BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TPHCM
NGUYỄN TẤN ĐẠT
XÁC ĐỊNH LÃI SUẤT CHO VAY
TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI
VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
TPHCM – 2014
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TPHCM
NGUYỄN TẤN ĐẠT
XÁC ĐỊNH LÃI SUẤT CHO VAY
TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI
VIỆT NAM
Chuyên ngành: TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG
Mã số: 60340201
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS LÊ TẤN PHƯỚC
TPHCM – 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, số liệu thống kê là trung
thực, nội dung và kết quả nghiên cứu của luận văn này chưa từng được công bố trong bất cứ
công trình nào cho tới thời điểm này.
TPHCM, ngày … tháng 09 năm 2014
Tác giả
NGUYỄN TẤN ĐẠT
MỤC LỤC
Trang
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC BẢNG
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ
1 MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................................... 1
2. Mục tiêu nghiên cứu .......................................................................................................... 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ..................................................................................... 2
4. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................................... 2
5. Cấu trúc của đề tài ............................................................................................................. 3
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ KHOẢNG RỘNG LÃI SUẤT CHO VAY VÀ HUY
4 ĐỘNG
1.1 Lãi suất và khoảng rộng lãi suất ........................................................................................ 4
1.2 Các yếu tố ảnh hưởng đến IRS .......................................................................................... 5
1.2.1 Các yếu tố vi mô .............................................................................................................. 5
1.2.2 Các yếu tố vĩ mô ............................................................................................................ 10
1.3 Một số nghiên cứu thực nghiệm ...................................................................................... 14
Kết luận chương 1 .................................................................................................................. 18
CHƢƠNG 2: HỆ THỐNG NHTM VÀ IRS TẠI VIỆT NAM 19
2.1 Tổng quan về hệ thống ngân hàng của Việt Nam ............................................................ 19
2.1.1 Lịch sử phát triển ........................................................................................................... 19
2.1.2 Ngân hàng Nhà nước ..................................................................................................... 22
2.1.3 Ngân hàng thương mại nhà nước (Đến 30/6/2013) ....................................................... 23
2.1.4 Ngân hàng chính sách .................................................................................................... 23
2.1.5 Ngân hàng TMCP trong nước (đến 30/6/2013) ............................................................. 24
2.1.6 Chi nhánh ngân hàng nước ngoài (Đến 30/6/2013) ...................................................... 24
2.1.7 Ngân hàng liên doanh (Đến 30/6/2013) ........................................................................ 24
2.1.8 Ngân hàng 100% vốn nước ngoài (Đến 30/6/2013) ...................................................... 25
2.2 Diễn biến lãi suất cho vay và huy động tại các ngân hàng từ 2000 – 2013 .................... 26
2.3 Những yếu tố tác động đến khoảng rộng lãi suất tại Việt Nam....................................... 30
2.3.1 Các yếu tố vi mô ............................................................................................................ 30
2.3.2 Các yếu tố vĩ mô ............................................................................................................ 45
Kết luận chương 2 .................................................................................................................. 61
CHƢƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ GIẢI PHÁP ĐỀ XUẤT 62
3.1 Mô hình ............................................................................................................................ 62
3.2 Nguồn gốc dữ liệu và phương pháp nghiên cứu .............................................................. 63
3.3 Kết quả thực nghiệm ........................................................................................................ 65
3.4 Kiến nghị đối với các cơ quản lý ..................................................................................... 71
3.5 Kiến nghị đối với ngân hàng............................................................................................ 74
Kết luận chương 3 .................................................................................................................. 79
80 KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ACB: Ngân hàng Thương mại Cổ phần Á châu.
ADB (Asian Development Bank): Ngân hàng phát triển châu Á.
BCTC: Báo cáo tài chính.
CARICOM (Caribbean Community): Cộng đồng Caribbean.
CPI (Consumer price index): Chỉ số giá tiêu dùng.
ECCU (Eastern Caribbean Currency Union): Liên minh tiền tệ Đông Caribbean.
Eximbank: Ngân hàng Thương mại Cổ phần Xuất Nhập Khẩu Việt Nam.
IFS (International Financial Statistics): Thống kê tài chính quốc tế.
IRS (Interest rate spread): Khoảng rộng lãi suất cho vay và huy động.
NIM (Net interest margin): Tỷ lệ lãi cận biên.
Sacombank: Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài Gòn Thương Tín.
VCB: Ngân hàng Thương mại Cổ phần Ngoại Thương Việt Nam.
Vietinbank: Ngân hàng Thương mại Cổ phần Công Thương Việt Nam.
DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 3.1: Bảng mô tả dữ liệu 64
Bảng 3.2: Kết quả hồi quy Pooled 65
Bảng 3.3: Kết quả hồi quy Fixed effects 66
Bảng 3.4: Kết quả hồi quy Random effects 66
Bảng 3.5: Kết quả kiểm định Hausman test 67
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, ĐÔ THỊ
Trang
Đồ thị 2.1: Diễn biến lãi suất cho vay và huy động tại các ngân hàng từ 2000 – 2013 27
Đồ thị 2.2: Chênh lệch lãi suất ở một số quốc gia 29
Đồ thị 2.3: Tỷ lệ Chi phí hoạt động trên Tổng tài sản sinh lãi của 5 ngân hàng 30
Đồ thị 2.4: Chi phí hoạt động của 5 ngân hàng 31
Đồ thị 2.5: IRS và chi phí hoạt động/tổng tài sản của 5 ngân hàng 32
Đồ thị 2.6: Thu nhập ngoài lãi của 5 ngân hàng 34
Đồ thị 2.7: Thu nhập ngoài lãi/tổng tài sản và IRS của 5 ngân hàng 36
Đồ thị 2.8: Tỷ lệ nợ xấu của 5 ngân hàng 37
Đồ thị 2.9: Tỷ lệ nợ xấu và IRS tại 5 ngân hàng 40
Đồ thị 2.10: Tổng tài sản sinh lãi của các ngân hàng 41
Đồ thị 2.11: Tỷ lệ tài sản có tính lỏng và IRS tại 5 ngân hàng 42
Đồ thị 2.12: CPI và IRS tại 5 ngân hàng 46
Đồ thị 2.13: Biến động lãi suất và IRS tại 5 ngân hàng 48
Đồ thị 2.14: GDP và IRS tại 5 ngân hàng 50
Đồ thị 2.15: Lãi suất chiết khấu và IRS tại 5 ngân hàng 52
Đồ thị 2.16: Diễn biến tỷ giá tại Việt Nam 53
Đồ thị 2.17: Biến động của tỷ giá và IRS tại 5 ngân hàng 59
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nền kinh tế Việt Nam đang gặp nhiều khó khăn và thách thức trong công cuộc đổi mới
và phát triển từ sau khi gia nhập WTO. Để phát triển và hội nhập, nền kinh tế cần nhiều
nguồn vốn tài trợ đến từ các thành phần kinh tế của xã hội. Hệ thống tài chính phát triển hỗ
trợ rất nhiều cho kinh tế quốc gia phát triển. Một trong những chức năng chính của hệ thống
tài chính nói chung và đặc biệt hệ thống ngân hàng nói riêng là tạo cơ hội thuận lợi cho tăng
trưởng kinh tế thông qua chức năng trung gian tài chính hiệu quả giữa nguồn tiết kiệm và
nhu cầu đầu tư. Ngân hàng là một kênh dẫn xuất quan trọng chuyển nguồn vốn từ nơi thừa
đến nơi thiếu của xã hội.
Khoảng rộng lãi suất được hiểu là chênh lệch giữa lãi suất huy động và cho vay
(Interest rate spreads (IRS)). Đây là chỉ số quan trọng để phân tích tính hiệu quả hoạt động
của ngân hàng và mức độ phát triển của hệ thống tài chính. Nó ảnh hưởng không nhỏ đến
việc lưu thông của nguồn vốn này. Akinlo & Owoyemi (2012) cho rằng IRS lớn thường
khuyến khích tiết kiệm tiềm năng và vì vậy nguồn vốn dành cho đầu tư tiềm năng cũng bị
giới hạn. Khoảng rộng lãi suất phụ thuộc vào nhiều yếu tố, bao gồm trong và ngoài của
Ngân hàng. Khoảng rộng lãi suất được xem như lãi cận biên của các ngân hàng thương mại.
Adnan Kasman và cộng sự (2010) cho rằng với vai trò trung gian tài chính tỷ lệ lãi cận
biên của ngân hàng (xem như chi phí trung gian) ảnh hưởng đến tổn thất xã hội. IRS phản
ảnh thông tin về hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân hàng. Do vậy, việc xác định các yếu
tố quyết định IRS sẽ giúp các ngân hàng nhìn nhận thay đổi hiệu quả hoạt động qua thời
gian và đưa ra các ngụ ý giúp các nhà hoạch định chính sách tạo lập môi trường vĩ mô cho
khu vực ngân hàng. Hơn nữa, để tránh hiện tượng thống lĩnh thị trường tạo chi phí biên cao
không khuyến khích tiết kiệm và thực hiện đầu tư, các nhà quản lý mong muốn hệ thống các
ngân hàng thương mại phải hiệu quả và cạnh tranh.
Trong nước các tranh luận về IRS của hệ thống ngân hàng thương mại VN còn rất ít,
trong khi vấn đề này thực sự rất quan trọng. Vì vậy bài nghiên cứu “Xác định lãi suất cho
2
vay tại các ngân hàng thƣơng mại Việt Nam” được tiến hành để bổ sung vào khoảng
trống trong nghiên cứu trong nước.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Bài nghiên cứu này tập trung vào thảo luận các vấn đề liên quan đến hệ thống ngân
hàng thương mại Việt Nam và đặc trưng IRS của một số ngân hàng thương mại lớn, chiếm
phần lớn thị phần trong nước. Bài viết tập trung vào các mục tiêu cụ thể như sau:
- Tìm hiểu tầm quan trọng của IRS và những yếu tố tác động đến IRS.
- Thực trạng hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam.
- Đặc trưng IRS của nhóm ngân hàng thương mại lớn và có thị phần lớn ở Việt Nam,
phân tích thực nghiệm các yếu tố ảnh hưởng đến IRS.
- Đề xuất một số kiến nghị đối với các cơ quan quản lý và ngân hàng.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: khoảng rộng lãi suất cho vay và huy động tại Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu: lãi suất cho vay và huy động của 5 ngân hàng thương mại cổ
phần chiếm thị phần huy động và cho vay lớn của Việt Nam là Vietinbank, Vietcombank,
ACB, Eximbank và Sacombank.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Phương pháp so sánh đối chứng: Dựa trên số liệu thực tế thu thập được nghiên cứu so
sánh với mục tiêu, chỉ tiêu cụ thể để từ đó rút ra những điểm được và chưa được.
Phương pháp phân tích kinh tế lượng: Thông qua dữ liệu thu thập được từ Báo cáo tài
chính có kiểm toán của các ngân hàng và các tổ chức quốc tế như ADB, IFS, … tác giả sử
dụng phần mềm Stata 11 phân tích hồi quy dữ liệu bảng để tìm ra mối quan hệ giữa các yếu
tố.
Nguyên tắc phân tích: Khi phân tích các yếu tố tác động đến IRS nghiên cứu dựa trên
nguyên tắc cetaris paribus. Nghĩa là, khi nghiên cứu tác động của một nhân tố thì ta cố định
các nhân tố khác.
3
Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
Việc khảo sát những yếu tố tác động đến IRS tại Việt Nam giúp các cơ quan quản lý
và ngân hàng chủ động trong công tác điều hành lãi suất và điều chỉnh các yếu tố cho phù
hợp với tình hình thực tế của thị trường.
5. Cấu trúc của đề tài
Ngoài phần mở đầu các phần tiếp theo là nội dung của bài nghiên cứu. Chương 1 là
giới thiệu tổng quan về IRS. Chương 2 trình bày thực trạng khoảng rộng lãi suất cho vay và
huy động tại việt nam. Chương 3 phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến IRS bằng mô hình
thực nghiệm. Phần cuối cùng là kết luận và các hàm ý chính sách.
4
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ KHOẢNG RỘNG LÃI SUẤT CHO
VAY VÀ HUY ĐỘNG
1.1 Lãi suất và khoảng rộng lãi suất
Lãi suất: Khi sử dụng bất kỳ khoản tín dụng nào, người vay cũng phải trả thêm một
phần giá trị ngoài phần vốn gốc vay ban đầu. Tỷ lệ phần trăm của phần tăng thêm này so với
phần vốn vay ban đầu được gọi là lãi suất. Lãi suất là giá mà người vay phải trả để được sử
dụng tiền không thuộc sở hữu của họ và là lợi tức người cho vay có được đối với việc trì
hoãn chi tiêu.
Lãi suất cho vay: là mức lãi suất áp dụng để tính lãi cho khoảng thời gian tính lãi
trong thời hạn trả nợ hoặc trong thời hạn gia hạn nợ mà hai bên đã thỏa thuận trong hợp
đồng tín dụng, trong biên bản gia hạn nợ.
Lãi suất huy động: là mức lãi suất áp dụng để tính lãi cho khoảng thời gian tính lãi
trong thời hạn gửi tiền mà hai bên đã thỏa thuận trong hợp đồng tiền gửi.
Khoảng rộng lãi suất (Interest rate spreads (IRS)) là chênh lệch giữa lãi suất ngân
hàng cho vay và lãi suất ngân hàng huy động vốn. Cách đo lường IRS cũng chính là cách đo lường tỷ lệ lãi cận biên1. Trong các nghiên cứu thực nghiệm IRS được xác định như sau:
IRS = (Tổng thu nhập lãi/Tổng tài sản sinh lãi) – (Tổng chi phí lãi/Tổng nợ phải trả)
Như đã nêu ở phần mở đầu IRS lớn làm cản trở việc hỗ trợ tài chính cần thiết cho sự
phát triển của nền kinh tế, IRS làm gia tăng chi phí tín dụng đối với khách hàng vay đồng
thời làm giảm lãi suất huy động của khách hàng gửi tiền qua đó giảm nguồn tiền gửi. Tại
những quốc gia có IRS lớn sẽ làm gia tăng chi phí, hạn chế sự tiếp cận thị trường tín dụng
của khách hàng vay tiềm năng qua đó giảm đầu tư và hạn chế sự phát triển của nền kinh tế.
IRS lớn không những phản ánh sự thiếu hiệu quả của hệ thống ngân hàng mà còn của
lĩnh vực tài chính. IRS mang ý nghĩa quan trọng trong sự tăng trưởng và phát triển của nền
kinh tế. Quaden (2004) cho rằng hệ thống ngân hàng hiệu quả sẽ mang lại nhiều lợi ích cho
1 Xem thêm Espinosa và cộng sự (2011)
5
nền kinh tế thông qua thu nhập nhiều hơn cho khách hàng gửi tiền và chi phí ít hơn cho
khách hàng vay tiền khi đầu tư dự án mới và cần sự hỗ trợ tài chính từ ngân hàng.
Một tổ chức tài chính hiệu quả có hai vai trò quan trọng: thứ nhất là trung gian chuyển
vốn từ khách hàng gửi tiền đến khách hàng vay tiền và thứ hai là định hướng dòng vốn vào
đầu tư sản xuất và có hiệu quả.
IRS như phí bảo hiểm cho rủi ro mà ngân hàng phải chịu, đồng thời là thước đo sự
hiệu quả của ngân hàng và những yếu tố chính tác động đến chi phí trung gian này thu hút
sự chú ý đang ngày một gia tăng của các nhà nghiên cứu và những nhà làm chính sách.
Nhiều nghiên cứu cho thấy IRS là do những yếu tố nội tại của ngân hàng, trong khi
nhiều nghiên cứu khác lại cho rằng IRS là do kinh tế vĩ mô và luật lệ, quy định mà ngân
hàng hoạt động trong môi trường đó. Những cuộc tranh luận này chỉ có thể được giải quyết
thông qua phân tích định lượng những yếu tố tác động đến IRS.
Trong nghiên cứu thực nghiệm, nghiên cứu đầu tiên về xác định lãi suất biên ngân
hàng được Ho và Saunder công bố năm 1981. Trong nghiên cứu tác giả cho rằng lãi suất
biên tối ưu của ngân hàng phụ thuộc vào bốn yếu tố: mức độ ngại rủi ro, cấu trúc thị trường,
quy mô giao dịch trung bình, và bất ổn lãi suất tiền gửi và cho vay. Ho & Saunder (1981) đã
nghiên cứu thực nghiệm mô hình ngân hàng tại Mỹ. Sau đó có rất nhiều tác giả đã nghiên
cứu và tìm ra nhiều yếu tố khác có ảnh hưởng đến lãi cận biên (hay IRS) như Angbazo
(1997), Claessens và cộng sự (2001), Akinlo & Owoyemi (2012),…
Trong phần tiếp theo bài viết trình bày các vấn đề liên quan đến các yếu tố ảnh hưởng
đến IRS. Các yếu tố này đã được nhiều nhà nghiên cứu kiểm tra trong các mô hình thực
nghiệm ở nhiều quốc gia khác nhau.
1.2 Các yếu tố ảnh hƣởng đến IRS
1.2.1 Các yếu tố vi mô
Chi phí hoạt động (Operating cost): phát sinh trong quá trình cho vay và phục vụ
khách hàng gửi tiền, là chi phí quản trị, chi phí trả lương hay phát sinh ngẫu nhiên như chi
phí thành lập chi nhánh mới (trang bị cơ sở vật chất, trang trí, tuyển thêm lao động cho chi
6
nhánh mới để thu hút khách hàng), thu hút và giữ chân nguồn nhân lực có chất lượng, chi
phí quảng cáo và những chi phí khác phát sinh nhằm gia tăng thị phần và công việc kinh
doanh. Chi phí hoạt động chiếm vai trò quan trọng trong tổng chi phí của các doanh nghiệp
nói chung và ngân hàng nói riêng. Thông qua chi phí hoạt động phát sinh trong quá trình
kinh doanh, chúng ta có thể đánh giá được công tác quản trị chi phí của chính ngân hàng đó
có hiệu quả hay không. Chi phí hoạt động thấp so với quy mô hiện có là do ngân hàng có hệ
thống quản trị chi phí hiệu quả đánh giá đúng chất lượng công việc của người lao động,
nâng cao năng suất làm việc của người lao động thông qua việc người lao động hưởng được
chính thành quả và công sức của họ, đơn giản là làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít.
Đồng thời, ngoài chi phí trả lương được đánh giá đúng, những chi phí khác như điện, nước,
văn phòng phẩm, … đã được ngân hàng tiết kiệm và sử dụng có hiệu quả trong quá trình
kinh doanh. Chi phí hoạt động cao so với quy mô hiện có là do không hiệu quả trong hoạt
động hay ngân hàng quản trị chi phí không tốt. Chi phí cao như vậy là do ngân hàng trả
lương cao hơn khả năng hay năng suất làm việc của người lao động, lãng phí điện, nước,
văn phòng phẩm, … Và ngân hàng sẽ chuyển chi phí này sang cho khách hàng gánh chịu
thông qua nâng lãi suất cho vay hay giảm lãi suất huy động góp phần nâng cao IRS. Kunt và
Huizinga (1999) chứng minh được rằng IRS và chi phí hoạt động có mối quan hệ thuận
chiều. Tương tự, Barajas và những người khác (1999, 2000) và Brock và Suarez (2000)
cũng chứng minh được mối quan hệ này giữa IRS và chi phí hoạt động.
Trong hoạt động của bất kỳ tổ chức nào nói chung và ngân hàng nói riêng, chi phí hoạt
động đóng vai trò cực kỳ quan trọng vì nó quyết định lợi nhuận cuối cùng của ngân hàng.
Một ngân hàng quản trị chi phí không tốt hay bộ máy tổ chức và hoạt động cồng kềnh thiếu
hiệu quả làm chi phí hoạt động tăng cao gây sức ép lên doanh thu nếu ngân hàng muốn đạt
được lợi nhuận mong muốn. Một ngân hàng quản trị chi phí tốt sẽ giúp giảm chi phí hoạt
động góp phần nâng cao lợi nhuận của ngân hàng.
Dự trữ bắt buộc (Reserve Requirements): Các ngân hàng thương mại được yêu cầu
phải duy trì một số tiền tỷ lệ với tổng huy động, dự trữ bắt buộc được xem như công cụ để
điều hành chính sách tiền tệ và hệ thống ngân hàng. Ngân hàng nhà nước sử dụng công cụ
dự trữ bắt buộc để thực thi chính sách điều hành, thông qua nâng tỷ lệ dự trữ bắt buộc để
7
hạn chế tín dụng của các ngân hàng thương mại nhằm kiềm chế lạm phát hay tăng trưởng
nóng của nền kinh tế hay giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc để thúc đẩy tín dụng của của các ngân
hàng thương mại góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển khi nền kinh tế suy thoái hay tăng
trưởng chậm chạp. Dự trữ này làm tăng chi phí và làm giảm thu nhập của ngân hàng. Mặc
dù ngân hàng vẫn phải trả lãi cho khách hàng số tiền duy trì dự trữ bắt buộc nhưng ngân
hàng lại không thể kinh doanh hay cho vay số tiền trên, điều này làm chi phí vốn của số tiền
được kinh doanh hay cho vay còn lại tăng lên dẫn đến lợi nhuận giảm sút. Ngân hàng có thể
chuyển phần thiệt hại về thu nhập này về phía khách hàng gửi tiền thông qua việc họ nhận
được lãi suất thấp hơn, hay chuyển phần thiệt hại này cho khách hàng vay tiền thông qua
việc khách hàng phải chịu lãi suất cao hơn, qua đó làm gia tăng IRS.
IRS giữa các ngân hàng còn phản ánh tính hiệu quả trong hoạt động của tổ chức tài
chính đó. Ngân hàng hoạt động không hiệu quả và điều kiện kinh tế, thị trường bất lợi làm
gia tăng chi phí. Dự trữ bắt buộc và IRS có tương quan thuận, dự trữ bắt buộc như một loại
thuế tài chính chìm làm tăng chi phí vốn mà ngân hàng phải chịu, Chirwa và Mlachila
(2004) giải thích điều này: “chi phí cơ hội của việc dự trữ làm ngân hàng thu được ít hoặc
không có lãi làm gia tăng chi phí vốn và ngân hàng phải chuyển chi phí này cho khách
hàng” Barajas và những người khác (2000) chứng minh được IRS và dự trữ bắt buộc có mối
liên hệ thuận chiều. Brock và Suarez (2000) và Saunders và Schumacher (2000) chứng minh
được dự trữ bắt buộc đóng vai trò như thuế và làm cho IRS lớn tại một số nước Mỹ Latin và
một số nước phát triển.
Thu nhập ngoài lãi (Non interest income) của ngân hàng làm giảm áp lực lợi nhuận
mà dư nợ tín dụng phải gánh chịu để bù đắp chi phí trả lãi và chi phí hoạt động góp phần
giảm IRS. Ngân hàng đạt được lợi nhuận mong muốn mà không cần thiết phải tăng IRS.
IRS có tương quan ngược chiều với thu nhập ngoài lãi. Nguồn thu nhập này đến từ hoạt
động dịch vụ, hoạt động kinh doanh ngoại hối, hoạt động mua bán chứng khoán kinh doanh,
hoạt động mua bán chứng khoán đầu tư, hoạt động góp vốn mua cổ phần và hoạt động
khác,…Để phục vụ cho những hoạt động này có hiệu quả, các ngân hàng đã thành lập các
phòng ban chuyên biệt hay bộ phận chuyên môn để chuyên trách thực hiện những nghiệp vụ
8
và hoạt động trên. Thông qua thu nhập ngoài lãi, ngân hàng có thể đa dạng hóa nguồn thu
nhập để giảm sự phụ thuộc vào thu nhập từ hoạt động tín dụng.
