Vì sao cần bổ sung vitamin và khoáng chất?
Vitamin A
Sự thiếu hụt vitamin A thường gặp ở người già. Vi chất này rất quan trọng
đối với hoạt động của hệ miễn dịch. Tuy nhiên, để phòng tránh nguy cơ dị
tật bẩm sinh và loãng xương, không nên bổ sung quá 10.000 đơn vị vitamin
A mà không có chỉ định của bác sĩ.
Beta-carotene
Là một tiền tố của vitamin A, song beta-carotene có ảnh hưởng độc lập với
sức khỏe con người. Nghiên cứu cho thấy beta-carotene có thể làm tăng số
lượng tế bào bạch huyết và nâng cao khả năng chống ung thư của hệ miễn
dịch ở những người bổ sung 25.000-100.000 đơn vị mỗi ngày. Tuy nhiên,
beta-carotene tổng hợp lại không có lợi cho người hút thuốc lá, dễ gây bệnh
tim và ung thư phổi. Beta-carotene tự nhiên có thể tiêu diệt các yếu tố tiền
ung thư, trong khi loại tổng hợp không có tác dụng này.
Vitamin B
Nhiều loại vitamin B, trong đó có B1, B2 và B3, được bổ sung vào các sản
phẩm bột trắng và những loại thực phẩm đã bị mất loại vitamin này trong
khi chế biến. Vitamin B5 thì do các khuẩn đường ruột sản sinh và đủ đáp
ứng nhu cầu của cơ thể. Sự thiếu hụt vitamin B6 rất phổ biến.
Axit Folic cũng là một loại vitamin B. Nó đặc biệt quan trọng đối với phụ
nữ có thai với nhu cầu gấp đôi người thường. Sự thiếu hụt axit folic trong
thai kỳ liên quan đến nguy cơ sinh trẻ nhẹ cân và dễ bị khiếm khuyết ống
thần kinh. Cần bổ sung 400 mcg axit folic mỗi ngày trước và sau khi mang
thai.
Vitamin B12 ít khi bị thiếu hụt ở người khỏe mạnh, trừ người ăn chay
(không ăn sữa và trứng). Hiện tượng thiếu vitamin B12 ở người già thường
do sự suy giảm khả năng hấp thu vi chất này từ thức ăn do tuổi tác. Có thể
bổ sung vitamin B12 ở liều 100 mcg mỗi ngày nếu không bị bệnh thiếu máu
ác tính hoặc rối loại đường ruột- dạ dày.
Trong nhóm vitamin B, bộ ba axit folic, B12 và B6 rất quan trọng trong việc
kiểm soát lượng homocysteine trong máu. Sự gia tăng chất này liên quan
đến các bệnh tim mạch, đột quỵ, Alzheimer và loãng xương. Hiện các nhà
khoa học chưa biết nó có vai trò trực tiếp hay gián tiếp. Vì thế, cần bổ sung
hằng ngày 400 mcg axit folic, 10 mg vitamin B6 và 50 mcg B12 mỗi ngày
để phòng bệnh.
Vitamin C
Bổ sung vitamin C tối thiểu 100 mg mỗi ngày có thể tăng cường sức miễn
dịch. Có thể nạp vi chất này nhiều hơn vì uy nó không tích tụ trong cơ thể,
song hiệu quả phòng bệnh thì tương đương so với liều thấp hơn.
Vitamin D
Có thể hấp thu vitamin D từ chế độ dinh dưỡng hằng ngày hoặc ánh nắng
mặt trời. Tuy nhiên, cơ thể vẫn có nguy cơ thiếu vitamin D trong mùa đông,
đặc biệt là người già và người ăn kiêng.
Sự thiếu hụt vitamin D có liên quan đến chứng loãng xương và gãy xương ở
người già. Ở phụ nữ mãn kinh, 800 đơn vị vitamin D mỗi ngày sẽ giúp ngăn
ngừa mất xương. Không nên hấp thu quá 2.000 đơn vị vitamin D mỗi ngày
vì nó có thể trở thành độc tố.
Vitamin E
Bổ sung ít nhất 100 đơn vị mỗi ngày sẽ giảm nguy cơ phát triển bệnh tim.
