BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM

---------------------------

PHẠM TIẾN MẠNH

XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN

QUỸ ĐẦU TƯ MẠO HIỂM Ở VIỆT NAM

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ

HÀ NỘI, 2019

NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

--------------------------

XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN

QUỸ ĐẦU TƯ MẠO HIỂM Ở VIỆT NAM

CHUYÊN NGÀNH : TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG

MÃ SỐ : 9.34.02.01

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. NGUYỄN THANH PHƯƠNG

2. TS. ĐÀO LÊ MINH

HÀ NỘI, 2019

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu nêu

trong luận án này là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng. Các kết quả nghiên cứu của

luận án có tính độc lập, số liệu và dữ liệu sử dụng trong luận án được trích dẫn đúng

quy định.

Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm lời cam đoan trên

Người cam đoan

Phạm Tiến Mạnh

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Kể từ thời điểm đổi mới năm 1986, nền kinh tế Việt Nam đã đạt được nhiều

thành tựu đáng ghi nhận; Việt Nam luôn nằm trong nhóm các quốc gia có tốc độ tăng

trưởng kinh tế cao nhất trên thế giới, tỷ lệ hộ nghèo giảm, chất lượng cuộc sống của

người dân không ngừng tăng lên. Tuy nhiên, việc đổi mới nền kinh tế, xây dựng và

phát triển đất nước là một quá trình không ngừng nghỉ, đòi hỏi kết hợp nhiều yếu tố

nhằm tạo ra tốc độ tăng trưởng bền vững, có sức cạnh tranh cao.

Kinh nghiệm từ các quốc gia phát triển, có trình độ khoa học công nghệ cao

như Mỹ, Châu Âu, Hàn Quốc, Trung Quốc, Israel, v.v… cho thấy, yếu tố đầu tư mạo

hiểm đóng vai trò then chốt trong quá trình đổi mới công nghệ, hiện đại hóa đất nước,

nâng tầm phát triển của các doanh nghiệp trong nước, hướng tới sức cạnh tranh toàn

cầu; trong đó, các quỹ đầu tư mạo hiểm có vai trò trung gian trong việc luân chuyển

vốn từ các cá nhân, tổ chức có vốn, sẵn sàng chấp nhận đầu tư vào các dự án mạo

hiểm có triển vọng, với mục đích đạt được mức sinh lời cao trong tương lai. Lịch sử

hình thành các quỹ đầu tư mạo hiểm trên thế giới cho thấy; Mỹ là quốc gia có quỹ đầu

tư mạo hiểm đầu tiên, được hình thành từ năm 1946; tiếp sau đó là các quốc gia ở

Châu Âu như Anh Quốc và Ireland (năm 1970), với cách thức hoạt động chủ yếu theo

kinh nghiệm và vốn của người Mỹ. Sau đó, đến những năm 1980, các quốc gia khác

tại Châu Âu cũng bắt đầu quan tâm và đầu tư vào các quỹ đầu tư mạo hiểm, với

phương thức đầu tư và mô hình quỹ tương tự tại Mỹ. Kết quả cho thấy, Mỹ và Châu

Âu là hai khu vực phát triển nhất trong lĩnh vực đầu tư mạo hiểm, chiếm tới 80% giá

trị đầu tư mạo hiểm trên thế giới (Vanham, 2015) [97].

Kinh nghiệm tại các quốc gia như Trung Quốc và Hàn Quốc, chính phủ các

quốc gia này sớm nhận thức được vai trò quan trọng của lĩnh vực đầu tư mạo hiểm nói

chung và các quỹ đầu tư mạo hiểm nói riêng, đã sớm quan tâm, đầu tư, thúc đẩy lĩnh

vực này phát triển, nhằm tạo ra động lực phát triển kinh tế bền vững. Cụ thể, trong

những giai đoạn đầu hình thành và phát triển các quỹ đầu tư mạo hiểm, hai quốc gia

này đã tập trung vào quá trình cải cách cơ chế, chính sách, tập trung phát triển thị

trường chứng khoán sơ cấp và thứ cấp, tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy các quỹ đầu tư

mạo hiểm phát triển, mở rộng quy mô đầu tư; ngoài ra, các yếu tố như tạo nguồn lực

2

cho các quỹ đầu tư mạo hiểm huy động vốn, định hướng lĩnh vực đầu tư của các quỹ

đầu tư mạo hiểm, tạo mạng lưới kết nối cộng đồng đầu tư mạo hiểm trong và ngoài

nước, đã và đang phát huy tốt vai trò trong quá trình phát triển của các quỹ đầu tư mạo

hiểm tại các quốc gia này.

Tại Việt Nam, đầu tư mạo hiểm vẫn được coi là lĩnh vực khá mới, mới được

chính phủ quan tâm về mặt chính sách khuyến khích phát triển từ năm 2015 trở lại

đây, thông qua các thông tư, quyết định, nghị định hoặc các điều luật được ban hành

để thúc đẩy quá trình hỗ trợ doanh nghiệp, khuyến khích thành lập các quỹ đầu tư mạo

hiểm dành cho khởi nghiệp sáng tạo, hoặc thúc đẩy các thành phần kinh tế tham gia

đầu tư mạo hiểm, v.v… nhằm tận dụng được sức mạnh của nền kinh tế trong phát

triển đất nước. Thực tế cho thấy, phần lớn các quỹ đầu tư mạo hiểm đang hoạt động

tại Việt Nam là các quỹ đầu tư mạo hiểm của nước ngoài, với thời gian tham gia thị

trường đầu tư mạo hiểm Việt Nam từ những năm 1991; còn đến năm 2015, mới xuất

hiện các quỹ đầu tư mạo hiểm do Việt Nam chính thức thành lập và đi vào hoạt động.

Cho đến nay, các quỹ đầu tư mạo hiểm đang hoạt động tại Việt Nam còn ít, quy mô

vốn và lĩnh vực đầu tư còn hạn chế, chưa phát huy được vai trò nổi bật thúc đẩy quá

trình khởi nghiệp, sáng tạo, nâng cao hiệu quả kinh tế của Việt Nam.

Do vậy, việc hình thành và phát triển các quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam

trong tương lai còn nhiều vấn đề, góc độ cần bàn đến; nhằm tạo điều kiện cho lĩnh vực

đầu tư mạo hiểm nói chung, và các quỹ đầu tư mạo hiểm nói riêng, được phát triển

bền vững, lành mạnh, tạo điều kiện thúc đẩy trình độ khoa học kỹ thuật của Việt Nam

nói riêng, và nền kinh tế Việt Nam phát triển.

Do đó, tác giả đã lựa chọn đề tài “Xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo

hiểm ở Việt Nam” làm đề tài luận án tiến sĩ.

2. Mục tiêu nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu

Mục tiêu nghiên cứu

Luận án có các mục tiêu nghiên cứu chính đó là:

Hệ thống hóa cơ sở lý luận về xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm,

trong đó tìm hiểu sâu về môi trường cần thiết cho hoạt động của quỹ đầu tư mạo hiểm;

các tiêu chí đánh giá sự phát triển của quỹ đầu tư mạo hiểm trong quá trình hoạt động

của mình.

3

Phân tích thực trạng phát triển của các quỹ đầu tư mạo hiểm đang hoạt động tại

Việt Nam, bao gồm cả các quỹ đầu tư mạo hiểm của nước ngoài và do Việt Nam

thành lập. Từ đó đánh giá mức độ phát triển của các quỹ đầu tư mạo hiểm đang hoạt

động tại Việt Nam, chỉ ra những ưu điểm, tồn tại, hạn chế và nguyên nhân.

Xây dựng mô hình kinh tế lượng nhằm đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến việc

hình thành và phát triển các quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam trong giai đoạn hiện

nay, từ đó làm cơ sở cho việc xây dựng các giải pháp khuyến khích việc hình thành,

hỗ trợ sự phát triển của các quỹ đầu tư mạo hiểm của Việt Nam trong tương lai.