Những hoạt động này góp phần hỗ trợ cho hoạt động cho vay của ngân hàng một cách
có hiệu quả và gia tăng tính cạnh tranh của các sản phẩm tín dụng. Để gia tăng và phát triển
nguồn thu nhập này, ngân hàng cần cung cấp cho khách hàng những dịch vụ gia tăng như
dịch vụ ngân quỹ, dịch vụ trả hộ tiền lương qua ngân hàng, dịch vụ ủy thác và quản lý tài
sản, dịch vụ tư vấn tài chính,…Bên cạnh đó, ngân hàng cần nắm bắt tình hình thực tế của thị
trường để có chính sách phù hợp góp phần tối đa hóa nguồn thu nhập này.
Chất lƣợng nợ (Loan quality): đây là một trong những yếu tố quan trọng không kém
ảnh hưởng đến IRS của ngân hàng. Nếu chất lượng dư nợ không tốt ngân hàng sẽ gánh chịu
chi phí quản lý và dự phòng cao làm tăng chi phí góp phần làm giảm lợi nhuận, để bù đắp
cho chi phí này ngân hàng sẽ chuyển chi phí này sang cho khách hàng gánh chịu thông qua
nâng lãi suất cho vay hay giảm lãi suất huy động góp phần làm IRS tăng cao để bù đắp. Nợ
xấu / Tổng dƣ nợ thể hiện chất lượng nợ, tỷ lệ này càng cao thì chất lượng nợ của ngân
hàng đó càng kém, nợ xấu là nợ từ nhóm 3 đến nhóm 5 theo phân loại nợ của ngân hàng.
Nguyên nhân dẫn đến nợ xấu phát sinh bao gồm những yếu tố khách quan và chủ quan của
nền kinh tế. Nguyên nhân khách quan đến từ những yếu tố bên ngoài mà ngân hàng và
khách hàng không thể nào khống chế được. Những nguyên nhân khách quan như khó khăn
chung của nền kinh tế, lạm phát, lãi suất, tỷ giá, … ảnh hưởng tiêu cực đến khách hàng dẫn
đến phát sinh nợ xấu. Những nguyên nhân chủ quan như cán bộ của ngân hàng lợi dụng
quyền hạn cho vay sai quy định hay lừa đảo, khách hàng cố tình chiếm đoạt vốn vay, …
cũng ảnh hưởng không nhỏ làm phát sinh nợ xấu.
Randall (1998) chứng minh được có mối quan hệ thuận chiều giữa IRS và chất lượng
nợ tại những nước Caribbean, Brock và Suarez (2000), và Barajas và những người khác
(1999, 2000) cũng xác nhận điều tương tự tại hệ thống tài chính của Colombia. Nguyên
nhân chất lượng nợ thấp đến từ việc quản trị rủi ro yếu trong nội bộ ngân hàng và những
khó khăn khách quan của nền kinh tế. Những ngân hàng có hệ thống quản trị rủi ro tốt sẽ
chịu chi phí này ít hơn những ngân hàng có hệ thống quản trị rủi ro yếu.
9
Thị phần (Market share) huy động và cho vay, nếu ngân hàng có thị phần huy động
tốt thì sẽ ổn định lãi suất đầu vào, qua đó làm giảm sự biến động lãi suất. Các ngân hàng
không có thị phần cao sẽ nâng lãi suất huy động để thu hút nguồn tiền gửi và qua đó nâng
cao lãi suất cho vay. Khi lãi suất cho vay cao thì sẽ phải đầu tư vào những ngành có rủi ro
cao, khi rủi ro cao thì đồng nghĩa với chi phí quản lý và bù đắp cho rủi ro đó cũng cao. Qua
đó làm cho IRS tăng cao, thị phần huy động được tính bằng: Huy động vốn của ngân hàng
/ Tổng huy động của hệ thống. Thị phần cho vay cao cũng có tác động đến IRS: Dƣ nợ
cho vay của ngân hàng / Tổng dƣ nợ của hệ thống.
Các ngân hàng chiếm được thị phần lớn về huy động và cho vay thường là những ngân
hàng lớn có mạng lưới rộng khắp và dịch vụ đa dạng. Cuộc tranh giành thị phần giữa các
ngân hàng ngày càng gay go và quyết liệt mà các ngân hàng lớn và lâu năm có ưu thế không
nhỏ. Nhưng chính sự đổi mới, chất lượng dịch vụ tốt và đa dạng tăng cường tính cạnh tranh
cho những ngân hàng nhỏ hay mới thành lập. Việc cạnh tranh thu hút thị phần thúc đẩy các
ngân hàng thường xuyên đổi mới và cải thiện chất lượng sản phẩm, dịch vụ góp phần phục
vụ tốt hơn cho khách hàng.
Chỉ tiêu (Target) do hệ thống đặt ra, để đạt được chỉ tiêu, các ngân hàng sẽ nâng lãi
suất cho vay lên cao để đạt chỉ tiêu về doanh thu, lợi nhuận nếu thu nhập ngoài lãi không đủ
lớn hay giảm lãi suất cho vay thu hút thêm khách hàng vay để đạt chỉ tiêu về dư nợ. Tương
tự, ngân hàng sẽ nâng lãi suất huy động thu hút thêm nhiều khách hàng gửi tiền để đạt chỉ
tiêu về huy động vốn.
Các tổ chức nói chung và ngân hàng nói riêng thường dựa trên kết quả đạt được trong
năm cũ và đặt ra chỉ tiêu để phấn đấu cho toàn hệ thống trong năm mới bao gồm chỉ tiêu về
dư nợ, doanh thu, lợi nhuận, tỷ lệ nợ xấu, … Ngân hàng sẽ đặt ra các khoản thưởng hay phạt
để thúc đẩy hệ thống nhằm đạt được những mục tiêu đã đề ra. Các chi nhánh tùy theo tình
hình nội tại và thị trường mà điều chỉnh lãi suất cho vay và huy động cho phù hợp. Việc
nâng hay giảm lãi suất cho vay và huy động để đạt được mục tiêu đã đề ra có ảnh hưởng
không nhỏ đến IRS của chính ngân hàng đó.
10
Rủi ro thanh khoản (Liquidity risk): Đây là một trong những yếu tố nội tại ảnh
hưởng không nhỏ đến lãi suất cho vay và huy động, qua đó ảnh hưởng đến IRS của ngân
hàng. Để tính rủi ro thanh khoản sẽ dùng công thức: Tài sản có tính lỏng / Tổng tài sản.
Tài sản có tính lỏng cao trong ngân hàng đó là: Tiền mặt, vàng bạc, đá quý, tiền gửi lại
Ngân hàng Nhà nước, tiền vàng gửi tại các Tổ chức tín dụng khác và cho vay các Tổ chức
tín dụng khác. Việc nắm giữ danh mục tài khoản có tính lỏng nhiều hay ít xuất phát từ chính
sách kinh doanh và hoạt động của các ngân hàng. Theo lý thuyết kinh tế, rủi ro càng cao thì
lợi nhuận càng cao. Các ngân hàng nắm giữ tài sản có tính lỏng tỷ lệ càng cao thì hiệu quả
hoạt động và lợi nhuận mang lại của tài sản của những ngân hàng đó lại càng không cao,
việc tài sản có thể nhanh chóng chuyển thành tiền làm cho lợi nhuận thu được từ những tài
sản đó không được cao. Tuy nhiên, việc nắm giữ những tài sản như vậy giúp ngân hàng an
toàn hơn trong hoạt động, sẵn sàng thanh toán cho khách hàng khi cần làm cho rủi ro thanh
khoản thấp. Tương tự, những ngân hàng thay vì nắm giữ những tài sản có tính lỏng càng cao
thì sẽ nắm giữ những tài sản khó chuyển hóa thành tiền hơn, những tài sản này có tỷ suất
sinh lợi cao hơn những tài sản có tính lỏng tốt. Những ngân hàng này đánh đổi rủi ro thanh
khoản của mình với hiệu quả hoạt động của tài sản, với lợi nhuận. Các ngân hàng có hệ
thống quản trị rủi ro tốt có thể cân đối được hai yếu tố này, vừa giữ cho rủi ro thanh khoản
thấp hay ở mức chấp nhận được lại vừa nâng cao hiệu quả hoạt động của tài sản góp phần
đem về lợi nhuận tối ưu cho ngân hàng. Hệ số này tỷ lệ nghịch với IRS, tức là tỷ lệ này càng
cao hay rủi ro thanh khoản càng thấp thì IRS càng thấp và tỷ lệ này càng thấp hay rủi ro
thanh khoản càng càng cao thì IRS càng lớn. Brock and Franken (2002) nhận thấy thanh
khoản của ngân hàng có mối liên hệ với IRS tại Chile. Khi hệ thống ngân hàng dư thừa
thanh khoản thì rủi ro thanh khoản thấp góp phần làm giảm IRS.
1.2.2 Các yếu tố vĩ mô
Sức mạnh thị trƣờng (Market power): là cấu trúc thị trường tồn tại một số ngân
hàng đóng vai trò quan trọng và có sức ảnh hưởng đến IRS, đó là những ngân hàng có thị
phần huy động và cho vay cao, có khả năng dẫn dắt thị trường thông qua lãi suất huy động
và cho vay mà các ngân hàng này đưa ra. Lý thuyết kinh tế thừa nhận rằng áp lực cạnh tranh
từ việc tự do gia nhập thị trường và cạnh tranh giá sẽ nâng cao hiệu quả của trung gian tài
11
chính thông qua việc giảm IRS. Chirwa et al (2004) ủng hộ giả thuyết IRS có liên quan
cùng chiều với sức mạnh thị trường. Sức mạnh thị trường càng lớn (cạnh tranh ít) thì IRS
càng lớn.
Để đo sức mạnh thị trường trong hệ thống ngân hàng dùng Herfindahl–Hirschman
index (HHI). Hai yếu tố để tính toán đó là số lượng tổ chức và thị phần của mỗi tổ chức,
càng ít tổ chức thì càng dễ áp đặt giá cao, tương tự thị phần càng lớn thì càng dễ áp đặt giá.
Công thức được tính bằng cách bình phương thị phần của mỗi tổ chức và sau đó cộng lại.
HHI index < 0,01 (hay 100) cho thấy thị trường cạnh tranh cao.
HHI index < 0,15 (hay 1.500) cho thấy thị trường không tập trung.
HHI index từ 0,15 – 0,25 (hay 1.500 – 2.500) cho thấy thị trường tập trung vừa phải.
HHI index > 0,25 (> 2.500) cho thấy thị trường tập trung cao.
Những ngân hàng có thị phần huy động và cho vay cao thông thường là những ngân
hàng có quy mô tài sản lớn và mạng lưới rộng khắp. Những ngân hàng có quy mô tài sản
lớn tạo niềm tin cho khách hàng gửi tiền hay có khả năng tài trợ cho những dự án đầu tư lớn
đòi hỏi nhiều vốn, mạng lưới rộng khắp tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho khách hàng giao
dịch góp phần nâng cao thị phần chiếm giữ của ngân hàng. Tuy nhiên, những yếu tố khác
như công nghệ, chất lượng phục vụ và sản phẩm đa dạng, … cũng góp phần không nhỏ giúp
ngân hàng thu hút thị phần. Đây là những yếu tố mà những ngân hàng nhỏ và mới thành lập
hướng tới nếu muốn cạnh tranh có hiệu quả với những ông lớn của ngành.
Lạm phát (Inflation): là sự giảm sức mua của đồng tiền. Lạm phát là một trong
những yếu tố vĩ mô tác động không nhỏ đến nền kinh tế và đời sống xã hội, đồng thời tác
động đến lãi suất cho vay và huy động, qua đó ảnh hưởng đến IRS. Lạm phát do hai nguyên
nhân là cầu kéo và chi phí đẩy. Với một nền kinh tế phụ thuộc nhiều vào nguyên vật liệu
nhập khẩu như Việt Nam thì yếu tố lạm phát tác động mạnh đến nền sản xuất và kinh tế của
nước ta, chỉ cần một biến động về giá nguyên vật liệu của thế giới thì giá cả của các sản
phẩm làm ra có sự biến động mạnh ngay lập tức. Sự sụt giảm tổng cung hay sản lượng tiềm
năng, điều này có thể là do thiên tai, hoặc tăng giá của nguyên liệu đầu vào. Ví dụ, giảm đột
12
ngột trong việc cung cấp dầu, dẫn đến giá dầu tăng lên, có thể gây ra lạm phát. Các nhà sản
xuất mà dầu là một phần chi phí của họ sau đó có thể chuyển thông tin này cho người tiêu
dùng dưới hình thức giá tăng lên, đó là lạm phát chi phí đẩy. Sự gia tăng chi tiêu của cá
nhân và chính phủ làm tổng cầu tăng lên khuyến khích tăng trưởng kinh tế đồng thời đẩy giá
lên, đó là lạm phát cầu kéo.
Lạm phát tăng lên làm thu nhập thực tế của người dân giảm xuống mặc dù thu nhập
danh nghĩa không hề giảm hay tăng chậm hơn lạm phát. Tương tự, lạm phát cũng làm cho
thu nhập thực tế của khách hàng gửi tiền giảm xuống. Và theo lý thuyết kinh tế, để khách
hàng gửi tiền có thu nhập thực dương, ngân hàng sẽ tăng lãi suất huy động. Chi phí lãi suất
huy động đầu vào đã tăng làm lãi suất cho vay đầu ra cũng tăng theo, qua đó ảnh hưởng đến
IRS. Nhiều bài nghiên cứu về IRS đã khảo sát tác động của lạm phát đến IRS, sau khi phân
tích định lượng đều rút ra kết luận là lạm phát có mối liên hệ thuận chiều với IRS, đặc biệt
tại những nước đang phát triển có tỷ lệ lạm phát cao (theo Kunt và Huizinga, 1999; Brock
và Suarez, 2000; Claessens và những người khác, 2001). Những nước có lạm phát cao, để
phòng ngừa những rủi ro do lạm phát gây ra, ngân hàng sẽ nâng cao IRS. Để đo lạm phát
trong bài này, ta sử dụng chỉ số CPI hiện tại so sánh với CPI cùng kỳ năm trước.
Biến động của lãi suất (Volatility of interest rates) là sự lên xuống của lãi suất trên
thị trường. Biến động lãi suất xuất phát từ tình hình kinh tế vĩ mô không ổn định, lạm phát,
tỷ giá … biến động. Biến động của lãi suất ảnh hưởng đến lãi suất cho vay và huy động,
thông qua đó ảnh hưởng đến IRS của thị trường tài chính. Các ngân hàng đưa ra IRS lớn
trong thị trường biến động mạnh để phòng ngừa sự không chắc chắn của lãi suất, của những
khách hàng có rủi ro cao. Quản trị sự biến động lãi suất thông qua quản trị nguồn vốn tốt có
thể giúp giảm IRS, đại diện là sự biến động của lãi suất liên ngân hàng (hay lãi suất cơ bản).
Sự biến động của lãi suất là một biến được đưa vào mô hình hồi quy để khảo sát tác động
của nó lên IRS của hệ thống ngân hàng và được đo bằng độ lệch chuẩn của lãi suất cơ bản
so với 3 quý trước đó.
Hoạt động kinh tế (Economic activity): Theo lý thuyết có mối liên hệ thuận chiều
giữa hoạt động kinh tế và IRS. Trong nền kinh tế mở rộng, nhu cầu vay vốn gia tăng làm lãi
13
suất cho vay tăng cao, qua đó gia tăng IRS. Tuy nhiên, những bài nghiên cứu thực nghiệm
tìm thấy kết quả không trùng khớp nhau. Randall (1998) trong nghiên cứu của cô ấy tìm ra
mối quan hệ ngược chiều giữa hoạt động kinh tế và IRS trong khi Moore và Craigwell
(2000) trong nghiên cứu của họ lại tìm ra mối quan hệ thuận chiều tại những nước
CARICOM. Trong nghiên cứu của Randall (1998) tại những nước có nền kinh tế thị trường
nhỏ, các nước ECCU dễ bị tổn thương bởi những cú sốc từ bên ngoài và thảm họa thiên
nhiên, điều này làm gia tăng nợ xấu trong hệ thống ngân hàng, qua đó gia tăng áp lực lên lãi
suất cho vay. Moore and Craigwell (2000) giải thích rằng thu nhập gia tăng, nhu cầu vay
vốn gia tăng, làm nâng cao lãi suất cho vay và IRS. Hoạt động kinh tế thể hiện qua tốc độ
tăng trưởng GDP (tổng sản phẩm quốc nội) so với cùng kỳ năm trước và được sử dụng như
biến tác động đến IRS của hệ thống ngân hàng.
Lãi suất chiết khấu (Discount rate): là chi phí mà ngân hàng thương mại phải đối
mặt khi vay từ Ngân hàng Trung ương thông qua chiết khấu giấy tờ có giá, lãi suất chiết
khấu được dùng như công cụ điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng nhà nước. Lãi suất
chiết khấu được đưa ra cao hay thấp phụ thuộc vào chính sách tiền tệ mà Ngân hàng nhà
nước theo đuổi. Khi nền kinh tế tăng trưởng nóng dẫn đến tình trạng bong bóng và lạm phát,
Ngân hàng nhà nước đưa ra mức lãi suất cao nhằm thu hút tiền về từ các ngân hàng thương
mại nhằm giảm tốc độ tăng trưởng tín dụng và ổn định kinh tế vĩ mô. Ngược lại, khi nền
kinh tế có dấu hiệu chững lại hay giảm phát thì Ngân hàng nhà nước sẽ hạ lãi suất chiết
khấu xuống nhằm đưa tiền ra ngoài thị trường kích thích nền kinh tế phát triển. Lãi suất
chiết khấu có tương quan thuận với IRS, tức là khi lãi suất chiết khấu tăng lên thì IRS cũng
tăng lên theo và ngược lại. Khi lãi suất chiết khấu tăng lên đồng nghĩa với việc tăng chi phí
vốn đầu vào, theo đó lãi suất đầu ra cũng tăng lên theo làm IRS biến động. Đề bù đắp chi
phí này thì các Ngân hàng thương mại sẽ chuyển chi phí này sang khách hàng thông qua
tăng lãi suất cho vay, do đó làm gia tăng IRS.
Sự biến động của kinh tế vĩ mô còn được thể hiện qua Biến động của tỷ giá
(Volatility of exchange rates) trong nền kinh tế. Với một nền kinh tế nhập siêu như Việt
Nam thì tỷ giá là một trong những yếu tố tác động không nhỏ đến tổng thể chung của nền
kinh tế. Khi tỷ giá tăng sẽ làm cho giá cả các loại nguyên liệu đầu vào tăng theo dẫn đến giá
14
cả đầu ra cũng thay đổi theo và ngược lại. Tỷ giá và lãi suất có mối tương quan ảnh hưởng
lẫn nhau. Vì vậy, sự biến động của tỷ giá được đưa vào bài nghiên cứu như một biến độc lập
để xác định nó ảnh hưởng như thế nào đến IRS. Cũng giống như lạm phát và lãi suất, sự
biến động của tỷ giá ảnh hưởng rất sâu rộng đến nền kinh tế và nhiều mặt của đời sống xã
hội, để phòng ngừa rủi ro thì hệ thống ngân hàng sẽ tăng IRS. Sự biến động của tỷ giá được
đo bằng độ lệch chuẩn của tỷ giá so với 3 quý trước đó.
Hệ thống luật pháp, quy định chế tài, tình trạng tham nhũng, môi trường kinh tế vĩ mô
… là những yếu tố cơ bản để hỗ trợ hoạt động ngân hàng hiệu quả. Môi trường chính sách
và sự không ổn định của kinh tế vĩ mô có tác động đến IRS.
1.3 Một số nghiên cứu thực nghiệm
Trong nghiên cứu The Determinants of Interest Rate Spreads in Nigeria: An
Empirical Investigation của Akinlo, Owoyemi, bài nghiên cứu khảo sát những yếu tố tác
động đến IRS tại Nigeria thông qua dữ liệu của 12 ngân hàng giai đoạn 1986-2007. Kết quả
cho thấy dự trữ bắt buộc tiền mặt, dư nợ trung bình trên tổng huy động vốn trung bình, thu
nhập trên tổng tài sản và GDP có ảnh hưởng thuận chiều lên IRS. Tuy nhiên, thu nhập
không phải từ lãi cho vay trên tổng tài sản trung bình, chứng chỉ quỹ và sự phát triển của
chứng khoán có mối quan hệ ngược chiều với IRS. Nhìn chung, kết quả của bài nghiên cứu
đề nghị việc giảm tỷ lệ dự trữ tiền mặt, chi phí hoạt động sẽ góp phần làm giảm IRS tại
Nigeria.
Trong nghiên cứu Determinants of commercial banks interest rate spreads: some
empirical evidence from the Eastern Caribbean Currency Union của Grenade, bài
nghiên cứu phân tích xu hướng IRS của các ngân hàng thương mại tại ECCU giai đoạn
1993-2003. Kết quả cho thấy, đầu tiên IRS lớn và cho thấy ít tín hiệu thu hẹp, thứ hai, ngân
hàng nước ngoài hoạt động với IRS lớn hơn ngân hàng trong nước. Bài nghiên cứu sử dụng
phương pháp dữ liệu bảng để đo lường tác động của các yếu tố vi mô và vĩ mô lên IRS. Kết
quả chỉ ra rằng IRS bị tác động bởi mức độ tập trung cao của hệ thống ngân hàng, chi phí
hoạt động cao, nợ xấu và lãi suất huy động điều chỉnh của ngân hàng Trung ương.
15
Trong nghiên cứu Financial Intermediation in the Pre-Consolidated Banking
Sector in Nigeria của Hesse, bài nghiên cứu sử dụng thông tin từ Bảng cân đối kế toán và
Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của các ngân hàng riêng lẻ để khảo sát về hiệu quả
trung gian của lĩnh vực ngân hàng trước khi hợp nhất của Nigeria giai đoạn 2000-2005. Tác
giả phân tích chính sách của Ngân hàng Trung ương Nigeria có thể được nhìn thấy thông
qua những yếu tố tác động đến IRS. Việc phân tích IRS và dữ liệu bảng cho thấy cải cách
trong lĩnh vực ngân hàng là bước đầu tiên để nâng cao hiệu quả trung gian trong lĩnh vực
ngân hàng của Nigeria. Tác giả nhận thấy những ngân hàng lớn thì chịu chi phí cố định ít
hơn, việc tập trung trong lĩnh vực ngân hàng không làm IRS tăng cao, việc nắm giữ nhiều
tài sản thanh khoản cao và nhiều vốn có thể làm giảm IRS trong năm 2005, và môi trường
kinh tế vĩ mô ổn định là môi trường hiệu quả để đầu tư vào sản xuất.
Trong nghiên cứu Financial Reforms and Interest Rate Spreads in the
Commercial Banking System in Malawi của Chirwa và Mlachila, bài nghiên cứu phân
tích tác động của cải cách trong lĩnh vực tài chính lên IRS trong hệ thống ngân hàng thương
mại tại Malawi. Chương trình cải cách tài chính bắt đầu năm 1989 khi 2 luật Reserve Bank
Act (luật dự trữ ngân hàng) và Banking Act (luật ngân hàng) được xem xét lại với việc giảm
bớt điều kiện khi gia nhập vào hệ thống ngân hàng, và công cụ chính sách tiền tệ gián tiếp
được giới thiệu năm 1990. Việc chấp nhận tỷ giá hối đoái thả nổi năm 1994 là phần cuối của
chương trình cải cách chính sách chính trong lĩnh vực tài chính của Malawi. Sử dụng những
định nghĩa khác nhau về IRS, phân tích cho thấy IRS vẫn còn lớn sau khi tự do hóa tài chính
và kết quả hồi quy chứng tỏ IRS lớn được cho là do tình trạng độc quyền, dự trữ bắt buộc
cao, lãi suất chiết khấu của ngân hàng Trung ương và lạm phát cao.