Nghiên cứu cho thấy chỉ cần 50 đơn vị vitamin E cũng có thể giảm nguy cơ
ung thư tuyến tiền liệt ở người hút thuốc lá.
Vitamin K
Thiếu vitamin K gây ra các sự cố liên quan đến máu và loãng xương. Cần bổ
sung ít nhất 1mg vitamin K mỗi ngày để giảm mất xương ở phụ nữ.
Canxi
Hấp thu đủ canxi trong suốt cuộc đời là điều cần thiết để đạt tới khối xương
cao nhất và ngăn ngừa bệnh mất xương. Canxi làm chắc xương ở trẻ và làm
chậm quá trình mất xương ở người lớn. Phụ nữ mãn kinh cần hấp thu 1.500
mg canxi mỗi ngày, trong đó có 500-700 mg từ thức ăn và 800-1.000 mg từ
viên bổ sung.
Phốt pho
Dinh dưỡng hằng ngày luôn cung cấp đủ khoáng chất này. Dư thừa phốt pho
sẽ không tốt quá trình chuyển hóa xương và canxi. Do đó, nhìn chung là
không cần bổ sung phospho.
Magiê
Bổ sung ít nhất 250 mg mỗi ngày có thể chống mất xương
Kali
Hấp thu đủ kali sẽ ngừa chứng tăng huyết áp và đột quỵ. Tuy nhiên, quá
nhiều kali sẽ gây khó chịu dạ dày. Cách tốt nhất để tiếp nhận kali là ăn ít
nhất 5 bữa hoa quả, rau và nước quả mỗi ngày.
Sắt
Tình trạng thiếu sắt rất phổ biến ở phụ nữ tuổi sinh đẻ, người ăn chay, thai
phụ và vận động viên. Cần bổ sung sắt từ thực phẩm như thịt bò, quả dâu...
Nên nhớ thừa sắt cũng rất nguy hiểm, gây ra bệnh tim, tiểu đường và một số
bệnh ung thư, tăng nguy cơ lây nhiễm và làm trầm trọng thêm bệnh thấp
khớp.
Iốt
Nhìn chung người bình thường hấp thu đủ iốt từ bữa ăn hằng ngày, trừ phi
không ăn muối iốt, đồ biển và rong biển. Người mắc bệnh tuyến giáp nên
khám bác sĩ trước khi bổ sung iốt.
Kẽm
Bổ sung 30-50 mg kẽm/ngày có thể phòng chống suy nhược và tăng cường
sức miễn dịch. Chú ý là quá nhiều kẽm lại phản tác dụng, gây suy miễn dịch.
Đồng
Bổ sung 3 mg đồng/ngày để chống mất xương. Tuy nhiên, do kẽm gây cản
trở hấp thu đồng, nên phải bổ sung đồng bất cứ khi nào bổ sung kẽm trong
vài tuần.
Mangan
Hàm lượng mangan rất thấp trong các loại thực phẩm tinh luyện và chế biến
sẵn. Do đó, những người chủ yếu ăn thực phẩm công nghiệp dễ bị thiếu
mangan, gây loãng xương. Chú ý, cần bổ sung mangan khi bổ sung sắt, do
sắt cản trở hấp thu mangan và làm giảm lượng mangan có sẵn trong cơ thể.
Crom
Cho đến nay, việc nghiên cứu crom trong dinh dưỡng gặp khó khăn vì một
vài hạn chế về kỹ thuật trong phân tích thực phẩm và dịch cơ thể chứa crom.
Thiếu crom có liên quan đến những bất thường về đường huyết và
cholesterol. Lượng crom trong cơ thể sẽ giảm khi về già.
Selen
Phần lớn người bình thường có đủ selen, nếu tính theo mức khuyến cáo 70
mcg/ngày. Nghiên cứu cho thấy, nếu bổ sung khoảng 200 mcg selen từ men
mỗi ngày trong vòng 4-5 năm, nguy cơ tử vong vì ung thư sẽ giảm 50%
trong vòng 7 năm. Liều selen an toàn tối đa là 350-400 mcg/ngày