Đề xuất các giải pháp nhằm thúc đẩy việc hình thành và phát triển các quỹ đầu

tư mạo hiểm ở Việt Nam, trong đó có các giải pháp về khung pháp lý, xây dựng các

cơ chế đặc thù cần thiết, đề xuất mô hình tổ chức và hoạt động, vấn đề quản lý nhà

nước, và đề xuất lộ trình cần thiết để hỗ trợ việc hình thành và phát triển các quỹ đầu

tư mạo hiểm ở Việt Nam.

Câu hỏi nghiên cứu

Thứ nhất: Thực trạng xây dựng và phát triển của các quỹ đầu tư mạo hiểm tại Việt

Nam hiện nay như thế nào?

Thứ hai: Nhân tố nào cần thiết cho việc xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo

hiểm ở Việt Nam hiện nay?

Thứ ba: Những chính sách nào cần thiết để thúc đẩy quá trình xây dựng và phát

triển quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam hiện nay?

3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu.

Đối tượng nghiên cứu chính của luận án là xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo

hiểm.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

Phạm vi về không gian: Các quỹ đầu tư mạo hiểm của nước ngoài và các quỹ đầu

tư mạo hiểm do Việt Nam thành lập, đang hoạt động đầu tư tại Việt Nam.

Phạm vi về thời gian: Luận án nghiên cứu các quỹ đầu tư mạo hiểm đang hoạt

động tại Việt Nam, giai đoạn từ 1990 – 2018.

Hạn chế nghiên cứu: Do việc thu thập số liệu về các quỹ đầu tư mạo hiểm đang

hoạt động tại Việt Nam rất khó khăn, các quỹ đầu tư mạo hiểm nhỏ, mới thành lập

4

không công bố số liệu về quá trình đầu tư, kết quả hoạt động kinh doanh của mình, vì

vậy nghiên cứu trong luận án này tập trung vào 4 quỹ đầu tư mạo hiểm lớn nhất đang

hoạt động tại Việt Nam, đó là các quỹ đầu tư thuộc: VinaCapital, Mekong Capital,

IDG Venture, và Dragon Capital. Bên cạnh đó, luận án cũng sử dụng dữ liệu sẵn có

được công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng của các quỹ đầu tư mạo hiểm

do Việt Nam thành lập (từ 2015 trở lại đây).

4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

Nhằm đạt được mục tiêu nghiên cứu, luận án đã sử dụng phương pháp luận của

chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, đồng thời kết hợp với phương pháp

trừu tượng hóa khoa học, phương pháp nghiên cứu định tính, định lượng nhằm đạt

được mục tiêu nghiên cứu toàn diện, có hệ thống.

Ngoài ra, các phương pháp kỹ thuật chủ yếu được sử dụng trong luận án bao

gồm các phương pháp thống kê, so sánh, đánh giá, phương pháp phân tích hệ thống và

một số phương pháp khác. Cụ thể:

Đối với dữ liệu sơ cấp, luận án sử dụng phương pháp phỏng vấn sâu và phương

pháp khảo sát thông qua các câu hỏi có liên quan đến luận án. Đối với phỏng vấn sâu,

luận án lựa chọn các chuyên gia đang làm việc tại Ủy Ban chứng khoán Nhà nước

(chủ yếu các cán bộ đang làm việc tại Vụ Quản lý quỹ), các chuyên gia đang làm việc

tại các quỹ đầu tư có văn phòng đại diện/ văn phòng chính tại Hà Nội. Từ việc phỏng

vấn sâu các chuyên gia này, kết hợp với các nghiên cứu trước đây của các tác giả

trong và ngoài nước về quỹ đầu tư mạo hiểm, luận án đã rút ra được một số yếu tố

chính có tác động đến việc xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm; từ đó hình

thành nên được bộ câu hỏi phục vụ cho việc khảo sát.

Đối với phiếu khảo sát, được thiết kế dưới hai dạng: (1) dạng trực tuyến thông

qua sử dụng công cụ Google Docs; (2) Phiếu điều tra bằng giấy được in ra khổ giấy

A4; phiếu điều tra này sau đó được gửi đi tới các đối tượng có kinh nghiệm trong lĩnh

vực đầu tư nói chung, và đầu tư mạo hiểm nói riêng, dưới dạng thư điện tử, gửi trực

tiếp hoặc qua bưu điện; đối với phiếu điều tra trực tuyến, kết quả được cập nhật tự

động trên kết quả trực tuyến; đối với các phiếu điều tra gửi trực tiếp hoặc gửi qua bưu

điện, người trả lời sẽ chụp hình kết quả phiếu điều tra, gửi qua các công cụ mạng xã

hội (Messenger, Zalo, Viber, email), hoặc gửi trực tiếp tới người hỏi. Nội dung phiếu

5

khảo sát bao gồm 4 phần chính” (1) Thông tin cá nhân; (2) Đánh giá mức độ hiểu biết

và quan điểm về đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam; (3) Các nhân tố ảnh hưởng đến xây

dựng và phát triên quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam; (4) Các nhân tố giải pháp xây

dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam.

Từ việc có số liệu sơ cấp về các nhân tố ảnh hưởng đến việc xây dựng và phát

triển quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam, luận án sử dụng phương pháp kiểm dịnh

Cronbach’s Alpha nhằm kiểm tra chất lượng thang đo; sử dụng phương pháp nhân tố

khám phá EFA nhằm xác định mức độ tác động của từng thang đo và các biến quan

sát đến việc hình thành và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam.

Đối với dữ liệu thứ cấp, luận án sử dụng dữ liệu đầu tư từ các quỹ đầu tư mạo

hiểm đã có thời gian dài hoạt động đầu tư tại Việt Nam, với dữ liệu được thu thập từ

các website của các quỹ đầu tư đó, sau đó sử dụng phương pháp thống kê, so sánh,

nhằm tìm ra được chiều hướng phát triển của các quỹ đầu tư mạo hiểm đang hoạt

động tại Việt Nam. Với các dữ liệu vĩ mô, luận án sử dụng dữ liệu từ website chính

thức của Ủy ban chứng khoán Nhà nước, Tổng Cục thống kê, Bộ giáo dục và Đào tạo,

Bộ Tư Pháp, Tổng Cục Dân số - Kế hoạch hóa gia đình, Bộ Tài chính, v.v…

Đối với nội dung về giải pháp xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm ở

Việt Nam, luận án sử dụng phương pháp trừu tượng hóa khoa học, nhằm kết hợp giữa

định hướng phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam của chính phủ, với thực trạng

tại Việt Nam trong thời gian qua, nhằm đưa ra một số giải pháp xây dựng và phát triển

quỹ đầu tư mạo hiểm tại Việt Nam.

5. Những đóng góp mới của luận án

Về mặt lý luận

- Luận án đã xây dựng bộ chỉ tiêu và hệ thống hóa các nhân tố ảnh hưởng đến việc

xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam

Về mặt thực tiễn

- Luận án đã đánh giá toàn diện nhân tố cần thiết cho việc xây dựng và phát triển

quỹ đầu tư mạo hiểm tại Việt Nam trong những năm gần đây.

- Luận án đã sử dụng mô hình kinh tế lượng để kiểm định những yếu tố môi trường

tác động mạnh nhất đến việc hình thành và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt

Nam

6

- Luận án đã kết hợp kết quả nghiên cứu từ lý luận và thực tiễn, sau đó đề xuất hệ

thống giải pháp đồng bộ, có cơ sở khoa học và có giá trị ứng dụng cao nhằm khuyến

khích hình thành và thúc đẩy sự phát triển của các quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam

trong điều kiện hiện nay, như xây dựng cơ chế đặc thì cho quỹ đầu tư mạo hiểm hoạt

động; đề xuất được mô hình tổ chức và hoạt động của quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt

Nam; hay dựa vào các cơ chế, chính sách, định hướng của chính phủ về đầu tư mạo

hiểm, kết hợp với thực trạng phát triển của các quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam hiện

nay, đề xuất ra lộ trình xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án

Ở góc độ lý luận, luận án đã hệ thống được cơ cở lý luận về quỹ đầu tư mạo

hiểm, về điều kiện hình thành và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm.

