thầm và

chi phối cả đời sống vật chất, vật lý, sinh lý và tâm lý. Con người đến với Đạo Phật,

học hiểu đạo lý và cụ thể là thực nghiệm triết lý nhân quả - nghiệp báo để chuyển

hóa tâm thức bớt những đắm nhiễm, đam mê vật chất, biết làm điều lành thì mới có

thể sống tự tại trước mọi hoàn cảnh.

Trên tạp chí Quan âm có rất nhiều bài viết về triết lý nhân quả - nghiệp báo

của đạo Phật, qua đó khuyên người bỏ ác làm lành. Ứng dụng từ triết lý ấy, tạp chí

Quan âm đã đi đến kết luận chi tiết về quy luật sống trên đời: “Làm lành gặp lành,

làm dữ gặp dữ”, ấy là câu của người đời thường nói... “Giả sử bá thiên kiếp, sở tác

nghiệp bất vong, nhân duyên hội ngộ thời, quả báo hoàn tự thọ. Nghĩa là dẫu cách

trăm ngàn kiếp, cái nghiệp làm khi trước cũng không mất, đến lúc nhân duyên gặp

gỡ, thì quả báo trở lại mình phải chịu lấy” [M, số 31].

Theo tạp chí Quan âm, những điều lành hay ác mà con người đã tạo ra không

bao giờ mất đi. Khi đủ duyên chúng sẽ trổ ra quả khổ hay vui tương ứng với nhân

ác hay thiện do con người đã tạo nhân từ trước, đây gọi là nghiệp báo. Từ đó, tạp

chí Quan âm để lại cho con người bài học quý báu là nên làm điều lành để có quả

báo tốt cho cuộc sống của mình ở hiện tại và tương lai.

Báo Đuốc tuệ cũng cho đăng nhiều bài viết về triết lý nhân quả - nghiệp báo

với nhiều nội dung đa dạng. Ngay từ số 5, Trần Thúc Cáp đã nói rất rõ về Thuyết

nhân quả báo ứng bằng cách so sánh với đạo Khổng, để qua đó nhắc nhở con người

giữ gìn ý tưởng của mình:

Nhân là thế, quả là thế. Nay ta muốn tạo được thiện nhân để gặp được

thiện báo, để kiếp sau không phải đọa vào Tam đồ thì làm thế nào? Đạo

Phật cũng như đạo Khổng, đạo Khổng nói: Muốn tu thân trước hết phải

94

thành ý. Đạo Phật cũng thế, muốn được chính giác, trước hết phải nghiêm

giữ ý hạnh. Ý hạnh có ba điều nghiêm cấm: 1. Tham, 2. Sân, 3. Si...

Quả thật, nhân quả ở đời không sai lạc bao giờ. Nếu muốn không gặp cảnh

khổ đau ở hiện tại và tương lai, chúng ta nên biết tạo điều lành. Muốn làm được

điều lành, trước hết phải ngăn chặn tâm niệm vọng tưởng phát khởi do tham, sân, si

của mình. Đây chính là ba nhân tố nguy hiểm, dẫn dắt con người làm những điều

trái đạo đức, hại mình hại người và sẽ phải chịu quả báo xấu về sau. Cái quả báo về

sau ấy, trong Phật giáo gọi là “nghiệp” hay “nghiệp báo”. Nguyễn Văn Oánh đã giải

thích rất rõ về yếu tố nghiệp này trong Đuốc tuệ số 28 về Thuyết nghiệp báo. Tác

giả cho thấy muôn loài có sinh thì phải có diệt, không có cái gì là sống bền vô hạn

được. Trời đất, vũ trụ cũng theo lệ ấy, một ngày kia sẽ diệt đi rồi lại sinh ra. Sinh là

nói chúng sinh vì lòng điên đảo, vọng tưởng gây ra phiền não, tạo thành nghiệp, rồi

theo nghiệp mà hiện ra để chịu quả báo do hành vi đời trước gây tạo.

Ngoài ra, trong Đuốc tuệ số 152, ra ngày 15.3.1941, Nguyễn Quang Hùng

nhấn mạnh người sống trong đời, nếu không biết lý nhân quả thì rất dễ rơi vào tình

trạng lo buồn trước cảnh chia lìa, xa cách hay sự thay đổi bất ngờ nào đó. Tác giả lý

giải rằng vô vàn sự lo sợ của muôn vạn người đều khác nhau, song nhìn chung, ai ai

cũng đều do nguyên nhân tham sống mà có, đặc biệt là những gia đình đông đảo, sự

lo sợ càng nhiều hơn, người này lo cho người nọ, chồng lo vợ, cha lo con, nếu gặp

khi tai biến xảy ra, thảm trạng đau lòng khó tả cho hết được. Người học Phật đã rõ

lý nhân quả, hãy tin nơi việc của mình làm. Một việc ta lo sợ mà nhân ta không làm

thì thế nào cũng không xảy đến, nên lo sợ cũng vô hiệu quả. Phật dạy rằng: “Người

tu hành không bao giờ sợ quả mà chỉ sợ nhân”. Hiểu lý nhân quả như vậy, con

người đã không sợ may rủi xảy ra, mà tâm hồn còn được an vững và bao giờ cũng

lo gieo nhân lành. Như thế, đời người trong hiện tại được ít khổ mà còn hưởng phúc

báo về tương lai.

Để khẳng định lại giá trị của luật nhân quả và chỉ cho con người phương

hướng thoát khổ báo, Tâm Ấn đã trình bày tiếp Thuyết nhân quả của Phật giáo

trong Đuốc tuệ số 157. Ông khuyên con người phải biết tin chắc chắn rằng những

nghiệp nhân bởi thân, miệng và ý đã hành động, thì sau này sẽ trả lại nghiệp quả

95

cho ta. Những nghiệp quả ta đương gánh chịu là do trước kia ta đã tạo nhân, chứ

không phải tự nhiên vô cớ hay ai thưởng phạt ta. Vì thế chúng ta không nên oán

trách ai.

Với bài viết Thiện ác đăng ở Đuốc tuệ số 158, Nhàn Vân Đình cũng đã giải

thích rõ những nghiệp báo mà con người thọ nhận thì có thiện và ác. Nếu làm điều

lành thì con người đi theo nghiệp tốt, còn làm điều xấu sẽ chịu nghiệp không tốt.

Tác giả còn giải thích thiện là làm việc lành, việc phải, hộ vệ cho thần công lý và

đưa người ta đến cõi tốt đẹp. Ác là làm việc dữ, việc xấu, trái với lương tâm và đưa

người ta tới cõi xấu. Hễ làm thiện thì được nhẹ nghiệp, kinh gọi là Bạch nghiệp

(nghiệp trắng), cho nên nổi lên con đường thiện. Hễ làm ác thì phải nặng nghiệp,

kinh gọi là hắc nghiệp (nghiệp đen), cho nên chìm xuống con đường ác.

Trong cuộc sống, đôi lúc có nhiều người biết luật nhân quả hay thắc mắc về

sự hình thành và diễn tiến của luật nhân quả từ quá khứ, hiện tại đến tương lai như

thế nào. Điều này đã được Từ bi âm số 4, ra ngày 15.2.1932 trình bày khá rõ với

tiêu đề Luận về Nhơn quả. Từ bi âm dẫn chứng trong sách Nhơn Quả Lục nói rằng:

“Yếu tri tiền thế nhân, kim sanh thọ giả thị, yếu tri hậu thế quả, kim sanh tác giả

thị”. Nghĩa là: Muốn biết sự tạo nhân của ta đời trước, phải xem quá trình hưởng

thọ của ta đời nay mới rõ; muốn biết kết quả của ta đời sau, phải xem hành động của

ta đời nay mới hiểu. Ví như đời nay được sang giàu thì biết đời trước đã làm lành,

nên được phước báo; còn đời nay bị cực khổ thì biết đời trước đã làm dữ, nên mắc

tội báo.

Viên âm số 41, ra ngày 1.9.1933 còn nhấn mạnh hơn diễn biến chắc thật của

luật nhân quả, giúp con người không còn thấy nghi ngờ gì, bởi Giải Quán đã nói

nhân quả theo nhau “như bóng theo hình”: “… Chúng ta phải biết rằng kết quả

“khổ” với “lạc” là do ta tạo nhơn “thiện” với “ác” như hình với bóng đeo đuổi lẫn

nhau, hễ hình ngay thì bóng thẳng, hình vạy thì bóng cong, lý vốn như thế rõ ràng,

không sai một mảy. Vậy nên gọi rằng: Như bóng theo hình”.

Quả thật, nhân quả - nghiệp báo là triết lý căn bản của Phật giáo. Như

Nguyễn Lang đã nói “quan niệm “làm lành gặp lành, ở ác gặp ác” của Phật giáo dĩ

nhiên được chấp nhận dễ dàng trong tín ngưỡng dân gian Giao Chỉ” [65, tr.49-50].

96

Ông còn khẳng định: “Trong bối cảnh tín ngưỡng văn hóa kia, đạo Phật đã được

mang vào Việt Nam. Thuyết nhân quả nghiệp báo phù hợp với quan niệm ông trời

trừng phạt kẻ ác, ban thưởng người lành” [65, tr.46].

Như vậy, báo chí Phật giáo trước 1945 đã khơi lại con đường xây dựng hạnh

phúc bằng triết lý nhân quả - nghiệp báo của đạo Phật và điều này đã được đề cập,

lý giải rất nhiều qua các số báo. Từ triết lý nhân quả - nghiệp báo ấy, báo chí Phật

giáo lúc bấy giờ đã chuyển tải đến con người bức thông điệp đạo đức cao quý là

“khuyến thiện”. Tức là khuyên con người hiểu được rằng những hành động của con

người tạo ra là do ý điều khiển, ý làm chủ, từ đó phát khởi ra những hành động từ

miệng và thân. Những hành động đó tạo thành nghiệp và phải thọ nhận quả báo về

sau, tùy theo nghiệp lành hay dữ. Cho nên, nếu ai muốn sống đời an vui, hạnh phúc

thì nên làm mọi điều lành, có lợi ích cho mình và người trong hiện tại và tương lai.

Trong cuộc sống, nếu con người hiểu được luật nhân quả - nghiệp báo, sẽ vui

vẻ đón nhận những khổ đau bất thường xảy đến với mình như một kết quả do chính

mình tạo nhân từ trước. Từ đó suy nghiệm ra, lý nhân quả chi phối cả vũ trụ nhân

sinh. Nếu tin sâu nhân quả - nghiệp báo, chúng ta sẽ được thăng hoa trên đời sống

tâm linh, trở nên hiền thiện đạo đức. Ngược lại, nếu không tin nhân quả - nghiệp

báo, cuộc sống chúng ta trở nên liều lĩnh và càn bừa, bất chấp hậu quả.

Có thể nói, đạo lý nhân quả - nghiệp báo là phương pháp giáo dục phổ thông

của đạo Phật. Khi chúng ta làm một việc sai quấy, có hại cho người khác, có khi

trốn được tòa án ở thế gian nhưng không trốn chạy được chính lương tâm của mình.

Nó chính là gương nghiệp in bóng trước đài, là quan tòa xử án công minh cho

những hành vi tội lỗi nơi bản thân. Giáo dục về nhân quả giúp chúng ta sửa đổi tính

xấu nơi lương tâm chứ không phải giúp ta trốn chạy trước pháp luật bên ngoài.

Nhân quả nhà Phật chú trọng đến động cơ luận hơn là kết quả luận, phòng cháy chứ

không chờ chữa cháy. Giáo dục của đạo Phật là giáo dục từ ban đầu khi khởi tâm

niệm bất thiện, trước khi xảy ra điều tệ hại, khuyên mọi người ăn hiền ở lành.

Người hiểu biết nhân quả, tội phước, thì tự nhiên trở thành người tốt. Một người ác

có thể trở thành người hiền, một người xấu có thể trở thành người tốt.

97

Nói chung, những ai có chính kiến về triết lý nhân quả, chắc chắn đời sống

sẽ được thăng hoa, vì lúc bấy giờ mọi suy nghĩ, nói năng và làm điều gì đều hướng

theo con đường thiện, có lợi cho mình, cho người mà không nghĩ điều quấy, nói lời

xấu hay làm việc ác. Tư tưởng đạo đức “khuyến thiện” từ triết lý nhân quả - nghiệp

báo này được báo chí Phật giáo trước 1945 khẳng định lại một cách rõ ràng, chuẩn

xác, giúp con người sống trong xã hội đương thời biết cách đối nhân xử thế, làm

đẹp bản thân, gia đình và xã hội, theo tinh thần:

“Không làm mọi điều ác

Thành tựu các hạnh lành

Tâm ý giữ trong sạch

Chính lời chư Phật dạy”.

[12, Pháp Cú 183].

2.2.2. Từ bi

Tính nhân bản của đạo Phật là làm cho con người phát huy tất cả những tính

người cao đẹp và loại trừ mọi bản năng thấp kém, hèn hạ. Con đường thành Phật

không gì khác hơn là con đường hoàn thiện những đức tính vốn đã tiềm ẩn trong

con người bình thường như: trí sáng suốt, lòng nhân ái, tính tích thiện trừ ác, tâm

kiên định, lòng hy sinh,... và xóa bỏ hẳn tất cả những gì làm cho con người bị ràng

buộc, bị tha hóa, bị hạ thấp, bị mất phẩm cách: tính ích kỷ, lòng ghen tỵ, sự giận dữ,

sự si mê, sự tham lam chiếm đoạt mất hết lương tri,... Cuộc đời này trở nên hỗn loạn

khổ đau cũng vì những tính tiêu cực đó.

Báo chí Phật giáo thời bấy giờ hầu như thể hiện được tinh thần ấy của đạo

Phật, bằng cách khơi dậy và đưa ra nhiều tư tưởng sống đạo đức, để hướng con

người thực hiện những nhân cách đạo đức của một con người hoàn thiện và hơn thế

nữa là những thể tính của bậc Thượng nhân. Thể tính tiêu biểu và cao cả nhất có thể

nói là lòng từ bi.

Theo Từ điển Phật học Huệ Quang [8, tr.4906-4907] giải thích: Thương yêu

và cứu giúp, đây là tinh thần cơ bản nhất của Phật giáo. Từ là yêu thương chúng

sinh và ban cho họ sự an lạc (dữ lạc). Bi là đồng cảm với sự đau khổ (bạt khổ) của

98

họ; gọi chung là từ bi. Lòng “bi” của Phật là trạng thái đồng tâm đồng cảm, lấy nỗi

khổ của chúng sinh làm nỗi khổ của mình, nên gọi là Đồng thể đại bi. Tâm “bi” này

rộng lớn vô tận, nên gọi là Vô cái đại bi (không có gì rộng hơn, lớn hơn, cao hơn

tâm bi này).

Như vậy, từ bi trong đạo Phật không đơn giản chỉ là sự xót thương và chia sẻ

khổ đau với kẻ khác, mà từ bi chứa đựng ý nghĩa tích cực và mãnh liệt hơn những

gì ta hiểu một cách thông thường. Từ bi là sức mạnh thiêng liêng, siêu việ

i trí tuệ. Trí tuệ là một khí cụ toàn năng giúp ta xóa bỏ vô minh,

xóa bỏ vô minh tức là đạt được giác ngộ và đạt được giác ngộ tức là thành Phật.

Trong

Hiểu được lòng từ bi là một trong những đức tính trọng yếu của đạo Phật, vì

thế trên Tam bảo số 2, ra ngày 15.2.1937, học giả Minh Đạt đã khéo léo hướng con

người phát khởi tâm từ bi để thương yêu hết thảy muôn loài. Tác giả chỉ ra con

người biết sống với tâm từ chính là gieo nhân tốt đẹp và sẽ có được một đời sống

hạnh phúc, đầy tình yêu thương. Theo tác giả, từ bi tức là lòng thương yêu rộng rãi,

là thương yêu hết thảy muôn loài, phải xem muôn loài như mình, không được vì sự

phân biệt thân sơ mà làm cho tình thương trong ta tăng giảm. Hiểu sâu xa hơn nữa

là ở nơi lòng từ bi ấy không có năng có sở (không có người cho tình thương và kẻ

nhận tình thương), không bám víu một nơi nào... Qua đó, tác giả nhấn mạnh: “Lòng

thương yêu, chúng ta ai nấy cũng sẵn có, không phải chỉ một mình Đức Phật mới có.

Tuy vậy, chúng ta không thể đem lòng thương yêu của mình mà so sánh với lòng

thương yêu của Phật được. Vì ở nơi Phật thì nó được trong sạch linh động, không bị

điều gì làm trở ngại... Ở trong giới hạn, chúng ta thương yêu cái thân của mình thì

không thể yêu thương người khác được...”.

Nói đến tinh thần từ bi rộng lớn đó của đạo Phật, tác giả Mai Tu trên tạp chí

Tam bảo số 8 đã mang đến cho người đọc Hoàn thuốc vô giá, đó là tinh thần “Vô

99

úy thí”. Tức là tác giả khuyên con người hãy vì lòng từ bi mà mạnh dạn đoạn lìa

những thói hư tật xấu như tham, sân, si và đem đến cho người khác tinh thần không

sợ sệt, nói theo thế gian là lòng dũng cảm. Từ đó, con người mới có thể sống tự tại,

vô ngại trước mọi nghịch cảnh, chướng duyên trong đời và vươn lên bằng tâm thái

bao dung, rộng lượng.

Theo Tố Liên trên Đuốc tuệ số 29, ra ngày 30.6.1936 cho rằng lòng từ bi của

đạo Phật với ý nghĩa rộng là ban rải tình thương khắp muôn nơi, nhưng điều cần

thiết trước mắt là phải thể hiện tình thương đối với giới trẻ, tức là quan tâm giáo dục

giới trẻ. Tác giả nhấn mạnh: “Nhất là thầy nào tớ ấy giáo huấn cho nhau, nếu không

dạy được, phải cho đi tìm thầy khác mà học, đừng để phí thời gian báu ngọc của các

bạn thanh niên, vì rằng người ở tầm tuổi thơ ấu, chí khí còn đang hăng hái, tính tình

chưa phóng túng. Ông thầy dễ uốn nắn dạy bảo, mà người học trò cũng rất dễ thông

hiểu, cũng như cây tre còn non thì dễ uốn”.

Ngoài ra, lòng từ bi của Phật giáo còn chú trọng đến việc giáo hóa người phụ

nữ trở thành người gương mẫu trong gia đình và xã hội. Trên Đuốc tuệ số 35, ra

ngày 11.8.1936, Phạm Phan Cung đã thể hiện tình thương và chú trọng riêng về thế

giới phụ nữ. Ông muốn người phụ nữ phải biết Tu Bồ tát giới và khuyên giải rất chi

tiết về cách đối nhân xử thế, cách xây dựng nhân cách sống hạnh phúc trong gia

đình và xã hội:

Chúng tôi xin nói về phần đàn bà tu “phúc”. Tu phúc là như người ta nói

ăn ngay ở lành, tu nhân tích đức… Còn phần các bà tu “tuệ” thời nên thế

nào? Tu tuệ là tu về đường khôn, phải biết suy xét, biết lo nghĩ để giúp

chồng dạy con và giao tiếp với họ hàng tộc đảng, nhưng thứ nhất là phải

giữ về khẩu nghiệp: miệng không nên nói những điều độc ác. Người ta

thường nói một câu nên vợ nên chồng, một câu nói tan cửa nát nhà, một

câu nói nên ân huệ, một câu nói thành thù oán.

Hơn thế nữa, muốn thể hiện lòng từ bi sâu xa của người con Phật để cứu giúp

muôn người, trước hết cần phải tìm hiểu nguyên nhân, hoàn cảnh khiến cho con

người tha hóa, sau đó mới đưa ra giải pháp để chuyển hóa họ trở nên hoàn thiện, có

nhân phẩm. Nếu nói cụ thể, nguyên nhân khiến con người đánh mất lương tâm,

100

đánh mất nhân phẩm là do lòng tham cầu vô độ. Con người cũng bởi vì lòng tham

không biết dừng nghỉ mà gây ra biết bao nhiêu cảnh khổ đau, chết chóc thê lương.

Điều này, Trịnh Như Tấu đã luận giải rất rõ trên Đuốc tuệ số 61, ra ngày 15.5.1937

về Chữ Khổ trong Phật giáo và đưa ra phương pháp diệt khổ, đạt đến toàn thiện,

toàn mỹ: “Phật giáo có cái chủ nghĩa: “Từ bi, bác ái, bình đẳng, tự do” có thể làm

cho thế giới ít nổi phong ba… Muốn diệt khổ, ta cần phải theo phương pháp của

đức Thế tôn, phải phá tan cái thành kiến giai cấp, đảng phái, để mưu cầu hạnh phúc

chung”.

Cũng là nhấn mạnh về sự tham cầu của con người, trên Đuốc tuệ số 67, Trí

Hải đã khẳng định con người Khổ vì tham; Trí Hải lại nói con người Chết vì của

trên Đuốc tuệ số 68.

Biết rõ nguyên nhân rồi, tiếp đó trên Đuốc tuệ số 33, ra ngày 28.7.1936,

Nguyễn Trọng Thuật đã đưa ra những nhân cách đạo đức căn bản mà con người cần

thực hiện để thoát khổ, đó là Dũng mãnh, tinh tiến: “Dũng mãnh và tinh tiến là hai

đức tính rất quý trong đạo Phật và là hai đức tính rất cần thiết của hết thảy mọi

người ở đời. Nhất là những người có chí lớn, muốn làm việc…”.

Ngoài những đức tính ấy, con người còn phải thể hiện lòng kiên nhẫn trước

mọi hoàn cảnh. Có thể nói, tính cách này rất quan trọng cho một con người có nhân

phẩm. Vũ Thanh Đặc rất đồng tình với quan điểm đó, nên đã trình bày chi tiết trên

Đuốc tuệ số 43, ra ngày 6.10.1936. Ông nhấn mạnh muốn tu đức phải kiên tâm

nhẫn nại, dùng năng lực dũng mãnh mà phấn đấu với mọi khó khăn. Không nên vì

được khen mà vui sướng, vì bị người chê mà nản chí, lúc nào cũng phải tinh tiến

làm việc, chớ bảo năm nay chẳng học còn có sang năm, ngày nay chẳng tu còn có

ngày mai; chớ thấy điều thiện nhỏ mà không làm, chớ nghĩ tuổi còn trẻ mà không tu.

Qua đó, ông dẫn chứng: “Đức Thế tôn thuở trước một mình trầm tư mặc tưởng nơi

núi Tuyết Sơn hiu quạnh, trải qua 6 năm, muôn vàn đức hạnh vẹn tròn, chứng ngôi

chính giác, lấy đạo đức lập ra giáo pháp muôn đời”.

Song song đó chúng ta thấy, làm người không ai là không có lỗi. Để trở

thành những con người có nhân cách đạo đức, ít nhất cũng trải qua giai đoạn rèn

luyện. Với đạo Phật, không bao giờ chối bỏ những người phạm sai lầm, mà luôn thể

101

hiện lòng từ bi với họ và đưa ra pháp sám hối, sửa đổi, giúp họ trở thành người tốt.

Trên Đuốc tuệ số 60, ra ngày 1.5.1937, Sa môn Trí Hải đã có bài viết Có lỗi cần nên

đổi ngay bằng những lời dẫn chứng trong kinh rất có ý nghĩa: “Trong kinh Thủy

Sám nói: Có hai hạng người: một người không làm điều gì lỗi, một người phạm tội

rồi biết hổ thẹn, biết cải hối ngay thì cũng được xem như người không tội. Kinh Tứ

Thập Nhị Chương nói: Người có tội mà không biết hối cải ngay, thì tội về mình,

cũng như nước chảy về bể, dần dần trở nên sâu rộng”. Sau đó, Trí Hải khuyên rằng

những người đã có chí tu hành, có tâm cầu đạo, cần giữ sao cho lòng được trong

sạch, như mảnh gương trong, chớ nên để bụi bám. Nếu ai đã để cho bụi bám chút ít,

thì cần phải lau chùi cho sạch ngay.

Như vậy, phương cách thể hiện lòng từ bi đúng chính pháp trên báo chí Phật

giáo là khuyên con người phải biết trải tình thương đối với mọi người mà không để

tâm phân biệt thân quen, xa lạ hay đẳng cấp. Từ tâm từ bi cao quý đó, con người

còn biết hướng dẫn người khác thực hành tính kiên nhẫn, dũng mãnh, tinh tiến đoạn

trừ lòng tham cầu vô độ. Hơn thế nữa là phải hướng dẫn mọi người biết gieo nhân

vui và diệt nhân khổ, biết ăn năn chừa bỏ lỗi lầm để làm con người tốt v.v..

Việc thể hiện lòng từ bi đó đã cho chúng ta thấy được tính nhân bản của đạo

Phật là chống lại những gì làm hạ thấp con người và luôn hun đúc cho con người

mọi đức tính cao đẹp, nhằm thực hiện trọn vẹn ý nghĩa làm người: thoát khỏi mọi

ràng buộc thấp kém để trở thành người mẫu mực về chân thiện mỹ trong thế gian.

Mọi sự đau khổ chính là do sự bất toàn, sai lầm của con người, do con người đánh

mất nhân cách đạo đức sẵn có. Vì thế, để có được cuộc sống an vui, hạnh phúc, con

người phải tiến đến chỗ hoàn thiện, nghĩa là phải sống theo đúng nhân cách của một

con người. Qua đó, báo chí Phật giáo lúc bấy giờ còn cho chúng ta hiểu được rằng

ngày nào con người còn là người biết thể hiện lòng từ bi thì đời sống sẽ tràn đầy

niềm an vui, hạnh phúc và con đường của đạo Phật là sự tiến hóa đích thực của

nhân loại, đưa con người đến chỗ toàn thiện, toàn mỹ.

2.2.3. Hiếu đạo

Hiếu đạo là ý nghĩa của đạo đức, là đức tính tốt đẹp được mọi người ca tụng,

đức tính ấy được xem như một nền tảng cho mọi đức hạnh, là nhân tố quan trọng để

102

xây dựng đời sống hạnh phúc cho cá nhân, gia đình và xã hội. Hơn nữa, theo quan

niệm Phật giáo, hiếu đạo còn là con đường tu tập đạt đến giác ngộ, giải thoát. Kinh

điển Phật giáo thường dạy rằng chư Phật và Bồ tát trong quá khứ do lòng hiếu thảo

với cha mẹ phát tâm đại bi cứu độ tất cả chúng sinh mà thành đạo nghiệp. Cho nên,

đối với Phật giáo, hiếu đạo là điều kiện cần thiết của sự thành tựu công đức tu học

của người đệ tử Phật, là một quy luật bình đẳng của chân lý, chứ không phải là quan

niệm hay một quy ước.

Bổn phận làm con phải biết thờ cha kính mẹ, điều đó đã trở thành đạo lý của

dân tộc Việt Nam, đồng thời cũng là đạo lý sống cao cả của người đệ tử Phật khi đã

quy y Tam bảo. Cho nên, có thể khẳng định đạo Phật là đạo Hiếu.

Trên báo Đuốc tuệ số 25, ra ngày 2.6.1936, Trịnh Như Tấu đã chỉ rõ Phật tổ

bao giờ cũng khuyên các đồ đệ giữ tròn đạo hiếu. Ngài dạy rằng: “Làm con đối với

cha mẹ không hết lòng thì ra đời hoặc đối với quỷ thần, trời đất có hết lòng thành

kính cũng bỏ đi mà thôi”. Chính Đức Phật là một người con rất hiếu kính với cha

mẹ, cho nên lúc nào Ngài cũng ân cần khuyên các đệ tử phải hết lòng báo đáp thâm

ân của cha mẹ. Ngài lại dạy người tại gia có lòng tín đạo, nhưng còn phải làm việc

kiếm tiền. Khi có tiền rồi nên chia làm bốn phần: một phần để cung cấp cha mẹ, gia

đình, hai phần để làm vốn, còn một phần để dành phòng lúc bất trắc. Đức Phật trong

nhiều kiếp trước đã từng vì sự báo hiếu cha mẹ, trong lúc cần kíp nguy nan, có khi

phải cắt cả thịt trong thân thể để dâng cha mẹ. Do lòng chí hiếu của Phật mà trên

trời, Ngài làm Thiên đế, dưới trần Ngài làm Thánh vương, rồi trở lên ngôi Phật, là

một đấng đại giác chí tôn. Từ đó, Trịnh Như Tấu khuyên “là đệ tử Phật, ta nên theo

gương Ngài mà tu cho tròn đạo hiếu”.

Tinh thần Hiếu đạo của Phật giáo thể hiện rất sâu rộng, không những khuyên

răn những người con biết làm tròn chữ hiếu với cha mẹ hiện tiền mà còn phải thể

hiện tâm hiếu đạo đối với cha mẹ nhiều kiếp trước. Điều đó, Nguyễn Thượng Cần

đã trình bày theo ý của Thái Hư pháp sư trên Đuốc tuệ số 32, ra ngày 21.7.1936 qua

tiêu đề Khuyên các học sinh học Phật: “Có biết đâu kinh Phật, Ngài dạy về sự hiếu

rất rộng, mà làm người báo đáp vô cùng. Không những báo ơn cha mẹ đời này, mà

những ơn của cha mẹ từ bao nhiêu kiếp xưa đều càng nên báo đáp, và báo ơn cũng

103

không chỉ hầu hạ kính nuôi, mà còn thể hiện tâm nguyện cứu độ cha mẹ thoát ra

ngoài tam giới, khỏi hẳn tội luân hồi, thế mới là xong việc”.

Cũng với tinh thần Hiếu đạo cao cả này, Viên âm số 32 đã đăng bài viết Chữ

Hiếu nhà Phật của Hải Ấn. Tác giả nêu rõ cha mẹ đối với con, ba năm bú mớm,

chín tháng cưu mang... Trước ân đức to lớn của cha mẹ, làm con nếu không biết

đem lòng hiếu kính mà báo đáp, thì chẳng những không đáng làm một vị học trò

của Phật mà còn là người không có nhân cách. Con cái có lòng hiếu thảo, muốn báo

đáp công đức thì phải làm cho cha mẹ vui lòng, nhất là làm cho cha mẹ được hưởng

niềm vui lâu dài, chắc chắn của sự giải thoát ra ngoài các khổ não.

Thật vậy, đối với đạo Phật, nếu người đời đền đáp ân nghĩa sinh thành,

dưỡng dục bằng của cải vật chất, tiền bạc và lòng thương kính; thì Phật giáo quan

niệm sự đền đáp ấy là chưa đủ. Ngoài điều đó, người con còn có bổn phận đem lại

cho cha mẹ chính kiến, chính tín, giới thiệu con đường giải thoát giới định tuệ, hầu

giúp cha mẹ loại trừ các ác nghiệp, tăng trưởng các thiện nghiệp, đi dần đến sự giải

thoát sinh tử khổ đau. Sự đáp đền này mới gọi là đáp đền chân chính của người Phật

tử, của người trí tuệ. Theo đạo Phật, chỉ có sự đáp đền này mới tương xứng với

công ơn của cha mẹ.

Như vậy, báo chí Phật giáo đã giới thiệu tinh thần Hiếu đạo đến với quần

chúng nhân dân như một “thiện pháp”, giúp con người chuyển hóa tâm mình, cũng

là pháp ứng dụng tu tập để đạt đến giải thoát. Từ đây, chúng ta cũng có thể hiểu

được sự báo hiếu của người con theo tinh thần đạo Phật là phải thực hiện trên hai

phương diện vật chất và tinh thần. Về đời sống vật chất, người con phải biết chăm

sóc, phụng dưỡng cha mẹ để họ sống được thoải mái trong hiện tại. Về đời sống

tinh thần, tâm thức thì phải nhắc nhở khích lệ, trợ duyên cho cha mẹ học, hiểu và

thực hành theo chính pháp, hầu đạt đến an lạc, hạnh phúc trong hiện tại và tương lai.

Một điểm nữa, là người Phật tử tin tưởng vào lý thuyết nghiệp báo, nương

theo lời Đức Phật dạy rằng trong cuộc sống luân hồi vô tận, nhân loại và chúng sinh

đã từng là thân quyến, anh em, cha mẹ của nhau, nên việc báo hiếu đối với cha mẹ

nhiều đời quá khứ sẽ trở thành hành vi ứng xử tốt đẹp với mọi người xung quanh

104

mình. Nói khác đi, chữ hiếu của người Phật tử ở đây là hành vi ứng xử bình đẳng

đối với mọi người, mọi chúng sinh và đây chính là hạnh nguyện của Bồ Tát.

Nói chung, tìm hiểu về tinh thần hiếu đạo mà báo chí Phật giáo thể hiện giúp

con người có một nhận thức căn bản về chữ hiếu và có thể hình dung ra được những

gì tự thân phải làm để đáp đền ơn nghĩa cha mẹ hiện tiền và cả cha mẹ của nhiều

đời quá khứ một cách đúng đắn, có ý nghĩa. Đây là tư tưởng đạo đức cao cả mà giáo

lý đạo Phật từ xưa đến nay vẫn luôn thể hiện nhất quán, không thay đổi.

2.2.4. Lợi tha

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thị hiện xuống cõi đời là vì tâm lợi tha rộng lớn,

muốn cứu độ chúng sinh. Ngài đã lìa bỏ gia đình, ngôi báu, danh vọng cũng vì

muốn làm lợi ích cho chúng sinh. Suốt bốn mươi chín năm Ngài thuyết pháp cũng

chỉ vì muốn cho tất cả mọi người đều được thành Phật như Ngài. Cuộc đời Ngài chỉ

đi theo một mục đích cao cả là tự giác, giác tha; tự độ, độ tha hay tự lợi, lợi tha. Từ

ý nghĩ, lời nói, đến việc làm, Ngài đều hướng về mục đích ấy. Ngài không từ bỏ

một việc làm, một cử chỉ nhỏ nhặt nào, nếu nó có thể đem lại lợi ích cho chúng sinh.

Ngày nay chúng ta cũng thấy, Phật giáo hiện hữu ở đời, luôn theo tôn chỉ là

khiến con người được “đời này an lạc, đời sau an lạc, rốt ráo giải thoát an lạc”. Phật

giáo là một tôn giáo có tinh thần trách nhiệm, luôn hướng con người nhận thức

được những sự khổ não trong đời là do vô minh tham dục của chính bản thân họ gây

ra và mọi người đều có thể tự mình khắc phục những khổ não ấy. Sau đó chỉ ra con

đường hạnh phúc của nhân sinh và dẫn dắt con người vượt qua mọi tham vọng thấp

hèn để đạt đến sự an vui giải thoát. Đó là tinh thần lợi tha cao cả của đạo Phật.

Bồ đề tạp chí số 2 với bài viết Bồ đề luận, một mặt như vừa giải thích danh

từ Bồ đề, mặt khác như vừa gởi đến tín đồ bức thông điệp “Phật tính bình đẳng xưa

nay vốn không sai khác”. Chỉ cần con người biết sống với tâm Bồ đề, với trí giác

ngộ thì đó chính là Phật mà không phải là chúng sinh: “Thể dụng tính tướng của Bồ

đề dịch là Đạo hay Giác, là chỉ cái bản thể rất quảng đại, tính chất rất thanh tịnh,

sáng suốt, diệu dụng rất nhanh chóng, hiện tướng rất sáng suốt của Tâm, Phật và

chúng sinh, cả ba không sai khác, tức là Bồ đề”. Cách nhìn này của đạo Phật đã thể

105

hiện rõ nét tinh thần lợi tha căn bản của đạo Phật, là thể hiện sự bình đẳng, biết tôn

trọng lẫn nhau giữa người với người.

Tinh thần lợi tha thể hiện qua sự bình đẳng, biết tôn trọng lẫn nhau đó còn

được Nguyễn Trọng Thuật đề cập đầy đủ qua bài luận giải Nghĩa bình đẳng của đạo

Phật. Bài viết được đăng trên báo Đuốc tuệ số 61 năm 1937. Ông nhấn mạnh đạo

Phật cho rằng: Phật với loài người, loài người với loài vật, tất cả đều có chung Phật

tính, tức là cái tính chân như thiêng liêng, sáng suốt, hằng bàng bạc ở trong cõi hư

không. Qua đó ông khẳng định: “Thế cho nên Phật với loài người, loài người với

loài vật nhất thiết đều có Phật tính, tức là có cái gốc bình đẳng như nhau. Cũng vì

thế mà nhất thiết chúng sinh (cả người và vật) đều thành Phật một cách bình đẳng

như nhau”.

Trên tạp chí Tiếng chuông sớm số 3, tác giả H.S đã giải thích và hướng cho

muôn người thể hiện lòng vị tha trên con đường tu tập để mở cánh cửa giải thoát, an

vui. Tác giả khuyên con người muốn đạt được mục đích đi lên con đường vui sướng,

trước hết cần phải nuôi dưỡng ý chí để ngăn ngừa mọi điều xấu ác ở đời, thường tu

tỉnh thân tâm, chuyên làm những điều lành, điều phải. Hơn thế nữa, con người cần

phải khởi lòng thương xót tất cả chúng sinh, từ lòng thương đó mà làm những việc

từ thiện để cứu đời. Tác giả còn nhấn mạnh: “Muốn đi đến mục đích ấy, bao giờ

cũng phải có ba điều: 1. Hiểu rõ sự lý, tức là “giải”; 2. Tin ở đạo mình, tức là “tín”;

3. Thực hành điều thiện, tức là “hành””.

Để nêu cao giá trị thiết thực của việc ứng dụng Phật pháp vào đời theo con

đường lợi tha, Bồ đề tạp chí số 28, ra ngày 1.3.1942 đã nhấn mạnh bài luận Tuyên

dương Phật pháp, với tinh thần vừa nâng cao giá trị giáo pháp, vừa nhắc nhở người

tu sĩ phải nỗ lực tu học Phật pháp, đem chính pháp làm lợi ích cho muôn dân: “Đạo

Phật ở nước ta trải mấy nghìn năm, đã bao đời lấy làm quốc giáo, mà các nước Âu,

Mỹ đều cùng tham khảo, hầu khắp Đông Tây cũng phải chịu cái lý thuyết nhà Phật

là chí tôn vô thượng... Phàm là người học Phật thì phải hiểu giáo lý nhà Phật để tu

lấy mình rồi độ cho người. Ai cũng hiểu như thế thì mới có lợi ích...”.

Tinh thần lợi tha của Phật giáo luôn được xây dựng trên mục tiêu hướng về

lợi ích của con người. Ngay cả việc cầu đạo tu tập, người tu tập muốn đạt được giác

106

ngộ, giải thoát thì phải đặt tâm mình trên việc cứu độ muôn loài, tức là lấy tinh thần

lợi tha làm căn bản cho sự cầu đạo của mình. Như trên Đuốc tuệ số 72, ra ngày

1.11.1937, sa môn Tố Liên đã luận giải Cầu đạo Bồ đề ở đâu?. Tố Liên cho rằng

làm lợi ích cho chúng sinh, tức là làm lợi ích cho mình; cứu độ chúng sinh, tức là

cứu độ mình. Nếu ai muốn cầu đạo giải thoát mà không cứu độ cho chúng sinh

được giải thoát, nếu ai muốn giác ngộ lấy mình mà không giác ngộ cho chúng sinh,

thì chưa khỏi tội lỗi. Như thế thì dù có tu hành đến đâu, cũng không thể chứng được

đạo Bồ đề giải thoát. Qua đó, Tố Liên kêu gọi tấm lòng vị tha của mọi người, mong

họ phát khởi thêm tấm lòng từ bi cứu tế, tùy sức mà làm phúc, trước là để cầu đạo

Bồ đề, sau là làm tròn nghĩa vụ thân ái đối với đồng bào và giải thoát được tấm lòng

khổ não cho chúng sinh. Rồi Tố Liên lại trực tiếp nhắn nhủ:

Nay có cứu nạn dân cần phải cứu cả phần hồn và phần xác. Phần hồn thì

cứu bằng đạo pháp, phần xác thì cứu bằng cơm áo. Mong rằng mỗi tuần lễ,

các Ngài nên gom góp tấm lòng Bồ đề, để thành một món. Hoặc là đong

gạo thổi cơm nắm, hoặc là mua quà bánh, rồi thỉnh thêm vài vị sư có học

thức đi về bố thí. Các vị sư phải trước đem những lời lương thiện mà dẫn

dụ, ủy lạo cho họ nghe. Đoạn rồi sẽ ban phát cơm bánh cho họ. Mong sao

họ thoát hồi tai nạn này, rồi đều trở nên làm người lương thiện, biết hiểu

để liêm sỉ, biết đạo đức nhân nghĩa, khỏi làm những sự bạo ác mà phải

chịu tai nạn như thế nữa.

Cũng với quan điểm này, trên Đuốc tuệ số 69, ra ngày 15.9.1937, Thái Hòa

đã nhắc nhở: “Người tu hành nhất cử nhất động phải nên suy xét cho tinh tường, lợi

cho mình đã đành lại phải nghĩ đến sự lợi cho người ta nữa. Nếu chỉ thiên chấp một

bề thời có khi bị hại không nhỏ vậy”.

Thiết thực hơn nữa, tinh thần lợi tha của Phật giáo luôn hướng về mục đích

mang đến lợi ích cho con người trong cuộc sống hiện tại, luôn đi vào đời, đi bên

cạnh con người để giúp đỡ họ mọi lúc mọi nơi. Trên Đuốc tuệ số 54, ra ngày

1.2.1937, Thiều Chửu đã vì quần chúng nhân dân mà chỉ bày những phương thuốc

trị lành thân bệnh cho mọi người qua chuyên mục Y Dược vấn đáp. Còn trên Đuốc

tuệ số 69 thì có bài viết trực tiếp kêu gọi mọi người chia sẻ về vật chất cho quần

107

chúng đang lâm vào cơn đói khổ, theo phương châm Miếng khi đói bằng gói khi no:

“Cái nạn thủy lạo ở hai tỉnh Bắc Ninh và Bắc Giang đã làm cho dân hai tỉnh ấy lâm

vào cảnh khốn đốn, cơm không có ăn, áo không có mặc, sau hai tỉnh nói trên thì

tỉnh Phú Thọ cũng bị cái tai ách như thế. Vậy anh em giáo hữu ta còn đợi gì mà

không đem tâm vào việc cứu tế này”.

Đuốc tuệ số 56 còn thể hiện tinh thần lợi tha thực tế ấy qua việc quan tâm

đến đời sống kinh tế của nhân dân trong tình trạng khủng hoảng của xã hội hiện tại.

Kêu gọi muôn dân biết sống chân chính và kêu gọi sự giúp đỡ lẫn nhau giữa mọi

người. Cụ thể, ở Hội Phật giáo, Đuốc tuệ đã lên tiếng: “Hội Phật giáo mong đem

những nghĩa lý của đạo Phật là: siêng năng, kiệm ước, thành thực, tinh tiến, chất

phác, thương người xót vật, cứu độ lẫn nhau để cảm hóa cho người ta có đủ những

cái nội lực ấy mà tiến lên con đường sinh sống đời nay, cùng nhau cứu vớt mọi sự

khổ về tâm thần, về thể xác trong bể khổ hiện tại mà cầu phúc báu ở đời sau”.

Nói chung, tìm hiểu tinh thần lợi tha của Phật giáo đã thể hiện trên báo chí,

chúng ta thấy rằng đạo Phật là đạo Từ bi và được thể hiện cụ thể qua hành động lợi

tha, thiết thực đi vào đời để cứu giúp muôn người. Theo triết lý đạo Phật, mỗi chúng

sinh đều có Phật tính, thì tất nhiên cũng đã có tính lợi tha, đó là một khía cạnh của

tính Phật. Con người muốn có được cuộc sống hạnh phúc thì phải biết nuôi dưỡng

và phát huy tính lợi tha trong lòng mình. Tức là phải biết thể hiện sự lợi tha trong

cuộc sống hằng ngày bằng mọi phương diện, như lượm một hòn đá giữa đường, nói

một lời dịu dàng để an ủi vỗ về người lo sợ, buồn phiền với thái độ thân thiện hay

chỉ bày cho người khác những điều hay lẽ phải v.v.. đó là những việc lợi tha mà

người học Phật cần phải thực hành.

Từ những việc làm lợi ích bình thường ấy, chúng ta tập tiến dần trên con

đường lợi tha, làm những việc ích lợi quan trọng và to lớn hơn. Làm được như thế,

nuôi dưỡng tính lợi tha đến trình độ viên mãn, chính là lúc chúng ta đã thành Phật.

Nhìn tổng thể về tư tưởng đạo đức Phật giáo thể hiện trên báo chí Phật giáo

trước 1945 ta thấy, hầu như các tạp chí đều chú trọng việc giáo dục nhân cách sống

cho con người, khơi dậy và hoàn thiện những đức tính biết tích thiện trừ ác, từ bi,

lòng hiếu đạo, tâm vị tha và đức tin vào chân lý cuộc sống. Qua đó giúp muôn

108

người biết chuyển hóa thân tâm, đem những phương pháp sống đạo đức căn bản và

sâu xa ấy để xây dựng cuộc sống hạnh phúc, phát triển xã hội. Có thể nói, tính rốt

ráo của tư tưởng đạo đức Phật giáo được thể hiện khá phong phú trên các tạp chí

trên, cho chúng ta hiểu được Phật giáo nửa đầu TK.XX đã kế thừa và phát huy rất

mạnh mẽ tư tưởng Phật học vốn có từ ngàn xưa và cả từ đời Trần qua giáo lý Thập

thiện. Thập thiện là giáo lý nhập thế cơ bản của đạo Phật và vua Trần Nhân Tông đã

lấy pháp tu Thập thiện này để xây dựng nền đạo đức căn bản của xã hội đương thời.

Nhà vua đã đi khắp mọi nơi để khuyên dân chúng thực hành giáo lý Thập thiện,

đem lại đời sống an bình cho muôn dân [65, tr.285-286].

2.3. PHẬT GIÁO VỚI VẤN ĐỀ DÂN TỘC VÀ ĐẠI CHÚNG

2.3.1. Phật giáo với dân tộc

Bản chất giáo huấn từ giáo lý của đạo Phật mang tính nhập thế rất cao, thông

qua học thuyết tuỳ duyên. Nhờ tinh thần dung thông, đạo Phật đã sử dụng các dữ

liệu tích cực của văn hóa dân gian để góp phần xây dựng và phát triển nền văn hóa

dân tộc. Có lẽ vì thế mà tư tưởng triết lý của nhà Phật từ lâu đã trở thành một phần

đời sống tinh thần của người Việt Nam. Tinh thần từ bi, yêu chuộng hòa bình, tôn

trọng sự sống và hiếu sinh của Phật giáo đã ảnh hưởng một cách sâu sắc trong tâm

hồn người dân Việt Nam.

Trong các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần, đặc biệt là Lý - Trần, tinh thần nhập

thế của đạo Phật đã thúc đẩy các vị cao tăng Phật giáo đứng ra đảm trách vai trò cố

vấn cho vận mệnh quốc gia, tham gia triều chính, vì họ nhìn thấy được nỗi đau của

một dân tộc nhỏ bé, từng bị ngoại bang lớn mạnh hơn ức hiếp và đô hộ. Thiền sư

Ngô Chân Lưu đã được Vua Đinh Tiên Hoàng phong là Khuông Việt Đại sư. Danh

hiệu Khuông Việt Đại sư đã nói lên tầm quan trọng về những đóng góp của Đại sư

cho đất nước. Thời Tiền Lê, các thiền sư Vạn Hạnh, Đỗ Pháp Thuận, Khuông Việt cũng được mời tham gia triều chính v.v..

Sau thời đại Lý - Trần, Phật giáo mất dần vai trò là hệ tư tưởng chủ đạo của

xã hội và lui dần về chốn thôn quê, đi vào cuộc sống của nông dân trong các làng xã.

