Viêm tai giữa có nguy hiểm, không được

chủ quan

Chỉ một xây xát nẹ ở phía ngoài tai, bạn có thể phải “lĩnh đủ” hậu quả nếu không

biết cách chữa trị đúng. Từ vết thương nhỏ đó dẫn đến trình trạng đau tai, khiến

mủ xanh trong tai rỉ ra, mọi chuyện đã trở nên quá muộn: Bạn đã bị viêm tai ngoài

ác tính.

Con đường dài và nguy hiểm

Viêm tai ngoài ác tính phát triển từ ngoài vào trong gây viêm tế bào, viêm xương

và có thể làm liệt các dây thần kinh sọ, thậm chí có thể gây tử vong khi quá trình

viêm lan tới lớp màng trong của não. Có rất nhiều người thường xuyên phải đối

mặt với nguy cơ này, đặc biệt là những người bị đái tháo đường, nhiễm HIV

hoặc người già suy nhược… Tác nhân gây bệnh sẽ len lỏi vào cơ thể từ vết rách da

ở ống tai ngoài - thậm chí chỉ là những vết thương do rửa tai, ngoáy tai…

Tác nhân gây bệnh viêm tai ngoài ác tính chủ yếu là vi khuẩn làm mủ xanh

Pseudomonas Aeruginosa. Có thể hình dung quá trình hình thành bệnh một cách đơn

giản: Da ngoài tai bị tổn thương dẫn đến viêm tế bào rồi viêm sụn ở vùng lân cận, tiếp

đến viêm các xương nhĩ (các xương búa, đe, bàn đạp ở sát màng nhĩ). Nếu không

được điều trị một cách phù hợp, tình trạng viêm nhiễm sẽ lan tới xương thái dương và

các vùng gần đó như khớp thái dương hàm, tuyến nước bọt, các mô ở vùng dưới thái

dương. Nếu bạn bị viêm tuyến nước bọt, bạn có thể dễ dàng nhận biết bởi một số dấu

hiệu như tuyến nước bọt sưng to, lan xuống má phía dưới, lan lên trên, đẩy dái tai lên

cao. Bệnh sẽ tiếp tục lan tới phía đáy của xương sọ, làm liệt liên tiếp các dây thần kinh

sọ, theo thứ tự phân số từ ngoài vào trong: Trước tiên là dây thần kinh VII (thần kinh

mặt), sau đó lần lượt các dây thần kinh hỗn hợp (vừa cảm giác vừa vận động): Dây IX

(thần kinh thiệt hầu), dây X (thần kinh phế vị), dây XI (thần kinh phụ) gây ra hiện tượng

khó phát âm, rối loạn nuốt; tiếp đến liệt dây XII (thần kinh hạ thiệt) khiến lưỡi bị lệch về

phía bên tai đau.

Cơ chế sinh bệnh: Chưa rõ

Thường thì người bị viêm tai ác tính rất chủ quan, không hề biết bản thân mình

đang phải đối mặt với nguy hiểm. Với các nhà nghiên cứu, cho đến nay nguyên

nhân và cơ chế sinh bệnh vẫn là một bí mật, bởi trong phần lớn trường hợp thì

phải đợi đến thời điểm dây thần kinh hỗn hợp bị liệt thì mới xác định được bệnh.

Tuy nhiên, cũng vẫn còn nhiều trường hợp, do không làm đủ các xét nghiệm cần

thiết, chỉ phát hiện được viêm tai ngoài ác tính khi bệnh nhân đã bị liệt mặt (tổn

thương thần kinh VII).

Thường thì nếu bị viêm tai ác tính, ống tai sẽ rỉ máu, đặc biệt là khi được hút nhẹ

các tiết dịch ra. Khi đã nghi ngờ, bác sĩ sẽ cho bạn làm những xét nghiệm cần thiết

như xét nghiệm dịch mủ rỉ từ tai ra để tìm nguyên nhân gây bệnh; xác định tốc độ

lắng máu (hầu hết các trường hợp viêm tai ngoài ác tính đều thấy tốc độ lắng máu

tăng cao). Nếu còn nghi ngờ thì phải chụp cắt lớp điện toán (có đo mật độ xương)

để kiểm tra hốc xương ở tai giữa và các xương nhĩ (búa, đe, bàn đạp) có bình

thường không. Phương pháp này có thể giúp bác sĩ và bệnh nhân thấy được các

hình ảnh viêm xương, những chỗ ống tai ngoài bị mòn vẹt do viêm gây ra cũng

như các khối u của mô mềm lân cận làm hẹp ống tai ngoài.

Chụp cộng hưởng từ hạt nhân rất cần đối với các thể bệnh đang phát triển để đánh

giá mức độ phá hủy xương và tổn thương của các mô mềm. Sau khi đã điều trị,

bệnh nhân cần chụp nhấp nháy xương bằng chất đồng bị phóng xạ Gallium 67 để

đánh giá mức độ khỏi bệnh.

Ngăn chặn quá trình liệt

Tùy theo mức độ tiến triển của bệnh mà bác sĩ sẽ quyết định cách điều trị. Nếu

bệnh nhânđã bị liệt dây VII và viêm xương chũm (phần xương sọ ở vùng sát với

tai) thì việc áp dụng các can thiệp phẫu thuật như nạo bỏ xương bị viêm để

giải phóng cho thần kinh khỏi bị chèn ép đều vô ích. Phương pháp này không giúp

gì cho thần kinh mặt đã bị liệt, cũng không ngăn chặn được quá trình viêm đang

phát triển, thậm chí còn làm liệt tiếp các dây thần kinh hỗn hợp ở gần đó. Chỉ có

dùng kháng sinh mới phòng ngừa để các dây thần kinh hỗn hợp này khỏi bị viêm

và liệt tiếp. Để tránh thất bại, bác sĩ thường chỉ ngừng điều trị khi trên hình chụp

nhấp nháy xương bằng Gallium 67 có dấu hiệu báo quá trình viêm xương đã

ngừng lại.

Các di chứng thần kinh bao giờ cũng quá nặng nề đối với bệnh nhân bị viêm tai ác

tính và thường thì không thể phục hồi. ở trường hợp điều trị muộn, kháng sinh chỉ

ngăn không cho quá trình viêm tiếp tục lan tới các dây thần kinh sọ chưa bị tổn

thương, còn dây VII (hoặc các dây thần kinh hỗn hợp khác) khi đã bị liệt rồi thì

khó có thể hồi phục được. Liệt dây thần kinh VII sẽ làm mặt biến dạng và tàn

phế nặng, ảnh hưởng đến phát âm, ăn uống, nhất là rối loạn khép mi mắt (có nguy

cơ cao bị loét giác mạc). Liệt các dây thần kinh hỗn hợp gây ra các di chứng nặng

ở người cao tuổi, nhất là trường hợp liệt một bên cơ khít hầu, bệnh nhân không

nuốt được, thường phải đặt ống dẫn thông dạ dày.