Ở góc độ thực tiễn, luận án được thực hiện trong bối cảnh chính phủ Việt Nam,

cộng đồng đầu tư chú trọng đến vấn đề đầu tư mạo hiểm, vấn đề khởi nghiệp nhằm tạo

ra các bước đột phá, phát triển khoa học kỹ thuật, xây dựng tinh thần doanh nhân cho

các thế hệ doanh nhân tại Việt Nam. Mặc dù quỹ đầu tư mạo hiểm bắt đầu tham gia

đầu tư ở Việt Nam từ năm 1991, nhưng đến năm 2015, chính phủ Việt Nam mới bắt

đầu có các văn bản, chủ trương về mặt chính sách, nhằm thúc đẩy lĩnh vực đầu tư mạo

hiểm nói chung, và các quỹ đầu tư mạo hiểm nói riêng phát triển. Luận án là nguồn tài

liệu tham khảo cho việc hoạch định chính sách nhằm thúc đẩy quá trình xây dựng và

phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam.

7. Cơ cấu luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo; nội dung luận án bao

gồm 05 chương:

Chương 1. Tổng quan nghiên cứu

Chương 2. Cơ sở lý luận về xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm

Chương 3. Thực tiễn xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm trên thế giới

Chương 4. Thực trạng xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam

Chương 5. Giải pháp xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam

7

CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU

1. Tổng quan nghiên cứu nước ngoài

1.1. Nguồn cung vốn đối với việc hình thành và phát triển quỹ đầu tư mạo

hiểm

Các nghiên cứu trước đây đối với nguồn cung vốn đối với các quỹ đầu tư mạo

hiểm cho thấy:

Thứ nhất, chính phủ đóng vai trò rất quan trọng trong giai đoạn đầu hình thành,

phát triển của các quỹ đầu tư mạo hiểm. Chính phủ là đối tượng đóng góp nguồn vốn

mồi để hình thành các quỹ đầu tư mạo hiểm, định hướng thị trường trong lĩnh vực đầu

tư mạo hiểm; đồng thời hỗ trợ nguồn vốn cho các dự án đầu tư mạo hiểm có triển

vọng, nhưng đang gặp khó khăn trong các vòng huy động vốn tiếp theo.

Thứ hai, đối tượng tham gia góp vốn vào các quỹ đầu tư mạo hiểm bao gồm các

nhà đầu tư thiên thần và các nhà đầu tư tổ chức. Đối với các nhà đầu tư thiên thần, họ

là các cá nhân, gia đình giàu có, có hiểu biết về kinh doanh, đầu tư; họ sẵn sàng chấp

nhận mức độ rủi ro cao trong đầu tư để tìm kiếm các thương vụ đầu tư mạo hiểm với

khả năng đạt được lợi nhuận cao. Các nhà đầu tư tổ chức là các công ty bảo hiểm, quỹ

hưu trí, quỹ đầu tư, các ngân hàng đầu tư, v.v… với ưu thế về kinh nghiệm đầu tư,

quy mô vốn đầu tư. Chính các nhà đầu tư tổ chức là đối tượng cung cấp nguồn vốn

đầu tư chính cho các quỹ đầu tư mạo hiểm hoạt động.

Thứ ba, trong các giai đoạn đầu của các dự án đầu tư mạo hiểm, các nhà đầu tư

thiên thần thường đóng vai trò chính trong việc huy động vốn của các dự án đó; trong

khi các nhà đầu tư tổ chức thường ưa thích đầu tư vào các giai đoạn sau của vòng đời

doanh nghiệp.

Thứ tư, các yếu tố vĩ mô cũng tác động đến vấn đề huy động vốn của các quỹ đầu

tư mạo hiểm, như lãi suất ngắn hạn, lãi suất dài hạn, GDP, v.v…

Thứ năm, hiệu quả hoạt động của các quỹ đầu tư mạo hiểm trong quá khứ có tác

động đến các lần huy động vốn tiếp theo của các quỹ đầu tư mạo hiểm; tuy nhiên

không có mối quan hệ tuyến tính giữa hiệu quả đầu tư trong quá khứ và tiền huy động

được; các quỹ đầu tư mới thành lập, hoặc các quỹ đầu tư có kết quả đầu tư thấp vẫn có

thể huy động vốn đầu tư tại các đợt huy động vốn sau đó.

8

1.2. Các yếu tố chính sách tác động đến sự hình thành và phát triển của quỹ

đầu tư mạo hiểm

Các yếu tố chính sách tác động đến sự hình thành và phát triển quỹ đầu tư mạo

hiểm bao gồm các yếu tố chính sách của chính phủ; cũng như xuất phát từ nội tại cộng

đồng đầu tư trong xã hội, được chính phủ, hoặc chính quyền địa phương chấp nhận,

hỗ trợ nhằm thúc đẩy quá trình hình thành và phát triển các quỹ đầu tư mạo hiểm. Các

yếu tố chính sách bao gồm:

Thứ nhất, mạng lưới hỗ trợ doanh nhân.

Thứ hai, chính sách đào tạo các nhà đầu tư.

Thứ ba, chính sách thuế trong đầu tư mạo hiểm.

1.3. Những yếu tố nội tại tác động đến sự phát triển của quỹ đầu tư mạo

hiểm

Các yếu tố nội tại tác động đến sự phát triển của các quỹ đầu tư mạo hiểm bao gồm:

Thứ nhất, loại hình quỹ đầu tư mạo hiểm.

Thứ hai, giai đoạn đầu tư.

Thứ ba, các thỏa thuận trong đầu tư.

2. Tổng quan nghiên cứu trong nước

Các nghiên cứu trước đây tại Việt Nam về lĩnh vực đầu tư mạo hiểm vẫn còn nhiều

hạn chế như thời gian nghiên cứu đã từ lâu, số liệu, bối cảnh kinh tế đã có nhiều thay

đổi; các nghiên cứu chỉ tập trung vào một số lĩnh vực quỹ đầu tư mạo hiểm riêng lẻ,

chưa có nghiên cứu tổng quan về các quỹ đầu tư mạo hiểm nói chung; hoặc các

nghiên cứu về lĩnh vực đầu tư mạo hiểm của các tác giả trước đây chỉ nghiên cứu về

một địa phương nhất định, chưa có sự bao quát đối với toàn bộ thị trường Việt Nam.

3. Khoảng trống nghiên cứu

Tựu chung lại, các nghiên cứu trước đây đã có những đóng góp rất lớn về mặt

lý luận cũng như thực tiễn trong việc đánh giá những yếu tố tác động đến việc hình

thành và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm; nhấn mạnh được vai trò của việc phát triển

đầu tư mạo hiểm đến sự phát triển của nền kinh tế các khu vực. Tuy nhiên, các nghiên

cứu này vẫn còn tồn tại một số khoảng trống nghiên cứu nhất định, đó là:

9

Thứ nhất, trong các nghiên cứu các quốc gia đi trước trong vấn đề xây dựng và

phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm, bài học kinh nghiệm rút ra tại mỗi quốc gia, nhóm

quốc gia còn chung chung, chưa đi sâu phân tích cụ thể, do đó việc liên hệ với Việt

Nam còn hạn chế.

Thứ hai, có nhiều nghiên cứu về nhân tố tác động đến quỹ đầu tư mạo hiểm,

nhưng chưa có nghiên cứu nào về việc xây dựng những tiêu chí tổng quát đánh giá

yếu tố cần thiết để xây dựng và thúc đẩy sự phát triển của quỹ đầu tư mạo hiểm, chưa

đi sâu phân tích và bám theo bộ tiêu chí này khi đi nghiên cứu tại mỗi thị trường cụ

thể.

Thứ ba, các nghiên cứu về quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam chưa đề cập đến

xu thế đầu tư của các quỹ đầu tư mạo hiểm đang hoạt động tại Việt Nam, các nghiên

cứu trước đây đã được thực hiện từ khá lâu, do đó số liệu đã cũ, chưa cập nhật được

tình hình hoạt động của các quỹ đầu tư mạo hiểm đang hoạt động tại Việt Nam hiện

nay.