109

Mặc dù vậy, nhưng Phật giáo là chỗ dựa về mặt tinh thần cho một bộ phận chính quyền phong kiến Việt Nam, là yếu tố an dân và củng cố cộng đồng.

Đến thời Pháp thuộc, dù Phật giáo bị phân hóa rõ rệt nhưng trước phong trào

Chấn hưng Phật giáo, những tăng sĩ, Phật tử, cư sĩ có nhiệt tâm vì đạo Phật đã biết

vận dụng tích cực giáo lý nhà Phật vào công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Cho

nên có thể nói, bước vào giai đoạn đầu TK.XX, trong bối cảnh phức tạp của tình

hình chính trị, văn hóa thế giới và lịch sử xã hội nước ta có những biến đổi sâu sắc,

thì những giá trị tích cực của đạo Phật lại một lần nữa được kiểm chứng và thể hiện,

đặc biệt là tinh thần nhập thế của Phật giáo lại càng thể hiện cụ thể và rõ nét hơn.

Một trong những hoạt động nhập thế tiêu biểu của Phật giáo trong giai đoạn

này là báo chí Phật giáo, đó là công cụ sắc bén để đấu tranh vì nền hòa bình, độc lập

của dân tộc.

Trên Đuốc tuệ số 127, ra ngày 1.3.1940, Dương Bá Trạc đã cho thấy rất rõ

sự hiện hữu đầy ý nghĩa của Phật giáo giữa lòng dân tộc qua bài viết Mấy điều cốt

yếu trong đạo Phật. Ông khẳng định Phật pháp tuy có nhiều đường hướng, song

mục đích cũng đều dạy người làm điều thiện. Đạo Phật là đạo rất yêu đời, như Đức

Phật Thích Ca, Ngài chỉ vì lòng thương xót muôn loài mà hy sinh thân mình, hy

sinh ngôi báu và tất cả vinh hoa phú quý đời Ngài để ra đi xuất gia, tìm cầu đạo vô

thượng cứu độ cho đời. Đạo Phật là đạo dạy người ta biết tìm cái vui chân chính. Ở

đời, ai cũng cầu vui, mà đạo Phật dạy con người trước hết phải tìm nguyên nhân sự

khổ, người đời thấy vậy vội cho đạo Phật là chán đời. Nhưng không phải thế, vì con

người có biết nguồn gốc sự khổ, có dứt được khổ thì mới tìm được cái vui chân

chính. Đạo Phật là đạo tinh tiến, dũng mãnh. Nhiều người thấy đạo Phật dạy người

ta từ bi, nhẫn nhục, vội tưởng đạo Phật là nhu nhược, không thích hợp với cuộc đời

cạnh tranh này. Nhưng thật ra, đạo Phật rất tinh tiến và dũng mãnh. Phật biết rằng

lười biếng là căn bệnh thường xảy ra của con người, lười biếng sinh ra yếu hèn, nên

Ngài luôn dạy muôn người phải lấy đức tinh tiến, dũng mãnh để hành xử mọi việc.

Cho nên nói, đạo Phật vẫn là từ bi, nhẫn nhục mà gặp khi cần đến đức dũng mãnh

thì lực lượng mạnh mẽ không gì ngăn cản được.

110

Bài viết vừa khơi dậy những giá trị đạo đức của Phật giáo, vừa như lời nhắc

nhở, khuyên nhủ con người sống phải tinh tiến, dũng mãnh; phải biết lấy lòng từ bi,

nhẫn nhục để đối nhân xử thế.

Điều đáng chú ý trên tạp chí Duy tâm Phật học là ở số 42 năm 1941, chỉ với

tác phẩm Muốn biết Phật giáo có công với đời hay không cần phải soi gương dĩ

vãng, Huệ Quang đã cho tín đồ thấy rõ quá trình hội nhập và sự đóng góp tích cực

của Phật giáo đối với dân tộc Việt Nam thời bấy giờ: “Trải qua các đời Đinh, Lê, Lý,

Trần, Hán học được truyền sang nước ta là nhờ có Phật học, vì Phật giáo hồi bấy

giờ rất thịnh, có nhiều ông sư danh tiếng thông Phật học, thông cả Hán học, được

quốc dân sùng kính và triều đình tôn chuộng như các cao tăng: Vô Ngại, Phụng

Định, Duy Giám, Đỗ Pháp Thuận, Ngô Chân Lưu…”.

Đuốc tuệ số 59 cũng nhấn mạnh thêm tinh thần nhập thế của Phật giáo qua

bài Tinh thần nhân gian Phật giáo của Việt Nam xưa: “Xét từ đời Đinh cho đến đời

Hậu Lê, thấy có ba vị đại tông sư ở ba thời đại đều đã từng chủ trương phát huy về

tinh thần Đại thặng, là tinh thần cứu thế tích cực, tức ngày nay chúng ta gọi là chủ

nghĩa “nhân gian Phật giáo”. Ba vị đại tông sư ấy tức là Khuông Việt Thái sư ở đời

Đinh Lê, Trần Thái Tông ở đời Trần và Hương Hải thiền sư ở đời Hậu Lê”.

Hai bài viết trên Đuốc tuệ đó như là lời kêu gọi chân tình đối với tín đồ Phật

tử, hun đúc tinh thần vì dân tộc cho tín đồ, mong những người thế hệ sau biết noi

theo những gương sáng đó mà thực hiện vai trò của mình đối với dân tộc.

Trên Đuốc tuệ số 23, ra ngày 19.5.1936, sa môn Trí Hải đã thể hiện tư tưởng

vì dân tộc cụ thể của mình qua bài Địa vị người học Phật. Trí Hải đã khuyên nhắc

mỗi người, ai cũng đều có một địa vị riêng, nên phải làm hết bổn phận thì mới xứng

đáng đứng trong địa vị của mình. Từ đó, tác giả trực tiếp chỉ rõ: “Sứ mạng của

người Phật tử là đem đạo pháp của Đức Phật ra truyền bá, giáo hóa cho muôn dân.

Có như thế thì “trên mới hợp lòng của chư Phật, dưới mới có phần lợi ích cho chúng

sinh vậy”.

Nếu trên Đuốc tuệ có nhiều tác giả không ngừng truyền bá tư tưởng vì dân

tộc, muốn đem lại hòa bình, thịnh vượng cho đất nước thì đối với tạp chí Viên âm

111

cũng có nhiều người luôn thao thức mang sự an bình đến cho cả dân tộc Việt Nam.

Trên Viên âm số 2, Tâm Bình đã thể hiện bài luận Thế gian thuyết, cho thấy sự cống

hiến của Phật giáo đối với dân tộc là rất thiết thực và hữu hiệu. Đó cũng là lời tâm

huyết, một lần nữa khẳng định lại sự gắn bó giữa Phật giáo với dân tộc: “Đạo Phật

truyền qua xứ ta, chùa tháp ngày càng nhiều, tín đồ càng ngày càng đông, cũng là

nhờ giáo pháp không trái với phong tục nhơn tâm mà tồn tại đã mấy mươi đời. Sự

tín ngưỡng trong nhân gian nguồn gốc cũng đã sâu xa, chẳng phải đợi đến ngày nay,

đạo Phật xứ ta mới phát triển… Ảnh hưởng của đạo Phật về tinh thần giáo dục xứ ta

chẳng phải là ít”.

Tiếp đó, trên Viên âm số 10 năm 1934, Mật Khế chỉ rõ trách nhiệm của

người xuất gia đối với quê hương đất nước qua bài viết Bổn phận của người học

Phật. Tác giả nhấn mạnh người xuất gia ngoài việc nhớ ơn và báo ơn cha mẹ, thầy

tổ và nhân quần xã hội, còn phải biết báo đáp ơn Tổ quốc. Theo tác giả giải thích,

nếu trong nước không được thái bình, không có trật tự, người mạnh chèn ép kẻ yếu

v.v.. thì con người dầu có cơm ăn, nhà ở cũng khó mà yên ổn, bởi quá nhiều sự

quấy nhiễu. Điều này phải nhờ có những cơ quan chính trị quan tâm bảo vệ thì mới

mong được an vui. Hơn nữa, nếu không có cơ quan chính trị lo công việc quốc

phòng bề ngoài để khỏi bị các nước khác xâm lấn, lo giữ gìn trật tự bề trong cho

mọi người được an cư lạc nghiệp, thì làm sao tránh khỏi nạn cốt nhục chia lìa, cửa

tan nhà nát.

Từ đó Mật Khế nhấn mạnh người đệ tử Phật cần phải báo đáp công ơn của

quốc gia dân tộc. Muốn báo đền ơn ấy, người đệ tử Phật chẳng những không làm

những việc trái với sự an bình, với điều công ích của đất nước mà còn phải tận tâm

làm tròn bổn phận quốc dân, giữ gìn trật tự theo địa vị của mình, để cho cả nước

đều chung hưởng thái bình, hạnh phúc.

Nhằm cổ động tinh thần cho tín đồ Phật giáo, xuất gia cũng như tại gia thực

hiện đúng với nghĩa vụ của mình là “Phật giáo đồng hành cùng dân tộc”, trong lễ

khai mạc Đại hội tại Phật học Tương Tế Sóc Trăng, ngày 13.7.1936, HT. Huệ

Quang đã có bài thuyết giảng nói về nghĩa vụ của người tại gia và xuất gia cần phải

thực hiện. Bài giảng này được đăng rất chi tiết trên Bồ đề tạp chí số 2, ra tháng 9

112

năm 1936. Hòa thượng cho biết người xuất gia là một người tiêu biểu cho Phật pháp,

nên phải có tinh thần dũng mãnh mà đánh đổ bao nhiêu dục vọng, là mầm mống

thống khổ cho nhân loại. Nếu không phải là người có tinh thần cương quyết, giới

hạnh trang nghiêm, hy sinh tất cả một đời, thì không thể làm tu sĩ. Hòa thượng còn

nhấn mạnh đệ tử xuất gia của Phật không phải là kẻ trí tuệ tầm thường, không phải

là người mê muội mà cũng không phải là kẻ trốn đời, chán đời tiêu cực. Còn tín đồ

tại gia là người đã thọ tam quy ngũ giới, có kiến thức, có đạo tâm muốn hộ trì Phật

pháp, vì thế cần phải giữ lòng chánh tín, tinh tấn trên con đường Đạo thì mới làm

tròn nghĩa vụ chia vai “gánh vác sự nghiệp hoằng pháp lợi sinh”.

Quả thật, cách nhìn nhận của HT. Huệ Quang rất tích cực và thể hiện đúng

với tinh thần Phật giáo vì dân tộc. Bài giảng của Hòa thượng cũng cho thấy lúc bấy

giờ, Phật giáo hướng về dân tộc không chỉ thể hiện qua những bài viết trên báo chí

để khuyến hóa lòng dân mà còn trực tiếp khuyến hóa mọi người trong những lúc

thuyết giáo. Bằng mọi phương tiện có thể, Phật giáo luôn vì lợi ích chung cho cả

dân tộc mà cống hiến hết sức mình.

Tạp chí Tam bảo thì thường xuyên cho đăng những câu chuyện cao tăng

nước Việt, là những vị vừa có công với đất nước, vừa đạt được những thành tựu

viên mãn trong quá trình tu tập hướng về đạo quả giải thoát. Cụ thể ở tạp chí Tam

bảo số 1, ra ngày 15.1.1937 có bài viết Lịch sử các vua triều nhà Trần xuất gia, đã

lần lượt nêu rõ quá trình xây dựng đất nước và thành quả tu học theo chính pháp của

Vua Thái Tôn, Vua Thánh Tôn, Vua Nhân Tôn... Chủ ý của tạp chí Tam bảo với

việc làm này là nhằm giúp cho tín đồ hiểu được sự đóng góp thiết thực đối với dân

tộc của những vị vua, những bậc cao tăng thời trước, qua đó có thể cổ xúy tinh thần

vì dân tộc của người đệ tử Phật đương thời.

Như vậy, quá trình thể hiện tinh thần vì dân tộc của các tạp chí trên cho

chúng ta thấy chủ trương chính yếu của báo chí Phật giáo đối với dân tộc nửa đầu

TK.XX là hướng về giáo dục người đệ tử Phật phải biết thực hiện trọn vẹn bổn phận,

nghĩa vụ của mình. Tức là giáo dục người học Phật nên noi gương tốt của người đi

trước, biết nhớ ơn đền ơn và phải luôn thao thức đem chính pháp làm lợi lạc cho

muôn dân, giữ gìn nền hòa bình của dân tộc.

113

Hơn thế nữa, với tinh thần vì dân tộc, tạp chí Tiến hóa còn có tầm nhìn sâu

rộng ra thế giới, chẳng những chỉ lo bảo vệ sự an nguy trong nước mà còn nghĩ ra

cách giáo dục gián tiếp đối với kẻ địch bằng con đường văn hóa dịch thuật. Đó là

trên Tiến hóa số 2, ra tháng 2 năm 1938 đã đưa ra ý kiến cần phải chuyển dịch

những bài kinh tụng thành nhiều thứ tiếng, để cho kẻ đối địch đọc hiểu, biết được

tội phước mà sống có nhân nghĩa, đạo đức hơn.

Đây quả là sáng kiến hay và có tác dụng rất lớn trong phong trào giành lại

hòa bình, độc lập cho quê hương đất nước Việt Nam. Có thể nói, Tiến hóa là tạp chí

tiêu biểu trong phong trào đấu tranh vì dân tộc. Những nội dung Phật học được

truyền tải trên Tiến hóa đa phần thể hiện tinh thần vận động chính trị chống Pháp và

lý tưởng vì cách mạng.

Tuy nhiên, nói đến tạp chí Tiến hóa thì không thể không nhắc đến sư Thiện

Chiếu, là người sáng lập tạp chí này và là người tiên phong trong phong trào “cởi cà

sa, khoác chiến bào” vì sự hòa bình của quê hương đất nước. Thời trai trẻ, mang

hình ảnh người xuất gia thoát tục, nhưng trước hoàn cảnh tủi nhục của đất nước, đã

hình thành trong sư Thiện Chiếu lý tưởng yêu nước và lý tưởng ấy lớn dần theo

cuộc đời của sư. Có lẽ nhờ đó mà về sau, sư trở thành nhà cải cách hiện đại Việt

Nam. Do vậy, khi nói đến tinh thần Phật giáo vì dân tộc thì không thể không nói

đến sư Thiện Chiếu, là người tiêu biểu vừa đại diện cho giới trí thức Phật giáo, vừa

thể hiện nhiệt huyết trong phong trào yêu nước nửa đầu TK.XX.

Năm 1937, Hội Phật học Kiêm Tế được thành lập tại Rạch Giá, lấy chùa

Tam Bảo ở làng Vĩnh Thanh Vân làm trụ sở. Hoạt động của Hội có tiếng vang rộng

lớn ở các tỉnh miền Tây Nam Bộ và lan rộng cả đến Sài Gòn, nơi có trụ sở các Hội

Phật học Nam Kỳ, Hội Phật học Lưỡng Xuyên (ở Trà Vinh).

Hội Phật học Kiêm Tế có cơ quan ngôn luận là tạp chí Tiến hóa, do sư Thiện

Chiếu tổ chức bài vở và điều hành nội bộ. Ông thực hiện chương trình cải cách Phật

giáo mạnh mẽ, táo bạo, khác đời, đó là mong muốn giới tăng sĩ phải dấn thân vào

đời, làm việc thực tế độ sinh, cải tạo xã hội. Đây là vấn đề mới lạ mà đương thời ít

người Phật tử nào nghĩ đến.

114

Những tác phẩm Tại sao tôi (Thiện Chiếu) hoàn tục và Tại sao tôi đã cảm ơn

đạo Phật của sư Thiện Chiếu đã khẳng định rõ lý do sư hoàn tục là không phải bất

mãn với Phật giáo hay giáo lý của Đức Phật Thích Ca. Từ niềm tin chắc chắn đối

với Phật giáo và quá trình tu tập, thể nghiệm giáo lý Phật giáo đã hun đúc cho sư

tinh thần vì dân tộc, giúp sư hiểu được quan điểm từ bi, mong muốn giải phóng

chúng sinh ra khỏi vòng hệ lụy của những tham lam, ích kỷ… của cuộc đời hiện tại

là phải cải tạo xã hội theo con đường “thế giới đại đồng”. Việc sư tham gia khởi

nghĩa Nam Kỳ năm 1940 tại Hóc Môn cũng đã chứng minh cho một thời điểm trong

hành trình sống, hoạt động xã hội, chính trị, tôn giáo canh tân của mình. Sau đó, dù

sư bị Pháp bắt đày ra Côn Đảo, nhưng sau khi Cách mạng tháng Tám thành công,

được trở về đất liền, sư vẫn tiếp tục tham gia kháng chiến chống Pháp với cương vị

một công dân yêu nước, một Phật tử vì dân tộc trước nạn ngoại xâm.

Vào những ngày cuối đời, sư Thiện Chiếu vẫn sống, vẫn làm việc với cách

sống như một nhà sư và những diễn biến tư tưởng cải tiến của sư từ những năm

1920, 1930 ấy mãi không thay đổi. Sư Thiện Chiếu đã đem cái biết của mình từ đạo

Phật ra thực thi với đời từ lứa tuổi thanh niên và cho đến ngày lìa đời, sư đã chu

toàn con đường học và tu Phật của mình.

Hơn thế nữa, sư Thiện Chiếu còn chứng minh cho mọi người biết được sự

cống hiến của Phật giáo đối với dân tộc qua những bài viết của mình. Thiện Chiếu

đã chỉ rõ trong thời kháng chiến chống quân xâm lược Pháp, sư sãi và tín đồ Phật

giáo cùng với toàn dân cầm súng giết giặc ở tiền tuyến hoặc công tác ở hậu phương,

góp phần bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ non sông. Trong phong trào “Đông Dương Đại

hội” cũng như trong cuộc “Khởi nghĩa Nam Kỳ”, khi thất bại vẫn có mặt một số sư

sãi và rất nhiều tín đồ Phật giáo ở trong nhà lao và pháp trường của thực dân

Pháp… Qua đó, Thiện Chiếu nhấn mạnh:

Vì họ là những người con dân tộc của Việt Nam, sống trên đất nước Việt

Nam, không thể không đau xót trước cảnh đất nước bị chia cắt, bị xâm

lăng, bị chiến tranh tàn phá. Họ không thể không tủi nhục và căm thù vì

đồng bào và với phong trào yêu nước của đông đảo quần chúng nhân dân.

115

Nhất là họ không thể đi chệch con đường tiến lên của dân tộc, con đường

phát triển của xã hội loài người [85, tr.31-32].

Thật đúng như câu nói của Nguyễn Lang: “Thiện Chiếu là một người đầy

nhiệt huyết, vừa yêu mến đạo Phật vừa có lý tưởng cách mạng” [67, tr.802]. Vì sao?

Vì hành động của sư Thiện Chiếu từ những năm đầu TK.XX đến ngày sư từ giã cõi

đời xét ra vẫn xuyên suốt, nhất quán. Tinh thần dân chủ, từng thao thức về dân

quyền… đã luôn theo sư Thiện Chiếu từ khi ông theo đạo Phật. Đó là niềm tin bền

vững giúp sư phấn đấu và chiến đấu với đời, mong đất nước hòa bình, mong thế

giới đại đồng như niềm tin và cũng là cứu cánh của đời sư.

Tư tưởng và hành động của sư Thiện Chiếu còn cho ta thấy rõ tạp chí Tiến

hóa đã phản chiếu niềm thao thức muốn đem đạo Phật làm lý tưởng cách mạng.

Hơn thế nữa, những lời tâm sự trên của sư giúp chúng ta thấy được hình ảnh cao

đẹp của những tu sĩ Phật giáo, mang lý tưởng cách mạng dấn thân vào chiến trường

hoặc bằng nhiều phương diện khác mà không hề nao núng, chỉ mong đem lại thanh

bình cho toàn dân tộc. Điều đó đã chứng minh đầy đủ tinh thần Phật giáo nhập thế

tích cực, thiết thực. Hay có thể nói là thể hiện đúng thái độ “tùy duyên bất biến” và

“bất biến tùy duyên” của Phật giáo.

Điểm qua vài nét về tinh thần báo chí Phật giáo với dân tộc, cụ thể hơn là tìm

hiểu về tư tưởng yêu nước của sư Thiện Chiếu, đến đây vấn đề được đặt ra là Phật

giáo đã đóng góp gì cho dân tộc trong giai đoạn nửa đầu TK.XX và cho đến ngày

nay qua hoạt động của báo chí?

Có thể nói, tính dân tộc mà báo chí Phật giáo trước 1945 thể hiện là:

- Hun đúc ý chí và lòng yêu nước của quần chúng nhân dân qua những hoạt

động của phong trào Chấn hưng Phật giáo. Chính phong trào này đã trực tiếp kêu

gọi quần chúng Phật tử giữ gìn truyền thống yêu nước, gắn bó với dân tộc. Cụ thể

trong hàng tăng sĩ Phật giáo có rất nhiều người vẫn giữ nếp sống tu hành chân chính,

nhưng đã tích cực tham gia kháng chiến chống quân xâm lược. Vì vậy có thể nói

phong trào Chấn hưng Phật giáo là một phong trào phục hưng văn hóa dân tộc, một

116

sự phục hưng dựa trên ý thức tự tôn dân tộc và với niềm tự hào về truyền thống yêu

nước lâu đời.

- Khơi gợi lại những giá trị đạo đức của Phật giáo và dân tộc như lòng từ bi,

tinh thần hiếu đạo, đức hy sinh v.v..

- Khuyên dân chúng giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, tích cực phát huy văn

hóa chữ Quốc ngữ bằng các hoạt động phiên dịch kinh điển, mở rộng phong trào

học Phật khắp nơi…

Nhìn chung, tìm hiểu về vấn đề Phật giáo với dân tộc qua báo chí Phật giáo

trước 1945 cũng như qua tư tưởng, hành động thiết thực của sư Thiện Chiếu, đã

giúp chúng ta thấy được mối liên hệ mật thiết giữa Phật giáo và dân tộc như nước

hòa với sữa. Chính tinh thần vì muôn dân bền vững ấy mà Phật giáo vẫn đồng hành

và sáng mãi trong lòng dân tộc Việt Nam. Có thể mượn câu nói của sư Thiện Chiếu

để diễn tả cho sự kiện cao đẹp này: “Nếu là cặn bã của Phật giáo thì nó sẽ thăng

trầm theo thế vận, nhất định dẫn đến chỗ tiêu vong. Nếu là tinh hoa của Phật giáo

thì nó sẽ tồn tại mãi mãi trong sức sống của dân tộc và cùng với sức sống đó tiến lên

theo đà phát triển của nhân loại” [85, tr.32].

2.3.2. Phật giáo với đại chúng

Phật giáo đến với đất nước Việt Nam ngay từ buổi đầu du nhập đã hoàn

thành sứ mạng “bản địa hóa” và trải qua nhiều thế kỷ vẫn luôn hài hòa trong lòng

dân tộc. Tuy nhiên, từ khi Pháp có mặt ở Việt Nam cùng với chủ nghĩa tư bản và

văn hóa phương Tây đã gây ra những xáo trộn không nhỏ trong xã hội Việt Nam và

điều đó ảnh hưởng rất lớn đối với đạo Phật. Tầng lớp trên của xã hội thì theo lối

sinh hoạt thành thị, theo văn minh phương Tây với những phương tiện sinh hoạt

mới và hiện đại. Cùng với những thay đổi trong lối sinh hoạt là các thay đổi về ý

nghĩ và cảm xúc. Từ đó khiến nhiều giá trị bền vững của dân tộc cũng phần nào bị

tha hóa, nhất là Phật giáo bị thực dân Pháp ra sức xóa bỏ trong tư tưởng người dân

Việt Nam, thay vào đó chúng khiến người dân tin theo những hủ tục mê tín dị đoan.

Nhờ có phong trào Chấn hưng Phật giáo do giới tăng sĩ đứng ra chủ trương

mà báo chí Phật giáo có cơ hội ra đời và phát triển qua con đường truyền bá Phật

117

học bằng chữ Quốc ngữ. Từ đó Phật học lan rộng khắp nơi, cả ba miền, dân chúng

đều có cơ hội tìm hiểu Phật pháp. Cho nên, nói đến vấn đề Phật giáo với đại chúng

hay đại chúng hóa Phật giáo trong giai đoạn nửa đầu TK.XX mà báo chí Phật giáo

đã thể hiện thì rất phong phú.

Lúc bấy giờ, vì có số đông quần chúng nhân dân đang sống đau khổ trước

những lo nghĩ vật chất và sự áp bức của chính quyền thuộc địa Pháp, cho nên họ rất

khao khát có được cuộc sống an vui. Ðời sống của nhân dân luôn bị đe dọa không

dứt bởi những làn sóng bất an và sợ hãi, vì vậy họ tìm đến Phật giáo, là nơi hy vọng

có thể đem lại cho họ sự an bình trong tâm và ý nghĩa của cuộc sống. Đồng thời,

cũng có không ít học giả tìm đến Phật giáo, mong tìm ra giải pháp đấu tranh vì độc

lập, hòa bình của dân tộc.

Hiểu rõ tình hình quần chúng nhân dân lúc bấy giờ đa phần còn mê mờ chính

pháp, đồng thời với mục đích tuyên truyền văn hóa, giáo dục đạo đức nên báo chí

Phật giáo trước 1945 hầu như đều đi theo hướng truyền đạt những giáo lý căn bản,

những triết lý Phật học phổ thông gần gũi với đời sống nhân dân mà không phải là

truyền đạt những triết lý cao siêu, khó hiểu.

Trong Đuốc tuệ số 127, ra ngày 1.3.1940, Thiều Chửu đã diễn giải rất rõ lợi

ích thiết thực của những người sống trong xã hội nhưng biết học Phật, biết ứng

dụng Phật pháp vào cuộc sống. Bài viết mang tính triết lý thiết thực, gắn liền với

đời sống nhân dân, mọi giới ai cũng có thể dễ dàng đọc hiểu và tiếp nhận được.

Trong bài viết, Thiều Chửu nhấn mạnh chương trình xây đắp cái nền nhân gian Phật

giáo rất rõ ràng. Thiều Chửu chỉ rõ đối với sự tu dưỡng của từng người: Nhổ một

cái lông thì cả mình đều cảm động, thổi hơi lên trên không thì trên không hiện ra

các làn sóng. Cho nên sự thiện ác của từng người có ảnh hưởng trực tiếp đến sự yên

lành của gia đình, xã hội, nhà nước và cả cõi đời này. Từ đó, Thiều Chửu khuyên

nhắc: “Muốn cho gia đình được hưng thịnh, xã hội được yên vui, cõi đời được hòa

bình, trước hết phải chú trọng đến sự tu dưỡng của từng người, phải trừ tính ác mà

làm điều thiện”.

Bài viết của Thiều Chửu còn ta cho thấy tinh thần “Không làm các điều ác,

nên làm các điều lành” của Phật giáo đã thật sự ảnh hưởng sâu sắc trong tâm tư của

118

quần chúng nên họ mới biết khuyên nhủ người khác nên lấy pháp thiện của nhà

Phật để giáo dục tự thân, xây dựng đời sống xã hội và ổn định cả quốc gia dân tộc.

Lúc bấy giờ, vì sự mê tín dị đoan của quần chúng còn quá nhiều, nên các nhà

Phật học đã ra sức truyền bá Phật pháp để cải hóa tư tưởng cho muôn dân. Trên

Đuốc tuệ số 75, ra ngày 15.12.1937, sa môn Trí Hải đã Bàn về sự đốt vàng mã. Trí

Hải cũng chỉ rõ mục tiêu xóa bỏ mê tín của Phật giáo đã tác động đến cả những cơ

quan chức năng trong xã hội lúc bấy giờ. Cụ thể ở Thái Bình, cụ Thượng Vi đã ra

chỉ thị cấm đốt vàng mã, song vì dân chúng còn quá nhiều mê chấp, nên công việc

cũng chưa đạt được kết quả mỹ mãn mà chỉ có hiệu quả riêng từng nơi. Từ đó, Trí

Hải kêu gọi các chùa nên đem nguyên nhân sự đốt vàng mã và sự lợi hại giảng cho

mọi người hiểu, khẳng định việc đó là vô ích, là đại hại. Kết hợp cả nhà chùa lẫn

các nhà chính trị thì không bao lâu hủ tục đó sẽ tiêu diệt hết.

Để việc tuyên truyền, bài trừ mê tín dị đoan này có tác dụng cao, Trí Hải đã

đưa ra dẫn chứng cụ thể trong kinh Phật nói: “Ngay như trong kinh Dược Sư, là bộ

kinh rất nhiều người tụng, ở trong đó có nói: “Thiêu tiền hóa mã, sát lục chúng sinh,

tế tự quỷ thần, đản tăng tội nghiệp, phản tổn thọ hỷ”. Nghĩa là đốt giấy tiền và các

thứ vàng mã cùng là giết chúng sinh để tế báo quỷ thần, chỉ thêm tội nghiệp và

chóng chết mà thôi, không có ích lợi chi cả”.

Tinh thần “Đại chúng hóa Phật giáo” còn được phổ cập riêng cho người phụ

nữ. Có lẽ thân phận người phụ nữ lúc bấy giờ rất đáng thương, không được xem

trọng nhiều, nên họ quyết sống vươn lên. Giáo lý đạo Phật đã giúp họ thêm niềm tin

và ý chí để xây dựng cuộc sống.

Trên Viên âm số 17, Diệu Phước đã mở ra cho giới phụ nữ một con đường đi

thật tươi sáng và đầy nghị lực qua bài luận Phụ nữ với Phật pháp. Diệu Phước nhấn

mạnh rằng Phật pháp rất thích hợp với khoa học thế giới ngày nay, cho nên chị em

không phải ngần ngại gì mà không chịu thờ nền luân lý nhà Phật: “Chị em hấp thụ

được luân lý nhà Phật thì nơi gia đình, chị em là tấm gương chiếu sáng cho cả gia

đình khác, còn nơi xã hội thì chị em là người ích quốc lợi dân, không phải là sâu

mọt của xã hội”.

119

Viên âm số 13 năm 1935 có bài viết Phật pháp hiệp với đời còn chỉ cho

chúng ta thấy không chỉ có chị em phụ nữ mới quan tâm đến Phật giáo mà cả những

thanh thiếu niên cũng biết lĩnh hội. Với lứa tuổi thanh niên đầy nhiệt huyết, họ đã

biết tìm đến Phật pháp để xây dựng, hun đúc cho lý tưởng cao đẹp của đời mình. Từ

đó mà Viên âm đã quả quyết: “Được như vậy thì anh em sẽ có cái vui của người

thường làm lành, cái vui của người không sợ khổ và anh em sẽ rõ: duy có đạo Phật

là hiệp với đời, là có thể đem đến hạnh phúc đầy đủ cho nhơn loại”.

Sự phổ cập, hòa nhịp giữa Phật giáo và đại chúng quả là mật thiết và đem

đến kết quả thiết thực, bởi những ai theo đạo Phật đều trở thành những con người

tốt, thật sự sống có ý nghĩa và làm tròn bổn phận trách nhiệm với cá nhân, gia đình

cũng như xã hội. Điều này, Tâm Nguyệt, cũng là đại diện cho giới phụ nữ cất lên

tiếng nói thật khẳng khái trên tạp chí Viên âm số 25 năm 1937, với chủ đề Ảnh

hưởng của Phật giáo trong gia đình. Tâm Nguyệt khẳng định người đã theo đạo

Phật, thể theo tâm tính của Phật thì lòng thương cũng mở rộng thêm, chẳng những

thương cha mẹ chồng, chồng con mà còn thương đến anh em bà con bên chồng.

Một người vợ đã quy y Phật thì sẽ tôn trọng đức tính nhẫn nhịn, từ mẫu làm đầu.

Một người mẹ biết quy y Phật sẽ biết làm tròn trách nhiệm người mẹ. Trong nhà

Phật thường dạy: “Người theo đạo Phật, khi nào cũng phải biết ơn, mà biết ơn nếu

không tìm cách trả ơn cho xứng với sự yêu quý ấy, thì kiếp sau người thọ ơn mắc

nợ và phải trả. Vậy cho nên khi hưởng phước, ta chớ nên buông lung, ích kỷ…”.

Học được từ đạo Phật tinh thần nhớ ơn đó, Tâm Nguyệt còn chỉ cho mọi

người biết nhớ nghĩ đến cả tôi tớ trong nhà. Vì sao, vì đạo Phật luôn xem trọng hai

chữ bình đẳng, loài người khác nhau không phải do nơi địa vị sang hèn mà chủ yếu

là do nơi tâm tính của mỗi người.

Vấn đề quần chúng thể nhận tinh thần tri ân báo ân đó từ đạo Phật, không chỉ

có tạp chí Viên âm đề cập đến mà cả tạp chí Quan âm cũng dẫn chứng rất đầy đủ.

Trên Quan âm số 10, Mật Khế khẳng định là người học Phật, tất nhiên phải noi theo

gương Phật, làm những việc lành. Trong các việc lành, có một việc quan trọng là

phải biết giữ tròn bổn phận, cho nên chúng ta cần nghiên cứu bổn phận của người

đệ tử Phật là báo đáp công ơn cha mẹ và công ơn mọi người trong xã hội. Khi ta

120

muốn ăn đã có người làm ruộng, muốn mặc đã có người dệt vải may áo, muốn ở đã

có người làm nhà... Vì thế cần phải nhớ công ơn muôn người trong xã hội mà gắng

sức làm cho xã hội càng ngày càng thịnh vượng.

Quần chúng tiếp nhận và ứng dụng Phật pháp trong đời sống cá nhân, gia

đình và xã hội là thế. Còn đối với đời sống kinh tế thì sao? Tạp chí Viên âm số 28

năm 1937 đã bàn về một chuyên mục riêng là Phật pháp đối với thương nghiệp.

Viên âm nhấn mạnh người đi buôn bán hàng hóa phải làm tròn hai phận sự: Phận sự

đối với mình và phận sự đối với người mua hàng. Tức là phải cân nhắc làm sao cho

hai bên đều có lợi và biết tin cậy nhau, để tránh khỏi sự bóc lột, lường gạt, tranh đua.

Hơn nữa, nếu người bán buôn còn biết phát tâm bố thí cúng dường, giúp các cơ

quan chức năng duy trì nền đạo đức, thì lại càng quý biết bao. Vì những người đó

đã hiểu thấu sự buôn may bán đắt là do phước báu đã tạo từ trước, nay gặp thời may,

nên họ biết nghĩ đến người khác. Người đã giàu lòng từ thiện như thế thì trong thiên

hạ, ai lại không hoan nghênh, yêu quý và đã yêu quý, tất nhiên mọi người sẽ sẵn

sàng mua giúp hàng hóa. Mình thương người, người giúp mình, đó là tôn chỉ từ bi

của đạo Phật để thực hành trong chốn thương trường, nhằm diệt trừ những tệ nạn

giả dối, lường gạt nhau vì mối lợi riêng tư.

Rồi Viên âm kết luận: “Ai là bạn thương nghiệp, ai là đệ tử Phật trong

thương trường, nên xét kỹ chỗ lợi toàn thể, lợi lâu dài mà thực hành Phật pháp trong

nghề buôn của mình. Nếu đạo tâm của các người buôn mà chắc chắn rồi thì ai lại

không tin, có tin nhau mới mong làm các sở to tát”.

Tín đồ lĩnh hội Phật pháp, ngoài việc ứng dụng những giá trị đúng đắn để

xây dựng hạnh phúc gia đình và đời sống kinh tế, còn biết thiết lập mối quan hệ

nhân nghĩa, đạo đức cao cả trong xã hội. Học giả Vân Đàm với bài viết Quốc dân ta

cần phải nghiên cứu Phật học đăng trên Từ bi âm số 23, ra ngày 1.12.1932 cho thấy

xưa nay “Tín ngưỡng Phật giáo” luôn lấy đạo đức làm nền giáo dục, dẫu có hủ tệ di

truyền đã lâu, nhưng tư tưởng thì vẫn in sâu vào trong đạo lý vô thượng. Phật pháp

xưa nay vẫn lấy tôn chỉ từ bi, tế nhơn lợi vật, đủ tư cách để làm cho nhân loại đều

phải khâm phục.

121

Tinh thần đạo đức mà quần chúng lĩnh hội được từ Phật giáo còn có sự hiếu

kính. Từ Phật giáo, quần chúng đã biết ứng dụng đạo hiếu ngay trong cuộc sống

hiện thực, như tạp chí Duy tâm Phật học số 43 năm 1941 với bài viết Noi gương

Đại hiếu của Khánh Anh đã chứng minh rõ điều này. Tác giả kể về nhà Trưởng giả

Huyện hàm Trương Hoằng Lâu tại tỉnh Cần Thơ, noi gương bố thí của thân mẫu, đã

tổ chức Đại trai đàn trong dịp lễ Vu lan Thắng hội, để cầu siêu cho phụ mẫu trong

bảy đời, tỏ chút lòng hiếu kính trong muôn một. Xưa kia, thân mẫu của Trưởng giả

lúc còn sinh tiền từng đem vàng bạc trùng tu chùa Tây An tự, núi Sam, tỉnh Châu

Đốc. Ngày nay, Trưởng giả cảm đức sinh thành đã phát tâm cúng ruộng cho mười

chùa, rước 30 vị tăng vị làm chay cúng dường, thỉnh thầy về thuyết pháp sáu thời

v.v.. Qua đó, Khánh Anh đã kết luận: “Những công trình to tát, cuộc lễ long trọng

như thế là bởi nhà Trưởng giả cảm đức sinh thành, nhớ công sáng tạo. Thế cũng là

ăn trái nhớ kẻ trồng cây, uống nước biết nơi nguồn mạch, chính Trưởng giả thuật

chuyện: “Bà thân tôi thường nói: Má làm phước chùa Tây An là để lại cho con”.

Như vậy, báo chí Phật giáo đương thời đã cho thấy đạo Phật đi vào lòng

quần chúng không chỉ là để chuyển hóa cho cá nhân mỗi người mà còn chuyển hóa

cả gia đình, cho đời sống kinh tế xã hội và cả đời sống đạo đức lễ nghĩa hằng ngày.

Điều đó chứng minh được quần chúng đã tiếp nhận Phật giáo dưới mọi hình thức và

ứng dụng trong mọi hoàn cảnh.

Có lẽ từ sự thể nhập sâu xa đó mà Võ Văn Cường mới thể hiện bài viết Tâm

hồn dân tộc Việt Nam với Phật giáo đăng trên Viên âm số 48 năm 1942 để nói lên

tất cả những kết quả tốt đẹp về Phật giáo trong lòng đại chúng. Ông cho rằng những

người thường dân Việt Nam không tu luyện, thế mà từ tiếng nói cho đến hành động,

đều nhiễm những danh từ, những ý tưởng của Phật pháp một cách bất ngờ. Hễ một

việc gì hơi quan trọng xảy đến trong đời, họ liền niệm: “Mô Phật”. Đời họ gặp cảnh

khổ đau, sẽ tự nhủ một cách tự nhiên: “Vì kiếp trước mình đã vụng tu”. Những công

việc của đời hiện tại chưa thành, họ xin hẹn đến kiếp sau. Qua đó, tác giả đã nhấn

mạnh: “Không biết họ đã hiểu tự bao giờ cái thuyết luân hồi của nhà Phật?”.

Tác giả còn cho thấy người dân Việt Nam hầu như đã thấm nhuần đức từ bi

và rõ thấu thuyết nhân quả - nghiệp báo của nhà Phật, nên họ thường răn bảo con

122

cái phải biết thương yêu muôn loài, đồng thời nhắc nhở: “Bây đừng phung phí làm

đổ cơm nước bậy bạ mà sau phải làm vịt, làm trùng để đi lượm lại những hạt cơm

đã đổ tháo”. Họ thường dọa con: “Bây đừng ác với chó mèo mà sau thành chó mèo

bị họ đánh đập cho chết”.

Cuối cùng, Võ Văn Cường nhận định: “Sự liên lạc giữa Phật giáo và tâm hồn

dân tộc Việt Nam đã chặt chẽ lắm rồi. Chặt chẽ vì nó hợp với thiên lý, vì đã mấy

mươi đời, ông cha chúng ta đã di truyền vào trong cốt tủy... Những thuyết luân hồi,

nhân quả, bình đẳng, từ bi, chúng ta đã áp dụng vào đời sống một cách tự nhiên, tuy

không đến triệt để”.

Nhìn chung, điểm qua một số nét về quá trình truyền bá Phật học mà báo chí

Phật giáo giai đoạn trước 1945 đã thể hiện, cho ta thấy rõ tính đại chúng tiêu biểu

của Phật giáo giai đoạn này như sau:

- Tính phổ cập: Báo chí Phật giáo đã truyền bá nhiều bài giáo lý phổ thông,

mang lợi ích thiết thực cho con người, nên hầu như đều được quần chúng đón nhận

và thực hành ngay trong cuộc sống trên các lĩnh vực.

- Tính tuyên truyền: Báo chí Phật giáo đã cổ động, kêu gọi, thức tỉnh được

lòng dân xóa bỏ mê tín dị đoan, hướng được tâm thức của người dân sống theo con

đường chân chính.

- Tính giáo dục: Báo chí Phật giáo đã tác động, truyền bá những tư tưởng đạo

đức nhằm giáo dục nhân cách sống cho muôn dân.

Như vậy cũng đủ cho chúng ta thấy rằng Phật giáo luôn hòa nhập với đời

sống nhân dân, được quần chúng nồng nhiệt đón nhận, thực hiện đúng đắn và đã

mang lại nhiều thành quả tốt đẹp cho đời sống nhân sinh.

Có thể mượn lời của Xuân Thanh đã viết trong Viên âm số 6 năm 1935 về đề

tài Một nhà chơn chính học Phật là một nhà đại lao động giữa xã hội để kết luận:

“Kinh Pháp Hoa có nói: “Trong thế gian, dầu việc ăn làm, khoa ngôn ngữ, chính trị

đều là Phật pháp cả”. Như vậy, thì đủ biết Phật pháp không ngoài thế gian mà chính

ở trong thế gian vậy”.

123

TIỂU KẾT

Nhìn tổng thể ta thấy hầu như báo chí Phật giáo trước 1945 đều chú trọng

việc nghiên cứu giáo lý, đồng thời xây dựng chương trình Phật học phổ thông cho

quần chúng, gồm các mục kinh điển, lịch sử Phật giáo, Phật học căn bản, Phật học

vấn đáp, dịch kinh, luận giải Phật pháp v.v.. Đặc biệt, với mục đích giáo dục quần

chúng, báo chí Phật giáo lúc bấy giờ quan tâm nhiều đến việc truyền bá những tư

tưởng đạo đức như từ bi, hiếu đạo, lợi tha, nhẫn nhục, tinh tiến v.v.. Chính lối

truyền bá Phật học cơ bản, phù hợp với căn cơ, trình độ của quần chúng nhân dân

đã tạo cơ hội tốt để đưa Phật giáo đến gần với con người hơn.

Ngoài ra, việc truyền bá Phật học lúc bấy giờ có phần sôi nổi hơn qua những

cuộc trao đổi, tranh luận liên hệ đến triết học Phật giáo và nhận thức luận. Những

vấn đề được đặt ra như Thượng đế sáng tạo, linh hồn bất tử, Cực lạc, địa ngục và

vấn đề tồn tại của ngoại giới, là những vấn đề được chú trọng đến nhiều nhất, thu

hút sự quan tâm của giới trí thức Phật giáo và cả dư luận xã hội. Những cuộc tranh

luận, thảo luận này đã chứng minh cho quần chúng các giới thấy được triết lý Phật

giáo rất phù hợp với khoa học. Đây cũng chính là làn sóng mạnh mẽ lôi cuốn quần

chúng tìm hiểu và thực hành theo Phật pháp, góp phần xây dựng đời sống cá nhân,

gia đình và xã hội ngày càng an lành, rạng rỡ hơn.

Báo chí Phật giáo trước 1945 còn cho chúng ta thấy sự gắn bó giữa Phật giáo

với dân tộc và với đại chúng qua lối truyền bá phổ thông, gần gũi. Những giá trị

Phật học lúc bấy giờ vừa mang ý nghĩa giáo dục, vừa hun đúc tinh thần văn hóa dân

tộc, yêu quê hương đất nước.

Hơn thế nữa, những bài Phật học căn bản về triết lý đạo đức và cả những bài

viết với nội dung tranh luận về Thượng đế, linh hồn, Cực lạc… trên báo chí lúc bấy

giờ, nhìn chung đều là những bài văn nghị luận với nghệ thuật diễn tả khá sắc sảo,

lối hùng biện đanh thép. Cho nên có thể nói những tác phẩm Phật học vừa mang giá

trị Phật học, vừa có giá trị văn học.

Báo chí Phật giáo lúc bấy giờ đã đáp ứng đầy đủ nhu cầu tìm hiểu, học hỏi

Phật pháp cho mọi tầng lớp độc giả và đóng góp công sức không nhỏ cho con

124

đường hoằng dương chánh pháp đầu TK.XX. Ngay trong cuộc sống hiện tại, con

người có thể ứng dụng giáo lý Phật giáo nhằm xây dựng đời sống văn hóa, kinh tế,

chính trị… ngày càng tốt đẹp hơn.

Nói chung, Phật học trên báo chí Phật giáo trước 1945 đã mở ra cho quần

chúng sự hiểu biết căn bản về đạo lý sống , chuyển hóa được

tầm nhìn của tín đồ từ mê tín thành chánh tín. Vì vậy, có thể khẳng định Phật học

giai đoạn này là chiếc cầu nối giữa văn hóa truyền thống và đạo lý chân chính, góp

phần ổn định xã hội và đấu tranh vì hòa bình độc lập của cả dân tộc.

125

Chƣơng 3

VĂN HỌC TRÊN BÁO CHÍ PHẬT GIÁO VIỆT NAM

TRƢỚC 1945

3.1. TỔNG QUAN VỀ VĂN HỌC TRÊN BÁO CHÍ PHẬT GIÁO TRƢỚC 1945

Trong khoảng hai thập niên đầu TK.XX, khi nhiều tờ báo bằng chữ Quốc

ngữ lần lượt ra đời, thì các thể loại thơ ca và truyện cũng có điều kiện phát triển.

Đặc biệt, sự ra đời của các tờ báo như Nông cổ mín đàm, Lục tỉnh tân văn, Công

luận báo, Phụ nữ tân văn… đã dẫn đến sự xuất hiện của một đội ngũ nhà văn, nhà

thơ kiểu mới: sáng tác bằng chữ Quốc ngữ theo các thể loại văn học phương Tây.

Nhiều nhà văn nổi tiếng như Trần Chánh Chiếu, Hồ Biểu Chánh, Lê Hoằng Mưu,

Phú Đức, Bửu Đình… trước khi là nhà tiểu thuyết đã là các nhà báo. Hầu hết các

tác phẩm của họ đã được in nhiều kỳ trên báo chí, sau đó mới xuất bản thành sách.

Báo chí Quốc ngữ là môi trường tốt cho các nhà văn rèn luyện ngòi bút của mình,

đồng thời quan niệm văn học mới, các thể loại văn học mới… cũng được hình thành

từ đây.

Trong quá trình hình thành và phát triển của báo chí Việt Nam đầu TK.XX,

có sự hiện hữu và đóng góp không nhỏ của báo chí Phật giáo như trên đã nói.

Những tờ tạp chí, tờ báo Phật giáo lúc bấy giờ đều hướng về mục đích truyền tải tư

tưởng Chấn hưng Phật giáo và những tư tưởng giáo lý Phật học căn bản. Hầu như

không có tạp chí Phật giáo nào thiên hẳn về văn chương, nhưng mỗi tạp chí đều

dành đất cho sáng tác văn học với các thể loại thơ và văn xuôi. Những thể loại văn

xuôi gồm có truyện ký, truyện ngắn, tùy bút, tiểu thuyết và xã luận.