Nghiên cứu Interest Rate Spreads in English-Speaking African Countries của
Crowley, J.2007 khảo sát IRS tại một vài nước châu Phi nói tiếng Anh. IRS lớn là do lạm
phát thấp, số lượng ngân hàng nhiều, ngân hàng thuộc sở hữu nhà nước nhiều. Nâng cao lãi
suất huy động được cho là làm IRS giảm nhưng lại làm cho NIM tăng cao. IRS tăng thập
niên 1980 và 1990 là do lành mạnh hóa hệ thống giám sát lĩnh vực tài chính. Bài nghiên cứu
với dữ liệu giới hạn cho thấy chính phủ với khả năng quản lý yếu kém và dự trữ bắt buộc
cao làm cho IRS lớn.
16
Nghiên cứu Commercial bank Net Interest Margins, Default Risk, Interest-Rate
Risk, and Off-Balance Sheet Banking của Angbazo khảo sát những yếu tố chính tác động
đến NIM của ngân hàng thông qua mẫu là các ngân hàng của Mỹ và sử dụng dữ liệu thường
niên từ 1989 – 1993. Kết quả là rủi ro khi cho vay, chi phí cơ hội của dự trữ bắt buộc, đòn
bẩy tài chính (tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản), hiệu quả quản trị (tỷ lệ tài sản mang lại
thu nhập trên tổng tài sản) tỷ lệ thuận với IRS của ngân hàng và rủi ro thanh khoản tỷ lệ
nghịch với IRS.
Nghiên cứu On the Determinants of Bank Interest Margins under Credit and
Interest Rate Risks của Wong nhận thấy IRS có tương quan thuận chiều với sức mạnh thị
trường của ngân hàng, chi phí hoạt động, rủi ro tín dụng và mức độ rủi ro lãi suất. Tuy
nhiên, việc tăng vốn chủ sở hữu lại gây tác động bất lợi lên lợi nhuận khi ngân hàng phải
đối mặt với rủi ro lãi suất.
Nghiên cứu Interest Spreads in Banking in Colombia, 1975-96 của Barajas, Steiner
và Salazar khảo sát tác động của tự do hóa tài chính trong nền kinh tế Colombia lên IRS
trong lĩnh vực ngân hàng. Kết quả thu được có sự pha trộn: Tự do hóa nâng cao sự cạnh
tranh trong lĩnh vực ngân hàng một cách đáng kể, làm giảm sức mạnh thị trường và thuế tài
chính từ mức cao nhất những năm 1970. Tuy nhiên, họ phát hiện ra rằng những ngân hàng
đó có tương quan với sự thay đổi trong chất lượng nợ, phản ánh sự phát triển của hệ thống
giám sát và báo cáo ngành ngân hàng.
Nghiên cứu Understanding the Behaviour of Bank Spreads in Latin America của
Brock and Suarez áp dụng phương pháp 2 bước cho mẫu là 5 nước Mỹ Latin giai đoạn giữa
thập niên 1990 (Argentina, Bolivia, Colombia, Chile và Peru). Kết quả cho thấy giá trị
dương trong tỷ lệ vốn (có ý nghĩa thống kê đối với Bolivia và Colombia), tỷ lệ chi phí (có ý
nghĩa thống kê đối với Argentina và Bolivia) và tỷ lệ thanh khoản (có ý nghĩa thống kê đối
với Bolivia, Colombia và Peru). Tác động của nợ xấu, thực tế có sự pha trộn. Ngoại trừ
Colombia, nơi hệ số nợ xấu dương và có ý nghĩa thống kê, những nước khác có hệ số âm
(có ý nghĩa thống kê đối với Argentina và Peru). Bước 2 chạy mô hình hồi quy để đo lường
IRS thông qua những biến kinh tế vĩ mô là sự biến động của lãi suất, lạm phát và sự tăng
17
trưởng của GDP. Kết quả cho thấy sự biến động lãi suất làm gia tăng IRS tại Bolivia và
Chile, điều tương tự với lạm phát cho Colombia, Chile và Peru. Những trường hợp khác, hệ
số không có ý nghĩa thống kê.
Nghiên cứu Determinants of Commercial Bank Interest Rate Spreads in a
Liberalized Financial System: Empirical Evidence form Nigeria 1989-2000 của Enendu
tiến hành thực nghiệm những yếu tố tác động đến IRS trong hệ thống tài chính tự do giai
đoạn 1989-2000 thông qua những ngân hàng được lựa chọn của Nigeria. IRS được tính toán
thông qua Bảng cân đối kế toán và Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh cũng như những
dữ liệu kinh tế vĩ mô. Kết quả cho thấy những điều chỉnh trong chính sách tiền tệ và kinh tế
vĩ mô là những yếu tố tác động đến IRS quan trọng hơn quy mô của ngân hàng. Lạm phát,
GDP, tự do tài chính, dự trữ tiền mặt bắt buộc, chi phí rủi ro, lãi suất trái phiếu, chất lượng
tài sản nợ, rủi ro thanh khoản và những chi phí không liên quan lãi suất là những yếu tố tác
động nhiều nhất đến IRS của ngân hàng trong giai đoạn này.
Nghiên cứu Why Are Interest Spreads So High in Uganda? của Beck and Hesse lý
giải vì sao IRS lại lớn tại Uganda. Kết quả cho thấy quy mô nhỏ của các ngân hàng Uganda,
lãi suất trái phiếu cao và sự yếu kém của hệ thống tài chính là những yếu tố chính ảnh
hưởng đến IRS. Ngoài ra, kết quả cho thấy những yếu tố kinh tế vĩ mô như lạm phát và tỷ
giá cao có tác động lớn đến IRS tại Uganda.
Hiện nay, tác giả chưa tìm thấy các nghiên cứu trong nước khảo sát về đề tài này.
18
Kết luận chƣơng 1
Khoảng rộng lãi suất cho vay và huy động ảnh hưởng đến khả năng luân chuyển của
nguồn vốn ngân hàng đến các thành phần kinh tế trong xã hội và phụ thuộc bởi các yếu tố
bên trong và bên ngoài của ngân hàng.
Trong chương 1 của bài nghiên cứu đã hệ thống hóa các vấn đề chung liên quan đến
lãi suất và khoảng rộng lãi suất cho vay và huy động như khái niệm, sơ lược những yếu tố vi
mô và những yếu tố vĩ mô ảnh hưởng đến khoảng rộng lãi suất cho vay và huy động tại Việt
Nam. Thêm nữa, tác giả đã tóm lược những bài nghiên cứu tham khảo của các tác giả khác
nhằm lựa chọn những yếu tố tác động đến IRS phù hợp với Việt Nam để đưa vào làm biến
trong mô hình nghiên cứu. Từ lý thuyết trên đây sẽ tạo nền tảng cho việc phân tích khoảng
rộng lãi suất cho vay và huy động trong chương sau.
19
CHƢƠNG 2: HỆ THỐNG NHTM VÀ IRS TẠI VIỆT NAM
2.1 Tổng quan về hệ thống ngân hàng của Việt Nam
2.1.1 Lịch sử phát triển
Trước Cách mạng tháng 8 năm 1945, Việt Nam là nước thuộc địa nửa phong kiến
dưới sự thống trị của thực dân Pháp. Hệ thống tiền tệ, tín dụng ngân hàng được thiết lập và
hoạt động chủ yếu phục vụ chính sách thuộc địa của Nhà nước Pháp ở Việt Nam. Trong
suốt thời kỳ thuộc địa, sự hình thành và phát triển của hệ thống tiền tệ, tín dụng đều do
Chính phủ Pháp xếp đặt, bảo hộ thông qua Ngân hàng Đông Dương. Thực chất, Ngân hàng
Đông Dương hoạt động với tư cách là một Ngân hàng phát hành Trung ương, đồng thời là
một ngân hàng kinh doanh đa năng bao gồm các nghiệp vụ ngân hàng thương mại và nghiệp
vụ đầu tư.
Quá trình phát triển của hệ thống Ngân hàng Việt Nam có thể chia thành 4 thời kỳ
như sau:
1. Thời kỳ 1945-1954: Cách mạng Tháng Tám thành công, ngày 2/9/1945, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Chính
quyền non trẻ của giai cấp công nông đã phải ứng phó với những thách thức lớn: vừa giải
quyết những vấn đề cấp bách của đời sống nhân dân, củng cố và tăng cường thực lực của
chính quyền, vừa phải chống lại hành động chống phá của thực dân Pháp và các thế lực
phản động. Tháng 12/1946, hưởng ứng lời kêu gọi của Hồ Chủ Tịch, toàn quốc bước vào
cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp.
Trong khói lửa chiến tranh, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã nhanh chóng
thiết lập được một nền tiền tệ độc lập, tự chủ, tạo thế đứng vững chắc trên mặt trận tài chính
- tiền tệ, sử dụng tiền tệ làm công cụ phục vụ đắc lực công cuộc kháng chiến, kiến quốc.
Đặc biệt, sự ra đời của Ngân hàng Quốc gia Việt Nam ngày 6/5/1951 là bước ngoặt lịch sử
trong quá trình phát triển hệ thống tiền tệ - ngân hàng Việt Nam. Hoạt động của Ngân hàng
Quốc gia trong thời kỳ này đã góp phần rất quan trọng củng cố hệ thống tiền tệ độc lập, tự
20
chủ của đất nước, phát triển sản xuất, lưu thông hàng hóa, tăng cường lực lượng kinh tế
quốc doanh, phục vụ cuộc kháng chiến chống Pháp.
2. Thời kỳ 1954-1975: Sau Hiệp định Giơ-ne-vơ (20/7/1954), 2 miền Nam - Bắc tạm
thời bị chia cắt. Đảng ta xác định đường lối chung của Cách mạng Việt Nam trong giai đoạn
này là tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc
và thực hiện cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam.
Chức năng, nhiệm vụ và tổ chức bộ máy của Ngân hàng Quốc gia Việt Nam từng
bước được hoàn thiện để phù hợp với yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng. Hoạt động của
Ngân hàng Quốc gia trong thời kỳ này tập trung vào việc tăng cường quản lý, điều hoà lưu
thông tiền tệ theo các nguyên tắc quản lý kinh tế, tài chính XHCN; xây dựng và hoàn thiện
chế độ tín dụng hướng vào phục vụ phát triển kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể; mở
rộng phạm vi và cải tiến nghiệp vụ thanh toán không dùng tiền mặt, thiết lập vai trò ngân
hàng là trung tâm thanh toán của nền kinh tế; mở rộng quan hệ thanh toán và tín dụng quốc
tế; thực hiện chế độ Nhà nước độc quyền quản lý ngoại hối…
Cũng trong thời kỳ này, thực hiện chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ngân hàng Nhà nước đã
thành lập các đơn vị đặc biệt mang bí số B29 và N2683 với nhiệm vụ nhận và vận chuyển
các khoản viện trợ của bè bạn trên thế giới từ miền Bắc vào chiến trường miền Nam, phục
vụ cuộc kháng chiến giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
3. Thời kỳ 1975-1985: Sau đại thắng mùa xuân năm 1975, nước ta bước sang một
thời kỳ mới: thời kỳ hòa bình, độc lập, thống nhất, cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Đảng và Nhà nước đã đề ra nhiều chủ trương, chính sách để khôi phục và phát triển kinh tế-
xã hội sau chiến tranh. Ngành Ngân hàng đã khẩn trương tiếp quản và cải tạo hệ thống ngân
hàng của chế độ cũ ở miền Nam, xây dựng hệ thống ngân hàng mới của chính quyền cách
mạng, thực hiện thống nhất tiền tệ trong cả nước; ban hành và thực hiện nhiều biện pháp về
tiền tệ, tín dụng, quản lý ngoại hối, thanh toán để góp phần ổn định tình hình kinh tế và lưu
thông tiền tệ, đáp ứng nhu cầu vốn và tiền mặt cho sản xuất, quốc phòng, an ninh và đời
sống kinh tế - xã hội; mở rộng hợp tác quốc tế, tranh thủ sự giúp đỡ của bạn bè quốc tế cho
công cuộc tái thiết đất nước.
21
Tuy đạt được một số kết quả tích cực trong khôi phục và phát triển kinh tế - xã hội,
song do hậu quả của chiến tranh kéo dài, cộng với việc duy trì quá lâu cơ chế kế hoạch hóa
tập trung đã khiến kinh tế nước ta rơi vào tình trạng suy thoái nặng nề, bội chi ngân sách ở
mức cao trong nhiều năm, lạm phát có lúc ở mức 3 con số, hoạt động sản xuất, lưu thông
phân phối và đời sống nhân dân gặp rất nhiều khó khăn.
4. Thời kỳ 1986 đến nay: Sau một thời gian tiến hành làm thử việc chuyển hoạt
động ngân hàng sang kinh doanh XHCN, ngày 26/3/1988 Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành
Nghị định 53/HĐBT với định hướng cơ bản là “chuyển hẳn hệ thống ngân hàng sang hoạt
động kinh doanh”. Tổ chức, bộ máy của Ngân hàng Nhà nước được kiện toàn, sắp xếp lại để
thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ, tín dụng, đồng thời làm chức năng ngân
hàng của các ngân hàng; các ngân hàng chuyên doanh thực hiện nhiệm vụ kinh doanh tín
dụng và dịch vụ ngân hàng. Theo đó, bốn ngân hàng chuyên doanh được thành lập trên cơ
sở chuyển và tách ra từ Ngân hàng Nhà nước, gồm: Ngân hàng Công thương Việt Nam,
Ngân hàng Phát triển nông nghiệp, Ngân hàng Đầu tư và Xây dựng Việt Nam, Ngân hàng
Ngoại thương Việt Nam.
Tháng 5/1990, Hội đồng Nhà nước thông qua 2 Pháp lệnh Ngân hàng. Hệ thống ngân
hàng bắt đầu quá trình chuyển đổi mạnh mẽ, căn bản và toàn diện phù hợp với chủ trương
phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần của Đảng, Nhà nước.
Ngân hàng Nhà nước đã thực hiện chính sách lãi suất dương, kết hợp sử dụng các
công cụ gián tiếp với công cụ kiểm soát trực tiếp trong điều hành chính sách tiền tệ; hình
thành các thị trường tiền tệ; bước đầu hiện đại hóa công nghệ và tăng cường đào tạo nguồn
nhân lực cho việc vận hành hệ thống ngân hàng mới. Vốn tín dụng được mở rộng cho mọi
thành phần kinh tế và đạt mức tăng trưởng bình quân 36%/năm, góp phần chuyển dịch cơ
cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá và thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng
trong nhiều năm.
Thời kỳ này, quan hệ hợp tác giữa Việt Nam với các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế
(IMF, WB, ADB) được tái lập và khơi thông.
22
Năm 1997, Quốc hội thông qua Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Luật Các tổ
chức tín dụng, tạo nền tảng pháp lý căn bản và mạnh mẽ hơn cho hệ thống ngân hàng tiếp
tục đổi mới hoạt động phù hợp với cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế.
Ngân hàng Nhà nước đã thực hiện chính sách tiền tệ linh hoạt, góp phần giảm thiểu
tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997; tiếp tục hoàn thiện cơ
chế điều hành chính sách tiền tệ, đặc biệt là cơ chế điều hành lãi suất. Hệ thống các tổ chức
tín dụng được chấn chỉnh, củng cố, từng bước xử lý nợ tồn đọng và nâng cao năng lực tài
chính. Công nghệ ngân hàng có bước phát triển mạnh mẽ; Hệ thống thanh toán điện tử liên
ngân hàng được đưa vào vận hành chính thức từ tháng 5/2002, các dịch vụ ngân hàng điện
tử xuất hiện (E-Banking, Internet banking,...). Ngân hàng Nhà nước tham gia đàm phán gia
nhập WTO và tích cực triển khai các cam kết về hội nhập quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng.
Cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu năm 2008 tác động rất tiêu
cực đến kinh tế nước ta. Thực hiện các Nghị quyết của Quốc hội và Chính phủ, Ngân hàng
Nhà nước đã điều hành chính sách tiền tệ chủ động và linh hoạt, từ ưu tiên kiềm chế lạm
phát cao năm 2008 sang tập trung ngăn chặn suy giảm kinh tế năm 2009, khôi phục đà tăng
trưởng năm 2010 và kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế
năm 2011, 2012.
Kỳ họp thứ 7, Quốc hội khoá XII thông qua Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và
Luật Các tổ chức tín dụng, tạo nền tảng pháp lý phù hợp hơn để tiếp tục đổi mới hoạt động
ngân hàng đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Sự kiện Thống đốc Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam được bầu giữ chức Chủ tịch Hội đồng Thống đốc IMF/WB nhiệm
kỳ 2008-2009, Việt Nam tổ chức thành công Hội nghị thường niên lần thứ 44 Ngân hàng
phát triển châu Á, Hội nghị Thống đốc NHTW ASEAN,... khẳng định vị thế ngày càng tăng
của Việt Nam trong cộng đồng tài chính quốc tế.
2.1.2 Ngân hàng Nhà nƣớc
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là cơ quan ngang Bộ của Chính phủ, thực hiện chức
năng quản lý nhà nước về tiền tệ, hoạt động ngân hàng và chức năng Ngân hàng Trung
23
ương của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; quản lý nhà nước các dịch vụ công
thuộc phạm vi quản lý của Ngân hàng Nhà nước.
2.1.3 Ngân hàng thƣơng mại nhà nƣớc (Đến 30/6/2013)
Là ngân hàng do Nhà nước thành lập, vốn của Nhà nước, thuộc sở hữu Nhà nước, có
tư cách pháp nhân theo pháp luật Việt Nam. Ngân hàng thương mại Nhà nước hoạt động
theo mô hình của một công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên.
Tuy các ngân hàng thương mại Nhà nước phần lớn đã cổ phần hóa nhưng vốn Nhà
nước vẫn chiếm đa số nên các ngân hàng sau vẫn gọi là Ngân hàng thương mại Nhà nước:
STT Tên ngân hàng Địa chỉ Vốn điều lệ (tỷ đồng) Số chi nhánh và SGD
1 23.174 80 198 Trần Quang Khải – Hà Nội
2 32.661 147 108 Trần Hưng Đạo, Hà Nội Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại Thương Việt Nam (Vietcombank) Ngân hàng thương mại cổ phần Công Thương Việt Nam (Vietinbank)
3 23.011 119 Ngân hàng thương mại cổ phần Đầu Tư và Phát triển Việt Nam (BIDV)
4 29.154 943 Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank)
5 10.000 61
6 3.055 10
Ngân hàng Phát triển Việt Nam (VDB) Ngân hàng thương mại cổ phần Phát triển Nhà Đồng Bằng Sông Cửu Long (MHB) Tháp BIDV 35 Hàng Vôi, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội 18 Trần Hữu Dực, khu đô thị Mỹ Đình I, Từ Liêm, Hà Nội 25A Cát Linh, Hà Nội Số 9 Võ Văn Tần – Quận 3 - TP. Hồ Chí Minh
2.1.4 Ngân hàng chính sách
STT Tên ngân hàng Địa chỉ Vốn điều lệ (tỷ đồng) Số chi nhánh và SGD
1 8.988 65 Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam Khu CC5 bán đảo Linh Đàm,
24
Hoàng Liệt, Hoàng Mai, Hà Nội
2.1.5 Ngân hàng TMCP trong nƣớc (đến 30/6/2013)
Là ngân hàng được thành lập và hoạt động bằng nguồn vốn góp của các cổ đông dưới
hình thức mua cổ phần, có tư cách pháp nhân theo pháp luật Việt Nam, tổ chức hoạt động
theo mô hình công ty cổ phần.
Khối ngân hàng TMCP trong nước có sự phát triển rất nhanh chóng về hệ thống
mạng lưới hoạt động. Theo thống kê của Ngân hàng Nhà nước, tính đến ngày 30 tháng 06
năm 2013, có 34 ngân hàng TMCP với tổng số chi nhánh và phòng giao dịch là 1.032 chi
nhánh, phòng giao dịch. Đa số các ngân hàng có trụ sở chính tại các thành phố lớn.
2.1.6 Chi nhánh ngân hàng nƣớc ngoài (Đến 30/6/2013)
Là đơn vị phụ thuộc của các tổ chức tài chính nước ngoài (ngân hàng mẹ), hoạt động
theo giấy phép kinh doanh do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cấp và tuân thủ quy định
pháp luật Việt Nam được ngân hàng mẹ bảo đảm bằng văn bản về việc chịu trách nhiệm đối
với mọi nghĩa vụ của chi nhánh tại Việt Nam.
Đến 30/06/2013, số chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam là 50 chi nhánh
với số vốn điều lệ là 2.531,78 triệu USD.
2.1.7 Ngân hàng liên doanh (Đến 30/6/2013)
Là ngân hàng được thành lập tại Việt Nam, bằng vốn góp của bên Việt Nam (gồm
một hoặc nhiều ngân hàng Việt Nam) và bên nước ngoài (gồm một hoặc nhiều ngân hàng
nước ngoài) trên cơ sở hợp đồng liên doanh. Ngân hàng liên doanh hoạt động theo mô hình
công ty trách nhiệm hữu hạn, là pháp nhân Việt Nam, có trụ sở chính tại Việt Nam.
Ngân hàng liên doanh đầu tiên ở Việt Nam được thành lập năm 1990. Đến
30/06/2013 là 4 ngân hàng.
STT Tên ngân hàng Địa chỉ Số và ngày cấp giấy phép Vốn điều lệ (triệu USD)
25
01/ NHGP 1 VID PUBLIC BANK 64 53 Quang Trung - Hà Nội ngày 25/3/1992
2 165 INDOVINA BANK LIMITTED 135/ NHGP ngày 21/11/1990
VIỆT THÁI 19/ NHGP 3 61 ngày 20/4/1995 97A Nguyễn Văn Trỗi, phường 12, quận Phú Nhuận - TP.HCM 2 Phó Đức Chính – Quận 1 - TP.HCM
Vinasiam bank VIỆT NGA
4 168,5 Số 1 Yết Kiêu, Quận Hoàn Kiếm - Hà Nội 11/GP-NHNN ngày 30/10/2006 Vietnam-Russia Joint Venture Bank
2.1.8 Ngân hàng 100% vốn nƣớc ngoài (Đến 30/6/2013)
Là ngân hàng được thành lập tại Việt Nam với 100% vốn điều lệ thuộc sở hữu nước
ngoài, trong đó phải có một ngân hàng nước ngoài sở hữu trên 50% vốn điều lệ. Ngân hàng
100% vốn nước ngoài được thành lập dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn, là pháp
nhân Việt Nam, có trụ sở chính tại Việt Nam.
Trong năm 2008, đồng loạt 5 ngân hàng 100% vốn nước ngoài được thành lập tại
Việt Nam.
STT Tên ngân hàng Địa chỉ Số và ngày cấp giấy phép Vốn điều lệ / Vốn được cấp (tỷ đồng)
1 HSBC 3.000 Số 235/GP- NHNN ngày 08/9/2008
2 Standard Chartered 3.000 Số 236/GP- NHNN ngày 08/9/2008
235 Đồng Khởi, phường Bến Nghé, quận 1, TP.Hồ Chí Minh Phòng 1810- 1815 Toà nhà Kengnam, lô E6, khu đô thị mới Cầu Giấy, xã Mễ Trì, huyện Từ Liêm, Hà Nội
26
3 Shinhan Vietnam 7.547,1 Số 341/GP- NHNN ngày 29/12/2008
4 ANZVL 3.000 Số 268/GP- NHNN ngày 09/10/2008
5 Hong Leong 3.000 Số 342/GP- NHNN ngày 29/12/2008
Tầng trệt, tầng lửng, tầng 2,3 Tòa nhà Empress, số 138-142 đường Hai Bà Trưng, phường Đa Kao, quận 1, TP. Hồ Chí Minh Tòa nhà Suncity, 13 Hai Bà Trưng, Hà Nội Phòng 1203 Sài Gòn Trade Centre, 37 Tôn Đức Thắng, Quận 1, TP.Hồ Chí Minh
Ngoài ra, hiện tại đến 30/06/2013 có 50 văn phòng đại diện của các ngân hàng nước
ngoài tại Việt Nam và 968 quỹ tín dụng trên tất cả tỉnh thành.