Chính vì vậy, việc nghiên cứu vấn đề xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo

hiểm ở Việt Nam, nhằm tìm hiểu xu thế đầu tư hiện nay của các quỹ đầu tư mạo hiểm

đang hoạt động tại Việt Nam, bài học kinh nghiệm từ các quốc gia đi trước, xác định

và đánh giá các nhân tố ảnh hưởng, và giải pháp nhằm thúc đẩy quá trình xây dựng và

phát triển các quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam là rất cần thiết.

10

CHƯƠNG 2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN

QUỸ ĐẦU TƯ MẠO HIỂM

2.1. Khái niệm về vốn đầu tư mạo hiểm và quỹ đầu tư mạo hiểm

2.1.1. Vốn đầu tư mạo hiểm

Vốn đầu tư mạo hiểm là nguồn vốn mà các cá nhân giàu có, hoặc các tổ chức

tài chính cung cấp vốn cho các dự án khởi nghiệp, các doanh nghiệp nhỏ có tiềm năng

tăng trưởng cao trong tương lai; hoặc các doanh nghiệp khác đang cần vốn để tiếp tục

sản xuất kinh doanh; nguồn vốn này do đầu tư vào các dự án, doanh nghiệp có mức độ

rủi ro cao, nên chủ thể đầu tư phải sẵn sàng chấp nhận khả năng mất vốn trong quá

trình đầu tư của mình.

2.1.2. Quỹ đầu tư mạo hiểm

Quỹ đầu tư mạo hiểm là loại quỹ nhận vốn đầu tư mạo hiểm nhằm thực hiện

đầu tư vào các công ty mới thành lập, vào các công ty tiềm năng tăng trưởng cao trong

tương lai, nhưng tiềm ẩn nhiều rủi ro. Quỹ đầu tư mạo hiểm có thể đầu tư vào các

công ty thuộc nhiều lĩnh vực trong nền kinh tế, tuy nhiên chủ yếu hướng tới các công

ty khởi nghiệp, các công ty thuộc lĩnh vực công nghệ cao. Tùy mục đích thành lập

khác nhau mà quỹ đầu tư mạo hiểm có thể hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận (tối đa hóa

lợi ích cho các nhà đầu tư mạo hiểm góp vốn), hoặc phi lợi nhuận (thường do chính

phủ thành lập, với mục đích thúc đẩy sự phát triển của khoa học, công nghệ, mục tiêu

quân sự, khoa học vũ trụ).

2.2. Lý luận về xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm

Theo Avnimelech và các cộng sự (2016) [17], quá trình hình thành và phát

triển quỹ đầu tư mạo hiểm bao gồm 5 giai đoạn sau:

(1) Điều kiện cần thiết để hình thành quỹ đầu tư mạo hiểm

(2) Giai đoạn tiền xuất hiện quỹ đầu tư mạo hiểm

(3) Giai đoạn phát triển của các quỹ đầu tư mạo hiểm

(4) Giai đoạn khủng hoảng của các quỹ đầu tư mạo hiểm

(5) Giai đoạn phục hồi của các quỹ đầu tư mạo hiểm

11

2.2.1. Xây dựng quỹ đầu tư mạo hiểm

Khi xây dựng quỹ đầu tư mạo hiểm, cần thiết quan tâm tới các yếu tố sau: (1)

Đối tượng góp vốn; (2) Mô hình tổ chức; (3) Các điều khoản hạn chế trong đầu tư của

quỹ; (4) Tiêu chuẩn giải ngân các dự án đầu tư của quỹ; (5) Phương thức thoái vốn

của quỹ.

2.2.2. Phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm

Để đánh giá các tiêu chí xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm, luận án

sử dụng 4 tiêu chí, đó là (1) số lượng quỹ đầu tư được thành lập; (2) nguồn vốn đầu tư

mạo hiểm; (3) lĩnh vực đầu tư của các quỹ đầu tư mạo hiểm; và (4) kết quả hoạt động

của các quỹ đầu tư mạo hiểm.

2.2.4. Nhân tố ảnh hưởng đến xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm

2.2.4.1. Các nhân tố ảnh hưởng đến quá trình xây dựng và phát triển quỹ đầu tư

mạo hiểm

Theo quan điểm của luận án, muốn xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo

hiểm, cần thiết xem xét năm nhân tố cần thiết, đó là: (1) Chính sách của chính phủ; (2)

Giá trị văn hóa, xã hội; (3) Năng lực đào tạo, nghiên cứu; (4) Yếu tố địa điểm; (5)

Nguồn lực cho đầu tư mạo hiểm.

2.2.4.2. Phương pháp đánh giá tác động của các nhân tố đến quá trình xây dựng và

phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm

Nhằm đánh giá việc xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam,

ngoài các câu hỏi mang tính chất hiểu biết về quỹ đầu tư mạo hiểm, luận án sử dụng

các biến nghiên cứu có liên quan đến việc hình thành và phát triển quỹ đầu tư mạo

hiểm ở Việt Nam, đó là:

(1) CSCP: Các chính sách của chính phủ

(2) VHXH: Các nhân tố về văn hóa, xã hội

(3) ĐTNC: Nhân tố về năng lực đào tạo, nghiên cứu

(4) ĐĐ: Nhân tố về địa điểm đầu tư

(5) NL: Nhân tố về nguồn lực

12

Luận án sử dụng phương pháp nhân tố khám phá (EFA) để đánh giá các nhân

tố có ảnh hưởng đển xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam.

Phương pháp nghiên cứu bao gồm các bước tiến hành như sau:

Bước 1. Sử dụng kiểm định Cronbach’s Alpha nhằm kiểm tra chất lượng thang đo

Bước 2. Phân tích Principle-Component Factor

Bước 3. Tìm ma trận xoay

Bước 4. Kiểm định Bartlett và kiểm định KMO

13

CHƯƠNG 3. THỰC TIỄN XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN

QUỸ ĐẦU TƯ MẠO HIỂM TRÊN THẾ GIỚI

3.1. Thực tiễn quá trình hình thành và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm trên thế

giới

3.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm

3.1.2. Xu hướng phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm trên thế giới

3.2. Kinh nghiệm xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm ở Trung Quốc và

Hàn Quốc

Sau khi nghiên cứu xu hướng phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm trên thế giới, và

kinh nghiệm xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm ở Trung Quốc và Hàn Quốc,

luận án rút ra được một số bài học kinh nghiệm sau:

Thứ nhất, chính phủ đóng vai trò thiết yếu trong quá trình xây dựng và phát

triển quỹ đầu tư mạo hiểm

Thứ hai, tập trung đầu tư vào lĩnh vực yêu cầu trình độ khoa học, công nghệ

cao

Thứ ba, tận dụng thu hút nguồn vốn đầu tư mạo hiểm từ tất cả các thành phần

trong xã hội

Thứ tư, cần xây dựng mạng lưới kết nối trong lĩnh vực đầu tư mạo hiểm

Thứ năm, cần lựa chọn hình thức quỹ đầu tư mạo hiểm phù hợp trong từng thời

kỳ

Thứ sáu, tập trung phát triển thị trường chứng khoán

14

CHƯƠNG 4. THỰC TRẠNG XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN

QUỸ ĐẦU TƯ MẠO HIỂM Ở VIỆT NAM

4.1. Giới thiệu về môi trường nhân tố tác động đến hoạt động quỹ đầu tư mạo

hiểm ở Việt Nam

4.1.1. Chính sách của chính phủ

Chính phủ đóng vai trò thiết yếu trong việc tạo ra môi trường hoạt động hiệu

quả cho lĩnh vực đầu tư mạo hiểm. Thông qua các chính sách mang tính chất định

hướng, chính phủ có thể tác động đến tất cả các khía cạnh cần thiết để phát triển thị

trường vốn hiệu quả nói chung và hoạt động của các quỹ đầu tư mạo hiểm nói riêng.