Mười lăm tạp chí, tờ báo Phật giáo chúng tôi khảo sát, có 10 tạp chí: Từ bi

âm, Viên âm, Duy tâm Phật học, Tiếng chuông sớm, Bồ đề, Bát nhã âm, Pháp âm

Phật học, Tam bảo, Tiến hóa, Quan âm và một tờ báo Đuốc tuệ có đăng thơ và văn

xuôi (xem phụ lục 3, 4). Văn học đã chiếm một vị trí khá quan trọng trên các trang

báo ấy và góp phần tích cực vào công cuộc truyền bá Phật giáo, phát huy văn hóa

dân tộc cũng như cuộc đấu tranh giành độc lập tự do cho Tổ quốc. Nghiên cứu văn

126

học trên báo chí Phật giáo trước 1945 sẽ góp phần hoàn chỉnh bức tranh chung về

hiện đại hóa văn học Việt Nam nửa đầu TK.XX.

Khảo sát 166 số tạp chí Từ bi âm (từ số 2 đến số 167), chúng tôi thống kê

được 20 bài thơ của các tác giả: Liên Tôn, Kim Xuân, Nguyễn Văn Xứng, Mật Khế,

Trí Độ, Sa môn Tâm Tường, Bích Phong, Võ Thành Hay, Đinh Chí Nghiêm, Trang

Quảng Hưng, HT. Bích Liên... Thơ đa phần mang nội dung chúc mừng sự ra đời

của tạp chí Từ bi âm, đề vịnh danh lam cổ tự và khuyên răn mọi người làm điều tốt.

Phần văn xuôi, chúng tôi thống kê được 40 tác phẩm, trong đó gồm 19

truyện ký, 13 truyện ngắn và 8 tiểu thuyết. Đặc biệt, từ số 2 đến số 32, Từ bi âm đã

liên tục đăng Lược truyện Phật Thích Ca Mâu Ni từ khi Đản sinh cho đến lúc nhập

Niết bàn, là một tác phẩm dài có giá trị, đầy đủ ý nghĩa về cuộc đời Đức Phật Thích

Ca.

Tám tác phẩm tiểu thuyết là: Tu là cội phước, tình là dây oan và Hiếu nghĩa

cảm Phật của Liên Tôn, Dưới chơn Phật của Kim Xuân, Duyên trước tình sau của

Chánh Niệm, Sám hối được sanh về Thiên đường của HT. Bích Liên, Tưởng Phật

có Phật và Từ bi chỉ mối nhơn duyên của Nguyên Bản, Gương quả báo của Nguyễn

Văn Nhơn. Có thể nói, tác phẩm nào cũng có ý nghĩa, giá trị trong việc nêu lên triết

lý đạo đức Phật giáo, khuyên mọi người bỏ điều ác làm điều lành.

Bên cạnh đó, 13 tác phẩm truyện ngắn trong Từ bi âm cũng thu hút sự chú ý

của người đọc bởi nội dung đặc sắc và mang tính giáo dục cao. Trong 13 tác phẩm

đó, Thiện Dụng đã viết 5 truyện: Nhờ vợ tu hành mà chồng khỏi đọa, Một nàng con

gái 13 tuổi ngộ đạo, Nhờ đuốc tuệ ra khỏi đường mê, Lòng từ bi cảm đến loài vật,

Phật hóa độ người có duyên lành. Tám tác phẩm còn lại là của những tác giả khác,

gồm: Bỏ Nho đầu Phật của Minh Tịnh, Làm lành đặng phước, làm dữ bị họa của

Nguyễn Văn Hạp, Sự tích nàng Mãn Lịnh Tông của Nhựt Chánh, Hại người tức là

hại mình của Bình Tháp, Gương nhân quả: Có vay phải có trả của Từ Ân, Gương

nhân quả: Người đức độ thêm thọ được con của Nguyên Bản và hai tác phẩm

Gương nhân quả của Thiện Minh.

127

Thơ trên tạp chí Viên âm không được phong phú và đăng tải chưa thường

xuyên. Chúng tôi đã khảo sát 129 số, bắt đầu từ số 1 nhưng chỉ tìm thấy được vài

mươi bài thơ: Chùa Non Nước, Mừng Viên âm ra đời, Khuyên đọc Viên âm, Vịnh

cảnh chùa Trúc Lâm, Mừng Tết, Đề chùa Linh Mụ (Huế), Khuyên người, Cùng bạn

chung thuyền chơi Túy Vân, Ngủ lại chùa Túy Vân, Chơi núi Thiên Thai, Khuyên

tu… Những tác giả tiêu biểu có: Tâm Bình, Lục Vân, Nguyễn Bích Phong, Cổ Mai,

T.T.T, Quật Đình, Thanh Tâm v.v..

Phần văn xuôi trên Viên âm cũng chỉ thấy có 12 tác phẩm, trong đó có 7 tiểu

thuyết, 1 truyện ngắn, 3 truyện ký và một tùy bút. Mỗi tác phẩm là một bài học giáo

dục nhân cách rất thiết thực và có ý nghĩa theo tinh thần giáo lý nhà Phật. Riêng từ

số 1 đến số 16, Viên âm cho đăng Sự tích Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, nhưng không

được đầy đủ như các tạp chí khác.

Khảo sát 230 số báo Đuốc tuệ, chúng tôi thấy đây là tờ báo chú trọng khá

nhiều tới mảng “Văn uyển”. Số thơ thống kê được khoảng 84 bài của Sa môn Thái

Hòa, Nguyễn Thiện Chính, Bùi Đức Triệu, Nguyễn Thượng Cần, Phạm Thanh Sắc,

Đặng Ngọc Oanh, Huyền Am, Nhàn Vân Đình, Nguyễn Văn Hựu, Huyền Am,

Thanh Giản, Lương Duyên Tuệ, Trịnh Như Tấu, Thanh Bảo, Nguyễn Bá Trọ,

Nguyễn Hữu Bồng, Tử An Trần Lê Nhân, Nguyễn Cao Sơn, Sa môn Ngọc Thụ, Trí

Hải, Trần Văn Đại, Ngô Huy Sắc, Công Chân, Thanh Phương… Trong đó, Nguyễn

Thiện Chính là người nổi bật, với hơn 40 bài thơ.

Về văn xuôi, báo Đuốc tuệ đã đăng 32 tác phẩm, gồm: 16 truyện ký, 11

truyện ngắn, 4 tiểu thuyết và 1 tùy bút. Như vậy truyện ký chiếm số lượng nhiều

nhất. Nội dung những tác phẩm văn xuôi trên báo Đuốc tuệ đều thể hiện triết lý nhà

Phật, lịch sử Phật giáo, đặc biệt là nói lên triết lý nhân quả và khuyên mọi người

làm điều tốt, bỏ điều xấu. Những tiểu thuyết nổi bật gồm: Oán thù bình đẳng của

Quảng Tràng Thiệt, Thế cũng là “ngộ đạo” của Đ.N.T, Nhân quả của Nguyễn

Thiện Chính, Trầm luân của Thanh Đương Thuật. Những tác giả viết về truyện ký

và truyện ngắn tiểu biểu có: Nguyễn Trọng Thuật, Nguyễn Thiện Chính, Thiện Bảo,

sa môn Tố Liên, Thanh Đương Thuật, Trần Mạnh Đàn… Đặc biệt còn có một số vị

đã dịch những tác phẩm có giá trị, như sa môn Trí Hải, sa môn Thái Hòa, Nguyễn

128

Thượng Cần dịch những câu chuyện trong kinh Phật; Thiều Chửu dịch tác phẩm

Tây vực ký v.v..

Khảo sát 43 số của tạp chí Duy tâm Phật học, chúng tôi thấy tạp chí này ít

đăng tải văn học hơn những tạp chí khác, chỉ có 14 tác phẩm thơ và 2 tác phẩm văn

xuôi của các tác giả: Liễu Không, Võ Thái Hữu, Nguyễn Bá Đạt, Bích Khê, Đặng

Văn Long, Khánh Vân, Hải Giác v.v..

Tìm hiểu 23 số của tạp chí Tiếng chuông sớm, chúng tôi thống kê được 46

tác phẩm thơ và 10 tác phẩm văn xuôi. Điều đáng nói, tạp chí này đăng rất nhiều

thơ. Chỉ 23 số thôi mà đã có 46 bài thơ, khá nhiều so với những tạp chí khác. Trong

10 tác phẩm văn xuôi thì có 5 truyện ký của các tác giả: Tản Đà, Hội Sơn, Mai

Đăng Đệ; 4 truyện ngắn của Mộng Vân và 1 tác phẩm tiểu thuyết Nam Du Ký cũng

do Mộng Vân dịch.

Khảo sát 8 số tạp chí Bát nhã âm, không thấy có tác phẩm văn xuôi nào, chỉ

có thơ bắt đầu đăng từ số 14, ra ngày 15.04.1939. Những nhà thơ nổi bật có Thiện

Quang, Nguyễn Thiện Chánh, Đỗ Phước Tâm, Trí Quang. Tuy nhiên, hầu như sáng

tác thơ trên Bát nhã âm đều là những tác phẩm kinh điển nhà Phật được chuyển

thành dạng thơ, để giúp cho tín đồ dễ đọc tụng và dễ nhớ, như Đỗ Phước Tâm đã

diễn nghĩa Đại Phương Tiện Phật Báo Ân Kinh, Hồng danh Bửu sám (Sám hối văn),

Sám Khể thủ, Sám đưa linh… là những bài sám để tụng đọc trong thời kinh của các

nhà chùa.

Tìm hiểu tạp chí Tam bảo qua 23 số, bắt đầu từ số 1 ra ngày 15.1.1937,

chúng tôi thống kê được 8 tác phẩm thơ có giá trị của những tác giả: Như Như, Giác

Phong, Từ Pháp. Trong tạp chí này, về văn xuôi chỉ thấy đăng Truyện Cao tăng

nước Việt Nam của T.B, còn tiểu thuyết, trên số 1 có đăng tác phẩm Tốt đỏ tốt trắng

của An Xuyên Tư.

Khảo sát những tạp chí Bồ đề, Pháp âm Phật học và Tiến hóa, chúng tôi thấy

các tác phẩm thơ hay văn xuôi thỉnh thoảng mới được đăng tải. Những tác giả tiêu

biểu trên tạp chí Bồ đề có Văn Thị Nga; tạp chí Pháp âm Phật học có T.H, Trần

Văn Minh, Bạch Vân, Diệu Phước; tạp chí Tiến hóa có Thanh Đàm…

129

Tạp chí Quan âm với phần “văn uyển” khá phong phú, đăng tải nhiều sáng

tác thơ ca với nội dung thể hiện lòng mến mộ Phật pháp, lòng yêu quê hương đất

nước. Tìm hiểu qua 11 số tạp chí Quan âm, bắt đầu đầu từ số 22 đến số 33, chúng

tôi đã thống kê được 37 bài thơ và 16 tác phẩm văn xuôi. Những nhà thơ tiêu biểu

có: Văn Thị Nga, Song Châu, Tri Huyền Tử, Thu Tâm, Văn Chính, Lương Văn

Tích, Phan Thanh Diễn, Hoan Ảnh, Mỹ Châu, Lương Văn Tích, Minh Châu, Vương

Linh, Phi Hùng, Long Giang, Trần Văn Thanh, K.H, Thiện Phú, Kim Giai, Thiện

Bảo… Trong đó, tác giả đóng góp nhiều nhất về mảng thơ là Thiện Bảo. Trong số

37 bài thơ thống kê được thì Thiện Bảo đã có 12 bài. Ngoài ra, những tác giả như

Văn Tích và K.H cũng có những đóng góp đáng kể.

Về 16 tác phẩm văn xuôi, có: 8 bài xã luận, 4 tùy bút, 4 truyện ngắn và

không thấy có tiểu thuyết nào. Những tác giả tiêu biểu có: Song Châu, T.V, Trương

Vĩnh Ký, Lệ Châu, Tri Huyền Tử, K.H, Xuân Mai, Th.M, Hoan Ảnh…

Chúng tôi chỉ mới tìm hiểu được 11 số của tạp chí Quan âm, đã thấy những

sáng tác thơ, văn xuôi được đăng tải khá phong phú. Điều đó cho thấy sự quan tâm

và chú trọng của báo chí Phật giáo nói chung và tạp chí Quan âm nói riêng đối với

mục văn uyển. Hơn nữa, nó cũng cho thấy sự quan tâm và yêu mến rất nhiều của tác

giả đối với văn học Phật giáo.

Qua số lượng tác phẩm thơ, văn xuôi trên mỗi tạp chí thống kê được đã cho

thấy sự tiếp nối của văn học Phật giáo được thể hiện khá phong phú trên báo chí

Phật giáo trước 1945. Với mục đích tải đạo, truyền giảng giáo lý Phật giáo, những

tác phẩm văn học Phật giáo ấy đồng thời đã góp phần không nhỏ vào quá trình phát

triển chữ Quốc ngữ và kiến tạo nền văn học Việt Nam hiện đại. Sự góp mặt đầy đủ

của các thể loại thơ, tiểu thuyết, truyện ngắn, tùy bút, ký… và một số lượng lớn tác

phẩm văn học trên đã khẳng định sự tồn tại, phát triển của một bộ phận văn học

Phật giáo trên báo chí Phật giáo Việt Nam trước 1945.

Đồng thời, tìm hiểu tổng quát về văn học trên báo chí Phật giáo giai đoạn

này, có thể thấy báo chí đương thời đã quan tâm chuyển tải văn học Phật giáo đến

với quần chúng nhân dân. Hầu như tạp chí nào cũng đề cập đến thơ và văn xuôi với

mức độ nhiều ít khác nhau. Phần lớn những bài thơ, truyện ngắn, truyện ký, tùy bút,

130

tiểu thuyết hay xã luận đăng báo đều chứa đựng nội dung giáo dục Phật giáo. Hơn

nữa, những nhà văn, nhà thơ được liệt kê trên cho thấy số lượng tác giả tham gia

viết bài cũng khá đông. Nhìn chung, họ là những người có tâm huyết với đạo pháp

và dân tộc.

3.2. DỊCH KINH PHẬT - MỘT LOẠI HÌNH DỊCH VĂN HỌC ĐẶC BIỆT

Kinh Phật có thể xếp vào loại sách tôn giáo, triết học, nhưng nhìn từ phương

diện khác thì đó cũng là các tác phẩm văn học, vì rất nhiều bộ kinh, trang kinh được

viết với tư duy hình tượng phong phú như những tác phẩm văn xuôi nghệ thuật,

ngôn từ trau chuốt, có tính mỹ văn rất cao. Vì vậy dịch kinh Phật không phải là

công việc khoa học đơn thuần mà có thể coi như dịch văn học - một loại hình văn

học đặc biệt: văn học Phật giáo.

Kho tàng văn học Phật giáo được hình thành từ nguồn Tam tạng kinh điển

Phật giáo (Kinh, Luật, Luận). Hệ thống Tam tạng kinh điển này thật phong phú,

được hình thành từ nhiều bài pháp thoại do đức Phật lúc còn tại thế đã thuyết giảng

ở các nơi cho mọi tầng lớp, mọi đối tượng từ vua quan đến dân chúng. Điểm minh

chứng xác thực nhất cho biết đó là những lời Phật nói ra được thể hiện bằng câu

“如是我聞” (Như thị ngã văn - Tôi nghe như vầy), ý muốn chỉ ra rằng kinh điển

Phật giáo là do chư Thánh đệ tử đã trực tiếp lắng nghe từ đức Phật và sau này được

tụng đọc lại trong các kỳ kết tập:

“Có thể nói, trải qua 4 kỳ kết tập kinh điển, tình hình văn bản kinh điển

Phật giáo được y cứ từ hệ thống Tam tạng kinh điển đã được định hình và

phát triển ít nhất trong khoảng thời gian 3 thế kỷ đầu ở Ấn Độ, từ thời Phật

tại thế đến thời Asoka (A Dục), sau đó lan tỏa phát triển tại Tích Lan và các

nước trong khu vực với những đặc trưng riêng biệt của các thành tố văn học

Phật giáo như ngôn ngữ, thủ pháp nghệ thuật, đặc biệt là thể loại” [29].

Ngày nay, chúng ta thấy Phật giáo được xem là một tôn giáo có hệ

thống Tam tạng kinh điển vĩ đại hơn cả so với các tôn giáo khác. Từ đây, văn học

Phật giáo có thể hiểu theo hai phương diện: một là các tác phẩm chuyên về Phật học

131

(kinh điển), là loại văn học Phật giáo thuần túy; hai là những áng văn chương chịu

ảnh hưởng Phật giáo.

Trong giáo lý Phật giáo, kinh điển chiếm số lượng rất nhiều và khá đa dạng.

Có những bản kinh viết theo dạng Ứng tụng, tức là ghi lại lời đức Phật dạy theo thể

tản văn; viết theo lối Kệ tụng, là ghi lại lời đức Phật theo thể thơ kệ; hay viết theo

thể loại Giải thuyết, là ghi chép lại những điều luận giải về chính pháp của đức Phật

v.v.. Báo chí Phật giáo trước 1945 đã nắm bắt được tình hình thực tế của tín đồ đa

phần chưa hiểu nhiều về chính pháp, nên hầu như đều truyền bá những kinh điển đã

được dịch sang chữ Quốc ngữ với nhiều thể loại khác nhau.

Dịch thuật đóng vai trò rất quan trọng trong nền văn hóa của một nước. Qua

phiên dịch, ta nhận ra những đặc điểm cơ bản của một nền văn hóa trong quá trình

phát triển. Tuy nhiên, trong từng thời kỳ, từng giai đoạn lịch sử của một nền văn

hóa, vai trò của phiên dịch không giống nhau.

Dịch thuật ở Việt Nam giai đoạn cuối thế kỷ XIX đầu TK.XX có vai trò đặc

biệt quan trọng trong lịch sử văn hóa Việt Nam. Trong ba mươi năm đầu TK.XX,

việc phiên dịch ở Việt Nam phản ánh đặc điểm chung của nhiều nền văn hóa

phương Đông trong buổi đầu tiếp xúc với phương Tây qua việc chuyển tải những

yếu tố ngoại sinh, góp phần tạo nên bước chuyển biến về chất, thúc đẩy quá trình

hiện đại hóa.

Tính đặc thù của việc phiên dịch văn học trong giai đoạn này ở Việt Nam là

sự chuyển đổi dần vai trò chủ đạo của văn tự từ hệ chữ viết khối vuông (Hán, Nôm)

sang hệ mẫu tự Latin (từ đây gọi là chữ Quốc ngữ) trong đời sống văn hóa - xã hội

Việt Nam. Trong xã hội Việt Nam những năm đầu TK.XX, chữ Quốc ngữ không

chỉ là phương tiện để chuyển tải những yếu tố văn hóa ngoại sinh - yêu cầu tất yếu

đối với quá trình hiện đại hóa văn hóa - mà còn là nhịp cầu kết nối với văn hóa

truyền thống, góp phần khơi dậy những yếu tố nội sinh làm nền tảng cho quá trình

hiện đại hóa. Do vậy, việc dịch thuật văn học gắn với yêu cầu xã hội hóa chữ Quốc

ngữ giờ đây còn đáp ứng nhu cầu đọc hiểu của công chúng, để theo kịp đà tiến hóa

văn minh.

132

Để phổ biến chữ Quốc ngữ và đáp ứng nhu cầu của công chúng, từ cuối thế

kỷ XIX đến những năm đầu TK.XX, các nhà văn, các học giả đã tập trung dịch các

loại sách có từ truyền thống như: kinh sách Hán văn, các truyện Nôm Việt Nam, các

loại truyện thơ khuyết danh, và sau đó là phong trào dịch tác phẩm văn học cổ điển

của Trung Quốc (phần lớn là tiểu thuyết chương hồi). Tình hình này phổ biến trên

cả nước, trên các tờ báo và sách in. Bên cạnh đó, văn học phương Tây (chủ yếu là

văn học Pháp) được dịch và giới thiệu là những tác phẩm, tác giả trước thế kỷ XIX,

thuộc trào lưu cổ điển, trào lưu hiện thực và trào lưu lãng mạn.

Những điều trên cho thấy, trong chặng đầu của tiến trình hiện đại hóa văn

học, cũng như mọi Quốc gia khác, nước ta đã trải qua các hoạt động như: dịch thuật,

thể nghiệm các thể loại mới, xác lập quan niệm văn học, hình thành thị hiếu thẩm

mỹ mới, lực lượng nhà văn mới và công chúng mới… Nhưng Việt Nam vẫn có một

số nét riêng: hoàn thiện chữ viết (chữ Quốc ngữ) và nhiệm vụ giành độc lập dân

tộc.

Trước tình hình đó, phong trào Chấn hưng Phật giáo trong những năm đầu

TK.XX cũng rất quan tâm đến việc chuyển dịch kinh Phật. Vì kinh điển Phật giáo

nước ta lúc bấy giờ đa phần là chữ Hán, rất trở ngại cho sự phát triển Phật giáo Việt

Nam trong giai đoạn cận hiện đại; cho nên việc chuyển dịch kinh Phật qua tiếng

Việt là điều rất trọng yếu, mà những ai có tâm huyết hoằng dương chính pháp tại

Việt Nam cần phải quan tâm hàng đầu.

Nguyễn Trọng Thuật đã cho thấy tầm quan trọng của kinh sách Phật giáo

bằng chữ Quốc ngữ đối với Phật giáo và xã hội Việt Nam lúc bấy giờ như sau: “Sự

nhu cầu kinh sách bằng Quốc văn của quốc dân hiện nay thật không khác chi đói

mong ăn, khát mong uống, ốm mong thuốc, tối mong đèn, vì từ khi Hán học giảm

dần, tinh thần đạo đức, nghĩa lý tinh vi ẩn mật, nhân tâm biến đổi, thế đạo suy vi,

cương thường rối loạn, tà thuyết thịnh hành, Phật giáo cũng vì đó mà ảnh hưởng

một phần rất lớn, đã thành ra cái đạo có sắc không hồn, số tín đồ tuy đông mà rất ít

người hiểu…” [F, số 113, tr.27].

Ý thức được điều này, nhiều học giả, nhà nghiên cứu, nhà tu hành đã để tâm

rất nhiều và họ trực tiếp tham gia chuyển dịch nhiều bản kinh có giá trị của Phật

133

giáo như kinh Pháp Hoa, Lăng Nghiêm, Địa Tạng, Kim Cang Bát Nhã v.v.. từ chữ

Hán sang ngôn ngữ Việt, để Phật giáo Việt Nam có những bản kinh bằng tiếng Việt,

giúp giới học Phật có thể đọc hiểu một cách dễ dàng những lời Phật dạy mà ứng

dụng tu tập. Cũng từ đó mà văn học Phật giáo Việt Nam lại càng nở rộ hơn bao giờ

hết với các tác phẩm phiên dịch kinh điển từ chữ Hán sang tiếng Việt và những sáng

tác văn thơ bằng Quốc ngữ của nhiều vị tăng, ni và văn thi sĩ Phật tử chịu ảnh

hưởng tinh thần Phật giáo.

Quá trình dịch thuật này đã góp phần to lớn trong việc hiện đại hóa chữ Quốc

ngữ, đem đến cho dân tộc Việt Nam những tác phẩm văn học có ý nghĩa. Hơn nữa,

nội dung của các bản kinh và thơ văn Phật giáo được dịch thuật ấy bước đầu là giáo

dục đạo đức, khuyên dạy con người hướng thiện, chu toàn trách nhiệm với gia đình,

xã hội; sau đó chú trọng đến việc dẫn dắt tâm linh hướng về con đường giải thoát

chân chính của Phật giáo. Chính vì thế, nên xem việc dịch kinh Phật là một loại

hình dịch văn học đặc biệt. Những bản dịch ấy đều được các tạp chí Phật giáo

đương thời ưu tiên đăng tải nhiều kỳ trên các trang báo, ngõ hầu phổ biến rộng rãi

khắp trong quần chúng, giúp cho các tín đồ có cơ hội tiếp cận và nghiên cứu.

Bồ đề tạp chí, ngay những số đầu tiên đã đăng bài kinh Bát Đại Nhân Giác

do P.C dịch sang chữ Quốc ngữ.

Nguyên nhân Phật nói kinh này là do tôn giả A Na Luật hỏi Đức Phật về vấn

đề những Phật tử tại gia học đạo, họ làm thế nào để cầu được giác ngộ, chứng nhập

Niết bàn. Đức Phật trả lời vấn đề đó là phải học hạnh Đại nhân (Bồ tát). Qua đó,

Đức Phật đã vì tôn giả A Na Luật mà nói tám điều của bậc Đại nhân (kinh Bát Đại

Nhân Giác).

Bài kinh này do ngài An Thế Cao, người nước An Tức (nước Ba Tư hiện nay)

sang Trung Hoa vào đời Hậu Hán ở kinh đô Lạc Dương trích dịch từ tiếng Phạn

sang tiếng Hán. Nhân thấy được toàn bộ giáo lý của Phật dạy đều nhằm đánh thức

con người sớm được giác ngộ, mê lầm là cội nguồn đau khổ, chỉ có giác ngộ mới

cứu được mọi khổ đau của chúng sinh và với tâm nguyện muốn cứu khổ chúng sinh,

ngài An Thế Cao đã trích dịch tám điều giác ngộ của chư Phật, Bồ tát và các bậc

Đại nhân mà biên thành quyển kinh Bát Đại Nhân Giác.

134

Kinh Bát Đại Nhân Giác với nội dung ngắn gọn, chỉ rõ cuộc sống vô thường,

thay đổi liên tục, nhằm nhắc nhở con người không nên đắm nhiễm vào những vật

chất tạm bợ. Chỉ có con đường tu tập, đoạn trừ mọi luyến ái, tham chấp thì con

người mới có cuộc sống an lạc. Ngày nay, các chùa ở Nam bộ, hầu như hằng ngày

đều đọc tụng bản kinh Bát Đại Nhân Giác này. Có chùa đọc vào buổi sáng sớm, có

chùa đọc sau khi điểm tâm sáng.

Kinh Đại Phương Tiện Phật Báo Ân, là bộ kinh có giá trị sâu sắc về tinh

thần hiếu đạo, đã được đăng nhiều kỳ trên tạp chí Tiếng chuông sớm.

Nhân duyên trong một lần ngài A Nan vào thành Vương Xá khất thực, thấy

một người dòng Bà la môn 4 gặp lúc gia cảnh nghèo nên cũng phải dắt mẹ già đi xin

ăn. Khi được thức ăn ngon thì Bà la môn dâng mẹ, còn những thức ăn dở để mình

dùng. Ngài A Nan bèn lên tiếng khen ngợi người này. Lúc đó cũng có Phạm Chí, là

đồ đệ của bọn Lục Sư ngoại đạo 5 , vốn từ lâu đã thấy Phật và Tăng chúng được

nhiều người kính trọng nên sanh lòng ganh ghét và nhân lúc nghe ngài A Nan khen

Bà la môn ấy, Phạm Chí bèn lên tiếng phỉ báng. Ông chỉ trích ngài A Nan rằng thầy

của Ngài - Cồ Đàm là người bạc phúc, vừa sinh ra đã mất mẹ, lớn lên vượt thành

xuất gia làm cho vua cha phải khổ não, gào khóc thảm thương; lại còn bỏ vợ con,

làm cho vợ phải khổ. Cồ Đàm vừa là người bất hiếu, bất nghĩa, bội bạc, vậy mà

cũng tự cho là có công đức. Ngài A Nan không trả lời được, rất hổ thẹn, nên khất

thực xong, Ngài liền trở về bạch hỏi Đức Phật mọi chuyện.

Để khiến các ngoại đạo xóa bỏ đi quan niệm phê phán việc xuất gia đi tu của

Đức Phật Thích Ca là: “Bất hiếu với cha mẹ, bất nghĩa với vợ, là bội bạc, chẳng biết

ân nghĩa”, đồng thời để cho các đệ tử hiểu rõ nguyên do tu hành, sự báo ơn và công

năng tu tập cho được thành tựu quả vị Bồ đề, Đức Phật đã nói kinh Đại Phương

Tiện Phật Báo Ân. Nội dung kinh kể về những việc tu hạnh nhẫn nhục, thí xả thân

mạng của Đức Phật để đền ơn cha mẹ và ơn chúng sinh. 4 Bà la môn: Là danh từ chỉ một đẳng cấp, một hạng người tại Ấn Độ ngày xưa. Thuộc về đẳng cấp Bà la môn là các tu sĩ, triết gia, học giả và các vị lãnh đạo tôn giáo. Dân chúng Ấn Độ rất tôn trọng đẳng cấp này. 5 Lục Sư ngoại đạo: Sáu vị luận sư lớn chủ trương lý thuyết trái với Phật pháp ở miền Trung Ấn Độ vào thời Phật Thích Ca Mâu Ni.

135

Tạp chí Tam bảo đã đăng bộ kinh Địa Tạng do HT. Bích Liên dịch qua

nhiều số. Kinh này do Đức Phật Thích Ca diễn nói tại cung trời Đao Lợi 6 , nơi mà

Thánh Ma Gia, thân mẫu của Đức Phật đã thác sanh về đây sau khi hạ sanh Đức

Phật được 7 ngày. Trước khi nhập Niết Bàn, vì cảm ơn đức sinh thành, Đức Phật đã

diễn nói kinh Địa Tạng tại Pháp hội ở cung trời này. Như vậy, kinh Địa Tạng ra đời

trước tiên là do lòng hiếu thảo của Đức Phật đối với bậc sinh thành, Ngài đã nghĩ

tưởng đến mẹ khi biết rằng mình sẽ không còn sống ở đời bao lâu nữa nên đã lập

Pháp hội tại cung trời Đao Lợi để độ thoát cho thân mẫu.

Nội dung chính yếu của kinh Địa Tạng là xoay quanh chữ Hiếu, nói lên

những bổn phận, nghĩa vụ của người còn sống đối với người đã chết, cũng như nêu

rõ những tội phúc quả báo ở kiếp sống sau khi chết. Người Phật tử nương theo kinh

này cùng dựa vào oai lực độ trì, gia hộ của Bồ tát Địa Tạng mà tu tập, hầu độ thoát

cho chính mình, cho người thân cũng như tất cả chúng sinh đã quá vãng khỏi rơi

vào con đường ác.

Hiện nay, các tín đồ Phật giáo Việt Nam khắp mọi miền, mỗi khi trong gia

đình có người thân qua đời, đều đến nhờ nhà chùa tụng kinh Địa Tạng để cầu siêu

độ cho vong hồn được sớm siêu thoát về cõi an vui. Đặc biệt, các chùa từ Bắc vào

Nam, hầu như nơi nào cũng đều đọc tụng kinh này vào tháng 7 âm lịch hằng năm,

nhằm mục đích cầu siêu cho các vong hồn chưa được siêu thoát.

Tạp chí Từ bi âm số 27 thì đăng bộ kinh Kim Cang Bát Nhã do Trí Độ dịch

ra quốc ngữ và diễn nghĩa rất rõ ràng.

Kinh Kim Cang Bát Nhã là quyển thứ 577 trong sáu trăm quyển của bộ Ðại

Bát Nhã, do Phật thuyết nơi vườn Cấp Cô Độc. Phật nói trọn bộ Ðại Bát Nhã, tính

tổng cộng trong 22 năm.

Kinh Kim Cang Bát Nhã hay còn gọi là Kim Cang Bát Nhã Ba la mật đa là

kinh nói về “Trí tuệ Phật” (Bát nhã), loại Trí tuệ đã rốt ráo viên mãn (Ba la mật). Trí

tuệ này có công năng đưa hành giả từ bến mê muội khổ đau của chúng sinh, sang bờ

6 Trời Đao Lợi: Từ điển Phật học Huệ Quang (tập II, tr.1391) ghi: Trời Đao-lợi (S.Trayastrimsa, P.Tavatimsa, Hán. Đao lợi thiên, Tam thập tam thiên), là tầng trời thứ 2 trong 6 tầng trời ở cõi Dục.

giác ngộ giải thoát của chư Phật (đáo bỉ ngạn).

136

Trí tuệ Phật (Bát nhã) rất quý báu (như ngọc kim cương), vừa cứng rắn và

sắc bén (như thép), có thể phá tiêu núi vô minh vọng chấp (ngã, pháp hay bốn tướng)

và đốn tận gốc rừng phiền não nghiệp chướng, từ vô lượng kiếp đến nay mà không

bị hư tổn; cũng như ngọc kim cương hay chất thép, có thể đục chẻ các loại rất cứng,

như sắt, đá v.v.. mà không bị hư hoại.

Kinh Kim Cang Bát Nhã, mở đầu mà cũng là trọng tâm của kinh bằng hai

câu hỏi của ông Tu Bồ Đề:

“Vân hà ưng trụ?

Vân hà hàng phục kỳ tâm?”

Nghĩa là:

“Làm sao an trụ tâm, làm sao hàng phục tâm?”.

Toàn bộ kinh Kim Cang Bát Nhã, Phật chỉ giải đáp hai câu hỏi trên, tóm tắt

lại chỉ trong một câu: “Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm”. Nghĩa là: “Đừng sinh vọng

tâm bám víu, chấp vào một nơi nào”. Đây là câu “tinh hoa” của bộ kinh Kim Cang

Bát Nhã, mà ngày xưa đức Lục tổ Huệ Năng nhờ đó đã được tỏ ngộ và Trần Thái

Tông cũng ngộ nhờ câu kinh này.

Đuốc tuệ số 123, ra ngày 01.01.1940 đã đăng bộ Bát Nhã tâm kinh trực giải

và liên tục triển khai cho đến số 130 mới kết thúc. Đồng thời, Viên âm số 1 - 1934

và liên tục đến số 5, cũng đã triển khai Tâm kinh giảng nghĩa, giải thích đầy đủ ý

nghĩa của Tâm kinh.

Theo Phật giáo, Bát Nhã Ba la mật đa tâm kinh còn được gọi là Bát Nhã tâm

kinh, hay Tâm kinh. Đây là bài kinh ngắn nhất chỉ có khoảng 260 chữ, là kinh tinh

yếu được rút ra từ bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 cuốn.

Nội dung kinh này nói về “tánh không” của các pháp. Người học Bát nhã là

phải phá chấp, phá sạch tất cả pháp, không cho tâm bám víu bất kỳ nơi nào để

không còn duyên sinh khởi. Vì có chỗ cho tâm sanh là có chỗ cho tâm diệt, còn

sanh tử là còn khổ đau.

137

Tâm kinh mang ý nghĩa bổ khuyết cho các kinh, nên được đọc tụng nhiều

nhất. Đây là bài kinh chủ điểm trong các thời khóa tụng niệm, các nghi lễ của Phật

giáo. Từ nghi thức cầu an, cầu siêu, sám hối cho đến các khóa lễ lớn nhỏ đều đọc

bài Tâm kinh này khi gần kết thúc khóa tụng niệm. Triết lý “không” chính là cốt tủy

của Tâm kinh. Cho nên, người học Phật thường đọc tụng bài kinh này khi gần kết

thúc thời kinh với ý nghĩa là chỗ nào kinh thiếu nghĩa lý, chỗ nào tụng sai thì Tâm

kinh bổ khuyết vào cho đầy đủ, nhưng tất cả đều là “không”. Nếu ai muốn hiểu hay

muốn thực hành phương pháp tu trì của Phật giáo Đại thừa, thì không thể nào không

đọc hiểu nghĩa lý của Tâm kinh.

Tạp chí Duy tâm Phật học, ngay số đầu tiên xuất bản năm 1935 đã giới thiệu

bản dịch Đại ý kinh Diệu Pháp Liên Hoa và cho đăng liên tục đến số 43 năm 1941

mới hoàn thành. Trong đó, tác giả giải thích rõ ý nghĩa từng phẩm, dịch văn âm Hán

Việt và cả phần dịch sang chữ Quốc ngữ.

Theo Duy tâm Phật học số 1 cho biết: “Kinh Diệu Pháp Liên Hoa chính là

Phật thuyết về thời kỳ thứ năm. Trong hội Pháp hoa, đức Như Lai thấy căn cơ của

môn đệ đã thuần thục, tin chắc chắn tự tâm, Ngài bèn thọ ký cho mỗi vị sau này sẽ

thành Phật. Phật thường nói: Biết tất cả các pháp từ nơi tâm thì thành tựu đặng huệ

thân, chớ chẳng phải ngộ ở đâu khác nữa”.

Kinh Diệu Pháp Liên Hoa hay còn gọi là kinh Pháp Hoa, là bộ kinh Đại thừa

gồm bảy quyển, tổng cộng là hai mươi tám phẩm, suốt hơn sáu vạn lời, nghĩa lý sâu

xa, kinh văn rộng lớn, chứa đựng tâm nguyện và phương tiện huyền diệu ngời sáng

của Phật và Bồ tát.

Nội dung kinh Pháp Hoa cho ta thấy không phương tiện độ sanh nào mà

không có, không cửa pháp môn giải thoát rốt ráo nào mà không mở, không cảnh

giới Phật nào mầu nhiệm, thiện duyên, thâm mật với chúng sinh cõi Ta bà này mà

không ảnh hiện; không hạnh nguyện giáo hóa độ sanh nào của Phật và Bồ tát mà

không thể đạt được rốt ráo. Đây là một bộ kinh khế hợp đủ mọi trình độ, căn tính,

nghiệp duyên của chúng sinh. Vì thế, kinh Pháp Hoa đã được không biết bao nhà

Phật học uyên bác chú thích sớ giải, làm cho kinh Pháp Hoa rạng rỡ từ xưa đến nay

và phổ cập khắp nhân gian. Đặc biệt hiện nay được đông đảo tín đồ Phật giáo tụng

138

đọc thường xuyên trong thời khóa hằng ngày. Thậm chí có nhiều tín đồ lập ra đạo

tràng lấy tên “Pháp Hoa” và pháp môn tu tập chính yếu là đọc tụng kinh này, để

trước hết là cầu phước báu cho tự thân và gia đình, sau là mong có ngày nhận chân

được Phật tính vốn có trong mỗi chúng sinh.

Từ bi âm kể từ số 2, ra ngày 15.01.1932 và tiếp đến số 10 thì đăng bản Phật

thuyết A Di Đà kinh do Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập dịch ra chữ Hán, Trí

Độ là người chịu trách nhiệm dịch sang tiếng Việt và giải nghĩa rất rõ ràng.

Kinh A Di Đà là một bản kinh rất phổ biến được truyền tụng hàng ngày trong

đời sống đạo của Phật tử ở các nước châu Á, nhất là ở Việt Nam. Vị trí của kinh

luôn luôn được xây dựng trên căn bản của niềm tin và trong lòng người hành trì.

Kinh chính là con đường dẫn đến thế giới Tịnh độ - một thế giới không có khổ đau,

không có sinh lão bệnh tử, thế giới của niềm phúc lạc vô biên.

Kinh A Di Đà thuộc hệ tư tưởng Đại thừa, ra đời trong thời kỳ phát triển Đại

thừa Phật giáo. Kinh này là một bản toát yếu của Đại Vô Lượng Thọ kinh, dịch từ

Phạn bản qua Hán bản.

Từ số 11, ra ngày 01.06.1932 đến số 14, Từ bi âm lại chuyển đến độc giả bản

Phật thuyết Vu Lan Bồn kinh, là bản kinh do Tây Tấn Tam Tạng Pháp sư Trúc

Pháp Hộ dịch ra chữ Hán, Trí Độ là người dịch ra Quốc văn và diễn nghĩa.

Vu Lan là gọi tắt, nếu nói đầy đủ là Vu Lan Bồn. Vu Lan Bồn là cứu tội bị

treo ngược, tiếng Sanskrit gọi là Ulambana, hay là Avalamba, nghĩa là “treo ngược”.

Kinh Vu Lan ghi lại những lời Đức Phật dạy về lòng thương yêu, bổn phận của con

cái đối với cha mẹ đang tại thế hay quá cố, đối với những người đang trầm luân

trong những khổ cảnh, nghịch cảnh và cách thức thể hiện tình cảm, bổn phận ấy

bằng các việc làm cụ thể, nhân dịp Mục Kiền Liên thưa hỏi Ngài về cách báo ơn

cha mẹ.

Tôn giả Mục Kiền Liên là một đệ tử lớn của Đức Phật, được suy tôn là bậc

có thần thông đệ nhất. Sau khi chứng quả A la hán. Ngài dùng thiên nhãn quan sát

khắp các cõi thì thấy mẹ mình đang bị đọa đày đói khát trong cõi quỷ đói. Tôn giả

bèn đem bát cơm xuống dâng cho mẹ. Mẹ vừa cầm lấy bát cơm đưa vào miệng,

139

cơm hóa thành than hồng cháy đỏ, không tài nào ăn được. Tôn giả Mục Kiền Liên

không biết làm sao, bèn trở về xin Phật ra tay cứu giúp. Đức Phật nói vì mẹ Tôn giả

Mục Kiền Liên bao nhiêu đời đã sống tham lam keo kiệt, nên phải chịu khổ báo làm

quỷ đói, một mình Tôn giả không thể cứu được mẹ. Phải nhân ngày Rằm tháng bảy,

sắm sanh lễ vật đủ đầy để cúng dường chúng Tăng mười phương, nhờ vào lực chú

nguyện của đại chúng, mẹ Tôn giả mới có thể siêu thoát được.

Tôn giả Mục Kiền Liên vâng lời Đức Phật dạy, đến ngày Rằm tháng bảy,

đem thức ăn, đèn, sáp, hương hoa... dâng cúng cho chúng Tăng. Mẹ của Tôn giả

Mục Kiền Liên nương nhờ vào uy lực của giới đức và phước đức của chư Tăng

mười phương, cũng nương nhờ vào công đức bố thí và lòng chí thành của Tôn giả

Mục Kiền Liên mà sớm thoát khỏi nỗi khổ của quỷ đói, được siêu thăng lên cõi lành.

Nhân đó, Đức Phật Thích Ca dạy Tôn giả Mục Kiền Liên sau này, những ai

là đệ tử Phật có đức hiếu thuận, phải thường xuyên ghi lòng tạc dạ công ơn cha mẹ

đời này cho đến cha mẹ bảy đời. Mỗi năm vào ngày Rằm tháng bảy, nên thiết lễ Vu

Lan Bồn, cúng dường tam bảo để báo ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ, cầu cho

cha mẹ sống lâu trăm tuổi và sau khi mạng chung được sinh vào các cõi lành.

Ngày nay, lễ Vu Lan được lưu hành rộng rãi ở các nước có truyền thống hiếu

kính cha mẹ và thờ phụng tổ tiên rất sâu đậm như: Việt Nam, Trung Hoa, Nhật Bản,

Triều Tiên và nhiều nước khác ở Đông Nam Á. Ngày lễ Vu Lan được nhân dân các

xứ này tổ chức như một lễ hội lớn trong năm và trong cả nước, là ngày lễ báo ơn

báo hiếu đối với cha mẹ, ông bà tổ tiên, cũng như đối với tất cả những người xứng

đáng được tri ân.

Tìm hiểu Viên âm, chúng ta thấy tạp chí cũng có công trình dịch thuật vĩ đại

là Kinh Lăng Nghiêm lược sử. Tác phẩm này được đăng liên tục từ số 5 đến số 47.

Lăng Nghiêm, tiếng Phạn là Suramgama, nói đủ là Thủ Lăng Nghiêm, Trung

Hoa dịch là “Ðại định Kiên cố”, nghĩa là cái bản thể chơn tâm sẵn có của tất cả

chúng sinh và chư Phật. Vì thể của nó rộng lớn không có giới hạn, bao la trùm khắp

cả pháp giới, nên gọi là “Ðại”. Tâm thể này xưa nay vốn thanh tịnh, không có tán

loạn, thường hằng vắng lặng, không lay động dời đổi, nên gọi là “Ðịnh”. Vì tính

140

chất của nó không dời đổi, thấu suốt xưa nay, thường hằng bất động, ở nơi thánh

không tăng, nơi phàm không giảm, hằng hữu bất hoại, nên gọi là “Kiên cố”. Đó là

nghĩa của ba chữ “Thủ Lăng Nghiêm”, tức là “Ðại định Kiên cố”.

Nguyên nhân Phật nói thần chú Lăng Nghiêm là vì Tôn giả A Nan mắc nạn

Ma Đăng Già. Ngài A Nan bị nàng Ma Đăng Già dùng chú thuật Ta Tỳ Ca La Tiên

Phạm Thiên ép buộc tình duyên. Lúc đó, Tôn giả A Nan rất buồn khổ, thành

kính hướng về Đức Phật, mong Đức Phật đoái hoài thương xót cứu độ giải nạn.

Phật biết ngài A Nan bị nạn, nên sau khi thọ trai, Phật không thuyết pháp như

thường lệ mà trở về tịnh xá ngay và Ngài ngồi kiết già, trên đảnh phóng hào quang,

có hoa sen ngàn cánh, trên hoa sen có đức Hóa Phật ngồi kiết già, nói thần chú Lăng

nghiêm. Phật bảo ngài Văn Thù đem thần chú ấy đi đến chỗ nàng Ma Đăng Già để

phá trừ tà chú, cứu nạn cho A Nan. Ngài A Nan được kịp thời cứu thoát và sau đó

Phật độ luôn cho nàng Ma Đăng Già tu hành, trở thành bậc A la hán.

Học kinh Thủ Lăng Nghiêm sẽ giúp con người thấu rõ vị trí của mình đối với

quả vị Bồ đề, Niết bàn vô thượng. Chính Đức Phật Thích Ca sống bằng “Chơn tâm

thường trú” và sinh hoạt trong “Thể tính tịnh minh” - cái mà đã có sẵn trong tất cả

mọi chúng sinh, nhưng con người lại bỏ quên nó đi. Phật và chúng sinh thật ra vẫn

đồng một thể tánh chơn tâm, nhưng chư Phật đã hoàn toàn giác ngộ được thể tính ấy.

Ngược lại, chúng sinh vì mê lầm thể tính chơn tâm nên suốt đời sống trong điên đảo

khổ đau và phải chịu trầm luân trong biển sinh tử luân hồi. Vì thế, nội dung chủ yếu

của kinh không ngoài mục đích xác định rằng con người còn phiền não là còn điên

đảo khổ đau, phủi hết phiền não là có an lạc Niết Bàn.

Vì ý nghĩa quan trọng như vậy, nên đối với những người xuất gia sống trong

các chùa từ xưa đến nay, mỗi ngày đều có thời khóa tụng kinh Lăng Nghiêm vào

buổi sáng sớm. Mục đích chính là để tiêu trừ ma chướng, diệt trừ những phiền não

trong tâm thức, hầu sớm đạt được trí tuệ sáng suốt như Đức Phật.

Từ số 50 năm 1942, Viên âm đã cho đăng Toát yếu kinh Thập Thiện Nghiệp

Đạo và phần này do tác giả Phạm Quang thực hiện.

141

Bộ kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo được Đức Phật thuyết giảng tại cung rồng

Ta kiệt la, tham dự đủ mặt cư dân vùng biển: Vua rồng, Hoàng hậu rồng, Công chúa

rồng, Hoàng tử rồng...

Thập Thiện Nghiệp là mười điều lành của thân, miệng, ý. Thân không sát

sinh, trộm cắp, tà hạnh. Miệng không nói dối, nói hai chiều, nói ác, nói dua nịnh. Ý

không tham, sân, si. Mười điều lành là căn bản để xây dựng một con người tốt đẹp,

khi người người đều tốt đẹp thì cảnh giới chung quanh cũng tốt đẹp. Kinh không

nói ở cõi người, cõi trời mà nói ở cõi súc sinh với ngụ ý rằng vì thiếu phẩm chất

người nên mới mang một phần phẩm chất thú vật, may thay còn biết nghe kinh, xin

hãy tập theo mười hạnh lành để bắt đầu làm con người thực thụ.