2.2 Diễn biến lãi suất cho vay và huy động tại các ngân hàng từ 2000 – 2013
Trong phần này bài viết phân tích diễn biến về lãi suất cho vay và huy động của các
NHTM Việt Nam giai đoạn 2000-2013. Lãi suất huy động trung bình và cho vay kỳ hạn
dưới 12 tháng được sử dụng để đại diện cho hệ thống NHTM Việt Nam. Bài viết sử dụng
số liệu thống kê của IFS để phân tích. Mặc dù không phản ánh đầy đủ chênh lệch giữa hai
mức lãi suất trung bình (huy động và cho vay) cũng phần nào phản ánh IRS của các NHTM
Việt Nam.
27
Đồ thị 2.1: Diễn biến lãi suất cho vay và huy động tại các ngân hàng từ 2000 – 2013
Nguồn: International Financial Statistics (IFS)
Chênh lệch lãi suất ở các NHTM từ đầu năm 2000 tới Quý 1/2013 có xu hướng thu
hẹp theo thời gian, lãi suất cho vay và huy động không còn chênh lệch nhiều như trước nữa.
Với chủ trương tự do hóa lãi suất, chuẩn bị cho sự hội nhập về lãi suất với nền kinh tế thế
giới, lãi suất cho vay và huy động phần nào phản ánh sự biến động của thị trường.
Giai đoạn 2000 – 2002: cơ chế điều hành lãi suất cơ bản kèm biên độ. Đây là giai đoạn
Ngân hàng Nhà nước sử dụng lãi suất cơ bản để điều hành chính sách tiền tệ. Dựa vào mức
lãi suất cơ bản và biên độ dao động do Ngân hàng Nhà nước công bố trong từng thời kỳ, các
Ngân hàng thương mại được phép ấn định lãi suất cho vay bằng VND phù hợp với quy
định. Đối với hình thức cho vay bằng ngoại tệ bắt đầu áp dụng cơ chế lãi suất thỏa thuận.
Giai đoạn 2002 – nay: Quyết định số 546/2002/QĐ-NHNN ngày 30/5/2002 của Ngân
hàng Nhà nước ra đời, quy định về việc thực hiện cơ chế lãi suất thỏa thuận trong hoạt động
tín dụng thương mại bằng đồng Việt Nam là một bước ngoặc lớn trong việc điều hành chính
sách tiền tệ, ngày càng xích lại gần hơn với quy luật thị trường.
Cuối năm 2007, khi cuộc khủng hoảng tài chính bắt đầu xuất hiện và lan tỏa khắp thế
giới, lạm phát tăng cao kéo theo lãi suất cho vay và huy động, đỉnh điểm là Quý 3/2008 (đạt
28
20,1% và 16,99%). Mặc dù vẫn giữ vững quyết tâm là tiếp tục theo đuổi chính sách tự do
hóa lãi suất, nhưng trước áp lực của lạm phát, Ngân hàng Nhà nước đã phải đưa ra Quyết
định số 16/2008/QĐ-NHNN ngày 16/5/2008 về cơ chế điều hành lãi suất cơ bản bằng đồng
Việt Nam. Theo đó, các Ngân hàng thương mại được ấn định lãi suất kinh doanh nhưng
không được vượt quá 150% lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố trong từng thời
kỳ. Có thể nói Quyết định này đã đưa chính sách lãi suất của Việt Nam trở về đầu những
năm 2000 sau bao nỗ lực để tiến đến tự do hóa lãi suất. Các Ngân hàng thương mại lại bị
trói bởi sợi dây lãi suất cơ bản. Mặc dù cơ chế điều hành lãi suất cơ bản của NHNN vào
năm 2008 đã có không ít thành công, kìm hãm được làn sóng lạm phát, đưa Việt Nam thoát
khỏi tình trạng khủng hoảng, nhưng do sợi dây bị trói chặt quá lâu và có quá nhiều “nút
thắt” nên đã đẩy lãi suất trên thị trường thường xuyên bị méo mó, đặc biệt là lãi suất huy
động. Sau nhiều bàn bạc để đi đến đồng thuận lãi suất của các ngân hàng thương mại, thậm
chí có cả sự can thiệp của Hiệp hội ngân hàng và cứng rắn hơn đó là mệnh lệnh hành chính.
Lại thêm một lần lãi suất cho vay và huy động đạt đến đỉnh cao vào Quý 2/2011
(18,02% và 14%). Năm 2011 do nền kinh tế luôn cần vốn để tăng trưởng trong khi tiết kiệm
của toàn xã hội lại không cao, nền kinh tế luôn trong tình trạng khát vốn. Đồng thời do tình
trạng lạm phát cao, các khách hàng bắt đầu rút tiền từ ngân hàng và chuyển sang kênh đầu
tư khác là USD và vàng. Để giữ chân khách hàng, các ngân hàng bắt đầu chạy đua lãi suất
làm cho lãi suất thị trường tăng cao. Nhiều ngân hàng nhỏ do thiếu hụt thanh khoản phải
vay trên thị trường liên ngân hàng và lãi suất trên thị trường này có lúc lên đến 45%.
Thông tư 02/2011/TT-NHNN ngày 3/3/2011 quy định huy động tối đa không vượt quá
14% bao gồm mọi hình thức khuyến mại, nhưng lãi suất huy động trên thị trường vẫn gia
tăng. Cực chẳng đã, các Ngân hàng thương mại phải kéo căng đường cong lãi suất thành
đường thẳng khi phải niêm yết một mức lãi suất cho mọi kỳ hạn, thậm chí lãi suất kỳ hạn
dài thấp hơn kỳ hạn ngắn.
Từ tháng 9/2011 đến tháng 6/2013, Ngân hàng nhà nước đã 8 lần điều chỉnh giảm trần
lãi suất huy động tiền gửi VND. Qua các đợt điều chỉnh, lãi suất huy động VND có kỳ hạn
dưới 1 tháng đã giảm từ 6%/năm xuống 1,25%/năm, kỳ hạn từ 1 đến dưới 12 tháng giảm từ
29
14%/năm xuống còn 7%/năm. Đối với tiền gửi ngoại tệ, từ tháng 4/2011 đến nay, NHNN đã
3 lần điều chỉnh giảm lãi suất tiền gửi USD, đưa lãi suất tiền gửi USD của tổ chức và cá
nhân xuống còn 0,25%/năm và 1%/năm.
Lãi suất thị trường bị chế tài bằng những mệnh lệnh hành chính do thị trường tài chính
của Việt Nam chưa thật sự ổn định và phát triển hoàn thiện nên cần một bàn tay để đưa nó
về trạng thái ổn định. Những điều chỉnh trên cho thấy sự hiệu quả nhất định, lãi suất cho vay
và huy động những năm sau bắt đầu giảm và ổn định. Đồng thời, do thị trường dư thừa
thanh khoản và tốc độ phát triển tín dụng chưa cao nên lãi suất cho vay và huy động hiện
nay tương đối ổn định và hợp lý, phù hợp với thị trường.
Tác giả đã khảo sát chênh lệch lãi suất trung bình (huy động và cho vay) tại các nước
như là Úc, Trung Quốc, Singapore, Brazil và Nigeria và nhận thấy các nước châu Á là Úc,
Trung Quốc, Singapore và Việt Nam có IRS gần tương đồng nhau dao động từ 3-5%. Trong
khi IRS tại Brazil đạt mức cao nhưng có xu hướng giảm dần theo thời gian (từ mức 41%
xuống 18%). Tuy không phải là nền kinh tế mạnh như Brazil nhưng Nigeria lại có IRS thấp
hơn hẳn và ở mức 7-8%
Đồ thị 2.2: Chênh lệch lãi suất ở một số quốc gia
Nguồn: International Financial Statistics (IFS)
30
2.3 Những yếu tố tác động đến khoảng rộng lãi suất tại Việt Nam
2.3.1 Các yếu tố vi mô
Những yếu tố vi mô là những yếu tố nội tại của ngân hàng có khả năng tác động đến
IRS. Đây là những biến mà ngân hàng có khả năng thay đổi và ảnh hưởng nhiều nhất nếu
ngân hàng đó muốn cải thiện hoạt động, nâng cao tính hiệu quả của chính ngân hàng mình
trong kinh doanh và hoạt động cấp tín dụng. Bài viết chỉ phân tích đặc trưng IRS và các yếu
tố vi mô của nhóm 5 ngân hàng cần khảo sát. Cách tính IRS giống chương 1 và dựa vào cáo
cáo tài chính hợp nhất trong giai đoạn 2008-2013, thống kê theo quý.
Chi phí hoạt động (Operating cost)
Đồ thị 2.3: Tỷ lệ Chi phí hoạt động trên Tổng tài sản sinh lãi của 5 ngân hàng
Nguồn: tổng hợp từ BCTC riêng lẻ của từng ngân hàng
Tỷ lệ này chủ yếu dưới 1% so với tổng tài sản sinh lãi của ngân hàng. Tỷ lệ này ảnh
hưởng không nhỏ đến IRS, chính việc ngân hàng hoạt động không hiệu quả và công tác
quản trị các nguồn lực của ngân hàng không tốt làm gia tăng chi phí hoạt động, góp phần
làm gia tăng IRS của ngân hàng đó. Trong 5 ngân hàng trên, ACB chứng tỏ mình là một
ngân hàng quản trị các nguồn lực của ngân hàng tốt, hiệu quả hoạt động cao khi chi phí hoạt
31
động chỉ chiếm một tỷ lệ thấp vào khoảng dưới 0,4%. Tuy nhiên, tỷ lệ này trong những quý
gần đây có xu hướng tăng cho thấy những bất ổn trong quản trị nguồn lực và sự thiếu hiệu
quả trong hoạt động dần rõ nét. Vietinbank mặc dù là một ngân hàng thương mại nhà nước
nhưng trong những quý gần đây có sự chuyển biến rõ nét trong quản trị chi phí hoạt động
khi có thời điểm tỷ lệ này chiếm đến gần 1% nay đã giảm xuống chỉ còn khoảng 0,4%.
Trong 2 ngân hàng thương mại nhà nước được khảo sát trong bài thì VCB tỏ ra nhỉnh hơn
Vietinbank trong công tác quản trị chi phí hoạt động, tỷ lệ này chỉ chiếm dưới 0,4%.
Eximbank cũng là một ngân hàng quản trị chi phí hoạt động khá tốt. Mặc dù là một ngân
hàng lớn nhưng Sacombank cho thấy công tác quản trị chi phí hoạt động không được tốt
bằng 4 ngân hàng còn lại khi tỷ lệ này khá cao khi có thời điểm vượt trên 1% và hiện nay là
gần 0,8%.
Đồ thị 2.4: Chi phí hoạt động của 5 ngân hàng
Nguồn: tổng hợp từ BCTC riêng lẻ của từng ngân hàng
Giá trị tuyệt đối về chi phí hoạt động của 5 ngân hàng trong đó Vietinbank là cao nhất
do ngân hàng này có mạng lưới hoạt động và số lượng nhân viên cao nhất trong 5 ngân hàng
với 148 chi nhánh trong nước và 3 chi nhánh tại nước ngoài cùng 19.091 nhân viên. Tiếp
32
đến là VCB, tuy mạng lưới hoạt động không nhiều bằng Vietinbank nhưng vẫn nhiều hơn 3
ngân hàng còn lại với 78 chi nhánh và 13.363 nhân viên. Ngân hàng có chi phí hoạt động
thấp nhất là Eximbank (41 chi nhánh và 5.670 nhân viên) nhưng có xu hướng tăng lên và
chiếm dưới 0,4% so với Tổng tài sản sinh lãi. Hai ngân hàng còn lại là ACB (345 chi nhánh
và PGD và 9.005 nhân viên) và Sacombank (72 chi nhánh và 10.528 nhân viên) có chi phí
hoạt động gần bằng nhau về giá trị tuyệt đối nhưng chi phí hoạt động của Sacombank lại
chiếm tỷ lệ cao hơn so Tổng tài sản sinh lãi cho thấy hiệu quả sử dụng tài sản ngân hàng
Sacombank không cao bằng ngân hàng ACB.
Đồ thị 2.5: IRS và chi phí hoạt động/tổng tài sản của 5 ngân hàng
33
Nguồn: tổng hợp từ BCTC riêng lẻ của từng ngân hàng
Thông qua đồ thị 2.5, để loại bỏ tác động của quy mô ta sử dụng chỉ tiêu Chi phí hoạt
động/tổng tài sản, ta nhận thấy chi phí hoạt động/tổng tài sản và IRS có mối liên hệ thuận
chiều tại hầu hết 5 ngân hàng. Tương ứng với xu hướng biến động của chi phí hoạt
động/tổng tài sản thì IRS cũng biến động tương tự.
Dự trữ bắt buộc (Reserve Requirements)
Tỷ lệ dự trữ bắt buộc cao từ năm 2007-2008 do thị trường tín dụng bất ổn, các ngân
hàng phải dự trữ cao để phòng tránh rủi ro. Đến nay thì tỷ lệ dự trữ bắt buộc đã dần ổn định.
Từ 06/01/2007 đến 01/09/2011 đã có 12 văn bản của NHNN ban hành để áp dụng về tỷ lệ
dự trữ bắt buộc và hiện nay chưa có văn bản nào mới thay thế văn bản số 1925/QD-NHNN
26/8/2011, áp dụng từ ngày 01/09/2011. Trong bài nghiên cứu này do hạn chế về số liệu nên
không đưa biến này vào mô hình.
Thu nhập ngoài lãi (Non interest income)
34
Đồ thị 2.6: Thu nhập ngoài lãi của 5 ngân hàng
Nguồn: tổng hợp từ BCTC riêng lẻ của từng ngân hàng
Với quy mô là 2 ngân hàng thương mại nhà nước hàng đầu chiếm thị phần lớn và
mạng lưới rộng khắp cả nước, Vietinbank và VCB tỏ ra vươt trội so với 3 ngân hàng còn lại
về thu nhập ngoài lãi. Trong đó, Quý 4/2011 VCB đạt hơn 2.000 tỷ thu nhập ngoài lãi vượt
xa so với các ngân hàng còn lại với đóng góp cao nhất từ hoạt động thu dịch vụ và kinh
doanh ngoại hối, mặc dù Quý 3/2011 trước đó ngân hàng VCB đã bị lỗ từ hoạt động khác và
ngân hàng Vietinbank đạt thu nhập ngoài lãi hơn 1.500 tỷ trong Quý 4/2012. Với thị phần
lớn về huy động và cho vay, VCB và Vietinbank dễ dàng thu thêm phí dịch vụ đi kèm các
sản phẩm trên. Quý 3/2012 chứng kiến việc ACB bị thua lỗ từ việc kinh doanh ngoại hối và
vàng với số lỗ hơn 1.100 tỷ. Do qui định của Ngân hàng Nhà nước yêu cầu các ngân hàng
phải chấm dứt việc huy động vốn bằng vàng nên ngân hàng phải lo mua vàng vào để tất
toán các khoản vay, dẫn đến thua lỗ. Quý 4/2012, ngân hàng ACB tiếp tục lỗ hơn 600 tỷ từ
hoạt động kinh doanh ngoại hối và vàng và hơn 200 tỷ từ hoạt động mua bán chứng khoán
đầu tư. Quý 1/2013, ngân hàng ACB tiếp tục lỗ từ hoạt động kinh doanh ngoại hối và vàng
nhưng thu nhập từ hoạt động dịch vụ và hoạt động mua bán chứng khoán đầu tư đã bù đắp
cho việc thua lỗ trên. Quý 4/2012 ngân hàng Sacombank lỗ do mua bán chứng khoán đầu tư
35
và hoạt động khác. Ngân hàng Vietinbank và VCB ngoài việc chiếm thị phần lớn về huy
động và cho vay, 2 ngân hàng này còn có nguồn thu nhập ngoài lãi lớn hơn hẳn những ngân
hàng còn lại.
Khi cấp tín dụng cho khách hàng, ngân hàng thường bắt buộc khách hàng sử dụng
những sản phẩm, dịch vụ do chính ngân hàng cung cấp nhằm tăng thêm nguồn thu và bán
chéo thêm các sản phẩm dịch vụ. Ví dụ như ngân hàng cho một khách hàng là doanh nghiệp
vay vốn thì sẽ yêu cầu doanh nghiệp này chuyển lương qua thẻ ATM của ngân hàng, trường
hợp nhập khẩu thì mua ngoại tệ của ngân hàng hay xuất khẩu thì phải bán ngoại tệ cho ngân
hàng. Thu nhập ngoài lãi của các ngân hàng thương mại góp phần làm tăng nguồn thu nhập,
đa dạng hóa nguồn thu nhập cho các ngân hàng, giảm dần sự phụ thuộc vào hoạt động tín
dụng. Những ngân hàng có nguồn thu nhập ngoài lãi cao là những ngân hàng có sự đầu tư
về phát triển sản phẩm mới, máy móc công nghệ, chất lượng nguồn nhân lực và chất lượng
phục vụ. Đây cũng là yếu tố mà các ngân hàng nhỏ nên hướng đến nhằm cạnh tranh với các
ngân hàng quy mô lớn nhằm gia tăng nguồn thu nhập cho chính ngân hàng mình.
36
Đồ thị 2.7: Thu nhập ngoài lãi/tổng tài sản và IRS của 5 ngân hàng
Nguồn: tổng hợp từ BCTC riêng lẻ của từng ngân hàng
37
Mối quan hệ giữa thu nhập ngoài lãi/tổng tài sản (sử dụng tiêu chí này để loại bỏ tác
động của quy mô) và IRS thể hiện trong đồ thị 2.7 là ngược chiều. Thu nhập ngoài lãi tuyệt
đối của các ngân hàng có xu hướng tăng lên theo thời gian cho thấy chủ trương đa dạng
nguồn thu nhập của ngân hàng để không chỉ phụ thuộc vào thu nhập đến từ hoạt động cho
vay. Nguồn thu nhập ngoài lãi của 5 ngân hàng góp phần đa dạng và nâng cao nguồn thu
nhập và lợi nhuận cho ngân hàng.
Chất lƣợng nợ (Loan quality)
Đồ thị 2.8: Tỷ lệ nợ xấu của 5 ngân hàng
Nguồn: tổng hợp từ BCTC riêng lẻ của từng ngân hàng
Nợ xấu của các ngân hàng đều có xu hướng tăng lên theo thời gian. Thông qua đồ thị
2.8, ta nhận thấy xu hướng gia tăng nợ xấu của các ngân hàng được dùng làm mẫu trong mô
hình nghiên cứu. Trong đó, ngân hàng ACB với tỷ lệ nợ xấu Quý 3/2009 chỉ dưới 0,5% nay
đã tăng lên gần 3,5% trong Quý 3/2013. Năm 2012-2013 là 2 năm không thành công của
ngân hàng ACB khi ngân hàng này ngoài việc để lỗ trong hoạt động kinh doanh ngoại hối
và vàng đến việc các lãnh đạo ủy thác nhân viên gửi tiền ngân hàng khác làm ngân hàng
thiệt hại hơn 700 tỷ đồng và nay là tỷ lệ nợ xấu tăng cao. Khó khăn của nền kinh tế thể hiện
38
dần rõ nét thông qua tỷ lệ nợ xấu của các ngân hàng khi tỷ lệ này hầu hết đều tăng cao tại
các ngân hàng ngay cả với ngân hàng có hệ thống quản lý rủi ro tốt như ngân hàng ACB. Tỷ
lệ nợ xấu của ngân hàng Sacombank từ hơn 0,5% trong Quý 3/2009 nay đã tăng lên hơn 2%
trong Quý 3/2013. Tỷ lệ nợ xấu của ngân hàng Vietinbank từ hơn 0,5% Quý 4/2009 nay đã
tăng lên gần 2,5% trong Quý 3/2013. Trong đó, nợ xấu của ngân hàng VCB được giữ ổn
định nhất khi chỉ xoay quanh mức 3%. Dư nợ của các ngân hàng đều có sự tăng trưởng theo
thời gian, dư nợ xấu cũng tăng lên do tỷ lệ nợ xấu của các ngân hàng vẫn như cũ hay có xu
hướng tăng lên theo thời gian.
Nợ xấu của các ngân hàng phát sinh do nhiều nguyên nhân, cả chủ quan lẫn khách
quan. Quản trị nợ xấu đồng nghĩa với công tác quản trị rủi ro của các ngân hàng. Do công
tác quản trị rủi ro không tốt, quy trình tác nghiệp còn nhiều kẻ hở, hệ thống giám sát thiếu
minh bạch tạo ra những rủi ro phát sinh nợ xấu trong hệ thống ngân hàng. Hệ thống quản trị
rúi ro của các ngân hàng không tốt góp phần nâng cao tỷ lệ nợ xấu của chính ngân hàng có
hệ thống quản trị rủi ro không tốt đó. Công tác quản trị rủi ro đòi hỏi các ngân hàng có sự
đầu tư cả về nhân lực và vật chất, thông qua đầu tư để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực,
ban hành quy trình tác nghiệp đã được sửa đổi cho phù hợp, hệ thống giám sát chặt chẽ và
minh bạch, đưa vào áp dụng công nghệ tiên tiến giúp ngăn chặn lỗi tác nghiệp và phát hiện
sai phạm của từng cá nhân nhằm ngăn chặn và quy trách nhiệm cụ thể.
Nền kinh tế Việt Nam còn nhiều khiếm khuyết tạo nhiều kẽ hở cho rủi ro xảy ra. Hơn
nữa, tình hình kinh tế vĩ mô hiện tại thiếu ổn định, tăng trưởng kinh tế chậm, sức mua thị
trường giảm do sức mua của thị trường thế giới cũng giảm sút. Nền kinh tế Việt Nam phần
lớn dựa nhiều vào xuất khẩu và nhập khẩu. Nên khi thị trường thế giới bất ổn, các đối tác
nhập khẩu giảm nhập khẩu làm thị trường đầu ra của các doanh nghiệp Việt Nam giảm sút.
Hàng hóa sản xuất ra không bán được hoặc tiêu thụ chậm làm chất lượng hàng hóa sụt giảm,
luân chuyển hàng hóa chậm, doanh nghiệp rơi vào tình trạng khó khăn hay các đối tác nhập
khẩu mất khả năng thanh toán làm doanh nghiệp mất trắng số hàng và rơi vào tình trạng mất
khả năng thanh toán (nợ lương, nợ tiền ngân hàng, nợ tiền điện, nước, nợ thuế, … )
39
Thời gian qua, nền kinh tế Việt Nam chứng kiến nhiều doanh nghiệp rơi vào tình trạng
khó khăn hay đứng trước nguy cơ phá sản khi từng một thời là khách hàng VIP, là khách
hàng lớn mà nhiều ngân hàng muốn lôi kéo do khó khăn của nền kinh tế. Như công ty thủy
sản Phương Nam từng là ông lớn một thời chuyên xuất khẩu thủy hải sản và mang về nguồn
ngoại tệ và có doanh số giao dịch lớn nay vì khó khăn của nền kinh tế mà đứng trước nguy
cơ phá sản, hay công ty Trường Ngân chuyên xuất khẩu cà phê mang về nguồn ngoại tệ lớn
nay cũng gặp tình trạng tương tự. Đây là những khách hàng lớn mà bao nhiêu ngân hàng
thương mại muốn lôi kéo một thời do nguồn thu nhập mà các công ty này mang lại vô cùng
lớn, các khách hàng này khi quan hệ giao dịch sẽ sử dụng nhiều sản phẩm dịch vụ đi kèm
của ngân hàng. Với những khách hàng có quy mô lớn như vậy thì các ngân hàng ra sức
chiều chuộng, lôi kéo thậm chí cho vay tín chấp hay thế chấp hàng tồn kho, nay vì khó khăn
của nền kinh tế, khách hàng mất khả năng thanh toán, ngân hàng cũng khó khăn trong công
tác thu hồi nợ.