Các chính sách của chính phủ cần thiết cho môi trường hoạt động của các quỹ đầu tư

mạo hiểm có thể kể đến như: chính sách trong lĩnh vực giáo dục – đào tạo liên quan

đến kinh doanh, đầu tư; chính sách của chính phủ liên quan đến phát triển khoa học –

công nghệ; và chính sách của chính phủ liên quan đến thị trường tài chính, trong đó

thị trường chứng khoán đóng vai trò chủ đạo.

4.1.2. Giá trị văn hóa xã hội đối với kinh doanh

Trong đầu tư, kinh doanh, giá trị văn hóa xã hội thể hiện ở 2 góc độ chính: Văn

hóa kinh doanh của quốc gia, khu vực; Quan điểm về rủi ro, thất bại (Lerner và các

cộng sự, 2015) [68].

4.1.3. Tổ chức nghiên cứu khoa học công nghệ

Yếu tố tổ chức nghiên cứu khoa học công nghệ bao gồm: Năng lực nghiên cứu

khoa học (như số lượng viện nghiên cứu, các trường đại học, cao đẳng); các quy định

về nghiên cứu khoa học của người làm khoa học; các quy định, thực thi về quyền sở

hữu trí tuệ, v.v…

4.1.4. Địa điểm

Yếu tố địa điểm bao gồm hai vấn đề: (1) Cơ sở hạ tầng tại địa phương và (2)

Các hiệp hội doanh nghiệp.

4.1.5. Nguồn lực cho đầu tư mạo hiểm

Yếu tố nguồn lực cho đầu tư mạo hiểm bao gồm hai vấn đề chính: (1) nguồn

cầu vốn đầu tư mạo hiểm: các doanh nghiệp nhỏ và vừa, nguồn nhân lực; (2) nguồn

15

cung vốn đầu tư mạo hiểm: số lượng công ty, tập đoàn kinh tế, và nội lực của quốc

gia; (3) bản thân nội tại sự phát triển của các quỹ đầu tư mạo hiểm.

4.2. Thực trạng xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam

4.2.1. Thực trạng xây dựng quỹ đầu tư mạo hiểm tại Việt Nam

4.2.1.1. Đối với các quỹ đầu tư mạo hiểm của nước ngoài

Tại thời điểm mới tham gia vào thị trường Việt Nam, tất cả các quỹ đầu tư mạo

hiểm này đều được thành lập và huy động vốn ở nước ngoài, trong đó cổ phiếu của

các quỹ đầu tư mạo hiểm này đều được niêm yết ở thị trường chứng khoán nước

ngoài. Cơ cấu nhà đầu tư tham gia vào các quỹ đầu tư mạo hiểm này là các nhà đầu tư

tổ chức, mà không có sự tham gia của các nhà đầu tư cá nhân. Tại thời điểm đó, các

quỹ đầu tư mạo hiểm có lĩnh vực hoạt động đa dạng, từ hoạt động sản xuất, thương

mại, dịch vụ, tài chính, v.v… mà không có mục tiêu nhất thiết cần đầu tư vào các công

ty trong lĩnh vực công nghệ cao, các công ty khởi nghiệp, v.v… thậm chí, các quỹ đầu

tư này ngay từ khi thành lập, còn xác định sẽ đầu tư vào các công ty tiềm năng, trong

một thời gian nhất định (thậm chí là ngắn hạn), nhằm kích thích tăng trưởng của công

ty mục tiêu, sau đó thoái vốn để thu lợi nhuận.

Đối với mô hình quỹ đầu tư mạo hiểm, các quỹ đầu tư mạo hiểm nước ngoài

thành lập ở Việt Nam trong giai đoạn đầu thường chọn mô hình quỹ đầu tư dạng mở,

với đặc tính vốn được huy động một lần ngay từ đầu khi thành lập, quỹ không có trách

nhiệm chi trả cho các nhà đầu tư trong thời gian hoạt động của quỹ, mà các nhà đầu tư

phải bán cho các nhà đầu tư khác trên thị trường chứng khoán, v.v… động thái này

nhằm mục đích tạo sự ổn định về vốn huy động được của các quỹ đầu tư mạo hiểm,

nhằm chuyên tâm thực hiện các dự án đầu tư mạo hiểm đã lựa chọn.

4.2.1.2. Đối với các quỹ đầu tư mạo hiểm của Việt Nam

Tại Việt Nam, các quỹ đầu tư mạo hiểm do Việt Nam thành lập chính thức từ

năm 2015, với mục tiêu chủ yếu đầu tư vào lĩnh vực khởi nghiệp sáng tạo. Các quỹ

đầu tư này chủ yếu huy động vốn từ ngân sách nhà nước, từ các bộ, ngành có liên

quan, hoặc từ các công ty, tập đoàn mẹ, v.v… trong khi sự góp vốn từ các nhà đầu tư

thiên thần còn hạn chế (Phụ lục 4).

16

Các quỹ đầu tư mạo hiểm hoạt động dưới sự giám sát, quản lý của công ty, tập

đoàn mẹ, hoặc do các cơ quan chủ quản của chính phủ điều hành, định hướng đường

lối phát triển; với mục tiêu chủ yếu hưởng ứng Quyết định 884/QĐ-TTg về việc phê

duyệt Đề án "Hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia đến năm

2025" của chính phủ; do đó mô hình tổ chức chủ yếu do người của chính phủ, của các

công ty, tập đoàn mẹ là người đứng đầu, đại diện về mặt pháp lý của quỹ đầu tư mạo

hiểm đó; trong đó các chuyên gia tham gia vào quỹ chủ yếu với vai trò tư vấn, giám

sát các dự án mà quỹ đầu tư vào, mà không đặt nặng vai trò huy động vốn của các quỹ

đầu tư mạo hiểm này.

Khi được thành lập, các quỹ đầu tư mạo hiểm của Việt Nam đã hướng tới đầu

tư vào các công ty khởi nghiệp, các công ty trong lĩnh vực khoa học kỹ thuật và công

nghệ, khoa học tự nhiên, v.v… với mục tiêu học tập các quốc gia khởi nghiệp như

Mỹ, Trung Quốc, Hàn Quốc, Israel, Singapore, v.v.. để thúc đẩy khoa học kỹ thuật

của nước nhà, tạo động lực phát triển bền vững của nền kinh tế, nhằm nâng cao tính

cạnh tranh toàn cầu của các doanh nghiệp, sản phẩm công nghệ Việt Nam.

4.2.2. Thực trạng phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam

Để đánh giá các tiêu chí phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm, luận án sử dụng 4 tiêu

chí, đó là (1) số lượng quỹ đầu tư được thành lập; (2) nguồn vốn đầu tư mạo hiểm; (3)

lĩnh vực đầu tư của các quỹ đầu tư mạo hiểm; và (4) kết quả hoạt động của các quỹ

đầu tư mạo hiểm.

4.3. Kết quả khảo sát nhân tố ảnh hưởng đến xây dựng và phát triển quỹ đầu tư

mạo hiểm ở Việt Nam

Dựa trên kết quả phân tích giá trị hội tụ và giá trị phân biệt, có 5 nhân tố được

trích, tương ứng với 23 biến quan sát; tất cả các hệ số tải của biến quan sát đều > 0,5;

tất cả các biến quan sát đo lường cho các nhân tố CSCP, VHXH, ĐTNC, ĐĐ, NL đều

có hệ số tải cao trên cùng một nhân tố, tức là các biến đều đạt giá trị hội tụ tốt; và

không có giá trị khác biệt đáng kể của hệ số tải của một biến quan sát trên các khái

niệm khác, tức là các biến quan sát có giá trị phân biệt tốt.