Trong Viên âm số 51 năm 1942, Võ Tưởng đã thực hiện Toát yếu kinh Dược

Sư Lưu Ly Quang Vương Như Lai Bổn nguyện công đức. Kinh Dược Sư được

chia ra làm ba phần: Phần duyên khởi, phần chánh tông, phần lưu thông. Nội dung

này đã được tác giả triển khai rất cụ thể và đầy đủ ý nghĩa. Đọc tụng và hành trì

kinh Dược Sư là nhằm phát triển các đức tính cao đẹp trong mỗi người, để trị liệu

tâm bệnh của bản thân và tha nhân. Các dược chất trị liệu và tiềm năng thầy thuốc

đó có sẵn trong mỗi con người. Tu hạnh Dược Sư để được Đức Phật Lưu Ly Quang

Vương ban cho chúng ta “thuốc” phước lộc thọ, và để chúng ta “sống với dược chất

tâm linh”, nhằm chữa lành các chứng bệnh vô minh, phiền não, nghiệp chướng cá

nhân từ nhiều đời.

Vì quan niệm như vậy, mà ngày nay mỗi khi các chùa muốn cầu an, giải trừ

bệnh tật cho tín đồ tại gia đều thiết lễ đọc tụng kinh Dược Sư. Phổ biến nhất là vào

tháng Giêng hàng năm, các chùa từ Nam ra Bắc đều làm lễ cầu an giải bệnh đầu

năm và đều đọc tụng bản kinh Dược Sư này.

Nhìn chung, khi tìm hiểu về đặc điểm nội dung tư tưởng của những tác phẩm

kinh điển Phật giáo, chúng ta mới thấy sự kỳ diệu và thâm sâu của những bộ kinh do

Đức Phật nói ra để giáo hóa chúng sinh. Kinh Bát Đại Nhân Giác, kinh Kim Cang,

kinh Lăng Nghiêm v.v.. thì hướng dẫn con người dù sống ở đâu và nơi nào cũng phải

luôn biết thấu rõ tâm, làm chủ được tâm thì sẽ không bị mọi dục vọng thế gian lôi

cuốn vào con đường khổ đau. Kinh Địa Tạng, kinh Đại Phương Tiện Phật Báo Ân,

142

kinh Vu Lan v.v.. thì hướng dẫn con người thực hành đạo hiếu và cũng phải rèn

luyện tâm hiếu kính, vì đó là tâm của chư Phật. Kinh Pháp Hoa, kinh Thập Thiện,

kinh Dược Sư v.v.. thì hướng dẫn con người làm điều lành, trừ bỏ những tâm niệm

xấu ác để trở về với Phật tính sáng suốt của chính mình v.v.. Mỗi bộ kinh chứa đựng

một cách giáo hóa khác nhau, nhưng tựu trung đều mang ý nghĩa hướng dẫn chúng

sinh từ cõi mê về bờ giác. Những bộ kinh này, hiện nay rất phổ biến trong Phật giáo

và được các chùa, các tín đồ in ấn rất nhiều để vừa nghiên cứu, vừa đọc tụng trong

quá trình tu học theo đạo Phật.

* Nhận xét về nghệ thuật dịch:

Sau khi Đức Phật diệt độ, những lời Phật nói ra được các thánh đệ tử kết tập

lại thành kinh, dùng tiếng Pali (Phạn) biên tập. Sau đó lưu truyền rộng rãi, diễn giải

thành nhiều tập. Các kinh điển được viết bằng tiếng Phạn xứng danh là những tác

văn học có giá trị.

Tiếp đó, sự nghiệp phiên dịch kinh điển Phật giáo tại Trung Quốc kéo dài

gần ngàn năm, khởi đầu từ đời Hậu Hán, thịnh hành vào đời Đường. Văn học phiên

dịch kinh điển Phật giáo đã góp phần tạo nên khởi sắc cho nền văn học cổ đại Trung

Quốc.

Việt Nam ta trải qua quá trình ảnh hưởng lâu dài của nền văn hóa Trung

Quốc, cho nên kinh điển chữ Hán cũng được truyền sang rất nhiều. Các kinh điển

thời kỳ đầu của Phật giáo như kinh Pháp Hoa, kinh Lăng Nghiêm, kinh Kim Cang

Bát Nhã, kinh Đại Phương Tiện Phật Báo Ân v.v.. với kết cấu tư tưởng hùng vĩ, sâu

sắc; cho đến những kinh Ưu Bà Tắc Giới, Vu Lan, Di Đà, Dược Sư v.v.. đã được

dịch từ ngôn ngữ Hán sang chữ Quốc ngữ tại Việt Nam non nửa đầu TK.XX rất đa

dạng. Những tác phẩm ấy vừa được xuất bản dưới dạng sách, vừa được đăng tải

nhiều kỳ trên các báo, tạp chí Phật giáo đương thời. Có loại được dịch từ nguyên

văn chữ Hán thành dạng văn xuôi, có loại được chuyển thành dạng thơ cho dễ đọc,

nhưng tất cả cũng đều là những kinh điển giàu màu sắc văn học.

Những tác phẩm kinh điển được dịch và đăng trên báo chí Phật giáo đa phần

được dịch từ nguyên văn chữ Hán. Cách dịch thường thấy là: một dòng chữ Hán,

143

một dòng phiên âm Hán - Việt, một dòng dịch chữ Việt; hoặc một đoạn nguyên văn

chữ Hán, một đoạn phiên âm chữ Việt, rồi đến phần giảng giải.

Để thấy rõ hơn nghệ thuật dịch từ các bản kinh, chúng ta cần tìm hiểu qua lời

văn dịch được thể hiện như thế nào. Chúng tôi xin trích dẫn nguyên bản một vài

kinh điển và so sánh giữa các bản dịch.

Kinh Bát Đại Nhân Giác, là bản kinh được tạp chí Bồ đề và báo Đuốc tuệ

chọn đăng trong nhiều kỳ.

Với bản dịch từ tạp chí Bồ đề, nhà dịch thuật P.C cho biết: “Vì nhà in không

có chữ Hán nên chúng tôi không thể đăng tải những câu nguyên văn chữ Hán ra

được. Xin bạn đọc lượng thứ” [H, số 1, tr.16]:

Đoạn thứ nhất: Tổng phiêu

Kinh: Vi dục (Phật) đệ tử, thường ư trú dạ, chí tâm xưng tụng, “Bát Đại

Duyên (Nhân) Giác”

Dịch nghĩa: Người đã làm đệ tử Phật, thì trong ngày đêm sáu thời, thường

nhất tâm tụng niệm kinh “Bát Đại Duyên (Nhân) Giác”

Đoạn thứ nhì: Biệt minh

Kinh: Nhứt thế gian vô thường giác

Nghĩa: Điều thứ nhứt Phật dạy những người giữ đạo, phải giác ngộ sự vô

thường của thế gian.

Tìm hiểu bản dịch kinh Bát Đại Nhân Giác trên Đuốc tuệ số 53, ra ngày

15.01.1937, Thiều Chửu đã tham gia chuyển dịch với tiêu đề: Giảng giải kinh Bát

Đại Nhân Giác, là bản kinh do Thái Hư pháp sư giảng lại bằng chữ Hán và Thiều

Chửu đã dịch ra bằng văn xuôi tiếng Việt:

Nguyên tác:

佛說八大人覺經.

Phật nói kinh Bát Đại Nhân Giác.

1. Lời mở đầu

爲佛弟子 Vi Phật đệ tử

常於晝夜 Thường ư trú dạ

144

八大人覺 Bát đại nhân giác

至心誦念 Chí tâm tụng niệm

Dịch nghĩa:

Là Phật em con

Thường chung ngày đêm

Đến lòng tụng nghĩ

Tám lớn người biết

Nghĩa: Ai đã là đệ tử Phật, ngày đêm thường phải dốc một lòng mà tụng

niệm tám điều giác ngộ của Phật và bồ tát này.

2. Chính nghĩa

世間無常

第一覺悟

Đệ nhất giác ngộ Thế gian vô thường

Thứ một biết hiểu Đời khoảng không thường

Điều hiểu biết thứ nhất Thế gian không có thường

Nghĩa: Điều giác ngộ thứ nhất, biết rằng thế gian này vô thường...

Tìm hiểu bản dịch của tạp chí Bồ đề, chúng ta thấy có lẽ do không có nguyên

bản chữ Hán, nên có vài chữ phiên âm Hán - Việt không chính xác. Phần dịch nghĩa

thì người dịch dùng lời văn trong sáng, rõ ràng nên giúp độc giả dễ dàng hiểu nghĩa

lý của bài kinh.

Còn trên Đuốc tuệ có đăng bản gốc bằng chữ Hán, phần dịch rất chi tiết, gồm

4 bước: Thứ nhất phiên âm Hán - Việt, thứ hai dịch ra tiếng Việt nguyên nghĩa gốc,

thứ ba dịch nghĩa theo đúng ngữ pháp tiếng Việt và cuối cùng là dịch thoát nghĩa

cho câu văn thêm phần bóng bẩy. Có thể nói, Thiều Chửu đã thực hiện lối dịch rất

công phu, lời văn dịch cũng trong sáng, rõ ràng.

Ngày nay đã có rất nhiều người dịch lại và lược giảng về bài kinh này.

Chúng tôi chỉ chọn bản dịch của Thích Nguyên Ngôn [77] để so sánh với những bản

dịch trên. Thích Nguyên Ngôn soạn dịch kinh Bát Đại Nhơn Giác cũng theo hai

hướng: phiên âm, dịch nghĩa, nhưng không có phần chữ Hán:

145

Chính văn: Vi Phật đệ tử, thường ư trú dạ…

Nghĩa: Là người đệ tử Phật (người học Phật), ngày đêm phải ghi nhớ, chí

tâm tụng niệm (tư duy quán sát), tám điều giác ngộ của bậc Đại nhân.

Như vậy, so với lời văn dịch của Thích Nguyên Ngôn, có lẽ hai bản dịch trên

tạp chí Bồ đề và báo Đuốc tuệ ngày xưa cũng xứng tầm, không thua kém gì bản

dịch thời hiện đại. Bởi lời văn, câu văn dịch của Thiều Chửu và P.C thật rõ ràng

chuẩn xác. Đặc biệt, cách dịch thuật của Thiều Chửu lại rất chăm chút, kỹ lưỡng

theo từng bước một, đem đến cho người đọc sự hiểu biết sâu rộng hơn về nghĩa lý

của từng chữ Hán và cả chữ Quốc ngữ.

Tạp chí Duy tâm Phật học, từ số 1 đến số 43 đã đăng bản kinh Diệu Pháp

妙法蓮華經, 卷第一.

Liên Hoa do Tâm Điền dịch từ chữ Hán sang chữ Quốc ngữ:

姚秦, 三藏法師: 鳩摩羅什奉詔譯.

序品第一.

如是我聞一時佛住王舍城,耆硨崛山中,與大比丘眾萬二千人俱, 皆是大

阿羅漢諸漏已盡,無復煩惱,遠得己利,盡諸有結,心得自在。

Phiên âm:

Diệu Pháp Liên Hoa Kinh, quyển đệ nhất.

Dao Tần, Tam Tạng Pháp sư: Cưu Ma La Thập phụng chiếu dịch

Tự phẩm đệ nhất.

Như thị ngã văn: nhất thời Phật trụ Vương Xá thành, Kỳ Xà Quật sơn trung

dữ đại tỳ kheo chúng vạn nhị thiên nhơn câu, giai thị đại A-la-hán chư lậu

dĩ tận, vô phục phiền não, đại đắc kỷ lợi, tận chư hữu kiết, tâm đắc tự tại.

Dịch nghĩa:

Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, Quyển thứ nhất.

Đời Dao Tần, thầy Tam Tạng Pháp sư là ông Cưu Ma La Thập vưng chiếu

phiên dịch.

Phẩm Tự thứ nhất

146

Tôi nghe như vầy: một thuở nọ Phật ở thành Vương Xá, trong núi Kỳ Xà

Quật cùng các thầy Đại tỳ khưu một muôn hai ngàn người câu hội tại đó;

đều là bực A-la-hán, đã đặng tự lợi, hết điều trược lậu, không còn phiền não,

tâm được tự tại.

Để thấy rõ nghệ thuật dịch của Tâm Điền qua bản kinh Pháp Hoa này, chúng

tôi trích dẫn thêm bản dịch của HT. Thích Trí Tịnh [113] để so sánh:

Phẩm Tựa thứ nhất.

Tôi nghe như thế này: một thuở nọ Đức Phật ở trong núi Kỳ Xà Quật, nơi

thành Vương Xá cùng chúng đại tỳ kheo một muôn hai nghìn người câu hội.

Các vị đó đều là bực A-la-hán, các lậu đã hết, không còn phiền não, việc lợi

mình đã xong, dứt sự ràng rịt trong các cõi, tâm được tự tại.

So với bản dịch ngày nay của HT. Thích Trí Tịnh ta thấy, lời văn dịch của

Tâm Điền cũng khá chuẩn xác, rõ ràng. Dẫu rằng dịch giả chưa chăm chút lắm về

cách đặt câu cho đúng ngữ pháp, nhưng xét về tổng thể thì đây là bản dịch có giá trị

cả về Phật học lẫn văn học.

Tìm hiểu nghệ thuật dịch của bản kinh Địa Tạng do HT. Bích Liên dịch và

đăng trên tạp chí Tam bảo bắt đầu từ số 1, chúng ta cũng cần trích dẫn phiên bản

gốc từ tạp chí:

地藏菩薩本願經卷上

忉利天宮神通品第一

如是我聞一時佛在忉利天宮,為母說法,爾辰十方無量世界,不可說不可

說一切諸佛,及大菩薩摩訶薩皆來集會,讚嘆釋迦牟尼佛,能於五濁惡世,

現不可思議大智慧神通之力調伏刚強眾生,知苦樂法,各遣侍者問訊世尊. Kinh diễn âm: Địa Tạng Bồ tát bổn nguyện kinh, quyển thượng

Đao Lợi thiên cung Thần thông phẩm đệ nhất

Như thị ngã văn nhứt thời Phật tại Đao Lợi thiên, vị mẫu thuyết pháp, nhĩ

thời thập phương vô lượng thế giới bất khả thuyết, bất khả thuyết nhứt thiết

chư Phật, cập đại Bồ tát Ma ha tát, giai lai tập hội, tán thán Thích Ca Mâu

Ni Phật, năng ư ngũ trược ác thế, hiện bất khả tư nghị, đại trí huệ thần

147

thông chi lực, điều phục cang cường chúng sinh, tri khổ lạc pháp, các khiển

thị giả, vấn tấn Thế tôn.

Kinh diễn nghĩa: Kinh Địa Tạng bổn nguyện, quyển thượng.

Phẩm Đao Lợi thiên cung Thần thông thứ nhất.

Pháp chơn thiệt như vậy: Ta nghe một thuở kia, Phật ở trời Đao Lợi, vì mẹ

của Phật là bà Ma Da mà thuyết pháp, trong khi ấy có cả thảy các Phật và

các vị Bồ tát lớn, ở các vô lượng thế giới mười phương nhiều đến số nói

không đặng, nói không đặng, đều đến xem hội. Đều khen ngợi Phật Thích

Ca Mâu Ni đương cái thời kỳ ngũ trược ác thế, mà hay hiện cái lực trí huệ

thần thông rất lớn không thể nghĩ được, nói được, để hàng phục những

chúng sinh cang cường, bảo đều biết cái pháp sinh tử là khổ, pháp Niết bàn

là vui. Các Phật khen như vậy rồi liền bảo người hầu, lại chỗ Đức Phật

Thích Ca Thế tôn mà hỏi thăm Phật.

So sánh với bản dịch đã in thành sách của HT. Thích Trí Tịnh [114], chúng

tôi thấy HT chỉ in phần dịch nghĩa, cụ thể như sau:

Kinh Địa Tạng Bồ tát bổn nguyện.

Thần thông trên cung trời Đao Lợi.

Phẩm thứ nhứt.

Phật hiện thần thông - Ta nghe như thế này: một thuở nọ, tại cung trời Đao

Lợi, Đức Phật vì Thánh mẫu mà thuyết pháp. Lúc đó, bất khả thuyết bất khả

thuyết tất cả chư Phật và đại Bồ tát trong vô lượng thế giới ở mười phương

đều đến hội họp, rồi đồng khen ngợi rằng: Đức Phật Thích Ca Mâu Ni có

thể ở trong đời ác ngũ trược mà hiện sức “đại trí huệ thần thông chẳng thể

nghĩ bàn” để điều phục chúng sanh cang cường, làm cho chúng nó rõ “pháp

khổ pháp vui”. Khen xong, chư Phật đều sai thị giả kính thăm đức Thế Tôn.

So với bản dịch ngày nay của HT. Thích Trí Tịnh thì có lẽ bản dịch của HT.

Bích Liên còn kém phần dùng từ, đặt câu. Tuy nhiên, với lối dịch rõ ý, chi tiết và lời

văn trong sáng, HT. Bích Liên đã tạo nên được tác phẩm bằng chữ Quốc ngữ có giá

trị, giúp cho người đọc dễ dàng hiểu nghĩa lý khi đọc đến bản kinh Địa Tạng này.

148

Trích dẫn, so sánh và tìm hiểu một vài đoạn trong các bộ kinh được dịch và

đăng trên báo chí Phật giáo trước 1945, cho chúng ta thấy đây là những tác phẩm

văn học Phật giáo ưu mỹ trong nền văn học Việt Nam. Văn phong dẫu chưa trôi

chảy, nhưng ý rõ ràng. Phương pháp dịch cũng mang ý nghĩa khoa học, tức là có

trích cả nguyên bản, dịch âm rồi mới dịch nghĩa, tạo cho người đọc cảm giác an tâm,

nhẹ nhàng, dễ hiểu. Những tác phẩm kinh điển này thật sự đã đem đến cho quần

chúng độc giả lúc bấy giờ tầm nhìn mới về văn học cũng như nhiều cảm hứng mới

khi họ được tiếp cận.

Nhìn chung, quá trình chuyển dịch kinh Phật trên báo chí Phật giáo trước

1945 là một sự đóng góp không nhỏ cho phong trào Chấn hưng Phật giáo nói riêng,

cho sự lớn mạnh của nền văn hóa ngôn ngữ dân tộc Việt Nam nói chung. Nhiều học

giả nghiên cứu Phật giáo, nhiều tu sĩ đã nhiệt tình chuyển dịch những bản kinh có

giá trị như kinh Kim Cang, kinh Lăng Nghiêm, kinh Pháp Hoa, kinh Địa Tạng, kinh

Đại Phương tiện Phật báo ân v.v.. Trong đó, những người đóng góp lớn lao cho

hoạt động dịch thuật này là HT. Bích Liên, sa môn Thái Hòa, sa môn Trí Hải, Tâm

Minh Lê Đình Thám, Tâm Điền, Trí Quang, Trí Độ, Thiều Chửu, Nguyễn Thượng

Cần v.v.. Về mặt nghệ thuật dịch, các nhà dịch thuật vẫn sử dụng lối dịch bám sát

văn bản, đi theo trình tự từ âm đến nghĩa và chỉ dịch sát nghĩa. Có lẽ vì vậy mà các

câu văn dịch đôi lúc thiếu sự lưu loát, các từ và câu chưa thể hiện được nhiều nghĩa

khác nhau. Tuy nhiên, có thể khẳng định đây là những công trình đáng ghi nhận, có

giá trị lâu dài và làm phong phú thêm kho tàng văn học Việt Nam.

3.3. GIÁ TRỊ NỘI DUNG CỦA THƠ VĂN TRÊN BÁO CHÍ PHẬT GIÁO

TRƢỚC 1945

Để giúp người đọc thấy rõ giá trị nội dung của thơ văn trên báo chí Phật giáo

trước 1945, trong phần này luận án triển khai ba tiểu mục: Giáo dục tư tưởng đạo

đức Phật giáo, thể hiện tinh thần dân tộc và thể hiện tinh thần nhân đạo. Hai tiểu

mục đầu đều đề cập đến thơ ca và văn xuôi, nhưng trong tiểu mục thứ ba, luận án

chỉ nói đến văn xuôi. Vì tiểu mục này bàn về tinh thần nhân đạo, là đề cập đến triết

lý nhân quả, mà thơ ca nói về triết lý nhân quả trên báo chí Phật giáo lúc bấy giờ

không nhiều, chỉ có truyện ngắn, tiểu thuyết mới thể hiện phong phú.

149

3.3.1. Giáo dục tƣ tƣởng đạo đức Phật giáo

Nếu ánh sáng của tinh tú, của mặt trời, mặt trăng giúp cho con người thoát

khỏi cảnh tối tăm; thì đạo Phật có sứ mệnh đem ánh sáng của trí tuệ và tình thương

đến với muôn loài chúng sinh. Ánh sáng chính pháp của trí tuệ và tình thương này

tạo cho con người cuộc sống an vui và hạnh phúc, biết thương yêu tất cả mà không

gây khổ đau cho nhau. Trí tuệ và tình thương là hai đức tính quan trọng nhất của

đạo Phật, cho nên nói đến văn hóa nhân bản của đạo Phật là nói đến hai yếu tố ấy và

nó đã được thể hiện đa dạng trong các tác phẩm văn học Phật giáo Việt Nam.

Với tinh thần cởi mở, bao dung, mang đậm sắc thái hiếu sinh, dung hòa và

giải thoát, đạo Phật truyền vào quốc gia nào cũng được quần chúng nhân dân ở quốc

gia đó đặt niềm tin và tận tâm thực hành theo giáo pháp. Có lẽ từ đó mà đạo Phật đã

cuốn hút nhiều học giả đến với đạo để nghiên cứu, học hỏi nguồn giáo lý vô thượng

và cùng góp sức chuyển tải giáo pháp bằng những tác phẩm văn học giàu triết lý

nhân sinh và giá trị nhân văn.

3.3.1.1. Những sáng tác văn học trên báo chí Phật giáo trước 1945 ra đời

nhằm mục đích chấn hưng Phật giáo, nên những tác phẩm này có giá trị giáo dục tư

tưởng đạo đức Phật giáo rất lớn. Thông qua bài thơ, câu chuyện, tác giả đã gửi gắm

những bài học, những lời răn giàu tính nhân văn và tính truyền thống theo tinh thần

Phật giáo.

Từ cái nhìn con người và muôn vật đều vô thường biến chuyển, không có gì

tồn tại vĩnh cửu, tác giả Diệu Không trên tạp chí Viên âm số 9 đã đăng bài thơ

Khuyên người học đạo, nói lên sự thực tồn của muôn loài chỉ là giả huyễn:

“Cả thế sự như in giấc mộng

Khuất lần theo với bóng tà dương

Chấp chi những cái vô thường

Đem tâm phân biệt mà thương ghét hoài…”

Nếu Diệu Không chỉ mới nói thế sự như giấc mộng, có rồi lại tan để diễn tả

về vô thường, thì Cổ Mai trong Viên âm số 6 cho chúng ta thấy rõ hơn, chi tiết hơn

về triết lý này qua bài thơ Khuyên người. Đồng thời tác giả chỉ rõ nguyên nhân tại

150

sao con người phải gánh chịu khổ đau và qua đó gửi lời nhắc nhở muôn người cần

phải thức tỉnh, nương về cửa Phật để thanh tịnh hóa thân tâm:

“Bể trần chìm nổi thấy mà đau

Lạc hướng bờ mê dễ biết đâu

Tham dục lòng gây Nhơn ở trước

Não phiền lụy để Quả về sau

Nước không động gió nào nhăn mặt

Núi có phơi sương mới bạc đầu

Ai nấy sớm nên nhờ cửa Phật

Trên đường giải thoát dắt dìu nhau.”

Thanh Tâm cũng thể hiện lòng chân thành của mình, mong muốn con người

thoát khỏi mọi khổ đau ràng buộc bằng bài thơ Khuyên tu trong Viên âm số 8. Với

Thanh Tâm, ngoài việc trình bày kiến giải của mình về sự thế đổi thay ở đời, tác giả

còn giải thích cho con người thấy được mối sầu thảm luôn bắt rễ bén mầm trong cái

tối tăm, tham lam, ác độc, thù hận, nghi kỵ, thấp hèn sợ sệt của con người. Con

người đang xô đẩy nhau vào trong nghiệp chướng cuồng loạn khổ đau, để rồi phiêu

lưu giữa cuộc luân hồi phiền não vô tận. Vì vậy, cần nên gắng tu hành, trau dồi tâm

tính:

“Ai ơi xin ráng mà tu

Trau dồi gương tánh, trăng thu tỏ ngời

Nên hư những việc ở đời

Lợi danh tài sắc thôi thời tránh xa

Trăm năm trong cõi người ta

Tấm thân mỏng mảnh suy ra có gì

Sân, si, tham luyến ích chi

Dầu cho vàng ngọc, chung quy chẳng còn…”

Trên báo Đuốc tuệ, chúng ta cũng thấy được sự đồng cảm này của những nhà

thơ có tâm hồn học Phật. Các nhà thơ đã chỉ rõ mọi khổ đau ràng buộc trong đời và

khuyên nhắc mọi người tĩnh tâm trau dồi giáo pháp.

151

Thanh Bảo với bài Khuyến học trên Đuốc tuệ số 35, đã cho thấy tác giả

hướng về giới trẻ, khuyên nhắc thanh niên dùng trí tuệ để phá tan mọi mê lầm, luôn

biết quý trọng thời gian để chuyên tâm vào chánh đạo:

“Hỡi bạn thanh niên dựa cửa từ

Mài gươm trí tuệ diệt tà tư

Hai bề không chấp theo trung đạo

Một niệm chuyên cần thấy bản sư

Phá sạch rừng mê vào chính ngộ

Xé tan lưới kiến rõ chân như

Khuyên ai, ai kẻ tu hành đó

Tấc bóng ngàn vàng chớ bỏ dư.”

Đặc biệt, Lương Duyên Tuệ với bài Lời khuyên tu đạo Phật trên Đuốc tuệ số

70, đã nhấn mạnh việc tu hành không phải dành riêng cho người xuất gia, hay đợi

khi xuất gia mới tu được, mà bất cứ ai cũng có thể ứng dụng giáo pháp chân chính

để tu tập và tránh xa điều tà đạo:

“...Khuyên nên theo chính bỏ tà

Noi con đường giác để mà độ tha

Cứ gì thế phát xuất gia

Mới là đắc đạo, mới là pháp thân

Tinh nghiêm giới hạnh chuyên cần

Hằng theo Phật giáo rõ ràng chân tu.”

Giác Phong trong Tam bảo số 4 cho biết những ai đến với đạo Phật, chắc

chắn sẽ học được tinh thần dũng mãnh của nhà Phật. Dù gặp hoàn cảnh khó khăn

nào, người có học Phật cũng biết dũng cảm đứng dậy, chuyển hóa mọi sầu khổ để

tạo dựng nếp sống an lạc, thảnh thơi:

“Bể khổ mênh mông chẳng có bờ

Gió to sóng cả khách bơ vơ

Một đoàn tôm tép nhìn tơi tả

Muôn dặm kình nghê những vập vờ...

152

Thế giới ba ngàn kia lố ngố

Địa cầu một quả đấy đu đơ

Con nhà Phật tử là ai đó

Đứng dậy mau đi chớ dật dờ.”

Ngoài việc giáo dục con người lòng dũng cảm, Nguyễn Thiện Chính trong

Đuốc tuệ số 43 còn nhắc nhở tín đồ phải biết thể hiện lòng tri ân và báo ân. Người

biết nhớ ơn chính là người biết làm điều lành và sống an vui trong những hành động

tốt đẹp mà mình đã tạo:

“Ăn quả trồng cây ấy kẻ khôn

Rễ sâu lá tốt quả ra luôn

Sinh nơi gốc thiện màu sao đẹp

Bọc cái mầm nhân vỏ cực tròn

Tam giới phàm phu theo dễ được

Thập phương chư Phật hãy thường còn

Điều lành là báu ta nên chuộng

Nếm thử mà xem vị ngọt ngon.”

Đạo hiếu, là triết lý sống đạo đức cao cả mà có lẽ đạo Phật xem đó là quan

trọng hàng đầu, vì bàng bạc trong các kinh điển Phật giáo đã đề cập rất nhiều về

tinh thần này. Trên Bồ đề tạp chí số 2, Văn Thị Nga đã góp lời giáo dục con người

qua bài Hiếu dưỡng phụ mẫu diễn ca. Bài thơ chứa đựng những lời khuyên chân

tình về đạo hiếu. Dù bất cứ ai, đã tu theo đạo Phật thì không thể quên đạo hiếu, kinh

điển Phật truyền lại cho thấy Ngài luôn dạy đệ tử phải lấy chữ hiếu làm đầu:

“…Làm người thời phải lo âu,

Thảo nuôi là trước cạn sâu mọi bề,

Quyết lòng giữ đạo Bồ đề

Ân cha nghĩa mẹ, chớ hề vội quên...

Phật kinh truyền để xưa nay,

Lắm sự tích, dạy thảo ngay làm đầu.”

Tinh thần hiếu đạo còn được Quan âm tạp chí số 28 - 1942 nhắc đến chi tiết

hơn qua bài thơ Khuyến hiếu của P.H:

153

“Khuyên ai chữ hiếu giữ cho tròn

Nghĩa mẹ công cha, ví bể non,

Chín chữ cù lao ơn để dạ,

Đôi đường chung thủy đạo làm con...”

Ngoài việc khuyên nhắc bổn phận làm con cần phải giữ tròn đạo hiếu, Phi

Hùng trong Quan âm tạp chí số 24 còn Khuyên học trò phải biết trung với nước, giữ

lòng hiếu trung ấy mà chuyên cần học hành cho nên người. Đó mới là người biết

làm vui lòng thầy tổ, cha mẹ:

“Lời này thầy dạy: bảo con hay

Cờ bạc rượu chè chớ đắm say,

Trung hiếu ra vào chăm để dạ

Bút nghiên sớm tối chẳng rời tay...

Dặn bảo con nay mà nhẫn được,

Thỏa lòng cha mẹ bõ công thầy.”

Trần Huy Hân trong Đuốc tuệ số 73 năm 1937 lại cho thấy triết lý giáo dục

Phật giáo còn khuyên con người biết thể hiện lòng vị tha trong cuộc sống hiện tại.

Bài thơ Cảm tưởng nạn dân bị lụt, tác giả đã lên tiếng khuyên con người sống trên

đời hãy luôn biết thương yêu, giúp đỡ nhau trong lúc khó khăn. Có như thế thì cuộc

đời mới bớt khổ đau và con người sẽ mãi sống an vui, hạnh phúc:

“Nước lớn năm nay lớn lạ lùng

Đê ba, bốn tỉnh vỡ lung lung

Dân thì đói bụng ngồi trên nước

Quan phải nhọc lòng nghĩ dưới sông

Lúa mất nhà trôi bao nỗi khổ

Thóc cao gạo kém lấy gì đong?

Ai ơi để của làm chi nhỉ?

Để của làm chi chẳng giúp cùng?”

Người sống có lòng vị tha tức là đã phát khởi tâm Từ bi. Đây là tôn chỉ của

đạo Phật, cho nên nói đến đạo Phật là nói đến đạo Từ bi, là mở lòng thương yêu,

154

ban vui cứu khổ cho tất cả muôn loài. Có Từ bi thì cuộc đời sẽ luôn tươi đẹp, hạnh

phúc. Thanh Phương đã nhắc lại cách giáo dục này qua bài Khuyến thiện trong

Đuốc tuệ số 148 - 1941:

“Hỡi các anh em đất nước nhà

Đạo mầu Phật đã bảo ban ta

Những điều bạo ngược nên trừ bỏ

Hai chữ từ bi phải phụng thờ

Sa lối trầm luân khôn lối ngóc

Lạc vòng hắc ám khó tìm ra

Trăm năm thân thế bao nhiêu đó

Mà cứ say mê chẳng tỉnh à?”

Nội dung giáo dục tư tưởng đạo đức Phật giáo qua thơ ca trên báo chí Phật

giáo trước 1945 như đã phân tích tập trung thể hiện các nội dung: lẽ vô thường,

nguồn gốc khổ đau, tính thiện, tri ân báo ân… nhằm mục đích truyền giảng giáo lý

Phật giáo. Những bài thơ được viết giản dị - đôi khi nôm na, thô mộc - gần gũi,

quen thuộc với mọi đối tượng, mọi lứa tuổi để dễ đọc, dễ nhớ. Nhờ thế, những giáo

lý cao sâu của nhà Phật dễ dàng đi vào đời sống nhân dân, để bảo lưu, gìn giữ và

phát huy những phẩm chất, lối sống cao đẹp của con người Việt Nam. Cho nên nói,

việc khơi lại, giữ gìn và phát huy những tư tưởng đạo đức Phật giáo qua thơ ca trên

báo chí Phật giáo cũng chính là việc giữ gìn, bảo lưu truyền thống quý báu của con

người và dân tộc Việt Nam. Đó cũng là sự đóng góp thiết thực có giá trị của những

bài thơ và nhà thơ theo tinh thần Phật giáo.

Có lẽ lúc bấy giờ nhiều tín đồ còn chưa hiểu Phật pháp, nên báo chí Phật

giáo ra đời đã có dụng ý đăng những bài thơ mang tính giáo dục nhân cách đạo đức.

Điều này cũng cho thấy, cách truyền giảng, giáo dục bằng thơ ca của báo chí Phật

giáo ngày nay cũng không khác gì báo chí Phật giáo xưa. Tất cả hầu như đều hướng

về mục đích chung là mượn thi ca để chuyển tải giáo lý, để giáo dục chuyển hóa

con người từ xấu thành tốt, từ tốt thành tốt hơn.

3.3.1.2. Mảng văn xuôi trên báo chí Phật giáo giai đoạn này bao gồm các thể

loại: truyện ngắn, tiểu thuyết, truyện ký, tùy bút v.v.. Đầu TK.XX, nếu các tác phẩm

155

văn học thế tục đã có những cách tân, đổi mới cả về nội dung lẫn hình thức thì

những tác phẩm văn học được sáng tác theo tinh thần Phật giáo đăng trên báo chí

Phật giáo giai đoạn này cơ bản vẫn có nội dung và hình thức của hệ hình thi pháp

văn học trung đại, với tư tưởng đậm chất triết lý nhà Phật.

Tôn giáo có những vấn đề trọng yếu đối với nhân sinh, trong đó đạo lý là

vấn đề quan trọng, rõ ràng và dễ thấy nhất. Nó là một phần rất quan trọng trong sinh

hoạt tinh thần của nhân loại, tạo cho con người có được sức mạnh để chuyển hóa

cuộc đời từ tốt thành xấu, từ khổ thành vui v.v.. Một trong những tôn giáo thể hiện

rõ nét tinh thần này là Phật giáo. Đạo Phật được xem là tôn giáo mang đến lợi ích

thiết thực cho con người ngay trong đời sống hiện tại.

Các tác phẩm văn xuôi trên báo chí Phật giáo thể hiện sâu sắc những tư

tưởng, triết lý Phật giáo, có tác dụng giáo dục rất lớn. Thông qua những câu chuyện

kể, triết lý đạo Phật được cụ thể hóa một cách sinh động và thân thuộc, tạo lòng tin

cho người đọc rằng: Đạo Phật có thể an định xã hội, tịnh hóa lòng người, khiến cho

người ta có đầy đủ tín tâm để sống an vui trong hiện tại và còn mang đến kết quả tốt

đẹp ở tương lai, giúp cho con người có được nếp sinh hoạt hợp với đạo lý.

Những giá trị tư tưởng đạo đức cao đẹp của Phật giáo đã được các nhà văn

khẳng định qua những sáng tác của họ và đã được đăng rộng rãi trên báo chí Phật

giáo. Những tác phẩm văn học mang ý nghĩa đó bao gồm nhiều thể loại của văn

xuôi, nhưng chiếm đa số là thể loại tiểu thuyết ngắn. Dưới đây, chúng tôi lược thuật

một số tiểu thuyết tiêu biểu thể hiện nội dung giáo dục tư tưởng đạo đức Phật giáo

khá toàn vẹn trên báo chí Phật giáo trước 1945.

Tác phẩm Tu là cội phước, tình là dây oan của Liên Tôn đăng trong Từ bi

âm số 3 là một tiểu thuyết ngắn. Câu chuyện xảy ra vào đời nhà Đường, niên hiệu

Nguyên Hòa, xứ Hiệp Hữu, có một người con gái tên Quỳnh Liên, xuân xanh xấp xỉ

đến tuổi cập kê, sắc nước hương trời. Các chàng trai nhìn thấy nàng đều ngày đêm

mơ tưởng, nhờ người mai mối, mong được kết duyên cùng nàng. Nhưng nàng đã ra

điều kiện với các chàng trai rằng, trong một đêm nếu ai học thuộc phẩm Phổ Môn

trong kinh Pháp Hoa thì nàng đồng ý gửi thân cho chàng trai đó.

156

Sáng hôm sau, đã có hai mươi người học thuộc phẩm Phổ Môn. Nhưng nàng

tiếp tục ra điều kiện, nếu ngày mai ai học thuộc bộ kinh Kim Cang thì nàng đồng ý

làm vợ. Hôm sau lại có được mười người học thuộc. Nàng phải ra điều kiện tiếp

rằng, ai thuộc hết bảy quyển kinh Pháp Hoa trong ba ngày ba đêm thì người đó sẽ là

duyên tiền định của nàng. Tưởng là không có ai, đâu ngờ đã có chàng Mã Sanh học

thông suốt kinh Pháp Hoa. Thế nên nàng phải đồng ý kết duyên cùng chàng. Nhưng

ngay trong đêm tân hôn, nàng đã lìa trần, khiến chàng Mã Sanh mê mẩn tinh thần,

khổ sầu vô độ, muốn chết cùng nàng.

Sau đó có vị Hòa thượng đến gặp Mã Sanh hỏi thăm sự tình và nói cho chàng

biết rằng nàng Quỳnh Liên chính là do ngài Quán Thế Âm Bồ tát hóa hiện ra, để

cứu độ chúng sinh. Đồng thời khuyên chàng cùng mọi người hãy hồi tâm hướng

thiện, sám hối những tội lỗi trước. Nói xong Hòa thượng biến mất. Từ đó về sau,

người dân trong xứ Hiệp Hữu vì thấy được sự linh hiển ấy, nên ai ai cũng thờ Phật

ngày càng đông và nơi ấy trở thành đô hội của Phật giáo.

Tiểu thuyết Duyên trước tình sau của Chánh Niệm trong tạp chí Từ bi âm số

5, nội dung nói về đôi trai tài gái sắc là chàng Vương Hi và nàng Thiều Hoa, là gái

Nam Giang và trai Đông Sàng rất xứng đôi vừa lứa. Họ vừa kết hôn, mừng vui chưa

trọn vẹn thì cha mẹ của Thiều Hoa đều lìa trần. Việc tang chế của cha mẹ nàng

Thiều Hoa vừa xong thì mẹ của Vương Hi cũng tiếp nối ra đi.

Trước tình cảnh đau thương đó, Vương Hi mới rõ thấu triết lý vô thường

sanh, lão, bệnh, tử của đạo Phật, nên chàng lìa bỏ tất cả vào núi ẩn tu. Sau đó Thiều

Hoa cũng phát tâm xuất gia. Mỗi người mỗi nơi chuyên lo tu trì và cả hai đều chứng

được đạo quả an vui, giải thoát.

Tiểu thuyết Hiếu nghĩa cảm Phật của Liên Tôn đăng trên tạp chí Từ bi âm số

7, xoay quanh nhân vật chàng thanh niên tên là Phan Quý, là một người con trai rất

hiếu kính với mẹ. Phan Quý vâng theo lời mẹ, ngày ngày chàng đều mua hương lên

chùa để cúng Quán Thế Âm Bồ tát. Nhân duyên một ngày nọ lên chùa, chàng đã

gặp và cảm thương nàng Bích Hà. Cả hai người cùng thề non hẹn biển với nhau.

Nhưng vì hoàn cảnh gia đình, chàng vâng lời mẹ đi xa để thăm người cậu. Chẳng

may gia đình cậu không còn, từ đó chàng không có kinh phí để về nhà với mẹ.

157

Chàng bèn tìm cách đi dạy học kiếm sống và được dân làng ở đấy xây nhà cho

chàng ở dạy học. Sau đó có một bà lão muốn bán mình để làm mẹ, chàng đồng ý

mua bà về làm mẹ và chăm sóc cho bà chu đáo mọi bề.

Về phần nàng Bích Hà, sau khi hẹn ước với chàng trở về, thời gian sau thì

cha nàng qua đời, nhiều chàng trai có ý muốn cưới nàng làm vợ, nhưng nàng đều từ

chối. Người bác của nàng vì tham tiền của nên đã giúp cho kẻ gian bắt cóc nàng.

Nhờ có người giúp, đã đưa nàng đến gặp Phan Quý. Mẹ của chàng sau nhiều ngày

nhớ thương, buồn khổ, chiến tranh loạn lạc, cũng nhờ có người giúp đỡ, đưa bà đến

tại nhà Phan Quý. Thế là gia đình cả ba người được gặp nhau. Phan Quý và Bích Hà

nên duyên chồng vợ, sống đời hạnh phúc bên mẹ. Mẹ Phan Quý nằm mơ mới biết

ra người giúp cho hai mẹ con chính là hóa thân của Bồ tát Quán Thế Âm. Nhờ lòng

hiếu thảo của Phan Quý và tâm tín ngưỡng của bà, đã cảm đến lòng Từ của Bồ tát

nên Ngài mới ra tay cứu giúp. Từ đó họ càng tín tâm với Phật pháp và hết lòng làm

điều tốt, giúp đỡ muôn người.

Truyện Đốt đuốc ban ngày của Viên Quang đăng trên Đuốc tuệ số 169-170,

nói về ông Phạm Chí trí tuệ rộng sâu, thông suốt nhiều kinh sách, không có gì là

không biết và ông luôn tự khen là không có ai sánh bằng mình. Một hôm giữa ban

ngày, ông cầm đuốc đi vào trong thành, đã làm cho mọi người chê bai ông ngu dốt.

Từ câu chuyện, tác giả đã nhấn mạnh trên thế gian, cũng có lắm kẻ như anh mù cầm

đuốc, tự mình chưa tỏ lại còn dám ngông nghênh với người khác. Chưa hiểu đã nói

là hiểu, chưa đáng ngôi cao đã tự tôn, như thế có khác nào một anh mán trong rừng

xanh, tưởng mình tài giỏi hơn hết mọi người. Nào có biết đâu, trên đời vẫn còn

những bậc siêu phàm xuất chúng mà họ chưa từng gặp. Hiểu như vậy để tự thức

tỉnh mình mà dập tắt tính kiêu ngạo và sự tu đạo của ta mới mong có ngày thành tựu.

Tác giả kết thúc truyện bằng câu phương ngôn rất ý nghĩa:

“Ở nhà nhất mẹ nhì con

Ra đường lắm kẻ còn giòn hơn ta”.

Tiểu thuyết Thế cũng là “ngộ đạo” của Đ.N.T đăng trên Đuốc tuệ số 65, nói

về anh chàng thợ may vốn tên Đức, không biết quê quán ở đâu, chỉ biết là mười lăm

năm trước, có một người đàn bà góa đưa hai đứa con mồ côi là Đức và em gái đến

158

ngụ ở phố Tân Ninh. Mẹ của Đức hiền lành, có hàng vải để buôn bán tảo tần nuôi

Đức đi học. Đức với Tâm, con gái ông Hàn Phú và em trai cô là cậu Thọ cùng học

trường Kiêm Bị, huyện Tân An. Đức, Tâm và Thọ là ba trang đồng sinh có tài, có

hạnh, được thầy giáo và các bạn học ai cũng yêu quý.

Sau đó, Tâm thôi học, còn Đức và Thọ đều đỗ được bằng sơ đẳng Pháp -

Việt. Thọ và Đức lên Hà Nội học. Học được non hai năm thì mẹ Đức hết vốn, vừa

gặp lúc kinh tế khó khăn, mẹ Đức lo quá nên bị ốm nặng. Đức đành phải chôn sâu

chí khí hiếu học của đời thanh niên mà về quê lo việc gia đình. Đức xin làm công

cho hiệu may gần nhà để kiếm tiền lo thuốc thang cho mẹ. Đức nổi tiếng là thợ may

khéo tay, nên gia đình nhờ đó mà no ấm. Sau đó, Đức mua được máy may trả tiền

góp và mở cửa hàng riêng. Tuy phải bỏ học vì gia cảnh nghèo, nhưng Đức vẫn

không quên thú đèn sách, mỗi ngày dù bận đến đâu cũng dành thời gian đọc sách và

tập viết văn quốc ngữ. Mỗi lần Thọ về thăm quê, đều đến nhà Đức. Thấy sự học của

Đức tiến bộ khác thường nên Thọ rất lấy làm lạ và kính phục. Vì biết nhau từ nhỏ,

lại thấy Đức là một thiếu niên có chí khí, có hiếu nghĩa, có tài học rộng như thế, nên

chị em của Tâm càng kính trọng vô cùng. Đức vì tự nghĩ mình gia cảnh nghèo hèn

nên không dám ngỏ lời với Tâm. Lúc bấy giờ, ông Hàn đang nhất quyết ép Tâm

phải lấy cậu con quan trên tỉnh, nhưng Tâm không chịu. Nhờ Thọ là người am hiểu

triết lý đạo Phật, nên nhân lúc ông Hàn gọi Tâm và Thọ để bàn việc nhà, Thọ đã nói

lên mong muốn của Tâm và thuyết phục được cha mình bỏ đi thành kiến giàu nghèo

qua thuyết bình đẳng của đạo Phật. Người cha đã nghe và tin theo lời Phật dạy, nên

đã thay đổi lối tư duy xưa cũ. Từ đó mới có chuyện đám cưới giữa Tâm và Đức và

việc này đã tạo sự ngạc nhiên lớn đối với quần chúng, xóm làng. Câu chuyện trên

chỉ ra rằng nhờ có sự xuất hiện của đạo Phật với tinh thần từ bi bình đẳng đã xoa

dịu bớt những nỗi khổ đau của biết bao thế hệ con người.

Nội dung những tác phẩm trên cho thấy công danh, tài sắc, lợi lộc hay tình

ái… chỉ là phù du, là vô thường biến đổi, là mây khói bay qua mắt, vì con người

sinh ra không đem gì theo, chết rồi cũng không mang gì đi cùng được. Do đó, nhà

Phật khuyên con người không nên tham luyến quá mức, mong cầu quá độ để phải

chuốc lấy khổ sầu, mọi hạnh phúc thế gian chỉ là tạm bợ mà thôi. Duy có sự tu

159

phước tu huệ, sống có hiếu nghĩa, đạo đức thì mới có được bình an, hạnh phúc. Hơn

thế nữa là biết tránh xa danh lợi, tình ái mà chọn đời sống thoát tục thì sẽ có được

hạnh phúc lâu bền hơn.

Với nội dung đơn giản, quen thuộc như truyện cổ tích, các tiểu thuyết Phật

giáo trên đã thể hiện khá sinh động và sâu sắc những tư tưởng đạo đức của giáo lý

nhà Phật. Những tác phẩm này là sự kế thừa và kết hợp một cách khá nhuần nhuyễn

giữa triết lý dân gian và triết lý Phật giáo. Điều này giúp các tác phẩm dễ đi vào

lòng quần chúng và gắn kết với đời sống nhân dân như những câu ca dao, tục ngữ,

truyện cổ tích được truyền kể bao đời. Từ đó những tư tưởng đạo đức Phật giáo

được truyền giảng, tạo nên nếp sống từ tâm trong mỗi người dân Việt Nam. Đây

cũng là đóng góp thiết thực của những tác phẩm văn học trên báo chí Phật giáo

trước 1945, nhằm phục hưng và lưu giữ những giá trị truyền thống tốt đẹp, tạo nên

sức mạnh của dân tộc chống lại sự xâm lăng của ngoại bang.