Chất lượng nợ làm gia tăng chi phí vốn mà các ngân hàng thương mại phải gánh chịu,
qua đó làm ảnh hưởng đến IRS của các ngân hàng này. Chính những khách hàng vay sau
này phải gánh chịu chi phí lãi vay cao hơn trước do chất lượng nợ của ngân hàng cấp tín
dụng không tốt. Khách hàng vay sau phải gánh chịu những khó khăn của khách hàng trước
và do hệ thống quản lý rủi ro không tốt của ngân hàng hay do những khó khăn chung của
nền kinh tế.
40
Đồ thị 2.9: Tỷ lệ nợ xấu và IRS tại 5 ngân hàng
Nguồn: tổng hợp từ BCTC riêng lẻ của từng ngân hàng
41
Thông qua đồ thị 2.9, mối quan hệ giữa tỷ lệ nợ xấu và IRS chưa nhận diện được rõ
ràng xu hướng khi quan sát, để tìm hiểu xu hướng một cách rõ ràng thì phần thực nghiệm sẽ
bổ sung cho phần nhận diện này.
Market share (Thị phần)
Trong 5 ngân hàng khảo sát
Đồ thị 2.10: Tổng tài sản sinh lãi của các ngân hàng
Nguồn: tổng hợp từ BCTC riêng lẻ của từng ngân hàng
Tổng tài sản sinh lãi của 5 ngân hàng đều có xu hướng tăng lên theo thời gian, trong
đó 2 ngân hàng thương mại nhà nước là Vietinbank và VCB tăng nhanh nhất. Hai ngân
hàng thương mại nhà nước này với mạng lưới rộng khắp và quy mô vốn lớn hơn hẳn so với
đa số các ngân hàng thương mại còn lại đã không ngừng tăng trưởng, VCB tăng hơn 200 tỷ
và Vietinbank tăng gần 300 tỷ, ba ngân hàng còn lại với mức tăng khiêm tốn hơn. Hiện nay
trên thị trường ngân hàng, các ngân hàng thương mại nhà nước vẫn chiếm ưu thế về huy
động và cho vay do uy tín và tiềm lực tài chính mạnh mẽ. Trong bài nghiên cứu này do hạn
chế về số liệu nên biến này không được đưa vào mô hình.
42
Chỉ tiêu (Target)
Các ngân hàng đặt ra chỉ tiêu dư nợ, huy động, lợi nhuận hàng năm để các chi nhánh
phấn đấu. Để đạt được chỉ tiêu, các ngân hàng sẽ điều chỉnh lãi suất cho vay và huy động
thích hợp để đạt được mục tiêu đã đề ra. Trong bài nghiên cứu này do hạn chế về số liệu nên
không đưa biến trên vào mô hình.
Rủi ro thanh khoản (Liquidity risk)
Theo lý thuyết thì rủi ro thanh khoản và IRS có mối liên hệ ngược chiều
Đồ thị 2.11: Tỷ lệ tài sản có tính lỏng và IRS tại 5 ngân hàng
43
44
Nguồn: tổng hợp từ BCTC riêng lẻ của từng ngân hàng
Chỉ số rủi ro thanh khoản lại một lần nữa thể hiện quan điểm quản trị khác nhau của
các ngân hàng. Trong khi ngân hàng ACB và Sacombank giảm tỷ lệ tài sản có tính lỏng để
tăng cường hiệu quả hoạt động của tài sản đồng thời gia tăng rủi ro thanh khoản thì 3 ngân
hàng còn lại nâng dần tỷ lệ tài sản có tính lỏng nhằm củng cố và đối phó với những biến
động khó lường của thị trường. Tỷ lệ tài sản có tính lỏng của ngân hàng ACB và
Sacombank giảm rõ rệt khi tỷ lệ tài sản có tính lỏng Quý 3/2013 giảm hơn 10% so với Quý
3/2009. Để tăng cường hiệu quả hoạt động của tài sản đồng nghĩa hai ngân hàng trên phải
đối mặt với nguy cơ do rủi ro thanh khoản mang lại. Trái với hai ngân hàng ACB và
Sacombank, ba ngân hàng còn lại là ngân hàng Vietinbank, VCB và Eximbank lại gia tăng
tỷ lệ tài sản có tính lỏng trong bảng cân đối kế toán. Một mặt ba ngân hàng này hạn chế rủi
ro thanh khoản nhưng đồng thời cũng làm giảm hiệu quả hoạt động của tài sản trên Bảng
cân đối kế toán của chính ngân hàng mình.
Vấn đề cân đối giữa hiệu quả của hoạt động tài sản và rủi ro thanh khoản, tính ổn định
cho hệ thống ngân hàng là hai vấn đề các ngân hàng cần cân đối nhằm mang lợi ích tốt nhất
cho thu nhập của ngân hàng. Một mặt vẫn bảo đảm khả năng sinh lời của nguồn huy động
(do ngân hàng phải trả lãi cho khách hàng tiền gửi) một mặt phải bảo đảm được khả năng
thanh khoản của ngân hàng, đề đề phòng những rủi ro do thị trường gây ra.
45
Mối liên hệ giữa rủi ro thanh khoản và IRS chưa nhận diện được rõ ràng trong đồ thị
2.11, thông qua thực nghiệm thì ta sẽ nhận diện được rõ ràng hơn xu hướng này.
2.3.2 Các yếu tố vĩ mô
Sức mạnh thị trƣờng (Market power)
Sức mạnh thị trường trong ngành ngân hàng thể hiện thông qua vốn (quyết định khả
năng thanh toán, quy mô hoạt động và năng lực cạnh tranh), quy mô tài sản, mạng lưới hoạt
động, công nghệ thông tin và những yếu tố khác. Hiện nay tại Việt Nam, thị phần trong huy
động và cho vay thuộc về các ngân hàng thương mại quốc doanh là chủ yếu do nguồn vốn
lớn và mạng lưới rộng khắp, các ngân hàng khác chỉ chiếm thị phần ít hơn so với các ngân
hàng này. Các ngân hàng thương mại quốc doanh có nguồn vốn lớn và rẻ đồng thời có quy
mô và mạng lưới rộng khắp dễ dàng chiếm lĩnh thị trường cấp tín dụng. Đồng thời các ngân
hàng này có uy tín do quy mô lớn và mạng lưới rộng khắp và tồn tại lâu năm nên tạo được
niềm tin cho khách hàng gửi tiền hơn so với các ngân hàng có quy mô nhỏ hơn hay mới
thành lập. Các ngân hàng nhỏ không thể cạnh tranh thị phần với các ngân hàng lớn này mà
đầu tư vào nguồn nhân lực chất lượng, công nghệ, cơ sở vật chất, thủ tục và quy trình nhanh
gọn, chiến lược marketing hiệu quả. Thông qua sự đầu tư này thì các ngân hàng cũng chiếm
thị phần đáng kể và tạo ra một đối trọng trên thị trường thúc đẩy các ngân hàng lớn nhưng
chậm đổi mới nhanh chóng đổi mới để cạnh tranh và phát triển.
Nhìn chung, tại thị trường tiền tệ nói chung và hệ thống ngân hàng thương mại nói
riêng của Việt Nam, các ngân hàng thương mại quốc doanh chiếm thị phần lớn trên thị
trường cả về huy động và cho vay. Các ngân hàng thương mại tư nhân cũng nỗ lực không
ngừng trong công cuộc đổi mới và tranh giành thị phần với các ngân hàng thương mại quốc
doanh.
Trong bài nghiên cứu này, do hạn chế về số liệu nên tác giả không đưa biến sức mạnh
thị trường vào mô hình nghiên cứu.
46
Lạm phát (Inflation)
Đồ thị 2.12: CPI và IRS tại 5 ngân hàng
Nguồn: tổng hợp từ BCTC riêng lẻ của từng ngân hàng và ADB
47
Lạm phát có tác động không nhỏ đến IRS của 5 ngân hàng, được đo bằng tốc độ tăng
CPI so cùng kỳ với năm trước. Lạm phát trong năm 2011-2012 tăng cao do tình hình đầu tư
công dàn trải, nhu cầu nhập khẩu lương thực của các nước trên thế giới tăng cao trong khi
nguồn cung trong nước chưa tăng kịp đồng thời giá nguyên nhiên liệu và thiết bị công nghệ
trên thế giới tăng mạnh trong khi Việt Nam phụ thuộc rất lớn vào nhập khẩu thì việc giá
nguyên liệu nhập tăng làm giá thị trường trong nước biến động theo. Tình hình kinh tế vĩ
mô không tốt làm chỉ số CPI tăng liên tục từ Quý 3/2009 với mức hơn 2% đến hơn 22%
trong Quý 3/2011. Nhưng nhờ sự điều hành của Ngân hàng nhà nước và nỗ lực chống lạm
phát của các ban ngành và toàn bộ nền kinh tế mà chỉ số CPI nay đã giảm xuống đáng kể và
đang ổn định ở mức trên 5%.
Thông qua đồ thị 2.12, mối quan hệ giữa IRS 5 ngân hàng trong khảo sát và lạm phát
là thuận chiều. IRS tại các ngân hàng gia tăng để đối phó với những biến động do lạm phát
gây nên.
Biến động của lãi suất (Volatility of interest rates)
Lãi suất trong giai đoạn khảo sát có sự biến động mạnh, đặc biệt trong năm 2011 và
2012. Do nền kinh tế trong giai đoạn này vẫn còn tồn tại nhiều bất ổn, lạm phát tăng cao,
tăng trưởng kinh tế trì trệ, sức mua của người tiêu dùng giảm rõ rệt nên lãi suất có sự biến
động để phù hợp với tình hình thị trường. Biến động của lãi suất được đo bằng độ lệch
chuẩn của lãi suất cơ bản so với 3 Quý trước liền kề.
48
Đồ thị 2.13: Biến động lãi suất và IRS tại 5 ngân hàng
Nguồn: tổng hợp từ BCTC riêng lẻ của từng ngân hàng và IFS
49
Những quý đầu năm 2011 và 2012 có sự biến động mạnh về lãi suất. Biến động của lãi
suất và IRS có mối liên hệ thuận chiều tại hầu hết 5 ngân hàng, để đề phòng những bất ổn
của thị trường thông qua biến động của lãi suất, các ngân hàng đều tăng IRS để giảm thiểu
rủi ro. Lãi suất trên thị trường biến động càng mạnh thì IRS tại các ngân hàng càng cao. Lãi
suất có sự biến động mạnh do tình hình kinh tế vĩ mô không ổn định, lạm phát tăng cao làm
lãi suất biến động theo cộng với tình hình thiếu thanh khoản do nguồn vốn tiền gửi của dân
cư được rút ra và chuyển sang đầu tư vàng và USD. Để giữ chân khách hàng, các ngân hàng
bắt đầu cuộc đua lãi suất làm cho lãi suất thị trường tăng cao, các ngân hàng nhỏ do thiếu
hụt thanh khoản phải huy động với lãi suất cao hơn so với các ngân hàng lớn làm cuộc đua
lãi suất giữa các ngân hàng nhỏ và lớn lại càng quyết liệt hơn. Lãi suất huy động tăng cao
làm lãi suất cho vay cũng tăng lên theo, lãi suất trên thị trường giai đoạn này có sự biến
động mạnh so với những năm trước.
Hoạt động kinh tế (Economic activity)
Hoạt động kinh tế được đo bằng tốc độ tăng trưởng GDP so cùng kỳ năm trước. Tốc
độ tăng trưởng của nền kinh tế tương đối ổn định với mức trên 5%. Tuy nhiên giai đoạn
trước năm 2011 chứng kiến sự tăng trưởng cao của nền kinh tế khi có quý tăng đến trên 7%
so cùng kỳ năm trước. Giai đoạn sau, chứng kiến nền kinh tế với tốc độ tăng trưởng chậm
hơn so giai đoạn trước đó khi chỉ xoay quanh mức là 5%. Nền kinh tế bắt đầu đối mặt với
những khó khăn khi hàng loạt doanh nghiệp chờ phá sản do hàng hóa sản xuất ra tiêu thụ
không được. Sức mua của thị trường kém làm hàng tồn kho của các doanh nghiệp, cơ sở gia
tăng và để lâu dẫn đến chất lượng sụt giảm, và chất lượng sụt giảm thì giá cả cũng giảm
theo. Doanh nghiệp khó khăn thì không thể trả lương thưởng cao cho người lao động, người
lao động không có lương thưởng cao thì hạn chế trong chi tiêu và mua sắm. Như vậy thì sức
mua của thị trường lại càng giảm sút. Đây là vòng tròn của sự sụt giảm và cần sự kích thích
tăng trưởng của chính phủ.
50
Đồ thị 2.14: GDP và IRS tại 5 ngân hàng
Nguồn: tổng hợp từ BCTC riêng lẻ của từng ngân hàng và ADB
51
Thông qua đồ thị 2.14, ta nhận thấy mối quan hệ giữa tốc độ tăng trưởng GDP và IRS
trong đồ thị chưa được thể hiện rõ ràng, để nhận diện được rõ ràng xu hướng này thì thông
qua phần thực nghiệm trong mô hình nghiên cứu sẽ thể hiện rõ ràng hơn.
Lãi suất chiết khấu (Discount rate)
Theo lý thuyết thì lãi suất chiết khấu và IRS có mối liên hệ thuận chiều. Thông qua lãi
suất chiết khấu, Ngân hàng nhà nước cho thấy chính sách tiền tệ đang theo đuổi. Ngân hàng
nhà nước khi muốn thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và tăng trưởng tín dụng sẽ hạ lãi suất chiết
khấu để tạo điều kiện cho các ngân hàng tăng trưởng tín dụng. Và khi lạm phát tăng cao,
nền kinh tế tăng trưởng bong bóng thì Ngân hàng nhà nước sẽ đưa ra mức lãi suất chiết
khấu cao để hạn chế tăng trưởng tín dụng. Với diễn biến lãi suất chiết khấu tại Việt Nam
năm 2011 cho thấy chính sách hạn chế tín dụng của Ngân hàng nhà nước đang theo đuổi.
Lạm phát trong giai đoạn này cũng tăng cao khi có thời điểm tăng đến trên 20% vào Quý
3/2011 và giữ ở mức cao trong năm 2011 và đầu năm 2012. Để hạn chế tăng trưởng tín
dụng và thu hút tiền về nhằm kìm chế lạm phát, Ngân hàng nhà nước đưa ra mức lãi suất
chiết khấu cao trong giai đoạn này. Và khi lạm phát có xu hướng giảm trong năm 2012,
Ngân hàng nhà nước đã thành công trong việc kìm chế lạm phát và đưa lạm phát hàng năm
về mức 6-7%. Tương ứng tình hình lạm phát giảm, Ngân hàng nhà nước đã điều chỉnh giảm
lãi suất chiết khấu xuống. Đến thời điểm Quý 3/2013 thì lãi suất chiết khấu của Ngân hàng
nhà nước chỉ còn 5%, giảm so với thời điểm cao nhất là Quý 3 và 4 năm 2011 8%.
52
Đồ thị 2.15: Lãi suất chiết khấu và IRS tại 5 ngân hàng
Nguồn: tổng hợp từ BCTC riêng lẻ của từng ngân hàng và IFS
53
Mối liên hệ giữa lãi suất chiết khấu và IRS được thể hiện trong đồ thị 2.15 là thuận
chiều. Ngân hàng nhà nước đưa ra mức lãi suất chiết khấu dựa trên biến động của lãi suất
cho vay và huy động kết hợp với chính sách tiền tệ áp dụng cho thời kỳ trên. Thông qua mô
hình nghiên cứu, xu hướng trên sẽ được chứng minh rõ ràng hơn.
Biến động của tỷ giá (Volatility of exchange rates)
Theo lý thuyết kinh tế thì biến động của tỷ giá và IRS có mối liên hệ cùng chiều.
Tỷ giá là giá trị đồng tiền của một quốc gia đối với một tiền tệ khác, trong trường hợp
bài nghiên cứu này là giá trị của đồng USD bằng VND. Tỷ giá dùng để đo sức mua của một
loại tiền tệ. Đồng USD là đồng tiền được sử dụng và ưa chuộng trên toàn thế giới, dùng
thanh toán trong các giao dịch quốc tế. Việt Nam là một quốc gia nhập siêu nên tỷ giá đóng
vai trò quan trọng trong các giao dịch quốc tế. Khi tỷ giá tăng cho thấy nhu cầu về loại tiền
tệ đó tăng lên. Khi nhu cầu nhập khẩu tăng lên, các nhà nhập khẩu có nhu cầu mua USD để
thanh toán làm cầu trên thị trường về loại đồng tiền này tăng lên và kéo theo đó là tỷ giá
cũng tăng lên theo. Và khi tỷ giá giảm là do nhu cầu mua USD trên thị trường sụt giảm hay
Việt Nam xuất khẩu nhiều hơn nhập khẩu nên nguồn cung USD dồi dào trên thị trường dẫn
đến giá giảm.
Đồ thị 2.16: Diễn biến tỷ giá tại Việt Nam
Nguồn: tổng hợp từ ADB
54
Trong giai đoạn khảo sát từ Quý 3/2009 đến nửa đầu năm 2011, ta nhận thấy có một
sự biến động mạnh về tỷ giá.
Năm 2009, ta nhận thấy tỷ giá liên tục tăng do:
+ Người dân găm giữ ngoại tệ chờ giá lên.
+ Nhiều doanh nghiệp vay USD tuy chưa đến kỳ trả nợ nhưng do lo lắng trước tình
hình kinh tế vĩ mô đã mua sẵn USD để giữ vì sợ tỷ giá sẽ tăng. Chính lượng đặt mua nhiều
của doanh nghiệp khiến cầu ngoại tệ tăng. Ngoài ra, do tâm lý bất ổn của cả doanh nghiệp
và người dân khi tỷ giá tăng nhanh dẫn tới hiện tượng găm giữ ngoại tệ.
+ Do tác động của chính sách hỗ trợ lãi suất cho các doanh nghiệp bằng VND, do lãi
suất vay VND thấp, phạm vi và thời gian vay được mở rộng theo chủ trương của chính phủ
nên một số doanh nghiệp có ngoại tệ có xu hướng không muốn bán ngoại tệ và chỉ muốn
vay VND. Đây là một tác động thiếu tích cực không mong muốn khi triển khai gói kích cầu.
+ Ngoài ra, còn 1 số nguyên nhân khác như: thâm hụt cán cân thương mại lớn các
tháng cuối năm 2008, yếu tố tin đồn,…
Năm 2010, tỷ giá tiếp tục tăng do:
+ Ngân hàng nhà nước tiếp tục ban hành Thông tư số 03/2010/TT-NHNN, quy định
mức lãi suất tiền gửi tối đa bằng USD của tổ chức kinh tế tại tổ chức tín dụng là 1%/năm.
Đây được xem là một “cú hích” mạnh khi ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của các tổ chức
kinh tế có tiền gửi bằng USD, khi lãi suất trước đó được hưởng có từ 4% - 4,5%/năm. Quy
định này được bình luận là đặt các tổ chức đó vào thế phải tính toán lợi ích và xem xét bán
lại ngoại tệ, chuyển sang VND để có lãi suất tiền gửi cao hơn. Khớp với chính sách này, các
ngân hàng thương mại đồng loạt tăng giá USD mua vào để thu hút nguồn ngoại tệ tiềm năng
này.
+ Chênh lệch lãi suất vay vốn bằng VND và USD lớn khiến các doanh nghiệp cân
nhắc và dịch chuyển sang vay USD. Lãi suất vay VND tăng cao đầu năm 2010, lên từ 15% -
17%, thậm chí 18%/năm…, trong khi lãi suất vay USD chỉ khoảng 6% - 9%/năm. Chênh
55
lệch này khiến một bộ phận doanh nghiệp chọn “đường vòng” vay USD rồi bán lại lấy vốn
VND.
Thêm vào đó, ngày 15/12/2009, Ngân hàng nhà nước ban hành Thông tư số
25/2009/TT-NHNN mở rộng đối tượng được vay vốn bằng ngoại tệ, đặc biệt là các đối
tượng xuất khẩu.
Năm 2011, tỷ giá tăng lên đến đỉnh cao nhất là vào Quý 4/2011 với mức 20.977
VND/USD:
Vào ngày 11/02/2011, Ngân hàng nhà nước đã điều chỉnh tỷ giá bình quân liên ngân
hàng lên. Động thái này của Ngân hàng nhà nước không nằm ngoài dự đoán của các chuyên
gia khi mà sự chênh lệch giá giữa hai thị trường liên ngân hàng và tự do là khá lớn cũng như
các thông tin về dự trữ ngoại hối, thâm hụt mậu dịch được đăng tải liên tục trên các phương
tiện truyền thông đại chúng trước và sau Tết Nguyên Đán. Bên cạnh áp lực lạm phát, yếu tố
gây ảnh hưởng lớn tới tỷ giá USD/VND là tâm lý của thị trường. Khi Ngân hàng nhà nước
chưa điều chỉnh tỷ giá USD/VND thì các doanh nghiệp xuất khẩu cũng như người dân tìm
cách găm giữ USD chờ đợi thông tin chính thức từ Ngân hàng nhà nước.
Sau khi điều chỉnh tỷ giá trong tháng 2, tình hình cung cầu USD TRONG Quý 2 hầu
như rất yên ả. Cung cầu khá cân bằng giúp cho tình hình tỷ giá không bị biến động nhiều
ngoại trừ việc tỷ giá USD/VND bị ảnh hưởng bởi giá vàng.
Trong tháng 10, Ngân hàng nhà nước đã tăng tỷ giá bình quân liên ngân hàng lên tổng
cộng 14 lần, đẩy tỷ giá trần vượt khỏi mốc 21.000. Đến cuối tháng 10, tỷ giá này vẫn được
giữ nguyên. Qua những lần điều chỉnh, tỷ giá bình quân liên ngân hàng giữa VND với USD
đã tăng tới 0,85%. Vào thời điểm này năm 2010, tỷ giá USD/VND bước vào giai đoạn bắt
đầu căng thẳng, mà một trong những áp lực chính là từ tín dụng ngoại tệ tăng mạnh trước
đó. Một số báo cáo phân tích của các tổ chức trong và ngoài nước đều nhấn mạnh ở áp lực
cầu ngoại tệ để trả nợ cuối năm. Bên cạnh đó, tỷ giá liên tiếp tăng phản ánh một thực tế cầu
ngoại tệ đang cao có thể do có tác động từ hoạt động bán vàng bình ổn của nhóm G5+1 (các
tổ chức được mở tài khoản vàng với đối tác nước ngoài) với khối lượng lớn những ngày
qua, làm cho nhu cầu mua ngoại tệ để đối ứng với số lượng vàng đã thực hiện.
56
Tuy nhiên những diễn biến về tỷ giá trong năm 2011 cũng cho thấy các biện pháp
kiểm soát và điều hành của Ngân hàng nhà nước đã có những kết quả bước đầu. Sự can
thiệp thị trường vàng cũng đã loại trừ giải pháp quen thuộc là chỉ cho nhập vàng để bình ổn.
Sau khi bán ra khoảng 1,5 - 1,8 tỷ USD hỗ trợ thị trường từ giữa tháng 8, chủ yếu cho nhập
khẩu vàng, từ tháng 10 trở lại, Ngân hàng nhà nước không cần phải dùng đến giải pháp này
và giá vàng vì thế ít nhiều cũng đã được kiểm soát và kéo theo đó, tỷ giá USD/VND cũng
đỡ căng thẳng hơn trước.