Kết quả kiểm định KMO cho thấy, hệ số KMO = 0,735 (> 0,7) nên mô hình

nghiên cứu đạt được tính đầy đủ; đồng thời, kết quả kiểm định Bartlett cho thấy,

17

Sig.=0,000 (< 0,005), có nghĩa trong mô hình nghiên cứu này, các biến có tương quan

với nhau trong tổng thể. Cuối cùng, với phương sai giải thích đạt giá trị 0,8002 có

nghĩa, 5 nhân tố này giải thích được 80,02% việc xây dựng và phát triển của quỹ đầu

tư mạo hiểm ở Việt Nam. Trong đó, tại mỗi nhân tố nghiên cứu, có những quan sát

đóng vai trò quan trọng nhất như: trong nhân tố CSCP, biến CSCP2, tức là các quy

định pháp luật rõ ràng, đầy đủ nhằm bảo vệ quyền lợi cho các nhà đầu tư mạo hiểm và

quỹ đầu tư mạo hiểm có tác động mạnh nhất; trong nhân tố VHXH, biến VHXH3, tức

là doanh nhân có khả năng đánh giá và thích ứng với rủi ro tốt có tác động mạnh nhất;

nhân tố ĐTNC có biến ĐTNC3, tức nâng tầm hiểu biết và thực thi của người dân về

quyền sở hữu trí tuệ có tác động mạnh nhất; trong nhân tố ĐĐ, biến ĐĐ1, tức mạng

lưới các loại hình giao thông kết nối các địa điểm đóng vai trò quan trọng khi quyết

định đầu tư tại một địa phương; trong nhân tố NL, có biến NL8, tức Hiệu quả đầu tư

của các quỹ đầu tư mạo hiểm qua các năm có tác động mạnh nhất.

4.4. Đánh giá chung về thực trạng xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm ở

Việt Nam

4.4.1. Kết quả đạt được

Thứ nhất, số lượng quỹ đầu tư mạo hiểm tại Việt Nam đã có sự tăng trưởng qua

các năm.

Thứ hai, giá trị của vốn đầu tư mạo hiểm vào Việt Nam có sự tăng trưởng

mạnh mẽ qua các năm, phù hợp với các giai đoạn tăng trưởng/ tích lũy của nền kinh

tế.

Thứ ba, lĩnh vực đầu tư của các quỹ đầu tư mạo hiểm chủ yếu trong lĩnh vực tài

chính – ngân hàng, bất động sản, và trong các lĩnh vực công nghệ cao, lĩnh vực thông

tin, giải trí.

Thứ tư, kết quả đầu tư của các quỹ đầu tư mạo hiểm nước ngoài hoạt động tại

Việt Nam trong nghiên cứu này đã đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận.

4.4.2. Tồn tại và nguyên nhân

Một số tồn tại đó là:

Thứ nhất, số lượng quỹ đầu tư mạo hiểm tại Việt Nam chưa nhiều.

Thứ hai, số lượng dự án đầu tư mạo hiểm và vốn đầu tư mạo hiểm đầu tư vào

nước ta còn khiêm tốn.

18

Thứ ba, lĩnh vực đầu tư của các quỹ đầu tư mạo hiểm nước ngoài hoạt động lâu

năm tại Việt Nam chủ yếu tập trung đầu tư vào các công ty đã niêm yết trên thị trường

chứng khoán vào lĩnh vực bất động sản, thực phẩm, đồ uống hoặc truyền thông, giải

trí. Trong khi đó, chỉ có một số quỹ đầu tư mạo hiểm do Việt Nam thành lập hiện nay

tập trung vào các công ty công nghệ cao, bảo mật, công nghệ thông tin, v.v…

Thứ tư, về kết quả đầu tư, mặc dù có sự tăng trưởng kết quả đầu tư qua các

năm, tuy nhiên các quỹ đầu tư mạo hiểm đang hoạt động tại Việt Nam có kết quả đầu

tư chưa bền vững, vẫn bị tác động nhiều bởi sự biến động của thị trường chứng khoán,

dẫn đến nhiều giai đoạn có kết quả đầu tư biến động mạnh

Việc tồn tại những hạn chế trên do một số nguyên nhân chính như sau:

Thứ nhất, khung pháp lý dành cho quỹ đầu tư mạo hiểm tại Việt Nam hiện nay chưa

có.

Thứ hai, chưa có cơ chế đặc thù để các quỹ đầu tư mạo hiểm huy động và thoái vốn

tại các công ty đã đầu tư.

Thứ ba, hạn chế về nguồn lực cho đầu tư mạo hiểm.

Thứ tư, chưa tập trung đầu tư vào lĩnh vực công nghệ cao.

Thứ năm, chưa có mạng lưới kết nối các quỹ đầu tư mạo hiểm hiệu quả.

Thứ sáu, chưa có mô hình tổ chức và hoạt động cụ thể cho quỹ đầu tư mạo hiểm.

Thứ bảy, chưa có cơ quan nhà nước nào quản lý đặc thù đối với các quỹ đầu tư mạo

hiểm.

Thứ tám, chưa có lộ trình rõ ràng, cụ thể để xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo

hiểm.

19

CHƯƠNG 5. KHUYẾN NGHỊ CHÍNH SÁCH NHẰM XÂY DỰNG

VÀ PHÁT TRIỂN QUỸ ĐẦU TƯ MẠO HIỂM Ở VIỆT NAM

5.1. Định hướng xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam

Hiện nay chính phủ tập trung vào thực hiện các chính sách hỗ trợ, thành lập,

quản lý các quỹ đầu tư mạo hiểm liên quan đến giai đoạn khởi nghiệp, cho các doanh

nghiệp nhỏ và vừa. Nhưng thực tế cho thấy, các giai đoạn đầu tư của đầu tư mạo hiểm

không chỉ bao gồm giai đoạn start-up mà còn có các giai đoạn sau nữa. Dường như

chính phủ đang tách bạch giữa quỹ đầu tư khởi nghiệp và quỹ đầu tư chứng khoán,

với hàm ý rằng, chính phủ sẽ tạo điểu kiện về hành lang pháp lý, thậm chí đầu tư

nguồn vốn “mồi” để giúp hình thành các doanh nghiệp mới, dự án mới; sau đó để thị

trường quyết định có nên đầu tư vào các doanh nghiệp này nữa hay không, thông qua

hiệu quả của giai đoạn nghiên cứu, phát triển sản phẩm.

Nhìn chung, hiện nay môi trường pháp lý đối với quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt

Nam gần như chưa có gì cụ thể, vẫn đang ở các quyết định, dự án mang tính chất

khuyến khích, còn manh mún và chưa có hệ thống pháp luật đồng bộ; chỉ có các Quy

định, Nghị định có liên quan đến đầu tư mạo hiểm, nhưng phần lớn đều mang tính

chất ngắn hạn, thường có hiệu lực đến năm 2020 hoặc 2025, nhằm thử nghiệm cho các

chương trình của Chính phủ. Bên cạnh đó, như đã trình bày ở nội dung phần trước,

hiện nay có rất ít quỹ đầu tư mạo hiểm chính danh nào được thành lập ở Việt Nam, mà

chủ yếu là các quỹ đầu tư mạo hiểm nước ngoài đang hoạt động. Việc cho phép các

quỹ đầu tư mạo hiểm hoạt động tại Việt Nam, trong khi chưa có hành lang pháp lý cụ

thể đối với lĩnh vực này, vừa tạo ra kẽ hở trong quá trình hoạt động của các quỹ đó,

đồng thời bản thân các quỹ đầu tư mạo hiểm ở nước ngoài muốn tham gia đầu tư vào

Việt Nam cũng chưa cảm thấy yên tâm, tin tưởng, làm hạn chế nguồn vốn chảy vào

lĩnh vực đầu tư mạo hiểm ở nước ta.

5.2. Một số khuyến nghị chính sách nhằm xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo

hiểm ở Việt Nam

5.2.1. Xây dựng khung pháp lý đồng bộ

Tại Việt Nam hiện nay chưa có luật riêng dành cho quỹ đầu tư mạo hiểm, mà

mới chỉ có dự thảo dành cho quỹ đầu tư mạo hiểm đối với lĩnh vực đổi mới sáng tạo;

20

đối với quỹ đầu tư nói chung, chỉ có luật dành cho quỹ đầu tư chứng khoán. Như vậy,

đây là một khoảng trống pháp lý rất lớn đối với lĩnh vực đầu tư đầy tiềm năng này.