3.3.2. Thể hiện tinh thần dân tộc

Từ khi Phật giáo du nhập vào Việt Nam thì tinh thần dân tộc, tình yêu quê

hương đất nước và lòng từ bi của nhà Phật đã được dung hòa với nhau. Phật giáo

tiếp xúc với nền văn hóa bản địa đã thể hiện đúng tinh thần dung thông đầy ý nghĩa

của mình. Nhờ tinh thần này, đạo Phật đã sử dụng các dữ liệu tích cực của văn hóa

và tôn giáo dân gian để góp phần xây dựng và phát huy nền văn hóa dân tộc. Nhiều

thế hệ thiền sư và Phật tử vừa kính đạo, vừa yêu nước đã đóng góp công sức rất lớn

cho quá trình duy trì và giữ vững nền hòa bình, độc lập của dân tộc.

Thuyết “Tứ ân” (ân Tổ quốc, ân đồng bào, ân cha mẹ, ân thầy tổ) mà báo chí

Phật giáo giai đoạn nửa đầu TK.XX nhiều lần nhắc đến đã thể hiện rất có ý nghĩa,

đặc biệt là ân Tổ quốc của Phật giáo đã hòa quyện với tín ngưỡng “thành hoàng”,

làm cho tinh thần yêu nước và lòng nhân từ của Phật giáo ngày càng gắn kết. Đồng

thời còn giúp cho đất nước Việt Nam vượt qua được những phong ba bão táp, sẵn

sàng đối đầu với các thế lực xâm lược, bảo vệ biên cương bờ cõi, giữ gìn toàn vẹn

lãnh thổ đất nước.

160

3.3.2.1. Thơ văn trên báo Phật giáo giai đoạn trước 1945 cho ta thấy rõ nét

tinh thần gắn kết của Phật giáo với dân tộc. Nhiều tác phẩm thơ, văn xuôi của

những nhà văn, nhà thơ có tín tâm với Phật giáo đã chứa đựng tư tưởng yêu quê

hương, vì đất nước rất cụ thể và mang tính thiết thực.

Tinh thần yêu nước của người phụ nữ Việt Nam được thể hiện phong phú và

đa dạng. Có người thì can đảm xông pha nơi trận mạc để chiến đấu với quân thù, có

người thì bền chí hy sinh, trợ duyên và khuyên nhủ chồng phải biết sống hết lòng

cho Tổ quốc, phải kiên cường chiến đấu, dũng cảm hy sinh để mang lại hòa bình,

ấm no cho dân tộc… Những sự hy sinh của người phụ nữ vì Tổ quốc ấy vẫn luôn

tỏa sáng trong lòng dân tộc. Trên tạp chí Quan âm số 26, tác giả Vương Linh đã

đăng bài thơ Vì lý tưởng để ca ngợi tinh thần yêu nước của người phụ nữ Việt Nam:

“Vì lý tưởng chàng đi không trở lại

Thiếp năm chờ tháng đợi biết bao công...

Chàng hỡi, kẻ anh hùng đừng thối chí,

Dẫu trăm lần thất bại, nản đừng nên

Thiếp nguyện xin già làm kẻ vô duyên,

Nhưng được thấy chàng trở nên “Đại sĩ.”

T.B thì bày tỏ cảm xúc của mình về Cảnh đền Kiếp Bạc trong Quan âm tạp

chí số 24, vừa mang tính thiêng liêng vừa mang âm hưởng thoát tục. Có lẽ đây là sự

hòa nhịp giữa việc thể hiện lòng tri ân những anh hùng chiến sĩ đã hy sinh vì Tổ

quốc với ân quốc gia của Phật giáo (một trong Tứ ân):

“Trời đất dành riêng một miếu đường

Đời đời khánh niệm đức Trần Vương

Chuông Tào, mõ Đẩu khêu hồn tục

Rừng cấm, giếng rồng ẩn bóng dương...”.

Biết bao nhiêu thế hệ đi sau, là những người cũng mang tâm hồn lớn, tâm

hồn yêu dân tộc Việt Nam đã bày tỏ nỗi lòng nhớ ơn những anh hùng chiến sĩ đã vì

Tổ quốc hy sinh. Mỗi lời tâm sự là lời nhắc nhở, hun đúc thêm ý chí cho những

người hiện tại biết hướng về đất nước, vì sự an nguy của cả dân tộc mà tiếp nối tinh

161

thần anh dũng chiến đấu của mình. Chúng ta có thể đọc những lời tâm sự tha thiết

này trong Quan âm tạp chí số 28, qua bài Viếng mồ chiến sĩ của K.H:

“Tôi là một thanh niên Nam Việt

Đứng trước mồ thảm thiết bi ai!...

Hỡi những người bạn đem thân ra trận

Chỉ mong sao rửa hận mới nghe

Tài trai gặp lúc đang thì

Dẫu thân tan nát cũng vì nước non...

Lòng quyết thắng giục người chiến sĩ

Vì quốc dân chẳng nghĩ đến nhà

Dù rằng vợ trẻ, mẹ già

Tạm quên, quên để bước ra chiến trường...”

Bên cạnh đó còn có Ban Đồng sinh chi hội Hải Phòng đã dâng lời tưởng

niệm lúc Viếng tướng sĩ trận vong và đặc biệt bài này được đọc tại chùa Dư Hàng

ngày 2.11.1937, Đuốc tuệ số 74 - 1937 ghi lại rất xúc động. Bài ai điếu đã nhấn

mạnh sự hy sinh cao cả vì Tổ quốc của những anh hùng dân tộc và bày tỏ lòng biết

ơn vô hạn, lòng thương xót của thế hệ trẻ ngày nay khi nghĩ về công lao, sự hy sinh

của các chiến sĩ. Họ xem đó là tấm gương soi sáng để tiếp tục sự nghiệp vì độc lập

dân tộc. Cụ thể là họ đã thực hiện nghi thức Phật giáo, làm lễ kỳ siêu, cầu nguyện

cho những linh hồn chiến sĩ được siêu thoát luân hồi, không bị cô đơn vất vưởng

trong những chốn tối tăm, lạnh lẽo:

“Ngày nay kỷ niệm

Nhớ đức ghi công…

Địa phương Phật giáo

Phụng lệnh quan trên

Đồng sinh chúc tụng

Vạn cổ anh phong

Tướng sĩ trận vong

Vì dân vì nước

Gặp có giặc thù

162

Súng gươm sáng quắc

Vâng mệnh triều đình

Đền ơn bảo hộ…

Ở chốn sa trường

Bỏ mình vì nước

Ai cũng một lần

Lưu danh thiên cổ”.

Bày tỏ lòng báo ơn bằng việc thực hiện nghi thức cầu siêu độ trong Phật giáo

là việc làm rất phổ biến và đầy ý nghĩa. Theo Phật giáo, nghi thức siêu độ vừa giúp

cho linh hồn người mất được thoát khổ mà còn là dịp để khơi gợi lòng biết ơn của

những người còn tại thế. Bởi Phật giáo quan niệm con người chết là chỉ mất đi thể

xác nhưng nghiệp thức vẫn còn tồn tại và phải chịu luân hồi sanh tử trong nhiều

cảnh giới khác nhau. Vì thế, nhà tu hành phải thể hiện lòng từ bi cứu độ, bằng cách

làm lễ kỳ siêu, thuyết pháp để cứu rỗi những vong linh chưa giác ngộ, vẫn còn bơ

vơ lạc lõng trong những cảnh giới khổ đau được trở về cảnh giới Cực Lạc an vui.

Thấm nhuần tư tưởng đó, “Chi hội Phật giáo Hải Dương đã làm lễ phổ độ cho

tướng sĩ Việt Nam trận vong bên Pháp quốc và ở Lạng Sơn, cùng những người dân

bị nạn bom Hải Phòng”, trong đó, Công Chân đã có Bài văn truy triệu Lễ phổ độ

chiến sĩ trận vong, được Đuốc tuệ số 141 chọn đăng:

“Than ôi, âm dương đôi ngả cách xa

Thác là thể phách còn là tinh anh

Nào là tướng sĩ tòng chinh

Nào là lạc đạn vô tình xảy ra

Cùng chung một gánh quan hà

Thác vì việc nước ai mà không thương

Trời long đất lở khôn lường

Người ta hai chữ vô thường đó thôi…

Nay nhân tảo mộ lễ thường

Phật đài thắp một tuần hương khấn nguyền

Anh linh giáng phó đàn tiền

Chúng sinh công đức vô biên vô lường…”.

163

Những người có tinh thần yêu nước luôn thể hiện trọn tấm lòng mọi lúc mọi

nơi, bất cứ khi nào Tổ quốc cần đến. Không những chỉ bản thân mình hy sinh mà

còn kêu gọi tấm lòng hy sinh của người khác. Huy Hoàng đã đánh Tiếng chuông

cảnh tỉnh trong Đuốc tuệ số 141, kêu gọi thanh niên Việt Nam hãy vì hạnh phúc

chung của toàn dân tộc mà đứng lên, đóng góp công sức của mình để bảo vệ quê

hương đất nước:

“Thiếu niên bạn hỡi dậy đi,

Dậy đi, đem chí nam nhi giúp đời.

Đã mang tiếng, trai người chí khí

Phải ra công đừng phí thì giờ

Quốc dân đang đợi, đang chờ

Chờ đàn hậu tiến chúng ta đi đầu...”

Hạnh phúc biết bao khi quê hương đất nước thanh bình, muôn triệu người

dân vui đón xuân về trước những sắc màu tươi đẹp của non sông gấm vóc. Người

biết yêu quê hương sẽ cảm nhận được sắc xuân đầy tươi đẹp khi đứng nhìn cảnh vật

của quê hương mình. Như K.H thể hiện bài Mừng xuân trong Quan âm tạp chí số 27:

“Xuân đã về đây với chúng mình

Đồng bào Nam, Bắc thảy hoan nghênh

Một bầu khí sắc bao yên cảnh

Muôn dặm thanh huy chiếu thái bình...

Buổi đời hòa lạc mừng chung cả

Thay mặt non sông, tả chút tình.”

Hòa trong không khí đón xuân mới của dân tộc Việt Nam, người người vui

đón xuân còn biết hướng đời mình về chốn thiền môn để trải lòng lắng nghe từng

lời kinh tiếng mõ và nghe cả tiếng suối reo, tiếng chim hót thanh thoát dường như

lời ai niệm Phật, khiến cho lòng người nhớ mãi những giây phút an lành. Đúng là

hình ảnh ngôi chùa hiện hữu giữa quê hương Việt Nam đã mang đến cho đời sống

con người nhiều niềm an vui, bởi nơi đó chứa đựng cả linh hồn của dân tộc. Có lẽ vì

thế mà Huyền Am đã bày tỏ bài Ngày xuân viếng chùa trong Đuốc tuệ số 23:

“Linh Sơn ao ước bấy lâu nay

164

Mà đến bây giờ mới tới đây

Suối bạc kêu vang ngàn trượng đá

Non xanh lên thấu mấy tầng mây

Đàn chim như niệm câu kinh Phật

Ngọn gió xa đưa tiếng kệ Thầy

Về dưới cuộc trần còn nhớ mãi

Nhớ chùa ai dựng tháp ai xây.”

Người có tín tâm với Phật giáo là người có lòng từ bi. Người có lòng từ bi là

biết nghĩ đến sự an nguy của đất nước và hết lòng nhớ nghĩ về công ơn của cha ông

đi trước đã tạo dựng nên đất nước gấm hoa. T.T.T với bài Thơ mừng Tết trong Viên

âm số 2 đã đưa muôn người về với mùa xuân của cả nước, cùng chúc mừng nhau

thêm tuổi mới, nhưng không quên cội nguồn tổ tiên của dân tộc Việt Nam:

“Thấm thoắt xuân về đã hết đông

Bắc Nam đâu đó cũng trời chung

Cỏ cây thấm gội ơn mưa móc

Hoa gấm tô bồi vẻ núi sông

Rước tổ Hồng Bàng, hương một nén

Đuổi ma khủng hoảng, pháo vài phong

Mừng nay năm mới thêm nhiều tuổi

Hai chữ từ bi giữ vững lòng.”

Ngôi chùa hiện hữu giữa cuộc đời đã góp phần tô điểm rất nhiều cho nét đẹp

của quê hương đất nước. Nơi đây, chúng ta có thể học Phật, tìm hiểu lịch sử Phật

giáo và cả lịch sử dân tộc, là cả một kho tàng đạo đức, đạo lý sống cho những ai có

tai để nghe và có tâm hồn để thể nghiệm. Đúng như dân gian đã từng nói: “Đất vua,

chùa làng, phong cảnh Bụt”. Nói đến chùa là nói đến Phật và sự tu hành. Ngôi chùa

Việt Nam hiện hữu như là một biểu tượng văn hóa, thể hiện tính chất bao dung của

người Việt Nam, của văn hóa Việt Nam. Chùa tất nhiên là để thờ Phật, nhưng ngoài

ra còn thờ các vị có công với nước, thờ các vị thần, thành hoàng... Phong cảnh Bụt

là nói đến phong cảnh chùa đẹp, thanh tịnh, an lành. Đó là những nơi gợi nên những

cảm xúc thẩm mỹ, ý vị mơ màng.

165

Nguyễn Thiện Chính với bài Vịnh chùa Kiến Sơ được đăng trên Đuốc tuệ số

13 đã nói lên đầy đủ giá trị và ý nghĩa cao cả về sự hiện hữu của một ngôi chùa giữa

quê hương:

“Đem đạo từ bi để gọi hồn

Đổi cong làm thẳng, dại làm khôn

Sử Nam tự tích xưa chưa có

Đất Bắc sơn môn bấy hãy còn

Chùa lập cùng làng Ngài Đổng Thánh

Phật truyền vào nước Tổ Vô Ngôn

Tín đồ con cháu rồng tiên cả

Bồ tát công duyên rạng nước non.”

Nói đến nét đẹp của quê hương Việt Nam là phải nói đến cảnh đẹp của

Hương Sơn. Nếu những ai chưa có dịp đến đây để thưởng thức thì chỉ cần đến với

Hương Sơn hành trình ca của Nguyễn Đăng Hựu trong Đuốc tuệ số 24, chúng ta sẽ

thấy được một kỳ quan mà tạo hóa đã ban cho non nước Việt Nam:

“Nghe đồn phong cảnh Hương Sơn

Nam Thiên đệ nhất đâu hơn được nào?

Lòng riêng, riêng những ước ao

Công trình bao quản thử vào xem chơi...”

Cùng nhà thơ Tâm Bình Chơi núi Thiên Thai, chúng ta sẽ tiếp tục thưởng

thức cảnh đẹp ngất ngây cõi lòng về non sông gấm vóc Việt Nam. Nét đẹp này còn

khơi gợi cho nhà thơ một tình thương bao la, sâu lắng và đưa tác giả thoát khỏi

vòng tục lụy khổ đau. Bài thơ được đăng trong Viên âm số 8:

“Chơi núi Thiên Thai chẳng muốn về

Thảnh thơi như đã sạch lòng mê

Cành hoa Thiên nữ rơi đâu đó

Cụm đá Sanh công gục mãi tề

Thấy cuộc thua hơn đôi nấm đất

Thương đời danh lợi một nồi kê

166

Vô minh giấc mộng nay vừa tỉnh

Ngồi đợi trăng lên, gió bốn bề.”

Nhìn chung, có lẽ ai cũng hiểu quê hương là tiếng gọi tha thiết nhất cất lên từ

trái tim của mỗi con người. Quê hương với những cảnh vật quen thuộc luôn là đề tài

gợi nhiều cảm xúc đối với các nhà văn, nhà thơ mọi thời đại. Những người có tâm

hồn yêu quê hương đất nước, sẽ đưa được cuộc sống và cảnh vật của quê hương đi

vào thơ ca, trở thành nguồn cảm hứng dạt dào, sáng tạo nên những hình ảnh, những

tâm hồn mang đậm bản sắc Việt Nam. Tất cả những cảnh trí thiên nhiên, những tình

cảm gắn bó sâu đậm với dân tộc qua những trang thơ đã thể hiện trên báo chí Phật

giáo trước 1945 càng trở nên tha thiết và gợi cho ta những tình cảm đáng trân trọng.

Hầu như mỗi bài thơ đều bộc lộ rõ tấm lòng, cảm xúc của các nhà thơ đối với

quê hương thân yêu của mình. Những dòng thơ này giúp chúng ta bỏ lại sau lưng

những lo toan vất vả, những vay mượn ồn ào và cả đời sống tẻ nhạt. Cho nên có thể

nói, báo chí Phật giáo thời bấy giờ đã góp phần đưa văn học về với cội nguồn dân

tộc, với làng quê thân thương và chứa đựng những giá trị lâu bền trong đời sống văn

hóa dân tộc.

Những bài thơ trên cũng cho thấy tính thế sự hóa nội dung trong tác phẩm

thơ Phật giáo. Nội dung những bài thơ thể hiện được sự gắn bó giữa đạo và đời. Đời

sống là sự thể hiện sinh động và phong phú nhất của giáo lý Phật giáo, đồng thời

cũng thể hiện được sự thay đổi trong nội dung thơ gắn với tính thời sự, đời thường.

3.3.2.2. Không ít tác phẩm văn xuôi cũng mang chủ đề yêu nước. Tác giả

T.V, trên Quan âm tạp chí số 23, với tác phẩm Lạc đường đã thể hiện rất rõ tinh

thần vì dân tộc, muốn khuyến hóa quần chúng, cụ thể là giới học sinh, phải biết ý

thức rõ về vai trò của mình, để cùng chuyển hóa xã hội Việt Nam ngày một giàu

mạnh:

Trong một bài pháp của Lã Phụng Tiên có nói: “Cái lỗi của mình như cái

túi đeo sau lưng... ”, khi nào có người quay cái túi ấy ra trước mặt mình

mới biết rõ được… Đó, chúng ta đã nghe rõ chưa? Chúng ta đã tỉnh giấc

chưa? Chúng ta đã trông thấy rõ cái túi trước mặt chúng ta chưa? Chúng ta

167

đã nhận thấy cách ỷ lại lười biếng của chúng ta chưa? Chúng ta đã nhận

thấy quãng đường sai lạc chưa? Vậy, nay chúng ta cần phải đả đảo ngay

cái “óc” làm ông tham, ông phán... mà kíp khuynh hướng về kỹ nghệ

thương mại, canh nông... thì mới cứu vãn được cái xã hội Việt Nam đương

ốm yếu này!

Vì mong muốn góp phần cứu vãn cho xã hội Việt Nam đang trong tình trạng

lâm nguy, nên Quan âm tạp chí đã liên tục đăng những bài viết thể hiện tinh thần vì

dân tộc, nhằm kêu gọi ý chí của thanh niên, hãy mạnh dạn đứng lên để giành lại độc

lập tự do cho đất nước. Như lời kêu gọi của Đinh Gia Long trên Quan âm tạp chí số

24:

Tương lai của Tổ quốc là thanh niên, vì thanh niên là nền tảng của đất

nước... Tôi muốn chúng ta hãy tự đào lấy căn bản thực tài để chúng ta

chiến đấu mà phụng sự cho Tổ quốc. Trần Hưng Đạo phải có gan dạ thế

nào mới có giọng can đảm nói với vua: “Hãy chặt đầu thần rồi bệ hạ hãy

hàng”... Tôi muốn Tổ quốc này có những thanh niên học rộng và hy sinh,

không cần cơm no áo ấm, vợ đẹp, nhà sang. Hãy hy sinh để có một hoài

bão to tát mà phụng sự cho đất nước, cho quần chúng.

Trong bài viết Nhân tài nước Nam của Trương Vĩnh Ký, được đăng trên

Quan âm tạp chí số 24, ra ngày 3 tháng 12 năm 1941, tác giả cũng đã nhấn mạnh rất

rõ về ý chí và trách nhiệm của một thanh niên Việt Nam. Ông khẳng định thanh

niên thời bấy giờ chính là nhân tài của đất Việt, nên phải thấy rõ trọng trách của

mình trong việc xây dựng và bảo vệ quê hương.

Không chỉ khơi gợi tinh thần chiến đấu chống giặc ngoại xâm, có tạp chí còn

nêu lên vẻ đẹp quê hương, đất nước để hun đúc chí khí cho quần chúng nhân dân.

Đó là tinh thần không phản bội quê hương, dẫu đất nước vẫn còn nghèo nàn, nhưng

tất cả không gì bằng vẻ đẹp của nước non mình. Tinh thần này được Đinh Gia Long

viết trong Quan âm tạp chí số 24: “Lúc mà trong nước đang eo hẹp đồng tiền, lúc

này chúng ta đều có phận sự lo góp sao cho nền tài chính trong nước được thịnh

vượng. Đây ngài xem, người mình có tính ưa dùng hàng ngoại quốc nhiều quá. Mà

168

nói cho đúng hàng của nước mình cũng không có gì xấu cho lắm. Trái lại, hàng nội

hóa cũng có và có lẽ cũng tốt bằng hay hơn hàng ngoại quốc”.

Nói đến truyện ngắn, tác giả Thiện Minh có lẽ đã rất thâm thúy khi viết

Những lời ấy xa xăm còn vang mãi đăng trên Quan âm tạp chí số 26. Hệ thống nhân

vật trong truyện ngắn này được xây dựng đơn giản. Ngôn ngữ truyện chủ yếu là lời

trần thuật của người kể chuyện. Thỉnh thoảng có những lời đối thoại với ngôn ngữ

thường nhật, nhưng đã làm nổi bật nội dung, tư tưởng của câu chuyện là nhằm giáo

dục thế hệ trẻ. Tác giả đã tha thiết kêu gọi thanh thiếu niên phải biết yêu non sông

đất nước, nơi đã sinh ra mình và phải sống làm sao cho xứng đáng, đem lại lợi ích

cho xã hội: “Này nhé, các con ơi, các con trông xem, sông cong queo chảy, núi

sừng sững và oai hùng, đất màu tươi tốt. Biết bao nhiêu khí thiêng sông núi, đất

nước chung đúc nên người ta, sinh ra ta, sinh ra các con, sinh ra từng lớp người...

Các con ơi, các con nghe lời ta, một người từng trải, bây giờ các con chỉ nên chăm

học và yêu hết mọi người, bởi ở đó các con sẽ nên người hữu ích cho mai hậu”.

Truyện cũ nước nhà (Trá Hòa thượng để dò mưu giặc) của Thiện Bảo đăng

trên Đuốc tuệ số 40, là tác phẩm được viết lại, dựa vào câu chuyện có thật của lịch

sử, nói về việc Nguyên triều nghe tin vua Thái Tông nhà Trần băng hà, muốn nhân

dịp trong nước có tang, gây sự khởi binh, mới sai Lễ bộ Thượng thư là Sài Thung

sang dụ vua Nhân Tông vào chầu. Vua sai người mời Sài Thung vào quán sứ và sai

quan Tướng quốc Thái úy là Trần Quang Khải ra tiếp. Thung cậy mình là Nguyên

triều sứ thần, đến tiểu quốc không coi ai ra gì cả. Khi tướng Quang Khải ra mắt, ông

vắt vẻo nằm trên sập, không thèm đứng dậy mà cũng không thèm đáp lại một lời.

Quang Khải đành tủi nhục ra về.

Đức Hưng Đạo Vương nghe chuyện, căm tức vô cùng, muốn vào thẳng xem

Sài Thung ra sao, nhưng ngại mình lại là người An Nam, tất nhiên sẽ không được

tiếp chuyện. Hưng Đạo Vương vốn giỏi tiếng Hán, bèn cạo râu, khoác áo cà sa, đeo

tràng hạt, giả làm người Bắc Hòa thượng đến cửa quân xin vào bái kiến. Sài Thung

được tin báo, ngỡ là có nhà sư từ phương Bắc đến nên hắn ta cho lính ra rước vào.

Thung đứng dậy chào hỏi, tỏ ý vui vẻ, rồi sai pha trà ân cần tiếp đãi. Hai người tiếp

chuyện thật vui. Sau khi Hưng Đạo Vương từ biệt đi ra, Sài Thung tiễn khỏi cửa,

169

mới biết nhà sư đó là Hưng Đạo Vương trá hình, Thung đã luôn cảm thấy hối hận

cho sự khờ dại của mình.

Câu chuyện trên cho thấy Phật giáo đã thực sự có được chỗ đứng vững chắc

trong cuộc sống và tâm linh của đông đảo người dân, đồng hành cùng sự phát triển

của dân tộc. Cho nên ngay cả Hưng Đạo Vương, vị anh hùng cũng đã biết ứng dụng

đạo Phật trong đời để mang lại lợi lạc cho Tổ quốc.

Nhìn chung, các tác phẩm văn học trên báo chí Phật giáo đã thể hiện rõ tinh

thần đạo Phật vì dân tộc. Qua đó cho thấy giá trị cao quý của đạo Phật là tư tưởng từ

bi, khoan dung, vô ngã, không nghĩ tới cá nhân mà chỉ nghĩ đến những điều lợi ích

lớn lao cho muôn người, cụ thể là xây dựng một xã hội an lạc, một đất nước hòa

bình. Chính điều đó đã giúp cho con người nhận thức được chân giá trị của mình

trong đời sống xã hội, triệt tiêu mâu thuẫn giữa phe này nhóm khác, để rồi cùng

nhau đoàn kết bảo vệ cuộc sống bình yên, chống giặc ngoại xâm, xây dựng đất nước.

3.3.3. Thể hiện tinh thần nhân đạo

Tư tưởng vô ngã vị tha, từ bi hỉ xả, bình đẳng… và cả sự khuyến thiện từ

triết lý nhân quả đều là những thể tính sẵn có của giáo lý nhà Phật và có thể nói đã

thể hiện rõ nét tư tưởng nhân đạo của đạo Phật. Tư tưởng đó hiển bày cụ thể trong

hệ thống kinh điển và ngay trong cách sống của những tín đồ Phật giáo qua tinh

thần dân chủ, yêu chuộng hòa bình, có khả năng hòa giải, hòa hợp, tác động tích

cực và ảnh hưởng sâu rộng trong mọi thành phần và giai tầng xã hội. Cho nên tư

tưởng nhân đạo là phương châm sống, là đạo lý làm người, lấy đó làm tiêu chuẩn để

tu dưỡng, rèn luyện bản thân của người đệ tử Phật trong bất cứ thời đại nào.

Chắc chắn trong tư duy của người dân bình thường, chưa ai băn khoăn tìm

hiểu tại sao khi họ đến với đạo Phật thì chỉ thấy ở đây một chủ nghĩa nhân đạo lớn

lao. Bởi lẽ đây là những điểm chính yếu làm cho Phật giáo gắn bó được với quần

chúng. Tâm lý dân gian Việt Nam ta thiên về sự cân bằng, sự bù đắp. Nỗi khổ hôm

nay phải được đền bù bằng sự sung sướng ngày mai. Phật giáo cũng hứa hẹn với

con người sự đền bù không do quyền phép nào, chỗ dựa nào, cũng không do cán

cân phúc tội nào, mà do chính nỗ lực của bản thân mình. Đó là nét đặc trưng về tinh

170

thần nhân đạo trong triết lý nhân quả của Phật giáo. Có lẽ vì thế mà báo chí Phật

giáo lúc bấy giờ đăng tải rất nhiều tác phẩm truyện thể hiện tư tưởng nhân đạo đối

với con người và một trong những tư tưởng nhân đạo ảnh hưởng lớn đến đời sống

văn hóa của người Việt Nam là triết lý Nhân quả.

Người dân Việt Nam vẫn thường nói: “Gieo nhân nào gặt quả nấy” và luôn

tin ở hiền sẽ gặp lành, gieo gió ắt gặt bão. Họ suy nghĩ như vậy vì họ có thiện tâm

và chịu ảnh hưởng sâu sắc từ thuyết nhân quả của nhà Phật. Đạo lý nhân quả của

Phật giáo là thể hiện tinh thần tôn trọng lẫn nhau, là sự yêu thương giữa người với

người, không ai có quyền xúc phạm hay quyết định cuộc đời của người khác. Đó

cũng chính là cách ứng xử nhân đạo trong nhà Phật. Truyện ngắn, tiểu thuyết trên

báo chí Phật giáo viết về triết lý nhân quả mang âm hưởng nhân đạo tương đối

nhiều, mỗi tác phẩm đều để lại cho người đọc một bài học về cách sống ở đời. Bài

học giáo dục cụ thể nhất là khuyên con người luôn biết thể hiện cách ứng xử tốt đẹp

trong đời sống hằng ngày, không gây ảnh hưởng xấu cho mình và người. Như thế

mới có thể gặt hái được kết quả hạnh phúc cho bản thân, gia đình và xã hội.

Dưới Chơn Phật của Kim Xuân viết trong tạp chí Từ bi âm số 4 là tiểu

thuyết viết về đời sống thực của gia đình quan Phủ Minh Huệ. Quan Phủ lâu ngày

làm việc không liêm chính, bà Phủ thấy vậy rất đau lòng và tìm cách khuyên ông

Phủ nên tin vào lý nhân quả của đạo Phật mà làm việc chánh trực, để tích đức cho

con cháu, bởi hiện tại đứa con của họ tên Minh Thành cũng hư hỏng, không ra gì.

Riêng bản thân bà Phủ nhờ thấm nhuần thuyết nhân quả của Phật giáo nên bà sống

rất lương thiện, nhân hậu, không đua chen, đua đòi như những người giàu có khác.

Từ cách sống của bà Phủ cùng những lời khuyên có lý của bà, lâu ngày đã

khiến ông Phủ thấu hiểu và từ đó ông quyết chí làm một vị quan Phủ thanh liêm,

thương yêu giúp đỡ mọi người. Về sau được mọi người cảm ơn mến đức, tiếng lành

đồn xa. Nhờ đó, con trai Minh Thành của họ cũng cảm phục nhân đức cha mẹ mà

hồi tâm chuyển ý, sống làm người tốt.

Tiểu thuyết Sám hối được sanh về Thiên đường nói về một câu chuyện có

thật trong lịch sử Phật giáo Trung Hoa. Lương Võ Đế - một vị hoàng đế sáng lập ra

nhà Lương và trị vì Nam triều từ năm 502 đến năm 549. Câu chuyện đã được ghi

171

chép rõ trong kinh Lương Hoàng sám, Bích Liên đã kể lại và đăng trên Từ bi âm số

6. Lương Võ Đế có quen thân với một vị Hòa thượng hiệu là Chí Công. Hoàng hậu

Hi Thị rất ghét Hòa thượng và luôn tìm cách can ngăn vua đừng qua lại với Hòa

thượng, nhưng vua không nghe. Hoàng hậu liền bày mưu tính kế để hại Hòa thượng.

Có lần hoàng hậu cho mời Hòa thượng và chúng tăng đến để cúng dường trai tăng

và đã làm bánh bao nhân thịt chó để thiết đãi.

Đến ngày cúng dường, bà thấy Hòa thượng và chúng tăng vẫn ăn bánh bao,

nên lấy cớ đó mà chê bai Hòa thượng, khiến vua đem kiếm đến giết ngài. Khi vua

đến gặp, Hòa thượng mới nói rõ hết sự tình và dẫn vua đi xem bánh bao nhân thịt

chó đã được Hòa thượng chôn dưới đất. Vua cho người đào lên thì thấy những bánh

bao ấy biến thành những con chó. Từ đó, Hòa thượng giải thích chuyện ân oán

nhiều kiếp giữa Hòa thượng và hoàng hậu. Lâu sau, hoàng hậu lìa đời, vì tội ác quá

nặng, nên bị quả báo đọa làm con rắn mãng xà sống dưới hầm xí rất khổ sở. Hoàng

hậu báo mộng cho vua biết nỗi khổ và nhờ vua cầu cứu Hòa thượng làm lễ sám hối

cho bà. Hòa thượng cho thiết đàn tràng để sám hối tội lỗi cho hoàng hậu, nhờ đó bà

thoát được kiếp loài vật và sanh về thiên giới.

Bài học nhân quả ở đây là nghiêng về hoàng hậu Hi Thị. Vì bà sống với ác

tâm, nên phải lãnh chịu quả báo xấu. Nhờ bà biết hối hận, nhận ra lỗi lầm và thành

tâm sám hối, cùng với sức chú nguyện của Hòa thượng, nên đã chuyển được nghiệp

xấu của bà thành nghiệp tốt. Giá trị nhân đạo của tác phẩm là ở sự bao dung, rộng

lượng. Dù con người mê muội, sống với tâm niệm xấu xa, nhưng chỉ cần biết sửa

đổi, chuyển tâm ác thành tâm thiện thì quả lành sẽ đến với họ.

Truyện ngắn Làm lành đặng phước, làm dữ bị họa của Nguyễn Văn Hạp

trong Từ bi âm số 29 cũng thể hiện rõ luật nhân quả ngay trong cuộc sống hiện tiền.

Tác phẩm nói về đời nhà Minh có một văn sĩ tên là Vương Ái Nhơn, mồ côi cha từ

nhỏ, chàng ở với thân mẫu là bà Trương Thị, là người hiền đức, lo cho con ăn học

nên người. Chàng có người bạn học chung là Lê Háo Kỳ, hai người cùng nhau về

kinh đô ứng thí. Khi hai người cùng vào chùa Thiệu Long xin trú ngụ thì Vương Ái

Nhơn nhặt được túi vàng, chàng nghĩ sợ túi vàng của ai đó bỏ mất thì tội nghiệp,

không nỡ lấy, nên xin nán lại chùa vài hôm để chờ người đến nhận. Nhưng nghe lời

172

Lê Háo Kỳ, chàng đã đưa túi vàng cho ông ấy mang xuống Trường An trước, còn

mình ở lại chùa đợi. Sáng ngày, chàng thấy Trần Quản đến tìm túi vàng, bèn nói

cho biết sự thật và cùng đi đến Trường An tìm Háo Kỳ. Đến nơi thì Háo Kỳ chối bỏ

mọi chuyện.

Thi xong, Ái Nhơn nằm mộng thấy Quán Thế Âm Bồ tát mách bảo rằng nhờ

chàng đã làm một việc âm đức rất lớn, nên khoa thi này, chàng được đậu trạng

nguyên và khuyên chàng từ rày về sau phải thường làm việc thiện hơn. Hôm sau,

kết quả đúng như trong mơ. Háo Kỳ hay tin không đỗ trạng nguyên trở nên bệnh

nặng. Ái Nhơn được vua mời vào cung ban thưởng và gả công chúa Lệ Sương cho

chàng. Đám cưới xong, chàng cho đòi Trần Quản vào tặng thêm 100 lượng bạc rồi

xin vua tha cho Trần Công, là cha của Trần Quản đã bị hàm oan, đang bị giam trong

ngục, đồng thời chàng đền ơn người bạn cho trú ngụ là Lưu Chí Thành rất xứng

đáng. Chàng được vua ban thưởng nhiều vàng và cho về nhà ra mắt mẫu thân, bái

yết Tổ đường. Mẹ chàng bèn làm thức ăn chay cúng dường cho các nhà sư và bố thí

tiền bạc cho người nghèo khó. Còn Háo Kỳ vừa xấu hổ vừa uất ức, bệnh càng nặng

thêm, bèn thuê ghe mướn người đưa chàng về quê, nhưng khi ra giữa sông thì gặp

sóng gió, cuốn mất xác.

Trên tạp chí Từ bi âm, tác giả Thiện Dụng đã viết rất nhiều truyện ngắn.

Những tác phẩm của Thiện Dụng đa phần nêu lên luật nhân quả ở đời và mỗi câu

chuyện đều có nội dung hay, kết cấu truyện hấp dẫn, tạo sức lôi cuốn người đọc.

Những truyện ngắn nổi bật như: Nhờ vợ tu hành mà chồng khỏi đọa đăng ở số 17,

Một nàng con gái 13 tuổi ngộ đạo đăng ở số 21, Lòng từ bi cảm đến loài vật đăng ở

số 35, Phật hóa độ người có duyên lành đăng ở số 36 v.v..

Đọc truyện ngắn Nhờ vợ tu hành mà chồng khỏi đọa của Thiện Dụng, chúng

ta sẽ thấy rõ hơn luật nhân quả mà nhà Phật hay đề cập. Câu chuyện viết về nàng

Dương Thị ở xứ Giang Hoài, nổi tiếng là người có tài sắc. Năm 20 tuổi, nàng kết

hôn với chàng Tống Khán, hằng ngày nàng lo nội trợ tề gia trọn vẹn và cũng không

quên thọ trì tụng niệm. Một ngày, Tống Khán đi xa làm ăn, khi ra ngoài biển khơi,

chẳng may gặp nạn gió bão, nhờ có một bó rơm trôi đến, chàng vội đeo lấy và lần

lựa theo sóng tấp vào bờ. Chàng tỏ ý cám ơn bó rơm và ôm về làm kỷ niệm. Dọc

173

đường, thấy có một cái quán nhỏ, chàng định vào nghỉ chân dùng cơm thì gặp một

bà cụ tuổi ngoài bảy mươi, chàng xin ngủ lại đó một đêm. Đến sáng, chàng mở bó

rơm ra, thấy có một ống tre, trong ống tre lại có một bổn kinh Kim Cang. Bà cụ mới

nói rằng: “Bổn kinh nầy là kinh của vợ ngươi thường tụng ở nhà”.

Chàng về gặp vợ, kể lại đầu đuôi câu chuyện, đúng là Dương Thị đã ở nhà

mướn người biên ra một quyển kinh Kim Cang để thọ trì tụng niệm mỗi đêm, cầu

nguyện cho chồng đi đến nơi về đến chốn. Vì trong bổn kinh ấy có nhiều chữ sai

nên Dương Thị đã thỉnh một vị cao tăng sửa lại, nhưng bản kinh ấy mất tích mười

ngày rồi. Chàng nghe nói bèn mở ra xem kỹ càng, thì quả y như vậy. Tống Khán

bèn sắm sanh lễ vật đến quán tạ ơn bà cụ, nhưng chẳng thấy ai hết. Từ đó về sau,

chàng càng tín ngưỡng Phật giáo hơn, hết lòng cùng vợ chuyên lo tụng niệm tu tập.

Như vậy, chàng Tống Khán nhờ vợ có lòng tín ngưỡng Phật pháp, thành kính

luôn luôn và nhất tâm hồi hướng cho chồng, nên chàng được thần nhơn trợ lực, mới

thoát khỏi đại nạn giữa biển mênh mông. Điều này cho thấy luật nhân quả còn mang

tính tương quan tương tương duyên với nhau. Một người làm điều lành, biết hồi

hướng công đức cho người thân của mình thì họ cũng được thọ hưởng. Nhưng sau

đó, họ cũng phải biết hướng tâm làm lành thì kết quả tốt đẹp mới lâu dài.

Báo Đuốc tuệ thỉnh thoảng cũng đăng những truyện ngắn mang triết lý nhân

quả thiết thực ở đời. Những truyện tiêu biểu có Ma Đăng già đăng ở số 2, Cô con

gái Phật hái dâu đăng ở số 39-40, Quả báo triền triền đăng ở số 123-125.

Truyện Quả báo triền triền nói về một làng nọ, có vợ chồng Hai Cợp sống

trong cảnh êm đềm, dưới căn nhà tre rộng rãi. Mỗi ngày họ cùng vợ chồng anh ruột

ở cạnh nhà đi đánh cá hoặc làm thuê mướn để sống qua ngày. Nhờ có anh ruột rất

tốt, thường khuyên bảo nên không bao lâu, hai gia đình đã có sản nghiệp lớn. Chẳng

may, anh của Hai Cợp bị giặc bắt mất tích. Bổn phận Hai Cợp lúc ấy phải trông

nom mẹ già, chị dâu, dạy bảo các cháu và giữ gìn nhà cửa cho anh. Nhưng bản tánh

Hai Cợp vốn tham lam và hung ác, nên anh chỉ đem mẹ già về nhà mình, bỏ mặc

chị dâu và các cháu bơ vơ. Anh còn tranh hết ruộng, chiếm ao, cướp thóc lúa, vơ vét

cho đầy túi, lại còn dọa nạt chị dâu đủ cách, hành hạ đàn cháu thậm tệ.

174

Sau đó, Hai Cợp còn đi cướp của, giết người khắp nơi. Vợ thì hành hạ mẹ

chồng, tuổi bà đã cao mà vẫn bị bắt ra đồng làm ruộng. Hai vợ chồng Hai Cợp cứ

thế mà tranh cướp của nhà chị dâu và của dân làng rồi ăn chơi phung phí. Đến khi

tai nạn xảy đến, nhà cửa họ tiêu tan, Hai Cợp phải dẫn vợ con sống tạm ở căn chòi

nhỏ ven sông và hằng ngày đi xin ăn, nhưng đến đâu cũng bị người ta khinh khi,

đánh đuổi. Cuộc sống khổ sở, lây lất nhiều năm, cuối cùng cả hai vợ chồng chết

trong đói khát, bệnh tật mà không có chỗ chôn thân. Con cái còn sống thì khổ sở,

đói rét.

Trên tạp chí Viên âm có dành riêng cả một mục để đăng những câu chuyện

về nhân quả, với tiêu đề Chuyện về nhân quả. Như chuyện Đại vương và khỉ chúa,

Người thợ may Bố thí, Lành gặp lành ác gặp ác, Hoàng tử A Xà Thế, Chết vì ác…

Các truyện tuy nội dung khác nhau, nhưng tựu trung đều xoay quanh vấn đề nhân

quả. Những ai sống với tâm hung ác, với hành động xấu thì phải gánh chịu kết quả

xấu, dù đến sớm hay muộn. Còn ngược lại, ai biết suy nghĩ, nói năng và làm điều

lành thì sẽ luôn được kết quả tốt đẹp trong cuộc sống.

Nói tóm lại, tìm hiểu nội dung chính yếu của một số tác phẩm văn xuôi tiêu

biểu trên báo chí Phật giáo trước 1945, cho thấy nội dung mà các nhà văn thể hiện

trong tác phẩm mang tính thiết thực và có ý nghĩa giáo dục sâu sắc. Một số tác

phẩm do tác giả thuật lại chuyện đã có, nhưng nhìn chung, nội dung các tác phẩm

đã cho ta thấy được sự đóng góp có ý nghĩa của báo chí Phật giáo lúc bấy giờ đối

ền văn với

học Việt Nam.

Giá trị nổi bật nhất mà những nội dung truyện để lại đã chỉ rõ con người là

chủ nhân của chính mình, chỉ cần tự mình phấn đấu nỗ lực và sống lương thiện,

nhất định sẽ có ngày vinh quang tươi sáng. Từ đó có thể hiểu đặc trưng hướng nội

của Phật giáo là giúp con người tự suy ngẫm về bản thân, cân nhắc các hành động

để không gây ra đau khổ, bất hạnh cho mình và người khác. Nó giúp con người biết

sống thân ái, yêu thương nhau và làm cho xã hội yên bình.

Những thể hiện như trên cho thấy các tác phẩm văn học trên báo chí Phật

giáo trước 1945 đã có sự thay đổi trong nội dung tác phẩm. Các câu chuyện đã

175

chuyển từ những đề tài luân lý đạo đức trung hiếu tiết nghĩa theo triết lý Nho giáo

sang triết lý Phật giáo. Điều đó chứng tỏ những sáng tác văn học trên báo chí Phật

giáo có sự gắn kết, gần gũi với cuộc sống đời thường của con người hơn.

Có thể nói, nội dung tác phẩm gần gũi với cuộc sống là một trong những

đóng góp đưa văn xuôi trung đại chuyển dần sang văn xuôi hiện đại. Tuy nhiên,

:

3.4. GIÁ TRỊ NGHỆ THUẬT CỦA THƠ VĂN TRÊN BÁO CHÍ PHẬT GIÁO

TRƢỚC 1945

3.4.1. Giá trị nghệ thuật của thơ

3.4.1.1. Thể thơ

Sau năm 1932, Thơ mới xuất hiện và tạo ra những cuộc tranh luận sôi nổi

với thơ cũ diễn ra từ Bắc đến Nam. Sự thích ứng linh hoạt của Thơ mới đã tạo ra

những chấn động không nhỏ trong đời sống văn học Việt Nam đầu thế kỉ XX. Dẫu

biết rằng, thể thơ thuần Việt như Song thất lục bát cũng như thơ Đường luật được

các nhà thơ thích dùng trong suốt thời kỳ văn học trung đại Việt Nam, nhưng sau

khi phong trào Thơ mới xuất hiện thì những thể thơ thuần Việt, thơ Đường luật

không còn được các nhà thơ sử dụng nhiều. Các tác phẩm thuộc những thể thơ này

ngày càng hiếm gặp, có lẽ một phần do những quy định về niêm luật phức tạp và

khó khăn của nó.

Tìm hiểu thơ ca trên báo chí Phật giáo, chúng ta thấy hầu như các tác giả vẫn

sử dụng các thể thơ truyền thống của dân tộc là chính. Thế giới nghệ thuật thơ luôn

tràn ngập hình ảnh con người và thiên nhiên Việt Nam gần gũi, thân quen, thể hiện

rõ tinh thần dân tộc, tình yêu quê hương đất nước. Các tác giả đã tiếp tục khai thác

thế mạnh của những thể thơ dân tộc từ xưa, như Lục bát, Song thất lục bát, hát nói.

Đặc biệt thơ Đường luật vẫn còn được sử dụng nhiều trên báo chí Phật giáo lúc bấy

giờ.

176

Chúng tôi đã thống kê số liệu các bài thơ được sáng tác bằng những thể thơ

khác nhau và đăng trên báo chí Phật giáo trước 1945 theo bảng biểu (xem thêm phụ

Tam bảo

Quan âm

Viên âm

Đuốc tuệ

lục 3):

THỂ THƠ

Tổng số

Tỷ lệ

Tiếng chuông sớm

Bát nhã âm

Từ bi âm

Pháp âm Phật học

3

1

14

10

5

0

0

0

33

14%

Lục bát

Duy tâm Phật học 0

1

1

2

4

5

4

4

0

0

21

9%

3

7

6

16

14

68

10

31

28

183

77%

7

7

6

20

16

84

14

46

37

Song thất lục bát Thất ngôn bát cú Tổng số

Như vậy, qua kết quả khảo sát 237 bài thơ được đăng trên báo chí Phật giáo

lúc bấy giờ, có thể thấy các tác phẩm được sáng tác theo thể thơ Đường luật chiếm

số lượng nhiều nhất, có đến 183 bài, chiếm 77%; thể thơ Lục bát có 33 bài, chiếm

14% và thể thơ Song thất lục bát chiếm số lượng ít nhất, chỉ có 21 bài, chiếm 9%.

Kết quả thống kê cho thấy những sáng tác thơ trên báo chí Phật giáo trước

1945 vẫn sử dụng những thể thơ truyền thống của nền văn học trung đại. Điều đó

cũng cho biết những sáng tác thơ nhằm phục vụ cho mục đích “tải đạo”, truyền

giảng giáo lý nhà Phật, khơi gợi và giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc nên không đặt

ra nhiệm vụ đổi mới thể loại thơ. Với mục đích tải đạo, những thể thơ truyền thống

gần gũi với nhân dân sẽ dễ đưa giáo lý Phật giáo đi vào lòng người hơn.