Sự giảm xuống của tỷ giá USD trong năm 2012 lại diễn ra trong điều kiện đáng chú ý.
Thứ nhất, các ngân hàng thương mại và Ngân hàng Nhà nước đã mua một lượng ngoại
tệ khá lớn lên đến hàng chục tỷ USD để tăng dự trữ ngoại hối, nhưng không làm tỷ giá USD
trên thị trường tăng lên theo.
Thứ hai, năm 2012, giá vàng trong nước liên tục cao hơn giá vàng thế giới hàng triệu
đồng/lượng nhưng không xuất hiện tình trạng nhập lậu vàng. Do đó, tỷ giá USD trên thị
trường tự do thường xuyên ngang bằng, thậm chí có thời điểm còn thấp hơn cả tỷ giá USD
trên thị trường chính thức. Trong khi, theo Tổng cục Hải quan, trong 11 tháng năm 2012,
xuất khẩu đá quý, kim loại quý và sản phẩm đạt 501,5 triệu USD, giảm 80,9% so với cùng
kỳ; nhập khẩu 302,3 triệu USD, giảm 86,3%; xuất siêu 199,2 triệu USD.
Lượng ngoại tệ từ các nguồn vào Việt Nam năm 2012 đạt kết quả tích cực. Vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài (FDI) năm 2012 tuy sụt giảm về lượng vốn đăng ký, nhưng lượng vốn
thực hiện khoảng 12,2 tỷ USD, đạt đỉnh cao nhất so với mức thực hiện trong các năm trước.
Lượng vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) đạt cao nhất từ trước đến nay.
Những năm trước, nhập siêu ở mức khá cao (năm 2007 là 14,2 tỷ USD, năm 2008 là
18 tỷ USD, năm 2009 là 12,9 tỷ USD, năm 2010 là 12,6 tỷ USD, năm 2011 là 9,8 tỷ USD),
thì năm 2012 đã xuất siêu 780 triệu USD (theo số liệu của Tổng cục Hải quan). Lượng kiều
hối gửi về nước năm 2012 đạt trên 10 tỷ USD, cao hơn nhiều mức kỷ lục 9 tỷ USD đã đạt
vào năm 2011. Chi tiêu của khách quốc tế đến Việt Nam năm 2012 đạt 6,6 tỷ USD, tăng
trên 1 tỷ USD so với mức kỷ lục của năm 2011.
57
Một nguyên nhân quan trọng khác là do lạm phát năm 2012 được kiềm chế ở mức thấp
chưa bằng một nửa so với năm trước và thấp hơn mục tiêu đề ra, nên tình trạng găm giữ
ngoại tệ trong dân và trong các doanh nghiệp ít hơn, tình trạng đô la hóa cũng được kìm chế,
giảm áp lực đối với tỷ giá. Lãi suất tiết kiệm bằng VND tuy đã được giảm xuống nhanh và
thấp chỉ bằng hai phần ba mức trước đây, nhưng vẫn cao hơn nhiều lần so với lãi suất gửi
tiết kiệm bằng ngoại tệ nên người dân tích cực bán ngoại tệ, chuyển sang gửi tiết kiệm bằng
VND.
Sự giảm xuống của tỷ giá USD cũng còn do yếu tố đầu tư, sản xuất và tiêu dùng năm
2012 bị “co lại”.
Trong năm 2013, Ngân hàng nhà nước đã đề ra mục tiêu duy trì tỷ giá trong biên độ
không quá 2-3%, điều hành chặt chẽ theo tín hiệu thị trường, phù hợp với các cân đối vĩ mô
và cán cân thanh toán quốc tế, thực hiện các biện pháp tăng dự trữ ngoại hối của Nhà nước
và chống đô la hóa trong nền kinh tế.
Định hướng này được đưa ra dựa trên diễn biến cung-cầu và khả năng bình ổn thị
trường ngoại tệ cũng như biến động tỷ giá trong năm 2012. Trong đó, cơ sở quan trọng để
ổn định tỷ giá trong trường hợp cần thiết là chuẩn bị đủ nguồn ngoại tệ, và chỉ điều chỉnh tỷ
giá khi các biện pháp cân đối cung-cầu không mang lại hiệu quả.
Những năm trước đây, tỷ giá USD tăng đã gây tác động lên mặt bằng giá cả, đặc biệt
là giá dầu, do Việt Nam phải nhập khẩu hầu như toàn bộ xăng dầu chế biến. Đồng thời, gây
tác động tâm lý khi nhiều người chuyển sang USD nhằm tránh lạm phát, điều này lại tiếp
tục gây áp lực lên tỷ giá. Khi giá USD tăng, các doanh nghiệp phải điều chỉnh lại phương án
sản xuất kinh doanh và các hợp đồng kinh tế, gây tốn kém tiền bạc và nhiều bất lợi khác cho
doanh nghiệp. Ngay cả các doanh nghiệp xuất khẩu cũng chưa chắc đã được hưởng lợi khi
giá USD tăng, do nhiều doanh nghiệp trong nước vẫn dựa chủ yếu vào nguồn nguyên liệu
nhập khẩu.
Do đó, việc đưa ra thông điệp tỷ giá rõ ràng ngay từ đầu năm đã giúp các tổ chức kinh
tế và cá nhân tránh được một trong những rủi ro lớn nhất do bất ổn tỷ giá thường ảnh hưởng
tiêu cực đến giá trị VND, qua đó ảnh hưởng đến giá cả các mặt hàng và tác động tâm lý.
58
Ngân hàng nhà nước đã giữ quan điểm điều chỉnh tỷ giá dựa trên kết quả tính toán tỷ
giá thực, chủ yếu dựa trên cán cân thanh toán quốc gia và đảm bảo mục tiêu điều hành chính
sách tiền tệ, đưa ra mức lãi suất thích hợp đối với tiền gửi ngoại tệ theo hướng có lợi cho
người gửi VND, qua đó đã hạn chế tình trạng găm giữ ngoại tệ, đảm bảo hiệu quả kinh tế
của dự trữ ngoại hối quốc gia.
Nhờ chính sách ổn định tỷ giá và chủ động can thiệp trong trường hợp cần thiết, thị
trường ngoại tệ năm 2013 giữ được sự ổn định, tỷ giá dao động trong biên độ cho phép,
không có đột biến về nhu cầu ngoại tệ trên thị trường. Chênh lệch tỷ giá chính thức và tỷ giá
trên thị trường tự do được thu hẹp, tỷ lệ đô la hóa giảm mạnh. Các thị trường trong nước
không còn chịu tác động của giá USD trên thị trường quốc tế, đây là yếu tố quan trọng trong
việc duy trì và củng cố lòng tin của các nhà đầu tư. Tỷ giá ổn định đã góp phần tích cực
trong việc ổn định lạm phát, thu hút đầu tư nước ngoài, tăng dự trữ ngoại hối. Do tỷ giá ổn
định, các tổ chức kinh tế và cá nhân có xu hướng đẩy mạnh bán ngoại tệ cho các NHTM để
lấy VND, dòng kiều hối chuyển về cũng tăng mạnh. Theo dự báo của Ngân hàng Thế giới,
lượng kiều hối về Việt Nam trong năm 2013 đạt khoảng 11 tỷ USD, đứng thứ 9 trong danh
sách các nước nhận kiều hối hàng đầu thế giới.
59
Đồ thị 2.17: Biến động của tỷ giá và IRS tại 5 ngân hàng
Nguồn: tổng hợp từ BCTC riêng lẻ của từng ngân hàng và ADB
60
Thông qua đồ thị 2.17, ta nhận thấy mối liên hệ thuận chiều giữa biến động của tỷ giá
và IRS. Trong năm 2009-2011, tỷ giá biến động mạnh do các bất ổn kinh tế vĩ mô sau do
Ngân hàng nhà nước điều chỉnh nên không còn biến động nhiều.
Hệ thống luật pháp, quy định chế tài, tình trạng tham nhũng, môi trường kinh tế vĩ
mô…: là những yếu tố cơ bản để hỗ trợ hoạt động ngân hàng hiệu quả. Môi trường chính
sách và sự không ổn định của kinh tế vĩ mô có tác động đến IRS.
61
Kết luận chƣơng 2
Diễn biến lãi suất cho vay và huy động tại các ngân hàng Việt Nam từ năm 2000 đến
2013 đã được khái quát trong chương 2 này, nó cho thấy thị trường tài chính Việt Nam vẫn
còn chưa ổn định và dễ bị tổn thương bởi các yếu tố bên ngoài nên Việt Nam phải sử dụng
các mệnh lệnh hành chính để điều chỉnh thị trường này.
Các yếu tố vi mô và vĩ mô được chọn làm biến trong mô hình nghiên cứu đã được
phân tích thông qua số liệu thu thâp được của 5 ngân hàng và thị trường. Đây là tiền đề quan
trọng để xây dựng mô hình nghiên cứu trong chương 3 và phân tích mô hình nghiên cứu
được đưa ra này.
62
CHƢƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ GIẢI PHÁP ĐỀ XUẤT
3.1 Mô hình
Tương tự như Thorsten Beck và Heiko Hesse (2006) trong phần này, bài viết mô tả
thực nghiệm xấp xỉ các yếu tố xác định IRS trong nhóm các ngân hàng thương mại nội địa
của Việt Nam. Tác giả thực hiện mô hình hồi quy IRS với các biến giải thích. IRS được xem
là một hàm số của các biến nội tại của ngân hàng (X), các biến chuyên biệt của ngân hàng
(W) và các biến kinh tế vĩ mô (Z).
Mô hình thực nghiệm như sau:
(1) IRSi, t = α + βXi, t + γWt + δZt + εi, t
Với IRSit là khoảng rộng lãi suất cho vay và huy động của ngân hàng i tại thời điểm t.
Xi, t là biến các yếu tố nội tại của ngân hàng i tại thời điểm t.
Wt là biến các yếu tố chuyên biệt của ngành ngân hàng tại thời điểm t.
Zt là biến các chỉ số kinh tế vĩ mô tại thời điểm t.
εi, t là sai số của ngân hàng i tại thời điểm t.
Như lý thuyết nêu trong chương 1 và thông qua số liệu thu thập được trong chương 2
trước đó, tác giả lựa chọn các biến giải thích để xây dựng nên mô hình những yếu tố tác
động đến khoảng rộng lãi suất cho vay và huy động. Mô hình cụ thể như dưới đây:
IRSit = α0 + α1OCit + α2NON_INCit + α3BADit + α4LRit + α5INFt + α6VOL_IRt +
(2) α7GDPt + α8DRt + α9VOL_EXt + εi, t
Trong đó:
IRSit là khoảng rộng lãi suất cho vay và huy động của ngân hàng i tại thời điểm t được
lượng hóa bằng trung bình lãi suất cho vay trừ đi trung bình lãi suất huy động.
OCit là chi phí hoạt động chia cho tổng tài sản của ngân hàng i tại thời điểm t.
NON_INCit là thu nhập ngoài lãi chia cho tổng tài sản của ngân hàng i tại thời điểm t.
BADit là chất lượng nợ của ngân hàng i tại thời điểm t, được lượng hóa bằng nợ xấu
của ngân hàng i tại thời điểm t chia cho tổng dư nợ của ngân hàng i tại thời điểm t.
LRit là rủi ro thanh khoản của ngân hàng i tại thời điểm t, được lượng hóa bằng tài sản
có tính lỏng của ngân hàng i tại thời điểm t chia cho tổng tài sản của ngân hàng i tại thời
điểm t.
63
INFt là lạm phát tại thời điểm t, được lượng hóa bằng tốc độ tăng CPI tại thời điểm t
so cùng kỳ năm trước.
VOL_IRt là biến động của lãi suất tại thời điểm t, được lượng hóa bằng độ lệch chuẩn
của lãi suất tại thời điểm t so với 3 kỳ trước liền kề.
GDPt là tốc độ tăng GDP tại thời điểm t so cùng kỳ năm trước.
DRt là lãi suất chiết khấu tại thời điểm t.
VOL_EXt là biến động của tỷ giá tại thời điểm t, được lượng hóa bằng độ lệch chuẩn
của tỷ giá tại thời điểm t so với 3 kỳ trước liền kề.
εi, t là sai số của ngân hàng i tại thời điểm t.
Bảng tổng hợp dấu kỳ vọng các biến giải thích
STT Biến giải thích Ký hiệu Kỳ vọng
Chi phí hoạt động/tổng tài sản 1 + OC
Thu nhập ngoài lãi/tổng tài sản 2 - NON_INC
3 Chất lượng nợ + BAD
4 Rủi ro thanh khoản - LR
5 Lạm phát + hoặc - INF
6 + Biến động của lãi suất VOL_IR
7 Tốc độ tăng GDP + hoặc - GDP
8 Lãi suất chiết khấu + DR
9 Biến động của tỷ giá + VOL_EX
Trong bảng trên, biến Thu nhập ngoài lãi/tổng tài sản và Rủi ro thanh khoản được kỳ
vọng sẽ tương quan ngược chiều với biến IRS, các biến còn lại được kỳ vọng sẽ tương quan
thuận chiều với biến IRS trừ biến Tốc độ tăng GDP và Lạm phát có thể tương quan thuận
chiều hoặc ngược chiều với IRS.
3.2 Nguồn gốc dữ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
Dữ liệu nghiên cứu
Bài nghiên cứu thu thập dữ liệu là các biến nội tại của ngân hàng từ Báo cáo tài chính
có kiểm toán của 5 ngân hàng có dữ liệu tài chính đầy đủ nhất trong số các ngân hàng
64
thương mại tại Việt Nam từ Quý 3/2009 đến Quý 3/2013. Các biến của ngành ngân hàng và
kinh tế vĩ mô được thu thập từ IFS, ADB và Ngân hàng nhà nước Việt Nam.
IRS
OC
Non_INC
Bad
LR
Inf
vol_IR
GDP
DR
Vol_Ex
0.03791
0.0044
0.00172
0.01698
0.2328 10.265 1.30985 5.79412 8.1503
298.886
Mean Standard Error
0.00117
0.0002
0.00017
0.00105
0.0095 0.6161 0.08581 0.08684 0.3213
23.2767
0.03735
0.0039
0.00181
0.01524
0.2297 8.4582 1.29099
5.68 6.9444
310.852
0.01077
0.0017
0.00153
0.00966
0.0879 5.6798 0.79114
0.8006 2.9623
214.6
Median Standard Deviation Sample Variance
0.00012
3E-06
2.3E-06
9.3E-05
0.0077
32.26
0.6259 0.64096
8.775
46053.2
Range
0.04324
0.0076
0.01073
0.03782
0.3694 20.112 2.75379
2.59
8
643.709
Minimum
0.01726
0.0018
-0.0047
0.00338
0.0768 2.4221
0
4.75
5
13.3421
Maximum
0.0605
0.0094
0.006
0.0412
0.4462 22.534 2.75379
7.34
13
657.051
Sum
3.22275
0.374
0.14601
1.44292
19.786 872.52 111.337
492.5 692.78
25405.3
Count
85
85
85
85
85
85
85
85 85 85 Nguồn: tổng hợp từ BCTC riêng lẻ của từng ngân hàng và ADB, IFS
Bảng 3.1: Bảng mô tả dữ liệu
Trên đây là bảng mô tả dữ liệu thống kê của các biến trong mô hình thực nghiệm.
Thông qua bảng mô tả, tác giả nhận thấy có 85 quan sát cho mỗi biến. trong đó IRS có giá
trị trung bình là 0.03791, giá trị cao nhất là 0.0605 và giá trị thấp nhất là 0.01726.
Phƣơng pháp nghiên cứu
Mô hình (2) được ước lượng với dữ liệu bảng. Đầu tiên, bài viết thực hiện các mô hình
đặc trưng của dữ liệu bảng bao gồm Pooled, Fixed effects (FE), Random effects (RE) để
ước lượng mô hình (2).
Mô hình Pooled có đặc điểm gộp tất cả các dữ liệu lại không phân biệt đặc tính thay
đổi theo thời gian. Mô hình này ngầm giả định mối quan hệ các biến không thay đổi cho tất
cả các dữ liệu quan sát. Ngoài ra mô hình Pooled bỏ qua mối quan hệ không đồng nhất giữa
các đơn vị chéo theo thời gian. Nên kết quả của mô hình này thường ít được các nghiên cứu
quan tâm. Trong thực tế các biến đo lường sự khác nhau giữa các đơn vị chéo nhưng không
thay đổi theo thời gian thường không quan sát được ví dụ như lĩnh vực hoạt động, tín
ngưỡng, vị trí đặt trụ sở khinh doanh,… Tuy nhiên vấn đề này lại xử lý tốt nếu sử dụng mô
hình FE. Mô hình RE giống như mô hình FE nhưng trong mô hình RE có hệ số chặn có
thêm thành phần sai số chéo. Hệ số chặn trong mô hình RE thay đổi ngẫu nhiên theo đơn vị
65
chéo nhưng không thay đổi theo thời gian. Mô hình RE được ước lượng theo phương pháp
GLS. Nhược điểm lớn nhất của mô hình RE là mô hình chỉ cho kết quả tin cậy khi sai số
của mô hình hồi quy không có tương quan với các biến giải thích. Điều này tương đương
với việc các biến giải thích trong mô hình không có hiện tượng nội sinh.
Kiểm định Hausman được sử dụng để cũng cố thêm quyết định lựa chọn mô hình FE
hoặc RE. Mô hình FE sử dụng với giả định giá trị trung bình của biến phụ thuộc thay đổi
theo đơn vị chéo nhưng không thay đổi theo thời gian (entity fixed effect).
3.3 Kết quả thực nghiệm
Kết quả các mô hình ước lượng mô hình (2) được trình bày trong bảng 3.2, 3.3 và 3.4.
Bảng 3.2 trình bày kết quả mô hình Pooled. Bảng 3.3 trình bày kết quả mô hình FE. Bảng
3.4 trình bày kết quả mô hình RE. Kết quả kiểm định Hausman được trình bày trong bảng
3.5.
Mô hình Pooled:
Bảng 3.2: Kết quả hồi quy Pooled
66
Mô hình Fixed effects:
Bảng 3.3: Kết quả hồi quy Fixed effects
Mô hình Random effects:
Bảng 3.4: Kết quả hồi quy Random effects
67
Với việc kiểm định Hausman test cho ra kết quả như sau:
Bảng 3.5: Kết quả kiểm định Hausman test
Với giả thiết H0: Các ước lượng của mô hình Fixed effects và mô hình Random effects
không khác nhau đáng kể.
Do Prob>chi2 = 0,0001 < 0,05 nên giả thiết H0 bị bác bỏ, mô hình Random effects
không thích hợp và ta sẽ chọn mô hình Fixed effects.
Ta có kết quả sau:
IRSit = 0,0085212 + 1,478878OCit – 1,883279NON_INCit + 0,151306BADit –
0,0080302LRit – 0,0004723INFt – 0,0015517VOL_IRt + 0,0015507GDPt + 0,0026622DRt
+ 5,42e-06VOL_EXt
Chi phí hoạt động/tổng tài sản (OC) có mối tương quan dương với IRS, tương ứng
với kỳ vọng ban đầu trước khi chạy mô hình. Mối tương quan dương chỉ ra rằng chi phí hoạt
động/tổng tài sản càng lớn thì IRS càng lớn. Kết quả nghiên cứu này phù hợp với kết quả
nghiên cứu trước đây của Demirguc-Kunt and Huizinga (1999), Barajas và những người
khác (1999, 2000) và Brock và Rojas-Suarez (2000) là IRS và chi phí hoạt động/tổng tài sản
68
có mối liên hệ thuận chiều. Chi phí hoạt động của các ngân hàng ảnh hưởng lớn đến IRS
của các ngân hàng đó, khi chi phí hoạt động/tổng tài sản tăng (giảm) 1 đơn vị thì IRS sẽ
tăng (giảm) tương ứng 1,478878 đơn vị. Tại Việt Nam, các ngân hàng tỏ ra chưa quản lý
hiệu quả chi phí hoạt động dẫn đến chi phí hoạt động cao, qua đó tác động đến IRS. Chính
yếu tố công nghệ và quy trình ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của nhân viên làm gia tăng
chi phí.
Thu nhập ngoài lãi/tổng tài sản (NON_INC) có mối tương quan âm với IRS, tương
ứng với kỳ vọng ban đầu trước khi chạy mô hình. Mối tương quan âm chỉ ra rằng thu nhập
ngoài lãi/tổng tài sản càng lớn thì IRS càng nhỏ, điều này tương ứng với lý thuyết được nêu
ở chương 1. Theo kết quả trong mô hình thì khi thu nhập ngoài lãi/tổng tài sản tăng (giảm) 1
đơn vị thì IRS giảm (tăng) tương ứng 1,883279 đơn vị. Thật vậy, các ngân hàng có nguồn
thu nhập ngoài lãi càng cao thì ngoài việc đa dạng nguồn thu nhập để không chỉ phụ thuộc
vào hoạt động cho vay mà còn đạt được lợi nhuận mong muốn mà không cần nâng cao IRS.
Các ngân hàng có thị phần cho vay và huy động cao có nhiều cơ hội để cung cấp các dịch
vụ đi kèm cho các khách hàng. Như ta thấy trong dữ liệu của các biến trong mô hình, 2 ngân
hàng Vietinbank và VCB có thị phần huy động và cho vay cao nên ngoài ra thu nhập ngoài
lãi của 2 ngân hàng này cũng cao hơn hẳn so với các ngân hàng khác. Các ngân hàng này có
bộ phận chuyên trách để thực hiện những nghiệp vụ liên quan đến chứng khoán, ngoại hối
đồng thời thường xuyên đưa ra các sản phẩm dịch vụ mới nhằm thu hút khách hàng.
Chất lƣợng nợ (BAD) có mối tương quan dương với IRS, tương ứng với kỳ vọng ban
đầu trước khi chạy mô hình. Mối tương quan dương chỉ ra rằng nợ xấu càng lớn thì IRS
càng lớn, theo kết quả trong mô hình nghiên cứu thì khi tỷ lệ nợ xấu tăng (giảm) 1 đơn vị thì
IRS tăng (giảm) tương ứng 0,151306 đơn vị. Kết quả nghiên cứu này phù hợp với kết quả
nghiên cứu trước đây của Randall (1998), Brock và Rojas-Suarez (2000) và Barajas và
những người khác (1999, 2000). Do việc gánh chịu chi phí dự phòng cho những khoản nợ
xấu mà ngân hàng sẽ nâng IRS lên để bù đắp. Nếu công tác quản trị rủi ro tại các ngân hàng
không tốt thì chính việc phát sinh nợ xấu sẽ làm ảnh hưởng đến IRS của ngân hàng đó.
Ngân hàng phải tốn nhiều chi phí hơn để trích lập dự phòng cho món vay đó đồng thời chi
69
phí để quản lý món vay đã phát sinh nợ xấu cao hơn chi phí để quản lý các món vay đúng
hạn do ngân hàng phải tích cực tìm cách để thu hồi món nợ vay đó về cho ngân hàng.
Rủi ro thanh khoản (LR) có mối tương quan âm với IRS, tương ứng với kỳ vọng ban
đầu trước khi chạy mô hình. Mối tương quan âm chỉ ra rằng tỷ lệ tài sản có tính lỏng / tổng
tài sản càng lớn thì IRS càng nhỏ, theo kết quả của mô hình nghiên cứu trên thì khi tỷ lệ
thanh khoản tăng (giảm) 1 đơn vị thì IRS giảm (tăng) tương ứng 0,0080302 đơn vị cho phù
hợp. Thông qua kết quả này, ta nhận thấy chính quan điểm nắm giữ tài sản có tính thanh
khoản như thế nào trong Bảng cân đối kế toán của ngân hàng có ảnh hưởng đến IRS như thế
nào. Ngân hàng nào có tài sản có tính lỏng càng lớn thì IRS càng thấp, tức là rủi ro thanh
khoản càng thấp thì IRS càng thấp. Do thanh khoản tốt nên ngân hàng không khó khăn về
nguồn vốn và do vậy chủ động trong công tác tín dụng. Ngân hàng không nâng cao lãi suất
huy động do đã chủ động về nguồn vốn đồng thời do lãi suất huy động thấp nên khi khách
hàng có nhu cầu đầu tư kinh doanh thì ngân hàng có thể đáp ứng ngay.