5.2.2. Có cơ chế đặc thù cho quỹ đầu tư mạo hiểm

Trên thị trường tài chính, việc thoái vốn hiệu quả nhất là thông qua thị trường

chứng khoán, tuy nhiên cho đến nay, chưa có cơ chế đặc thù nào cho việc thoái vốn

hoặc phát hành cổ phiếu ra công chúng, theo hướng hỗ trợ các doanh nghiệp dạng này.

5.2.3. Thu hút nguồn lực cho quỹ đầu tư mạo hiểm

Như đã trình bày phần cơ sở lý thuyết ở chương 2, và phần nguyên nhân ở

chương 4, nguồn lực dành cho quỹ đầu tư mạo hiểm bao gồm: Thu hút nguồn vốn đầu

tư trong xã hội, đặc biệt đối với các nhà đầu tư tổ chức; và nâng cao trình độ nguồn

nhân lực; và bản thân nội tại của các quỹ đầu tư mạo hiểm.

5.2.4. Khuyến khích các quỹ đầu tư mạo hiểm tập trung đầu tư vào lĩnh vực công

nghệ cao

5.2.5. Xây dựng mạng lưới kết nối các quỹ đầu tư mạo hiểm

Việc xây dựng mạng lưới kết nối các quỹ đầu tư mạo hiểm sẽ nâng cao hiệu

quả hoạt động của các quỹ đầu tư mạo hiểm. Thông qua mạng lưới kết nối này, các

quỹ đầu tư mạo hiểm sẽ tiết kiệm được các chi phí tìm kiếm các dự án đầu tư mạo

hiểm, chia sẻ các kinh nghiệm trong đầu tư, đưa ra các cảnh báo đối với những hiện

tượng, dự án có dấu hiệu lừa đảo, trục lợi vốn của các quỹ đầu tư mạo hiểm, v.v…

5.2.6. Gợi ý hoàn thiện mô hình tổ chức và hoạt động của quỹ đầu tư mạo hiểm ở

Việt Nam

5.2.6.1. Quy dịnh đơn giản về điều kiện thành lập quỹ đầu tư mạo hiểm

Với đặc thù quỹ đầu tư mạo hiểm hoạt động trong các lĩnh vực đầu tư mạo

hiểm, mong muốn tỷ suất sinh lời cao, theo quan điểm của luận án, trong giai đoạn

đầu hình thành, không nên quy định cụ thể tỷ lệ đầu tư, lĩnh vực đầu tư của các quỹ

đầu tư mạo hiểm. Mục tiêu của quỹ đầu tư mạo hiểm là tối đa hóa lợi nhuận, với các

mục tiêu đầu tư đã được các nhà đầu tư mạo hiểm góp vốn vào, xác định từ trước, vì

thế hãy để cho các quỹ đầu tư tự quyết định mức độ rủi ro, lĩnh vực đầu tư của mình,

tránh hạn chế các cơ hội, chiến lược đầu tư của họ; bởi lẽ hơn ai hết, chính các nhà

21

đầu tư góp vốn vào quỹ đầu tư mạo hiểm, đã luôn ý thức việc bảo toàn vốn của mình

trong quá trình đầu tư.

5.2.6.2. Đối tượng tham gia vào quỹ đầu tư mạo hiểm

Theo quan điểm của luận án, nên quy định cụ thể số lượng vốn tham gia, thời

gian góp vốn tối thiểu vào quỹ đầu tư mạo hiểm như:

- Đối với các nhà đầu tư cá nhân: tối thiểu góp vốn 1 tỷ đồng; thời gian cam kết

đầu tư tối thiểu 5 năm.

- Đối với các nhà đầu tư tổ chức: tối thiểu góp vốn 5 tỷ đồng; thời gian cam kết

đầu tư tối thiểu 7 năm.

5.2.6.3. Gợi ý mô hình sở hữu quỹ đầu tư mạo hiểm

Theo quan điểm của luận án, với điều kiện pháp luật hiện hành của Việt Nam,

nên thành lập quỹ đầu tư mạo hiểm dạng ủy thác đầu tư.

5.2.6.4. Mô hình hoạt động quỹ đầu tư mạo hiểm

 Dạng quỹ đầu tư

Theo quan điểm của luận án, trong giai đoạn mới hình thành và xây dựng quỹ

đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam như hiện nay, nên đơn giản hóa hết sức có thể đối với

các thủ tục hành chính, nhằm tạo điều kiện cho hình thành các quỹ đầu tư mạo hiểm

đầu tiên của Việt Nam. Trong giai đoạn đầu này, quỹ đầu tư mạo hiểm có thể ở dạng

quỹ đầu tư dạng thành viên, nhưng có thể không hạn chế các nhà đầu tư góp vốn là

các pháp nhân, mà mở rộng ra các cá nhân đủ tiêu chuẩn như ở mục 5.2.4.2; việc mua

bán, chuyển nhượng vốn đầu tư trong quỹ nên để các nhà đầu tư nội bộ tự thỏa thuận

với nhau, thông qua các hợp đồng chuyển nhượng, và cần quy định rõ trong điều lệ

quỹ.

 Mô hình quản lý

Công ty quản lý quỹ có thể là các ngân hàng thương mại, các công ty tài chính,

các công ty cho thuê tài chính, quỹ tín dụng nhân dân, tổ chức tín dụng vi mô, các

công ty chứng khoán. Tất nhiên pháp luật cần quy định rõ điều kiện cụ thể để trở

thành công ty quản lý quỹ đầu tư mạo hiểm.

 Danh mục đầu tư và các hạn chế đầu tư của quỹ đầu tư mạo hiểm

Nhằm tránh trùng lặp, hoặc lẫn vai trò của quỹ đầu tư mạo hiểm so với các quỹ

đầu tư khác như quỹ đầu tư chứng khoán, quỹ đầu tư bất động sản, v.v… trong giai

22

đoạn đầu xây dựng quỹ đầu tư mạo hiểm, nên có quy định quỹ đầu tư mạo hiểm chỉ

được đầu tư tối đa bao nhiêu vốn vào lĩnh vực các công ty đang niêm yết trên Sở giao

dich chứng khoán, các công ty hoạt động trong lĩnh vực bất động sản đã niêm yết;

hoặc thậm chí không cho phép các quỹ đầu tư mạo hiểm đầu tư vào các công ty đã

niêm yết trên hai Sở giao dịch Chứng khoán lớn của Việt Nam là HNX và HSX;

không được đầu tư vào các loại hàng hóa khác như vàng, bất động sản, đầu tư trên thị

trường ngoại hối, v.v… chỉ cho phép đầu tư vào các công ty mới thành lập, chưa trở

thành công ty đại chúng. Ngoài ra, không cần thiết hạn chế quỹ đầu tư mạo hiểm đầu

tư tối đa bao nhiêu vào một công ty, như đã quy định ở các quỹ đầu tư chứng khoán;

điều này nhằm tạo cho quỹ đầu tư mạo hiểm có cơ hội mua đứt luôn doanh nghiệp

nhận đầu tư mạo hiểm, nếu họ thấy có triển vọng, nhằm đạt được mục tiêu của quỹ

đầu tư mạo hiểm: tối đa hóa lợi nhuận.

 Phương thức thoái vốn

Việc lựa chọn phương thức thoái vốn như thế nào phụ thuộc rất lớn vào các

điều kiện phát triển của doanh nghiệp tại thời điểm quyết định thoái vốn; hoặc thậm

chí thoái vốn giữa chừng quá trình đầu tư; ngoài ra, yếu tố thị trường cũng quyết định

rất lớn đến phương thức thoái vốn. Với mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận, quỹ đầu tư mạo

hiểm sẽ nghiên cứu và đưa ra các quyết định phù hợp nhất tại thời điểm đó.

5.2.6.5. Quản lý nhà nước đối với quỹ đầu tư mạo hiểm

 Cơ quan cấp phép hoạt động

Theo quan điểm của luận án, nên thống nhất một cơ quan cấp giấy phép hoạt

động cho các loại hình quỹ đầu tư, đó là Ủy ban chứng khoán Nhà nước.

 Báo cáo hoạt động

Nên tập trung báo cáo tình hình hoạt động của các quỹ đầu tư mạo hiểm tập

trung vào một đầu mối, là Ủy ban chứng khoán Nhà nước.