Trong ba thể thơ chính được sử dụng, đã cho thấy vai trò và vị trí của thể thơ

Đường luật trong đời sống văn học nghệ thuật nước ta những năm đầu TK.XX vẫn

chiếm phần quan trọng. Có lẽ do các tác giả là những người có tín tâm Phật giáo,

uyên thâm Hán học, nên chịu ảnh hưởng nhiều về thơ Đường luật. Đồng thời điều

đó cũng chứng tỏ rằng thể thơ này đã trở thành một thể thơ truyền thống, một thể

thơ của nền văn học Việt Nam. Ngoài ra, thể thơ Lục bát cũng được các nhà thơ vận

dụng nhiều, nhưng chủ yếu được dùng để chuyển dịch kinh điển, sám văn cho tín đồ

177

dễ đọc tụng. Có thể vì lối thơ này trong sáng, gần gũi với con người nhiều hơn, cho

nên sử dụng trong lúc đọc kinh sẽ dễ thấm vào lòng người đọc, giúp họ nhanh

chóng chuyển hóa tâm hồn theo con đường giác ngộ, giải thoát.

Trên báo chí Phật giáo trước 1945, các nhà thơ chỉ sử dụng 3 thể thơ truyền

thống: Lục bát, Song thất lục bát, Đường luật. Đây cũng là một cách để bảo tồn và

giữ gìn những giá trị truyền thống vốn có của nền văn học Việt Nam. Hơn nữa, thể

thức luật định của các thể thơ đã được vận dụng một cách linh hoạt, uyển chuyển

trong việc chuyển tải nội dung giáo lý Phật giáo. Các bài thơ không còn giữ nguyên

khuôn mẫu điển phạm mà ít nhiều đã bị phá vỡ quy phạm. Đây là những phá cách

góp phần chuẩn bị cho sự cách tân của thơ ca Việt Nam.

Nói chung, trong quá trình hiện đại hóa văn học, những thể thơ mới ít thấy

xuất hiện trên báo chí Phật giáo, chỉ thỉnh thoảng có một vài bài. Xét về mặt văn

học nghệ thuật, các nhà thơ đã vận dụng những thể thơ truyền thống, giúp chúng ta

hiểu được hồn thơ dân tộc và thơ Đường cổ điển như mạch suối ngầm trong mát

vẫn cuộn chảy theo thời gian. Hay nói cách khác, thơ ca trên báo chí Phật giáo là sự

hội tụ nhiều phẩm chất của thơ ca dân tộc, hầu như nghiêng về loại thơ có nội đung

khuyến thiện, trừng ác, xiển dương đạo lý, nặng chất răn đời mà ít chất thiền vị tinh

tế và sâu sắc.

3.4.1.2. Ngôn ngữ thơ

Các thể thơ chính được sử dụng trong những sáng tác trên báo chí Phật giáo

trước 1945 vẫn chủ yếu là các thể thơ truyền thống: Lục bát, Song thất lục bát,

Đường luật… cùng với mục đích chủ yếu là truyền tải đạo lý nhà Phật tới quần

chúng, cho nên thơ ca trên báo chí Phật giáo giai đoạn này không đặt nặng nhiệm vụ

đổi mới ngôn ngữ nghệ thuật. Ngôn ngữ thơ vẫn là thứ ngôn ngữ của nền văn học

cửa Khổng sân Trình vơi tính trang trọng, điển phạm, hàm súc, trang nhã. Nhưng

nói như thế không có nghĩa ngôn ngữ thơ hoàn toàn không có chút gì đổi mới.

Trong thời buổi giao thời dù muốn hay không những sáng tác thơ ca trên báo chí

Phật giáo trước 1945 vẫn có những thay đổi đáng kể, góp phần tích cực vào công

cuộc hiện đại hóa nền thơ ca Việt Nam. Đó là sự đời thường hóa ngôn ngữ, tính

điển cố điển tích không còn được coi trọng.

178

Với mục đích truyền bá Phật pháp nên những bài thơ được thể hiện trên báo

chí Phật giáo giai đoạn trước 1945 đậm đà tình dân tộc và đều chứa đựng những tư

tưởng, triết lý Phật giáo. Hầu như các tác giả dùng những cách nói, lối nói rất gần

gũi với cuộc sống, tuy nhiên sắc thái biểu cảm chưa được phong phú. Ngôn ngữ thơ

bình dị và được sử dụng linh hoạt nên dễ đi vào lòng người. Những phương tiện đó

góp phần đắc lực giúp chuyển tải những giáo lý cao sâu của nhà Phật đến với nhân

dân.

Các nhà thơ cũng đã có những sáng tạo trong ngôn ngữ, biết kết hợp giữa

thực và ảo, đồng thời vận dụng từ ngữ trừu tượng trong triết lý của Phật giáo để tạo

ra những câu thơ, hình tượng thơ giàu ý nghĩa và có giá trị biểu tượng, biểu cảm cao.

Tâm Bình đã cho thấy điều này qua bài Chơi núi Thiên Thai đăng trên Viên âm số 8:

“Vô minh giấc mộng nay vừa tỉnh

Ngồi đợi trăng lên, gió bốn bề.”

Có những bài thơ dùng ngôn ngữ bình dị, mộc mạc, vừa như lời giao kết, lại

vừa như một lời khuyên nhủ nhẹ nhàng: Trần thế còn nhiều gian khổ, chỉ có nhận

chân được bản chất của cuộc đời mà bỏ đi mọi ái nhiễm, tham lam, ích kỷ… trong

lòng thì đời sống mới bình an, thanh thoát hơn. Như Giác Nhiên thể hiện trong bài

Con thuyền bể khổ trên tạp chí Từ bi âm số 2:

“Bể khổ thuyền ai đắm sự đời

Trải bao sóng gió nghĩ thương ôi

Người đời mê mộng gây sầu não

Nước mắt đầy hơn nước bể khơi.”

Tác giả đã dùng biện pháp tu từ ẩn dụ, mượn hình ảnh “bể khổ” và “thuyền”

để ví cho cuộc đời và con người. Con người là chiếc thuyền cứ mãi lênh đênh trong

biển đời đau khổ mà không sao thoát khỏi được. Từ đó, tác giả tiếp tục sử dụng biện

pháp tu từ so sánh, để ví “nước mắt” con người còn nhiều hơn cả biển khơi. Với

những từ ngữ bình dị, gần gũi với ngôn ngữ trong dân gian: bể khổ, sóng gió, nước

mắt, bể khơi… bài thơ thất ngôn Đường luật của tác giả Giác Nhiên đã không còn là

179

thứ văn chương điển phạm, cao quý nữa mà như được tác giả dân gian sáng tác nên,

lời thơ gần gũi với cuộc sống và con người.

Có thể nói, nghệ thuật dùng ngôn từ, hình ảnh ẩn dụ, so sánh của Giác Nhiên

không có gì mới nhưng đã cho người đọc sự liên tưởng rộng, khiến người đọc cảm

nhận được triết lý của đạo Phật chứa đựng trong bài thơ và qua đó, tác giả cũng dễ

dàng bộc lộ lòng thương cảm sâu lắng, tha thiết hơn của mình đối với muôn người.

Với cách dùng ngôn ngữ, hình ảnh ẩn dụ, so sánh đó, những tác giả khác

cũng thể hiện được triết lý cao sâu của nhà Phật. Như Diệu Không đã so sánh, ví tất

cả sự vật trên đời chỉ là giấc mộng, tức là tác giả đã trừu tượng hóa các sự vật thành

một giấc mộng và điều này đã giúp cho người đọc dễ dàng hiểu được bản chất của

muôn sự vật là không tồn tại lâu dài:

“Cả thế sự như in giấc mộng

Khuất lần theo với bóng tà dương.”

Ở đây, tác giả đã dùng ngôn từ hình tượng để diễn tả sự vật và chính sự diễn

tả ấy đã làm cho lời thơ hàm chứa nhiều ý nghĩa hơn. Ngoài ra, tác giả còn vừa trừu

tượng hóa vừa cụ thể hóa muôn vật. Mới đưa cảnh vật vào giấc mộng thì liền trở về

cụ thể hóa sự vật như “bóng tà dương”. Dù bóng tà dương hay giấc mộng cũng đều

không bền vững, nhưng là hai trạng thái khác nhau, một bên có hình tướng và một

bên không có hình tướng. Nhờ nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ hình tượng của tác giả

ở hai câu thơ này đã nói lên ý nghĩa về sự vận hành của vạn vật.

Hai câu thơ với nghệ thuật diễn tả không có gì đặc sắc nhưng qua ngôn ngữ

hình tượng của nhà Phật đã gợi cho người đọc những chiêm nghiệm về thế sự nổi

trôi.

Tâm Bình với bài thơ Chơi núi Thiên Thai đăng trong Viên âm số 8 cũng cho

ta thấy rõ cuộc đời giả tạm bằng những ngôn ngữ thiết thực, đồng thời tác giả còn

sử dụng điển tích để nói đến sự vinh hoa phú quý ở đời:

“Thấy cuộc thua hơn đôi nấm đất

Thương đời danh lợi một nồi kê.”

180

Biết bao nhiêu cuộc tranh đấu hơn thua của con người, bao nhiêu danh vọng

trong đời người nhưng được tác giả dùng phép tu từ so sánh, cô đọng lại chỉ bằng

hình tượng “đôi nấm đất” và “một nồi kê”. Hình ảnh “một nồi kê” là tác giả đã vận

dụng điển tích “Giấc mộng kê vàng” để chỉ sự phú quý vinh hoa chẳng khác nào

một giấc mộng. Như vậy, qua hai câu thơ đó, chúng ta hiểu được ý tác giả muốn

cho con người thấy tất cả danh vọng, hơn thua trong đời dù có tốt xấu thế nào,

nhưng chung cuộc vẫn trở thành cát bụi, không có gì bền vững mãi mãi.

Bài thơ Biết huyễn phải tìm chơn của Bích Phong đăng trong Từ bi âm số 21

cũng cho ta thấy lẽ vô thường của cuộc đời qua nghệ thuật sử dụng ngôn từ rất đời

thường của tác giả. Bích Phong đã dùng phép so sánh ví sự giàu sang của con người

như “chòm mây bạc”, ví sự sống chết của con người như “khắc trống canh”:

“Giàu sang chẳng khác chòm mây bạc

Sống thác chưa đầy khắc trống canh.”

Hai hình ảnh so sánh ở hai câu thơ cho thấy tác giả đã chuyển từ quan sát

bằng thị giác sang cảm nhận bằng thính giác, tức là mới đưa chúng ta đi quan sát

chòm mây, lại nhanh chóng kéo ta về nghe tiếng trống canh thâu. Điều này chứng tỏ

tác giả đã sử dụng ngôn ngữ gợi sự liên tưởng và tạo hình tượng có phần nhạy bén.

Không những thế, sa môn Bảo Giám trong Tiếng chuông sớm số 1, bằng

phép tu từ ẩn dụ cũng đã chỉ cho con người thấy rõ cõi chúng ta đang sống chỉ là cõi

tạm bợ:

“Liễu rủ nhau về quê Tịnh độ

Thôi đừng ham trọ quán Sa bà.”

Cái hay của Bảo Giám là đã lồng ghép được ngôn ngữ Phật giáo vào trong

câu thơ với những từ “quê Tịnh độ”, “quán Sa bà”. Nhờ điều này, tác giả đã nhấn

mạnh cho ta thấy cõi đời con người đang sống chỉ là quán trọ và lúc chúng ta đang

sống là lúc tạm nghỉ chân thôi, không phải là cõi sống vĩnh hằng. Cho nên, chúng ta

đừng tham đắm vào cõi đời và đừng cố bám víu vào nó, vì càng bám víu sẽ càng

khổ đau. Chỉ có cảnh sống Tịnh độ, nơi an lành, thanh tịnh mới là quê hương đích

181

thực của con người. Tác giả là người biết vận dụng từ ngữ Phật giáo và hình tượng

chân thực, gần gũi để tạo nên câu thơ có tính nghệ thuật.

Cùng với lối dùng từ cụ thể hóa này, Nguyễn Thiện Chính cũng đã tạo nên

hai câu thơ bình dị:

“Điều lành là báu ta nên chuộng

Nếm thử mà xem vị ngọt ngon.”

“Điều lành” là không có hình tướng, không màu sắc, mùi vị, không thể nếm,

ngửi hay đụng chạm được, nhưng tác giả đã biết dùng phép tu từ cụ thể hóa để biến

vật trừu tượng thành vật có hình, có mùi vị. Rất thú vị ở chỗ là tác giả đã giúp con

người nếm được hương vị ngon ngọt của điều lành, điều tốt. Nghệ thuật sử dụng

ngôn ngữ trong thơ của tác giả đã tạo cho con người cảm giác như bước từ bóng tối

ra ánh sáng và thế là trước mắt họ, cả một bầu trời trong xanh, mát mẻ hiện ra thật

hấp dẫn và ấn tượng.

Ngoài ra, có những tác giả đã biết dùng ngôn ngữ giàu tính họa, tính nhạc,

tức là vừa giàu hình ảnh, sắc màu lại còn vừa giàu nhạc điệu, như Thanh Bảo đã

diễn tả:

“Phá sạch rừng mê vào chính ngộ

Xé tan lưới kiến rõ chân như.”

Hay như T.B viết:

“Chuông Tào, mõ Đẩu khêu hồn tục

Rừng cấm, giếng rồng ẩn bóng dương.”

Hoặc như Huyền Am ngân nga:

“Suối bạc kêu vang ngàn trượng đá

Non xanh lên thấu mấy tầng mây

Đàn chim như niệm câu kinh Phật

Ngọn gió xa đưa tiếng kệ Thầy.”

Ngôn ngữ những câu thơ trên đơn giản, gần gũi, hình tượng thơ thường là

những hình ảnh được lồng ghép giữa hình tượng trong ngôn từ Phật giáo và ngôn từ

182

dân gian, khiến các câu thơ không nặng tính điển phạm của thơ cổ. Nhờ sự kết hợp

hình ảnh ngôn ngữ như thế mà tính nhạc trong câu thơ mang đậm tính nhạc của các

thể thơ dân gian hơn, tạo nên sự gần gũi dễ hiểu cho đông đảo quần chúng khi tìm

hiểu giáo lý nhà Phật. Hình ảnh trong câu thơ là những hình ảnh gần gũi với cuộc

sống thường ngày của con người, nhưng cũng không vì thế mà câu thơ mất đi tính

hình tượng. Bởi chính những hình ảnh đó tạo nên tính hình tượng của câu thơ mang

hơi thở và cuộc sống của con người Việt Nam, truyền tải những giáo lý thâm sâu

của nhà Phật vào cuộc sống dân gian từ chính những hình tượng thân thương gần

gũi này.

Qua các biện pháp tu từ: so sánh, ẩn dụ, nhân hóa, tượng trưng… các nhà thơ

tạo nên những câu thơ giàu hình tượng, tính họa, tính nhạc khiến người đọc cảm

thấy như nhịp sống của cuộc đời đang an lành trước cảnh thiền môn, đưa con người

trở về với tâm thanh thản trong chính cuộc sống của mình. Đó cũng là những đóng

góp bước đầu của ngôn ngữ thơ ca trên báo chí Phật giáo trước 1945: đưa thơ ca và

ngôn từ của nó lại gần với cuộc sống của nhân dân và đi vào đời sống nhân dân.

Dòng văn học Thiền tông thế kỷ X - XIV, mà tiêu biểu là thơ Thiền Lý -

Trần đã khắc họa rất rõ nét hình tượng con người thâm ngộ triết lý Phật giáo. Con

người là yếu tố đầu tiên và có thể nói là hình ảnh chủ đạo trong thơ ca. Đến với thơ

Thiền, hình tượng con người được khám phá đầy bất ngờ và thú vị qua những bức

tranh về cuộc sống. Những tác phẩm như Cáo tật thị chúng (Mãn Giác), Ngư nhàn

(Dương Không Lộ), Thị đệ tử (Vạn Hạnh),... đã gửi gắm những quan điểm triết học,

nhân sinh quan và cái nhìn tinh tế, mĩ lệ về xã hội nói chung và con người đương

đại nói riêng. Nhờ thấm nhuần tư tưởng triết lý Phật giáo mà đa số các tác giả thơ

Thiền đều có chung quan niệm về con người, về sự hiện hữu - sinh diệt của đời

người. Họ cho rằng thân người được cấu thành và tồn tại bởi tứ đại và ngũ uẩn, nó

duyên sinh, vô ngã. Sự biến đổi vô thường là bản chất của cuộc sống con người với

đầy đủ các giai đoạn sống, từ tuổi ấu thơ, trưởng thành rồi đến già yếu và chết đi để

tiếp tục một cuộc đời mới, một kiếp sống mới. Cho nên có người cho rằng, thân con

người sống ở đời và chết đi trong đời cũng như chiếc áo, cũ tất phải thay, không có

183

gì phải hoang mang, sợ hãi. Điều này đã được các thiền sư nhắc đến rất nhiều, như

một lời cảnh báo đối với những người đang sống trong dòng đời biến diệt.

Kế thừa được tư tưởng, triết lý về hình ảnh thân người giả tạm từ thơ thiền,

Thanh Tâm cũng đã thể hiện được bài thơ Khuyên tu trên Viên âm số 8. Tuy tác giả

chưa tạo ra được những ngôn ngữ thơ đặc sắc như thơ thiền, nhưng với cách dùng

ngôn ngữ bình dị đã diễn tả được phần nào sự vô thường, giả huyễn của thân người:

“Trăm năm trong cõi người ta

Tấm thân mỏng mảnh suy ra có gì…”

Qua đó, với lối dùng ngôn ngữ chân chất, Trí Hải với bài thơ Có thân cần

phải tu đăng trên Đuốc tuệ số 68, cũng đã tỏ ra rất lạc quan khi nhìn thấu sự vô

thường, giả hợp của thân người:

“Nghĩ thân mà lại bật cười

Hỏi mày sinh ở cõi đời chi đây?”

Trên Từ bi âm số 26, HT. Bích Liên với lối dùng ngôn ngữ đời thường cũng

đã khẳng khái chỉ cho con người thấy rõ những ô uế, giả tạm trong thân người với

tinh thần tự tại:

“Người sanh trong cõi hồng trần

Ai ai đều cũng có thân đó mà

Đem trong thân ấy kể ra

Xương, da, máu, thịt, ruột già, ruột non.”

Những câu thơ trên cho chúng ta thấy, các tác giả cũng đã thể hiện được triết

lý Phật giáo trong nghệ thuật xây dựng hình tượng con người, tuy nhiên chất lượng

nghệ thuật chưa cao. Do đó, nếu nói về giá trị nghệ thuật sử dụng ngôn từ của thơ

văn trên báo chí Phật giáo trước 1945 thì quả thật chưa đáp ứng được nhu cầu

thưởng thức của độc giả. Tuy nhiên, với ngôn từ cô đọng, giản dị, các nhà thơ cũng

đã vẽ lên được bức tranh hiện thực về con người, khiến cho người đọc có cảm giác

như đang đối diện với cảnh thực và cảm thụ được tư tưởng gửi gắm của các nhà thơ.

Nhìn chung, nét đặc trưng trong phong cách nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ

của những bài thơ đã thể hiện trên báo chí Phật giáo lúc bấy giờ là giản dị, chân thật,

184

mang đậm màu sắc triết lý Phật giáo. Qua đó ta thấy khả năng sử dụng ngôn ngữ

nghệ thuật của các nhà thơ luôn thể hiện được sự kết hợp giữa đạo và đời. Thế giới

nội tâm của các nhà thơ không chỉ biểu hiện bằng ý nghĩa của từ ngữ mà bằng cả

âm thanh, nhịp điệu và hình tượng của những từ ngữ ấy. Mỗi từ mỗi câu được các

nhà thơ diễn tả đúng như những gì mà họ nhìn thấy và cảm nhận là sự vang vọng từ

tâm hồn thi nhân, điều đó cho thấy họ đã biểu hiện được sự tập trung tính hàm súc

của ngôn ngữ.

Nói tóm lại, những trang thơ trên báo chí Phật giáo hầu như xoay quanh các

chủ đề tu tập theo chính pháp và nêu lên triết lý sống theo con đường cao thượng,

sống tốt đẹp, mang lợi ích cho mình, cho người và cho cả dân tộc. Điều đó góp phần

không nhỏ trong công cuộc đem đạo vào đời và ngầm nhen nhúm tinh thần bảo vệ,

giữ gìn bờ cõi quê hương đất nước. Hầu như những dòng thơ đó được ra đời từ

những người học Phật và nhằm mục đích để minh họa, truyền tải triết lý Phật giáo

mà không đặt nặng vấn đề cách tân nghệ thuật. Cho nên, dù giá trị nghệ thuật chưa

cao, chưa mang đến cho người đọc những rung động thẩm mỹ trong thơ ca, nhưng

mỗi lời, mỗi ý, mỗi hình tượng và cả giọng điệu diễn tả đều mang tính chân thành,

chân chất, trong sáng và gần gũi với đời sống hằng ngày của con người.

3.4.2. Giá trị nghệ thuật của văn xuôi

Những đổi mới trong văn xuôi chính là sự cách tân trong nghệ thuật biểu

hiện. Tìm hiểu giá trị nghệ thuật của truyện ký, truyện ngắn, tiểu thuyết, tùy bút trên

báo chí Phật giáo trước 1945, trong chừng mực nào đó sẽ góp phần cho chúng ta

thấy cái nhìn toàn diện và sâu sắc về sự cách tân trong văn học Việt Nam khi

chuyển từ hệ hình văn học trung đại sang hệ hình văn học hiện đại. Đặc biệt là

những sự thay đổi trong nghệ thuật xây dự ật cũng như kết cấu

và ngôn ngữ tác phẩm. Ngoài ra, việc tìm hiểu này có thể sẽ ít nhiều góp phần vào

việc nghiên cứu văn học trong giai đoạn giao thời ở nước ta.

3.4.2.1. Nghệ thuật xây dựng tính cách nhân vật

Nhân vật là hình thức cơ bản để miêu tả, chuyển tải hình tượng con người đi

vào văn chương. Tìm hiểu giá trị nghệ thuật xây dựng ngoại hình và tâm lý nhân vật

185

có thể giúp ta nắm bắt được tư tưởng của nhà văn, bởi nhân vật là yếu tố để nhà văn

bộc lộ chủ đề, tư tưởng của tác phẩm. Đồng thời qua nhân vật, nhà văn muốn bày tỏ

những quan niệm, suy tư trăn trở của mình trước thế sự, trước cuộc đời, để từ đó

giúp chúng ta nhận ra nhân sinh quan của thời đại mà nhà văn đang sống.

Qua việc tìm hiểu những tiểu thuyết, truyện ngắn trên báo chí Phật giáo trước

1945, ta có thể thấy hầu như các tác giả đều có chung một điểm về phong cách xây

dựng ngoại hình nhân vật. Tác giả nào cũng xây dựng nhân vật theo quan niệm

“thiện” và “ác”. Đây là sự tiếp nối của văn học truyền thống khi nhà văn xây dựng

những nhân vật theo quan niệm “bao” và “biếm”.

Cô gái tên Quỳnh Liên trong tiểu thuyết Tu là cội phước, tình là dây oan, đã

được tác giả dùng những từ ngữ xây dựng ngoại hình theo quan niệm truyền thống

trưng khi so sánh với nét đẹp của thiên nhiên: “Xuân

xanh xấp xỉ vừa tuần cập kê, dung mạo đoan trang, phong tư yểu điệu, mắt ngời

sóng biếc, mày uốn vòng nga, nước tóc pha mây, màu da ánh tuyết, thật là một vị

tuyệt sắc trên đời, tưởng lại các hàng tiên nữ trong cung quỳnh, điện quế cũng

không thể sánh cho được”.

Cũng với cách xây dựng ngoại hình nhân vật như vậy, tác giả Chánh Niệm

trong tiểu thuyết Duyên trước tình sau đã khiến cho người đọc không khỏi ngơ ngẩn

trước sắc đẹp của nàng Thiều Hoa: “Hai ông bà sanh một gái tên là Thiều Hoa, tuổi

vừa mười tám, dung mạo phương phi, mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da,

mày tầm mắt phụng, miệng cười như hoa mùa xuân, thiệt là sắc nước hương trời,

trên đời có một, dưới thế không hai”.

Với tiểu thuyết Hiếu nghĩa cảm Phật, Liên Tôn dẫu có chút thực tế ngay từ

lối miêu tả ban đầu, nhưng rồi tác giả cũng mượn cách ẩn dụ bóng bẩy của thơ, văn

vần để nhấn mạnh vẻ đẹp ngoại hình của nhân vật mình muốn đề cập: “Một bữa kia,

Phan Quí đến chùa thắp hương cúng nguyện, mới bước ra thì chợt thấy một nàng

ước độ tròn trăng, dung nhan đẹp đẽ, tay dắt một đứa em nhỏ, ở ngoài ngõ chùa đi

vô. Hai người vừa gặp nhau đều dừng chân đứng lại mà nhìn, xem tuồng như có túc

duyên đâu kiếp trước, khiến người quốc sắc, kẻ thiên tài, tình trong như đã mặt

ngoài còn e”.

186

Chánh Trí qua tiểu thuyết Biển ái sóng dồi đăng trên Viên âm số 1 thì xây

dựng nhân vật một cô gái tên Phương Tâm, nhân vật chính trong truyện theo lối văn

bóng bẩy. Tác giả diễn tả nét đẹp ngoại hình của cô gái bằng cách kết hợp với vẻ

đẹp của thiên nhiên, nên đã làm cho nét đẹp của cô càng rực rỡ như một tuyệt sắc

giai nhân: “Một buổi sáng kia, thoạt thấy một nàng thiếu nữ đứng cạnh chậu hường,

tay nưng gò má dường như suy nghĩ nhiều lắm. Mặt trời mới mọc, ánh sáng chen

lên đầu trúc, soi vào mặt nàng, da tuyết ửng hồng, rõ ràng một cành hoa biết nói.

Nàng nhẹ tay ngắt một hoa hường, đôi tròng thu thủy ngó chăm”.

Quả thật, lối diễn tả ngoại hình nhân vật trong những tiểu thuyết ấy, khiến

người đọc thấy thích thú. Trong cuộc sống, có lẽ ai cũng thích ngoại hình đẹp, hễ

khi nghe đến sắc đẹp tuyệt trần của một người nào đó, hầu như ai cũng muốn ngắm

nhìn. Điều đó cho thấy các nhà văn vẫn sử dụng lối văn truyền thống, cách miêu tả

ước lệ truyền thống để xây dựng ngoại hình nhân vật. Lối miêu tả này rất phù hợp

với quan niệm phân tuyến nhân vật thành hai bên thiện ác, cũng phù hợp với việc

thể hiện thuyết nhân quả của nhà Phật.

Tìm hiểu ngòi bút miêu tả tâm lý nhân vật của Liên Tôn trong tiểu thuyết Tu

là cội phước, tình là dây oan, cho thấy tác giả đã chú ý đến việc miêu tả, phân tích

tâm lý nhân vật theo cách đối nghịch tâm lý. Nàng Quỳnh Liên là người đi kén

chồng, trải qua nhiều cuộc tranh tài giữa các chàng trai, nàng mới chọn được người

xứng đáng, thích hợp với điều kiện nàng đưa ra. Trong hoàn cảnh này, đúng ra nàng

sẽ rất vui mừng vì đã tìm được người chồng vừa ý. Nhưng trong tiểu thuyết, tác giả

đã đặt tâm lý nhân vật Quỳnh Liên trong một hoàn cảnh khác, với một tâm trạng

đau buồn, không chịu nổi cảnh ấy, nên nàng chỉ gắng gượng làm vui. Tâm trạng

nàng lúc này đối nghịch hoàn toàn với Mã Sanh, là chàng trai vừa thực hiện đúng

như yêu cầu nàng đề ra trước khi cầu hôn nàng: “Mã Sanh lúc này mắt xem như

gương tinh, giọng cười như sóng sắc, chàng mừng đặng nhân duyên đẹp đẽ và lấy

làm một cái kỳ ngộ xưa nay ít có, nên cảm thấy hân hạnh vô cùng”. Nàng Quỳnh

Liên thì ngược lại: “Còn phần nàng Quỳnh Liên thấy vậy thì thêm đau đớn lòng,

không kham nổi cái tình cảnh ấy, nhưng nàng gắng gượng làm vui, không cho Mã

Sanh rõ thấu”.

187

Cách miêu tả tâm lý nhân vật của Liên Tôn trong tác phẩm này đã tạo cho

độc giả những thắc mắc. Xét theo quan niệm lối miêu tả truyền thống thì ở đây tác

giả đã miêu tả được sâu hơn tâm lý nhân vật, tạo cho nhân vật sự sống động chân

thực hơn.

Gần với phong cách miêu tả tâm lý nhân vật kiểu đối nghịch đó, có tác giả

Chánh Niệm qua tiểu thuyết Duyên trước tình sau. Trước hết tác giả kể về sự kết

duyên vui vẻ của đôi vợ chồng trẻ là chàng Vương Hi và nàng Thiều Hoa, nhưng

kinh qua luật vô thường chuyển biến trong cuộc sống, chỉ trong thời gian ngắn ngủi

mà cha mẹ hai bên của họ đều qua đời. Tình cảnh đó, khiến tâm trạng Vương Hi

thay đổi hoàn toàn. Từ một người đang vui vẻ trong hạnh phúc lứa đôi vừa có được,

chàng đã trở nên chán ngán tột cùng tình cảm ở đời, bởi chàng đã thấy rõ chân lý

sanh, lão, bệnh, tử diễn ra thật nhanh ngay trước mắt mình. Thế là chàng dứt bỏ hẳn

mọi ràng buộc tình ái ngoài thế gian để đi tìm lối sống tự tại, giải thoát: “Ôi! Là

sanh, lão, bịnh, tử này làm cho con người khổ biết mấy! phải làm sao mà tránh bốn

cái khổ ấy đặng? Phải tu hành làm gốc, tìm cho ra bốn mối khổ đế thì mới mong

thoát cái kiếp luân hồi lọc dọc, chớ ràng buộc bốn món lạc trần hoài thì còn nhiễu

nhương đến kiếp nào?”.

Tự mình giải thoát được khổ lụy rồi, nhưng khi thấy nàng Thiều Hoa còn lưu

luyến về tình duyên giả tạm ở đời, Vương Hi thấy thương xót vô cùng nên đã hết

lòng khuyến dẫn nàng thoát khỏi những khổ sầu ấy: “Lập tức chàng viết thơ chỉ bày

các điều khốn đốn trần ai đặng khuyên nàng tưởng đến việc trừng tâm thanh tịnh,

không nên ràng buộc dây tình ái cõi hồng trần, mau chóng như bóng phù du, như

thoi đưa, như chớp nhoáng, mới thấy đó rồi liền mất đó”.

Ngoài ra, các tác giả xây dựng nhân vật với cách miêu tả tâm lý còn khá đơn

giản qua sự thay đổi tâm lý nhân vật rất nhanh. Không cần trải qua nhiều thời gian,

sự kiện mà chỉ cần nêu được vài dẫn dụ là có thể giúp đối phương thay đổi hoàn

toàn tâm lý. Sự đơn giản trong cách miêu tả tâm lý nhân vật như vậy là do bởi các

tác giả không đặt nặng vai trò nghệ thuật mà mục đích là “tải đạo”, truyền bá giáo lý

nhà Phật. Cũng từ lý do này mà đa phần các tác giả đã xây dựng nhân vật theo tư

tưởng chủ quan để giáo hóa con người, để khuyến thiện và trừng ác. Tuy nhiên, với

188

nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật đơn giản này càng cho thấy giáo lý nhà Phật có

tác dụng chuyển hóa tâm linh con người một cách nhanh chóng, giúp con người

mau thoát khỏi những khổ đau ràng buộc trong đời.

Trong tiểu thuyết Thế cũng là “ngộ đạo”, Đ.N.T xây dựng kiểu tâm lý nhân

vật ông Hàn Phú thay đổi từ tiêu cực đến tích cực một cách nhanh chóng nhờ sự tác

động trực tiếp của nhân vật thứ hai. Đây là kiểu xây dựng nhân vật khá phổ biến

trong văn xuôi trên báo chí Phật giáo trước 1945. Ông Hàn Phú là một người giàu

có nhất nhì trong tỉnh, luôn sống với ý niệm trọng giàu khinh nghèo, phân chia giai

cấp rõ rệt. Thế nhưng, với sự xuất hiện của Thọ - con trai của ông - là người học

rộng nghe nhiều và đặc biệt am hiểu giáo lý nhà Phật, đã biến ông từ một người tự

cao tự đại, khinh rẻ người nghèo trở thành một người biết sống với tâm bình đẳng,

thương yêu tất cả mọi người.

Khi ông Hàn Phú vừa nghe Thọ xin phép cho chị gái cưới Đức, người bạn

học nghèo nàn, sống bằng nghề may vá, ông đã biến sắc mặt la lối: “Ối trời ơi, chỗ

cao môn lệnh tộc như cậu cả con quan Hường trên tỉnh thì không bằng lòng, lại

muốn lấy cái thằng may nghèo rớt mồng tơi, con nhà bách tính ở đâu không biết,

mới trôi dạt đến chỗ đầu đường xó chợ làng mình như thế a? Chuyện này mà vỡ lở

ra, các quan Tham, quan Phán trên tỉnh biết thì thực là chúng mày bôi tro trát trấu

vào mặt tao”.

Đang trong cơn tức giận, nhưng khi nghe con trai nói về triết lý bình đẳng

của đạo Phật, ông đã nhanh chóng cảm thấu, tỏ thái độ bình thản, ôn tồn nói với con:

Ừ, Đức Phật Ngài tự khử cái tệ giai cấp đi cũng phải. Ở đời mà phân giai

cấp kém mình một phần thì kẻ ở giai cấp hơn mình, họ lại còn đè nén mình

gấp mấy kia. Như hôm nọ đánh tổ tôm trong huyện mình, hai hội không ù

ván nào, hội thứ ba mới được ván bài tốt, đáng lẽ phỗng thành thì họ hạ

ngay phu xuống ăn mà nói trèn mình đi, bảo mình là nói đùa. Bấy giờ nói

ra thì sinh hiềm khích mà nín đi thì tức chết đi được. Thôi bắt chước Phật,

ta tự xóa cái tệ tục giai cấp đi trước.

189

Ở đây, nhân vật ông Hàn Phú cũng thể hiện thái độ của tác giả: Mượn hình

ảnh ông Hàn Phú để gửi gắm khát vọng con người có tinh thần tương thân tương ái,

tôn trọng lẫn nhau giữa cuộc sống loài người. Tác giả đã trực tiếp phân tích tâm lý

và có dẫn chứng cụ thể, chứ không phải chỉ là lời nói suông. Ông Hàn Phú thay đổi

thái độ sống không phải chỉ nghe theo lời giải thích của con cái mà còn ứng dụng lý

thuyết ấy với những gì xảy ra trong thực tế cuộc sống. Từ đó giúp ông hiểu rõ lẽ

thật ở đời, thấy rõ chân lý chắc thật để xây dựng cuộc sống hạnh phúc là xóa bỏ giai

cấp, con người bình đẳng với nhau trong thể tính.

Cô Ba Liễu trong truyện Cô Ba Liễu của Châu Hải viết trong Viên âm số 4

cũng được tác giả xây dựng theo tiến trình tâm lý từ tiêu cực thành tích cực, qua sự

trợ giúp của nhân vật thứ hai là Giác Hoa. Cô Ba Liễu đang sầu khổ về chuyện tình

cảm của mình: “Trong phòng khách chưng dọn theo kiểu mới, cô Ba Liễu đương

ngồi châu mày ủ mặt, tay nưng gò má ra dáng buồn bã, vừa nghe có tiếng đàn bà

kêu cửa, cô mời vào”. Dù tâm trạng buồn não nuột, nhưng khi gặp Giác Hoa, cô vẫn

cố che giấu nỗi buồn của mình: “Em sống một cách vui vẻ thế nầy, sao chị lại nói

em sống khổ?”. Tuy nhiên, khi Giác Hoa chỉ đúng nỗi khổ và nói với vẻ tha thiết:

“Em Liễu, em chớ dối chị, chị thương xót em vô hạn, vì trong khi em giả lả gượng

vui, chị đã thấy rõ em đương bị con ma phiền não cắt từng đoạn ruột”, thì Ba Liễu

đã khóc òa, bày tỏ hết nỗi lòng của mình: “Chị ôi, bực bội thế này, chắc em phải

chết, không còn thấy mặt chị được nữa!”.

Cô Ba Liễu đang trong tâm trạng sầu khổ lâu ngày như thế, nhưng vừa nghe

những lời khuyên nhủ của Giác Hoa, đặc biệt khi nghe Giác Hoa nói về việc tạo

dựng hạnh phúc gia đình không phải do tiền bạc quyết định, cô thấu hiểu được chân

lý cuộc sống và không còn buồn phiền nữa: “Cô Ba Liễu nghe lời, liền lên xe đi tìm

gặp được ông Trúc, cô ta xin lỗi và rước về nhà trò chuyện”.

Dẫu tiến trình tâm lý của nhân vật Ba Liễu được tác giả xây dựng theo lối

tăng dần, tức là từ xấu thành tốt, nhưng vì tình tiết quá đơn giản, không phong phú

nên không tạo sức hấp dẫn mạnh mẽ đối với người đọc. Tuy nhiên, dù thế nào thì

tác phẩm cũng thể hiện được lối tâm lý nhân vật theo chiều hướng đạo đức và gửi

gắm sự giáo dục cụ thể đến với những ai muốn xây dựng gia đình hạnh phúc.

190

Kim Xuân qua tiểu thuyết Dưới chơn Phật tuy cũng theo lối chuyển đổi tâm

lý từ tiêu cực thành tích cực, nhưng có một vài điểm khác hơn những tác phẩm trên.

Tác giả nhấn mạnh tâm lý hai nhân vật là vợ chồng ông bà quan Phủ Minh Huệ, đặc

biệt là tâm trạng ưu tư, lo lắng của bà Phủ đối với chồng. Vì thấy ông Phủ làm

những chuyện trái đạo lý làm người, nên bà buồn rầu, tìm cách giảng giải về nhân

duyên nghiệp quả ở đời cho chồng biết, mong ông hiểu thấu tội phước gây tạo mà

sửa sai, để sống tốt hơn. Và đúng là bà Phủ đã khuyên giải, luận bàn về đạo lý rất

hay, khiến ông Phủ càng nghe càng thấm thía: “Bà luận đạo thiệt hay, khiến cho

ông càng nghe càng vui mà quên phức việc buồn... Hai ông bà đàm đạo rất lâu, cho

tới ba giờ khuya mới chịu tắt đèn đi nghỉ”.

Khi ông Phủ đã hiểu rõ mọi lẽ rồi thì thật nhanh chóng, ông liền sửa đổi tính

xấu của mình và biết sống tốt hơn:

Không biết ông Phủ nghĩ sao mà từ đó về sau, ông chăm chú về việc tu

hành. Ông không hiếp đáp dân nữa mà lại còn dìu dắt con dân vào đường

đạo đức rất nhiều. Ông hay giúp tiền cho các hội phước thiện và xuất bạc

tu kiều bồi lộ các nơi. Chùa nào hư thì ông cũng sửa sang lại cho thiện

nam tín nữ tu hành. Người nào có công dịch kinh sách mà không tiền thì

ông cũng sẵn lòng giúp của cho ấn tống. Không đầy hai năm mà ông làm

được nhiều việc nghĩa lớn, xa gần đều biết tiếng ông là nhà đại đức.

Đặc biệt, đứa con trai tên Minh Thành của ông bà Phủ cũng chịu ảnh hưởng

cách sống nhân nghĩa, đạo đức của họ mà thay đổi hoàn toàn lối sống của mình,

chuyển từ một đứa con ăn chơi lêu lổng, bất hiếu với cha mẹ trở thành một người

con ngoan hiền, hiếu nghĩa: “Minh Thành thấy cha mẹ như vậy cũng biết hồi tâm,

không thả luống chơi bời nữa, lại ở nhà chung lo việc phước thiện cùng cha mẹ”.

Chỉ với sự chuyên tâm khuyên giải về nhân nghĩa, đạo đức của người vợ mà

thay đổi được cách sống của chồng một cách nhanh chóng. Rồi từ đó tiếp tục tạo

được ảnh hưởng mạnh mẽ lên người con. Đây chính là kiểu tác động tâm lý lây lan,

thể hiện cụ thể qua cách sống của con người thực tại. Sự đơn giản trong lối miêu tả

tâm lý nhân vật này cũng dễ dàng tạo được sự đồng cảm của người đọc.

191

Trở lại với tác giả Liên Tôn qua tiểu thuyết Hiếu nghĩa cảm Phật, tác giả vẫn

miêu tả tâm lý nhân vật theo quan niệm truyền thống qua nhân vật Phan Quý và

nhiều nhân vật khác có liên quan mật thiết với Phan Quý. Khi Phan Quý nghe mẹ

nuôi nổi giận, mắng về chuyện không chịu cưới vợ để nối giòng giống, lòng Phan

Quý thấy buồn vô hạn: “Chàng ở nhà, phần thì nhớ đức cù lao, phần thì nghĩ duyên

hội ngộ, ngổn ngang trăm mối bên lòng, thảm khôn xiết thảm, buồn khôn xiết buồn”.

Đến nhân vật bà Lý Thị, cũng không khác gì: “Nói đến chuyện bà Lý Thị là

mẹ ruột của Phan Quý. Từ khi sai chàng đi thăm ông Huyện em, đã lâu mà không

thấy về, bà hằng ngày lo sợ, thắp hương cầu nguyện Phật Quán Âm, xin cho mẹ con

gặp nhau. Bà đương trông đứng trông ngồi, khóc lên khóc xuống”.

Phần nàng Bích Hà thì quả là quá tội nghiệp:

Lúc nầy, nói đến việc nàng Bích Hà, từ khi gặp chàng Phan Quý tại chùa

Hưng Duyên, rồi về nhà cách ít bữa thì cha nàng lâm bịnh mà mạng chung,

làm cho nàng rất thương xót buồn rầu. Vả lại tin tức của chàng càng ngày

càng vắn, khiến nàng phải thương mây nhớ gió, mặt võ mình gầy, đã hơn

một năm mà cũng chưa khuây. Còn mấy nhà công tử trông thấy nhan sắc

của nàng thì ai cũng cậy mai cậy mối tới nói. Mẹ nàng thì muốn gả cho rồi,

nhưng nàng cứ khóc hoài, nhứt định không ưng ai hết.

Lối xây dựng tâm lý nhân vật này của tác giả Liên Tôn có thể khiến cho

người đọc dễ hiểu hơn về tình tiết câu chuyện. Bởi đây là những nhân vật chính và

họ có mối quan hệ khắng khít qua những sự kiện, biến đổi. Tác giả đã diễn tả một

cách thấu đáo và bi thảm về những lo lắng, khổ đau giữa các nhân vật ấy qua hoàn

cảnh “thương yêu mà phải xa lìa và xa lìa mà không biết người thương đi về đâu”.

Lối diễn tả này tạo cho người đọc sự đồng cảm với cảnh ngộ nhân vật và mong

muốn cho họ mau chóng tương phùng. Điều đó cho thấy tư tưởng nhân đạo đã được

tác giả thể hiện rõ qua tình tiết câu chuyện.

Tìm hiểu nghệ thuật xây dựng ngoại hình và tâm lý nhân vật của một vài tác

phẩm tiêu biểu trên báo chí Phật giáo, đã cho ta thấy được sự miêu tả ngoại hình và

khai thác tâm lý nhân vật của các nhà văn vẫn theo lối truyền thống. Những diễn

192

biến tốt đẹp của tâm lý nhân vật truyền thống đã chuyển tải được thông điệp của

giáo lý nhà Phật tới đông đảo quần chúng nhân dân. Qua đó, còn giúp ta hiểu được

những nhà văn thời bấy giờ hay nghiêng về tâm lý nhân vật chân thực và sống trong

hoàn cảnh cụ thể, bởi mỗi nhân vật đều lộ rõ bản chất và nhân cách của mình. Diễn

biến tâm lý nhân vật đôi lúc đã có chút phức tạp, mang tính bi kịch được thể hiện

hợp lý, nhưng nhìn chung, các nhân vật vẫn chưa có những thay đổi lớn. Có lẽ vì

vậy mà những tác phẩm văn xuôi trên báo chí Phật giáo trước 1945 ít tạo ra được

những chi tiết bất ngờ giàu sức thu hút để làm thỏa mãn rung động thẩm mỹ của

người đọc. Tính minh họa cho giáo lý nhà Phật của các nhân vật vẫn còn đậm nét.

Chính điều đó lại khiến cho các nhân vật càng gần gũi và dễ đi vào đời sống người

đọc bình dân để truyền tải những giáo lý nhà Phật hơn.

Tuy nhiên, môi trường sống của nhân vật không còn chỉ đơn thuần tồn tại

trong trung hiếu tiết nghĩa mà đã gắn bó, gần gũi với cuộc sống hằng ngày. Nhân

vật bước đầu đã chuyển từ những biểu tượng đơn thuần để trở thành những nhân vật

sống động. Đây là một trong những đóng góp cho sự đổi mới của văn xuôi Việt

Nam. Đồng thời nó còn góp phần mở ra thời kỳ mới cho thể loại truyện trong văn

học nước ta những năm đầu TK.XX và sau này.

3.4.2.2. Kết cấu tác phẩm

Mỗi một tác phẩm văn học, dù dung lượng lớn hay nhỏ cũng đều bao gồm

nhiều yếu tố, bộ phận... Tất cả những yếu tố, bộ phận đó được nhà văn sắp xếp, tổ

chức theo một trật tự, hệ thống nào đó nhằm biểu hiện một nội dung nghệ thuật nhất

định, gọi là kết cấu. Nói cách khác, kết cấu là toàn bộ tổ chức nghệ thuật sinh động,

phức tạp của tác phẩm văn học [48, tr.315].

Kết cấu có nhiệm vụ góp phần thể hiện chủ đề và tư tưởng của tác phẩm. Kết

cấu có nhiệm vụ tổ chức hệ thống các tính cách nhân vật, sự kiện, các biến cố, hình

ảnh, cảm xúc... làm cho những yếu tố đó gắn bó chặt chẽ, tác động qua lại ngay từ

bên trong tác phẩm, làm cho nó trở thành một chỉnh thể nghệ thuật toàn vẹn không

thể chia cắt được [48, tr.315].

193

Như vậy, tìm hiểu kết cấu tác phẩm của những tác phẩm tiêu biểu trên báo

chí Phật giáo, chúng ta có thể biết được những quan điểm, thái độ, tư tưởng, phong

cách nghệ thuật, cá tính sáng tạo của nhà văn đối với cuộc sống lúc bấy giờ. Qua đó

ta cũng thấy được sự biến đổi trong việc xây dựng kết cấu tác phẩm.

Có thể nói, những truyện ngắn, tiểu thuyết đã khảo sát ở trên,

tác phẩm được xây dựng theo kết cấu hai tuyến nhân vật đối lập, nhưng nói chung

đều gặp nhau ở phương diện kết cấu theo trình tự thời gian của sự kiện - tức là nghệ

thuật trần thuật luôn tuân thủ theo trình tự diễn tiến tự nhiên của thời gian tuyến tính,

đi từ “nhân” tới “quả”. Ðây là dạng kết cấu phổ biến nhất trong văn học Việt Nam

từ trước 1930. Điều này cho thấy những tác phẩm văn xuôi trên báo chí Phật giáo

lúc bấy giờ vẫn còn chịu ảnh hưởng của thi pháp truyện ngắn trung đại - kiểu kết

cấu gắn bó chặt chẽ với nhiều sự kiện, biến cố.