Lạm phát (INF) có mối tương quan âm với IRS. Mối tương quan âm chỉ ra rằng lạm
phát càng cao thì IRS càng thấp, theo mô hình nghiên cứu thì khi lạm phát tăng (giảm) 1
đơn vị so với cùng kỳ năm trước thì IRS cũng giảm (tăng) tương ứng 0,0004723 đơn vị. Kết
quả nghiên cứu này không giống như kết quả nghiên cứu của các tác giả được nêu trong
chương 1 (theo Kunt và Huizinga, 1999; Brock và Suarez, 2000; Claessens và những người
khác, 2001). Chính vì vậy, IRS tuy bị tác động bởi lạm phát nhưng tùy theo quốc gia mà sẽ
có tương quan thuận chiều hay ngược chiều giữa 2 biến. Tại những nước do các tác giả
nghiên cứu trên đây thì lạm phát có tác động cùng chiều với IRS, trong khi Việt Nam do 5
ngân hàng có thị phần lớn làm mẫu đại diện thì lại cho kết quả ngược chiều. Điều này có thể
lý giải rằng lạm phát đã ảnh hưởng rất lớn đến đời sống kinh tế, xã hội thông qua giá cả các
loại mặt hàng thiết yếu và làm ảnh hưởng đến sức mua của người tiêu dùng. Chính vì vậy,
nếu ngân hàng áp dụng IRS quá lớn sẽ ảnh hưởng đến giá cả đầu ra của các sản phẩm làm
sức mua đã giảm lại còn giảm hơn, ảnh hưởng đến khả năng tăng trưởng của nền kinh tế.
Việc áp dụng IRS thấp của các ngân hàng vừa chia sẻ khó khăn với khách hàng vừa thúc
đẩy tăng trưởng tín dụng khi kinh tế khó khăn.
70
Biến động của lãi suất (VOL_IR) có mối tương quan âm với IRS, không tương ứng
với kỳ vọng ban đầu trước khi thực hiện mô hình. Mối tương quan âm chỉ ra rằng lãi suất
biến động càng mạnh thì IRS càng thấp. Tuy nhiên hệ số không có ý nghĩa thống kê.
Tốc độ tăng GDP (GDP) có mối tương quan dương với IRS. Mối tương quan dương
chỉ ra rằng GDP càng tăng cao thì IRS càng lớn. Nghiên cứu này cho ra kết quả tương tự kết
quả của Moore và Craigwell (2000) rằng tốc độ tăng của GDP thuận chiều với IRS của 5
ngân hàng làm mẫu nghiên cứu. Theo kết quả của mô hình nghiên cứu, GDP tăng (giảm) 1
đơn vị thì IRS tăng (giảm) 0,0015507 đơn vị tương ứng theo. Điều này có thể ký giải rằng
kinh tế phát triển, nhu cầu vốn đầu tư vào nền kinh tế cao làm lãi suất cho vay tăng cao kéo
giãn IRS của các ngân hàng.
Lãi suất chiết khấu (DR) có mối tương quan dương với IRS, tương ứng với kỳ vọng
ban đầu trước khi thực hiện mô hình. Mối tương quan dương này chỉ ra rằng lãi suất chiết
khấu càng cao thì IRS càng lớn. Theo kết quả của mô hình nghiên cứu, khi lãi suất tăng
(giảm) 1 đơn vị thì IRS tăng (giảm) tương ứng 0,0026622 đơn vị. Đây là công cụ dùng để
điều hành chính chính sách tiền tệ của Ngân nhà nhà nước Việt Nam. Thông qua mối quan
hệ giữa IRS và lãi suất chiết khấu đại diện mẫu là 5 ngân hàng thương mại cổ phần có quy
mô lớn, ta nhận thấy rằng khi lãi suất chiết khấu áp dụng đưa ra tăng cao làm chi phí vốn
của ngân hàng tăng lên, qua đó tác động đến chi phí tổng thể tăng lên. Với việc chi phí tổng
thể tăng lên, ngân hàng sẽ bù đắp chi phí này thông qua hạ lãi suất huy động tiền gửi xuống
hay nâng lãi suất cho vay lên hay áp dụng đồng thời hai phương án trên, qua đó kéo giãn
IRS của ngân hàng mình. Lãi suất chiết khấu được Ngân hàng nhà nước đưa ra áp dụng cao
là khi nền kinh tế tăng trưởng nóng hay lạm phát tăng cao, Ngân hàng nhà nước đang muốn
hạ tăng trưởng tín dụng của toàn hệ thống xuống nhằm ổn định kinh tế vĩ mô. Tương tự, khi
nền kinh tế tăng trưởng chậm hay suy thoái, để kích thích tăng trưởng tín dụng hay cung
tiền cho nền kinh tế, Ngân hàng nhà nước sẽ phát tín hiệu thông qua việc hạ lãi suất chiết
khấu chứng từ có giá xuống. Lãi suất chiết khấu được giảm kéo theo IRS của ngân hàng
cũng giảm theo.
Biến động của tỷ giá (VOL_EX) có mối tương quan dương với IRS, tương ứng với
kỳ vọng ban đầu trước khi thực hiện mô hình. Mối tương quan dương thể hiện nền kinh có
71
tỷ giá biến động càng mạnh thì IRS càng lớn. Theo kết quả được đưa ra của mô hình hồi
quy thì khi độ lệch chuẩn tăng (giảm) 1 đơn vị thì IRS tăng (giảm) tương ứng 5,42e-06 đơn
vị. Kết quả của mô hình nghiên cứu thông qua mẫu là 5 ngân hàng thương mại có thị phần
lớn.
Trong mô hình nghiên cứu trên, do hạn chế về công tác thu thập dữ liệu nên những
biến: Dự trữ bắt buộc, Thị phần, Mục tiêu, Sức mạnh thị trường và dữ liệu của toàn bộ các
ngân hàng tại Việt Nam đã không được đưa vào mô hình. Do vậy, kết quả hồi quy của mô
hình không thể hiện đầy đủ tất cả những yếu tố tác động đến chênh lệch lãi suất cho vay và
huy động tại Việt Nam nhưng cũng phản ánh tương đối thông qua việc chọn mẫu nghiên
cứu là 5 ngân hàng thương mại hàng đầu và có thị phần lớn tại Việt Nam.
Thông qua kết quả hồi quy trong Bảng 3.3, ta nhận thấy có 4 biến tương quan âm
(Thu nhập ngoài lãi/tổng tài sản, Rủi ro thanh khoản, Lạm phát, Biến động của lãi
suất) và 5 biến tương quan dương (Chi phí hoạt động/tổng tài sản, Chất lƣợng nợ, GDP,
Lãi suất chiết khấu, Biến động của tỷ giá) với IRS. Những biến tương quan âm có mối
quan hệ ngược chiều với IRS, tức là những biến này càng lớn thì IRS càng nhỏ và ngược lại.
Tương tự, những biến tương quan dương có mối quan hệ thuận chiều với IRS, tức là những
biến này càng lớn thì IRS càng lớn và ngược lại. Trong các biến có ảnh hưởng đến IRS thì 3
biến Chi phí hoạt động/tổng tài sản, Thu nhập ngoài lãi/tổng tài sản, Chất lƣợng nợ có
ảnh hưởng mạnh nhất đến IRS, vì vậy cần tập trung tác động đến 3 biến này để tác động đến
IRS có hiệu quả nhất.
3.4 Kiến nghị đối với các cơ quản lý
Mặc dù biến Sức mạnh thị trường không đưa vào mô hình hồi quy do thiếu dữ liệu
nhưng trên thực tế việc độc quyền trong nền kinh tế nói chung và ngành ngân hàng nói riêng
gây ra nhiều hệ lụy không tốt cho chính nền kinh tế và ngành ngân hàng. Tại Việt Nam, hệ
thống ngân hàng với rất nhiều ngân hàng thương mại cùng kinh doanh, trong đó có những
ngân hàng lớn chiếm thị phần lớn về thị phần huy động và cho vay trên thị trường. Chính
sức mạnh thị trường của những ngân hàng lớn này cho phép họ áp đặt giá cho thị trường,
phá vỡ sự cạnh tranh trong ngành ngân hàng mà cạnh tranh lại là yếu tố tiên quyết trong nền
kinh tế thị trường mà nước ta đang hướng tới. Việc phá vỡ thế độc quyền của những ngân
72
hàng lớn, tư nhân hóa ngành ngân hàng để cạnh tranh và tư nhân hóa những ngân hàng nhà
nước hoạt động yếu kém là vấn đề cần được đặt ra lúc này và tiến hành trên thực tế. Trên thị
trường tồn tại nhiều ngân hàng nhỏ vừa yếu về quy mô vốn, công nghệ lại vừa yếu về nhân
lực. Do là ngân hàng nhỏ nên uy tín và danh tiếng trên thị trường không cao nên rất khó huy
động vốn và cho vay. Để cạnh tranh với ngân hàng lớn, các ngân hàng này đã đưa ra mức
lãi suất huy động cao hơn thị trường. Vì huy động với lãi suất cao nên phải cho vay với lãi
suất cao, đòi hỏi ngân hàng phải đầu tư vào những ngành có nhiều rủi ro. Điều này tiềm ẩn
rủi ro cho khách hàng gửi tiền và nền kinh tế nói chung. Chính vì vậy, chủ trương nâng vốn
pháp định của ngành ngân hàng và hợp nhất những ngân hàng nhỏ và yếu kém lại với nhau
nhằm nâng cao quy mô và khả năng chống lại những rủi ro trên thị trường tiền tệ mà ngân
hàng có thể gặp phải là cần thiết. Câu hỏi đặt ra là liệu những ngân hàng yếu hợp nhất lại
với nhau có tạo nên một ngân hàng mạnh không hay lại tạo ra một ngân hàng rất yếu khi
phải cõng trên mình vô số nợ xấu của các ngân hàng thành viên trước khi hợp nhất. Chủ
trương hạn chế thành lập ngân hàng hiện nay được đưa ra do trên thị trường có quá nhiều
ngân hàng nhưng sự gia nhập của các ngân hàng có sức mạnh về công nghệ và nhân lực cần
được tạo điều kiện, điều này có thể nâng cao lãi suất tiền gửi và giảm lãi suất cho vay, qua
đó giảm IRS.
Lạm phát tương quan ngược chiều với IRS theo kết quả hồi quy trong mô hình nghiên
cứu của Bảng 3.3, như vậy để giảm IRS cần tăng lạm phát. Nhưng chỉ số lạm phát là một
chỉ tiêu kinh tế vĩ mô và sẽ ảnh hưởng đến đời sống của người dân và sự phát triển của nền
kinh tế nên cần thiết các cơ quan quản lý phải kiểm soát được lạm phát để phục vụ công
cuộc phát triển nền kinh tế đồng thời giảm IRS để đưa vốn vào nền kinh tế kích thích đầu tư
vào sản xuất và thương mại. Theo mô hình nghiên cứu của Brock và Suárez về chênh lệch
lãi suất cho vay và huy động tại các nước Mỹ Latin thì lạm phát và IRS lại có tương quan
thuận chiều, tức là lạm phát càng cao có tác động đến lãi suất trên thị trường tiền tệ thì để
chống lại những rủi ro do lạm phát gây ra, ngân hàng sẽ nâng cao IRS nhằm bảo hiểm rủi
ro. Nhưng trong mô hình nghiên cứu tại Việt Nam với 5 ngân hàng làm mẫu đại diện lại cho
ra kết quả ngược lại, lạm phát tương quan ngược chiều với IRS mặc dù khi quan sát mô hình
đồ thị 2.12 cho thấy 2 biến này tương quan thuận chiều. Như vậy, tuy cùng là 2 biến lạm
73
phát và IRS nhưng tại những nước Mỹ Latin thì tác động khác tại Việt Nam. Các cơ quan
quản lý cần chủ động trong công tác điều hành lạm phát nhằm điều chỉnh thị trường vĩ mô
theo hướng có lợi cho nền kinh tế. Lạm phát mục tiêu nên được đưa ra và cố gắng đạt được
nhằm kích thích tăng trưởng kinh tế và giảm IRS của các ngân hàng thương mại.
Trái ngược với diễn biến và nhận xét khi quan sát đồ thị 2.13 biểu diễn tình hình biến
động của lãi suất và IRS của 5 ngân hàng đại diện là tương quan thuận chiều thì theo kết quả
của mô hình nghiên cứu, biến động của lãi suất tương quan ngược chiều với IRS, như vậy
để giảm IRS thì theo mô hình hồi quy cần tăng cường sự biến động của lãi suất. Nhưng trên
thực tế của nền kinh tế Việt Nam thì sự ổn định của lãi suất là một trong những chỉ tiêu
chính cần ổn định. Bất kì vì lý do như thế nào làm cho lãi suất biến động đều ảnh hưởng
không tốt đến sự ổn định của nền kinh tế nói chung và hệ thống ngân hàng nói riêng. Vì
vậy, việc tác động đến lãi suất cần cân nhắc trước khi thực hiện. Để hạn chế sự biến động lãi
suất, ngân hàng cần thiết nâng cao dự trữ bắt buộc, tăng vốn chủ sở hữu thông qua hình thức
quy định về vốn pháp định cho hệ thống ngân hàng. Các cơ quan quản lý cần thận trọng khi
sử dụng sự biến động để tác động đến IRS.
Sự biến động của tỷ giá có tương quan dương với IRS tương ứng với kỳ vọng ban đầu
trước khi chạy mô hình. Để hạn chế sự biến động của tỷ giá, thông qua đó giảm IRS Chính
phủ cần có nguồn dự trữ ngoại hối đủ lớn để tác động đến tỷ giá khi cần điều chỉnh và hạn
chế tình trạng đô la hóa trên thị trường. Để làm được điều đó, cần thiết giảm nhập siêu và
tăng cường xuất khẩu để thu về nguồn ngoại tệ cho đất nước. Với nguồn ngoaị tệ chủ động
như vậy đồng thời sự tăng trưởng của nền kinh tế sẽ giúp hạn chế tình trạng đô la hóa và
hạn chế sự biến động của tỷ giá.
Lãi suất chiết khấu có tương quan dương với IRS, vì vậy để giảm IRS cần thiết giảm
lãi suất chiết khấu để giảm chi phí cho ngân hàng khi cần thiết. Đây là chi phí vốn trực tiếp
mà các ngân hàng thương mại phải chịu khi vay vốn từ Ngân hàng nhà nước. Lãi suất chiết
khấu cao hay thấp phản ánh chính sách của Ngân hàng nhà nước đang áp dụng là thúc đẩy
hay hạn chế tăng trưởng tín dụng. Khi Ngân hàng nhà nước cần tăng trưởng tín dụng để đưa
vốn vào đầu tư sản xuất, kinh doanh, đầu tư cơ sở hạ tầng, tiêu dùng cá nhân … chính sách
được đưa ra là hạ lãi suất chiết khấu xuống. Các cơ quan quản lý cần phát huy vai trò định
74
hướng cho nền kinh tế, kiểm soát và dự đoán khả năng tăng trưởng của nền kinh tế chính
xác nhằm đưa ra mức lãi suất chiết khấu để vừa thúc đầy tăng trưởng kinh tế vừa giảm IRS.
Khi quan sát đồ thị 2.14 biểu diễn tình hình biến động của tốc độ tăng trưởng của GDP
và IRS, mối tương quan giữa 2 biến vẫn còn chưa rõ ràng, chưa cho thấy xu hướng chung.
Nhưng theo kết quả của mô hình nghiên cứu thì GDP có tương quan dương với IRS tương
ứng với kỳ vọng ban đầu, nên cần thiết tác động đến GDP nhằm gây ảnh hưởng lên IRS.
GDP đóng vai trò quan trọng trong tổng thể nền kinh tế vĩ mô, nền kinh tế cần thiết tăng
trưởng để phát triển, vì vậy cần cân đối giữa tốc độ tăng trưởng GDP và mục tiêu giảm IRS
để tạo điều kiện cho vốn ngân hàng được đầu tư vào sản xuất và thương mại. Nền kinh tế
tăng trưởng chậm, sức mua yếu thì cho dù IRS giảm, ngân hàng cũng không thể tăng trưởng
tín dụng. Trong tình hình kinh tế như thế, các khách hàng không có nhu cầu cung cấp tín
dụng để phát triển sản xuất do nhu cầu hiện tại đã đủ đáp ứng nhu cầu của thị trường. Tương
tự, nền kinh tế tăng trưởng quá nhanh dẫn đến lạm phát và IRS lớn thì hệ thống ngân hàng
cũng khó khăn trong công tác tăng trưởng tín dụng. Tuy nhu cầu cấp tín dụng cao để đầu tư
sản xuất nhưng IRS quá cao tiềm ẩn rủi ro và trở thành gánh nặng chi phí cho khách hàng
nên khả năng tăng trưởng tín dụng cũng vô cùng khó khăn. Mục tiêu tăng trưởng và IRS cần
hài hòa với nhau để vừa thúc đẩy tăng trưởng kinh tế vừa giảm được IRS và có thể tăng
trưởng tín dụng.
Bên cạnh đó, những yếu tố vĩ mô khác như hệ thống luật pháp, các quy định chế tài,
tình trạng tham nhũng trong nền kinh tế, môi trường kinh tế vĩ mô … cũng có tác động đến
IRS. Mỗi quốc gia, mỗi thời điểm khác nhau thì sẽ có IRS khác nhau. Chính vì vậy, cần
thiết các cơ quan quản lý ổn định chính sách, kinh tế, áp dụng chính sách thích hợp nhằm
giúp cho nền kinh tế phát triển và mức IRS thích hợp.
3.5 Kiến nghị đối với ngân hàng
Theo mô hình nghiên cứu và kết quả hồi quy, chi phí hoạt động/tổng tài sản tương
quan dương với IRS, tương ứng với kỳ vọng ban đầu. Chi phí hoạt động/tổng tài sản càng
cao thì IRS càng lớn và ngược lại. Kết quả này là hợp lý và phù hợp với nhiều nghiên cứu,
chính vì vậy, để giảm IRS cần thiết giảm chi phí hoạt động của các ngân hàng. Ngân hàng
có thể giảm chi phí hoạt động bằng nhiều cách, có thể nâng cao hiệu quả làm việc của người
75
lao động, đưa vào áp dụng công nghệ cao để giảm chi phí và tinh gọn bộ máy quản lý nhằm
đạt được hiệu quả cao nhất trong công việc. Các ngân hàng nên hướng đến hệ thống ngân
hàng điện tử tốc độ và tính bảo mật cao. Để nâng cao hiệu quả làm việc của người lao động,
thúc đẩy người lao động làm việc thì ngân hàng cần áp dụng cơ chế thưởng phạt rõ ràng,
làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít. Các ngân hàng hiện nay đang sử dụng hệ thống thẻ
điểm cân bằng KPI, lương thưởng và đánh giả nhận xét về quá trình làm việc của người lao
động đều được quy ra các con số, chi tiêu mang tính định lượng nhiều hơn nhằm kích thích
người lao động làm việc hăng say hơn, cống hiến hơn. Bên cạnh đó, công nghệ lạc hậu làm
tốn nhiều lao động gia tăng chi phí hoạt động của ngân hàng. Ngân hàng điện tử là giải pháp
mà các ngân hàng đang hướng tới, ngoài tiết kiệm chi phí hoạt động (thuê mướn nhân viên,
mặt bằng, điện, nước, …) còn đem lại nhiều tiện ích cho khách hàng. Khách hàng có thể
giao dịch với ngân hàng tại nhà thông qua mạng internet, điện thoại di động. Với việc ứng
dụng ngân hàng điện tử, áp dụng hình thức chấm điểm tính lương, loại bỏ những bộ phận
phòng ban thừa thãi kém hiệu quả thì ngân hàng vừa giảm chi phí trả cho những nhân viên
hoạt động thiếu hiệu quả lại vừa kích thích người lao động làm việc cống hiến hơn, hiệu quả
hơn.
Thu nhập ngoài lãi/tổng tài sản quan hệ ngược chiều với IRS trong mô hình nghiên
cứu. Kết quả này phù hợp lý thuyết và kỳ vọng đã đề ra ban đầu, đồng thời cũng phù hợp
với đồ thị 2.7 đã biểu diễn. Để giảm IRS, các ngân hàng cần tăng thu nhập ngoài lãi, thông
qua tăng thu nhập từ hoạt động dịch vụ, thu nhập từ hoạt động kinh doanh ngoại hối, thu
nhập từ hoạt động mua bán chứng khoán kinh doanh, thu nhập từ mua bán chứng khoán đầu
tư, thu nhập từ các hoạt động khác, … Cụ thể, để nâng cao thu nhập từ hoạt động dịch vụ,
các ngân hàng cần nâng cao chất lượng phục vụ và đa dạng hóa dịch vụ, sản phẩm. Các
ngân hàng cần thường xuyên nghiên cứu, khảo sát thái độ của khách hàng đối với những sản
phẩm ngân hàng cung cấp nhằm thay đổi, bổ sung, đưa ra những sản phẩm, dịch vụ mới
nhất nhằm phục vụ và thỏa mãn cao nhất nhu cầu của khác hàng. Sự cạnh tranh về chất
lượng dịch vụ giữa các ngân hàng góp phần không nhỏ thúc đẩy ngân hàng không ngừng
hoàn thiện. Thu nhập từ hoạt động kinh doanh ngoại hối cũng đóng góp không nhỏ vào thu
nhập ngoài lãi của ngân hàng. Các ngân hàng cần sử dụng các sản phẩm phái sinh như Hợp
76
đồng quyền chọn, hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng tương lại, hợp đồng hoán đổi. Bên cạnh đó,
ngân hàng cũng cần tập trung nâng cao thu nhập của các hoạt động khác như hoạt động mua
bán chứng khoán,…Các phòng ban chuyên trách được lập ra nhằm chuyên môn hóa đội ngũ
này nhằm nâng cao nguồn thu nhập này. Chất lượng phục vụ của nhân viên đối với khách
hàng cũng cần bàn đến khi yếu tố này ảnh hưởng nhiều đến nguồn thu nhập này. Ngân hàng
thường xuyên tổ chức cho nhân viên tập huấn hay theo học các lớp giao tiếp, có cơ chế
thưởng phạt các hành vi của người lao động thông qua phản ánh của khách hàng nhằm góp
phần nâng cao chất lượng cạnh tranh với các ngân hàng khác.