 Công bố thông tin

Đối với các thông tin cần công bố theo quy định của pháp luật, liên quan đến

quá hình thành và hoạt động của các quỹ đầu tư chứng khoán hiện nay, sẽ được công

bố: (1) Trên các ấn phẩm, trang thông tin điện tử của công ty quản lý quỹ, đại lý phân

phối, đại lý ký danh; hoặc (2) Các phương tiện thông tin đại chúng khác phù hợp với

23

quy định của pháp luật. Như vậy, đối với các quỹ đầu tư mạo hiểm, cũng nên tuân

theo các quy định này.

5.2.6.6. Lộ trình củng cố việc xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam

Giai đoạn 1: Từ 1 đến 5 năm

Trong giai đoạn này, Chính phủ sẽ ban hành các văn bản, xây dựng các hành lang

pháp lý cho hoạt động hình thành và quản lý quỹ đầu tư mạo hiểm.

Giai đoạn 2: Từ năm thứ 5 đến năm thứ 10

Sau một thời gian thực hiện triển khai thí điểm về việc xây dựng và phát triển quỹ

đầu tư mạo hiểm tại Việt Nam, có số liệu báo cáo của các quỹ đầu tư đến cơ quan chủ

quản theo quy định của pháp luật; các cơ quan này sẽ có số liệu để đánh giá hiệu quả

của việc thành lập và phát triển các quỹ đầu tư mạo hiểm này, kết hợp với số liệu vĩ

mô về các chỉ tiêu khác trong nền kinh tế nhằm đánh giá tác động của việc thúc đẩy

hình thành và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm đến nền kinh tế Việt Nam.

Giai đoạn 3: sau 10 năm

Đây có thể coi là giai đoạn mà các quỹ đầu tư mạo hiểm đã đi vào hoạt động ổn

định, dần trở thành mô hình đầu tư hấp dẫn đối với các nhà đầu tư ưa thích mạo hiểm

nhằm đạt được mức lợi nhuận cao hơn.

24

KẾT LUẬN

Quỹ đầu tư mạo hiểm có vai trò quan trọng trong việc thu hút nguồn vốn đầu tư

mạo hiểm của nền kinh tế, tạo động lực phát triển lĩnh vực khoa học, công nghệ cao,

thúc đẩy các doanh nhân khởi nghiệp đưa ý tưởng đầu tư của mình vào thực tiễn. Quỹ

đầu tư mạo hiểm là chủ thể được nhiều quốc gia, đặc biệt là các quốc gia phát triển

quan tâm, coi là chủ thể chính thúc đẩy sự phát triển, tạo năng lực cạnh tranh bền

vững của quốc gia đó; đối với các quốc gia đang phát triển, cũng đã nhận thức được

tầm quan trọng của quỹ đầu tư mạo hiểm, và đã nghiên cứu nhằm tìm các điều kiện

phù hợp để thúc đẩy việc hình thành và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm ở quốc gia đó.

Đã có nhiều nghiên cứu về quỹ đầu tư mạo hiểm được thực hiện, tuy nhiên chưa có

nghiên cứu nào nghiên cứu tổng quát về việc hình thành và phát triển của các quỹ đầu

tư mạo hiểm đang hoạt động tại Việt Nam; hơn nữa các nghiên cứu trước đây còn

thiếu tính cập nhật, số liệu đã cũ, vì thế không còn phù hợp với điều kiện hiện nay, khi

chính phủ Việt Nam đã nhận thức và nhấn mạnh tầm quan trọng của quỹ đầu tư mạo

hiểm trong nền kinh tế. Vì thế, các nghiên cứu trước đây vẫn còn khoảng trống nghiên

cứu như đã phân tích.

Luận án đã tổng hợp và hệ thống lại cơ sở lý luận về việc xây dựng và phát

triển quỹ đầu tư mạo hiểm, trong đó xây dựng được bộ tiêu chí các nhân tố ảnh hưởng

đến việc hình thành và phát triển các quỹ đầu tư mạo hiểm. Sau đó luận án đã phân

tích thực trạng xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam, từ năm 1990

đến 2018, bao gồm các cơ sở pháp lý hiện có về quỹ đầu tư mạo hiểm, định hướng của

chính phủ trong việc phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm trong điều kiện hiện nay, v.v…

Nghiên cứu sinh đã đánh giá các yếu tố môi trường ảnh hưởng đến việc xây dựng và

phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm, đồng thời đánh giá thực trạng hoạt động của các quỹ

đầu tư mạo hiểm lớn đang hoạt động ở Việt Nam; từ đó đưa ra được những kết quả đạt

được, hạn chế và nguyên nhân trong quá trình xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo

hiểm được nêu ra ở chương 4.

Luận án sử dụng mô hình kinh tế lượng nhằm xác định các nhân tố ảnh hưởng

đến việc xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam, xem xét xem nhân

tố nào có tác động mạnh nhất. Kết quả nghiên cứu cho thấy, nhân tố các quy định

pháp luật rõ ràng, đầy đủ nhằm bảo vệ quyền lợi cho các nhà đầu tư mạo hiểm và quỹ

25

đầu tư mạo hiểm; nhân tố các doanh nhân có khả năng đánh giá và thích ứng với rủi ro

tốt; nhân tố nâng tầm hiểu biết và thực thi của người dân về quyền sở hữu trí tuệ; nhân

tố mạng lưới các loại hình giao thông kết nối các địa điểm; nhân tố hiệu quả đầu tư

của các quỹ đầu tư mạo hiểm qua các năm có tác động mạnh nhất đến việc xây dựng

và phát triển của các quỹ đầu tư mạo hiểm.

Thông qua đánh giá thực trạng xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm ở

Việt Nam, kết hợp với kinh nghiệm xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm ở các

quốc gia trên thế giới tại chương 3, luận án đã đưa ra một số giải pháp nhằm thúc đẩy

quá trình xây dựng và phát triển các quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam. Các giải pháp

đưa ra nhằm cải thiện, thúc đẩy quá trình theo hướng tích cực các nhân tố có ảnh

hưởng đến việc xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm đã phân tích ở các

chương trước đó.

Tóm lại, luận án đã giải quyết được các câu hỏi nghiên cứu và mục tiêu nghiên

cứu đã đề ra. Nghiên cứu sinh mong muốn luận án này sẽ đóng góp một phần công

sức vào cơ sở lý luận, giải pháp nhằm thúc đẩy quá trình xây dựng và phát triển các

quỹ đầu tư mạo hiểm ở VIệt Nam trong giai đoạn hiện nay. Do vẫn còn hạn chế về

khả năng tiếp cận số liệu, cũng như khả năng nghiên cứu, vì thế luận án vẫn còn

những hạn chế, thiếu sót. Vì vậy, nghiên cứu sinh mong muốn nhận được các ý kiến

đánh giá từ các chuyên gia, nhà khoa học để những kiến thức, nội dung trong luận án

trở nên hoàn thiện hơn.

26

DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ

Tên bài

Năm 6/2019

Tạp chí Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á, ISSN 2354-077X; Số 6 (220)

TT 1 Vai trò hỗ trợ của chính phủ Hàn Quốc đối với quỹ đầu tư mạo hiểm – Bài học cho Việt Nam 2 Ưu đãi thuế nhằm thúc đẩy phát

4/2019

Kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương, ISSN 0868-3808; Số Cuối tháng triển quỹ đầu tư mạo hiểm tại Việt Nam

3 Venture Capital Trend Worldwide 2/2019

and Policy Impilication for Vietnam

7/2018

International Journal of Advanced Engineering and Management Research; ISSN: 2456-3676; Vol.04; No.02/2019 Tạp chí Khoa học và Đào tạo Ngân hàng; ISSN 1859-011X; Số 194 4 Kinh nghiệm phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm tại Trung Quốc và bài học cho Việt Nam

5 Quỹ đầu tư mạo hiểm và vai trò 3/2018

đối với nền kinh tế Tạp chí chứng khoán; ISSN 0866-739X; Số 223