Với tiểu thuyết Tu là cội phước, tình là dây oan, tác giả đã xây dựng tác

phẩm theo kết cấu hai tuyến nhân vật đối lập và mang đậm triết lý nhà Phật. Nhân

vật nàng Quỳnh Liên thì ngán ngẩm tình cảm ở đời, chỉ xem việc tu hành mới là tạo

ra phúc quả cho cuộc đời. Còn Mã Sanh thì một mực muốn kết hôn cùng nàng để

xây dựng hạnh phúc lứa đôi. Kết quả là hạnh phúc không thành. Qua đó tác giả

nhấn mạnh chỉ có con đường tu tập theo điều lành mới đem lại an vui vĩnh cửu. Đọc

qua tiêu đề tác phẩm, chúng ta cũng thấy rõ hai tâm trạng, tính cách đối lập nhau

thật rõ ràng.

Về nghệ thuật xây dựng kết cấu tác phẩm theo hai tuyến nhân vật đối lập còn

có tiểu thuyết Duyên trước tình sau. Chàng Vương Hi và nàng Thiều Hoa ban đầu

đối lập về tư tưởng. Vương Hi thì từ bỏ chuyện tình duyên để vào núi ẩn tu, nhưng

Thiều Hoa vẫn còn tham đắm tình duyên nên tìm mọi cách khuyên chàng quay về lo

việc gia đình, hưởng bổng lộc cao sang. Thế nhưng chàng đã cảm hóa được Thiều

Hoa, giúp nàng hiểu rõ mọi sự giả huyễn ở đời và tìm nơi tu học. Cuối cùng họ đều

thành tựu đạo quả. Kiểu kết thúc có hậu này chính là nét đặc thù trong giáo lý nhà

Phật, những người biết phát tâm tu hành, mong cầu giải thoát.

với kiểu xây dựng kết cấu tác phẩm này, tiểu thuyết Sám hối được

sanh về Thiên đường được tác giả xoay quanh hai tuyến nhân vật đối lập - đối lập

194

triệt để do sự thù hận - đó là HT. Chí Công và Hoàng hậu Hi Thị. Câu chuyện

ra với những tình tiết rất hấp dẫn giữa hai nhân vật này. HT. Chí Công luôn làm

điều tốt, nhưng thường xuyên bị kẻ đối lập là hoàng hậu Hi Thị tìm cách phá hoại

và hại ông đủ điều. Đến khi hoàng hậu chết, đọa làm thân rắn mãng xà khổ sở

mới biết ăn năn, hối cải về những tội ác mình đã tạo. Lúc bấy giờ, nhân vật chính

diện là Hòa thượng đã giúp bà thoát khổ.

Truyện ngắn Làm lành đặng phước, làm dữ bị họa cũng được tác giả xây

dựng theo kết cấu hai tuyến nhân vật đối lập là Lê Háo Kỳ và Vương Ái Nhơn.

Nhưng ở đây, nhân vật chính diện là Vương Ái Nhơn nhờ biết làm điều lành nên

được Bồ tát Quán Âm độ mạng.

Kẻ phản diện là Lê Háo Kỳ vì tham lam, ác độc nên đã không đỗ khoa thi mà

còn mắc bệnh nặng và bị sóng gió cuốn mất xác. Như vậy, tác phẩm này cũng tổ

chức kết cấu như những tác phẩm trên, nhưng tình tiết xảy ra không giống nhau và

kết thúc theo hướng khác. Tác giả đã để tác phẩm kết thúc theo kiểu người làm lành

thì được hạnh phúc, còn kẻ làm ác thì chịu tủi nhục, khổ đau mà không tạo cơ hội

cho kẻ ác được sám hối tội lỗi.

Tiểu thuyết Thế cũng là “ngộ đạo” được tác giả xây dựng theo kết cấu đảo

ngược thời gian của sự kiện, tức là nghệ thuật trần thuật không tuân thủ trình tự diễn

tiến của cốt truyện tự nhiên theo thời gian tuyến tính, đi từ nhân đến quả như kiểu

thi pháp trung đại. Tác phẩm này đã bắt đầu ở phần kết thúc của câu chuyện, bằng

cách mở đầu không nói đến nguyên nhân từ đâu có đám cưới giữa Đức và Tâm mà

đi thẳng đến kết quả là kể về đám cưới linh đình của đôi nam nữ này. Sau đó, khi có

nhiều người bán tán xôn xao về sự kiện này, tác giả mới trở về nói rõ nguyên nhân

của câu chuyện:

Đẹt đẹt, đùng! Lẹt đẹt đẹt, đùng! A ha ha đám cưới, đám cưới rước dâu cô

Tâm con gái cụ Hàn lấy người thợ khâu máy ngoài phố huyện. Đó là tiếng

lũ trẻ con làng Tôn Ninh nghe tiếng pháo nổ ở đám cưới, chúng hò reo để

gọi nhau đi xem. Kế đó trẻ con, người lớn, đàn ông, đàn bà trong làng

ngoài phố kéo nhau ra xem đám cưới rước dâu đông lắm, vì người ta thấy

đám cưới này có một điều lạ lạ, bên nhà gái thì rất sang giàu, bên nhà trai

195

thì nghèo hèn mà đột nhiên lại sẩy ra ngay ở giữa một cái nhà gái mà

người ta không ngờ có thể có được…

Bọn người đi xem rước dâu, thấy phong dạng người hai họ chênh lệch

nhau xa như thế, nên người bàn đi, kẻ tán lại nhao nhao… Trong bọn đi

xem có người biết chuyện bèn nói to lên để trả lời câu nghi vấn của công

chúng… Bà con nghe thấy đầu đề một câu chuyện hay nên ai cũng muốn

nghe, xúm xít lại hỏi. Anh biết chuyện ấy bèn thuật lại đầu đuôi thế

này…”

Lối xây dựng kết cấu tác phẩm đảo ngược thời gian của sự kiện như tiểu

thuyết Thế cũng là “ngộ đạo” là một hình thức mà một số tiểu thuyết đầu

TK.XX đã thể hiện.

Với tiểu thuyết Dưới Chơn Phật, tác giả đã xây dựng tác phẩm theo kết cấu

trình tự thời gian. Dù tác phẩm chỉ xoay quanh ba nhân vật chính trong gia đình

quan Phủ Minh Huệ, nhưng đã vẽ lên một bức tranh xã hội rộng lớn gồm nhiều

hạng người và đã khai thác được nhiều mặt khác nhau của đời sống. Quan Phủ thì

tham ô, làm việc không liêm chánh. Bà Phủ là người hiền lành, biết tu nhân tích đức,

không đua chen, đua đòi theo những người giàu có khác. Con trai Minh Thành lại

hư hỏng, không ra gì. Đó là ba trong những kiểu người trong xã hội đương thời.

Tuy nhiên, với kết cấu này, tác giả đã để cho nhân vật nhân hậu là bà Phủ cảm hóa

được quan Phủ, khiến ông thấu hiểu triết lý đạo đức của Phật giáo và từ đó quyết

chí làm một vị quan thanh liêm, thương yêu giúp đỡ mọi người. Về sau được mọi

người cảm ơn mến đức, tiếng lành đồn xa. Nhờ đó mà con trai của họ cũng cảm

phục nhân đức cha mẹ mà hồi tâm chuyển ý, sống làm người tốt.

Tiểu thuyết Hiếu nghĩa cảm Phật cũng được tác giả xây dựng theo kết cấu

trình tự thời gian. Tác phẩm này xoay quanh một số nhân vật và

theo thời gian.

Trước hết, câu chuyện đề cập chi tiết về chàng thanh niên tên là Phan Quý và

những biến cố xảy ra trong cuộc đời chàng. Tiếp theo là sự xuất hiện của một bà lão

được Phan Quý mua về làm mẹ nuôi. Kế đó, tác giả kể về những tình tiết của nàng

196

Bích Hà và mẹ của Phan Quý. Kết quả, nhờ sự trợ giúp của bà lão mà cả ba người

được gặp nhau trong niềm vui đoàn tụ. Nhân vật cuối cùng xuất hiện để kết thúc câu

chuyện là Bồ tát Quán Âm.

Theo kết cấu này, các nhân vật được xuất hiện theo thứ tự phát triển trước

sau của thời gian, qua sự phân bố về mặt hành động và sự kiện của tác phẩm. Các

sự kiện được sắp xếp, xâu chuỗi lại và lần lượt xuất hiện không bị đứt quãng. Có thể

nói, tác giả sử dụng loại kết cấu này đã tạo cho người đọc một cảm giác nhẹ nhàng,

dễ chịu, giúp họ dễ theo dõi câu chuyện hơn.

Nhìn chung, đa phần các tác phẩm đều được những tác giả chọn giải pháp

kết thúc theo quan niệm ở hiền gặp lành, ở ác gặp khổ, lấy tình thương yêu muôn

người, tình nhân ái bao la làm gốc để vươn lên trong cuộc sống. Tuy nhiên, một số

tác phẩm kết thúc còn mở lối cho kẻ ác ăn năn chừa lỗi, chuyển xấu thành tốt. Như

lời kết của Kim Xuân trong tiểu thuyết Dưới chơn Phật: “Nhờ tận tâm thi hành đạo

đức, mà cảnh gia đình của quan Phủ Minh Huệ an vui.”

ững kết quả mà các nhân vật nhận được trong từng dạng kết

cấu tác phẩm, cho chúng ta thấy dân gian hóa Phật giáo không phải là làm cho Phật

giáo trở nên trần tục, mất đi nét siêu thoát vốn có, mà là đưa Phậ đời sống

con người, được nhìn ngắm qua lăng kính dân gian. Những kết quả tốt đẹp đến với

mỗi nhân vật trong mỗi truyện, giúp câu chuyện luôn diễn ra theo kiểu kết thúc có

hậu, đem đến sự thỏa mãn cho người đọc, đã cho thấy sự tiếp nối nghệ thuật kết cấu

tác phẩm theo quan niệm truyền thống của văn học trung đại và văn học dân gian.

Mặc dù lối kết thúc của những tác phẩm trên đều theo lối cũ, nhưng đã khơi

gợi trong lòng người những giá trị về triết lý đạo Phật mà các tác giả muốn gửi gắm.

Đó cũng là tiếng nói đạo đức, là triết lý sống cao thượng cất lên từ những tác phẩm

văn họ ửa đầu TK.XX. Từ đây có thể khẳng định rằng văn học đâu chỉ

là phương tiện để giải trí mà nó còn góp phần bồi đắp đời sống tình cảm, tâm hồn,

tư tưởng cho con người.

197

ức

, và

Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn có tác phẩm

được xây dựng theo kết cấu mới mẻ, mang dấu ấn của văn học hiện đại. Chẳng hạn

tác phẩm được xây dựng theo lối không đóng khung và câu chuyện chỉ đơn thuần là

sự minh họa giản đơn cho những đạo lý, triết lý của nhà Phật, tạo cho người đọc cái

nhìn mở về cuộc sống.

3.4.2.3. Ngôn ngữ kể chuyện và đối thoại

trong tiểu thuyết, truyện ngắn là một hệ thống đa ngôn ngữ. Mỗi yếu

tố trong tác phẩm đều được xác định trực tiếp từ phong cách mà nó thoát ra: phong

cách cá nhân trong lời nói của nhân vật, phong cách kể của người thuật truyện v.v..

Những tiểu thuyết, truyện ngắn trên báo chí Phật giáo cũng đạt được thành công

nhất định ở phương diện ngôn ngữ và nghệ thuật kể chuyện. Trong đó, nhiều hình

thức tổ chức ngôn ngữ được sử dụng: đối thoại giữa các nhân vật, độc thoại nội tâm,

ngôn ngữ người kể chuyện. Tuy nhiên, hầu như các tác giả đều chọn lối trần thuật

truyền thố ểm nhìn từ hai phương diện thiện và ác, xấu và tốt. Điều này

giúp người đọc dễ

Có thể nói, thông qua ngôn ngữ kể chuyện và đối thoại, những tác phẩm

truyện trên báo chí Phật giáo đều chứa đựng triết lý đạo đức của Phật giáo về cuộc

sống đời thường.

Với ngôn ngữ kể chuyệ ất yêu thương, với những văn từ xưa cũ,

nhưng nhữ ời đọc dễ dàng thấy được

cuộc sống chìm nổi, giả tạm trong cuộc đời khổ đau của con người. Điều đó thể

hiện rõ nét qua tiểu thuyết Tu là cội phước, tình là dây oan

ự kiện nàng Quỳnh Liên đưa ra điều kiện quá khó, những

chàng công tử nghe rất ngán ngẩm, nhưng vì quá say mê nàng nên ai ai cũng đều

đồng ý và cố gắng hết sức mình: “Mấy vị công tử nghe nói có ý ngậm ngùi, nhưng

198

cái sắc dục nó mạnh lạ thường, làm cho ai ai cũng ráng tranh nhau cho thuộc kinh

Kim Cang… Ôi! Sóng tình nhào nhảy, làm cho biển trí cũng sôi trào, trong một

đêm không biết bao tinh thần tư tưởng in vào óc của mấy vị công tử kia”.

Lúc nàng Quỳnh Liên lìa đời, tác giả đã diễn tả rất thê lương bằng những câu

văn biền ngẫu kiểu xưa cũ: “Than ôi, nhành hoa đương thắm một trận mưa chang;

bóng nguyệt vừa tròn mấy lùm mây án; tài sắc như vậy mà yểm trần như thế thì ai

là người có cảm cảnh mà lại không sầu thảm rước buồn về sự nàng, ai là người biết

thương đời mà lại không ngậm oán nuốt hờn cho con tạo đặng”.

Mã Sanh nhìn thân thể nàng chết đi rồi, lòng đau đớn vô cùng: “Ôi! Thương

thay! Mã Sanh phần thì buồn cho nàng phận bạc, phần thì xót cho chàng vô duyên,

giọt lệ chung tình chảy hoài không ngớt, nét sầu khổ cứ vẽ mấy không thành, mê

mẩn tâm thần dường như có thể chết theo được”.

Trong tác phẩm này, ngôn ngữ diễn tả tâm lý nhân vật cũng là ngôn ngữ của

tác giả. Giọng văn biến hóa linh động, không đơn điệ ẫn theo lối truyền thống.

Như Quỳnh Liên, khi nghe các chàng trai tỏ ý muốn kết tóc se duyên cùng nàng,

nàng đã e thẹn, khiêm tốn tỏ bày bằng những ngôn từ

“Thiếp đây chút phận thuyền quyên, hồng nhan mỏng manh, cũng muốn kiếm chỗ

gởi thân để về sau nương cậy, nhưng vì ngày trước thiếp có lời nguyện phải buộc

nhiều điều, phải được viên mãn thì cái phần nhơn duyên của thiếp mới phỉ nguyền”.

Rồi khi thấy nhiều chàng trai thuộc hết kinh Kim Cang, nàng Quỳnh Liên

thở dài: “Cũng đông như thế thiếp biết làm sao? Hay là cái duyên nợ của thiếp lôi

thôi trục trặc, thiếp xin ước lại một điều này nữa…”.

Tác phẩm Hiếu nghĩa cảm Phật, trong lúc diễn tả ngôn ngữ đối thoại trực

tiếp, tác giả dường như nhập vai vào từng nhân vật, chuyển vai lẫn nhau một cách

tự nhiên. Lời đối thoại thật thà, chân chất và có lúc thẳng thắn:

Ước chừng một hồi lâu, Phan Quý sợ trễ buổi học mới đánh liều mà hỏi

rằng: “Xin lỗi cô cho tôi hỏi một đôi lời. Không biết cô ở đâu mà nay đến

chùa lạy Phật. Vậy cô có chồng chưa?”. Nàng nghe hỏi tỏ sắc e lệ, cúi mặt

xuống mà đáp rằng: “Cũng có nhiều nơi đến nói mà cha tôi chưa hứa gả

199

nơi nào”. Chàng nghe trả lời thì có ý mừng nên hỏi rằng: “Như tôi đến nói

đặng không?”. Nàng làm thinh, chàng lại hỏi nữa: “Vậy chớ cô tên chi, cha

mẹ ở đâu và xin cô cho tôi biết ai thân thiết với người nhà, nữa tôi đến cậy

người làm mai.” Nàng làm thinh một hồi rồi đáp rằng: “Tôi là Tiêu Bích

Hà, còn cha tôi là Tiêu Nhượng Đức ở làng Ngọc Thanh. Cha tôi có một

người bạn thân thiết tên là Châu Khuyến Thành ở gần bên nhà, như có

muốn sự chi xin đến cậy người thì chắc yên.

Bích Hà khi gặp kẻ xấu, nàng thay đổi thái độ ứng xử rất nhanh và dùng

những lời lẽ có vẻ thô nhưng đầy nghĩa khí: “Tao là con gái có chồng, mà bây dám

hiếp hãm, tao thề làm con quỷ chính chuyên, chớ chẳng thèm làm con người bất

nghĩa đâu”.

Gặp lại Phan Quý, nàng trở về với con người thật của chính mình, với ngôn

ngữ đối thoại nhẹ nhàng nhưng chứa đựng sự trách hờn: “Tôi đây là con gái của ông

Tiêu Nhượng Đức, tên là Bích Hà, ở làng Ngọc Thanh, nửa đêm bị bọn ăn cướp lập

mưu với bác tôi mà đến nhà bắt tôi bỏ vào kiệu như vầy. Tôi là con gái có chồng,

thà tôi chịu chết chớ chẳng chịu thọ điều nhơ nhuốc”… Khi nàng nghe nhắc đến

việc cũ liền khóc òa rồi nói rằng: “Vậy thầy đó hay sao? Tôi vì thầy mà khổ như thế

nầy, thầy có biết không?”.

Ngôn ngữ kể chuyện của tác giả Chánh Niệm trong tiểu thuyết Duyên trước

tình sau cũng tràn ngập tình cảm yêu thương với những từ văn vần truyền thống,

nhưng cũng đầy bi lụy qua những giọng điệu than thở, thương cho thân phận con

người phải đối diện với sự chia lìa khổ đau:

Vẫn nghe ông Dương Đức Thận là người nhơn, sanh đặng một gái hiền,

Vương Hy xin mẹ đến cầu duyên cho trẻ. Nghe lời con phân trần, mẹ

Vương Hy vui vẻ đi liền. Nợ tiền kiếp đã liệt sổ thiên đình, nên vừa ướm

nói thì đôi bên đều ưng thuận. Sui gái không đòi tiền bạc, song sui trai noi

tục cổ, tục lệ đành rành. Ngày lành giờ tốt chọn xong, gái Nam Giang với

trai Đông Sàng thành duyên cá nước. Than ôi! Cái ngày hở môi cười mấy

thuở được lâu. Đương lúc mừng vui đôi đàng chưa thỏa, đâu hay nhựt xế

nguyệt tà…

200

Ngoài ý nghĩa đó, tác giả còn dùng ngôn ngữ đối thoại qua đố

và vẫn theo lối thơ truyền thống, nhưng mang ý nghĩa giáo dục con người hướng về

đời sống giác ngộ, giải thoát: “Vương Hy vào chốn tịnh ẩn dật tu hành, cải danh lại

là Tăng Đồ. Ít lâu, nàng Thiều Hoa nghe được tin tức ấy, bèn gởi một phong thư gọi

tỏ chút tình duyên… Nàng Thiều Hoa có đính theo năm bài thơ tứ tuyệt, để giục

chàng Tăng Đồ hoàn tục:

“Ớ ớ chàng ôi! ớ ớ chàng

Phù danh mấy bữa gởi Dinh hoàn

Chữ nhàn mua ở trong trời đất

Cực khổ làm chi hỡi bạn vàng.

Thương tang một cuộc hiệp rồi tan

Chén rượu câu thơ dạo ngón đàn

Véo vắt cò con tình giải muộn

Nâu thùng đâu sánh vẻ Y quan”…

Tăng Đồ nghe thế, liền viết thơ khuyên giải:

“Nghĩ sự đời thương kẻ chúng sinh

Sông mê lặn lội nỡ quên mình

Say sưa ổ mật ong quen nết

Bận bịu lòng hoa bướm dại tình

Thói bạc đầy tai nghe cũng xấu

Bụi hồng tô mặt gọi làm xinh

Công danh chán ngán thân phù thế

Giải thoát mong nhờ tiếng kệ kinh…”.

Truyện ngắn Làm lành đặng phước, làm dữ bị họa, tác giả Nguyễn Văn Hạp

cũng sử dụng ngôn ngữ đối thoại chân chất, thẳng thắn, nghe có vẻ nhẹ nhàng

nhưng mang tính đả kích: “Nầy anh Háo Kỳ, tôi tưởng anh là người đường đường

chánh chánh, đại nhân quân tử, biết trọng nghĩa khinh tài, hay thương người hoạn

nạn, hay giúp kẻ cô cùng, chớ có dè đâu anh nhẫn tâm đến thế, nhắm mắt làm càn.

201

Tôi lầm anh là bạn đồng song, là người đồng quận, nên nay mới ra nông nỗi như

thế”.

Lê Háo Kỳ nghe nói bèn làm bộ giận mà đáp lại bằng những ngôn ngữ

: “Vậy thì đồ hành lý đó, nhơn huynh lập tức lấy đem đi chỗ khác mà

ngụ, đừng chờ ở đây kiếm lời đê tiện mà nói xấu cho tôi như thế”.

Qua lối kể chuyện trên của các tác giả, cho thấy nghệ thuật miêu tả bằng

ngôn ngữ vẫn theo lối văn truyền thống, đi đôi với việc đưa ra các chi tiết, hành

động một cách cụ thể nên đã làm toát lên giá trị hiện thực và góp phần vào sự thành

công của tác phẩm.

Tác giả Kim Xuân qua tác phẩm Dưới chơn Phật còn có lối kể chuyện bằng

ngôn ngữ tâm lý. Từ đó, tác giả đã tạo ra một khung trời ảm đạm của hai nhân vật

với nhiều diễn biến tâm lý phức tạp:

Nhơn một đêm kia, nhằm Rằm tháng bảy, đã khuya rồi mà nhà quan Phủ

Minh Huệ còn thức… Bà thì ngồi bên ngựa ăn trầu, ông thì nằm trên ghế

xích đu hút thuốc. Cả hai chẳng nói chẳng rằng chi với nhau hết, cứ đánh

chữ làm thinh, dường như mỗi người đều có sự nghĩ lo, nên xem bộ buồn

xo gương mặt. Ngoài thì mưa rỉ rả, giọng dế nhặt khoan, trong thì đèn điện

sáng choang, đồng hồ kêu tích tắc!... Thỉnh thoảng nghe tiếng đại hồng

chung ở bên chùa Liên Tự gần đó ngân bon! boon! on!... thì càng làm cho

quan Phủ thêm buồn chứa chan tâm sự…

Văn xuôi tự sự trung đại thường chỉ chú trọng đến hành động, sự kiện với

những nội dung cốt yếu mà không phát triển , không có

yếu tố như ở tiểu thuyết và truyện ngắn hiện đại. Hầu như tác giả

chỉ quan tâm đến sự kiện mà ít lưu ý tới miêu tả trạng thái tâm lý nhân vật. Ngôn

ngữ kể chuyện trên của Kim Xuân đã biểu hiện cho ta thấy tính cách nhân vật được

tập trung khắc họa qua những diễn biến nội tâm. Điều này chứng tỏ bước đầu, Kim

Xuân đã những dấu hiệu hiện đại, mới mẻ đáng ghi nhận.

Ngôn ngữ tâm lý với nhiều diễn biến ấy, còn được tác giả thể hiện qua lối

văn đối thoại chân thực của các nhân vật. Ở đây, khẩu ngữ của nhân vật được sử

202

dụng hợp lý, diễn biến tâm lý thể hiện niềm thao thức, bâng khuâng về cuộc sống

con người chưa được hoàn thiện:

Bà Phủ thở ra rồi nói: Tôi nghĩ tôi rầu quá chừng!... thằng Minh Thành mà

thả luống chơi bời, bỏ nhà bỏ cửa như vầy đây, thì cũng tại ông hết thảy.

- Sao! Bà nói cái gì mà tại tôi hết thảy đó?.

- Vậy chớ tại ai kia! Tại ông thiếu âm đức, nên trời Phật mới khiến cho

con nó hư như vậy.

- Mụ này nói lạ dữ! tôi làm sao mà thiếu âm đức, mụ trưng bằng cớ cho tôi

coi!

Thiệt thuở nay tôi không thấy người đàn bà nào như mẹ trẻ vậy. Đàn bà

người ta ham se sua, ham tiền của, còn mẹ trẻ lại khác hẳn đi, mà chỉ ham

thủ thường, ham đạo đức cũng kỳ... đã mấy lần rồi, mẹ trẻ nói hoài mà tôi

chưa để ý mấy. Hôm nay tôi nghĩ kỹ rồi cũng có chỗ hồi tâm.

Nói chung, hầu như các tác giả đều sử dụng ngôn ngữ kể chuyện và ngôn

ngữ đối thoại thiên về ngôn ngữ tâm lý. Chính giọng văn tự sự giản dị, dễ hiểu đã

hiện rõ tâm lý của từng nhân vật. Chất tự sự pha tính trữ tình trong ngôn ngữ kể

chuyện cũng như đối thoại đã giúp các tác giả thành công trong việc xây dựng nên

hình tượng nhân vật tự nhiên, bình dị mà mang tính thuyết phục.

Câu văn trong các tác phẩm còn mang đặc tính của câu văn biền ngẫu. Câu

văn chưa thể hiện được trực tiếp ngôn ngữ của các nhân vật mà chỉ là ngôn ngữ của

tác giả mượn lời nhân vật để kể chuyện. Tính tự sự nội tâm của nhân vật qua ngôn

ngữ chưa được đề cao. Điểm nhìn trần thuật luôn là điểm nhìn ở bên ngoài nên chưa

tạo được đời sống nội tâm cho nhân vật.

Một số tác giả dùng ngôn ngữ chải chuốt, giàu cảm xúc, mang một đặc

điểm của ngôn ngữ tiểu thuyết lãng mạn, đã giúp cho những tác phẩm của họ có sức

lôi cuốn bạn đọc và để lại bài học sâu sắc cho đời sống con người. Đằng sau ngôn

ngữ nhân vật là ý đồ của tác giả. Họ đã lồng những tình cảm, thái độ, quan điểm của

mình qua ngôn ngữ đối thoại của các nhân vật. Tuy nhiên, nhìn một cách tổng thể,

có thể nói ngôn ngữ ối thoạ ững tác giả sử dụng trong các tiểu

203

thuyết, truyện ngắ

TIỂU KẾT

Tóm lại, văn học trên báo chí Phật giáo trước 1945 dẫu chưa phải là phong

phú, nhưng vẫn đem đến cho độc giả những cảm nhận về nội dung và nghệ thuật

văn chương, những cách nhìn mới về cuộc sống, về đạo Phật và góp phần làm giàu

nền văn học dân tộc.

Những tác phẩm văn học dù được viết dưới dạng thơ hay văn xuôi cũng đều

mang đậm tính chất nhân đạo và tinh thần yêu quê hương, đất nước, đó là tinh thần

phát huy đạo Phật, phụng sự Tổ quốc. Báo chí Phật giáo đã khéo chọn lựa những

bài viết, tác phẩm có ý nghĩa hiện thực để chuyển tải đến mọi tầng lớp nhân dân và

ai cũng có thể đọc hiểu một cách dễ dàng.

Khi đọc những bài thơ được các tác giả diễn tả bằng những thể thơ truyền

thống như Lục bát, Song thất lục bát hay Đường luật… chúng ta thấy trong đó cả

một bầu trời trong sáng về triết lý sống thuần lương, luôn hướng con người theo đời

sống thánh thiện, biết dứt bỏ mọi xấu xa chất chứa trong lòng, trở về sống trong tình

yêu thương bao la, sống với tâm chân thành, chân thật, ngõ hầu xây dựng một xã

hội an vui, một đất nước giàu mạnh và không ngừng phát triển.

Những ý tưởng giản dị thể hiện qua từng truyện ngắn, tùy bút, tiểu thuyết

hay những bài xã luận đã chuyển tải đầy đủ ý nghĩa cuộc sống, nói lên những ưu tư

của người con đất Việt trước hiện trạng đất nước, lại mang tính giáo dục về đạo làm

người, về nhân cách sống cũng như tinh thần yêu quê hương, đất nước.

Lối hành văn nhìn chung là sáng sủa, mạch lạc, đã đáp ứng được phần nào

nhu cầu văn hóa, văn nghệ cho mọi tầng lớp độc giả. Những đóng góp của thơ văn

trên báo chí Phật giáo còn thể hiện về phương diện kết cấu nghệ thuật xây dựng

nhân vật và ngôn từ. Những đổi mới này chưa phải là thật mạnh mẽ, nhưng bước

đầu đã có sự chuyển mình theo xu hướng hiện đại. Vì vậy, nếu nói quá trình hiện

đại hóa văn học đầu thế kỷ XX đã đóng góp rất lớn trong việc phát huy chữ Quốc

204

ngữ, làm đẹp cuộc sống hiện thực của con người và đem lại nền hòa bình cho nhân

loại thì văn học trên báo chí Phật giáo cũng góp một phần xứng đáng với phong

cách rất riêng.

So với việc đăng tải văn học trên báo chí Phật giáo ngày nay, có thể nói văn

học trên báo chí Phật giáo trước 1945 còn rất ít. Nội dung về thơ, truyện cũng

không thật đa dạng và phong phú. Hơn nữa, báo chí Phật giáo lúc bấy giờ ít có sự

tham gia của các nhà văn, nhà thơ chuyên nghiệp mà phần lớn là các tác giả xuất

thân từ những người tu sĩ, Phật tử. Họ là những người chỉ chú trọng việc truyền bá

Phật pháp đến với quần chúng nhân dân nên ít quan tâm về vấn đề nghệ thuật. Có lẽ

vì vậy mà chất lượng nghệ thuật của những tác phẩm văn học trên báo chí Phật giáo

trước 1945 chưa cao và chưa thật sự thu hút nhiều độc giả.

Điều đáng lưu ý, những bài thơ, những tác phẩm văn xuôi đều chứa đựng giá

trị Phật học. Có những đoạn trong truyện ngắn, tiểu thuyết, tác giả đã để cho nhân

vật thuyết giảng về Phật pháp, điều này càng chứng tỏ trong văn học vẫn mang ý

nghĩa Phật học sâu xa.

Nhìn tổng thể cả chương 2 và chương 3, chúng ta thấy có mối quan hệ hữu

cơ thật khó tách rời, bởi trong Phật học vẫn có giá trị văn học và trong văn học vẫn

mang ý nghĩa Phật học. Mặt khác, xét đến cùng, nói đến báo chí tức là nói đến văn

học. Do đó, sự phân chia Phật học và văn học trên báo chí Phật giáo trước 1945 chỉ

là tương đối, chỉ là cách để triển khai những nội dung chính trong luận án.

205

KẾT LUẬN

Báo chí Phật giáo Việt Nam trước 1945 là cơ quan ngôn luận của các tổ chức,

hệ phái Phật giáo ở Việt Nam, tuy xuất hiện muộn, nhưng phát triển khá nhanh và

phong phú. Không những chỉ các tổ chức Phật giáo mới xuất bản tạp chí mà một số

Tông môn cũng tự ấn hành báo chí, nhằm mục đích để truyền bá đạo Phật bằng chữ

Quốc ngữ, làm trong sáng tinh thần Phật học và thúc đẩy phong trào Chấn hưng

Phật giáo trong cả nước. Việc tổ chức, xuất bản, phát hành báo chí Phật giáo Việt

Nam thời bấy giờ đã là tiền đề tích cực cho quá trình phát triển báo chí trong những

năm sau.

Sự lớn mạnh của phong trào Chấn hưng Phật giáo thông qua báo chí là điểm

nổi bật của Phật giáo giai đoạn này. Phong trào đã khơi dậy một trào lưu tư tưởng

Phật giáo mới, nhằm giải quyết những vấn nạn trong đời sống đạo và trong đời sống

của quần chúng nhân dân. Từ phong trào đó đã mở ra cho Phật giáo một hướng đi

mới, vừa hoàn thiện đời sống đạo, vừa đáp ứng được yêu cầu của lịch sử dân tộc.

Đồng thời, qua các trang báo, nội dung kinh điển, tư tưởng văn hóa và văn học Phật

giáo được tuyên truyền, phổ biến đến với đông đảo công chúng độc giả và quan

trọng là các chức sắc, tín đồ Phật giáo Việt Nam, để hướng họ sống theo những giá

trị trân quý, tốt đẹp và nhân bản của đạo Phật.

Hình thức và nội dung của báo chí Phật giáo dẫu khác nhau, nhưng giống

nhau ở mục tiêu cùng đấu tranh quyết liệt với các thế lực ngoại bang, chống lại các

hủ tục, mê tín dị đoan thời bấy giờ. Những tranh luận về Thượng đế tạo vật, linh

hồn bất tử, Cực lạc, địa ngục và ngoại giới đã mở ra cho con người một cách nhìn

đúng đắn, phù hợp với khoa học. Từ đó định hướng cho mọi người, đặc biệt là các

thanh niên tân học thấy được rằng đạo Phật là đạo mang tính khoa học, nhân bản,

thực tế và thích ứng với từng thời đại. Những tư tưởng, triết lý Phật học chung nhất

mà báo chí Phật giáo thể hiện là triết lý nhân quả, đức tin, đạo hiếu, lòng vị tha, tư

tưởng vì dân tộc, thuyết vô thường, vô ngã, nhân duyên...

206

Ngoài ra, Phật học trên báo chí Phật giáo còn cho thấy tinh thần Phật giáo vì

dân tộc và đại chúng một cách thiết thực, hữu ích qua việc giáo dục đạo đức và

tuyên truyền lòng yêu nước, thương dân.

Về phần văn học, việc phiên dịch kinh Phật trên báo chí Phật giáo trước 1945

có thể coi như một loại hình dịch văn học đặc biệt để chuyển tải giá trị tinh hoa của

văn học Phật giáo nước ngoài vào Việt Nam. Đây là sự đóng góp to lớn của văn học

Phật giáo đối với nền văn học Việt Nam giai đoạn nửa đầu TK.XX.

Bộ phận sáng tác văn học trên báo chí Phật giáo trước 1945 cũng là một loại

hình sáng tác đặc biệt. Dầu chưa theo kịp xu hướng hiện đại hóa đang xảy ra, nhưng

với các thể loại văn thơ truyền thống, văn học trên báo chí Phật giáo đã thể hiện

được một cách sâu sắc tư duy, tình cảm của người Phật tử và những bài học về đạo

đức, góp phần phát huy tinh thần Phật giáo cũng như truyền thống văn hóa quý báu

của dân tộc.

Nếu xét chung về nội dung và nghệ thuật thì các tác phẩm văn học từ thơ ca

đến văn xuôi trên báo chí Phật giáo lúc bấy giờ đã góp phần không nhỏ cho sự phát

triển ngôn ngữ Việt Nam. Những tác phẩm ấy là tiếng nói vì dân tộc rất mạnh mẽ,

đã thổi vào lòng người niềm tin, sức mạnh để xây dựng cuộc sống nhân nghĩa, duy

trì nền hòa bình độc lập và phát triển đất nước Việt Nam nửa đầu TK.XX.

Báo chí Phật giáo Việt Nam ngày nay đã phát huy được rất nhiều phương

hướng mới từ sự kế thừa của báo chí Phật giáo trước 1945. Điểm kế thừa nổi bật

của báo chí Phật giáo hiện nay là làm rõ các vấn đề tín ngưỡng trong đời sống xã

hội, tạo điều kiện cho những ai đang trăn trở với đức tin có tầm nhìn đúng đắn,

khách quan hơn về tôn giáo. Bộ phận báo chí này cũng tiếp nối và phát huy được

truyền thống dân tộc, hướng về xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc và sự đoàn kết

giữa các tôn giáo, đồng thời góp phần trong việc phát triển nền văn hóa, kinh tế Việt

Nam.

Có thể nói, Đạo Phật là một trong những tôn giáo lớn và lâu đời nhất tại Việt

Nam, thế nhưng báo chí Phật giáo xưa nay cũng chỉ chiếm một vị trí khiêm tốn

trong làng báo chí nước nhà. Ngày nay, báo chí Phật giáo đang từng bước thay đổi

207

nội dung và hình thức nhằm phục vụ cho tăng ni và Phật tử, phù hợp với tình hình

xuất bản báo chí hiện đại, hòa mình vào hệ thống báo chí cả nước trong sứ mệnh

truyền bá chính pháp của Đạo Phật Việt Nam. Hy vọng trong tương lai gần, Phật

giáo Việt Nam sẽ bắt kịp với đà tiến bộ của nền báo chí trong và ngoài nước, góp

phần cùng với nhân dân Việt Nam thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội

công bằng văn minh.

Nhìn chung, việc nghiên cứu Phật học và văn học trên báo chí Phật giáo Việt

Nam trước năm 1945 mở ra triển vọng nghiên cứu rất lớn: từ hướng nghiên cứu này,

có thể có những đề tài nghiên cứu tiếp theo: Phong trào chấn hưng Phật giáo, lịch sử

Phật giáo cận đại, lịch sử phiên dịch kinh Phật, ngôn ngữ Phật giáo trước 1945…

Văn học Phật giáo trên báo chí và sách vở trước 1945 cần phải được tiếp tục nghiên

cứu và giảng dạy ở các chương trình Phật học. Nếu có điều kiện, các cơ sở nghiên

cứu Phật học, các trường đại học có thể mở một vài buổi hội thảo về những vấn đề

Phật học và văn học trên báo chí Phật giáo trước năm 1945.

208

DANH MỤC BÁO CHÍ PHẬT GIÁO VIỆT NAM TRƯỚC 1945

(Xếp theo năm xuất bản)

[A]- Tạp chí Pháp âm (1929), Chủ nhiệm: Lê Khánh Hòa, Sài Gòn.

[B]- Tạp chí Phật hóa Tân Thanh niên (1929), Quản lý: Trương Tấn Phát, Sài

Gòn.

[C]- Tạp chí Từ bi âm (1932-1945), Chủ nhiệm: Lê Khánh Hòa, Sài Gòn.

[D]- Tạp chí Viên âm (1933-1945), Tổng biên tập: Lê Đình Thám, Huế.

[E]- Tạp chí Tiếng chuông sớm (1935-1936), Chủ nhiệm: Đỗ Văn Hỷ, Quản lý:

Đinh Xuân Lạc, Hà Nội.

[F]- Báo Đuốc tuệ (1935-1945), Tổng biên tập: Nguyễn Năng Quốc, chùa Quán

Sứ, Hà Nội.

[G]- Tạp chí Duy tâm Phật học, (1935-1943), Tổng biên tập: Nguyễn Văn Ân,

Trà Vinh.

[H]- Tạp chí Bồ đề (1936), Tổng biên tập: Lê Phước Chí, Sóc Trăng.

[I]- Tạp chí Bát nhã âm (1936-1943), Chủ nhiệm: Đỗ Phước Tâm, Bà Rịa.

[J]- Tạp chí Pháp âm Phật học (1937-1938), Chủ nhiệm: Lê Văn Hậu, Chợ Lớn.

[K]- Tạp chí Tam bảo (1937-1938), Chủ nhiệm: Trần Văn Uyển, Đà Nẵng.

[L]- Tạp chí Tiến hóa (1938-1941), Chánh Hội trưởng: Đỗ Kiết Triệu, Hội Phật

học Kiêm Tế, Rạch Giá.

[M]- Tạp chí Quan âm (1938-1943), Chủ nhiệm kiêm Chủ bút: Lương Văn

Tuân, Hà Nội.

[N]- Tạp chí Phật pháp chỉ Niết bàn (1941), Tổng biên tập: Hồ Ngọc Sung, Sài

Gòn.

[O]- Báo Tinh tiến (1945), phụ trương của Đuốc tuệ, Quản lý: Cung Đình Bính,

Hà Nội.

209

THƯ MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

[01]- Lại Nguyên Ân (2004), 150 thuật ngữ văn học, Nxb. Đại học Quốc gia,

Hà Nội.

[02]- Nguyễn Văn Ẩn (1972), Báo chí tôn giáo tại Việt Nam (Khảo luận Ban

Báo chí học, Phân khoa VH&KHNV), Viện Đại học Vạn Hạnh.

[03]- Thích Đồng Bổn (1995), Tiểu sử danh tăng Việt Nam thế kỷ XX, tập I,

Thành hội Phật giáo TP. Hồ Chí Minh ấn hành.

[04]- Thích Minh Cảnh (chủ biên) (2005), Từ điển Phật học Huệ Quang, Tập I,

Nxb. Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh.

[05]- Thích Minh Cảnh (chủ biên) (2005), Từ điển Phật học Huệ Quang, Tập II,

Nxb. Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh.

[06]- Thích Minh Cảnh (chủ biên) (2005), Từ điển Phật học Huệ Quang, Tập

III, Nxb. Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh.

[07]- Thích Minh Cảnh (chủ biên) (2005), Từ điển Phật học Huệ Quang, Tập

IV, Nxb. Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh.

[08]- Thích Minh Cảnh (chủ biên) (2005), Từ điển Phật học Huệ Quang, Tập V,

Nxb. Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh.

[09]- Thích Minh Cảnh (chủ biên) (2005), Từ điển Phật học Huệ Quang, Tập

VI, Nxb. Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh.

[10]- Thích Minh Cảnh (chủ biên) (2005), Từ điển Phật học Huệ Quang, Tập

VII, Nxb. Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh.

[11]- Thích Minh Cảnh (chủ biên) (2005), Từ điển Phật học Huệ Quang, Tập

VIII, Nxb. Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh.

[12]- Thích Minh Châu (dịch) (1990), Kinh Pháp Cú, Sở VHTT TP. Hồ Chí

Minh xuất bản.

210

[13]- Thích Minh Châu (dịch) (1991), Kinh Trường Bộ, Tập I, Viện Nghiên cứu

Phật học Việt Nam ấn hành.

[14]- Thích Minh Châu (dịch) (1993), Kinh Tương Ưng Bộ, Tập III, Viện

Nghiên cứu Phật học Việt Nam ấn hành.

[15]- Thích Minh Châu (dịch) (1996), Kinh Trung Bộ, Tập III, Viện Nghiên

cứu Phật học Việt Nam ấn hành.

[16]- Thích Minh Châu (dịch) (2000), Kinh Tiểu Bộ, Tập I, Nxb. TP. Hồ Chí

Minh.

[17]- Minh Chi (2003), Truyền thống văn hóa và Phật giáo Việt Nam, Nxb. Tôn

giáo, Hà Nội.

[18]- Minh Chi (2003), Thuyết tái sinh, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội.

[19]- Thiện Chiếu (1932), Phật giáo vấn đáp, chùa Long Hưng, Chợ Lớn xuất

bản.

[20]- Thiện Chiếu (1936), Tại sao tôi! (Thiện Chiếu) hoàn tục, Nxb. Nam

Cường.

[21]- Thiện Chiếu (1936), Tại sao tôi đã cám ơn đạo Phật, Nxb. Nam Cường.

[22]- Mai Ngọc Chừ (1999), Văn hóa Đông Nam Á, Nxb. Đại học Quốc gia Hà

Nội.

[23]- Thiều Chửu (2003), Giải thích truyện Quan Âm Thị Kính, Nxb. Văn hóa

Thông tin (tái bản).

[24]- Đoàn Trung Còn (1992), Phật học từ điển, Tập I, Nxb. TP. Hồ Chí Minh

(tái bản).

[25]- Đoàn Trung Còn (1992), Phật học từ điển, Tập II, Nxb. TP. Hồ Chí Minh

(tái bản).

[26]- Đoàn Trung Còn (1992), Phật học từ điển, Tập III, Nxb. TP. Hồ Chí

Minh (tái bản).

211

[27]- Lê Cung (2008), Phong trào Phật giáo miền Nam Việt Nam năm 1963,

Nxb. Thuận Hóa (tái bản).

[28]- Giác Dũng (2003), Phật Việt Nam, dân tộc Việt Nam, Nxb. Tôn giáo.

[29]- Thích Phước Đạt (2010), “Sự tiếp biến thể loại văn học Phật giáo trong

tác phẩm Thiền phái Trúc Lâm”, Tạp chí Hán Nôm, Số 6 (103).

[30]- Thích Thanh Đạt (1994), Báo chí Phật giáo với phong trào Chấn hưng

Phật giáo (1930-1945) (khóa luận tốt nghiệp đại học), Đại học Tổng hợp Hà Nội.

[31]- Lê Tâm Đắc (2012), Phong trào Chấn hưng Phật giáo ở miền Bắc Việt

Nam (1924-1954), Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

[32]- Đông Pháp thời báo, Số 529, ra ngày 05.01.1927.

[33]- Đông Pháp thời báo, Số 532, ra ngày 14.01.1927.

[34]- Nguyễn Đại Đồng (2008), Lược khảo báo chí Phật giáo Việt Nam (1929 -

2008), Nxb. Tôn giáo, Hà Nội.

[35]- Nguyễn Đại Đồng (2008), Thiều Chửu Nguyễn Hữu Kha (1902 - 1954),

Nxb. Tôn giáo, Hà Nội.

[36]- Nguyễn Đại Đồng (2008), “Thời kỳ tiền chấn hưng”, Tạp chí Nghiên cứu

Phật học, Số 4, tr. 16.

[37]- Nguyễn Đại Đồng (2009), “Tạp chí Viên âm”, Tạp chí Nghiên cứu Phật

học, Số 3, tr. 21-23.

[38]- Nguyễn Đại Đồng (2009), “Tạp chí Đuốc tuệ”, Tạp chí Nghiên cứu Phật

học, Số 4, tr. 26-28.

[39]- Nguyễn Đại Đồng (2011), “Tạp chí Duy Tâm Phật học”, Nguyệt san Giác

ngộ, Số 183, tr. 72-77.

[40]- Nguyễn Đại Đồng - Nguyễn Thị Minh (2008), Phong trào chấn hưng

Phật giáo Việt Nam (Tư liệu báo chí Việt Nam từ 1927-1938), Nxb. Tôn giáo, Hà Nội.

[41]- Mạc Đường (1993), Vấn đề Phật giáo trong sự phát triển xã hội Việt Nam

hiện đại, Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam ấn hành.

212

[42]- Đoàn Lê Giang (2001), Ý thức văn học cổ trung đại Việt Nam, Luận án

Tiến sĩ Ngữ văn, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn. TP. Hồ Chí Minh.

[43]- Đoàn Lê Giang (2006), “Văn học Quốc ngữ ở Nam bộ từ cuối thế kỷ XIX

đến 1945 - thành tựu và triển vọng nghiên cứu”, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, Số 7.

[44]- Trần Văn Giàu (1988), Triết học và tư tưởng, Nxb. TP. Hồ Chí Minh.

[45]- Trần Văn Giàu (1997), Sự phát triển của tư tưởng Việt Nam, Nxb. Chính

trị Quốc gia, Hà Hội.

[46]- Trí Hải (2004), Hồi ký thành lập Hội Phật giáo Việt Nam, Nxb. Tôn giáo,

Hà Nội.

[47]- Lê Thị Hồng Hạnh (2010), Báo chí Phật giáo tại Việt Nam: Thực trạng

và vấn đề (Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn), Trường Đại học KHXH và NV, ĐHQG Hà

Nội.

[48]- Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn Huệ Chi, Phùng Văn Tửu, Trần Hữu Tá (đồng chủ

biên) (2004), Từ điển văn học (bộ mới), Nxb. Thế giới, Hà Nội.

[49]- Nguyễn Duy Hinh (1992), “Phật giáo với văn học Việt Nam”, Tạp chí

Văn học, Số 4, tr. 5-6.

[50]- Nguyễn Duy Hinh (2003), Người Việt Nam với Đạo giáo, Nxb. Khoa học

Xã hội, Hà Nội.

[51]- Thích Thiện Hoa (1970), 50 năm (1920-1970) Chấn hưng Phật giáo Việt

Nam, Viện Hóa Đạo ấn hành.