Nợ xấu cũng là biến ảnh hưởng nhiều đến IRS. Chính việc nợ xấu cao làm cho ngân
hàng mất nhiều chi phí trích lập dự phòng, qua đó phải nâng cao IRS để bù đắp chi phí. Thật
vậy, kết quả của mô hình hồi quy trong bài nghiên cứu cho thấy nợ xấu có tương quan
dương với IRS phù hợp với kỳ vọng ban đầu mặc dù trong đồ thị 2.9 so sánh IRS và tỷ lệ nợ
xấu tại 5 ngân hàng cho thấy xu hướng chưa nhận diện được rõ ràng. Để giảm IRS, ngân
hàng cần thiết phải giảm tỷ lệ nợ xấu, thông qua đó mới giảm IRS. Để làm được điều đó
ngân hàng cần phát triển hệ thống đánh giá rủi ro. Do không có hệ thống đánh giá rủi ro
hiệu quả ngân hàng sẽ áp đặt và duy trì IRS lớn để bù đắp rủi ro. Việc các tổ chức tài chính
đầu tư công nghệ hiện đại để đánh giá rủi ro đối với khách hàng vay, chia sẻ thông tin tín
dụng giữa các tổ chức tài chính là cần thiết để giảm IRS và chi phí của ngân hàng. Nợ xấu
xuất phát từ nguyên nhân khách quan và chủ quan của nền kinh tế. Hệ thống quản lý rủi ro
tốt và tiên tiến góp phần hạn chế những nguyên nhân dẫn đến nợ xấu. Các ngân hàng cải
tiến quy trình, giáo dục ý thức cán bộ, đưa vào hệ thống chấm điểm tín dụng liên thông giữa
các ngân hàng, thành lập Phòng kiểm tra kiểm soát nội bộ đặt tại các chi nhánh nhưng thuộc
về Hội sở chính nhằm tăng tính khách quan, sử dụng mô hình tín dụng tập trung thay vì
phân quyền như trước đây (người quyết định cho vay không phải là người đề xuất cho vay,
chi nhánh chỉ phụ trách tìm kiếm khách hàng, thu thập hồ sơ và đề xuất và Phòng ban của
hội sở sẽ quyết định xem có cho vay hay không).
Biến Rủi ro thanh khoản tương quan ngược chiều với IRS trong mô hình nghiên cứu
trên tương ứng với kỳ vọng ban đầu. Tỷ lệ nắm giữ loại tài sản trên Bảng cân đối kế toán
của ngân hàng cho thấy phương châm hoạt động và kinh doanh của chính ngân hàng đó. Để
77
giảm IRS thì theo kết quả của mô hình nghiên cứu, ngân hàng cần giảm rủi ro thanh khoản
của chính ngân hàng mình xuống, tức là nâng cao tỷ lệ nắm giữ các tài sản có tính lỏng, dễ
dàng chuyển hóa thành tiền. Việc hạ rủi ro thanh khoản của ngân hàng xuống đồng thời
giảm IRS và nâng khả năng thanh toán và hạ rủi ro mất khả năng thanh toán của ngân hàng
xuống. Để hạn chế rủi ro thanh khoản, các ngân hàng không chỉ có vốn điều lệ cao hơn mức
vốn pháp định mà còn phải ở mức hợp lý, tăng cường huy động vốn và đa dạng hóa các kỳ
hạn, sản phẩm tiền gửi nhằm thu hút và tạo thuận lợi và tiện ích tối đa cho người gửi tiền.
Nguồn vốn huy động từ khách hàng cá nhân là nguồn vốn huy động mang tính ổn định cao
hơn tiền gửi thanh toán của khách hàng doanh nghiệp vốn không ổn định và thường xuyên
thay đổi nên ngân hàng cần tập trung khai thác nguồn vốn huy động từ các cá nhân. Để thu
hút các khách hàng cá nhân gửi tiền, việc thường xuyên đưa ra các sản phẩm, chương trình
khuyến mãi mới, tặng quà nhân ngày lễ tết, sinh nhật của khách hàng là cần thiết để cho
khách hàng thấy được sự quan tâm chăm sóc của ngân hàng dành cho khách hàng. Khách
hàng cá nhân cũng là thị trường tiềm năng mà ngân hàng có thể nâng cao thu nhập từ hoạt
động cung cấp dịch vụ và các sản phẩm ngoài sản phẩm tiền gửi.
Mặc dù yếu tố dự trữ bắt buộc không được đưa vào biến khảo sát trong mô hình
nghiên cứu do thiếu số liệu nhưng trên thực tế đây cũng là yếu tố tác động đến IRS của các
ngân hàng. Nguồn vốn ngân hàng huy động nhưng không đưa vào cho vay mặc dù ngân
hàng vẫn phải trả lãi cho khách hàng, ngân hàng phải tính chi phí này vào chi phí vốn góp
phần nâng cao IRS. Dự trữ bắt buộc là một trong những công cụ của Ngân hàng nhà nước
dùng để thực thi chính sách tiền tệ. Khi Ngân hàng nhà nước muốn đẩy mạnh tăng trưởng
tín dụng sẽ giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc hay khi cần hạn chế tốc độ tăng trưởng tín dụng thì
Ngân hàng nhà nước sẽ yêu cầu nâng cao tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Theo công trình nghiên cứu
của Chirwa và Mlachila (2004), Barajas và những người khác (2000), Brock và Suarez
(2000) và Saunders và Schumacher (2000) thì IRS và dự trữ bắt buộc có mối quan hệ thuận
chiều. Để giảm IRS của ngân hàng xuống thì cần giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc nhưng nếu làm
vậy thì rủi ro thanh khoản của hệ thống ngân hàng sẽ tăng lên. Vì vậy, việc cân đối giữa
mục tiêu hạ IRS và bảo đảm an toàn thanh khoản là cần thiết và khó khăn để thực hiện
nhưng cũng cần phải cân nhắc và thực hiện.
78
Nâng cao sự hiệu quả của các tổ chức tài chính để nâng cao sự cạnh tranh, hoạt động
ngân hàng hiệu quả, quản lý danh mục đầu tư hiệu quả chất lượng cao và có sự giám sát
chặt chẽ… của các cơ quan chức năng.
79
Kết luận chƣơng 3
Mô hình nghiên cứu trong chương này được xây dựng dựa trên số liệu thu thập được
từ các nguồn dữ liệu quốc tế chính thức đáng tin cậy và tổng hợp từ Báo cáo tài chính chính
thức có kiểm toán của 5 ngân hàng có thị phần lớn tại Việt Nam đã phần nào phản ánh mối
quan hệ giữa các biến độc lập vi mô là: chi phí hoạt động/tổng tài sản, thu nhập ngoài
lãi/tổng tài sản, chất lượng nợ, rủi ro thanh khoản và các biến độc lập vĩ mô là: lạm phát,
biến động của lãi suất, tốc độ tăng GDP, lãi suất chiết khấu, biến động của tỷ giá tác động
như thế nào đến biến phụ thuộc là IRS.
Kết quả cho thấy IRS và các biến: chi phí hoạt động/tổng tài sản, chất lượng nợ, tốc độ
tăng GDP, lãi suất chiết khấu và biến động của tỷ giá tương quan thuận chiều với nhau.
Đồng thời, các biến: thu nhập ngoài lãi/tổng tài sản, rủi ro thanh khoản, lạm phát và biến
động của lãi suất có tương quan ngược chiều với IRS.
Các giải pháp nhằm giảm IRS được đưa ra và kiến nghị với các cơ quan quản lý và
ngân hàng thông qua kết quả của mô hình nghiên cứu nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động
của hệ thống ngân hàng và thúc đẩy tăng trưởng tín dụng.
80
KẾT LUẬN
Mục đích tiên quyết của việc giảm IRS là để giảm lãi suất cho vay, qua đó để kích
thích đầu tư và mang lại sự tăng trưởng kinh tế cao hơn. Nhưng hạ lãi suất cho vay thôi
chưa đủ nếu các yếu tố vĩ mô và chính sách liên quan, mong đợi của nhà đầu tư, khuôn khổ
pháp luật, chế độ chính trị xã hội không được thực hiện để chắc chắn có một môi trường đầu
tư thân thiện. IRS do nhiều yếu tố tác động, vì vậy việc sử dụng những yếu tố tác động đó
nhằm giảm IRS cần được nghiên cứu kỹ trước khi thực hiện trong thực tế. Tuy những biến
được đưa vào mô hình nghiên cứu chưa phải là tất cả những yếu tố tác động đến IRS và mẫu
được sử dụng trong bài nghiên cứu chỉ là 5 ngân hàng có thị phần lớn tại Việt Nam chứ
không phải là toàn bộ các ngân hàng tại Việt Nam nhưng cũng phần nào phản ánh được
những yếu tố này tác động đến 5 ngân hàng này như thế nào. Bài nghiên cứu góp phần làm
rõ những yếu tố tác động đến IRS tại các ngân hàng thương mại của Việt Nam và làm tham
khảo khi chúng ta có ý định tác động đến IRS thông qua những biến này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt
1. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong www.sbv.gov.vn.
2. Ngân hàng phát triển Châu Á trong www.adb.org.
3. Ngân hàng Thương mại Cổ phần Á Châu, Báo cáo tài chính Quý 3/2009 đến Quý
3/2013 trong www.acb.com.vn.
4. Ngân hàng Thương mại Cổ phần Công Thương Việt Nam, Báo cáo tài chính Quý
3/2009 đến Quý 3/2013 trong www.vietinbank.vn.
5. Ngân hàng Thương mại Cổ phần Ngoại Thương Việt Nam, Báo cáo tài chính Quý
3/2009 đến Quý 3/2013 trong www.vietcombank.com.vn.
6. Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài Gòn Thương Tín, Báo cáo tài chính Quý 3/2009
đến Quý 3/2013 trong www.sacombank.com.vn.
7. Ngân hàng Thương mại Cổ phần Xuất Nhập Khẩu Việt Nam, Báo cáo tài chính Quý
3/2009 đến Quý 3/2013 trong www.eximbank.com.vn.
Tài liệu tiếng Anh
1. Akinlo, Owoyemi, 2012. The Determinants of Interest Rate Spreads in Nigeria: An
Empirical Investigation. Modern Economy, 3, 837-845.
2. Angbazo, 1997. Commercial bank Net Interest Margins Default Risk, Interest-Rate
Risk, and Off-Balance Sheet Banking. Journal of banking and Finance, Vol. 21, No
1, 55-87.
3. Barajas, Steiner and Salazar. Interest Spreads in Banking in Colombia, 1975-96.
Journal of Development Economics, Vol. 88, 192-204.
4. Beck and Hesse, 2006. Bank Efficiency, Ownership and Market Structure: Why Are
Interest Spreads So High in Uganda? World Bank Policy Research Working Paper,
4027.
5. Brock and Suarez, 2000. Understanding the Behaviour of Bank Spreads in Latin
America. Journal of Development Economics, Vol. 63, 113-135.
6. Brock, P. and Franken, 2002. Bank Interest Margins Meet Interest Rate Spreads:
How Good is Balance Sheet Data for Analysing the Cost of Financial
Intermediation? Central Bank of Chile.
7. Brock, P. and Suárez, L, 2000. Understanding the Behaviour of Bank Spreads in
Latin America. Journal of Development Economics, 71(2), 291-299.
8. Chirwa and Mlachila, 2004. Financial Reforms and Interest Rate Spreads in the
Commercial Banking System in Malawi. IMF Staff Papers, Vol. 51, No. 1, 96-122.
9. Claessens, S., Kunt, A., Huizinga, H., 2001. How Does Foreign Entry Affect
Domestic Banking Markets? Journal of Banking and Finance, Vol. 25, 891-911.
10. Eastern Caribbean Central Bank, Research Department, 2007, Determinants Of
Commercial Banks Interest Rate Spreads: Some Empirical Evidence From The
Eastern Caribbean Currency Union.
11. Enendu, 2003. Determinants of Commercial Bank Interest Rate Spreads in a
Liberalized Financial System: Empirical Evidence form Nigeria 1989-2000.
Economic and Financial Review, Vol. 41, No. 1.
12. Espinosa. German Lopez, Antonio Moreno, Fernando Perez de Gracia, 2011. Bank’s
net interest margin in the 2000s: Amacro-accounting international perspective.
Journal Of International Money And Finance 30 (2011) 1214-1233
13. International Monetary Fund, IMF Working Paper, Monetary and Capital Markets
Department, 2007, Interest Rate Spreads in English-Speaking African Countries.
14. Kunt, A. and Huizinga, 1999. Determinants of Commercial Bank Interest Margins
and Profitability: Some International Evidence. The World Bank Economic Review,
Vol. 3, 379-408.
15. Moore, W. and Craigwell, 2000. Market Power and Interest Rate Spreads in the
Caribbean. Central Bank of Barbados.
16. Peria, S., Mody, A., 2004. How Foreign Participation and Market Concentration
Impact Bank Spreads: Evidence from Latin America. Journal of Money, Credit, and
Banking, 36(3), 511-537.
17. Quaden, 2004. Efficiency and Stability in an Evolving Financial System.
18. Randall, 1998. Interest Rate Spreads in the Eastern Caribbean. IMF Working Paper.
19. Saunders and Schumacher, 2000. The Determinants of Bank Interest Rate Margins:
An International Study. Journal of International Money and Finance, Vol.19, No.6,
813-832.
20. Wong, 1997. On the Determinants of Bank Interest Margins under Credit and Interest
Rate Risks. Journal of Banking and Finance, Vol. 21, No. 2, 251-271.
21. World Bank, Policy Research Working Paper 4267, 2007, Financial Intermediation
in the Pre-Consolidated Banking Sector in Nigeria.
22. Thống kê tài chính quốc tế IFS trong http://elibrary-data.imf.org/DataExplorer.aspx.
PHỤ LỤC
Phụ lục 1: Chi phí hoạt động của 5 ngân hàng và chi phí hoạt động/tổng tài sản
2009Q3
2009Q4
2010Q1
2010Q2
2010Q3
2010Q4
2011Q1
2011Q2
2011Q3
2011Q4
2012Q1
2012Q2
2012Q3
2012Q4
2013Q1
2013Q2
2013Q3
ACB
425,190
452,499
442,378
468,347
570,894
556,637
564,881
678,187
747,489
1,007,631
817,552
993,283
993,120
1,240,261
818,570
857,245
925,467
VIETINBANK
1,359,006
2,116,775
1,269,871
1,631,070
1,607,420
2,071,828
1,908,887
3,713,372
3,133,944
830,950
2,140,310
3,157,134
1,635,157
2,330,674
2,526,985
2,047,008
2,122,232
VCB
950,970
1,251,979
692,147
1,419,865
1,012,313
1,285,318
1,266,714
1,145,866
1,280,156
1,862,175
1,392,196
1,031,853
1,583,791
1,895,139
1,323,370
1,264,808
1,552,310
EXIMBANK
227,844
349,314
190,763
222,934
263,167
348,424
310,397
381,603
471,672
741,690
437,001
475,945
585,955
792,436
489,628
479,489
501,335
SACOMBANK
350,763
525,341
427,032
445,327
484,277
587,472
574,855
682,961
924,457
1,212,478
783,488
952,505
979,395
1,376,983
1,059,110
936,767
1,077,635
Đơn vị tính: triệu đồng
2009Q3
2009Q4
2010Q1
2010Q2
2010Q3
2010Q4
2011Q1
2011Q2
2011Q3
2011Q4
2012Q1
2012Q2
2012Q3
2012Q4
2013Q1
2013Q2
2013Q3
ACB
0.002508
0.002629
0.002562
0.002679
0.003208
0.002749
0.002731
0.002936
0.002857
0.003613
0.003101
0.003912
0.004692
0.007074
0.004683
0.005084
0.005789
VIETINBANK
0.006019
0.008654
0.004829
0.00555
0.005012
0.005653
0.00483
0.00943
0.007569
0.001805
0.00527
0.007815
0.003693
0.00463
0.005066
0.003918
0.004018
VCB
0.004225
0.004908
0.002752
0.005764
0.003895
0.004186
0.003818
0.003325
0.00381
0.005053
0.003882
0.002635
0.003805
0.004575
0.00316
0.002899
0.003533
EXIMBANK
0.003624
0.00529
0.002968
0.003025
0.002749
0.002658
0.002252
0.002671
0.003212
0.004038
0.002555
0.002558
0.003642
0.004653
0.003074
0.003067
0.003244
SACOMBANK
0.00357
0.005048
0.004117
0.003923
0.003831
0.004143
0.004103
0.004846
0.006141
0.008652
0.005615
0.006657
0.006681
0.009121
0.006723
0.005876
0.006873
Nguồn: tổng hợp từ BCTC của 5 ngân hàng
Phụ lục 2: Thu nhập ngoài lãi của 5 ngân hàng và thu nhập ngoài lãi/tổng tài sản
2009Q3
2009Q4
2010Q1
2010Q2
2010Q3
2010Q4
2011Q1
2011Q2
2011Q3
2011Q4
2012Q1
2012Q2
2012Q3
2012Q4
2013Q1
2013Q2
2013Q3
ACB
441,904
302,593
312,439
564,648
175,718
348,608
235,801
39,893
75,504
375,355
243,820
-17,611
-1,001,018
-499,766
115,459
360,465
397,230
VIETINBANK
804,496
162,992
501,141
536,874
474,493
1,128,475
790,787
713,331
205,240
534,060
594,659
778,583
698,206
1,518,718
562,663
918,720
1,201,998
VCB
671,995
251,138
762,870
311,249
717,412
1,167,251
692,052
363,182
-268,578
2,015,443
773,554
843,073
851,074
1,655,700
1,006,831
1,071,560
1,110,491
EXIMBANK
148,929
163,247
92,185
106,357
172,298
411,052
188,898
63,950
82,928
612,336
-28,383
33,212
74,890
388,020
66,810
205,217
289,254
SACOMBANK
246,281
624,432
430,409
459,468
225,040
288,366
213,341
306,097
229,588
266,337
360,864
408,559
20,710
-293,821
355,182
-5,347
414,956
Đơn vị tính: triệu đồng
2009Q3
2009Q4
2010Q1
2010Q2
2010Q3
2010Q4
2011Q1
2011Q2
2011Q3
2011Q4
2012Q1
2012Q2
2012Q3
2012Q4
2013Q1
2013Q2
2013Q3
ACB
0.002607
0.001758
0.00181
0.00323
0.000987
0.001722
0.00114
0.000173
0.000289
0.001346
0.000925
-6.9E-05
-0.00473
-0.00285
0.00066
0.002138
0.002485
VIETINBANK
0.003563
0.000666
0.001906
0.001827
0.001479
0.003079
0.002001
0.001812
0.000496
0.00116
0.001464
0.001927
0.001577
0.003017
0.001128
0.001759
0.002275
VCB
0.002985
0.000985
0.003034
0.001264
0.00276
0.003801
0.002086
0.001054
-0.0008
0.005469
0.002157
0.002153
0.002045
0.003997
0.002404
0.002456
0.002528
EXIMBANK
0.002369
0.002472
0.001434
0.001443
0.0018
0.003135
0.00137
0.000448
0.000565
0.003333
-0.00017
0.000179
0.000466
0.002278
0.000419
0.001313
0.001871
SACOMBANK
0.002507
0.006001
0.004149
0.004047
0.00178
0.002034
0.001523
0.002172
0.001525
0.001901
0.002586
0.002856
0.000141
-0.00195
0.002255
-3.4E-05
0.002647
Nguồn: tổng hợp từ BCTC của 5 ngân hàng
2009Q3
2009Q4
2010Q1
2010Q2
2010Q3
2010Q4
2011Q1
2011Q2
2011Q3
2011Q4
2012Q1
2012Q2
2012Q3
2012Q4
2013Q1
2013Q2
2013Q3
ACB
0.35%
0.41%
0.49%
0.37%
0.35%
0.34%
0.39%
0.79%
1.07%
0.86%
1.17%
1.53%
2.08%
2.48%
2.87%
2.97%
3.33%
VIETINBANK
1.47%
0.60%
0.70%
0.98%
0.82%
0.66%
0.72%
1.52%
1.37%
0.74%
1.82%
2.45%
2.57%
1.46%
1.66%
2.07%
2.44%
VCB
2.37%
2.41%
3.26%
4.12%
3.03%
2.78%
2.71%
3.44%
3.92%
2.01%
2.84%
3.47%
3.21%
2.39%
3.21%
2.80%
2.97%
EXIMBANK
2.34%
1.83%
2.09%
1.81%
1.40%
1.42%
1.39%
1.46%
1.50%
1.61%
1.98%
1.73%
1.89%
1.32%
1.24%
1.49%
1.80%
SACOMBANK
0.66%
0.64%
0.76%
0.62%
0.57%
0.52%
0.56%
0.98%
0.57%
0.56%
0.80%
1.28%
1.43%
2.07%
2.30%
2.55%
2.27%
Phụ lục 3: Chất lượng nợ tại 5 ngân hàng
Nguồn: tổng hợp từ BCTC của 5 ngân hàng
2009Q3
2009Q4
2010Q1
2010Q2
2010Q3
2010Q4
2011Q1
2011Q2
2011Q3
2011Q4
2012Q1
2012Q2
2012Q3
2012Q4
2013Q1
2013Q2
2013Q3
ACB
20.15%
26.26%
23.03%
20.74%
15.50%
23.69%
34.00%
27.52%
31.99%
34.29%
25.57%
27.17%
24.82%
20.06%
14.86%
10.81%
9.34%
VIETINBANK
9.15%
12.81%
11.30%
13.99%
13.72%
15.70%
15.47%
12.66%
13.27%
17.77%
7.68%
8.62%
11.42%
14.43%
13.33%
16.61%
14.70%
VCB
19.30%
30.36%
30.02%
21.41%
22.08%
29.83%
29.80%
34.30%
30.15%
32.94%
32.46%
32.15%
32.62%
21.21%
22.02%
30.33%
24.83%
EXIMBANK
28.04%
24.13%
25.90%
24.97%
25.31%
30.53%
32.05%
32.37%
30.72%
40.28%
39.76%
38.69%
44.62%
42.86%
38.10%
34.16%
33.40%
SACOMBANK
24.05%
25.24%
23.69%
17.37%
21.82%
22.97%
21.68%
21.14%
20.74%
17.05%
17.29%
20.27%
19.24%
14.51%
13.63%
12.51%
11.33%
Phụ lục 4: Rủi ro thanh khoản của 5 ngân hàng
Nguồn: tổng hợp từ BCTC của 5 ngân hàng
2008Q
2008Q
2009Q
2009Q
2009Q
2009Q
2010Q
2010Q
2010Q
2010Q
2011Q
2011Q
2011Q
2011Q
2012Q
2012Q
2012Q
2012Q
2013Q
2013Q
2013Q
3
4
1
2
3
4
1
2
3
4
1
2
3
4
1
2
3
4
1
2
3
CPI
150
149
151
152
153
156
163
165
167
173
183
197
204
208
213
214
216
222
227
228
231
INTEREST
RATE
15
10
8
7
7
8
8
8
8
9
12
14
14
15
14
11
10
9
8
7
7
EXCHANG
E RATE
16,676
16,884
17,506
17,783
17,818
18,091
18,726
18,988
19,276
19,494
20,231
20,697
20,722
20,977
20,897
20,878
20,865
20,853
20,882
20,970
21,157
Phụ lục 5: Các yếu tố vĩ mô
2009Q3
2009Q4
2010Q1
2010Q2
2010Q3
2010Q4
2011Q1
2011Q2
2011Q3
2011Q4
2012Q1
2012Q2
2012Q3
2012Q4
2013Q1
2013Q2
2013Q3
CPI (cùng kỳ năm
2.42
4.60
7.50
8.46
8.59
10.84
12.80
19.37
22.53
19.83
15.93
8.57
5.63
6.96
6.91
6.55
7.02
trước)
VOLATILITY OF
INTEREST RATE
1.53
0.58
0.58
0.50
0.00
0.50
1.89
2.75
2.36
1.26
0.50
1.73
2.38
2.16
1.29
1.29
0.96
(độ lệch chuẩn so 3
kỳ trước)
GDP (cùng kỳ năm
6.04
6.9
5.84
6.44
7.18
7.34
5.57
5.68
6.07
6.1
4.75
4.8
5.05
5.44
4.76
5
5.54
trước)
DISCOUNT RATE
5.00
5.33
6.00
6.00
6.00
6.62
8.28
12.67
13.00
13.00
12.80
10.52
8.00
7.92
6.94
5.47
5.00
VOLATILITY OF
EXCHANGE RATE
432
239
436
543
506
335
531
657
574
311
136
107
50
19
13
53
137
(độ lệch chuẩn so 3
kỳ trước)
Nguồn: tổng hợp từ dữ liệu của IFS và ADB