Viêm mống mắt thể mi có thể gây mù lòa
Viêm mống mắt thể mi là phần trước của màng bồ đào, do đó bệnh này còn cótên gọi là
viêm màng bồ đào trước. Bệnh hay tái phát từng đợt, nếu không được điều trị có thể dẫn
tới tăng nhãn áp và gây mù loà vĩnh viễn.
Vì sao bị viêm mống mắt thể mi?
Những căn nguyên gây bệnh có thể kể tới gồm các yếu tố tại mắt và các nguyên nhân ở
những cơ quan lân cận. Tại mắt có thể do: chấn thương mắt, sang chấn do phẫu thuật, tự
kháng nguyên thuỷ tinh thể (do khuếch tán hoặc rách bao), nhẫn viêm giao cảm. Những
yếu tố thuộc về các cơ quan lân cận như: viêm giác mạc, viêm củng mạc, nhiễm khuẩn
răng, lợi, viêm xoang. Nguyên nhân toàn thân như nhiễm khuẩn trong các bệnh lao, giang
mai, bệnh do virut, bệnh do ký sinh trùng, viêm cột sống dính khớp, viêm màng bồ đào,
hội chứng Reiter, bệnh sarcoid, bệnh Behcet… Rối loạn chuyển hoá trong các bệnh
diabete, goute… khi đó viêm màng bồ đào trước chỉ là triệu chứng của một bệnh toàn
thân. Tuy nhiên, những yếu tố kể trên chỉ chiếm 20% số ca bệnh, còn đến 80% các
trường hợp viêm mống mắt thể mi là chưa rõ nguyên nhân.
Tổn thương viêm mống mắt thể mi cấp tính.
Đau nhức mắt, sốt, sợ ánh sáng - Hãy gặp bác sĩ ngay
Bệnh nhân bị viêm mống mắt thể mi thường có các biểu hiện sau:đau nhức âm ỉ, đau
nhiều hơn về ban đêm. Thị lực giảm sút ở mức vừa phải, cảm giác như có một màn
sương mờ che trước mắt, chảy nước mắt, sợ ánh sáng: chói mắt ở những mức độ nặng
nhẹ khác nhau tùy từng bệnh nhân. So với viêm loét giác mạc, các triệu chứng có mức độ
nhẹ hơn. Biểu hiện toàn thân bệnh nhân có thể sốt, kém ăn, kém ngủ, có một ít dử mắt.
Khám thấy kết mạc cương tụ rìa, cương tụ sâu ở kết mạc, có thể thấy rất rõ những mạch
máu giãn to, màu tím sẫm, ngoằn ngoèo. Mống mắt: sẫm màu, kém xốp, đồng tử co nhỏ
và phản xạ ánh sáng giảm hoặc mất. Ở giai đoạn muộn của bệnh, đồng tử có thể bị méo
mó do dính vào mặt trước thể thuỷ tinh. Thuỷ dịch bị vẩn đục, khám trên kính hiển vi sẽ
thấy dấu hiệu Tyndall dương tính (+). Thuỷ tinh thể có những chấm sắc tố mống mắt bám
ở mặt trước, nhiều khi những chấm, đám sắc tố mống mắt này xếp theo dạng vòng tròn
tương ứng với bờ đồng tử. Mặt sau giác mạc có thể có tủa, đó chính là những chấm lắng
đọng protein từ thuỷ dịch, đây là sản phẩm của quá trình viêm. Sờ phản ứng thể mi thì
bệnh nhân đau tức là phản ứng dương tính. Những trường hợp bệnh nhân đến khám ở
giai đoạn muộn, các triệu chứng cơ năng không còn rõ nữa, hầu như chỉ còn dấu hiệu mắt
mờ, lúc này các triệu chứng khám thấy cũng khác xa so với giai đoạn trước, chẳng hạn:
mống mắt teo, bạc màu, có thể có hình ảnh núm quả cà chua do nghẽn đồng tử, thuỷ dịch
ứ lại ở hậu phòng đẩy vồng mống mắt về phía giác mạc; đồng tử bị thu nhỏ, dính tít hoặc
méo mó do dính vào mặt trước thuỷ tinh thể; phản xạ với ánh sáng của đồng tử lúc này sẽ
bị hạn chế do dính, diện đồng tử có thể bị màng viêm che kín; thuỷ tinh thể, dịch kính có
thể bị vẩn đục ở các mức độ khác nhau, do màng viêm cùng với thể thủy tinh đục che
khuất, dấu hiệu đục dịch kính chỉ có thể được phát hiện bằng siêu âm; nhãn áp tăng thứ
phát do nghẽn đồng tử, nghẽn vùng bè hoặc có thể hạ do teo thể mi.
Phương pháp chữa trị
Điều trị căn nguyên: Tùy nguyên nhân của bệnh mà có thể phải phối hợp với các chuyên
khoa liên quan để điều trị triệt để. Trường hợp không tìm được nguyên nhân thì phải
dùng kháng sinh có hoạt phổ rộng điều trị bao vây và thường dùng phối hợp ít nhất hai
loại kháng sinh.
Điều trị chống dính bằng thuốc atropin 1% nhỏ mắt 1 - 2lần/ ngày. Đây là loại thuốc cần
được dùng càng sớm càng tốt, ngay sau khi phát hiện bệnh để tránh cho mống mắt không
bị dính vào thuỷ tinh thể trong tư thế đồng tử co. Những ca bệnh nặng phải dùng dạng
thuốc tiêm atropin 1/4mg pha lẫn với thuốc adrenalin 1mg tiêm vào dưới kết mạc vùng
rìa phía có dính mống mắt để tách dính. Một lưu ý là chống chỉ định tuyệt đối dùng các
thuốc co đồng tử.
Điều trị chống viêm: Tại mắt dùng corticosteroids dạng thuốc tiêm để tiêm dưới kết mạc,
tiêm cạnh nhãn cầu. Tra vào mắt dạng thuốc nước và thuốc mỡ. Thuốc chống viêm không
steroids có thể dùng uống hoặc tiêm và nhỏ mắt phối hợp hoặc dùng ở giai đoạn củng cố.
Nâng cao thể trạng và tăng sức đề kháng bằng các thuốc: vitamin A, C, D và nhóm B.
Băng che mắt hoặc cho bệnh nhân đeo kính râm để cho mắt được nghỉ ngơi.
Điều trị các di chứng:tăng nhãn áp thứ phát, đục thể thuỷ tinh là những di chứng thường
gặp. Tuy nhiên, các trường hợp này dùng phương pháp phẫu thuật thường cho kết quả
kém và rất hay tái phát. Vì vậy, đối với bệnh viêm mống mắt thể mi cần được chẩn đoán
và điều trị sớm để tránh các biến chứng.
BS. Nguyễn Minh Hạnh