[52]- Thích Thiện Hoa (1997), Phật học phổ thông, Tập I, Thành hội Phật giáo

TP. Hồ Chí Minh ấn hành.

[53]- Thích Thiện Hoa (1997), Phật học phổ thông, Tập II, Thành hội Phật giáo

TP. Hồ Chí Minh ấn hành.

[54]- Thích Thiện Hoa (1997), Phật học phổ thông, Tập III, Thành hội Phật

giáo TP. Hồ Chí Minh ấn hành.

[55]- Nguyễn Thái Hòa (2000), Những vấn đề thi pháp của truyện, Nxb. Giáo

dục, Hà Nội.

213

[56]- Hà Minh Hồng (2005), Lịch sử Việt Nam cận hiện đại (1858-1975), Nxb.

Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh.

[57]- Đỗ Quang Hưng (chủ biên) (2000), Lịch sử báo chí Việt Nam 1865-1945,

Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội.

[58]- Trương Sĩ Hùng (chủ biên) (2003), Mấy tín ngưỡng tôn giáo Đông Nam Á,

Nxb. Thanh Niên, TP. Hồ Chí Minh.

[59]- Trần Đình Hượu, Lê Chí Dũng (1988), Văn học Việt Nam giai đoạn giao

thời 1900-1932, Nxb. Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.

[60]- Khai hóa nhật báo, Số 1640, ra ngày 16.01.1927.

[61]- Nguyễn Công Khanh (2006), Lịch sử báo chí Sài Gòn - Thành phố Hồ

Chí Minh (1865-1995), Nxb. Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh.

[62]- Diệu Không (dịch) (1974), Kinh Lăng Già tâm ấn, Nxb. Hoa Sen.

[63]- Trần Trọng Kim (2010), Việt Nam sử lược, Nxb. Thời đại, Hà Nội (tái

bản).

[64]- Thích Thanh Kiểm (1989), Lược sử Phật giáo Ấn Độ, Thành hội Phật

giáo TP. Hồ Chí Minh ấn hành.

[65]- Nguyễn Lang (2000), Việt Nam Phật giáo sử luận, Tập I, Nxb. Văn học,

Hà Nội (tái bản).

[66]- Nguyễn Lang (2000), Việt Nam Phật giáo sử luận, Tập II, Nxb. Văn học,

Hà Nội (tái bản).

[67]- Nguyễn Lang (2000), Việt Nam Phật giáo sử luận, Tập III, Nxb. Văn học,

Hà Nội (tái bản).

[68]- Đinh Xuân Lâm (chủ biên) (2010), Đại cương lịch sử Việt Nam, Nxb.

Giáo dục, Hà Nội.

[69]- Trần Hồng Liên (1995), Đạo Phật trong cộng đồng người Việt ở Nam bộ

- Việt Nam (từ TK XVII đến 1975), Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.

214

[70]- Trần Hồng Liên (1996), Phật giáo Nam bộ từ thế kỷ thứ XVII đến 1975,

Nxb. TP. Hồ Chí Minh.

[71]- Nguyễn Lộc (1978), Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII - nửa đầu

thế kỷ thứ XIX, Tập I, Nxb. Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.

[72]- Nguyễn Lộc (1978), Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII - nửa đầu

thế kỷ thứ XIX, Tập II, Nxb. Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.

[73]- Nguyễn Công Lý (2002), Văn học Phật giáo thời Lý - Trần, diện mạo và

đặc điểm, Nxb. Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh.

[74]- Nguyễn Công Lý (2011), Giáo dục - Khoa cử và Quan chế ở Việt Nam

thời Phong kiến và thời Pháp thuộc, Nxb. Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh.

[75]- Nguyễn Đăng Mạnh, Nguyễn Trác, Trần Hữu Tá (1988), Văn học Việt

Nam 1945-1975, Nxb. Giáo dục, TP. Hồ Chí Minh.

[76]- Đại Tạng Kinh Việt Nam (1989), Kinh Trường Bộ, Viện Nghiên cứu Phật

học Việt Nam ấn hành.

[77]- Thích Nguyên Ngôn (1995), Kinh Bát Đại Nhơn Giác lược giảng, Thành

hội Phật giáo TP. Hồ Chí Minh ấn hành.

[78]- Nhiều tác giả (1998), Địa chí văn hóa TP. Hồ Chí Minh, Tập I, Nxb. TP.

Hồ Chí Minh.

[79]- Nhiều tác giả (1998), Địa chí văn hóa TP. Hồ Chí Minh, Tập II, Nxb. TP.

Hồ Chí Minh.

[80]- Nhiều tác giả (1998), Địa chí văn hóa TP. Hồ Chí Minh, Tập III, Nxb. TP.

Hồ Chí Minh.

[81]- Nhiều tác giả (1998), Địa chí văn hóa TP. Hồ Chí Minh, Tập IV, Nxb. TP.

Hồ Chí Minh.

[82]- Nhiều tác giả (2005), Phật giáo trong thời đại chúng ta, Nxb. Tôn giáo,

Hà Nội.

[83]- Võ Văn Nhơn (2007), Văn học Quốc ngữ trước 1945, Nxb. Tổng hợp TP.

Hồ Chí Minh.

215

[84]- Đức Nhuận (2009), Đạo Phật và dòng sử Việt, Nxb. Phương Đông, TP.

Hồ Chí Minh.

[85]- Thích Như Niệm (2009), Di cảo của nhà sư Thiện Chiếu, Nxb. Khoa học

Xã hội, TP. Hồ Chí Minh (tái bản).

[86]- Phân viện nghiên cứu Phật học Việt Nam tại Hà Nội (2008), Đại lão Hòa

thượng Tố Liên (1903 - 1977), Nxb. Tôn giáo, Hà Nội.

[87]- Phân viện nghiên cứu Phật học Việt Nam tại Hà Nội (2009), Kỷ yếu hội

thảo Đại lão Hòa thượng Thích Trí Hải (1906-1979), Nxb. Tôn giáo, Hà Nội.

[88]- Phân viện nghiên cứu Phật học Việt Nam tại Hà Nội (2006), Thiện Chiếu,

Nhà sư - chiến sỹ cách mạng, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội.

[89]- Đông Phong (1998), Về nguồn văn hóa cổ truyền Việt Nam, Nxb. Mũi Cà

Mau, TP. Cà Mau.

[90]- Nguyễn Ái Quốc (2009), Bản án chế độ thực dân Pháp, Nxb. Trẻ, TP. Hồ

Chí Minh (tái bản).

[91]- Dương Trung Quốc (2005), Việt Nam: Những sự kiện lịch sử (1919-1945),

Nxb. Giáo dục, Hà Nội (tái bản).

[92]- Phan Quang (2001), Về diện mạo báo chí Việt Nam, Nxb. Chính trị Quốc

gia, Hà Nội.

[93]- Tô Huy Rứa (chủ biên) (1998), Thư tịch báo chí Việt Nam, Nxb. Chính trị

Quốc gia, Hà Nội.

[94]- Thích Thiện Siêu (1996), Vô ngã là Niết bàn, Nxb. Thuận Hóa, Huế.

[95]- Thiếu Sơn (1933), Phê bình và cảo luận, Nxb. Nam Ký, Hà Nội.

[96]- Tuệ Sỹ (dịch) (1973), Các tông phái đạo Phật, Tu thư Đại học Vạn Hạnh,

Sài Gòn.

[97]- Nguyễn Cao Thanh (2008), Khái lược Phật giáo Việt Nam, Nxb. Tôn giáo,

Hà Nội.

216

[98]- Lê Mạnh Thát (1999), Lịch sử Phật giáo Việt Nam, Tập I, Nxb. Thuận

Hóa, Huế.

[99]- Lê Mạnh Thát (2000), Lịch sử Phật giáo Việt Nam, Tập II, Nxb. TP. Hồ

Chí Minh.

[100]- Lê Mạnh Thát (2001), Tổng tập văn học Phật giáo Việt Nam, Tập I, Nxb.

TP. Hồ Chí Minh.

[101]- Lê Mạnh Thát (2001), Tổng tập văn học Phật giáo Việt Nam, Tập II,

Nxb. TP. Hồ Chí Minh.

[102]- Nguyễn Q. Thắng (2010), Thiện Chiếu - Nhà cải cách Phật giáo, Nxb.

Văn học, Hà Nội.

[103]- Mật Thể (1944), Việt Nam Phật giáo sử lược, Nxb. Tân Việt, Hà Nội.

[104]- Trần Ngọc Thêm (1997), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb. Giáo dục, Hà

Nội.

[105]- Nguyễn Đăng Thục (1992), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, Tập I, Nxb. TP.

Hồ Chí Minh (tái bản).

[106]- Nguyễn Đăng Thục (1992), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, Tập II, Nxb. TP.

Hồ Chí Minh (tái bản).

[107]- Nguyễn Đăng Thục (1992), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, Tập III, Nxb. TP.

Hồ Chí Minh (tái bản).

[108]- Nguyễn Đăng Thục (1992), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, Tập IV, Nxb. TP.

Hồ Chí Minh (tái bản).

[109]- Nguyễn Đăng Thục (1992), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, Tập V, Nxb. TP.

Hồ Chí Minh (tái bản).

[110]- Nguyễn Đăng Thục (1992), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, Tập VI, Nxb. TP.

Hồ Chí Minh (tái bản).

[111]- Nguyễn Đăng Thục (1974), Phật giáo Việt Nam, Nxb. Mặt đất, Sài Gòn.

217

[112]- Bùi Đức Tịnh (2002), Những bước đầu của báo chí - truyện ngắn, tiểu

thuyết và thơ mới, Nxb. TP. Hồ Chí Minh.

[113]- Thích Trí Tịnh (2001), Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, Nxb. Tôn giáo, Hà

Nội (tái bản).

[114]- Thích Trí Tịnh (2006), Kinh Địa Tạng Bồ tát bổn nguyện, Nxb. Tôn giáo,

Hà Nội (tái bản).

[115]- Huỳnh Văn Tòng (1973), Lịch sử báo chí Việt Nam từ khởi thủy đến

1930, Nxb. Trí Đăng, Sài Gòn.

[116]- Huỳnh Văn Tòng (2000), Báo chí Việt Nam từ khởi thủy đến 1945, Nxb.

TP. Hồ Chí Minh.

[117]- Thích Minh Tuệ (1993), Lược sử Phật giáo Việt Nam, Thành hội Phật

giáo TP. Hồ Chí Minh ấn hành.

[118]- Phan Lạc Tuyên (1993), Lịch sử bang giao Đông Nam Á, Viện Đào tạo

mở rộng TP. Hồ Chí Minh xuất bản.

[119]- Phan Lạc Tuyên (1993), Kinh Bát nhã Ba la mật và đạo đức Phật giáo,

Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam ấn hành.

[120]- Thích Thanh Từ (1990), Phật giáo những vấn đề triết học, Trung tâm Tư

liệu Phật học ấn hành.

[121]- Trương Ngọc Tường, Nguyễn Ngọc Phan (2007), Báo chí ở Thành phố

Hồ Minh (100 câu hỏi đáp về Gia Định - Sài Gòn TP. Hồ Chí Minh), Nxb. TP. Hồ Chí

Minh.

[122]- Website: http://www.phattuvietnam.net

[123]- Website: http://www.daophatngaynay.com

[124]- Website: http://khoavanhoc-ngonngu.edu.vn

[125]- Website: http://giacngo.vn

[126]- Website: http://www.quangduc.com

[127]- Website: http://www.thuvienhoasen.org [128]- Website: http://www.tusachphathoc.com

218

Tài liệu tiếng nước ngoài:

[129]- Marr, David (1971), Vietnamese Anticolonialism 1885-1925, Berkeley:

Univ. California Press.

[130]- McHale, Shawn (1995), Printing, Power, and Transformation of

Vietnamese Culture 1920-1945, Dissertation, Cornell Univ. of California.

[131]- Minh Thi Nguyen (2007), Buddhist monastic education and regional

revival movements in early twentieth century Vietnam, Dissertation submitted in

partial fulfillment of the requirements for the degree of Doctor of Philosophy (Special

Graduate Committee: Buddhism in Vietnam), University of Wisconsin - Madison.

[132]- 李白坚 (2004), 中国新闻文学史, 上海大学出版发行.

[133]- 严三九 (2005), 中国新闻精品导读, 浙江大学出版发行.

219

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ

LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ĐÃ CÔNG BỐ

1. “Phật giáo và khoa học trên báo chí Phật giáo Việt Nam trước 1945”, Tạp chí

Khoa học Xã hội, ISSN 1859-0136, số 01 (173)/2013, tr.59-73.

2. “Báo chí Phật giáo và phong trào Chấn hưng Phật giáo nửa đầu thế kỷ XX”,

Tạp chí Khoa học Xã hội, ISSN 1859-0136, số 12 (172)/2012, tr.52-65.

3. “Dịch kinh Phật và báo chí Phật giáo nửa đầu thế kỷ XX”, Tạp chí Đại học

Sài Gòn, ISSN 1859 - 3208, số chuyên đề 2012, tr.148-153.

4. “Phật giáo và văn học trên tạp chí Tiến hóa xuất bản ở Sài Gòn (1938 -

1939)”, Tạp chí Đại học Sài Gòn, ISSN 1859 - 3208, số 08 (129), 1/2012,

tr.129-137.

5. “Văn học và Phật học trên Quan âm tạp chí (1941 - 1942)”, Tạp chí Đại học

Sài Gòn, ISSN 1859 - 3208, số 04 (102), 9/2010, tr.102-109.

220

PHỤ LỤC 1

1. Tạp chí Pháp âm

Bìa báo chí Phật giáo trước 1945 (Được chụp lại từ tư liệu gốc)

221

2. Tạp chí Phật hóa Tân Thanh niên

222

3. Tạp chí Từ bi âm

223

4. Tạp chí Viên âm

224

5. Tạp chí Tiếng chuông sớm

225

6. Báo Đuốc tuệ

226

7. Tạp chí Duy tâm Phật học

227

8. Tạp chí Bồ đề

228

9. Tạp chí Bát nhã âm

229

10. Tạp chí Pháp âm Phật học

230

11. Tạp chí Tam bảo

231

12. Tạp chí Tiến hóa

232

13. Tạp chí Quan âm

233

14. Tạp chí Phật pháp chỉ Niết bàn

234

15. Báo Tinh tiến

235

PHỤ LỤC 2 Một số trang thơ văn trên báo chí Phật giáo trước 1945

Mục Văn uyển trên tạp chí Từ bi âm số 2

236

Mục Tiểu thuyết trên tạp chí Từ bi âm số 3

237

Mục Thi Lâm trên tạp chí Viên âm số 2

238

Mục Tiểu thuyết trên tạp chí Viên âm số 4

239

Mục Văn uyển trên báo Đuốc tuệ số 58

240

Mục Pháp uyển (thơ) trên tạp chí Duy tâm số 1

241

Mục Văn uyển trên tạp chí Quan âm số 24

242

Mục truyện ngắn trên tạp chí Quan âm số 27

243

Mục Tiểu thuyết trên tạp chí Tam bảo số 1

244

Mục Văn uyển trên tạp chí Tam bảo số 2

245

PHỤ LỤC 3 Danh mục các tác phẩm thơ đăng trên báo chí Phật giáo trước 1945

TẠP CHÍ TỪ BI ÂM

SỐ, NĂM XB

TÁC PHẨM

TÁC GIẢ

Số 3, 2/1932

Liên Tôn

Số 7, 4/1932

Mật Khế

THỂ LOẠI THƠ Lục bát Song thất lục bát Thất ngôn bát cú

SỐ TT 01 02 03

Trí Độ

Lục bát

04

Số 15, 8/1932

05

Sa môn Tâm Tường

Số 21, 11/1932

Bích Phong

06 07 08

Thất ngôn bát cú

Võ Thành Hay

09

Số 23, 12/1932

10

Số 24, 12/1932

11

Trang Quảng Hưng

12

13

Số 26, 1/1933

Lục bát

Hòa thượng Bích Liên

Số 43, 10/1933

Minh Tịnh

14 15 16

17

Thất ngôn bát cú

Số 44, 10/1933

18

Hòa thượng Bích Liên

Lên chùa khấn Phật Cảnh sách diễn ca Thể tánh Từ bi Hồng danh Bảo sám nghi thức diễn âm Chúc mừng Hội “Nam kỳ nghiên cứu Phật học” thành lập Mừng “Từ bi âm” ra đời Biết huyển phải tìm chơn Chiếc thuyền từ Mừng Từ bi âm kêu tỉnh người mê Khuyên bạn xem Từ bi âm Đinh Chí Nghiêm Chúc hội N.K.N.C.P.H được lâu dài Mừng Từ bi âm được phổ thông Khuyên người tỉnh tâm niệm Phật Biết tu đã già Người tu tại gia Vịnh Chơn Vịnh cảnh chùa Thập Tháp ở Bình Định Vịnh cảnh chùa Ông Núi ở Bình Định Vịnh cảnh chùa Bích Liên

Số 45, 11/1933 Từ bi âm phát đạt

19 20

246

TẠP CHÍ VIÊN ÂM

SỐ, NĂM XB

TÁC PHẨM

TÁC GIẢ

THỂ LOẠI THƠ

Chùa Non Nước Mừng Viên âm ra đời

SỐ TT 01 02

Số 2, 1934

Khuyên đọc Viên Âm

03

Thất ngôn bát cú

Số 6, 1934

T.T.T Quật Đình Cổ Mai Thanh Tâm

04 05 06 07 08

09

Cổ Mai

Số 8, 1934

Tâm Bình Lục Vân Nguyễn Bích Phong Vịnh cảnh chùa Trúc Lâm Cổ Mai Thơ mừng Tết Đề chùa Linh Mụ (Huế) Khuyên người Mừng Viên Âm Cùng bạn chung thuyền chơi Túy Vân Ngủ lại chùa Túy Vân Chơi núi Thiên Thai Khuyên tu

Tâm Bình Thanh Tâm Khoan Tế Diệu Không

Lục bát Thất ngôn bát cú Song thất lục bát

Số 9, 1934 Mừng Phật học hội Số 14, 1935

10 11 12 13 14 15

Số 19, 1936

Mai Văn Đính

Thất ngôn bát cú

16

Khuyên người học đạo Nghe lời vợ đi chùa Nghe giảng kinh tại chùa Từ Quang

BÁO ĐUỐC TUỆ

SỐ, NĂM XB

TÁC PHẨM

TÁC GIẢ

THỂ LOẠI THƠ

SỐ TT

Bùi Đức Triệu

01

Số 8, 1/1936

Song thất lục bát

02

Số 12, 3/1936

Nguyễn Thượng Cần

03

Số 13, 3/1936

Số 15, 3/1936

Nguyễn Thiện Chính

Thất ngôn bát cú

Số 18, 4/1936

Số 19, 4/1936

Sự tích đức Thích Ca diễn âm Kinh Báo ơn trọng cha mẹ diễn ca Tán thán Trúc Lâm Tam tổ Vịnh chùa Quán Thánh Vịnh chùa Kiến Sơ Vịnh chùa Bách Môn Vịnh chùa Hương Vịnh chùa Tháp Vịnh chùa Giâu Vịnh chùa Tử Trầm Vịnh chùa Phật Tích Vịnh chùa Thầy Vịnh chùa Yên Tử Phật giáo nước nhà Thích nghĩa chữ A Di Đà Mừng báo Đuốc tuệ

Phạm Thanh Sắc

04 05 06 07 08 09 10 11 12 13 14 15 16

247

Số 21, 5/1936 Giấc mộng Phật

Lục Bát

Số 23, 5/1936

Thất ngôn bát cú

Ngày xuân viếng chùa Tu tại gia

17 18 19

Hương Sơn hành trình ca

Lục Bát

20

Số 24, 5/1936

Cảm tác

Thất ngôn bát cú

21

Vịnh chùa Long Đọi

22

Số 25, 6/1936

Thất ngôn bát cú

Đặng Ngọc Oanh Huyền Am Nhàn Vân Đình Nguyễn Đăng Hựu Huyền Am Nguyễn Đăng Hựu

23

Số 26, 6/1936

Sa môn Thái Hòa

Lục bát

24

25

Thất ngôn bát cú

26

Số 27, 6/1936

Nguyễn Thiện Chính

27

Lục bát

28

Số 30, 7/1936

Xem hội chùa Đọi Bài sám hối khóa sáng của Tăng Ni Tán thán đức Thích Ca 10 năm thành đạo Tán thán Nam Hải Quan Âm Vịnh chùa Một Cột Nhân quả tiểu thuyết tổng ca Khuyên mình tu Tịnh Độ Lễ chùa Một Cột

29 30

Tiếng chuông Phật giáo

31

Số 33, 7/1936

Khuyên tu đạo

Số 35, 8/1936 Khuyến học

Thanh Giản Nhàn Vân Đình Lương Duyên Tuệ Trịnh Như Tấu Thanh Bảo

32 33 34 35

Số 37, 8/1936

36

37

38

39

Số 38, 9/1936

40

Thất ngôn bát cú

Nguyễn Thiện Chính

41

42

43

Số 39, 9/1936

44

Tán thán đức Thế Tôn Tán thán A Di Đà Tán thán Bồ tát Thiện Hữu Tán thán Bồ tát Thị Kính Tán thán Thái tử Tất Đạt Đa Tán thán Bồ tát Di Lặc Tán thán Ngọc Hoàng Thượng Đế Tán thán Nam Tào Bắc Đẩu Tả cảnh Hoàng tử ra khỏi thành Tả cảnh đính hôn Gia Du phu nhân Tả cảnh ma vương trá hình Gia Du phu nhân để thử lòng đức Thế tôn khi sắp thành Phật

Số 40, 9/1936 Phật học tư tưởng diễn ca Nguyễn Bá Trọ

Số 41, 9/1936

Nguyễn Hữu Bồng

Mừng hội Phật giáo Cái chuông chùa Vịnh cây phướn

45 46 47 48 49 Số 43, 10/1936 Vịnh phúc quả

Nguyễn Thiện

248

Chính

Số 47, 11/1936

Vịnh Từ hàng Vịnh Bảo phiệt Vịnh cây Đa La Vịnh kinh Thủy Sám Vịnh thế phát Vịnh trì trai Vịnh tụng kinh

50 51 52 53 54 55 56

57 Số 49, 11/1936 Tu

Lục bát

Tử An Trần Lê Nhân

58 59 60

Số 51, 12/1936

Nguyễn Thiện Chính

61

Thất ngôn bát cú

62 63 64

65

Vịnh Giác lộ Vịnh bảo tháp Vịnh thiền môn Hội chấn hưng Phật giáo thành lập Vịnh Hoa tòa sen Bác ái Vịnh Hoa sen Ăn quả trước phải trồng cây

Số 58, 4/1937

Nhẫn

Lục bát

66

67

Số 63, 6/1937

Thất ngôn bát cú

Mừng báo đuốc tuệ Khuyến tu Đức Phật Như Lai

Số 66, 8/1937 Bài khuyên học Phật Số 68, 9/1937 Có thân cần phải tu

Số 69, 9/1937

Lục bát

Tu Tịnh độ Tu Bồ tát Tu Tam muội

68 69 70 71 72 73

74 Số 70, 10/1937 Lời khuyên tu đạo Phật

Nguyễn Cao Sơn Lương Duyên Tuệ Tử An Trần Lê Nhân Sa môn Ngọc Thụ Thanh Giản Tổng Sư Trạch Trí Hải Trần Văn Đại Lương Duyên Tuệ Thái Hòa

75 Số 71, 10/1937 Khuyến tu 76 Số 73, 11/1937 Cảm tưởng nạn dân bị lụt Trần Huy Hân

Vịnh người tu

77

Số 125, 2/1940

Thất ngôn bát cú

Lục bát

Khóc cụ Đồ Nam 78 79 Lại tới Hương Sơn 80 Số 125, 3/1940 Phật tử thất giới 81 Số 139, 9/1940 Cảm hoài 82 Số 148, 1/1941 Khuyến thiện 83 Số 152, 3/1941 Khuyến Tu 84 Số 170, 12/1941 Khuyên bạn xuất gia

Thích Thanh Đương Trần Huy Bá Tự Tân Trí Hải Thanh Phương Trí Hải Ngọc Lâm

249

TẠP CHÍ DUY TÂM PHẬT HỌC

SỐ, NĂM XB

TÁC PHẨM

TÁC GIẢ

SỐ TT

THỂ LOẠI THƠ

01

Thất ngôn bát cú

Số 1, 10/1935

Song thất lục bát

Số 4, 1/1936

Thất ngôn bát cú

02 03 04 05 06

Liễu Không P.M T.V Võ Thái Hữu

07

Nguyễn Bá Đạt

Song thất lục bát

Số 8, 5/1936

08

Bích Khê

Chúc tụng Lưỡng xuyên Phật học hội Tặng Phật học đường Mừng Duy tâm Phật học Nhớ ơn Phật Buồn đời Điếu cô Huệ Tâm Kính tặng Duy tâm Phật học Vô đề (nhắn ai kẻ tục người tiên)

T.H

Thất ngôn bát cú

Số 13, 1/1937

Đặng Văn Long

Số 20, 5/1937

Song thất lục bát

09 Số 13, 10/1936 Tu học Phật pháp 10 11 12 13 14

Thức tỉnh Hối ngộ Niệm Phật Bỏ huyễn về chơn Khuyên tu

Khánh Vân Hải giác

TẠP CHÍ TIẾNG CHUÔNG SỚM

SỐ, NĂM XB

TÁC PHẨM

TÁC GIẢ

SỐ TT

THỂ LOẠI THƠ

01

Tiếng chuông sớm

Thất ngôn bát cú

Số 1, 6/1935

02 03 04

Lục bát Song thất lục bát

Sa môn Bảo Giám V.L.B.G Tản Đà Mộng Vân

Số 2, 7/1935

05

Thất ngôn bát cú

H.S

06

Số 3, 7/1935

Thơ cụ Trạng Trình Đùa thầy lang ấm Trác Thơ giới sát Đề động Thanh Sơn Hội Xá Vịnh chùa Thiên Mụ

Lục bát

07

Số 4, 8/1935 Khuyên người đọc kinh

Song thất lục bát

Viếng chùa Trà Cú

Thất ngôn bát cú

Số 5, 8/1935 Số 6, 9/1935 Chúc nhà vua

08 09 10

Tu hành tự giác

Lục bát

11

Nghe chuông niệm Phật

Số 8, 9/1935

Vũ Xuân Tăng Nguyễn Văn Bân Thanh Tâm Vũ Xuân Tăng Lê Duy Tư Nguyễn Quảng Độ Thanh Tâm

Thất ngôn bát cú

12 13

14

Vũ Xuân Tăng

Lục bát

Số 9, 10/1935

15 16

Tặng sư Khuyên người niệm Phật Vũ Xuân Tăng Khuyên đồng nam đồng nữ Lời tán tụng Phật Gắng tu

Đàm Thị Tuyết Thanh Tâm

Song thất lục bát

250

17

Khuyên bạn tu hành

An Giang

Lục bát

Số 11, 11/1935

18 Số 12, 11/1935 Thơ chơi Sài Sơn 19

Tự trần

Thất ngôn bát cú

Số 13, 12/1935

Khuyến đạo

20

Song thất lục bát

Mân Châu Thanh Tâm Trần Kim Trọng Mộng Vân

21 22 23

Lê Duy Tư

24

Thất ngôn bát cú

Thanh Tâm

Số 14, 12/1935

25 26 27

Vũ Xuân Tăng

Lục bát

28

Thích Tâm

29

30

Thơ phóng sinh Mừng Tiếng chuông sớm Thức tỉnh đạo Phật Khuyên các chị em mộ đạo Ra về Mừng Tiếng chuông sớm Lên hang Tổ Bài ca khuyên thiện nam tín nữ Mừng Phật học tạp chí Tiếng chuông sớm Chúc mừng Tiếng chuông sớm ra đời

Thất ngôn bát cú

Mừng Tiếng chuông sớm

31

Trang Quảng Hưng Nguyễn Minh Khôi

Số 15, 1/1936

Lục bát

Ngô Trọng Nhạ

32 33 34 35 36

37

Khánh Anh

Số 17, 2/1936

Thất ngôn bát cú

38 39

Tự Giác

40

Mộng Vân

41

Số 18, 2/1936

Bảo Giám

42

Lục bát

Mừng Tiếng chuông sớm An Châu Ca tán đúc chuông Vô danh Mừng Tiếng chuông sớm Mộng Vân Đề Long Tiên động Lợi ích tôn chỉ T.C.S Xưng tụng chủ trương T.C.S Khuyên bạn đọc T.C.S Oai thần T.C.S Đề kinh Báo phụ mẫu trọng ân Ngẫu đề Lên đàn thượng cúng bách linh Số 20, 3/1936 Khuyên tu Số 21, 4/1936 Bát cú vô đề

Thất ngôn bát cú

Đề động Long Tiên

43 44 45

Số 23, 5/1936

Vịnh quả chuông

Song thất lục bát

46

Thanh Tâm Thanh Tâm Trần Mỹ Đinh thị Mai Quý

TẠP CHÍ BỒ ĐỀ

SỐ, NĂM XB

TÁC PHẨM

TÁC GIẢ

THỂ LOẠI THƠ Hát nói

SỐ TT 01

Số 2, 9/1936

Văn Thị Nga

Lục bát

02

Khuyến tu Hiếu dưỡng phụ mẫu diễn ca

Tân Phật tử

251

TẠP CHÍ BÁT NHÃ ÂM

SỐ, NĂM XB

TÊN TÁC PHẨM

TÊN TÁC GIẢ

THỂ LOẠI THƠ

SỐ TT 01 02

Số 14, 4/1939

Thất ngôn bát cú

Giải thoát

03

Chiêm ngưỡng Xá Lợi Phật Thiện Quang Thiện Quang Tặng sư cụ Thiên Thai Nguyễn Thiện Chánh

04

Số 18, 5/1940

Đại Phương Tiện Phật Báo Ân Kinh

Đỗ Phước Tâm

Song thất lục bát

Sám Khể thủ diễn nghĩa Sám đưa linh

Trí Quang

05 Số 20, 3/1941 Hồng danh Bửu sám 06 Số 21, 9/1941 07 Số 23, 9/1943

TẠP CHÍ PHÁP ÂM PHẬT HỌC

SỐ, NĂM XB

TÁC PHẨM

TÁC GIẢ

THỂ LOẠI THƠ

Số 1, 1/1937

T.H

SỐ TT 01 02

03

Số 2, 2/1937

Thất ngôn bát cú

Trần Văn Minh

T.H

Số 3, 3/1937

Pháp âm Bố thí Mừng Hội Cư sĩ xuất bản Pháp âm Phật học Họa vận Mừng Pháp âm Phật học Khuyên đời Họa vận

04 05 06 07

Bạch Vân

T.H

TẠP CHÍ TAM BẢO

SỐ, NĂM XB

TÁC PHẨM

TÁC GIẢ

THỂ LOẠI THƠ

SỐ TT

Số 1, 1/1937

Như Như

01

Số 3, 3/1937

Thất ngôn bát cú

Thơ mừng Tam bảo chí ra đời Tặng Tam Bảo Họa vận Cảm tác

Số 4, 4/1937 Số 5, 6-7/1937 Tặng Tam bảo Thu dạ cảm tác Số 8, 1-5/1938

Thích nữ Diệu Hương Thích nữ Diệu Tánh Giác Phong Từ Pháp Giác Phong

02 03 04 05 06

252

TẠP CHÍ QUAN ÂM

SỐ, NĂM XB

TÁC PHẨM

TÁC GIẢ

THỂ LOẠI THƠ

Số 22, 9/1941 Bút ký

Thất ngôn bát cú

Số 24, 11/1941

Song Châu Thu Tâm T.B

Lục bát

Số 24, 12/1941

Lương Văn Tích

Thất ngôn bát cú

Số 26, 1/1942

Lục bát

Số 27, 2/1942

Thất ngôn bát cú

Lục bát

Số 28, 3/1942

Thất ngôn bát cú

SỐ TT 01 02 03 04 05 06 07 08 09 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24

Phan Thanh Diễn Mỹ Châu Hoan Ảnh Lương Văn Tích Vũ Quốc Túy Minh Châu Huy Hoàng K.H Long Giang Tuần phủ Trần Mỹ Thiện Phú Long Giang K.H P.H Nguyễn Khắc Hiếu K.H T.B

Song thất lục bát

25

N.H.T

Số 29, 4/1942

Lục bát Thất ngôn bát cú Song thất lục bát

26 27 28 29

30

Số 30, 5/1942

31

32

Thiện Bảo

33

Thất ngôn bát cú

34

Số 32, 9/1942

35

36

Số 33, 10/1942

37

Một kiếp tu Cảnh tu hành Cảnh đền Kiếp Bạc Đêm buồn Cái Đèn điện Lọ mực Đuốc thể thao Chán Buổi Hội đồng Soi gương Khuyên học trò Tâm sự nàng Nga Tiếng chuông cảnh tỉnh Mừng Xuân Lễ Phật đầu năm Đề Động Long Tiên Giải thoát Hàng mã Tiễn Xuân Khuyến hiếu Từ biệt Tản Đà Viếng mồ chiến sĩ Cuộc phong trần Hiệu triệu anh em đồng bào Xuân đàm hiến sự Hương Sơn hành tích Yên tử du ký Vịnh Đền Côn Sơn Vịnh cảnh chùa Cầm Thực Đến chùa Lân – Vịnh cảnh Đến chùa Giải oan - Vịnh cảnh Vịnh cảnh Hoa Yên Bài văn chầu đức Trần Hưng Đạo Vịnh cảnh chùa Vân Yên Đến chùa Bảo Sát – Vịnh cảnh Đến chùa Đồng - Vịnh cảnh

253

PHỤ LỤC 4

Danh mục các tác phẩm văn xuôi đăng trên báo chí Phật giáo trước 1945

TẠP CHÍ TỪ BI ÂM

SỐ, NĂM XB

TÁC PHẨM

TÁC GIẢ

THỂ LOẠI

SỐ TT

TBA

Truyện ký

01

Số 2-32, 1932- 1933

02

Số 3, 2/1932

Liên Tôn

Tiểu thuyết

03 04

Số 4, 2/1932 Số 5, 3/1932

Tiểu thuyết Tiểu thuyết

Số 6, 3/1932

05

Tiểu thuyết

Số 7, 4/1932

Lược truyện Phật Thích Ca Mâu Ni Tu là cội phước, tình là dây oan Dưới chơn Phật Duyên trước tình sau Sám hối được sanh về thiên đường Hiếu nghĩa cảm Phật Số 8-10, 4/1932 Tưởng Phật có Phật

06 07 08 Số 10-11, 6/1932 Gương quả báo

Kim Xuân Chánh Niệm Hòa thượng Bích Liên Liên Tôn Nguyên Bản

Tiểu thuyết Tiểu thuyết Tiểu thuyết

Từ bi chỉ mối nhơn duyên Nguyên Bản

Tiểu thuyết

09

Số 13-16, 7- 8/1932

10

Số 17, 9/1932

Thiện Dụng

Truyện ngắn

11

Số 21, 11/1932

Thiện Dụng

Truyện ngắn

12

Số 22, 11/1932

13

Số 23, 12/1932

Trí Độ

14

Số 24, 12/1932

Truyện ký

15 Số 25-26, 1/1933

Thiện Dụng

Số 27, 2/1933

16

Thiện Dụng

17

Thiện Dụng

Số 28, 2/1933

18

Số 29, 3/1933

19

Truyện ngắn

20

Minh Tịnh Nguyễn Văn Hạp Nguyễn Văn Hạp

Số 30, 3/1933

21

Truyện ký

Số 31, 4/1933

22

Thiện Dụng

23 Số 32-33, 4/1933

Truyện ngắn

24

Nhựt Chánh

Truyện ký

Số 33-55, 4/1933-1934 Số 35, 6/1933

25

Nhờ vợ tu hành mà chồng khỏi đọa Một nàng con gái 13 tuổi ngộ đạo Sự tích đức Văn Thù Sư Lợi Sự tích đức Phổ Hiền Bồ tát Sự tích đức Địa Tạng Bồ tát Sự tích đức Địa Tạng Bồ tát (đời khác) Sự tích đức Di Lặc Sự tích đức Di Lặc (đời khác) Bỏ Nho đầu Phật Làm lành đặng phước làm dữ bị họa Làm lành đặng phước làm dữ bị họa Sự tích đức Ma ha ca diếp Sự tích đức A nan Nhờ đuốc tuệ ra khỏi đường mê Tiền thân đức Phật Thích Ca Lòng từ bi cảm đến loài

Thiện Dụng

Truyện ngắn

254

26

Số 36, 6/1933

27 Số 39-40, 8/1933

Nhựt Chánh

Số 41, 9/1933 Số 43, 10/1933

28 29

Số 55, 4/1934

30

Truyện ký

Giác Nhựt

Số 56, 4/1934 Số 61, 7/1934

Nhựt Chánh

31 32

Mộng Liên

33

Số 102, 3/1936

Bình Tháp

34

35

Số 124, 2/1937

Từ Ân

Truyện ngắn

36

Số 130, 5/1937

Nguyên Bản

37

Số 158, 2/1939

TBA

Truyện ký

38

Số 161, 5/1939

vật Phật hóa độ người có duyên lành Sự tích của nàng Mãn Lịnh Tông Sự tích ni sư Trí Hiền Sự tích ni sư Tịnh Kiểm Sự tích đức Đạo Tín đại sư Sự tích đức Hoằng Nhẫn Sự tích ngài An thế cao Tiền thân của Phật Thích Ca Mâu Ni liều mình cứu người Hại người tức là hại mình Gương nhân quả: Có vay phải có trả Gương nhân quả: Người đức độ thêm thọ, được con Tịnh độ vãng sinh truyện: sự tích ngài Thích Huệ Từ Sự tích ngài Thích Tăng Đệ

39 Số 166, 10/1939 Gương nhân quả

Thiện Minh

Truyện ngắn

40 Số 167, 11/1939

Gương nhân quả: Không ham sắc, được quyền cao

TẠP CHÍ VIÊN ÂM

SỐ, NĂM XB

TÁC PHẨM

TÁC GIẢ

THỂ LOẠI

Số 1, 12/1933

Tiểu thuyết

SỐ TT 01 02

T.M Châu Hải

03

Truyện ký

Câu chuyện ông chài Biển ái sống dồi Sự tích đức Phật Thích Ca Mâu Ni Biển ái sống dồi

Tiểu thuyết Tiểu thuyết

Số 1-16, 12/1933-1935 Số 2, 1/1934 Số 4-7, 3/1934 Cô Ba Liễu Số 21, 6/1936

Chuyện nàng Liên Hoa

Truyện ký

04 05 06 07 Số 30-31, 6/1938 Sự tích đức Phật A Di Đà

Viên âm

Ưu bà di

08

Tiểu thuyết

Số 53-54, 10/1942 Số 56, 1/1943

Thái tử Tất Đạt Đa xuất gia Võ Đình Cường

09 10 Số 60-61, 5/1943 Chuyện về nhân quả

Truyện ngắn

Ánh đạo vàng

Tiểu thuyết

11

Số 66-67, 10/1943

Võ Đình Cường

Số 70, 1-2/1944 Nói cùng em: Hạnh phúc

Tùy bút

12

Châu Hải Châu Hải Đôn Hậu

255

BÁO ĐUỐC TUỆ

SỐ, NĂM XB

TÁC PHẨM

TÁC GIẢ

THỂ LOẠI

Sự tích đức Phật A Di Đà Nguyễn Trọng Thuật

SỐ TT 01 02 03 04

Truyện ký Truyện ngắn Truyện ký Bùi Đức Triệu Sa môn Trí Hải dịch Truyện ngắn

Nhân quả

Nguyễn Thiện Chính Tiểu thuyết

05

Số 1, 12/1935 Số 2, 12/1935 Ma Đăng già Số 3-4, 12/1935 Trúc Lâm Tam Tổ Số 5-6, 1/1936 Chuyện chàng Đăng Chỉ Số 12-29, 3- 6/1936

Truyện ký

06

Nguyễn Trọng Thuật

Số 15, 3/1936

Truyện ngắn

07

Số 16, 3/1936

Truyện ký

08

Số 28, 6/1936

Sự tích đức Phật Thích ca Mâu Ni Biến hình cứu bạn Phật hóa phép độ ông Nan Đà Câu chuyện đi hạ

09 10 Số 30-33, 7/1936 Ông Lô Chí trưởng giả,

Trí Hải dịch Tỳ kheo Thái Hòa dịch Quang Đầu Tục Trí Hải dịch

Truyện ngắn Truyện ký

11

Số 36, 8/1936

Truyện ký

Sa môn Thái Hòa dịch

12

Số 37, 8/1936

Thiện Bảo

Truyện ký

13

Số 38, 9/1936

Truyện ký

Sa môn Thái Hòa dịch

14

Số 40, 9/1936

Thiện Bảo

Truyện ký

Truyện cô công chúa Kim Cương con vua Ba Tư Nặc Chuyện cũ nước Phật (Dì ghẻ con chồng) Truyện vua Quang Minh phát tâm cầu đạo Chuyện cũ nước nhà (Trá Hòa thượng để dò mưu giặc)

Số 52, 12/1936 Chuyện Luân hồi quả báo Minh Đằng

Truyện ký

15

Tây du ký

Thiều Chửu dịch

Truyện ký

16

Số 53-62, 1- 6/1937

Số 60, 5/1937 Oán thù bình đẳng Số 65, 7/1937

Quảng Tràng Thiệt Đ.N.T

Tiểu thuyết Tiểu thuyết

17 18

Sa môn Tố Liên

Truyện ký

Số 70, 10/1937

19

Thế cũng là “ngộ đạo” Câu chuyện Hải thần trong sách Phật

Tây vực ký

Thiều Chửu dịch

Truyện ký

20

Số 76-112 1/1938-7/1939

Nguyễn Thượng Cần Truyện ký

Số 83, 4/1938

21

Tiền thân đức Thế Tôn cầu pháp

Số 102, 2/1939 Ngoài vòng tục lụy

Đoạn Duyên

Truyện ngắn

22

Nguyễn Trọng Thuật

Truyện ký

23

Cô con gái Phật hái dâu (Truyện bà Ỷ Lan)

Quả báo triền triền

Vân Sơn

Truyện ngắn

24

Thiều Chửu dịch

Tùy bút

25

Thiện Bảo dịch

Truyện ngắn

26

Trúc song tùy bút (Vân Thê) Vết luân hồi (truyện cũ nước Tàu)

Trầm luân

Thanh Đương Thuật

Tiểu thuyết

27

Số 108-126, 5/1939-2/1940 Số 123-125, 1- 2/1940 Số 132-141, 5- 10/1940 Số 136-138, 7- 8/1940 Số 147-148, 1/1941

256

Số 149, 2/1941 Nhãn tiền báo ứng

Trần Mạnh Đàn

Truyện ngắn

28

Truyện đàn trâu

Truyện ngắn

29

Viên Quang

Đốt đuốc ban ngày

Truyện ngắn

30

Nhân quả chẳng sai

Như Như dịch

Truyện ngắn

31

Số 163-164, 9/1941 Số 169-170, 12/1941 Số 213-214, 10/1943

Thiều Chửu dịch

Truyện ký

32

Số 229-230, 6/1944

Sự tích ngài Văn Thù Bồ tát thị hiện xuống đời

TẠP CHÍ DUY TÂM PHẬT HỌC

SỐ, NĂM XB

TÁC PHẨM

TÁC GIẢ

THỂ LOẠI

SỐ TT

Độ người bỏn xẻn

Tám Bồ đề

Truyện ngắn

01

Truyện ký

02

Số 1-3, 10- 12/1957 Số 42-43, 4- 5/1941

Trần Huyền Trang du Tây ký

TẠP CHÍ TIẾNG CHUÔNG SỚM

SỐ, NĂM XB

TÁC PHẨM

TÁC GIẢ

THỂ LOẠI

SỐ TT 01 Số 1-4, 6-8/1935 Chùa Bà Đá 02

Bến Đục

H.S Tản Đà

Truyện ký Truyện ký

Nam du ký

Mộng Vân dịch

Tiểu thuyết

03

Mộng Vân Mộng Vân

Truyện ngắn Truyện ngắn

04 05

Truyện ký

06

Hội Sơn

Gương nhân quả Ác báo Lược truyện đức Phật Thích Ca

Số 1, 6/1935 Số 1-23, 6/1935- 5/1936 Số 5, 8/1935 Số 6, 9/1935 Số 6-15, 9/1935- 11/1936

Số 14, 12/1935 Vô Ngôn Thông thiền sư Mai Đăng Đệ

Truyện ký

07

Chuyện nhà tôi

Mộng Vân

Truyện ngắn

08

Tôi đi tu

Mộng Vân

Truyện ngắn

09

Số 15-17, 1- 2/1936 Số 18-23, 2- 5/1936

10 Số 21-22, 4/1936 Đức Ma ha Ca Diếp

Mai Đăng Đệ

Truyện ký

TẠP CHÍ BỒ ĐỀ

SỐ, NĂM XB

TÁC PHẨM

TÁC GIẢ

THỂ LOẠI

Số 2, 9/1936

Thiền chung thinh

Truyện ngắn

SỐ TT 01

Tân Phật tử

257

TẠP CHÍ PHÁP ÂM PHẬT HỌC

SỐ, NĂM XB

TÁC PHẨM

TÁC GIẢ

THỂ LOẠI

SỐ TT 01 Số 1-7, 1-7/1937 Phật tổ Thích Ca Số 13, 3-4/1938 Đi cúng chùa 02

Truyện ký Truyện ngắn

P.T Diệu Phước

TẠP CHÍ TAM BẢO

SỐ, NĂM XB

TÁC PHẨM

TÁC GIẢ

THỂ LOẠI

SỐ TT

01 Số 1-3, 1-3/1937

Truyện ngắn

02

Số 1, 1/1937

Truyện Cao tăng nước Việt Nam Tốt đỏ tốt trắng

An Xuyên Tư

Tiểu thuyết

TB

TẠP CHÍ TIẾN HÓA

SỐ, NĂM XB

TÁC PHẨM

TÁC GIẢ

THỂ LOẠI

Truyện ký

SỐ TT 01 Số 2-3, 2-3/1938 Phật Ấn với Tô Đông Pha Thanh Đàm

TẠP CHÍ QUAN ÂM

SỐ, NĂM XB

TÁC PHẨM

TÁC GIẢ

THỂ LOẠI

SỐ TT

Tôi đi thăm đền kiếp bạc

Tùy bút

01

Số 23, 11/1941

02 03 Số 24, 11/1941 04

Song Châu - Trần Đức Hinh T.V Đinh Gia Long Trương Vĩnh Ký

Xã luận Xã luận Xã luận

Đinh Gia Long

Xã luận

05

Số 24 (tt), 12/1941

Lệ Châu

Xã luận

06

07 Số 25, 12/1941

Tri Huyền Tử

Truyện ngắn

08 Số 26, 1/1942

Thiện Minh

Truyện ngắn

Số 27, 2/1942

L.V.T K.H Xuân Mai Th.M Hoan Ảnh

Tùy bút Tùy bút Truyện ngắn Truyện ngắn Tùy bút

09 10 11 12 13

Nguyễn Hữu Cần

Xã luận

14

Số 28, 3/1942

Số 29, 4/1942

Lạc đường Đâu là một thanh niên Nhân Tài nước Nam Tôi đã gặp ông chủ hiệu chè Phú Xuân Một tấc đất một tấc vàng Sự tích công chúa Liễu Hạnh Những lời ấy xa xăm còn vang mãi Năm mới Nhà văn với trời xuân, Cảnh tết Một kỷ niệm về tết Năm ngoái năm nay Thiên nhiên, một bài học đầy đủ và thâm thúy Văn và nhà làm Văn Nghệ thuật với nhân sinh

K.H K.H

Xã luận Xã luận

15 16

258